Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: myngoc2708
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Cổ Đại] A Mạch Tòng Quân | Tiên Chanh

[Lấy địa chỉ]
121#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:31:11 | Chỉ xem của tác giả
Chương 112

GIẰNG CO




A Mạch lập tức đến một chỗ trên sườn dốc cao thoai thoải, yên lặng chăm chú nhìn cảnh chém giết trên chiến trường. Lâm Mẫn Thận đứng bên cạnh mắt thấy cảnh chém giết náo nhiệt phía dưới, không khỏi cũng có chút nóng lòng muốn thử xem sao, như thể cảm nhận được tâm tình của anh ta, con ngựa anh ta đang cưỡi cũng không an phận mà gõ móng liên hồi xuống đất. A Mạch quay sang nhìn, không đợi Lâm Mẫn Thận kịp mở miệng liền thản nhiên nói: “Hiện giờ thân phận của ngươi là thân vệ, nhiệm vụ chính là bảo vệ sự an toàn cho ta.”



Lâm Mẫn Thận nghe vậy, cảm xúc nhất thời xẹp xuống, cúi đầu nói một tiếng “Phải”. A Mạch không tiếp tục để ý tới anh ta, quay lại tiếp tục quan sát tình hình chiến đấu bên dưới. Nàng đoán Thường Ngọc Thanh sẽ không thèm làm khó vài tên lính Giang Bắc tới đòi chuộc ngựa nên sẽ không phái binh truy đuổi theo, chỉ vì không chịu được sự ầm ĩ, huyên náo của Vương Thất nên mới dựa vào ý tưởng cho kỵ binh thao luyện chiến thuật phục kích mà mai phục ở đây, không ngờ lại có truy binh đuổi theo thật mà lại còn đến hẳn một đội kỵ binh Bắc Mạc.



Mắt thấy đội kỵ binh Bắc Mạc càng ngày càng ít, A Mạch đang nghĩ miếng thịt béo này đúng là từ trên trời rơi xuống, bất chợt nghe thám báo báo tin rằng từ phía thành Võ An lại xuất hiện một đại đội kỵ binh quân Bắc Mạc. A Mạch không khỏi hơi nhíu mày lại, cân nhắc một chút rồi lệnh cho Trương Sĩ Cường dùng cờ ra tín hiệu truyền lệnh thu binh, toàn bộ kỵ binh liền nhanh chóng lui về thành.



Giờ phút này, bên cạnh tên giáo úy Bắc Mạc phụng mệnh truy kích chỉ còn lại chừng hơn chục người, anh ta vốn định bất chấp sống chết, điều chỉnh đội hình để liều chết xông ra lần cuối, ai ngờ kỵ binh quân Giang Bắc đang vây quanh bốn phía lại đột nhiên rút lui. Viên giáo úy này còn chưa biết đại đội kỵ binh của Thường Ngọc Thanh chỉ còn cách đó vài dặm, nên cho là quân Giang Bắc lại có gian kế gì đó, nhất thời không dám tùy ý manh động.



Kỵ binh quân Giang Bắc một lần nữa bày lại đội hình, ngay ngắn thần tốc rút lui về phía Thanh Châu. Thường Ngọc Thanh đến chậm một bước, dẫn quân đuổi tới dưới thành Thanh Châu, trơ mắt nhìn kỵ binh quân Giang Bắc đâu vào đấy lui vào trong thành, sau đó lại không chút hoang mang thu hồi cầu treo bắc qua sông đào bảo vệ thành. Sắc mặt Thường Ngọc Thanh xanh mét, một mình mang theo mấy kỵ binh phi ngựa như bay tới trước cầu treo, đưa mắt lạnh lùng nhìn về phía vọng lâu trên cổng thành Thanh Châu. Quả nhiên, chỉ một lúc sau, A Mạch một thân giáp trụ chỉnh tề xuất hiện phía trên vọng lâu. Hai người sau khi chia tay nhau ở phía tây thành Thái Hưng chưa từng gặp lại, giờ phút này người trên thành, kẻ dưới thành từ xa xa nhìn lại, cảm xúc trong lòng đều phức tạp đến vô cùng.



Trương Sinh, thống lĩnh kỵ binh quân Giang Bắc thấp giọng hỏi A Mạc: “Đại nhân, mấy kỵ binh thát tử bắt được nên xử lý như thế nào?”



A Mạch khuôn mặt kiên nghị, trầm giọng nói: “Treo lên cổng thành, giết chết để cổ động sĩ khí!”



Trương Sinh nghe xong nhất thời có chút trợn tròn mắt, Vương Thất liền nói: “Ta đến đây, cho các ngươi nhìn ta!” Nói xong liền chỉ huy binh sĩ đem mấy kỵ binh Bắc Mạc bị thương té ngựa trói lại thật chặt, sau đó treo ngược lên trước cổng thành, rồi hướng về phía Thường Ngọc Thanh đứng ở dưới thành mà kêu lớn: “Thường tướng quân, ngài vừa dùng năm ngàn lượng bạc chuộc lại ngựa, lúc này lấy thêm chút bạc nữa đến chuộc người đi! Chúng ta buôn bán lớn một chút, mỗi người một ngàn lượng, ngài thấy thế nào?”



Thường Ngọc Thanh giận dữ mà cười, đừng nói trên người anh ta không mang theo nhiều ngân phiếu như vậy, mà kể cả có mang theo, nếu cứ như thế lấy bạc ra mà chuộc người về, ngày sau tất trở thành chuyện cười cho cả bốn nước!



Vương Thất thấy bên dưới thành Thường Ngọc Thanh không lên tiếng trả lời, liền dùng đao đặt lên phía trên sợi dây thừng đang treo ngược tù binh Bắc Mạc, lại hướng về phía dưới thành hô: “Ngài nên quyết định nhanh lên a, nếu không có tiền đến chuộc người, chúng ta cũng chẳng cần cố mua cố bán làm gì, ta sẽ chặt đứt mấy sợi dây thừng này, cũng giúp cho họ được thoải mái, ngài nói có đúng không? Cảm giác bị treo ngược lên thế này có lẽ cũng chẳng dễ chịu gì.”



Thường Ngọc Thanh không khỏi cười lạnh, cất giọng uy hiếp nói: “Ngươi dám giết một người, ta sẽ dùng một trăm tính mạng quân Giang Bắc của ngươi để đền mạng.”



Lời còn chưa dứt, trên tường thành, A Mạch đột nhiên rút bội đao, vung tay chém đứt sợi dây thừng, tên lính Bắc Mạc bị treo chân vào sợi dây thừng nhất thời kêu lên sợ hãi rồi rơi thẳng xuống, gần như ngay lập tức tiếng hét đó lập tức im bặt.



Tường thành cao mấy chục trượng, rơi xuống tất nhiên là tan xương nát thịt.



Mọi người nhất thời đều bị này cảnh tượng này làm cho chấn động, trên tường thành đột nhiên trở nên tĩnh lặng. Thanh âm A Mạch ở trên vọng lâu trở nên vang dội: “Quân Bắc Mạc của ngươi giết chết ngàn ngàn, hàng vạn dân chúng Giang Bắc ta! Chỉ vài người này đâu đủ để đền mạng!”



Dây thừng lại được nâng lên, lưỡi đao sắc bén hạ xuống, hơn mười tù binh Bắc Mạc bị thương lần lượt từ trên cổng thành rơi xuống, mỗi một âm thanh va đập nặng nề đều truyền thẳng vào tai Thường Ngọc Thanh, khiến hai mắt anh ta dường như có thể phun ra lửa. Anh ta nghiến chặt khớp hàm, ngẩng cao đầu, trợn mắt nhìn lên tường thành.



Phía trên tường thành A Mạch lại khẽ cười. Ánh nắng mùa thu sạch sẽ, nhẹ nhàng, khoan khoái từ trên bầu trời trút xuống, đọng lại trên đầu và trên người nàng, chiếu lên tua mũ bay phấp phới vô cùng diễm lệ, càng khiến cho nụ cười tươi của nàng trở nên sáng lạn đến vô cùng. Cuối cùng, nàng đã từ một nữ mật thám nhát gan, sợ chết, bước đi liêu xiêu, lảo đảo ở thành Dự Châu lột xác thành một vị tướng quân tàn nhẫn, sắt đá, A Mạch cuối cùng đã trở thành Mạch Tuệ…



Thường Ngọc Thanh cuối cùng nâng thương chỉ về hướng A Mạch, lạnh giọng nói: “Mạch Tuệ, ta nhất định sẽ san bằng Thanh Châu của ngươi!”



Nụ cười trên mặt A Mạch càng thêm chói mắt, nhẹ giọng trả lời Thường Ngọc Thanh: “Được, ta chờ ngươi!”



Thường Ngọc Thanh quay ngựa lui trở về phía trước đại quân, trường thương trong tay thu về sát ngang người, phía sau, kỵ binh bắt đầu biến hóa trận hình, dường như sẽ quyết chiến cùng quân Giang Bắc ở dưới thành. Trên tường thành, quân Giang Bắc lập tức cũng chuyển sang trạng thái chiến đấu. Trương Sinh thấy kỵ binh của Thường Ngọc Thanh cùng lắm cũng chỉ hơn ngàn người, trong lòng vừa động, liền tiến lên thấp giọng hỏi A Mạch: “Thường Ngọc Thanh cũng quá khinh xuất, dám mang theo chỉ ngần ấy người đến đây, nếu chúng ta lén phái kỵ binh chặn hậu đường lui của anh ta, nhất định sẽ…”



A Mạch khẽ lắc đầu: “Ngươi quá coi thường anh ta rồi.”



Trương Sinh thấy khó hiểu, còn chưa kịp hỏi, vừa lúc có thân binh từ trong thành chạy đến mang theo lời nhắn của Từ Tĩnh: Không được nóng vội ra khỏi thành nghênh chiến! A Mạch cười cười, xoay người dặn dò tên thân binh kia quay về trả lời với Từ Tĩnh rằng ông ta cứ yên tâm, trong lòng nàng đều hiểu rõ.



Dưới thành, quân Bắc Mạc mạo hiểm xông vào màn mưa tên mà cướp lại những thi thể của mấy tên lính đồng đội bị rơi xuống, sau đó lớn giọng khiêu chiến. Đám người Vương Thất không chịu nổi kích động, nghe được vài câu liền la hét đòi ra khỏi thành giết giặc, lại bị A Mạch lạnh giọng quát, chỉ truyền lệnh: “Mặc kệ bọn họ khiêu chiến thế nào cũng không được để ý, chỉ cần tiến vào trong tầm bắn thì lập tức bắn tên.”



Chỉ một chiêu này liền điều trị được quân Bắc Mạc, chiến thuật mắng chửi thay đổi cả mấy lần mà cũng không thể mắng cho cổng thành Thanh Châu động đậy, còn có kẻ mắng kích động đến nỗi tiến lại quá gần tường thành, kết quả là một loạt mũi tên nhọn từ trên tường thành bắn xuống, nếu không phải chân tay nhanh nhẹn mà lẩn thoát thì thể nào cũng bị tên nhọn gim tua tủa đầy người như lông nhím.



Thường Ngọc Thanh thấy A Mạch lâu không ứng chiến, trong lòng tuy không cam lòng nhưng cũng chẳng có cách nào, để bản thân hả giận liền giương cung bắn rơi quân kỳ Giang Bắc trên vọng lâu thành Thanh Châu, rồi hạ lệnh cho kỵ binh rút lui. Đại đội kỵ binh Bắc Mạc chậm rãi rút về phía sau, lần này hành quân thần tốc suốt đêm rồi lại vô công quay về, sĩ khí binh lính đều giảm sút, đội hình hành quân bắt đầu có chút tán loạn.



Vương Thất ở trên tường thành nhìn thấy vậy liền dậm chân, trong lòng cảm thấy tiếc hận cơ hội lần này thật khó mà có được, nếu có thể thừa dịp sĩ khí quân địch giảm sút mà phái binh ra khỏi thành truy kích, chắc chắn có khả năng thắng một trận lớn. Trương Sinh thấy A Mạch vẫn nhìn ra ngoài thành trầm mặc không nói gì, liền đưa tay giật giật áo choàng của Vương Thất. Vương Thất khó hiểu nhìn Trương Sinh, thấy anh ta hướng về phía mình khẽ lắc đầu, sau đó lại nhìn về phía A Mạch.



A Mạch lại đột nhiên nở nụ cười, quay đầu nhìn Vương Thất nói: “Không nhất định là ngươi đúng, Thường Ngọc Thanh cũng không có tiếp ứng ở phía sau, chẳng qua cũng chỉ hơn một ngàn kỵ binh, thật ra chúng ta cũng có thể nuốt trôi được, cứ thả anh ta đi như vậy cũng thật đáng tiếc.”



A Mạch nói vậy, Vương Thất nhất thời có chút nghẹn họng nhìn trân trối, ngược lại không phải làm thế nào.



Trương Sinh hỏi A Mạch nói: “Đại nhân, ngươi nói Thường Ngọc Thanh lần này trở về có lập tức mang đại quân đến tấn công không?”



A Mạch suy nghĩ rồi lắc đầu nói: “Nếu là ta, ta sẽ không làm vậy.”



Trương Sinh và Vương Thất đều cảm thấy khó hiểu, nhưng A Mạch không muốn giải thích, chỉ thản nhiên cười cười, xoay người đi vào trong thành. Vương Thất nghi hoặc nhìn bóng dáng A Mạch càng lúc càng xa, không khỏi lên tiếng hỏi Trương Sinh: “Trương thống lĩnh, ngươi nói Thường Ngọc Thanh còn chờ cái gì?”



Cũng vấn đề này, Thường Ngọc Tông mang theo đại quân đuổi theo phía sau cũng đã hỏi. Sau khi Thường Ngọc Thanh giận dữ mang binh ra khỏi thành, Thường Ngọc Tông sợ anh ta xảy ra sơ xuất liền tập kết đại quân đuổi theo phía sau, khi còn cách Thanh Châu năm mươi dặm về phía tây thì gặp Thường Ngọc Thanh quay về từ thành Thanh Châu. Thường Ngọc Tông nhìn thấy thi thể của mấy chục binh lính tử vong không khỏi cũng trở nên giận dữ, liền lập tức muốn dẫn quân tấn công Thanh Châu. Thường Ngọc Thanh lại không cho phép, chỉ lệnh cho đại quân quay về Võ An. Thường Ngọc Tông nghe xong không hiểu chút nào, liền truy hỏi: “Thất ca! Chúng ta đã đợi ở Võ An hơn một tháng rồi, vì sao vẫn không tấn công Thanh Châu? Huynh rốt cuộc đang đợi cái gì?”



“Thời cơ.” Thường Ngọc Thanh thản nhiên đáp.



Thường Ngọc Tông khó hiểu nhìn đường huynh: “Vẫn đợi thời cơ nữa hay sao? Nhưng nếu tiếp tục đợi nữa, thì quân Giang Bắc đã đứng vững chân ở thành Thanh Châu rồi!”



Thường Ngọc Thanh lại không trả lời vấn đề này, mà có chút đăm chiêu hỏi: “Ngươi nói Thanh Châu và Ký Châu có thể có quan hệ như thế nào?”



Thường Ngọc Tông bị hỏi thì sửng sốt, Thường Ngọc Thanh cười cười, chuyển hướng đề tài lại nói tiếp: “Trong thành Thanh Châu có khoảng năm vạn bộ binh, năm ngàn kỵ binh, chúng ta lại chỉ có ba vạn khinh kị binh, một vạn bộ binh, nếu muốn cắt đứt tuyến tiếp viện cho Thanh Châu thì rất dễ, nhưng nếu muốn công phá Thanh Châu thì cơ hồ hầu như không thể.”



Thường Ngọc Tông theo không kịp tư duy của Thường Ngọc Thanh, theo bản năng liền hỏi: “Vậy phải làm sao bây giờ?”



Thường Ngọc Thanh bật cười, nói tiếp: “Có thể làm sao bây giờ? Chỉ có thể khiến cho quân Giang Bắc ra khỏi thành cùng chúng ta giao chiến mà thôi.”



Làm một tướng lĩnh kỵ binh, Thường Ngọc Tông tất nhiên biết nếu có thể khiến cho bộ binh quân Giang Bắc phải ra ngoài tác chiến với kỵ binh Bắc Mạc là tốt nhất, nhưng Mạch Tuệ, tướng quân quân Giang Bắc lại không phải là đồ ngốc, trái lại còn là kẻ vô cùng giảo hoạt, sao có thể cứ ngoan ngoãn mà ra khỏi thành? Trong lòng Thường Ngọc Tông đang nghi nghi hoặc hoặc, lại nghe Thường Ngọc Thanh kiên nhẫn nói: “Thanh Châu không thể so với Thái Hưng, thành Thái Hưng vốn có lương, chỉ cần quyết tâm tử thủ thì thủ đến vài năm cũng không phải việc khó, mà lương thảo trong thành Thanh Châu trước kia lại chủ yếu là do Ký Châu cung cấp.”



Thường Ngọc Tông cũng dần dần hiểu ra: “Thất ca, huynh muốn chờ Thanh Châu hết lương thảo rồi mới tấn công sao? Khiến cho bọn họ ra khỏi thành?”



Thường Ngọc Thanh lắc đầu nói: “Không cần hết lương thảo, chỉ cần đợi đến sang năm lúc gặt lúa mạch là được, quân Giang Bắc vì muốn bảo vệ an toàn cho khu vực sản xuất lương thực thì bắt buộc phải giao chiến với chúng ta.”



Thường Ngọc Tông không khỏi nhíu mày: “Như thế chẳng phải là chúng ta còn phải đợi đến mấy tháng nữa sao?”



Thường Ngọc Thanh nhìn Thường Ngọc Tông, đột nhiên nói: “Thật ra còn có một cách nữa, không cần phải phiền toái như thế.”



Thường Ngọc Tông trong lòng vui vẻ, vội vàng hỏi: “Cách gì?”



Khóe môi Thường Ngọc Thanh khẽ cong lên, cười nói: “Lùa dân chúng mọi rợ Nam Hạ công thành.”



Thường Ngọc Tông giật mình, lập tức liền hiểu ngay, do dự nói: “E là Trần Khởi không đồng ý, anh ta vốn là người mua danh chuộc tiếng, Thất ca chỉ tàn sát một thành Hán Bảo nhỏ bé mà còn chọc cho anh ta lên án này nọ, nếu lần này lại dùng dân chúng mọi rợ Nam Hạ công thành, không biết ở trước mặt hoàng thượng anh ta còn gièm pha những gì. Chỉ vì một thành Thanh Châu mà hủy hoại danh dự và tiền đồ của Thất ca, thật không đáng.”



Thường Ngọc Thanh cũng là cười nhạo nói: “Thân là võ tướng lại còn muốn nói chuyện danh dự thì thật buồn cười! Chỉ có điều lần này ta không muốn dùng dân chúng công thành không phải vì sợ Trần Khởi, mà vì ta  muốn làm cho nàng Mạch Tuệ thua tâm phục khẩu phục!”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

122#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:34:04 | Chỉ xem của tác giả
Chương 113

MÊ MAN




Trong thành Thanh Châu, từ lúc A Mạch từ trên tường thành xuống vẫn có chút trầm mặc ít lời. Trở lại trong thành thủ, tả phó tướng quân Tiết Vũ đã đi Ký Châu xin lương thảo, chỉ có hữu phó tướng quân Mạc Hải còn ở lại phòng nghị sự chờ A Mạch phụng mệnh. Trước đó, anh ta nghe từ miệng thân binh đã biết được tình hình trên tường thành, trong lòng rất cao hứng, nghe nói A Mạch trở về liền đem theo niềm vui rạo rực ra cửa đón nàng, không ngờ lại thấy trên khuôn mặt A Mạch chẳng có đến nửa phần vui sướng. Trong lòng Mạc Hải thấy lạ, nhịn không được lén giữ Trương Sĩ Cường đi sau A Mạch hỏi: “Đại nhân làm sao vậy?”



Trương Sĩ Cường âm thầm lắc lắc đầu. A Mạch đối với động tác nhỏ này của Mạc Hải và Trương Sĩ Cường coi như không thấy, chỉ đơn giản dặn dò vắn tắt mấy việc quân vụ trọng yếu rồi giải tán quân nghị, sau đó một mình ngồi trong phòng nghị sự ngẩn cả người. Trương Sĩ Cường nhận ra tâm tình của nàng có chút bất thường, liền mượn cớ đi lấy nước rồi ra khỏi phòng nghị sự, lén phái thân binh đi mời Từ Tĩnh đến, còn tự mình lại canh giữ ở ngoài cửa.



Một lát sau, Từ Tĩnh chắp tay sau lưng, bước chân thư thả, không vội cũng không chậm từ xa đi đến. Trương Sĩ Cường nhìn thấy, vội vàng tiến lên đón Từ Tĩnh, nhỏ giọng nói: “Tiên sinh mau qua xem đi, ta thấy đại nhân có chút khác thường.”



Từ Tĩnh lại vẫn không vội, vừa bị Trương Sĩ Cường lôi kéo, vừa vuốt râu thì thầm: “Không vội, không vội, với tính tình đại nhân nhà ngươi, sẽ không giữ chuyện gì luẩn quẩn trong lòng đâu.”



Nhưng Trương Sĩ Cường không cảm thấy thế, anh ta đi theo A Mạch đã hơn hai năm, nhưng chưa bao giờ thấy A Mạch có diện mạo như thế. Trương Sĩ Cường cầm tay Từ Tĩnh kéo đến cửa, rồi thay ông ta kéo rèm, hướng vào trong phòng bẩm báo: “Đại nhân, Từ tiên sinh đến.”



A Mạch nghe vậy liền ngẩng đầu, thấy Từ Tĩnh từ bên ngoài tiến vào, liền đứng dậy, cung kính gọi: “Từ tiên sinh.”



Từ Tĩnh gật gật đầu, tùy ý ngồi đối diện với A Mạch, nghiêng đầu quan sát A Mạch, đột nhiên hỏi: “Nguyên nhân là vì mấy tù binh Bắc Mạc kia phải không?”



A Mạch khẽ giật mình, lập tức hiểu ý của Từ Tĩnh, cũng không vội trả lời ngay câu hỏi của anh ta, mà quay đầu sai Trương Sĩ Cường: “Đi pha cho tiên sinh chén trà.”



Trương Sĩ Cường thưa “Vâng”, rồi lui ra ngoài.



A Mạch lúc này mới lại nhìn về phía Từ Tĩnh, cân nhắc một chút rồi nói: “Không phải.”



“A?” Từ Tĩnh không khỏi kỳ quái, mở to hai mắt nhìn nàng rồi hỏi: “Vậy thì vì chuyện gì?”



A Mạch đáp: “Tiên sinh cũng biết, bản thân mình tòng quân đã giết không ít người, sẽ không vì giết thêm vài tù nhân mà biến thành người khác. Chỉ là khi đi từ trên tường thành xuống, ta đột nhiên nghĩ tới một cách đối phó với việc Thường Ngọc Thanh dùng dân chúng công thành.”



Từ Tĩnh cảm thấy hứng thú, nhướn mày hỏi: “Biện pháp gì?”



A Mạch thong dong đáp: “Chính là trước thì hóa trang thành thát tử tản ra lẫn với dân chúng ngoài thành, sau đó xuất binh ra khỏi thành ép xông trận, khiến cho dân chúng phải quay về, ta lại dùng kỵ binh vòng ra sau lưng địch đánh lén… Cuối cùng, sau trận chiến lại làm lễ tế dân chúng, giả bộ cắt tóc hoặc tự trừng phạt mình, nhân tiện kích động lòng căm thù thát tử của mọi người dâng cao, rồi quay lại trắng trợn khen thưởng bách tính…”



Từ Tĩnh nghe rất chăm chú, vuốt râu khẽ gật đầu: “Không sai, cách này quả thật không sai.”



“Đúng vậy, ta cũng hiểu là cách này không sai. Chỉ đột nhiên lại muốn biết một điều, đó là từ khi nào thì ta bắt đầu không thèm để ý đến tính mạng của người khác như thế? Khi chém đứt sợi dây thừng kia không một chút do dự, khi nghĩ cách phá kế lùa dân công thành cũng không chút bận tâm đến sự sống chết của dân chúng bị ép quay về. Tiên sinh, ta đột nhiên cảm thấy sợ hãi,” A Mạch ngẩng đầu lên nhìn Từ Tĩnh, trong con ngươi trong suốt không hoàn toàn là sự kiên định như mọi ngày, mà lộ ra chút mờ mịt: “Ta từ khi nào thì biến thành kẻ như thế này? Về sau ta có thể còn biến thành dạng gì? Có thành một kẻ mà để đạt được mục đích sẽ không từ bất kỳ thủ đoạn nào không?”



