Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: myngoc2708
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Cổ Đại] A Mạch Tòng Quân | Tiên Chanh

[Lấy địa chỉ]
111#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:12:32 | Chỉ xem của tác giả
Chương 102

NAM NHÂN




Thôi Diễn nhìn A Mạch, lại nhìn Thường Ngọc Thanh, nhất thời ngây người.



Thường Ngọc Thanh cụp mắt xuống, tầm mắt vẫn dừng lại ở vết máu dính trên thanh đao, nói: “Ta tự mình ra tay thì ngươi có thể làm thế nào?”



Tay A Mạch vẫn giữ chặt miệng vết thương, khóe môi cũng chậm rãi nhếch lên, mang theo chút run run, gằn từng tiếng đáp: “Nếu vậy thì hai chúng ta không ai còn thiếu nợ ai.”



Thường Ngọc Thanh khẽ chấn động, đưa mắt nhìn A Mạch, ánh mắt lộ ra thần sắc kinh ngạc.



A Mạch nhìn thẳng vào mắt Thường Ngọc Thanh, nâng trường đao lên ngang người, trầm giọng nói: “Ra tay đi.”



Thường Ngọc Thanh như thể bị chôn chân tại chỗ, không thể nhúc nhích nhìn A Mạch. Thôi Diễn thấy vậy, sợ Thường Ngọc Thanh chịu thiệt, vội vàng nói: “Không cần đại ca ta phải ra tay, ta…”



A Mạch lạnh giọng ngắt lời nói: “Tốt!”



Lời còn chưa dứt, thân hình A Mạch đã lao đến, cả người và đao đã cuốn về phía Thôi Diễn, chiêu nào cũng như muốn bán mạng. Thôi Diễn không ngờ nàng lại xuất thủ nhanh như vậy, nhất thời trở tay không kịp, chỉ có thể lui về phía sau tránh né. Nhưng A Mạch lại bất chấp sống chết, kể cả khi loan đao của Thôi Diễn chém tới cũng không đón đỡ, chỉ liều mạng tấn công, dù chết cũng muốn đổi lại một cánh tay của anh ta, khiến cho đao của Thôi Diễn vài lần đi được nửa đường lại phải vội vã thu về phòng thủ. Từ lúc đó, chiêu thức của Thôi Diễn liền mất đi ưu thế, vì thế liên tục bị A Mạch đẩy lui về phía sau.



Trong lòng Thôi Diễn vừa tức lại vừa vội, đao thức phút chốc liền thay đổi, không để ý đến lưỡi đao của A Mạch đang lướt tới, liền vung loan đao chém thẳng xuống đỉnh đầu A Mạch… Một ánh chớp lóe lên, loan đao của Thường Ngọc Thanh đột nhiên len vào giữa hai người, thay A Mạch đỡ một đao đang nhằm xuống đầu nàng, ngay sau đó vội vàng dùng sống đao gạt một cái, đẩy A Mạch ra khỏi ngoài phạm vi cương tỏa của trường đao.



Thôi Diễn bị thế đao của Thường Ngọc Thanh đẩy liên tục lui về phía sau vài bước mới đứng vững được, tức giận gấp giọng hét lớn: “Đại ca!”



A Mạch lại dựa vào vách tường cắn răng không nói gì, chỉ nắm chặt trường đao trong tay nhìn Thường Ngọc Thanh.



Đang trong lúc giằng co, chợt nghe đầu ngõ có người kêu lên: “Mạch tướng quân ở trong này, đang giao chiến với người khác!”



Ba người trong ngõ đều sửng sốt, đều quay đầu nhìn lại, thấy Lâm Mẫn Thận đang vung tay chỉ vào trong ngõ lớn tiếng kêu lên: “Trời ơi, hai đánh một, mất mặt quá!”



Đường Thiệu Nghĩa từ bên cạnh Lâm Mẫn Thận vội vàng chạy tới, đứng bên cạnh A Mạch, không hỏi A Mạch bị thương thế nào, chỉ bất động thanh sắc đẩy A Mạch ra sau lưng mình, bình tĩnh nhìn Thường Ngọc Thanh và Thôi Diễn. Lâm Mẫn Thận từ sau đuổi tới, cúi đầu nhìn vết máu, lại ngẩng lên nhìn A Mạch, thất thanh kêu lên: “Mạch tướng quân, ngươi bị thương phải không?”



A Mạch thấy Lâm Mẫn Thận làm ra vẻ khoa trương, trong lòng bực bội, không khỏi nhíu mày, thấp giọng hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Giết được không?”



Đường Thiệu Nghĩa không nói, chỉ dùng khóe mắt nhìn lướt qua Lâm Mẫn Thận đang đứng bên cạnh, A Mạch lập tức hiểu ý của Đường Thiệu Nghĩa, hiện tại nếu không có Lâm Mẫn Thận, bọn họ là hai đối hai, nhưng A Mạch vốn yếu nhất, lại có thương tích trong người, nếu thực sự giao tranh tất nhiên sẽ phải chịu thiệt. Có thể  giết được hay không, mấu chốt còn phải xem thái độ của Lâm Mẫn Thận.



Lâm Mẫn Thận chưa phát hiện ra, vẫn đầy căm phẫn chỉ trích Thôi Diễn: “Các ngươi khinh người quá đáng, đang lúc hai nước nghị hòa, thế mà quý quốc lại đi ám sát tướng lãnh của nước ta, thế này thì nhất định phải phân định cho rõ phải trái? Đi! Chúng ta đến dịch quán các ngươi tìm sứ thần nghị hòa nói chuyện!”



A Mạch thu lại ánh mắt trên người Lâm Mẫn Thận, thản nhiên nói: “Để cho bọn họ đi đi!”



Thường Ngọc Thanh ở bên cạnh vẫn lạnh lùng nhìn, nghe thấy vậy chỉ khẽ nhếch một bên khóe miệng đưa mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch rồi quay đầu lại nói với Thôi Diễn: “A Diễn, đi thôi!” Nói xong, liền lập tức quay đầu rời đi. Thôi Diễn không cam tâm, nhưng trong lòng biết hôm nay không thể giết được A Mạch, hung hăng trừng mắt nhìn nàng một cái rồi đuổi theo Thường Ngọc Thanh.



Chờ đến khi bóng dáng của Thường Ngọc Thanh và Thôi Diễn khuất hẳn, A Mạch mới dựa cả người vào vách tường, tinh thần vừa buông lỏng một chút, sự đau đớn dưới sườn lại dội lên, đau đến nỗi khiến A Mạch phải hít hà một hơi thật sâu.



Đường Thiệu Nghĩa vội vàng quay người lại, thấy mặc dù A Mạch đã dùng tay bịt chặt miệng