Từ Tĩnh bị A Mạch hỏi thì nghẹn lời, im lặng một lát rồi mới trầm giọng hỏi: “A Mạch, mục đích mà ngươi nhất định muốn đạt được là gì?”



Nhất định phải đạt được mục đích gì? Mục đích này đã xoay chuyển hàng trăm ngàn lần trong đầu A Mạch, A Mạch liền thốt lên: “Bảo vệ vinh quang của phụ thân, đuổi thát tử, khôi phục non sông.”



Từ Tĩnh nghe xong, chậm rãi lắc đầu: “Mục đích này sợ là không thể chống đỡ cho ngươi đi đến cuối cùng.”



Trong lòng A Mạch khó hiểu, không khỏi hỏi lại: “Vì sao?”



Từ Tĩnh lại chỉ cười cười, nói: “Loại chuyện này người khác không thể giúp được, chỉ có thể chờ ngươi sau này tự mình nghĩ thông suốt thôi, vả lại trước cứ như vậy mà tiến lên phía trước đi, chờ khi gặp được lối rẽ, tự mình sẽ biết phải đi về hướng nào.”



A Mạch là người thông minh, chỉ vừa nghe Từ Tĩnh trả lời liền biết ông ta sẽ không nói tiếp, hơn nữa, giờ phút này trong lòng mặc dù vẫn còn nhiều điều chưa rõ, nhưng so với vừa rồi đã khá hơn rất nhiều, lập tức liền đứng dậy chính thức vái một vái cám tạ Từ Tĩnh: “A Mạch đa tạ tiên sinh chỉ điểm bến mê.”



Từ Tĩnh ngồi ngay ngắn, không chút khách khí nhận lễ của A Mạch, sau đó mới đột nhiên nhớ đến Trương Sĩ Cường liền kêu lên: “Trương Sĩ Cường đâu? Anh ta đi đâu pha trà cho lão phu vậy? Chẳng lẽ giờ mới nhóm lửa đun nước?”



A Mạch cười cười, đi tới trước cửa cao giọng gọi Trương Sĩ Cường, lời còn chưa dứt, Trương Sĩ Cường liền đem theo một bình trà mới từ ngoài cửa tiến vào, trên mặt mang theo nụ cười lấy lòng, cười ha ha với Từ Tĩnh nói: “Tiên sinh, ngài thử thưởng thức loại trà này xem thế nào, Lý Thiếu Hướng vơ vét được từ một hộ phú thương ở Thái Hưng đấy, vẫn cất giấu không cho ai uống, hôm nay mới đồng ý để cho ta đem đến đây.”



Trương Sĩ Cường dùng nước nóng rót vào chén trà đưa cho Từ Tĩnh, cẩn thận nâng đến trước mặt Từ Tĩnh. Từ Tĩnh thuận tay tiếp nhận, thổi thổi rồi uống một ngụm, giương mắt lên liền bắt gặp Trương Sĩ Cường vẫn đang dùng cặp mắt tha thiết quan sát mình, thuận miệng khen: “Khà, không sai, đúng là loại dùng để ngâm vào nước sôi.” Thấy trên mặt Trương Sĩ Cường khó nén khỏi sự thất vọng, nhịn không được cười nhạo một tiếng nói: “Thành Thái Hưng bị thát tử vây khốn hai năm, trong thành làm gì có cái gọi là trà ngon? Có thứ ngâm vào nước để uống là tốt rồi.”



Trương Sĩ Cường tức giận nói: “Lý Thiếu Hướng đúng là cái đồ lừa đảo, còn gạt ta nói là loại trà tốt nhất, cái gì mà ‘Minh Tiền, Minh Hậu’, nghe xong ta còn cảm thấy loạn cả đầu!”



Lời này vừa nói ra, ngay cả A Mạch cũng nhịn không nhịn được mà bật cười. Sắc giận trên mặt Trương Sĩ Cường càng đậm, quyết đi tìm Lý Thiếu Hướng để tính sổ. A Mạch vội gọi anh ta dừng lại, khuyên nhủ: “Tính tình Lý Thiếu Hướng hay giấu diếm nọ kia, ngươi thấy anh ta có cái gì là không giấu không? Cũng chưa chắc cố ý nói gạt ngươi đâu.”



Từ Tĩnh đâu có thật sự phẩm trà, liền nói tiếp: “Anh ta đúng là không lừa ngươi, trà này đúng là Minh Tiền, chẳng qua không biết là năm Minh Tiền nào.”



A Mạch nhịn cười, cúi đầu uống ngụm trà, rồi buông chén xuống, nghiêm sắc mặt hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh, ngươi nói Tiếu Dực có cho Tiết Vũ lương thảo không?”



Trương Sĩ Cường thấy A Mạch cùng Từ Tĩnh bàn chuyện quân sự, không cần phân phó liền nhẹ nhàng lui đi ra ngoài, thuận tay khép cửa phòng lại.



Từ Tĩnh cũng thu hồi vẻ mặt trêu đùa vừa rồi, cụp mắt suy nghĩ một lát, chậm rãi lắc đầu nói: “Ta thấy Tiếu Dực chưa chắc sẽ nể mặt cháu ngoại là Tiết Vũ đâu.”



A Mạch nói: “Nhưng Thương soái đã đáp ứng sẽ giúp ta nắm bắt lấy Ký Châu.”



Từ Tĩnh cười nhạt, nói: “Phụ thân của Thương soái là Thương Duy vừa nắm được binh quyền ở Vân Tây, giờ chính là thời khắc quan trọng, tuyệt không thể khiến hoàng đế nảy sinh lòng nghi ngờ. Nếu ngươi là Thương soái, một bên là Giang Nam – nửa giang sơn, một bên là một góc Giang Bắc, ngươi sẽ chọn cái nào?”



Đó là một vấn đề căn bản không cần phải lựa chọn, Thương Dịch Chi một khi đã nguyện ý đến làm sứ thần nghị hòa thì đã tính bỏ rơi Giang Bắc rồi, chẳng qua nhất thời nghe A Mạch nói liền động tâm, lúc đó mới không đặt việc làm tổn hại lợi ích lớn của mình lên làm điều kiện tiên quyết mà để nàng đông tiến Thanh Châu thuận lợi. A Mạch sau một lúc im lặng mới hỏi: “Chúng ta phải làm sao bây giờ? Lương thảo trong thành chỉ miễn cưỡng chống đỡ được đến vụ gặt lúa mạch sang năm, chỉ có điều hiện giờ Thường Ngọc Thanh có thể áp chế tức giận mà tạm thời chưa công thành, e là cũng muốn đợi cho đến lúc đó.”



Từ Tĩnh khẽ gật đầu, vuốt râu nói: “Không sai, nếu trong thành hết lương, thành Thanh Châu dù khó công cũng không thể thủ được.”



Điều khiến A Mạch lo lắng cũng chính là chuyện này, hai quân đối đầu, khó nhất không phải là không thể biết được bước tiếp theo địch nhân sẽ hành động ra sao, mà là ngươi rõ ràng có thể đoán được ý đồ của anh ta nhưng lại không thể nghĩ ra đối sách ứng phó. Từ Tĩnh và A Mạch nhất thời đều không nói gì, A Mạch suy nghĩ một lát cũng không nghĩ ra được cách gì, liền đứng dậy nói: “Trước cứ như vậy đã, dù sao đợi cho đến vụ gặt sang năm vẫn còn non nửa năm nữa, trong thời gian đó có lẽ sẽ có chuyển biến gì đó không biết chừng. Hơn nữa, Tiết Vũ tốt xấu gì cũng là cháu ngoại của Tiếu Dực, với mối quan hệ này, Tiếu Dực có lẽ cũng chưa đến nỗi chẳng biết xấu hổ mà để cho Tiết Vũ về tay không, ít nhiều gì chắc cũng cho một ít.”



Nói xong, liền gọi Trương Sĩ Cường vào giúp mình cởi áo giáp, sau đó vừa cười vừa nhìn về phía Từ Tĩnh, nói: “Cũng không còn sớm nữa, ta cùng tiên sinh ăn cơm trước đã, hôm nay Lý Thiếu Hướng ở ngoài thành kiếm được mấy món ăn thôn quê, nói là muốn  làm cho tiên sinh nhắm rượu.”



Từ Tĩnh nghe vậy chỉ vuốt râu cười, cũng không chối từ. Vật tư trong thành vốn có hạn, A Mạch nêu gương tốt nên ăn uống giống như binh lính, vì vậy các chư tướng cũng đều dùng thực phẩm thô ráp. Từ Tĩnh đến sau, A Mạch lo lắng cho sức khỏe của ông ta nên cố ý lệnh cho Lý Thiếu Hướng một ngày ba bữa đều phải dùng lương thực tinh chế để chế biến đồ ăn cho Từ Tĩnh, mọi ngày, thức ăn mặn cũng không phải những thứ thông thường.



A Mạch sai Trương Sĩ Cường xuống phòng bếp hỏi đồ ăn, còn mình lại cùng Từ Tĩnh nói chuyện phiếm về phong thổ ở hai châu Thanh, Ký. Một lát sau, hai người đang nói tới mấy món ăn dân dã nổi tiếng ở núi Thái Hành, ngoài phòng bỗng có mùi thơm ngào ngạt bay tới, khiến hai người đều dừng câu chuyện, nhất tề quay đầu nhìn về phía cửa.



Rèm cửa bị Trương Sĩ Cường kéo cao lên, Lý Thiếu Hướng bên hông mặc tạp dề bằng vải thô, bưng một cái nồi sắt lớn bước nhanh vào, miệng còn liên thanh kêu lên: “Mau tránh ra một chút, mau tránh ra một chút, nóng lắm!”



Nhìn thấy đường đường quan quân nhu quân Giang Bắc lại hạ mình làm đầu bếp, A Mạch cùng Từ Tĩnh bất giác đều có chút trố mắt, trong đầu không hẹn mà cùng hiện lên một câu: Chồn chúc tết gà, tất không có hảo tâm.



Lý Thiếu Hướng đem nồi sắt đặt lên trên bàn, nóng hôi hổi, lập tức liền chiếm mất quá nửa diện tích mặt bàn. Lý Thiếu Hướng hết nghiêng đầu sang trái lại sang phải, vừa lòng ngắm nghía cái nồi một phen, quay đầu thấy A Mạch và Từ Tĩnh đều vẫn ngồi ngây ra đó, vội vàng nhét vào tay mỗi người một đôi đũa, sau đó rảnh rang bắt chuyện: “Đại nhân, Từ tiên sinh, đừng khách khí a, nếm thử đi, đây chính là bí quyết gia truyền của Lý gia chúng ta đấy.”



A Mạch nhìn vẻ mặt mong đợi của Lý Thiếu Hướng, không tiện từ chối ý tốt của anh ta, đành mời Từ Tĩnh hạ đũa trước, lúc này mới đưa đũa gắp một miếng thịt bỏ vào trong miệng tinh tế nếm thử, không đợi nàng kịp nuốt trôi miếng thịt, quả nhiên nghe thấy Lý Thiếu Hướng mở miệng nói: “Đại nhân, ta có việc muốn cùng đại nhân thương lượng.”



Trong lòng A Mạch vốn vẫn đề phòng Lý Thiếu Hướng, nghe anh ta mở miệng, không nhịn được mà toàn thân phát run, ngẩng đầu liếc mắt nhìn Từ Tĩnh đang lẳng lặng ăn cơm, bất động thanh sắc hỏi Lý Thiếu Hướng: “Chuyện gì?”



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

123#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:35:41 | Chỉ xem của tác giả
Chương 114

MƯU ĐỒ




Lý Thiếu Hướng ghé mông ngồi xuống ghế, nở nụ cười lấy lòng nói: “Chuyện là như vầy, Thái Hành Sơn có không ít lợn rừng, dê núi và các loại thú hoang khác, dù sao hiện giờ tạm thời cũng chưa đánh trận, binh lính của doanh trại cung nỏ cũng nhàn rỗi, theo ta thấy không bằng cho họ lên núi đi săn thú, giờ lại đúng thời điểm thú rừng rất béo và mập mạp…”



A Mạch nghe nhưng không nói gì, thầm nghĩ hay thật, ta chỉ vừa mới ăn của ngươi một miếng thịt, trong khi cách nơi này hơn hai trăm dặm còn có đại quân của Thường Ngọc Thanh nhòm ngó, ngươi đã nghĩ đến chuyện đem binh lính mấy doanh cung nỏ của ta kéo ra ngoài giúp ngươi đi săn thú. Nếu ta ăn hết cả nồi thịt này, có phải là ngươi sẽ đòi toàn bộ binh lính quân Giang Bắc của ta lên núi Thái Hành đi kiếm lương thực cho ngươi không?



Lý Thiếu Hướng thấy A Mạch không có gì phản ứng gì, trong lòng cũng dần dần cảm thấy chột dạ, nhưng vẫn không chịu từ bỏ ý định, xoa xoa hai tay vào nhau tiếp tục du thuyết(1): “Những tấm bia chết trên giáo trường đâu thể so được với những tấm bia sống trong núi, thứ nhất, đại nhân có thể cải thiện bữa ăn cho mọi người, thứ hai nếu săn được nhiều thú hoang còn có thể sấy khô để làm lương thực dự trữ, làm thực phẩm cho lễ mừng năm mới cũng rất tốt.”



A Mạch nhíu mày ngắt lời Lý Thiếu Hướng: “Ngươi có ý tốt nhưng cách này không thể làm được. Thát tử ở Võ An đối với chúng ta như hổ rình mồi, cách nơi này cùng lắm chỉ hơn hai trăm dặm, thiết kỵ chỉ cần một ngày một đêm là có thể phi ngựa đến đây, sao có thể đem các doanh cung nỏ phái lên núi săn thú được! Hơn nữa, ta đã tính đem các doanh cung nỏ sát nhập vào bộ binh doanh, nên lại càng không thể điều động riêng bọn họ ra ngoài được.”



Lý Thiếu Hướng bị A Mạch nói vậy thì có chút ngượng ngùng, xoa xoa tay nói không ra lời. A Mạch không muốn anh ta sượng mặt, suy nghĩ một lát lại nói thêm: “Nhưng quả thật binh lính thao luyện cũng rất vất vả, cũng nên thường xuyên cải thiện bữa ăn cho họ. Như vậy đi, ta gọi Vương Thất trước lấy những người già yếu trong bộ binh ra cho ngươi dùng.”



Lý Thiếu Hướng thầm nghĩ ‘ngươi cho ta một đám người già yếu, bọn họ còn có khả năng lên núi săn thú ư!’ Song anh ta cũng là người khéo đưa đẩy, mặc dù trong lòng không vui cũng sẽ không biểu lộ ra mặt, chỉ nhìn A Mạch cười gượng hai tiếng.



A Mạch biết Lý Thiếu Hướng không vui, lập tức cười cười, còn nói thêm: “Ngươi đừng xem thường đám người này, cho dù không thể đi săn thú cho ngươi, thì cũng có thể giúp ngươi nuôi gà nuôi lợn cũng rất tốt. Trước kia ta từng nghe có người nói qua vài cách nuôi gà rất hay, đó là đem gà mái chia ra nuôi nhốt trong những lồng sắt nhỏ, mỗi ngày đều cho nó ăn nhưng không cho vận động nhiều, nó sẽ lớn rất nhanh, một con gà con chỉ cần hơn một tháng là thành gà lớn, thịt cũng rất nhiều.”



Thật ra Lý Thiếu Hướng chưa từng nghe thấy cách nuôi gà nào như thế này, cũng không biết có thể nuôi một con gà con trong vòng hơn một tháng là có thể thành gà lớn hay không, nhưng anh ta vừa nghe A Mạch nói đến mỗi ngày chỉ cho gà ăn mà không cho nó vận động, trên mặt lập tức xuất hiện một nụ cười rất tươi, đôi mắt một mí chỉ lộ ra khe hở hẹp nhìn A Mạch cười mà không nói gì.



A Mạch nhìn thế nào cũng cảm thấy nụ cười tươi này có chút quái dị.



Từ Tĩnh ngồi đối diện vốn vẫn yên lặng ăn cơm, đột nhiên ngẩng đầu lên nói với A Mạch: “Cách này thật ra rất hay, chỉ có điều lương thực cho người ăn còn không có thì ngươi bảo anh ta kiếm đâu ra lương thực cho gà ăn?”



Nàng chẳng qua là nhân lúc nghe Lý Thiếu Hướng nói đến chuyện săn thú, mới nhớ đến trước kia mẫu thân từng thuận miệng nói qua cách nuôi gà như vậy, hiện giờ bị Từ Tĩnh hỏi, không khỏi có chút ngượng ngùng. Nụ cười trên mặt Lý Thiếu Hướng lại càng tươi hơn, còn tự tay cầm đũa gắp một cái chân thỏ hoang thả vào trong bát của Từ Tĩnh mời mọc: “Từ tiên sinh, ngài nếm thử cái này đi, xem hương vị thế nào?”



A Mạch nhìn mà bực mình, nhưng cũng không nói thêm nữa, chỉ bảo: “Không nói chuyện này nữa, chờ Tiết Vũ về xem tình hình thế nào rồi sẽ nói sau.”



Nói xong, cũng không khách khí mà thò đũa vào nồi gắp một miếng thịt gà lớn bỏ vào bát.



Mùng sáu tháng mười một, Tiết Vũ từ Ký Châu tay không trở về. Nghe nói Tiếu Dực vốn cho anh ta mấy xe lương thực, Tiếu phu nhân còn cho thê tử của cháu trai ngoại một xe son phấn và tơ lụa, nhưng Tiết Vũ không lấy bất cứ thứ gì, xoay người trở về Thanh Châu.



Trong lòng A Mạch đã sớm đoán được điều này, lựa lời an ủi Tiết Vũ vài câu, rồi bảo anh ta về trước nghỉ ngơi, nhưng Lý Thiếu Hướng thì lại vô cùng tiếc nuối hơn chục cái xe kia, cứ nhắc mãi rằng: “Con ruồi tuy nhỏ nhưng cũng là thịt a, còn hơn là chẳng có gì a.”



Đối với việc này, Vương Thất vốn tán thành với cách xử sự của Tiết Vũ, giờ nghe Lý Thiếu Hướng nói thế không khỏi liếc xéo anh ta một cái, cả giận nói: “Ngươi không sợ ăn thịt ruồi bọ sẽ mắc ói sao!”



Lý Thiếu Hướng xoa xoa hai tay, bất đắc dĩ nói: “Ngươi mà thấy tình trạng của đám lính thì mới biết nỗi khó xử của ta.”



Vì chuyện lương thảo mà lo lắng không chỉ có một mình Lý Thiếu Hướng mà còn có chủ tướng A Mạch của quân Giang Bắc. Tuy đã sớm cùng Từ Tĩnh nhận định rằng Tiếu Dực khó có khả năng cho lương thực, nhưng trong lòng dù sao vẫn có chút hy vọng, hiện giờ chút hy vọng ấy đã tan thành mây khói, ngay cả A Mạch cũng khó tránh khỏi có chút sa sút tinh thần. Nhưng trước mặt Tiết Vũ và chư tướng quân Giang Bắc, nàng không dám mảy may biểu lộ, chỉ khi ở trước mặt Từ Tĩnh mới dám để lộ ra vẻ mặt đau khổ.



Từ Tĩnh vẫn uống loại trà Long Tĩnh không biết từ năm Minh Tiền thứ bao nhiêu mà Trương Sĩ Cường lấy được từ chỗ của Lý Thiếu Hướng, thần thái có chút khoan thai, hoàn toàn không thấy khẩn trương lo lắng, chỉ cười nói: “Ngươi lo cái gì? Chẳng phải trước khi Tiết Vũ đi ngươi đã dặn dò anh ta cách đối phó với Tiếu Dực rất rõ rồi hay sao? Quân Giang Bắc ở Thanh Châu không trụ nổi nữa, chỉ có thể mang theo dân chúng đến tìm ông ta để nương tựa thôi!”



A Mạch cười khổ nói: “Đó chẳng qua chỉ để dọa Tiếu Dực mà thôi, chẳng lẽ có thể thực sự đến chỗ ông ta để tìm nơi nương tựa sao? Ông ta cũng đâu để bị chúng ta uy hiếp.”



Trong mắt Từ Tĩnh chợt lóe tinh quang, nghiêm trang nói: “Sao lại là dọa? Trong thành của ngươi đã hết lương, không chạy về hướng đông thì chạy đi đâu? Chẳng lẽ lại ra khỏi thành quyết chiến cùng Thường Ngọc Thanh? Thế chẳng phải chính là rơi vào quỷ kế của Thường Ngọc Thanh thì là gì!”



A Mạch nhận ra trong lời nói của Từ Tĩnh còn có ý khác, không khỏi khẽ nghiêng người về trước nhìn Từ Tĩnh chằm chằm, hỏi: “Tiên sinh có kế sách đối phó với Thường Ngọc Thanh chăng?”



Từ Tĩnh vuốt râu khẽ cười hỏi: “Cái này còn phải xem ngươi có bỏ được thành Thanh Châu hay không.”



A Mạch hơi hơi mím môi, sau khi thoáng cân nhắc liền nói với Từ Tĩnh: “Xin tiên sinh chỉ giáo cho.”



Từ Tĩnh lại hỏi A Mạch: “Nhưng ngươi có dám bỏ Thanh Châu mà đi không?”



A Mạch yên lặng nhìn Từ Tĩnh một lát, phút chốc nở nụ cười, đáp: “Đánh không lại, bỏ thành đào tẩu chẳng qua cũng là chuyện thường tình của nhà binh. Việc này ta không phải là kẻ đầu tiên, cũng không phải là kẻ cuối cùng làm vậy, tiên sinh nói có phải không?”



Từ Tĩnh nghe vậy vỗ tay cười to: “Không sai, nếu đánh không lại, cũng chỉ có thể bỏ chạy, dù sao thành là vật chết, người mới là vật sống!”



A Mạch đợi Từ Tĩnh ngưng cười, lại trầm giọng hỏi: “Tiếp đó thì sao?”



“Vào vụ gặt lúa mạch, trước khi Thường Ngọc Thanh đến tấn công, quân ta mượn cớ thát tử sẽ tàn sát thành mà gây rối loạn lòng dân trong thành, lưu chút tinh binh che dấu trong dân chúng, sau đó bỏ ngỏ việc phòng thủ thành Thanh Châu,” Từ Tĩnh đưa tay di chuyển đến trạm kế tiếp trên sa bàn, chỉ vào địa hình trên sa bàn nói: “Mai phục hai vạn tinh binh tại bờ sông Tử Nha phía bắc thành Thanh Châu, còn lại thì ẩn tại khe núi Phi Long. Nếu Thường Ngọc Thanh vào thành, thì nhanh chóng vây thành, bộ binh phối hợp với loạn dân toàn lực công thành, tiến hành chiến đấu trên đường phố, kỵ binh phân tán ở phía tây và phía nam thành, hai phía đánh du kích cắt đứt đường lui của Thường Ngọc Thanh, trận chiến này chắc thắng. Nếu Thường Ngọc Thanh trú quân ngoài thành không chịu vào…”



A Mạch nhanh chóng tính toán trong đâu, theo bản năng lại hỏi tiếp: “Chúng ta sẽ làm như thế nào?”



Từ Tĩnh nheo mắt, trầm giọng nói: “Chúng ta cũng không để ý tới loạn dân trong thành, cho năm vạn đại quân nấp trong khe núi phía đông thành cấp tốc rút rui về phía sau, dụ Thường Ngọc Thanh lọt vào khe núi Phi Long, hai vạn tinh binh mai phục bên bờ sông Tử Nha đánh tới, trận này thắng nhỏ, nhưng cũng phải chém được hơn vạn địch; Thát tử thất bại mà bỏ chạy,“Năm vạn đại quân” giữ vững, nhưng hai vạn tinh binh không đủ sức vây kín nên để trống phía tây nam, khiến cho địch phá vòng vây chạy về phía đó, lại dùng kỵ binh chặn đánh ở phía tây nam, tất đại thắng.”



A Mạch nghe xong trầm mặc không nói gì, chỉ dùng ngón tay gõ khẽ lên sa bàn nhìn đến thất thần. Từ Tĩnh biết nàng tất có chủ kiến, cho nên cũng không lên tiếng quấy rầy, chỉ ngồi xuống bên bàn lẳng lặng uống trà. A Mạch yên lặng nhìn một lát, lông mày khi thì nhăn lại, khi thì giãn ra, mọi cách tính kế đều nhất nhất xoay chuyển, cân nhắc trong đầu, lúc này mới ngẩng đầu nhìn Từ Tĩnh nói: “Nếu người khác dẫn quân thì tốt, nhưng nếu là Thường Ngọc Thanh e là sẽ không dễ dàng rơi vào bẫy như thế.”



Từ Tĩnh khẽ cười nói: “Nếu anh ta vẫn án binh bất động, kỵ binh bên ta thừa dịp đêm xuống mà xông đến doanh trại, từng bước vây sát, trận chiến này vẫn thắng.”



A Mạch chậm rãi lắc đầu: “Không phải ở đây, mà là ở đây.” Nàng đưa tay chỉ vào khe núi Phi Long, nói: “Với tính cách của Thường Ngọc Thanh, anh ta sẽ không dễ gì bị chúng ta dụ dỗ xâm nhập sâu vào khe núi Phi Long, mà trước khi chúng ta lui vào trong khe núi Phi Long sẽ phái kỵ binh vòng lại đây cắt đứt đường lui của quân ta, khi đó, trái lại là quân ta hai mặt thụ địch.”



Từ Tĩnh không khỏi gật đầu, đưa mắt thận trọng nhìn sa bàn, lại ngưng thần suy nghĩ.



A Mạch lại nói tiếp: “Còn nữa, theo binh pháp, khi bộ binh cùng thiết kỵ thát tử đối trận thì rất ít khi giành được thắng lợi, điều đó rất dễ khiến quân sĩ của ta nảy sinh tâm lý sợ hãi, khi còn giữ thế phòng thủ thì không sao, nhưng một khi chuyển sang thế tấn công lại thành họa lớn.”



Từ Tĩnh vuốt râu gật đầu, rất tán thành với ý kiến của A Mạch, nhưng nếu muốn tìm bộ binh áp chế trực diện thiết kỵ của thát tử lại vô cùng khó khăn. Nam Hạ thiếu chiến mã, căn bản không thể lập thành một lực lượng lớn để có thể cùng thiết kỵ thát tử đối đầu trực diện. Mà trận địa bộ binh nếu bị kỵ binh đánh sâu vào sẽ rất dễ mất trận, cho nên về cơ bản là không thể cùng kỵ binh dã chiến, nhất định phải dựa vào công sự phòng ngự hoặc là thành trì để cùng kỵ binh đối kháng.



A Mạch suy nghĩ một lát, nói: “Trừ phi ở thành đông chúng ta không chỉ dụ binh mà còn có thể có cùng Thường Ngọc Thanh trực tiếp ganh đua thực lực!” Nói đến đây, một luồng suy nghĩ chợt lóe lên trong đầu A Mạch, nàng đưa mắt nhìn Từ Tĩnh, ngữ khí đột nhiên thay đổi, đè nén một tia hưng phấn hỏi: “Tiên sinh, nếu đã đánh cược, chúng ta có thể đánh cược lớn hơn một chút được không?”



Từ Tĩnh nghe xong khẽ rùng mình, hỏi: “Đánh cược như thế nào?”



A Mạch đáp: “Ta đã từng xem qua đâu đó một loại chiến pháp, thật ra có thể khắc chế kỵ binh thát tử, chỉ có điều chưa từng nghe qua có người sử dụng bao giờ, lần này chúng ta thử nghiệm một lần xem sao. Nếu thắng, quân Giang Bắc sẽ thuận thế đông tiến, chiếm cứ Ký, Lỗ, lập uy tứ quốc, ở Giang Bắc cùng thát tử phân tranh.”



Đôi mắt nhỏ của Từ Tĩnh chớp chớp, hỏi: “Nếu bại thì sao?”



A Mạch cười cười: “Nếu bại, chúng ta rút rui vào khe núi Phi Long cũng chưa muộn.”



Một chiến pháp mới, không biết uy lực lớn đến đâu, nhưng nếu chưa từng được thực nghiệm qua chiến đấu, kết quả cuối cùng vẫn rất khó liệu. Trong lòng Từ Tĩnh có chút nghi ngờ, trầm ngâm một lát sau mới hỏi: “Chiến pháp gì?”



————————-



Chú thích:



1- du thuyết: thời xưa gọi các chính khách đi đến các nước khác thuyết khách là du thuyết, dựa vào tài ăn nói của mình thuyết phục vua các nước áp dụng chủ trương của mình.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

124#
 Tác giả| Đăng lúc 5-10-2012 18:33:45 | Chỉ xem của tác giả
Chương 115

LỄ VẬT MỪNG NĂM MỚI



A Mạch lúc này vẫn dấu đi nút thắt quan trọng, cười nói: “Tiên sinh, là chiến pháp gì tạm thời ta không nói vội, ta chỉ cần hai ngàn kỵ binh, một vạn bộ binh. Còn lại vẫn dựa theo kế hoạch ban đầu mà làm. Nếu ta thất bại, sẽ trốn vào khe núi Phi Long, không chừng còn có thể dụ được Thường Ngọc Thanh truy kích đến đó.”



Từ Tĩnh: “Cánh quân mới này do ai thống lĩnh?”



Trong đầu A Mạch thoáng hiện lên một người, lập tức đáp: “Hắc Diện!”



Hắc Diện, sau chính biến ở thành Thái Hưng, A Mạch dẫn quân tiến về Thanh Châu, đã lệnh cho anh ta trở về núi Ô Lan hộ tống Từ Tĩnh đến đây. Khi anh ta đến thì quân Giang Bắc đã điều chỉnh xong, vẫn chưa bố trí anh ta thực sự giữ chức vụ gì, bởi vậy, mặc dù Hắc Diện vẫn có tên trong hàng ngũ tướng lĩnh, nhưng trên thực tế lại rất nhàn rỗi.



Cách một ngày sau, A Mạch liền cho gọi Hắc Diện đến, sau khi cùng anh ta mật đàm nửa ngày lại cho gọi thống lĩnh kỵ binh Trương Sinh đến, thương lượng với anh ta lấy hai ngàn kỵ binh giao cho Hắc Diện chỉ huy. Kỵ binh của Trương Sinh vốn chưa đến năm ngàn, trước đó vài ngày lại vừa xuất một ít binh lính già yếu đưa về bộ binh doanh, hiện giờ trong tay tổng cộng cũng chỉ có bốn ngàn, A Mạch vừa hé miệng lại muốn lấy đi hai ngàn, trên mặt Trương Sinh bất giác hiện rõ vẻ ngạc nhiên. Chẳng qua Trương Sinh vốn vô cùng tin phục A Mạch, hơn nữa, kỵ binh vốn do Đường Thiệu Nghĩa kiến lập nên, anh ta có thể tiếp nhận vị trí này hoàn toàn dựa vào sự tín nhiệm của A Mạch, cho nên cũng chỉ thoáng chần chờ trong giây lát, rồi sảng khoái đáp: “Được!”



Trương Sinh đã đáp ứng rồi, những chuyện còn lại dễ hơn rất nhiều.



Thủ hạ bộ binh doanh của Vương Thất và cung nỏ doanh vừa sáp nhập xong, A Mạch lại lấy từ trong doanh trại của anh ta một vạn binh lính tráng kiện giao cho Hắc Diện. Vương Thất không giống với Trương Sinh, anh ta và A Mạch chung một ngũ đi lên, tình cảm không thể so với những người bình thường khác, nói chuyện cùng A Mạch cũng tùy ý hơn rất nhiều. Thấy A Mạch muốn lấy binh lính tráng kiện từ bộ binh doanh của mình để thành lập một cánh quân mới, không khỏi quấn lấy A Mạch hỏi cánh quân mới này để thực hiện chiến pháp mới nào. Ai ngờ A Mạch cũng không nói lộ điều gì, chỉ bảo sau này thấy rồi sẽ biết. Nghe xong, Vương Thất càng cảm thấy thâm tâm ngứa ngáy khó chịu, tuy nhiên, đối với chuyện thành lập cánh quân mới này so với Hắc Diện còn tích cực hơn, chỉ trong vòng hai ngày đã đem người giao cho Hắc Diện.



Có người, lại có trang bị, cánh quân mới chỉ còn đợi sắp xếp, phối hợp với sàng nỏ(1), trên tường thành Thanh Châu vốn không đủ, phải cho thợ thủ công chỗ quân giới chế tạo thêm, việc này hơi mất thời gian, tổn hao công sức, và cũng khó làm. Thứ cần dùng nữa là vài chiếc xe, A Mạch nhốt mình trong phòng nửa ngày, phỏng theo trí nhớ, cuối cùng vẽ xong một bản vẽ, giao cho Lý Thiếu Hướng, lệnh cho anh ta căn cứ theo bức vẽ chế tạo gấp.



Lý Thiếu Hướng nghe sơ qua liền muốn đến chỗ quân giới đẩy nhanh tốc độ chế tạo xe ngựa ngay lập tức, còn nói là muốn đi Ký Châu vận lương, nên liên mồm đáp ứng, nhưng khi nhìn đến bản vẽ mô phỏng của A Mạch thì kêu lên: “Đại nhân, xe này của ngài không thể dùng được, vừa nhìn là biết ngài không phải xuất thân từ gia đình nông dân. Ta mặc dù không phải là thợ mộc, nhưng xem qua cũng biết bản vẽ này là để chế tạo xe ngựa…”



A Mạch dở khóc dở cười, vội vàng cắt ngang lời Lý Thiếu Hướng, chỉ phân phó nói: “Cái khác ngươi không cần phải xen vào, chỉ cần tìm thợ mộc đến căn cứ theo bản vẽ này làm mẫu một chiếc xe đem trước đến cho ta xem rồi nói sau!”



Lý Thiếu Hướng vẫn tỏ vẻ không tình nguyện, muốn cùng A Mạch bàn luận tiếp. A Mạch sợ anh ta quấy rầy, đành phải lừa anh ta: “Xe này mặc dù không phải dùng để vận lương, nhưng nhờ có nó chúng ta sẽ có được không ít lương thực, ngươi cứ yên tâm!”



Lúc này Lý Thiếu Hướng mới càu nhà càu nhàu bước đi, lại tìm trong quân khoảng một trăm binh lính trước đây từng làm thợ mộc đến hỗ trợ, lúc này mới gấp rút trong vòng một tháng giao ra ba trăm chiếc xe thiên tương(2). Cái gọi là xe thiên tương, kỳ thật chính là một cỗ xe có cả tác dụng tấn công và phòng thủ, chế tạo thành một cỗ chiến xa có những tấm bình phong bảo vệ, song khi kết hợp cùng với ngựa sẽ tạo thành một loại chướng ngại vật, hợp thành một doanh xe để ngừa địch đánh bất ngờ. Từ những tấm bình phong bảo vệ này có những ô cửa sổ ở giữa, sàng nỏ sẽ được bắn ra từ đó, tấn công theo kiểu “Vừa đánh vừa tiến lên”. Loại xe này từ mấy trăm năm trước đã có người dùng rồi, chẳng qua khi chế tạo A Mạch có thay đổi một chút, có tám tấm bình phong có thể gấp lại, chiều dài tổng cộng là mười lăm thước, bình thường chúng được đặt ở trên càng xe, khi tác chiến đánh trận thì mở ra dựng ở một bên bánh xe như một cái hòm lớn, cho nên gọi là “Xe thiên tương”.



Tuy đã có chiến xa, sàng nỏ theo bộ lại không thể chế tạo gấp theo được. A Mạch biết Lý Thiếu Hướng đã cố hết sức cho nên không trách móc anh ta, chỉ đem những chiến xa này giao cho Hắc Diện, lệnh cho anh ta dùng những cỗ xe trống đó cho cánh quân mới thao luyện trước.



Cánh quân mới có giáo trường riêng, bốn ngàn bộ binh bắt đầu thao luyện, trải qua một tháng huấn luyện đặc biệt, hiện giờ diện mão đã bắt đầu lộ rõ. Trận địa của bọn họ rất khác so với trước kia, tất cả tạo thành một đội, đứng đầu là đội trưởng, thứ hai là người một tay cầm trường bài (3), một tay cầm khiên mây, trường bài để che chắn trường thương, loan đao của địch, khiên mây(4) làm bằng chất liệu nhẹ có cài giáo, đao, cầm trường bài và khiên mây chủ yếu để yểm hộ cho đội quân phía sau tiến lên, khiên mây ngoại trừ yểm hộ còn phủ phục trước vó ngựa địch. Hai người tiếp theo cầm lang tiển(5), lợi dụng lưỡi dao sắc bén phía trước của lang tiển mà ám sát địch nhân, dùng khiên tăng cường yểm hộ đồng thời tay kia dùng trường thương tấn công. Tiếp đó là bốn người tay cầm trường thương, trái phải hai người, chủ yếu khiêu khích khiến cho quân địch xuống ngựa, tiếp theo là sử dụng đoản đao và vũ khí ngắn tấn công vào bên sườn và bên hông của địch, tiến sát lên chém giết địch nhân.



Sáu ngàn bộ binh được phân phối giữ ba trăm cỗ chiến xa. Hai mươi bộ binh phụ trách một chiến xa, trong đó mười người trực tiếp lệ thuộc vào chiến xa, nhiệm vụ là bắn sàng nỏ, mười người còn lại thì tạo thành một “Tiểu đội sát thủ”, tay cầm khiên mây, đinh ba cùng đơn đao cán dài(6) nghênh địch. Khoảng cách giữa tiểu đội sát thủ và chiến xa duy trì trong vòng hai mươi lăm thước, nếu bọn họ tiến lên, chiến xa cũng theo đó mà được đẩy lên phía trước.



Vì sàng nỏ không thể chế tạo gấp được, nên mấy trăm cỗ chiến xa đành buộc đá lớn vào để luyện tập, sau đó binh lính đẩy chiến xa chạy khắp giáo trường…



Vẫn cùng một cảnh tượng, nhưng khi rơi vào trong mắt những người khác nhau lại này sinh ra ra những ý nghĩ khác nhau:



Ánh mắt Từ Tĩnh khi nhìn cảnh này dường như tỏa sáng, ban đầu, ông ta vốn tưởng rằng A Mạch chỉ muốn dùng xa trận đối kháng với kỵ binh, đang muốn khuyên nhủ A Mạch đừng cố chấp mà tự làm khó cho mình, cách đó không thể thủ thắng được đâu, hiện giờ nhìn thấy cảnh tượng này, tay không tự chủ được mà đưa lên giữ chặt chòm râu trên cằm.



Vương Thất nhìn những binh lính cường tráng đó mà cũng thấy vô cùng tự hào, không hổ là lấy từ trong doanh trại của ta ra, các ngươi đâu thể vạm vỡ bằng những tiểu tử này được?



Quan quân nhu Lý Thiếu Hướng nhìn thấy một màn này mà càng thêm đau lòng, một đám ăn uống như bị mất cắp, thế mà lại chỉ để làm mấy cái việc đẩy đá, có sức lực như vậy làm cái gì khác mà chả tốt, thật lãng phí quá a.



Mỗi người một tâm tư, cứ thế mà ngày trôi qua rất nhanh, cái tết đầu tiên của quân Giang Bắc ở Thanh Châu đã đến. Nhưng không khí vui mừng của năm mới không chạm được chút nào lên khuôn mặt của Lý Thiếu Hướng, ngược lại, lại khắc sâu lên đó thêm vài phần sầu khổ, cửa ải cuối năm, cửa ải cuối năm a, lễ mừng năm mới chính là cửa ải cuối năm của người nghèo a. Cái khác tạm thời không nói, chỉ nói trước mắt không có bột cũng chẳng có thịt, lấy cái gì cho mọi người đón năm mới đây? Lý Thiếu Hướng giương mắt nhìn lên bầu trời tối tăm, hận không thể khiến những thứ đang trút từ trên trời xuống không phải là tuyết, mà là bột mỳ a.



Có lẽ nỗi lòng ai oán của Lý Thiếu Hướng đã thấu lên tận trời xanh, cho nên vào ngày hai mươi tám tháng chạp, ngoài thành Thanh Châu đột nhiên có người đưa tới cho quân Giang Bắc mấy chục xe toàn đồ ăn ngon của nơi thôn dã. Áp giải đoàn xe là hơn ba mươi hán tử tráng kiện, đầu tiên họ cho xe ngựa dừng lại ở phía xa xa, rồi duy nhất một người đi tới dưới thành, hướng về phía trên tường thành cao giọng hô: “Có vị cố nhân tặng Mạch tướng quân chút quà năm mới, thỉnh quân gia buông cầu treo cho chúng ta đem những lễ vật này vào thành.”



Binh lính thủ thành nào dám tùy ý buông cầu treo, nghe vậy liền vội vàng xin chỉ thị của trưởng quan. Hôm nay, phụ trách bảo vệ thành là Hữu phó tướng quân Mạc Hải, nhận được tin liền lên trên thành để xem, chỉ thấy xa xa dưới thành một đoàn xe ngựa đang đứng chờ, xe nào xe nấy chất đầy hàng hóa, ước chừng phải đến ba, bốn mươi cỗ xe. Hán tử đứng dưới thành nhìn thấy một vị tướng quân mặc mũ giáp đi lên, biết là người chịu trách nhiệm ở đây, liền cao giọng nói: “Ta được một vị cố nhân của Mạch tướng quân ủy thác đến đây giao tín vật, phiền vị tướng quân này giao cho Mạch tướng quân, ngài ấy nhìn thấy sẽ nhận ra.”



Nói xong vung tay lên, một bọc nhỏ liền bay thẳng lên vọng lâu của tòa thành, rơi vào trong lòng Mạc Hải. Con sông đào bảo vệ thành ước chừng rộng vài chục trượng, lại thêm độ cao của tường thành, thế mà người nọ chỉ tiện tay ném một cái, vật nọ liền bay tới trước người Mạc Hải, đủ thấy lực cánh tay của anh ta mạnh đến mức khiến người ta phải phát sợ. Mạc Hải trong lòng thất kinh, nhận được cái bọc nhỏ kia liền mở ra, thấy trong đó là một tấm huy hiệu của quân Nam Hạ bằng đồng, khắc cấp bậc giáo úy. Mạc Hải nhất thời không đoán ra đây là tín vật của người nào, liền vội vàng gọi người cầm bọc nhỏ bằng vải bố đi tìm, đưa cho A Mạch.



A Mạch đang ở trên giáo trường chỉ đạo Hắc Diện huấn luyện cánh quân mới, Lý Thiếu Hướng vẫn như trước, bám theo bên cạnh nàng lải nhải việc quân nhu. A Mạch nghe mà phát phiền, mấy lần muốn phất tay đuổi Lý Thiếu Hướng đi. Thủ binh trên tường đến đưa cái bọc nhỏ bằng vải bố cho nàng, nói là ngoài thành có người tặng nàng lễ vật mừng năm mới, đặc biệt giao tín vật này cho nàng. A Mạch kinh ngạc, đợi khi nhìn rõ tấm huy hiệu giáo úy trong bao vải kia, đầu tiên là ngẩn người, tiếp đó là vui mừng khôn xiết, không kịp dặn dò Hắc Diện một tiếng, liền xoay người đi vội ra khỏi giáo trường.



Lý Thiếu Hướng đứng ở phía sau nhìn cảm thấy rất lạ, lại nhớ đến mấy chữ “Lễ vật năm mới” mà tên lính kia vừa nói, liền vội vàng lặng lẽ đi theo, thấy sải chân của A Mạch thật dài, dường như không nhịn được mà muốn chạy đi.



Mạc Hải vẫn chờ trên vọng lâu của cổng thành, thấy A Mạch nhanh như vậy đã tới, bất giác có chút kinh ngạc, vội vàng chạy lại đón, kêu lên: “Đại nhân.”



A Mạch tùy ý khẽ gật đầu, rồi hướng bước chân đến lỗ châu mai hỏi Mạc Hải: “Người đó đâu?” Vừa hỏi xong đã đi đến bên cạnh lỗ châu mai rồi, A Mạch cúi xuống nhìn, nhất thời có chút trố mắt, chỉ thấy bên kia con sông đào bảo vệ thành có mấy chục cỗ xe chở hàng im lìm đứng đó, nhưng một bóng người cũng không thấy đâu.



Mạc Hải đáp: “Người đó nói những thứ cần đưa đã đưa đến đây rồi, nên anh ta về trước.”



A Mạch khẽ giật mình, lúc này mới ừ một tiếng.



Mạc Hải lại hỏi: “Đại nhân, những xe ngựa này làm sao bây giờ?”



Đoàn xe ngựa kia có khoảng ba, bốn mươi chiếc, phía trên đều phủ cỏ, tất cả các xe đều được xếp đầy, từ trên thành nhìn xuống thật không biết bên trong là cái gì, nếu có dấu người bên trong cũng không thể nhận ra được. Nghe Mạc Hải hỏi, A Mạch liền mỉm cười, quay đầu lại nói: “Tặng lễ vật năm mới cho chúng ta thì cứ thu lại là được, đúng lúc Lý Thiếu Hướng cả ngày không ngừng nhắc tới nhắc lui là lấy đâu ra đồ mừng năm!”



Nàng nói xong, Mạc Hải còn chưa kịp nói gì, thì Lý Thiếu Hướng vừa mới thò mặt lên tường thành cũng đã vô cùng lanh lẹ lên tiếng, xoay người, chân không ngừng bước mà đi luôn xuống dưới thành. A Mạch vội gọi anh ta lại dặn dò: “Gọi người đi dắt la, ngựa đến, kiểm kê cho rõ ràng rồi kéo hết xe vào thành.”



Lý Thiếu Hướng quay lại nhếch miệng cười nói: “Còn dắt la, ngựa làm gì, dù sao những người của lão Hắc hằng ngày đều luyện đẩy xe ngựa đấy thôi, ta đi gọi bọn họ đến đây là được rồi.”



A Mạch không khỏi bật cười, bất đắc dĩ lắc lắc đầu, tấm huy hiệu bằng đồng nắm chặt trong tay một hồi lâu đã mang theo nhiệt độ cơ thể của nàng, A Mạch cúi đầu nhìn kỹ một lát, cẩn thận thu vào trong lòng, ngẩng đầu nhìn tầng mây đang bị ép nặng trĩu. Gió Bắc đã nổi lên, cuốn theo nhiều bông tuyết rơi xuống, trong không khí phảng phất có mùi thuốc pháo. Thịnh Nguyên năm thứ năm, cuối cùng thì một trận tuyết lớn đã xuất hiện.


—————————–



Chú thích:

1-  Sàng nỏ:



2- Xe thiên tương: thiên nghĩa là lệch 1 bên; tương nghĩa là cái hộp. Đọc phần miều tả hình dáng chiếc xe này trong truyện các bạn sẽ hiểu tên của nó.



3- Trường bài





4- Khiên mây



5- Lang tiển





6- Đơn đao cán dài (hay trường đao)

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

125#
 Tác giả| Đăng lúc 5-10-2012 18:39:31 | Chỉ xem của tác giả
Chương 116

ĐẠI CHIẾN (THƯỢNG)




Vì năm nay lập xuân(1) rơi vào năm sau, cho nên mùa xuân rất lạnh, đợi đến khi thời tiết chuyển sang ấm áp thì đã đến giữa tháng hai. A Mạch đã trang bị xong sàng nỏ cho cánh quân mới, binh lính luyện tập đã dần tiến đến giai đoạn đạt chuẩn. Phần lớn kỵ binh trong cánh quân mới cũng đều đề nghị A Mạch thay bằng một loại vũ khí mới tương tự như lang nha bổng, loại vũ khi này càng dùng càng cảm thấy đơn giản, thuận tay, lại có thể tự mình gia công thay đổi, ví dụ như có thể tăng thêm đinh sắt ở phía đầu mút và bẻ cong lại, một bổng nện xuống khi thuận thế thu về có thể giật ngã đối phương từ trên ngựa xuống, thật là tuyệt diệu không thể tả xiết!



Việc huấn luyện cánh quân mới tiến triển vô cùng thuận lợi, các doanh trại khác thao luyện cũng rất khắc khổ, tình hình trong thành rất tốt, chỉ ngoại trừ Lý Thiếu Hướng vì chuyện lương thảo mà phát hỏa, còn lại chư tướng quân Giang Bắc đều quản lý công việc của mình gọn gàng trật tự.



Cùng lúc đó, đại quân Bắc Mạc yên ổn trú quân tại thành Võ An, bộ tộc Thường gia cả già lẫn trẻ gồm ba gã đàn ông đã trải qua một năm ở thành Võ An. Lương thảo của Thanh Châu so với ở đây thì chẳng khác gì như lấy trứng chọi đá, bởi lương thảo của đại quân Bắc Mạc ở thành Võ An rất dư dả, đại nguyên soái chinh nam Trần Khởi chẳng những cấp lương thảo đầy đủ mà còn đặc biệt phái Tuyên uy tướng quân Phó Duyệt áp tải lương thảo, vật tư đến đây.



Nói đến Phó Duyệt, các chư tướng quân Giang Bắc đều cảm thấy có chút xa lạ, Vương Thất – quản lý đội thám báo liền giải thích: “Chính là ca ca của Phó Hướng, kẻ bị chúng ta bắn chết trong chiến dịch tại Dã Lang Câu vào năm Thịnh Nguyên thứ hai đó.”



Chư tướng quân Giang Bắc không khỏi đồng thanh “À” lên một tiếng, âm đuôi kéo ra rất dài, tất cả đều cùng một biểu cảm. Tiết Vũ vốn ở lại thành Thanh Châu, đối với trận chiến tại Dã Lang Câu cũng không biết nhiều lắm, liền hỏi: “Chính là kẻ cùng với Thường Ngọc Thanh ở Bắc Mạc xưng là ‘Tướng môn song tú’ Phó Hướng?”



Mạc Hải khinh thường cười nhạo một tiếng: “Song tú ấy à, thích việc lớn hám công to, khinh xuất liều lĩnh, chỉ vừa mới giao chiến cùng quân Giang Bắc chúng ta đã bị bắn chết.”



A Mạch cân nhắc một lát liền hỏi Vương Thất: “Vì sao Trần Khởi lại phái người này đến đây? Chỉ áp giải lương thảo hay là ở lại Võ An? Về phương diện này có tin tức gì không?”



Vương Thất lắc đầu: “Không có tin tức gì, chỉ biết lương thảo do Phó Duyệt áp tải đến.”



Từ Tĩnh vẫn im lặng đột nhiên cười nói: “Nếu là vì tranh chấp của các phe cánh trong quân Bắc Mạc, thì xem ra đây là Trần Khởi muốn mượn sức Phó gia và Thôi gia để chống đỡ thôi.”



A Mạch yên lặng không nói gì, như thể có điều đang phải cân nhắc.



Trương Sinh nhìn Từ Tĩnh, lại nhìn A Mạch, hỏi: “Đại nhân, ngài muốn đi cướp lương thảo sao?”



A Mạch nghe vậy thì khôi phục lại vẻ bình tĩnh, liếc mắt thấy Lý Thiếu Hướng đang dùng đôi mắt chờ mong nhìn nàng, liền lắc đầu nói với Trương Sinh: “Không thể được, kỵ binh của chúng ta lực lượng quá mỏng, thát tử lại sớm có phòng bị, đi chỉ mất công, lại khiến kỵ binh bị tổn thất mà thôi.”



Từ Tĩnh cũng gật đầu nói: “Không sai.”



Trong thành Võ An, mấy người của Thường gia đang thương nghị việc Phó Duyệt vận tải lương thảo đến đây.



Thường Tu An đối việc này vô cùng tức giận nói: “Thường gia ta lãnh binh đông tiến, còn phái Phó gia tới làm gì, rõ ràng là cố ý muốn quấy rối đây mà, nếu không phải vì tên Phó Hướng, chúng ta đâu chịu thất bại ở Dã Lang Câu! Hơn nữa Phó gia thì có bản lĩnh gì, không phải chỉ dựa vào việc là thân thích với Thái Hậu hay sao?”



“Tam thúc!” Thường Ngọc Tông ngắt lời Thường Tu An, quay lại nhìn đường huynh Thường Ngọc Thanh, hỏi: “Thất ca, hay Trần Khởi ngại tốc độ đông tiến của chúng ta quá chậm? Chúng ta một đường đánh từ Dự Châu đánh tới Thanh Châu, tất cả cũng hạ được hơn mười thành trì, tuy là bị vướng chân ở Thanh Châu, nhưng cũng chẳng hề rảnh rỗ, sao anh ta lại như thế?”



Không giận dữ như Thường Tu An hay nghi hoặc như Thường Ngọc Tông, sắc mặt của Thường Ngọc Thanh vẫn bình thản, khóe miệng còn dẫn theo một nét cười mỉa mai, nghe vậy nói: “Nguyên nhân là vì Thường gia chúng ta lập được quá nhiều quân công, nên anh ta mới kêu Phó Duyệt đến đây để chia bớt phần của chén canh này, vừa đoạt quân công của Thường gia ta, lại cho Phó gia thể diện, một công đôi việc như vậy, cớ gì mà lại không làm!”



Thường Tu An tức giận nói: “Chờ Phó Duyệt đến đây, chúng ta liền cô lập hắn ta, xem hắn làm thế nào phát động được binh mã!”



Thường Ngọc Thanh cũng cười, nói: “Nếu tam thúc làm thế lại càng đúng tâm ý của Trần Khởi, không những chúng ta sẽ đắc tội với Phó gia mà còn khiến cho Hoàng Thượng tức giận, nếu Hoàng Thượng có khúc mắc, chúng ta dù có lập nhiều quân công hơn nữa thì cũng có ích gì?”



Thường Ngọc Tông nhịn không được hỏi: “Vậy phải làm sao?”



Thường Ngọc Thanh khẽ cười nói: “Một khi Phó Duyệt đến đây thì phải dùng anh ta, hơn nữa, không những dùng mà còn phải trọng dụng!”



Bước vào ba tháng, lượng thóc lúa trong kho lương thảo của Thanh Châu càng ngày càng ít, nhưng thật ngoài ý muốn, Lý Thiếu Hướng lại vô cùng bình tĩnh. A Mạch càng ngày càng trở nên trầm mặc, theo tin tức thám báo từ Võ An đưa về, đại quân Thường Ngọc Thanh đã có hành động, một trận chiến không thể tránh khỏi cuối cùng cũng đã tới.



Thử thách, đây chính là thử thách đối với cánh quân mới, cũng là thử thách đối với sự tồn vong sinh tử của quân Giang Bắc.



Ngày mười hai tháng ba, đại quân Bắc Mạc ra khỏi thành Võ An tiến thẳng đến uy hiếp Thanh Châu.



Trương Sinh, thống lĩnh kỵ binh quân Giang Bắc, nhân cơ hội này mang hai ngàn kỵ binh đánh lén đại doanh lương thảo của Bắc Mạc, nào ngờ Thường Ngọc Thanh sớm đã có phòng bị, lưu lại cho Thường Tu An ba ngàn kỵ binh và một ngàn bộ binh bảo vệ lương thảo. Quân của Trương Sinh rơi vào tình thế bất lợi nên tổn thất lớn, liền dẫn kỵ binh quân Giang Bắc rút lui về phía nam thành Thanh Châu.



Ngày mười bảy tháng ba, thiết kỵ Bắc Mạc đến phía tây thành Thanh Châu. Trong thành Thanh Châu không còn đủ lương thảo, nên năm vạn đại quân Giang Bắc đã bỏ thành Thanh Châu, rút lui về khe núi Phi Long theo hướng đông. Cùng với đó, dân chúng trong thành sợ quân Bắc Mạc tàn sát mà biến thành loạn dân, mang theo lương thực và đồ quý giá bỏ chạy tứ  phía, cửa thành Thanh Châu mở rộng, trong thành là một cảnh hỗn loạn.



Thường Ngọc Tông đề nghị đưa quân Bắc Mạc vào thành bình định loạn dân, nhân cơ hội chiếm cứ thành Thanh Châu. Thường Ngọc Thanh chỉ cười lạnh, chẳng những không tiến vào thành Thanh Châu, mà ngược lại, vượt qua thành Thanh Châu, sau đó rút ra ba ngàn thiết kỵ giao cho tiên phong Phó Duyệt chỉ huy, xuyên qua khe núi Phi Long cắt đứt đường lui của quân Giang Bắc, còn  đại quân chủ lực từng bước áp sát theo quân Giang Bắc, khiến toàn bộ đại quân Giang Bắc không kịp lui vào trong khe núi Phi Long mà bị chặn lại ở vùng đất bằng bẳng ở khe núi Khẩu Bắc



Sau gần nửa năm xa cách, A Mạch và Thường Ngọc Thanh cuối cùng lại không thể tránh khỏi thế đối địch.



Không giống với địa thế trật hẹp trong khe núi Phi Long, khe núi Khẩu Bắc chính là một phần chân núi Thái Hành kéo dài về hướng tây, hình thành nên một vùng đất bằng phẳng, đúng là một địa hình vô cùng thích hợp cho kỵ binh tác chiến. Kỵ binh quân Giang Bắc yểm hộ cho bộ binh lui về hướng đông, thấy đại quân Bắc Mạc đuổi tới nơi vội vàng bày trận nghênh địch. Nhưng số lượng kỵ binh quân Giang Bắc vốn không nhiều lắm, Trương Sinh lại mang một nửa đi tập kích đại doanh lương thảo của Bắc Mạc, cho nên ở đây cũng chỉ còn lại hai ngàn, so với con số hai vạn thiết kỵ Bắc Mạc thật có chút đáng thương.



Hai ngàn đối đầu với hai vạn, lại ở vùng đất bằng phẳng, thắng bại cơ hồ đã rõ.



Kỵ binh Bắc Mạc đều đã có chút không thể kiềm chế được, song đại tướng quân Thường Ngọc Thanh lại vẫn như trước không hạ lệnh xung phong. Anh ta vốn luôn tìm cơ hội được sớm cùng quân Giang Bắc dã chiến, hiện giờ khi đã thật sự chặn được quân Giang Bắc ở nơi này, anh ta lại bắt đầu cảm thấy có chút do dự. Thường Ngọc Thanh rất hiểu A Mạch, nàng không thể là người dễ dàng khoanh tay chịu chết. Quả nhiên, kỵ binh quân Giang Bắc sau khi bày trận liền rất nhanh rút lui, lộ ra ba trăm cỗ chiến xa ẩn nấp ở phía sau.



Thường Ngọc Thanh rốt cục mỉm cười, thì ra là muốn dùng xa trận chống lại kỵ binh. Dựa vào chiến xa vững chắc để cản trở kỵ binh đánh sâu vào trận địa, duy trì hoàn chỉnh mặt trận phe mình. Đồng thời, vì chiến xa phân bố dày đặc trong trận, không gian trong khe núi rất chật hẹp, khúc khuỷu, kỵ binh rất khó có thể xen kẽ thần tốc, hành động chắc chắn sẽ bị hạn chế rất lớn… Thế nhưng, tuy xa trận có một chút ưu thế đối với kỵ binh, lại khó có thể chống lại sự tấn công linh hoạt của bộ binh, đồng thời lại có một nhược điểm trí mạng, đó là e sợ hỏa công, lại thêm xa trận lấy việc phòng thủ là chính, về cơ bản rất bất lợi cho việc chủ động xuất kích cũng như tấn công tác chiến.



A Mạch, ngươi khiến cho ta có chút thất vọng rồi. Thường Ngọc Thanh khẽ cong khóe môi cười, dặn dò Thường Ngọc Tông: “Chuẩn bị hỏa tiễn và cỏ khô để đốt xe.”



Thường Ngọc Tông cũng là người thông thạo binh thư, tất nhiên biết Thường Ngọc Thanh muốn dùng hỏa công để đối phó xa trận, liền vội vàng sai người bố trí hỏa tiễn cùng cỏ khô. Phía bên kia, mấy trăm cỗ chiến xa của quân Giang Bắc nhanh chóng áp sát vào mô hình trận địa, hơn nữa, dàn trận cũng chẳng theo đội hình thông thường, như mô hình trận địa hình bán nguyệt, hình vuông phân bố theo chiều dọc, mà là trước sau lần lượt thay đổi xếp thành mấy hàng, sau đó tiến rất nhanh về phía quân Bắc Mạc.



Quân Bắc Mạc nhìn mà bất giác có chút hồ đồ, xa trận đều lấy phòng ngự làm chủ, chưa bao giờ thấy chiến xa lại được đẩy như điên lên phía trước như thế này! Quân Giang Bắc muốn làm gì vậy? Mắt thấy khoảng cách giữa hai quân càng lúc càng gần, Thường Ngọc Thanh mặc dù nhất thời không hiểu A Mạch rốt cuộc đang giở trò bịp bợm gì, song cũng không thể để chiến xa của địch quân đánh sâu vào trận địa của quân mình, liền bình tĩnh hạ lệnh cho kỵ binh phía trước tấn công quân Giang Bắc.



Mà chiến xa của quân Giang Bắc khi vọt tới chỉ còn cách kỵ binh quân Bắc Mạc khoảng hai trăm trượng liền đột ngột dừng lại, những tấm chăn thô phủ trên chiến xa rốt cục bị hất ra, để lộ những cỗ sàng nỏ được cố định bên trên… Tầm bắn của cung tên không thể so với sàng nỏ, loại vũ khí này do vài binh lính kéo trục cơ quan mà bắn nỏ, tầm bắn có thể đạt tới ba trăm bước. Thiết kỵ Bắc Mạc vừa mới xung phong, tên nỏ của quân Giang Bắc đã xé gió bay tới.



Dùng gỗ làm thân, đuôi gắn lông vũ, nếu gọi là tên, chi bằng gọi là ngọn thương gắn lông vũ còn chính xác hơn, hầu như mỗi một ngọn thương rơi xuống đều khiến cho một kỵ binh cả người lẫn ngựa đều ngã lăn trên mặt đất, thậm chí có ngọn thương còn đâm xuyên qua cả mấy kỵ binh. Đại quân Bắc Mạc đột nhiên bị tấn công liền trở nên hồ đồ, đội kỵ binh xung phong này lập tức chịu tổn thất vô cùng nghiêm trọng, thậm chí ngay cả đại đội kỵ binh chưa xung phong ở phía sau cũng trong phạm vi công kích của tên nỏ. Mỗi loạt tên nỏ hạ xuống, thì lại có một loạt thiết kỵ Bắc Mạc ngã nhào, trận địa kỵ binh trở thành tấm bia ngắm thật tốt cho cánh quân mới của quân Giang Bắc.



Lúc này, ngàn vạn lần không còn cách để lùi về phía sau. Thường Ngọc Thanh lấy lại phản ứng, lạnh giọng hạ lệnh cho cánh trái đánh sâu vào trận địa cánh phải của địch quân, chư quân còn lại thì tiếp tục đánh sâu vào trận địa của quân Giang Bắc.



Thường Ngọc Thanh suy nghĩ rất rõ ràng, sàng nỏ của quân Giang Bắc tuy lợi hại, cùng lắm cũng chỉ có ba trăm cái, chỉ cần có thể chạy vọt vào trong trận địa của quân Giang Bắc, đại quân Bắc Mạc liền xoay chuyển thế cục. Mà kỵ binh khi tấn công vào trận địa của bộ binh, nhằm vào cánh phải của đối phương là có lợi nhất. Bởi vì thế trận trường thương mặc dù có thể khắc chế kỵ binh, nhưng trận địa biến hóa không linh hoạt, nếu kỵ binh đối phương đột nhiên thay đổi phương hướng tấn công, tốc độ đối phương sử dụng thuẫn và binh khí cũng chậm chạp lại. Cho nên, trong rất nhiều hướng trận của kỵ binh, quan trọng nhất chính là đối diện với tấm thuẫn.



Mà mọi người đều biết, cách dùng đao thuẫn thông thường đều là tay trái cầm thuẫn, tay phải cầm đao. Phòng ngự cánh trái vì vậy rất thuận tiện, chỉ cần nhẹ nhàng di động cánh tay trái là có thể hướng tấm thuẫn về phía kỵ binh, che chắn cho bản thân. Nhưng nếu đối phương đánh sâu vào cánh phải, đao thuẫn thế nào cũng không thể đổi chỗ cho nhau được, một khi đã như vậy, đao thuẫn sẽ không thể bảo vệ mình mà phơi bày phía sau lưng cho đối phương, một khi trong tay đối phương còn dư thừa kỵ binh, hậu quả thật không dám tưởng tượng.



Không thể không nói, là một tướng lãnh kỵ binh, Thường Ngọc Thanh chỉ huy vô cùng xuất sắc, đáng tiếc, mọi chuyện trên đời thường hay thay đổi. Chiến xa quân Giang Bắc sau khi bắn ra một loạt tên nỏ cuối cùng, những binh lính điều khiển xe lập tức đẩy xe rút sang hai cánh. Hắc Diện mọi ngày huấn luyện quân hà khắc rốt cục cũng thấy được hiệu quả, những cỗ xe được đẩy đi rất nhanh, chỉ trong chớp mắt đã dùng xe bày thành trận địa bảo vệ binh lính ở hai cánh, tiếp tục bắn tên nỏ. Đồng thời, kỵ binh quân Giang Bắc vẫn chờ ở phía sau trận liền phóng ngựa vọt ra.



Hai cánh là sàng nỏ bắn tên dày đặc, phủ đầu là lang nha bổng giáng xuống bốn bề, thiết kỵ Bắc Mạc chưa bao giờ gặp phải kiểu tấn công như thế này, đội hình nhanh chóng rối loạn. Nhưng thiết kỵ Bắc Mạc có thể xưng bá thiên hạ, chắc chắn phải có chỗ hơn người, hơn nữa, kỵ binh quân Giang Bắc mặc dù dũng mãnh lại cũng không ham chiến, chỉ đột phá vào trong trận địa của kỵ binh Bắc Mạc một phen rồi ngay lập tức rút đi, cho nên, kỵ binh Bắc Mạc mặc dù tổn thất không ít, lại vẫn vọt được tới trước trận địa của bộ binh quân Giang Bắc.



Nhưng, bọn họ cũng rất nhanh liền phát hiện ra rằng phe mình tuy đã vọt tới trận địa của bộ binh quân Giang Bắc, lại bị chiến xa ngăn cản.



Không biết từ khi nào thì chiến xa của quân Giang Bắc lại từ hai cánh đẩy trở lại, những tấm bình phong vốn vẫn đặt ở càng xe đã được mở ra, dựng ở một bên bánh xe thành một chiếc hộp lớn, mấy trăm cỗ chiến xa có thể sóng vai nối liền nhau, xếp thành một trận địa vòng tròn ngăn kỵ binh Bắc Mạc ở bên ngoài.



Hàng trăm mũi tên nỏ trong xa trận đồng loạt bắn ra, kỵ binh Bắc Mạc lại trở thành bia ngắm.







——————————



Chú thích:

1- Tiết lập xuân: Tiết Lập xuân là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Nó là một trong số hai mươi tư tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Theo quy ước, tiết lập xuân là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 4 hay 5 tháng 2 (dương lịch) khi kết thúc tiết đại hàn và kết thúc vào khoảng ngày 18 hay 19 tháng 2 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết vũ thủy bắt đầu.

Ngày lập xuân được coi là ngày bắt đầu mùa xuân ở Việt Nam, Trung Quốc và một số nước khác gần khu vực xích đạo ở Bắc bán cầu Trái Đất.

Hàng năm chỉ có 1 tiết Lập xuân kéo dài khoảng 2 tuần là hết. Tiết Lập xuân thường vào cuối năm cũ đến đầu năm mới (năm âm lịch).
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

126#
 Tác giả| Đăng lúc 5-10-2012 18:40:43 | Chỉ xem của tác giả
Chương 117

ĐẠI CHIẾN (HẠ)




Sắc mặt Bắc Mạc đại tướng quân Thường Ngọc Thanh xanh mét nhưng vẫn trấn định như trước, mặc dù xa trận có thể ngăn cản kỵ binh, nhưng đối với bộ binh lại không thể. Thường Ngọc Thanh quả quyết ra mệnh lệnh cho kỵ binh xuống ngựa, ý đồ lấy bộ binh tấn công, phá vỡ xa trận của quân Giang Bắc. Đồng thời, phái người phi ngựa truyền lệnh cho tiên phong Bắc Mạc Phó Duyệt đang chặn ở khe núi Phi Long từ phía sau tấn công vào trận địa của quân Giang Bắc.



Kỵ binh Bắc Mạc biến thành bộ binh, song rất nhanh có người liền kinh hãi phát hiện ra những tấm bình phong của xa trận lại có thể cử động được hai cánh ra trước sau, giống như cánh cửa, cho phép bộ binh có thể ra vào. Không đợi cho “Bộ binh” Bắc Mạc kịp cao hứng, những “Tiểu ban sát thủ” vẫn ẩn giấu sau xa trận của quân Giang Bắc đột nhiên theo cánh cửa nhảy vọt ra. Thì ra người ta dùng cánh cửa kia để che dấu người cùng một nhà…



Sau khi vô số “Bộ binh” Bắc Mạc hy sinh, quân Bắc Mạc cuối cùng cũng vượt qua kỵ binh, phá tan phòng tuyến “Sát thủ”, đi tới trước trận địa của bộ binh quân Giang Bắc, nhưng chuyện khiến cho người ta phiền muộn đến hộc máu lại xảy ra, trận địa bộ binh hàng ngũ vốn rất chỉnh tề lại bắt đầu phân tán, lúc hợp thành thì chẳng có bao nhiêu tiểu đội, nhưng giờ lại bung ra đón đánh sự tấn công của kỵ binh Bắc Mạc.



Kỵ binh Bắc Mạc trong lòng rất buồn bực, sao bỗng nhiên lại thay đổi thế này? Sao lại xòe ra thành thế trận hình sao?



Thế trận hình sao, phân hợp bất thường, nghe thấy tiếng trống thì tụ, nghe thấy tiếng chuông thì tan. Khi kỵ binh tới thì tiếng chuông vang lên, một quân chia làm hơn mười cụm; tùy theo kỵ binh mà tách ra, nghe theo tiếng trống mà tụ lại. Nói trắng ra chính là khi kỵ binh vọt tới thì không trực tiếp đối đầu, chỉ cố hết sức tránh đi, khi kỵ binh chuyển hướng hoặc giảm tốc độ, thì bộ binh lại quây lại, tạo thành một thể hỗn độn giữa địch và ta.



Thật ra đấu pháp này rất vô lại, mang dáng dấp của bọn lưu manh đường phố, không cùng ngươi khác chạm trán chính diện mà là lũ lượt ùa lên, điểm chú trọng chính là trong địch có ta, trong ta có địch. Thì ngươi cứ đánh đi, dù sao mọi người đều lẫn lộn cùng một chỗ, nói không chừng khi đao, tên xuất ra thì kẻ phải nhận lấy có khi lại chính là người cùng một nhà với ngươi, nhưng nếu ngươi không đánh, lại càng tốt, đao, tên của địch quân nhất định sẽ chiếu cố thật tốt đến ngươi.



Bởi vì sợ sẽ ngộ thương người cùng một nhà, nên kỵ binh không dám tự do rong ruổi, vì thế mà lực tấn công cũng giảm mạnh, hơn nữa, nếu cứ như vậy, đừng nói là kỵ binh bị đánh bại mà ngay cả chạy cũng không thể chạy thoát. Tuy là vậy, nhưng để vận dụng được trận thế này lại rất khó.



Đầu tiên, làm lưu manh cũng là cần phải có dũng khí rất lớn! Vậy đây chính là lưu manh sao, à, không phải, đây chính là những bộ binh không sợ chết, bằng không trái phải bốn bề đều có kỵ binh của địch, dám chắc sẽ sợ tới mức chạy trốn khắp nơi, chỉ cần bộ binh chạy trốn, kỵ binh liền đuổi theo chém giết, dễ dàng chẳng khác gì cắt lúa mạch.



Thư hai, sức chiến đấu của từng binh sĩ bộ binh và tiểu đội nhất định phải mạnh mẽ, ưu việt hơn đối phương, bởi vì bộ binh nếu không phối hợp chặt chẽ, nếu sức chiến đấu của bản thân mình còn không mạnh, thì chính là từ tìm cái chết, ví dụ như từng dùng qua thế trận này là Bắc phủ và Nhạc gia, đây đều là những thế hệ tinh binh hiếm thấy.



Nhưng ngay cả như vậy, cái gọi là “Trận địa như hình sao, huyết chiến không trở về”, một khi được sử dụng, có nghĩa là một trận huyết chiến vô cùng khốc liệt sắp bắt đầu.



Nhưng kỵ binh Bắc Mạc vẫn chưa thấy sợ hãi, chảy trong cơ thể họ là một bầu máu nóng thiện chiến nên bọn họ không sợ huyết chiến, bọn họ chỉ sợ đám mọi rợ Nam Hạ yếu đuối không dám ứng chiến. Vì thế, kỵ binh Bắc Mạc chỉ nở nụ cười, tay vung loan đao tiếp tục tiến về phía trước. Đáng tiếc, bọn họ rất nhanh liền phát hiện mình lại sai lầm rồi.



Những tiểu đội khoảng hơn mười người được phân tán ra của quân Giang Bắc rất kỳ quái, vũ khí lại có đủ loại dài ngắn khác nhau. Phía trước là những tấm thuẫn yểm hộ cho đội ngũ phía trước, tay cầm khiên mây phủ phục xuống đất, chuyên dùng để cản trở vó ngựa của địch nhân, phía sau có hai binh sĩ tay cầm lang tiển dài hơn một trượng, tay cầm thuẫn yểm hộ cùng trường thương tiến lên tấn công. Tiếp theo là bốn binh sĩ tay cầm trường thương, mỗi bên hai người, chia nhau cầm thuẫn cùng lang tiển phối hợp chặt chẽ hai bên trái phải phía trước, tiếp sau đó còn sử dụng đoản đao và binh khí ngắn để ngừa địch nhân vòng lại tấn công.



Loại trận pháp này, dùng việc phân công tác chiến của các binh lính trong tiểu đội để bù lại nhược điểm của từng binh sĩ khi giao chiến.



Điều khủng khiếp nhất còn ở phía sau, theo tiết tấu trống trận mà quân Giang Bắc biến hóa, vốn dĩ mỗi tiểu đội có mười một người nhưng giờ lại bắt đầu chia nhỏ ra, trở thành hai người, ba người một hàng ngũ nhỏ hơn…



Trận tuy nhỏ, nhưng lực sát thương lại vẫn khủng khiếp như trước!



Trải qua trăm đắng nghìn cay, tốc độ của kỵ binh cùng ưu thế xung lượng đã sớm biến mất hầu như không còn, loan đao chém xuống lập tức bị thuẫn chặn lại, người ngồi trên ngựa còn chưa kịp phản ứng, thì sau tấm thuẫn lại đột nhiên xuất hiện trường thương đâm tới, lập tức đẩy kỵ sĩ rơi xuống, ngay sau đó, không biết cương đao lại từ đâu xuất hiện… Mất mạng, thì ra lại là một chuyện đơn giản như vậy.



Thường Ngọc Tông chém giết khiến trong mắt biến thành một mảnh màu đỏ tươi, lại vẫn không ngăn được tình thế thảm bại. Cánh quân của Phó Duyệt tấn công quân Giang Bắc giờ này vẫn chưa thấy động tĩnh. Trương Sinh cùng hai ngàn kỵ binh, thần không biết quỷ không hay, đột nhiên lại xuất hiện phía sau đại quân Bắc Mạc, ba vạn thiết kỵ Bắc Mạc cuối cùng cũng bắt đầu tan rã.



Một trận kéo dài đến tận khi trời chạng vạng, trên chiến trường đã là một quang cảnh bừa bãi, hỗn độn. Có chiến xa của quân Giang Bắc trúng hỏa tiễn Bắc Mạc bốc cháy, khói đen đạc quánh bay lên đến tận trời. Nhưng càng nhiều hơn nữa là thi thể của kỵ binh Bắc Mạc, máu của người và của ngựa hòa lẫn vào nhau, khiến mặt đất vừa mới xanh tươi trở lại sau mùa đông lại bị nhuộm thành một màu hồng nhợt nhạt.



Thường Ngọc Thanh đem theo tàn quân Bắc Mạc rút lui đến miếu Trình gia cách phía nam thành Thanh Châu mấy chục dặm mới dừng lại, khi truyền lệnh chỉnh đốn lại các bộ phận mới phát hiện tiên phong Thường Ngọc Tông vẫn chưa theo kịp. Những tướng lãnh bên cạnh Thường Ngọc Thanh không ít người xuất thân từ Thường phủ, đều thân thuộc với Thường Ngọc Tông, thấy vậy, trong mắt không khỏi đều có chút đỏ lên, bọn họ hướng về phía Thường Ngọc Thanh năn nỉ: “Đại tướng quân, chúng ta quay lại cứu Thập Nhất Lang đi!”



Thường Ngọc Thanh sắc mặt lạnh lùng, khóe môi khắc nghiệt không chút huyết sắc, im lặng nhìn mọi người một lát, lạnh giọng hạ lệnh cho phó tướng Phùng Nghĩa: “Chỉnh đốn lại tàn quân, tạm thời nghỉ ngơi hồi phục, đợi sáng sớm ngày mai đánh lén đại doanh quân Giang Bắc.”



Mọi người nghe vậy đều sửng sốt, ngay lập tức có tướng sĩ truy vấn: “Vậy còn Thập Nhất Lang thì làm sao bây giờ?”



Thường Ngọc Thanh lạnh lùng đưa mắt nhìn người nọ, không để ý đến, tiếp tục căn dặn Phùng Nghĩa: “Quân Giang Bắc nhất định sẽ muốn thu dọn chiến trường, tối nay chắc chắn sẽ không thể quay về thành Thanh Châu, nên sẽ hạ trại ở ngoài khe núi Phi Long. Bọn họ vừa mới thắng trận khó tránh khỏi nảy sinh kiêu ngạo, bảo vệ doanh trại sẽ không quá nghiêm ngặt. Lát nữa ngươi dẫn quân ra vẻ chạy về phía tây, vượt qua núi Thúy Bình thì lấy ra một ngàn quân tinh nhuệ ẩn dấu tại đó, còn lại vẫn tiếp tục chạy về phía tây. Một ngàn quân tinh nhuệ này đợi đến giờ sửu thì xuất binh, vòng trở lại phía đông nam doanh trại của đại quân Giang Bắc thừa dịp đêm tối tập kích doanh trại…”



Phó tướng Phùng Nghĩa thấy Thường Ngọc Thanh giao nhiệm vụ rõ ràng như thế, trong lòng vừa sợ vừa nghi, không khỏi lên tiếng hỏi: “Đại tướng quân! Ngài đây là?”



Thường Ngọc Thanh như trước nghiêm mặt, trầm giọng hỏi: “Ngươi nghe không hiểu được sao?”



Phùng Nghĩa đành phải gật đầu: “Mạt tướng hiểu, chỉ có điều…”



“Không chỉ có điều gì hết!” Thường Ngọc Thanh lạnh giọng cắt ngang lời Phùng Nghĩa, cầm trường thương sải bước đến bên Dạ Chiếu Bạch, lại xoay người dặn anh ta: “Ta quay lại cứu Ngọc Tông, nếu thành công thì sẽ đi về phía tây bắc, thay ngươi thu hút sự chú ý của quân Giang Bắc. Phó Duyệt vẫn không có hồi âm, sợ là đã dữ nhiều lành ít. Nếu ngươi tập kích doanh trại thất bại, không cần tiếp tục suy tính nhiều, lập tức dẫn đại quân lui về Võ An, phòng thủ vững chắc đợi viện quân! Nhớ kỹ, nhất thiết không được tấn công thành Thanh Châu!”



Thường Ngọc Thanh nói xong liền giục ngựa muốn đi, Phùng Nghĩa bước lên phía trước đưa hai tay ra ngăn trước ngựa của Thường Ngọc Thanh, gấp giọng khuyên nhủ: “Đại tướng quân! Ngài không thể đi, ta sẽ đi cứu Thập Nhất Lang, ngài là chỉ huy cao nhất của đại quân, không có ngài lòng quân sẽ bất ổn, ngài tuyệt đối không thể đưa mình vào chỗ hiểm!”



Thường Ngọc Thanh lạnh lùng nói: “Nếu ta không đi, Mạch Tuệ sao có thể tin đại quân Bắc Mạc của ta đã tan tác trốn về hướng tây?” Nói xong lạnh giọng quát một tiếng: “Tránh ra!”



Phùng Nghĩa không nhúc nhích chút nào, Thường Ngọc Thanh cười lạnh một tiếng, giục ngựa lui về phía sau vài bước, đột nhiên phi về phía trước, Dạ Chiếu Bạch vươn người nhảy lên, bay vọt qua đầu Phùng Nghĩa, nhanh như chớp phi về hướng bắc. Thân vệ của Thường Ngọc Thanh sợ lạc mất anh ta, đều vội vàng lên ngựa đuổi sát theo phía sau, một hàng mấy chục kỵ mã nhằm thẳng về phía khe núi Phi Long.



Trước khe núi Phi Long, quan quân nhu quân Giang Bắc Lý Thiếu Hướng vốn mai danh ẩn tích trong suốt thời gian diễn ra trận chiến rốt cuộc lại bắt đầu trở nên sinh động, còn may mắn còn tồn tại chiến mã, loan đao sắc bén của quân Bắc Mạc… Sắc trời bắt đầu tối, ánh mắt Lý Thiếu Hướng lại như thể tỏa ra ánh kim quang, vung hai cánh tay chỉ huy binh lính doanh trại quân nhu thu nhặt chiến lợi phẩm trên chiến trường, la hét đến khàn cả giọng, nước miếng văng khắp nơi.



Trong quân Giang Bắc có quy định, sau khi kết thúc trận đánh, kỵ binh cùng bộ binh chủ lực phải nhanh chóng chỉnh đốn lại hàng ngũ để ngừa địch quân tấn công trở lại, việc thu dọn chiến trường sẽ do binh lính của doanh trại quân nhu phụ trách. Vì trận đánh hôm nay thắng rất oanh liệt, thiết kỵ Bắc Mạc lại được trang bị tốt nhất trong đại quân Bắc Mạc, cho nên Lý Thiếu Hướng nhất thời cảm thấy nhân số trong doanh mình không đủ dùng.



Lý Thiếu Hướng suy nghĩ, rồi nhấc chân chạy tới doanh trại bộ binh ở sườn tây chiến trường, tìm thống lĩnh bộ binh Vương Thất, nói thẳng vào vấn đề: “Ngươi cho ta mượn một doanh để dùng, ta muốn thu gom chiến mã bị chết của thát tử đem về, dùng da ngựa làm ủng cho các ngươi.”



Vương Thất không chịu cho mượn người, từ chối nói: “Giày ủng chỉ dùng cho kỵ binh, bộ binh doanh của ta không cần cái này, ngươi đi tìm Trương Sinh mà mượn người.”



Lý Thiếu Hướng không chịu từ bỏ hy vọng, híp mắt nháy nháy vài cái rồi lại du thuyết: “Ngươi chẳng phải còn có đội thám báo nữa sao? Cũng phải dùng mà!”



Vương Thất nghe xong bất giác có chút động tâm, nghĩ nghĩ một lát liền đồng ý, kêu một viên tướng thủ hạ đem theo một doanh thắp đuốc theo Lý Thiếu Hướng đi thu dọn chiến trường. Khi A Mạch mang theo Lâm Mẫn Thận, Trương Sĩ Cường phi ngựa từ xa tới, bộ binh doanh vừa mới bị Lý Thiếu Hướng một lần nữa mang về đến chiến trường. A Mạch thấy vẫn có binh lính chủ lực của bộ binh doanh ở lại trên chiến trường thì bất giác có chút kinh ngạc, quay đầu phân phó thân binh bên cạnh đến hỏi xem xảy ra chuyện gì, một lát sau, Lý Thiếu Hướng cùng thân binh kia đã trở lại, đến trước ngựa A Mạch cười hì hì nói: “Là ta mượn binh từ chỗ Vương Thất, hôm nay thát tử bỏ lại không ít đồ tốt, nếu không lấy thì thật sự rất đáng tiếc!”



A Mạch nghe xong tức giận đến nỗi mày kiếm dựng ngược, cố gắng nén nỗi tức giận lại trong lòng, lại lệnh cho thân binh đi truyền Vương Thất đến. Sau một lúc lâu, Vương Thất cưỡi ngựa đi đến, từ xa đã kêu lên rất lớn: “Đại nhân, có chuyện gì vậy?”



A Mạch mặt âm trầm, giục ngựa tiến lên vung tay quất cho Vương Thất một roi. Không nói đến Vương Thất nhất thời bị A Mạch đánh mà hóa ngây ngốc, ngay cả mọi người bên cạnh A Mạch cũng có chút sửng sốt. A Mạch mặc dù đã là chủ tướng quân Giang Bắc, nhưng đối nhân xử thế vẫn rất hiền hoà lễ độ, chưa bao giờ thấy nàng tức giận đến như thế, chứ đừng nói là vung roi với một tướng lĩnh cao cấp trong quân.



A Mạch cả giận nói: “Hiện giờ là lúc nào! Ngươi không tăng cường bảo vệ doanh trại, lại gọi người đến thu dọn chiến trường, ngươi chán sống rồi chắc?”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

127#
 Tác giả| Đăng lúc 5-10-2012 18:42:42 | Chỉ xem của tác giả
Chương 118

SINH MỆNH




Vương Thất cúi đầu im lặng, trên mặt Lý Thiếu Hướng có chút ngượng ngùng, anh ta biết A Mạch vì nể mình đã từng làm đội trưởng của nàng, bận tâm đến thể diện của anh ta nên mới trút cơn giận lên đầu Vương Thất. Lý Thiếu Hướng do dự một chút rồi nói: “Đại nhân, là lỗi của mạt tướng.”



A Mạch lạnh lùng liếc xéo anh ta một cái rồi nói tiếp: “Ta chưa nói đến ngươi, ngươi chỉ biết nghĩ đến những thứ vật dụng linh tinh! Nhưng nếu đến tính mạng cũng không còn thì những thứ vớ vẩn ấy còn dùng làm cái rắm gì!”



Lý Thiếu Hướng liên tục gật đầu vâng dạ, Vương Thất vẫn buồn bực không nói gì, hiển nhiên trong lòng có chút không phục. Lí Thiếu Hướng vội vàng kéo Vương Thất rồi nói với A Mạch: “Chúng ta về tăng cường phòng thủ doanh trại.”



A Mạch liếc Vương Thất một cái, lạnh giọng nói: “Nói với Hắc Diện dùng xe bảo vệ doanh, tăng cường ngoại tham(1) và ngoại phụ(2), đề phòng thát tử tập kích doanh trại!”



Vương Thất rầu rĩ đáp lại rồi xoay người định đi, bỗng cách đó không xa, đột nhiên truyền đến tiếng kinh hô của một binh sĩ trong doanh. Đám người A Mạch nghe vậy đều quay lại nhìn, chỉ thấy trong ánh lửa bập bùng, mấy binh sĩ quân Giang Bắc tay cầm thương đều nhất tề nhằm thẳng vào một thứ gì đó, có một tên lính quay đầu về phía Vương Thất hô: “Vương tướng quân! Bên này có một con cá lớn!”



Vương Thất nhìn A Mạch, rồi xoay người bước nhanh về hướng đó, khi đi đến gần mới nhìn rõ bọn lính đang dùng thương chĩa vào một thát tử bị thương ngã xuống đất. Chỉ thấy trên người tên thát tử này có rất nhiều vết thương, áo giáp đầy máu, một chân vặn vẹo theo một góc rất quái dị, dường như đã bị gãy. Vương Thất cầm đuốc từ tay một tên lính bên cạnh thận trọng soi, thấy người này cùng lắm chỉ khoảng hơn hai mươi tuổi, sắc mặt có chút sạm lại, mặt mày vốn trong sáng nhưng lúc này vì căm giận mà có chút khó coi, đang cau mày quắc mắt nhìn mình trừng trừng… Trông có chút quen mắt, dường như rất giống với dáng vẻ của Thường Ngọc Thanh ngày ấy ở dưới thành Thanh Châu cưỡi ngựa, cầm thương ngang người.



Trong lòng Vương Thất đột nhiên bừng tỉnh, nhất thời vừa mừng vừa sợ, nhịn không được lớn tiếng kêu lên: “Đại nhân! Chúng ta đúng thật là đã tóm được một con cá lớn!” Vương Thất quay về phía A Mạch hưng phấn kêu lên: “Đại nhân, ngài mau tới đây xem! Là Thường Ngọc Thanh, Thường Ngọc Thanh! Chúng ta đã bắt được Thường Ngọc Thanh!”



Bên kia, A Mạch nghe thấy vậy thì sửng sốt, bên này, tên thát tử kia đã nhổ mạnh một búng máu về hướng Vương Thất, khàn giọng mắng: “Hừ! Đồ tiểu nhân ngạo mạn mơ tưởng hão huyền, đại tướng quân của chúng ta sao có thể rơi vào tay lũ trộm cắp các ngươi! Sớm muộn gì ngài ấy cũng tiêu diệt sạch sẽ các ngươi, đem lũ người bọn ngươi treo hết lên công thành Thanh Châu!”



Binh sĩ quân Giang Bắc thấy vậy liền nâng trường thương lên định đâm xuống, lại bị Vương Thất đưa tay ngăn lại. Vương Thất không chút hoang mang lau vết bẩn thấm trên góc áo, lúc này mới giương mắt nhìn về phía thát tử kia, nhấc chân đá vào vết thương trên chân anh ta, dữ tợn mắng: “Xem ai treo ai lên cửa thành trước, lát nữa lão tử liền đem ngươi đưa treo lên đó!”



“Vương Thất! Dừng lại!” A Mạch giục ngựa đến ngăn Vương Thất, cúi đầu nhìn về phía người nọ, thấy mặt mũi anh ta quả nhiên có vài phần tương tự với Thường Ngọc Thanh. A Mạch lại đưa mắt nhìn áo giáp được chế tạo bằng thép rất tinh xảo trên người anh ta, sau đó nói: “Anh ta không phải là Thường Ngọc Thanh, chắc là Thường Ngọc Tông.”



“Thường Ngọc Tông?” Vương Thất sửng sốt, quét mắt nhìn người nọ, quay đầu lại hỏi A Mạch: “Chính là Thường Ngọc Tông bị chúng ta tiêu diệt ba vạn tinh kỵ binh ở Bạch Cốt Hạp?”



A Mạch gật đầu.



Vương Thất không khỏi vừa cười vừa nói: “Khó trách nhìn lại thấy quen mắt đến vậy, hóa ra là người quen cũ thật.” Nói xong, liền ngồi xổm xuống bên cạnh, cười hỏi Thường Ngọc Tông: “Này? Ngươi đã từng thất bại trong tay chúng ta một lần rồi, sao lại nhanh quên nhau thế?”



Mọi người trong quân Giang Bắc nghe xong đều cười ầm lên, Thường Ngọc Tông tức giận đến đỏ bừng sắc mặt, lớn tiếng kêu lên: “Muốn giết thì giết đi, đừng làm mấy cái trò như đàn bà ấy nữa!”



Anh ta gào thét như vậy lại càng khiến cho quân Giang Bắc cười lớn hơn, ngay cả khóe miệng A Mạch cũng không khỏi lộ ra ý cười, dặn dò Vương Thất: “Tìm thầy lang khám cho anh ta, cẩn thận một chút, đừng giết chết.”



“Ta biết.” Vương Thất sảng khoái đáp, cười hì hì quay đầu nhìn A Mạch, nhanh chóng quên mất chuyện bị quất một roi vừa rồi.



Có tên lính liên lạc chạy lại bẩm báo A Mạch tình hình chiến đấu chỗ Mạc Hải. Trước trận đánh, tiên phong Bắc Mạc Phó Duyệt dẫn theo ba ngàn kỵ binh đi đón đánh, chặn đường rút lui của quân Giang Bắc ở hướng đông, không ngờ A Mạch sớm đã có chuẩn bị, lệnh cho Hữu phó tướng quân Mạc Hải phục kích ở đó, vừa đúng lúc đối đầu với Phó Duyệt. Phó Duyệt bị mất tiên cơ liền rơi vào tình thế bất lợi đành phải mang binh chạy về hướng bắc. Mạc Hải đem quân đuổi theo đến bờ sông Tử Nha, Phó Duyệt sau khi vượt sông liền chạy dọc theo bờ sông theo hướng tây, Mạc Hải một mặt đuổi theo đến bờ bên kia, một mặt phái người quay về báo cáo với A Mạch.



A Mạch cân nhắc một lát, lệnh cho tên lính liên lạc kia đi trước nói với Mạc Hải theo dõi chặt chẽ động tĩnh của Phó Duyệt, còn tự mình xoay người đi tìm Từ Tĩnh. A Mạch vừa giục ngựa đi chưa xa, chợt nghe thấy tiếng trống cảnh báo từ xa xa truyền đến, tiếng trống dồn dập vừa mới vang lên liền im bặt, hiển nhiên là người đánh trống đã bị giết người diệt khẩu.



Lúc này, là ai quay lại?



Trong bóng đêm, chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa dòn dập từ xa truyền đến, cho đến khi tiếng kinh hô dừng lại. A Mạch vẫn chưa phản ứng gì, Lâm Mẫn Thận đã giục ngựa lên phía trước vài bước chắn trước ngựa của A Mạch. Cùng với tiếng vang của binh khí va chạm vào nhau, một chiến mã màu trắng từ trong bóng đêm phi hết tốc lực đến, phía trên là một kỵ sĩ mặc áo giáp đen, tay cầm trường thương, đúng là đại tướng quân Bắc Mạc Thường Ngọc Thanh!



Thì ra Thường Ngọc Thanh vẫn không tìm thấy Thường Ngọc Tông, liền hướng về phía ánh lửa chạy vội tới, một đường xông tới không biết đã dùng thương đâm biết bao nhiêu binh sĩ quân Giang Bắc tiến lên ngăn, lớn tiếng gọi: “Thập Nhất Lang! Thập Nhất Lang!”



Bên này, Vương Thất đang nâng Thường Ngọc Tông bị thương nặng định đi, nhìn thấy tình cảnh này nhất thời ngây ngẩn cả người. Thường Ngọc Tông nghe thấy có người gọi mình, liền vật lộn ngồi dậy, hướng về phía Thường Ngọc Thanh hô: “Thất ca! Ta ở đây!”



Thường Ngọc Thanh nghe tiếng gọi vọng lại, khi thấy rõ đó là Thường Ngọc Tông, trong lòng không khỏi mừng rỡ, liền thúc ngựa chạy vọt về hướng Thường Ngọc Tông. Thường Ngọc Tông thấy vậy bỗng nhiên chống lại, một phen đẩy tên lính bên cạnh đang kiềm chế anh ta ra, kéo cái chân bị thương chân lê về phía Thường Ngọc Thanh., Vương Thất đang trố mắt ra nhìn lập tức bừng tỉnh, không chút nghĩ ngợi, liền vung đao chém về phía Thường Ngọc Tông, đại đao vừa lúc chém trúng lưng Thường Ngọc Tông, một tiếng “Thất ca” trong miệng Thường Ngọc Tông còn chưa kịp kêu lên, thân thể đã đổ nhào xuống. Lúc này, Thường Ngọc Thanh đã phóng ngựa đến gần Thường Ngọc Tông, mắt thấy cảnh ấy, hai con ngươi thu lại, sát khí bùng lên, quát một tiếng chói tai, trường thương trong tay như du long xuất đầu, đâm thẳng vào ngựa Vương Thất.



A Mạch nhìn thấy từ xa, trong lòng cứng lại, thất thanh kêu lên: “Vương Thất! Chạy mau!”



Vương Thất theo bản năng vung đao lên đỡ, nhưng trường đao trong tay còn chưa thu được về đến trước ngực, thì đã cảm thấy mũi thương lạnh buốt xuyên qua lớp áo giáp, đâm thấu qua ngực. Vương Thất nhất thời sửng sốt, có chút không tin, cúi đầu nhìn trường thương trước ngực, dường như anh ta không cảm thấy đau, chẳng lẽ đây là thân thể của mình sao?



Thường Ngọc Thanh rút mạnh trường thương, thân thể Vương Thất không khỏi cũng theo lực đó mà bước về trước một bước, máu vọt ra.



“Vương Thất!” A Mạch lớn tiếng hô, không màng đến bất cứ cái gì, phóng ngựa vọt đi.



Thân vệ sợ nàng xảy ra sơ xuất, vội vàng quất ngựa đuổi theo. Ngựa của Lâm Mẫn Thận còn chưa tới, người đã từ trên yên ngựa đã bay lên, lướt lên trước A Mạch, trường kiếm trong tay biến hóa liên tục thành mấy chiêu thức nhằm thẳng vào những chỗ yếu hại trên người Thường Ngọc Thanh.



Thường Ngọc Thanh lập tức xoay lưng lại, múa trường thương nhất nhất hóa giải từng chiêu kiếm, rồi dùng trường thương đẩy Lâm Mẫn Thận lui từng bước, nhân đó cúi người nhắc Thường Ngọc Tông lên, lại vung thương ra bốn phía ngăn chặn sự tấn công quân Giang Bắc rồi phóng ngựa phá vòng vây chạy về hướng tây bắc.



Chư tướng quân Giang Bắc phân ra một ít người đuổi theo Thường Ngọc Thanh, còn lại vội vàng xuống ngựa chạy đến bên cạnh Vương Thất. A Mạch sớm đã ngã nhào xuống, đỡ Vương Thất lên, lấy tay giữ chặt miệng vết thương trên ngực anh ta, quay đầu khàn giọng quát: “Đi gọi thầy lang, nhanh đi gọi thầy lang!”



Bên cạnh có người lên tiếng đáp lời, Lâm Mẫn Thận chạy lại, đề khí vận chỉ, điểm vội mấy đại huyệt trên người Vương Thất. A Mạch đưa mắt mong mỏi nhìn Lâm Mẫn Thận, Lâm Mẫn Thận khẽ lắc đầu. Một thương của Thường Ngọc Thanh đâm xuyên qua ngực, vết thương lại là chỗ yếu hại, sao có thể cầm máu được?



Vương Thất lúc này mới cảm thấy sự đau đớn từ vết thương, run rẩy hỏi A Mạch: “Đại nhân, ta sẽ chết đúng không?”



“Nói bậy!” A Mạch phẫn nộ quát,“Chết cái rắm! Đâu có ai chưa từng bị trúng qua vài đao.”



Vương Thất nhìn chung quanh một vòng, thấy trên mặt mọi người đều khó nén khỏi nét bi phẫn, trong lòng anh ta liền hiểu, đưa mắt nhìn A Mạch, run giọng nói: “A Mạch, ta có vài điều muốn nói với ngươi.”



A Mạch cố gắng kiềm chế cảm giác tắc nghẹn trong cổ họng, mắng: “Sao lại nói nhiều lời vô nghĩa như vậy, ngươi cố gắng nghỉ một lát đi, thầy lang đến bây giờ, cầm máu cho ngươi thì sẽ ổn thôi.”



Lâm Mẫn Thận đứng dậy, cùng mọi người yên lặng tránh sang một bên.



Vương Thất cố gắng chịu đựng cơn đau trên ngực nói: “A Mạch, huynh đệ trong ngũ chúng ta có thể có được ngày hôm nay, không khỏi nhờ vào hào quang của ngươi.”



A Mạch mắng: “Bậy bạ!”



Vương Thất không không để ý tới lời lẽ thô lỗ của A Mạch, chỉ tiếp tục nói: “Nhưng các huynh đệ cũng chưa từng bỏ mặc ngươi, các huynh đệ sợ bị người khác mắng là một người làm quan cả họ được nhờ, cho nên mỗi lần đánh giặc đều liều mạng… Các huynh đệ… chưa từng bỏ mặc ngươi.”



A Mạch cố gắng nhẫn nhịn nỗi bi thống trong lòng, cứng cỏi đáp: “Những điều này ta đều biết.”



Sắc mặt Vương Thất đã trắng bệch, dần dần chuyển sang tái nhợt. Hơi thở của anh ta yếu dần, lại bắt đầu ho khan, miệng ói ra một ngụm máu lớn, lúc này mới khàn khàn giọng trong cổ họng, gắng gượng nói: “A Mạch, khi ngươi còn ở trong ngũ đã từng nói, nếu ai chết trước, cha mẹ của người đó chính là cha mẹ của tất cả mọi người.”



A Mạch cố sức gật đầu: “Ta vẫn nhớ!”



Vương Thất cố mỉm cười, hơi thỏ yếu ớt, cố gắng nói: “Ngũ trưởng là người Võ An, trong nhà có mẹ già, mỗi tháng chỉ cần một vài lượng bạc là đủ… Lão Hoàng là cẩm quan nhân, cha mẹ đã có huynh đệ chăm sóc, nương tử còn phải nuôi một khuê nữ, anh ta từng nói nếu nương tử muốn đi thêm bước nữa thì tùy nàng… Nếu nguyện ý ở vậy… thì sẽ nuôi nấng mẹ con nàng đến khi trăm tuổi.”



Cổ họng A Mạch đã nghẹn lại không thể nói nên lời, chỉ có thể gắng sức gật đầu.



“Ta là người trong gia trang của Thuận Bình Vương, trong nhà chỉ có ta là người con duy nhất, cha ta sợ ta ra bên ngoài bị người khác bắt nạt, cho nên đặt tên ta là Vương Thất, nói kẻ khác không biết, còn tưởng rằng phía trên ta có rất nhiều huynh đệ, sẽ không dám bắt nạt ta…” Thanh âm ngừng lại, Vương Thất thở hổn hển một hồi, miễn cưỡng lấy từ trong ngực tấm huy hiệu tướng quân bằng đồng, run rẩy đặt vào tay A Mạch, nói thêm: “Ta vẫn không chịu đổi tên, sợ cha mẹ ta không biết ta đã làm tướng quân, bọn họ chỉ biết gọi nhi tử là Vương Thất…”



Thanh âm của Vương Thất càng lúc càng nhỏ, khoảng cách giữa các từ càng lúc càng dài hơn. “A Mạch,” Vương Thất chuyển hướng nhìn A Mạch, ánh mắt đã bắt đầu mất đi thần khí, thanh âm tiếng được tiếng mất, không thể nghe rõ, A Mạch ghé tai sát vào miệng anh ta, mơ hồ nghe thấy: “Ngươi… nói dùm với bọn họ cho ta… Vương Thất đã được làm tướng quân, Vương Thất…”



Môi Vương Thất mấp máy mấy lần, cuối cùng thở dài một hơi, hoàn toàn không một tiếng động, đầu chậm rãi nghiêng sang một bên rồi đổ xuống, nặng trĩu trên cánh tay A Mạch, rất nặng, rất nặng…



Người này, khi nàng mới vào quân doanh đã từng đánh nhau với nàng một trận, sau đó cùng nàng bị phạt nhịn đói, vụng trộm chia nhau cùng ăn một chiếc bánh bao. Người này, đã cùng nàng chinh chiến trên ngàn dặm của dãy Ô Lan, rõ ràng đã đói đến lỏng cả thắt lưng, mà vẫn cười hì hì đem con thỏ vừa mới săn được ném cho nàng trước. Người này, ở trong quân luôn gọi thẳng nàng là A Mạch, chọc nàng phát cáu, nhưng trên chiến trường lại vung đao bảo vệ nàng. Người này, vừa mới điềm nhiên như không khi bị trúng của nàng một roi…



Trong lồng ngực của A Mạch trào lên một làn hơi nóng sôi trào, xông thẳng đến hốc mắt, hình như có gì đó từ trong mắt tràn ra, lăn xuống hai má.



Trương Sĩ Cường đứng bên cạnh không ngừng lấy mu bàn tay lau nước mắt, khàn khàn cổ họng gọi A Mạch: “Ngũ trưởng, Vương Thất…… Anh ta đã chết rồi……”



A Mạch hung tợn quay đầu trừng mắt nhìn anh ta, lớn tiếng quát: “Khóc! Khóc cái gì! Không phải là đã chết hay sao? Ai mà không phải chết?”



——————



Chú thích:



1- Ngoại tham: Bố trí người canh gác bốn phía quanh doanh trong phạm vi 10 dặm, đề phòng cảnh giác, phòng ngừa có biến thì phải lập tức báo tin (chú thích của tác giả);



2- Ngoại phụ: Bố trí 3 đến 5 người 1 tổ, ban đêm “cho quân đi trước hoặc ẩn nấp hai bên sườn, cứ 3 đến 5 dặm lại bố trí một tổ ở những nơi hiểm yếu” mang theo trống trận, không chỉ phụ trách việc quan sát tình hình địch quân, mà còn nhận biết khi có địch “xâm phạm đại doanh”, thì có nhiệm vụ “khua trống thật lớn”, dùng để kích động tâm lý chiến đấu. (chú thích của tác giả)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

128#
 Tác giả| Đăng lúc 5-10-2012 18:44:15 | Chỉ xem của tác giả
Chương 119

TẬP KÍCH BAN ĐÊM


Edit: Bui Thanh Sơn

Beta: Mẹ Cún



Trương Sĩ Cường kinh ngạc nhìn A Mạch, nói không nên lời. Thầy lang vội vã theo thân binh chạy tới, nhìn thấy biểu hiện của mọi người, trong lòng cả kinh, vội ngồi xổm xuống, đưa tay sờ vào cổ Vương Thất, nhưng mạch đã không còn đập nữa, nơi đó sớm đã có hơi lạnh, không một tiếng động.







A Mạch nhẹ nhàng đặt Vương Thất nằm xuống mặt đất rồi đứng lên, gạt nước mắt trên mặt, lạnh giọng phân phó Trương Sĩ Cường: “Đưa Vương Thất về Thanh Châu, truyền lệnh cho Hạ Ngôn Chiêu tạm thời tiếp nhận bộ binh doanh.”







Hạ Ngôn Chiêu vốn xuất thân từ quân Dự Châu, sau khi theo Thương Dịch Chi tiến vào núi Ô Lan từng làm giáo úy doanh thứ ba của quân Giang Bắc, là một tướng quân của bộ binh quân Giang Bắc, giờ đến Thanh Châu là người kế nhiệm chức vụ phó thống lĩnh bộ binh doanh.







Từ Tĩnh đang ở trong trướng, nghe tin Vương Thất gặp chuyện không may thì vô cùng thảng thốt, ngồi lặng đi. Từ Tĩnh thấy A Mạch từ bên ngoài tiến vào, mặt mày lạnh lùng, trừ đôi mắt ửng đỏ, còn vẻ ngoài vẫn không có gì thay đổi, trong lòng càng thêm lo lắng, vội đứng lên, buột miệng gọi: “A Mạch…”







“Tiên sinh,” A Mạch ngắt lời Từ Tĩnh, nói luôn: “Phó Duyệt chạy về hướng tây bắc, Mạc Hải đưa quân đuổi theo. Tàn quân của Thường Ngọc Thanh tuy từ phía nam chuyển sang phía tây, nhưng vừa rồi Thường Ngọc Thanh lại mang theo mười mấy thân vệ đi về phía tây bắc, không biết trước đó đã ước định với Phó Duyệt hay không, hay chỉ là trùng hợp.”







Từ Tĩnh thoáng trầm ngâm, nói: “Tuy Thường Ngọc Thanh vừa thất bại, nhưng không thể khinh thường, nhất là bọn Phó Duyệt, tiếng là mấy ngàn kỵ binh chạy trốn, nhưng gân cốt vẫn chưa hề bị tổn thương, nếu chúng thừa dịp đêm xuống mà quay lại đánh úp thì rất nguy hiểm.”







A Mạch gật đầu: “Ta cũng nghĩ vậy nên đã kêu Mạc Hải không truy sát Phó Duyệt nữa.”







Đang nói chuyện thì Trương Sinh đem binh truy kích Thường Ngọc Thanh quay về, nói: “Thường Ngọc Thanh đã mang theo Thường Ngọc Tông cùng mấy thân vệ vượt qua sông Tử Nha, hợp quân cùng kỵ binh của Phó Duyệt, nhưng mấy người đuổi theo đám thân vệ của Thường Ngọc Thanh lại không ai còn giữ được mạng sống.”



Trương Sinh biết trong chuyện này Từ Tĩnh chắc chắn đã có dự liệu rồi nên không cảm thấy lo lắng, chỉ sợ A Mạch vì cái chết của Vương Thất mà nhất thời mất bình tĩnh, vẫn cố chấp truy kích Thường Ngọc Thanh đến cùng, như thế ngược lại có thể sẽ trúng kế của anh ta. Ai ngờ sắc mặt A Mạch vẫn bình tĩnh, suy nghĩ một lát rồi nói: “Kêu Mạc Hải phải cẩn thận, phái thám báo thăm dò bờ sông phía trước, chớ để trúng phục binh của Thường Ngọc Thanh.” A Mạch quay đầu lại nhìn Từ Tĩnh, lên tiếng dò hỏi: “Ngài nói đi? Tiên sinh.”







Từ Tĩnh cân nhắc một lát rồi nói: “Kêu Mạc Hải dùng binh sĩ của một doanh, cầm thật nhiều đuốc, giả như đại quân tiếp tục truy kích theo hướng tây, còn lại tìm một nơi ổn thỏa lặng lẽ dừng lại, đề phòng Thường Ngọc Thanh thừa dịp đêm đến tập kích doanh trại.”







A Mạch cũng hiểu được này kế rất tốt, liền cho lính liên lạc nhanh chóng đi truyền tin cho Mạc Hải. Trương Sinh thấy A Mạch và Từ Tĩnh còn có chuyện muốn nói, nên vội vàng tìm cớ lánh đi.







A Mạch quay lại nhìn Từ Tĩnh, nói: “Tiên sinh, một trận đối địch với Thường Ngọc Thanh chúng ta đã thoát hiểm, hiện giờ còn Tiêu Dực ở Ký Châu, không bằng ta thuận thế lấy luôn.”







Từ Tĩnh khẽ vuốt chòm râu, nói: “Ngươi có tính toán gì không?”







A Mạch thấy động tác quen thuộc này của Từ Tĩnh, liền biết ông ta đã có dự kiến trước, nên chỉ thản nhiên cười: “Thật ra ta vẫn chưa có dự tính gì, nhưng e là tiên sinh đã có diệu kế.”







Từ Tĩnh nghe A Mạch nói như thế cũng không tiếp tục làm ra vẻ huyễn hoặc nữa, cười cười nói: “Ngươi cho ta một vạn binh, ta thay ngươi đi Ký Châu một chuyến.”







A Mạch có chút nghi hoặc, hỏi: “Tiên sinh đây là…?”







Từ Tĩnh cười nói: “Nếu luận về dùng binh đánh giặc, lão phu không bằng ngươi, nhưng nếu luận về uốn ba tấc lưỡi, lão phu tự tin là hơn ngươi một bậc.”



Đối với mồm mép của Từ Tĩnh, A Mạch vốn vẫn bội phục. Lúc mới đến Thanh Châu gặp Thương Dịch Chi, nàng cùng lắm mới chỉ đi thay đổi xiêm y, vậy mà khi quay lại thì Thương Dịch Chi đã tôn Từ Tĩnh lên làm thượng khách. Còn khi ở Dự Châu, chỉ nhờ vào một phong thư, Từ Tĩnh có thể khiến cho Thạch Đạt Xuân vứt bỏ cả danh dự bản thân mà đi theo địch làm nội ứng… A Mạch không khỏi mỉm cười, hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh muốn lễ trước binh sau với Tiêu Dực? Một vạn binh hơi ít, ta sẽ cấp cho tiên sinh hai vạn nhé.”











Từ Tĩnh vuốt râu, lắc đầu nói: “Không cần, không cần, Ký Châu không thể cường đoạt, chỉ có thể dùng trí.”



A Mạch nghe xong càng cảm thấy hứng thú, liền hỏi: “Tiên sinh dùng trí như thế nào?”







Từ Tĩnh trả lời: “Ta muốn tặng lễ vật cho Tiêu Dực!”







“Tặng lễ vật?” A Mạch ngạc nhiên nói.



Từ Tĩnh cười ha ha, đáp: “Không sai, đúng là tặng lễ, hơn nữa không chỉ tặng, mà còn phải là lễ vật hậu hĩ, chỉ cần phần hậu lễ này treo trên người của Tiêu Dực thì ta sẽ khiến ông ta không còn hơi sức đâu mà tiếp tục cứng đầu nữa!”







Từ lâu, triều đình Nam Hạ đối với vùng Giang Bắc đã là có lòng mà không có sức. Tuy Tiêu Dực là thuộc hạ của Thương Duy lão tướng quân, nhưng không ai đo được lòng người. hiện giờ Thương Dịch Chi lại đang âm thầm tiếm quyền vào thời điểm nguy cấp, vào lúc mấu chốt này cần phải khiến cho Ký Châu bày tỏ rõ quan điểm của mình. Một khi Tiếu Dực quay lưng bán đứng việc này cho hoàng đế, Thương Dịch Chi dù có lòng cũng đành phó mặc, anh ta không phải là người vì con rận mà đốt cả tấm áo da.







Kể từ đó, Tiêu Dực giữ chặt Ký Châu, chỉ ung dung chờ xem hoàng quyền ở Giang Nam sẽ rơi vào tay ai. Nếu rơi vào tay Thương Dịch Chi, Tiếu Dực đương nhiên sẽ ngoan ngoãn nghe theo sự sếp đặt của Thương Dịch Chi, nhưng nếu quyền lực vẫn do hoàng đế nắm chặt trong tay, thì Tiếu Dực sẽ trở thành mối họa lớn sau lưng quân Giang Bắc.







Nay trong thành, Tiếu Dực đang ngồi vững chắc, thảnh thơi, cũng thực bình tĩnh.



Hiện giờ, điều mà Từ Tĩnh muốn làm chính là túm lấy ông ta, không để cho ông ta ngồi yên ổn trong thành, mà phải lựa chọn một bên để theo. Có Thương Dịch Chi ngấm ngầm kéo xuống, Tiếu Dực sẽ không thể nhảy được sang phía bên kia!







A Mạch cân nhắc một chút liền hiểu được ý tứ của Từ Tĩnh, lập tức nói: “Được, ta sẽ cho Mạc Hải cùng tiên sinh đi tặng lễ vật.”







Từ Tĩnh gật đầu tán thưởng, do dự một lát, sau lại khuyên A Mạch: “Là chiến tướng, chết trên sa trường là chuyện bình thường, chớ nên vì thế mà bị kích động, rối loạn tinh thần. Thường Ngọc Thanh sớm thành danh từ khi còn trẻ, quả thật là một tướng tài. Đối đãi với người này, không được vội, không được nóng, không thể hoảng, không thể loạn. Không vội sẽ tránh được liều lĩnh, không nóng nảy sẽ tránh bị khích tướng, không hoảng hốt sẽ ổn định được đại quân, không loạn sẽ củng cố được trận địa. Chỉ có như thế, ngươi mới có thể khắc được anh ta, ngăn được anh ta, thắng được anh ta.”



Lần này, A Mạch không dám ngắt lời Từ Tĩnh, chăm chú lắng nghe, đợi Từ Tĩnh nói xong mới ngước mắt nhìn ông ta, mỉm cười nói: “A Mạch hiểu rồi, đa tạ tiên sinh chỉ bảo.”



Nụ cười của A Mạch rất điềm đạm, ôn hòa, Từ Tĩnh thấy vậy cũng nhẹ nhàng thở dài, vui buồn giận hờn không hiện lên mặt bất quá cũng không hơn được thế này! Từ Tĩnh suy nghĩ một lát rồi không tiếp tục khuyên can nữa.







A Mạch từ chỗ Từ Tĩnh đi ra, Lâm Mẫn Thận cùng Trương Sĩ Cường vẫn chờ bên ngoài. A Mạch biết Lâm Mẫn Thận võ công cao cường, tai thính mắt tinh, vừa rồi, những lời mình và Từ Tĩnh nói tất nhiên không thể dấu được anh ta, cũng chẳng e ngại mà hỏi thẳng: “Ngươi nghĩ tối nay Thường Ngọc Thanh có đánh úp doanh trại không?”



Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, đáp: “Ta không biết.”







A Mạch cũng cười nói: “Thường Ngọc Thanh người này tất chướng mắt với quân của Mạc Hải, nên nếu muốn đánh úp doanh trại chắc chắn sẽ đánh thẳng vào đại doanh của chúng ta.” Nàng nói xong, xoay người phân phó Trương Sĩ Cường: “Ngươi đi thông báo với Hắc Diện, Trương Sinh và Hạ Ngôn Chiêu, gọi mấy người đến trướng của ta ngay.”







Đám người Trương Sinh và Hắc Diện rất nhanh liền đến trướng của A Mạch. A Mạch nhìn sa bàn trước mặt đến xuất thần, nghe thấy có tiếng người tiến vào cũng không ngẩng đầu lên, chỉ vẫy bọn họ đến bên cạnh sa bàn, chỉ vào cột mốc trên sa bàn nói: “Đại quân chủ lực của Thường Ngọc Thanh đại bại, hiện đã chạy tán loạn qua núi Thúy Bình, không đủ gây họa. Nhưng mấy ngàn kỵ binh trong tay Phó Duyệt chỉ gặp tổn thất nhỏ, hiện đang từ từ tiến theo bờ tây sông Tử Nha, sẽ thành tai hoạ ngầm. Hiện giờ Thường Ngọc Thanh lại hợp cùng Phó Duyệt, người này vốn giỏi tập kích ban đêm, hiện lại có mấy ngàn tinh kỵ binh trong tay, sợ là sẽ không chịu ngồi yên.”







Hắc Diện đáp: “Vậy đem chiến xa tăng cường phòng thủ phía tây bắc được không?”



A Mạch ngẩng đầu nhìn anh ta, khẽ lắc đầu: “Không đủ, mấy trăm cỗ chiến xa kia không đủ để áp chế anh ta.” Nàng lại cúi đầu quan sát kỹ sa bàn, một lát sau liền chỉ vào hai con đường nhỏ nói: “Nếu Thường Ngọc Thanh đến, tất sẽ đi theo hai lối này, Hạ Ngôn Chiêu, ngươi chia binh làm hai hướng phục ở hai địa điểm này, nhanh lên.”







Hạ Ngôn Chiêu ôm quyền lĩnh mệnh, xoay người rời khỏi đại trướng đi sếp đặt binh mã. A Mạch lại hỏi Trương Sinh: “Chỗ ngươi còn bao nhiêu kỵ binh?”











“Hơn một ngàn bảy trăm người.” Trương Sinh đáp.







A Mạch suy nghĩ, nói: “Trước đem kỵ binh của cánh quân mới giao cho ngươi chỉ huy, hạ trại ở phía nam đợi lệnh, người không được cởi giáp, ngựa phải luôn sẵn sàng!”







Màn đêm buông xuống, đại doanh quân Giang Bắc đã thay đổi tuyến phòng ngự. Đầu tiên, Hắc Diện đem chiến xa tăng cường phòng ngự phía tây bắc, tiếp đó, hai cánh quân bộ binh chủ lực vô thanh vô tức rời khỏi đại doanh đi về hướng tây bắc. Còn Trương Sinh lĩnh kỵ binh đi về phía tây nam, cách đại doanh mười dặm, sẵn sàng đón địch.











Quân Giang Bắc chuẩn bị rất tốt việc đề phòng Thường Ngọc Thanh tập kích về đêm, chỉ có điều việc phán đoán phương hướng Thường Ngọc Thanh đánh lén lại có sai lệch…











Đầu giờ dần, bên ngoài đại doanh quân Giang Bắc đột nhiên truyền đến tiếng trống cảnh báo.







A Mạch một thân giáp trụ chỉnh tề, chỉ tựa vào bên giường chợp mắt, nghe tiếng trống lập tức bừng tỉnh, nghiêng tai lắng nghe, phát hiện tiếng trống truyền đến từ phía đông nam. A Mạch rùng mình, vội ngồi dậy, lấy bội đao chạy ra ngoài.







Bên ngoài đèn đuốc sáng trưng, binh lính các doanh đã có phản ứng. Lâm Mẫn Thận, Trương Sĩ Cường cũng từ trong trướng của mình chạy tới, nhìn thấy A Mạch đi ra, Lâm Mẫn Thận không khỏi hỏi: “Thanh âm là từ phía đông nam, xảy ra chuyện gì rồi?”



A Mạch không để ý tới câu hỏi của Lâm Mẫn Thận, mà quay lại trầm giọng phân phó Trương Sĩ Cường: “Lệnh cho Hắc Diện vẫn phòng thủ chặt ở phía tây bắc như trước, tránh trúng kế dương đông kích tây của Thường Ngọc Thanh. Đồng thời truyền lệnh cho Trương Sinh, đưa quân chạy tới phía đông nam quan sát kỹ, bảo đảm an toàn cho đại doanh .”



Trương Sĩ Cường lĩnh mệnh mà đi. Một lát sau, Từ Tĩnh cũng chạy đến, lại có khoái mã thám báo chạy về bẩm báo với A Mạch: “Phía đông nam đại doanh phát hiện có đại đội kỵ binh của thát tử đang giao chiến với một đội binh mã trông rất tạp nham, các phía còn lại không thấy sự xuất hiện của quân địch.”



Mọi người nghe xong đều sửng sốt, ngay cả A Mạch cũng không khỏi cảm thất kỳ quái, vội hỏi thám báo: “Binh mã nào?”







Thám báo đáp: “Cũng không rõ lắm, hình như là người của chúng ta, nhưng cách ăn mặc lại không thống nhất, binh khí cũng không phải loại được chế tạo theo hình thức trong quân.”







A Mạch chần chờ hỏi Từ Tĩnh: “Không phải là binh mã Ký Châu của Tiếu Dực giả trang đấy chứ?”



Từ Tĩnh chậm rãi lắc đầu: “Không thể.”







A Mạch hơi hơi mím môi, suy nghĩ xoay chuyển rất nhanh trong đầu. Kỵ binh Bắc Mạc từ phía đông nam đến, hiển nhiên là muốn tập kích doanh trại, đột nhiên lại xuất hiện một đội binh mã ngăn cản bọn họ… Rốt cuộc đội binh mã này là địch hay là bạn? Liệu đây có phải thủ thuật che mắt của  Thường Ngọc Thanh, cố ý khiến cho quân Giang Bắc phải xuất quân nghênh chiến không?







A Mạch quay đầu lại dặn dò thám báo: “Nói với Trương Sinh, trước mắt không cần tham chiến, chỉ cần chiếm cứ địa hình có lợi theo dõi từ xa, chớ trúng kế dụ binh của thát tử!”







Thám báo vâng lệnh liền giục ngựa rời đi.







A Mạch trong lúc vô tình quét nhìn mọi người, thấy ngoại trừ Từ Tĩnh vẫn mặc thường phục, còn lại, tất cả mọi người đều giáp trụ chỉnh tề, đều một dáng vẻ như lâm đại địch. A Mạch không khỏi mỉm cười, nói với Từ Tĩnh: “Tiên sinh, chi bằng chúng ta về trướng đợi tin, ngài thấy thế nào?”







Từ Tĩnh cười cười đi theo A Mạch vào đại trướng. Mọi người cùng ở trong trướng đợi tin tức, thỉnh thoảng lại có thám báo quay về báo diễn biến ở chiến trường đông nam, không ngoài những tin như: “Trương tướng quân đã chiếm được địa hình có lợi, đưa đại quân Giang Bắc ẩn dấu ở đó”,“Kỵ binh thát tử đã rơi vào thế bại trận” ,vv…







Mọi người lại chờ một lát, bên ngoài, sắc trời đã bắt đầu tờ mờ sáng, lại có thám báo vào trướng hồi báo tình hình chiến trận: “Trương tướng quân đã đem binh sát nhập hỗn chiến, truy kích kỵ binh thát tử.”







A Mạch nhíu mày, thầm nghĩ lần này Trương Sinh đã có chút xúc động, nếu chiến cục kia là bố trí của Thường Ngọc Thanh, sợ là Trương Sinh sẽ  bị thiệt thòi. A Mạch suy nghĩ một lát bèn thương lượng với Từ Tĩnh: “Tiên sinh, ngài ở đây trấn giữ đại dianh, ta dẫn người đi xem thế nào.”











Từ Tĩnh vuốt râu, gật đầu, A Mạch liền điểm chút binh mã ra khỏi doanh trại. Vừa mới ra khỏi doanh trại không xa, phía trước đã thấy khoái mã của thám báo hồi báo là Trương Sinh đại thắng, đích thân mang binh quay về. Chờ một lát, quả nhiên thấy Trương Sinh mang theo đại đội doanh kỵ trở về, cùng đi còn có một người nào đấy.




Trương Sinh và một người mặc áo xanh đen, trước hàng quân sóng vai mà đi. Từ xa trông thấy A Mạch đi đón vội lớn tiếng cười nói: “Đại nhân, người xem là ai đến đây!”



A Mạch nghe vậy liền nhìn phía sau Trương Sinh, nhất thời bất giác giật mình.


Chỉ thấy người nọ dáng người chính trực, khuôn mặt cương nghị, ánh mắt sáng ngời, thấy A Mạch nhìn mình cũng không hề kích động, khi đến gần mới nhìn A Mạch cười cười, khẽ gọi: “A Mạch!”



A Mạch phục hồi lại tinh thần, không biết vì sao trong mắt đột nhiên lại cảm thấy có chút nóng lên, gắng gượng nở nụ cười, kêu lên: “Đại ca.”



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

129#
 Tác giả| Đăng lúc 5-10-2012 18:48:13 | Chỉ xem của tác giả
Chương 120

CỐ NHÂN


Edit: hein Nguyen

Beta: Mẹ Cún




Trương Sinh đứng bên cạnh cười giải thích: “Đến lúc trời sắp sáng mới nhận ra là Đường tướng quân, lúc này mới vội đến hỗ trợ, ai ngờ vẫn chậm một bước, kỵ binh thát tử đều đã bị Đường tướng quân dẫn người chia nhỏ ra rồi vây đánh, ta chỉ phải đứng bên cạnh xem náo nhiệt mà thôi.”







Đường Thiệu Nghĩa cũng cười nói: “May mà có Trương Sinh, bằng không ta nhất định sẽ để không ít thát tử trốn thoát, dùng bộ binh chống lại kỵ binh mặc dù thắng cũng phải chịu tổn thất ít nhiều.”







Đang nói chuyện, thì phía sau xuất hiện một con ngựa chạy như bay tới, lập tức một hán tử cường tráng chừng ngoài ba mươi tuổi, coi như không thấy đám người A Mạch và Trương Sinh, mà hướng thẳng về phía Đường Thiệu Nghĩa bẩm báo: “Đường nhị gia, đã kiểm kê xong nhân số của thát tử, cả sống và chết tất cả vừa tròn chín trăm tám mươi hai người.”







“Một tiểu đoàn kỵ binh thát tử có một nghìn người, đây hẳn là một tiểu đoàn.”Đường Thiệu Nghĩa gật đầu nói, lại phân phó hán tử kia: “Ngươi giao hết tù binh thát tử cho quân Giang Bắc, sau đó đưa mọi người ra khỏi đại doanh quân Giang Bắc hạ trại chỉnh đốn, rồi phái người trở lại báo tin bình an cho Đại đương gia.”







Hán tử kia lên tiếng tuân mệnh rồi giục ngựa mà đi.







Trương Sinh muốn cố tình tránh đi để A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa có không gian nói chuyện, vô thức liếc mắt một cái nhìn Đường Thiệu Nghĩa, lại nhìn về phía A Mạch hỏi: “Đại nhân, ta đi xem xét một chút.”







A Mạch suy nghĩ rồi nói: “Cũng được, mọi người đều vất vả cả đêm rồi, ngươi đi xem xét, xử lý hoàn tất công việc sau trận đánh, rồi cho kỵ binh về đại doanh nghỉ ngơi, hồi phục.”







Trương Sinh lĩnh mệnh, chắp tay cáo từ Đường Thiệu Nghĩa, quay ngựa đi về phía đại đội kỵ binh.







A Mạch ghìm nhẹ dây cương, cho ngựa chạy chầm chậm cùng Đường Thiệu Nghĩa, khi đi ngang qua Lâm Mẫn Thận, Đường Thiệu Nghĩa thấy có chút quen mặt, không khỏi đưa mắt nhìn mấy lần, trong đáy mắt lóe lên một tia nghi hoặc.







A Mạch thấy vậy, liền dặn dò Lâm Mẫn Thận: “Mục Bạch, người về doanh trước báo tin cho Từ tiên sinh, nói…”







“Đại nhân.”Lâm Mẫn Thận cắt lời A Mạch, tựa cười tựa không liếc nhìn Đường Thiệu Nghĩa, sau đó chậm rãi kéo hai góc áo bào, vê thành hai cục nhét vào tai, lúc này mới nói thêm: “Ngài vừa nói cái gì? Hôm nay gió lớn quá, ta không nghe rõ.”







A Mạch nhướn mày, khẽ biến sắc, lại bị Đường Thiệu Nghĩa bên cạnh ngăn lại, cười khuyên nhủ: “Đã không nghe được thì thôi vậy.”







Lâm Mẫn Thận nói tiếp: “Đúng vậy, đúng vậy, nói gì cũng không nghe được.”







Đường Thiệu Nghĩa có chút dở khóc dở cười, lại nghe thấy Lâm Mẫn Thận nghiêm túc nhìn A Mạch nói: “Ta là thân vệ của đại nhân, đương nhiên là muốn để đại nhân ở vị trí an toàn, bảo vệ đại nhân cũng chính là bảo vệ tiền đồ của ta, mong đại nhân lượng thứ.”







A Mạch mấp máy miệng, cuối cùng lại không nói gì. Bên cạnh, Đường Thiệu Nghĩa cười cười, không thèm để ý, giục ngựa đi lên phía trước. A Mạch hung hăng trừng mắt liếc Lâm Mẫn Thận một cái, hai chân khẽ kẹp bụng ngựa đuổi theo. Hai người yên lặng một lát, lúc này A Mạch mới làm ra vẻ tùy ý hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, huynh từ nơi nào… lạc bước đến đây?”







Đường Thiệu Nghĩa liếc mắt nhìn A Mạch một cái, khóe miệng hơi cong lên, cười hỏi: “Ý ngươi muốn hỏi là ta từ đâu đến phải không?”







A Mạch nghe vậy thì có chút ngượng ngùng, nhếch miệng cuời cười.







Đường Thiệu Nghĩa nói: “Lần đó nghe ngươi nói trên núi Vân Vụ phía tây Thanh Châu có một nhóm thổ phỉ, ta đã hỏi rất nhiều người nhưng cũng không tìm được núi Vân Vụ, nhưng thật ra lại có núi Đôi Vân, ta lên đó rồi, nhưng cũng không tìm được bọn thổ phỉ như ngươi nói.”Đường Thiệu Nghĩa dừng lại, liếc mắt nhìn A Mạch, lại cười, nói tiếp: “Về sau hỏi dân bản xứ mới biết được hang ổ bọn cường đạo đều ở  Nam Thái Hành, nên cứ nhằm thẳng hướng Nam Thái Hành mà đi…”







Lúc đó, anh ta cứ tưởng A Mạch trí nhớ kém, đâu biết cái gọi là núi Vân Vụ chẳng qua là do A Mạch thuận miệng bịa ra mà thôi.







Nam Thái Hành vốn nổi tiếng là hang ổ cường đạo, sau khi thát tử tấn công chiếm đóng Tĩnh Dương, Giang Bắc lại rơi vào chiến loạn, dân chúng lầm than, vì thế Nam Thái Hành lại càng nhiều thổ phỉ. Ở đây nổi danh với mười tám đầu lĩnh thổ phỉ, trong đó lớn nhất là một đầu lĩnh mà trong tay có hơn một ngàn quân, tự xưng là “Chiêm sơn vương”, hắn vốn có dự tính thu phục tất cả thổ phỉ ở Nam Thái Hành, sau đó thừa dịp loạn thế giành giật vùng Trung Nguyên, cũng có chút thành tích.







Đường Thiệu Nghĩa tiến vào Nam Thái Hành, đúng lúc “Chiêm Sơn Vương”đang hừng hực khí thế tiến hành sự nghiệp chinh phạt, mười tám sơn trại thì đã có mười ba trại bị hắn đánh hạ, chỉ còn lại Tức gia ở Thanh Phong Trại cùng với mấy sơn trại nhỏ đang khốn khổ chống đỡ. Đường Thiệu Nghĩa suy nghĩ, thấy không nên loại bỏ “Chiêm Sơn Vương”vội, mà một mình đến Thanh Phong Trại. Ban đầu chỉ lặng lẽ không ai biết đến, về sau, khi “Chiêm Sơn Vương”lại tấn công Thanh Phong Trại, Đường Thiệu Nghĩa chiến thắng như dự tính, chỉ dùng hơn chục người liền đánh lui mấy trăm thổ phỉ của “Chiêm Sơn Vương”, chém đầu Chiêm Sơn Vương, mang đến trước mặt Tức Phong, Đại đương gia của Thanh Phong Trại…







Ngữ điệu Đường Thiệu Nghĩa trầm ổn, chậm rãi đem chuyện cũ của mình từ một năm trước kể lại mà như thể đang kể chuyện của người khác. A Mạch nghe những lời nói bình thản của anh ta mà nhất thời cảm thấy trong lòng chấn động. Thời gian chưa đến một năm, từ một người mới đến thành một Nhị đương gia của Thanh Phong Trại, một trại thổ phỉ lớn nhất Nam Thái Hành, trong quá trình đó có thể tưởng tượng được có biết bao nhiêu gian khổ và hiểm nguy.







Đường Thiệu Nghĩa nói tiếp: “Về sau đem hơn mười sơn trại tại Nam Thái Hành tập hợp lại, nhưng trước đó Tức Phong đã bị nội thương, cố chịu đựng đến lúc sức tàn lực kiệt, trước khi lâm chung liền đem sơn trại giao phó cho ta. Ta cũng nói rõ với ông ta rằng ta vào rừng làm cướp là vì muốn chiêu binh mãi mã chống lại thát tử. Tức Phong tuy lỗ mãng nhưng cũng xứng với hai chữ hảo hán, chẳng những tán thành cho ta mang theo sơn trại chống lại thát tử, còn đem ngân lượng tích cóp được trong nhiều năm của Thanh Phong Trại giao cả lại cho ta nuôi quân, còn phong ta làm Nhị đương gia của Thanh Phong Trại. Vài ngày trước, ta nghe nói đại quân thát tử tấn công Thanh Châu, liền muốn đến giúp ngươi một tay, gấp rút đuổi theo nhưng cũng không thể tới kịp trận đại chiến hôm qua, song cũng không ngờ lại gặp được đội kỵ binh của thát tử đến tập kích doanh trại.”







A Mạch vẫn trầm mặc, trong lòng đang suy nghĩ nếu Tức Phong đã đem trại Thanh Phong Trại giao phó cho Đường Thiệu Nghĩa, sao Đường Thiệu Nghĩa vẫn chỉ là Nhị đương gia? Thế thì Đại vương gia là ai? A Mạch hơi mím môi, nhưng vẫn không hỏi ẩn tình trong đó.







Đường Thiệu Nghĩa nói chuyện không nhiều, kể xong những chuyện này cũng không biết phải nói gì, hai người nhất thời không khỏi đều có chút trầm mặc. Đội thân vệ đều rớt lại phía sau một đoạn, phía trước chỉ có hai người, đột nhiên trở nên yên lặng như vậy khiến bầu không khí liền có chút xấu hổ. Cổng doanh trại đã hiện ra trước mặt, A Mạch vẫn cúi đầu im lặng, cuối cùng ngẩng lên nhìn Đường Thiệu Nghĩa hỏi: “Đại ca còn giận ta không? Ta…”







A Mạch mở miệng nhưng lại không nói được.







Đường Thiệu Nghĩa im lặng trong chốc lát, thần thái bình tĩnh đáp: “A Mạch, ngươi làm tốt hơn ta rất nhiều.”







A Mạch khẽ giật mình, lập tức liền nở nụ cười nhẹ nhõm, nàng thúc ngựa vượt lên trước vài bước, sau đó giơ roi chỉ vào đại doanh quân Giang Bắc nhấp nhô nối liền nhau phía trước, cười nói: “Đại ca xem, đây chính là quân Giang Bắc trong tay ta, Thường Ngọc Thanh tuy rằng có mấy vạn kỵ binh tinh nhuệ, há có thể làm khó dễ được ta sao?”







Đường Thiệu Nghĩa khẽ mỉm cười, đón tia nắng ban mai nhìn về phía A Mạch, cánh tay nàng nâng lên vững vàng, thắt lưng ngồi thẳng tắp, ánh mắt lộ ra thần sắc kiêu hãnh, ngay cả giọng nói cũng toát lên sự hào hứng và tiêu sái: “Ta, trước có Thanh Châu cản mũi thát tử, sau có Ký Châu làm hậu thuẫn, còn phải e ngại thát tử sao? Chỉ cần vài năm nữa, ta có thể đuổi thát tử ra khỏi Tĩnh Dương, thu hồi lại Giang Bắc.”







Mọi người ở trong doanh trại nhận được tin, sớm đã chờ ở ngoài cổng doanh trại, thấy Phiêu Kị tướng quân, Tả phó tướng quân Giang Bắc ngày nào cuối cùng lại vào rừng làm cướp, không khỏi đều có chút ca thán, cùng Đường Thiệu Nghĩa hàn huyên vài câu, sau đó cùng anh ta và A Mạch đi vào lều chủ soái.







Trong lều, Đường Thiệu Nghĩa cung kính hướng Từ Tĩnh hành lễ mà chào: “Từ tiên sinh.”







Từ Tĩnh mỉm quan sát Đường Thiệu Nghĩa một lát, lúc này mới nói: “Đường tướng quân, đã lâu không gặp.”







Về phía các tướng lĩnh, A Mạch đơn giản nói chuyện Đường Thiệu Nghĩa mang binh đến viện trợ, đúng lúc gặp kỵ binh thát tử tập kích, mọi người nghe xong ai cũng đều than lên một tiếng ‘nguy hiểm’, không ai nghĩ Thường Ngọc Thanh lại không hề động tĩnh gì ở hướng Tây Bắc, mà kỵ binh thát tử lại đến từ phía Đông Nam. Một lúc sau, Trương Sinh hoàn tất việc bàn giao đội ngũ cho Thanh Phong Trại liền  trở về phục mệnh. Lý Thiếu Hướng nghe nói toàn bộ một doanh kỵ binh thát tử bị tiêu diệt, liền có chút không đợi được, ánh mắt hăng hái hướng về phía màn trướng đang lay động trong gió. A Mạch sao lại không nhìn thấy tâm tư của anh ta, liền cho tất cả mọi người ra ngoài, chỉ lưu lại anh ta ở trong trướng.







Trong lòng Lý Thiếu Hướng vô cùng sốt ruột, nhưng Đường Thiệu Nghĩa đang ở trong trướng nên cũng không dám nói rõ, không thể làm gì khác hơn đành đưa mắt làm ám thị cho A Mạch rằng: ‘Nếu muộn một bước, trang bị kỵ binh thát tử đều rơi tay thổ phỉ Thanh Phong Trại a.’







A Mạch làm như không thấy ám thị của Lý Thiếu Hướng. Về sau, Lý Thiếu Hướng rõ ràng cũng hết hy vọng, cúi đầu nghe A Mạch cùng Từ Tĩnh thương lượng làm cách nào để  “tặng lễ”cho Tiếu Dực ở Ký Châu. Đúng lúc đó, Phó tướng quân Giang Bắc Mạc Hải cho người đưa tin tới, nói đêm qua kỵ binh của Phó Duyệt quả nhiên chia binh lực âm thầm vượt sông Tử Nha đánh lén quân ta, may mà phần lớn quân ta đã hạ trại đóng quân từ trước, chỉ có bộ binh doanh truy kích phía trước bị thát tử lầm tưởng là quân chủ lực Giang Bắc, lọt vào ổ phục kích nên bị tổn thất nghiêm trọng. Kỵ binh thát tử đồng loạt rời khỏi, sáng nay đã đi rất nhanh về hướng Tây, giờ xin chỉ thị của A Mạch có tiếp tục truy đuổi nữa hay không.







A Mạch dặn dò tên lính liên lạc: “Nói với Mạc Hải không cần để ý tới thát tử, chỉnh đốn binh mã xong thì quay về.”Nói xong quay đầu hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh, ta cho Mạc Hải đưa ngài đến Ký Châu, được chứ?”







Từ Tĩnh vuốt vuốt râu, gật đầu nói: “Được.”







A Mạch lại quay lại phân phó Lý Thiếu Hướng: “Ngươi đem tất cả chiến mã của thát tử bắt được hôm qua giao cho Mạc Hải làm lễ vật tặng cho Tiếu Dực.”







Lý Thiếu Hướng nghe vậy liền giãy nảy lên: “Như vậy sao được, chúng ta rất thiếu chiến mã! Sao có thể tặng cho Tiếu Dực? Hơn nữa…”







“Ngươi nuôi được sao?”A Mạch đột nhiên hỏi, cắt lời Lý Thiếu Hướng.







“Hả?”Lý Thiếu Hướng sửng sốt, giương miệng đang muốn trả lời, A Mạch lại lặp lại một lần nữa: “Ta hỏi ngươi hiện giờ lấy gì để nuôi chiến mã?”







Lý Thiếu Hướng lập tức ủ rũ nhìn xuống, nheo mắt chớp chớp mấy cái, tuy nhìn A Mạch nói không nên lời, nhưng rõ ràng là không cam lòng.







A Mạch cùng Từ Tĩnh nhìn nhau, cùng nở nụ cười, nói với Lý Thiếu Hướng: “Ngươi yên tâm, ngươi đem tặng bao nhiêu chiến mã, thì Tiếu Dực cũng sẽ phải hoàn lại không thiếu cho ngươi, ngoài ra cũng không thiếu phần lương thực của ngươi.”







Lý Thiếu Hướng hồ đồ, nghi hoặc nhìn A Mạch, lại nhìn  Từ Tĩnh. Từ Tĩnh liếc mắt xem thường, tức giận nói: “Được rồi! Nhất định sẽ khiến ngươi ăn không hết!”







Từ Tĩnh mang Lý Thiếu Hướng đi ra ngoài chuẩn bị đi Ký Châu, trong trướng chỉ còn lại A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa. A Mạch trầm mặc trong chốc lát, rồi hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa nói: “Đại ca….” Nàng còn chưa dứt lời Đường Thiệu Nghĩa đã cắt ngang: “Ta về Thanh Phong Trại.” A Mạch có chút im lặng, sau đó lập tức lại cười sảng khoái nói: “Được! Ta đưa đại ca ra khỏi doanh trại.”







Đường Thiệu Nghĩa nhìn A Mạch, môi mấp máy mấy lần, muốn nói lại thôi, cuối cùng cũng là không nói gì.







Một mình A Mạch đưa Đường Thiệu Nghĩa ra khỏi doanh trại, trên đường, hai người đều trầm mặc không nói gì, mãi đến lúc sắp chia tay mới nghe Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên lên tiếng gọi nàng: “A Mạch.”







A Mạch nghe vậy ngẩng đầu nhìn Đường Thiệu Nghĩa nhàn nhạt cười, hỏi: “Đại ca, chuyện gì?”







Đường Thiệu Nghĩa cũng không nhìn A Mạch, đưa tầm mắt chuyển hướng nhìn dãy lều trại dựng tạm của đội ngũ Thanh Phong Trại phía xa xa, chậm rãi nói: “Bọn họ đều quen tự do, sống phân tán, từ xưa đối với quan binh vốn có nhiều khúc mắc, hiện giờ chưa thích hợp để nhập vào trong quân.”







Trong lòng A Mạch vừa thấy áy náy lại vừa cảm động, trong khoảng thời gian ngắn cũng không biết nói gì cho phải, cúi đầu trầm mặc một lúc mới nói: “Đại ca, có một số việc ta đã làm, nói thêm nữa cũng là vô dụng, chỉ có một câu có thể nói với đại ca, A Mạch chắc chắc sẽ đuổi thát tử ra khỏi Tĩnh Dương.”







Trên mặt Đường Thiệu Nghĩa lộ ra nụ cười ôn hòa, hiền hậu, quay lại nhìn A Mạch, đưa cánh tay phải về phía nàng, A Mạch hơi mím môi, có chút ngập ngừng đưa tay ra nắm lấy bàn tay của anh ta. Đầu ngón tay của Đường Thiệu Nghĩa hơi run rẩy, nắm chặt lấy bàn tay của A Mạch, thấp giọng hỏi: “A Mạch, ngươi còn nhớ rõ câu nói ở ngoài thành Thái Hưng chứ?”







A Mạch giật mình, gật đầu: “Nhớ rõ, ta nói, chúng ta nhất định phải còn sống.”







Đường Thiệu Nghĩa nở nụ cười: “Tốt lắm, chúng ta nhất định phải còn sống!”







Anh ta dùng sức nắm chặt bàn tay A Mạch, tầm mắt nhìn thẳng trên mặt A Mạch mấy lần mới chậm rãi buông lỏng tay ra, hướng về phía A Mạch cười sáng lạn, sau đó quay người, giục ngựa tiến lên phía trước, phi thẳng ra hơn mười trượng mới nhẹ nhàng ghìm dây cương, cũng không xoay người lại nhìn A Mạch, chỉ đơn giản là dừng lại, rồi sau đó liền giục ngựa phóng về phía trước.







Đội quân Mạc Hải đã về, A Mạch lệnh cho anh ta trực tiếp lĩnh một vạn binh cùng Từ Tĩnh đến Ký Châu, số còn lại sẽ do nàng đưa về Thanh Châu.







Trong thành Thanh Châu sớm đã nghe được tin chiến thắng của quân Giang Bắc, Tả phó tướng quân Giang Bắc Tiết Vũ ẩn náu trong thành, trước thì mang binh khống chế bốn cửa thành Thanh Châu, ổn định tình hình trong thành, sau mở cửa thành nghênh đón A Mạch.







Một trận này mặc dù binh lực quân Giang Bắc có chút tổn hại, song lại đánh tan được mấy vạn kỵ binh trang bị đầy đủ của Thường Ngọc Thanh, có thể nói là đại thắng, sĩ khí toàn quân trên dưới đều lên cao. Đồng thời, do trong thành Tiết Vũ đã phái người tán thưởng quân Giang Bắc khắp nơi, đó là quân Giang Bắc vì sợ dân chúng trong thành phải chịu thương vong mà cố ý đem chiến trường dời ra ngoài thành, vì thế nên những hoang mang, áp lực nhiều ngày qua của dân chúng thành Thanh Châu đối với quân Giang Bắc nhất thời đều chuyển thành nhiệt tình. Mấy vạn bách tính reo hò khắp các nẻo đường chào đón đại quân Giang Bắc vào thành, khiến cho chư tướng quân Giang Bắc quả thực được một phen thỏa chí làm anh hùng đến phát nghiện, không khỏi trên mặt mỗi người đều tăng thêm vài phần hưng phấn cùng kích động.







Chỉ có khuôn mặt A Mạch vẫn như thường ngày, bình thản, trong trẻo nhưng lạnh lùng, thậm chí ngay cả khi khóe miệng hơi cong lên nhưng trong đáy mắt vẫn không thấy một tia vui sướng. Cùng lắm mới chỉ qua hai, ba ngày chiến tranh, trong thành Thanh Châu đã đổ nát không ít, cửa hàng hai bên ngã tư đường đều đã bị người dân phá hỏng trong lúc hỗn loạn, có mấy cửa hàng bên trong đã bị loạn dân đánh cướp hết sạch. Mặc dù vậy, dân chúng trong thành đối với quân Giang Bắc vẫn là cảm động đến rơi nước mắt, bởi vì quân Giang Bắc đã bảo vệ thành Thanh Châu, giúp bọn họ tránh được sự tàn phá của chiến tranh, tránh được cảnh thát tử cướp bóc, tránh được nỗi khổ lang bạt đầu đường, xó chợ… Cái bọn họ cần chẳng qua chỉ là cầu cho có cơm ăn, có áo mặc, có nhà ở!







Trong đám người quỳ sát bên đường ấy, có một đứa trẻ chừng năm, sáu tuổi, lén ngẩng đầu tò mò quan sát đội quân uy vũ, oai phong, trong mắt tràn đầy sự sùng bái cùng kính sợ… Tầm mắt A Mạch chậm rãi đảo qua ngã tư hai bên đường, cảm giác trong lòng vô cùng phức tạp, những bách tính quỳ sát mặt đất đang cảm động đến rơi nước mắt này có biết rằng khi nàng đưa binh ra khỏi thành Thanh Châu, kỳ thật là muốn bỏ lại thành Thanh Châu, muốn…bỏ rơi bọn họ?

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

130#
 Tác giả| Đăng lúc 5-10-2012 18:57:34 | Chỉ xem của tác giả
Chương 121

XƯNG SOÁI




Chỉ một trận chiến ở Thanh Châu, A Mạch liền nổi danh.



Quân Giang Bắc tổng cộng tiêu diệt được hơn hai vạn quân Bắc Mạc, khiến cho “Sát tướng” Bắc Mạc Thường Ngọc Thanh phải lui về trấn giữ Võ An, nhất thời không thể tiếp tục tấn công Thanh Châu. Cùng lúc đó, chủ tướng quân Giang Bắc Mạch Tuệ, người vốn bắt đầu binh nghiệp chỉ là một tên lính quèn, cuối cùng dựa vào mỗi trận chiến đều giành được thắng lợi, thành tích vang dội hiếm có mà được liệt vào hàng danh tướng tứ quốc.



Trong thành phủ Thanh Châu, theo sự căn dặn từ trước của A Mạch, linh đường đã được chuẩn bị để làm lễ tế cho năm ngàn bảy trăm hai mươi chín tướng sĩ đã hy sinh trong trận đánh, bài vị vẫn còn chưa khô nét mực bầy đầy cả ba gian phòng. A Mạch phá lệ mặc quần áo trắng, thủ giữ linh đường trong ba đêm.



Đợi cho đến sáng sớm ngày thứ tư, A Mạch một mình rời khỏi linh đường, vừa mới đi đến một ngõ nhỏ liền thấy Lâm Mẫn Thận đang chờ ở phía trước cách đó không xa. “Ngươi quả thực không nên thủ giữ ở đó ba đêm,” Lâm Mẫn Thận khẽ cười nói, “Ngươi nhìn những người cùng gác đêm trong đó xem, có ai râu ria không mọc lởm chởm trên mặt như gốc rạ không? Chỉ có ngươi là da mặt vẫn bóng loáng như lúc ban đầu, ngươi chẳng lẽ không sợ bị người có tâm nhận ra sao!”



A Mạch sao lại không biết tính nết Lâm Mẫn Thận, nói năng khó nghe chẳng qua vì trong lòng chất chứa nỗi ấm ức mà thôi! Anh ta thân là con cháu quan lại, tòng quân chẳng qua vì muốn lấy được chút quân công, ai ngờ Thương Dịch Chi lại an bài anh ta làm thân vệ, quân Giang Bắc đã đánh thắng nhiều trận như vậy, nhưng bản thân anh ta đến một chút quân công cũng không có, khó tránh khỏi ăn nói chua ngoa.



A Mạch vẫn không dừng bước, nhìn phía trước không chớp mắt mà đi qua trước mặt Lâm Mẫn Thận. Thái độ coi thường này của nàng khiến cho Lâm Mẫn Thận tức giận, không chút suy nghĩ liền nhanh chóng đưa tay nắm lấy bả vai A Mạch. A Mạch không tránh né, mặc kệ cho anh ta khống chế vai mình, chỉ quay đầu lại nhìn anh ta, hờ hững nói: “Nếu thực sự là người có tâm, sẽ chỉ nhìn thấy năm ngàn bảy trăm hai mươi chín bài vị trong linh đường, sẽ không đưa ánh mắt đặt lên da mặt của ta!”



Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, ngay sau đó mỉa mai nói: “Ngươi chăng qua là muốn lôi kéo lòng người! Ngươi thắng trận như vậy, trong lòng không biết còn có bao nhiêu cao hứng, cũng không nên làm bộ làm tịch như thế, chẳng lẽ trước đây đánh giặc không có ai chết hay sao? Cũng không thấy ngươi…”



“Ta chính là muốn lôi kéo lòng người đấy!” A Mạch nói tiếp, rồi hỏi vặn lại Lâm Mẫn Thận: “Thế thì sao?”



Đến thế thì Lâm Mẫn Thận cũng phải nghẹn giọng, đúng lúc ngươi đang tích cóp những lời ngoan độc, đang chuẩn bị để chỉ trích kẻ khác là vô liêm sỉ, nhưng trước khi ngươi kịp chỉ trích thì kẻ đó đã “Dũng cảm” thừa nhận mình là kẻ vô liêm sỉ, ngươi ngoài việc tức đến nghẹn thở thì còn làm được gì nào?



A Mạch thấy Lâm Mẫn Thận như thế, lại cố ý chọc giận anh ta: “Ngươi cũng chỉ có thể đỏ mặt tía tai mà thôi, ai bảo ngươi hiện giờ lại chỉ là một thân vệ của ta! Nếu Thương Dịch Chi cho ngươi mai danh ẩn tích đến làm một tên thân vệ nhỏ bé, cũng sẽ không tính toàn để cho Lâm Mẫn Thận ngươi lập được quân công, ngươi sẽ cam tâm sao? Không cam tâm thì làm được gì? Nếu Lâm gia của ngươi đã lựa chọn làm ngoại thích(1), thì anh ta sao có thể để ngươi nắm binh quyền trong tay?” Nói tới đây, A Mạch dừng lại, khóe môi khẽ nhếch lên, mỉa mai nói: “Ta thấy ngươi vẫn nên ít buồn phiền thôi, cứ thành thật mà chờ làm anh vợ của hoàng đế đi!”



Lâm Mẫn Thận buông lỏng tay ra, yên lặng không nói gì nhìn A Mạch, trong mắt âm ỷ lửa giận. A Mạch cười nhạo một tiếng, xoay người bước đi, được vài bước lại dừng lại, hướng về phía Lâm Mẫn Thận lạnh giọng nói: “Chỉ có điều, ngươi cũng phải cảm tạ anh ta phái ngươi đến đây làm thân vệ, nếu không, e là ngươi đã chết ở trong tay ta rồi.”



A Mạch nói xong liền đi, chỉ vừa mới ra khỏi ngõ đã nghe thấy phía sau truyền đến một tiếng“Ầm”, hình như có thứ gì va rất mạnh vào tường. Đúng lúc đó, Trương Sĩ Cường từ phía đối diện A Mạch đang đi đến, nghe thấy tiếng động vội vàng hốt hoảng chạy tới, căng thẳng hỏi: “Đại nhân, xảy ra chuyện gì?” khóe miệng A Mạch khẽ cong lên, ngữ khí nhẹ nhàng nói: “Không có chuyện gì, có thể là Mục Bạch đi đường không nhìn, nên đập đầu vào đâu đó, ngươi qua đó xem thế nào.”



Trương Sĩ Cường kinh ngạc đưa mắt nhìn A Mạch, liền nghiêng người nhìn vào trong ngõ, quả nhiên thấy Lâm Mẫn Thận vẫn còn ở đó. Trương Sĩ Cường vội vàng chạy đến, thấy Lâm Mẫn Thận chỉ khoanh tay đứng đó, bức tường bên cạnh quả nhiên bị lõm một chỗ, xung quanh đều bị rạn nứt. Trương Sĩ Cường không khỏi hoảng sợ, lẩm bẩm nói: “Mục Bạch, đầu của ngươi… cứng thật!”



Ngày hai mươi mốt tháng tư, Từ Tĩnh từ Ký Châu trở về, ngoại trừ Mạc Hải và một vạn quân Giang Bắc đi cùng, còn có Tiếu Dực, thủ thành Ký Châu. Tiếu Dực ước chừng năm mươi tuổi, thân hình cao lớn, mặt rộng miệng vuông, vừa nhìn đã thấy là một người phóng khoáng, chính trực, lần đầu gặp A Mạch mặt liền nói thẳng: “Mạch tướng quân chớ vì chuyện trước đây mà giận tại hạ, vì tình hình Thịnh Đô bây giờ đang rất phức tạp, tại hạ chỉ sợ khiến cho Thương soái gặp phải phiền toái, thật không dám đi nhầm bước nào, tất cả rơi vào đường cùng mới để cho Tiết Vũ quay về tay không, song trong lòng vốn vẫn nghĩ sẽ âm thầm đưa lương thảo đến cho tướng quân.”



A Mạch thân thiết cầm tay Tiếu Dực đón vào thành thủ, vừa đi vừa cười, nói: “Tiếu tướng quân nghĩ quá nhiều rồi, ngươi và ta cùng thờ một chủ, sao Mạch mỗ lại không biết nỗi khổ tâm của Tiếu tướng quân?”



Tiếu Dực thở phào nhẹ nhõm, than thở: “May mà được tướng quân thông cảm, có thể gặp được tướng quân quả thật là chuyện may mắn của tại hạ!”



A Mạch ha ha cười gượng hai tiếng, nói: “Tiếu tướng quân quá khen, là Mạch mỗ trước đây làm việc thiếu suy nghĩ, trong lòng Mạch mỗ vốn vẫn cảm thấy bất an, lần này đại thắng kỵ binh thát tử thu được rất nhiều ngựa tốt, liền muốn đem tặng cho Tiếu tướng quân để bày tỏ thành ý xin lỗi, chứ không có ý nào khác, ai ngờ Tiếu tướng quân không những không nhận, chẳng những trả lại cho Mạch mỗ, lại còn tặng thêm rất nhiều lương thảo, khiến cho Mạch mỗ thật sự lấy làm xấu hổ!”



Tiếu Dực trợn mắt, ngay thẳng nói: “Tướng quân nói vậy là sao! Ta ở Ký Châu, trong quân đội lại không xây dựng cơ cấu kỵ binh, sao có thể dùng nhiều chiến mã như vậy, chỉ tổ lãng phí. Lại nói đến lương thảo. Lần trước khi Tiết Võ trở về, tại hạ vẫn luôn âm thầm chuẩn bị, đang nghĩ tới chuyện đưa đến cho tướng quân, ai ngờ Từ tiên sinh và Mạc Hải tướng quân lại đến,” Nói tới đây, Tiếu Dực ha ha cười, lại nói tiếp: “Tại hạ liền trộm quay lại, để Mạc Hải tướng quân tiện thể đem về, xin tướng quân chớ trách, chớ trách!”



Hai người cứ câu qua, câu lại như vậy mà tiến vào phòng quân nghị, phân chủ khách mà ngồi, lại đàm luận một hồi về chiến thắng thiết kỵ thát tử của quân Giang Bắc, Tiếu Dực khen ngợi A Mạch một hồi, sau lại đột nhiên nghiêm sắc mặt nói: “Lão Tiếu ta tính tình ngay thắng, có mấy lời này muốn nói cùng tướng quân, chỉ có điều là không biết có nên nói hay không.”



A Mạch cầm chén trà trong tay, chậm rãi đặt lên bàn trà, nói: “Tiếu tướng quân không phải người ngoài, mời ngài cứ nói!”



Tiếu Dực chần chờ một chút, lúc này mới nói tiếp: “Tướng quân, ngài từ lúc đưa binh ra khỏi Thái Hưng, cái gì làm cũng rất tốt, chỉ duy nhất có một việc là làm không tốt!”



A Mạch khẽ nhướn mày nhìn Tiếu Dực: “Ồ?”



Tiếu Dực khẩn thiết nói: “Ngài không nên xưng là tướng quân Giang Bắc, mà đáng lẽ, ngài sớm nên xưng là nguyên soái!”



A Mạch sửng sốt, trong đầu đột nhiên nhớ lại rất lâu trước kia, khi sống cùng cha mẹ, mỗi khi mẫu thân muốn nhờ vả phụ thân điều gì, mẫu thân sẽ luôn bày ra vẻ mặt nghiêm túc nhìn phụ thân, sau đó phê bình: “Ông chủ Mạch, huynh cái gì cũng tốt, chỉ duy nhất một thứ là không tốt!” Sau đó thở dài, dừng lại một chút, rồi nghiêm trang nói: “Huynh khi trưởng thành quá soái đi!”



Lúc đó, phụ thân sẽ luôn vui vẻ cười, sau đó mặc kệ mẫu thân đòi cái gì, người cũng đều đáp ứng. Sau này, đến khi nàng đã hiểu chuyện, nàng sẽ ở bên cạnh chê cười mẫu thân, mẫu thân lại sẽ vô cùng nghiêm trang mà giáo huấn nàng: “Cười cái gì mà cười! Phải nhớ rằng, nếu muốn vỗ mông ngựa người ta thì nhất định phải không sợ mất liêm sỉ!”



……



A Mạch rời tầm mắt khỏi Tiếu Dực, khẽ cúi đầu, cố gắng lắm mới nén nổi một tràng cười. Lại nghe Tiếu Dực thành khẩn nói: “Ngài mấy lần dẫn quân đánh bại thát tử, lúc này lại khiến kỵ binh của Thường Ngọc Thanh thất bại nặng nề, làm giảm mạnh uy phong của thát tử, uy danh của ngài đã vang dội khắp tứ quốc. Luận quân công hay luận tư cách, ngài đều sớm nên xưng soái, hơn nữa, nếu ngài xưng soái, sẽ khiến cho hoàng đế cảm thấy nỗi nghi ngờ của mình với Thương soái là vô căn cứ, trái lại, nếu ngài vẫn để trống soái vị, hoàng đế sẽ cho rằng ngài giữ lại ngôi vị đó là để giành cho Thương soái!”



Trước mặt Tiếu Dực, lần đầu tiên A Mạch cảm thấy da mặt mình vẫn còn chưa đủ dày, nên đành phải miễn cưỡng nói: “Chuyện này cần phải bàn bạc kỹ hơn.”



Tiếu Dực lại khuyên vài câu, thấy A Mạch vẫn không chịu, liền chuyển sang đề tài khác. Hai người lại nói chuyện phiếm một lát, Tiếu Dực mượn cớ đi đường mệt nhọc liền xin phép được đi xuống nghỉ ngơi, A Mạch tiễn ông ta ra khỏi phòng quân nghị, rồi cho Mạc Hải đưa ông ta đến khách phòng nghỉ ngơi, còn mình lại xoay người lại trở về phòng quân nghị, yên lặng ngồi một lát rồi bật cười xì một tiếng.



Lâm Mẫn Thận nghe thấy tiếng nàng cười liền từ ngoài cửa tiến vào, tùy ý ngồi xuống, nói: “Ông ta chẳng qua là muốn tự cấp cho mình chức vụ phó nguyên soái, nhưng cũng nên mặt dày như thế!”



A Mạch vui tươi hớn hở nhìn Lâm Mẫn Thận, nói: “Đúng vậy, ông ta cổ vũ ta làm nguyên soái, chính là muốn bản thân lên làm phó nguyên soái.”



Lâm Mẫn Thận lạnh lùng nhìn A Mạch: “Ngươi thật muốn làm nguyên soái?”



A Mạch cũng là không đáp, chỉ cười nói: “Ngươi thật đúng là nên bái ông ta làm thầy mà học, người ta đây mới chân chính là văn võ toàn tài, mỗi câu đều toàn lời hay ý đẹp! Không giống như ngươi, chỉ biết bôi bôi vẽ vẽ lên mặt!”



Lâm Mẫn Thận vốn luôn bị A Mạch chế ngạo, sớm đã tập mãi thành thói quen, nghe xong cũng không giận, chỉ lạnh lùng nhìn A Mạch. A Mạch thấy anh ta như thế, liền thu lại vẻ trêu tức trên mặt, thản nhiên nói: “Ta sớm đã có tâm xưng soái, chỉ có điều trước đây chưa lập được quân công, e rằng không thể khiến mọi người tâm phục khẩu phục, hiện giờ ta đánh bại tinh kỵ binh của Thường Ngọc Thanh, nhẹ nhàng hạ được Ký Châu, chớ nói ở Giang Bắc, mà ngay cả ở tứ quốc cũng đã nổi danh, lúc này không xưng soái còn đợi đến khi nào?”



Lâm Mẫn Thận nghe vậy thì trợn mắt há mồm, mãi một lúc lâu sau mới thở dài nói: “May mà ngươi vẫn là một nữ tử, da mặt sao lại có thể dày đến như vậy!”



A Mạch khẽ cười một tiếng, nói không khoan nhượng: “Ta da mặt dày hay không dày không quan trọng, cái chính là cảm thấy làm măng tre mọc trên sườn núi ngược lại càng khiến cho mọi người nhạo báng.”



Lâm Mẫn Thận thấy khó hiểu, theo bản năng hỏi: “Măng tre mọc trên sườn núi thì sao?”



A Mạch cười nói: “Măng tre trên đỉnh núi này, lớp vỏ bên ngoài thì dày mà bên trong lại rỗng! Lâm tể tướng chỉ có ngươi là con trai độc nhất, nhất định sớm đã thất vọng vạn phần, lại như ngươi lúc này, ta thấy vẫn ít có giao thiệp tốt với triều đình, tránh làm hỏng chiêu bài của Lâm tể tướng.”



Lâm Mẫn Thận đầu tiên là sửng sốt, sợ run người, một lát sau lại cúi đầu im lặng không nói gì. A Mạch đang cảm thấy kỳ quái, lại nghe Lâm Mẫn Thận có chút thiểu não nói: “Kỳ thật, ta cũng không thích tham dự vào việc triều chính.”



Lần này, đổi lại lại là A Mạch trố mắt, Lâm Mẫn Thận ngẩng đầu nhìn nàng, cười tự giễu, thản nhiên nói: “Ta không sợ ngươi chê cười, nếu không phải gia phụ chỉ có ta là con trai duy nhất, ta sẽ không tham gia vào chuyện của triều đình, triều đình sao có thể so được với giang hồ, bất chấp ân oán, tiêu sái khoái hoạt!”



A Mạch sớm đối với một thân võ công của Lâm Mẫn Thận mà cảm thấy kỳ quái, theo lý thì anh ta là một thế gia đệ tử, nếu có học thì cũng nên học chút thơ văn quyền mưu linh tinh, sao lại tập võ công cao thâm như thế?



Lâm Mẫn Thận thấy ánh mắt A Mạch lộ ra vẻ tò mò, lập tức cũng không kiêng dè, cười giải thích: “Ta khi còn bé thể chất rất yếu ớt, gia phụ sợ ta nuôi không lớn, nên mới gọi người mang đi tập võ, khi trưởng thành lại học những hiệp khách hành tẩu giang hồ, hai năm trước mới trở lại nhà ở Thịnh Đô.”



A Mạch hiếm khi thấy Lâm Mẫn Thận thẳng thắn, thành khẩn như thế, không khỏi có chút kinh ngạc, trầm mặc một lát liền giải thích việc xưng soái: “Chuyện xưng soái mà Tiếu Dực nói không phải là không có đạo lý, nếu ta không xưng soái, cuối cùng sẽ khiến hoàng đế nghi kỵ Thương soái.”



Khẩu khí của Lâm Mẫn Thận cũng dịu đi, cười nói: “May mà ta biết ngươi là một nữ tử, nếu không ngay cả ta cũng sẽ cho rằng ngươi sau lưng chủ cố ý làm càn.”



A Mạch cười, nói: “Ta sẽ phái người đi xin chỉ thị của Thương soái một tiếng, để xem anh ta quyết định như thế nào.”



Lâm Mẫn Thận suy nghĩ rồi hỏi: “Ngươi định phái ai về Thịnh Đô?”



A Mạch đúng là đã nghĩ đến việc phái người lén trở về Thịnh Đô, nhưng lại chưa quyết định chọn ai, nghe Lâm Mẫn Thận hỏi như thế, liền hỏi ngược lại: “Sao? Ngươi chọn được ai sao?”



Lâm Mẫn Thận hơi chần chờ, rồi cười nói: “Nếu ngươi muốn phái người về Thịnh Đô, ta thật ra có thể thay ngươi đi một chuyến.”



A Mạch cũng là trầm mặc không nói, Lâm Mẫn Thận ở Thịnh Đô đã là một kẻ “Tử trận”, để cho anh ta về Thịnh Đô, ngay cả khi anh ta võ công cao cường, cũng khó tránh khỏi vài phần nguy hiểm, một khi bị kẻ khác phát hiện…



Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch lộ vẻ chần chờ, liền thản nhiên đáp: “Ta về Thịnh Đô vì  muốn gặp một người.”

——————-

Chú thích:

1- Ngoại thích: bên ngoại, họ ngoại.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách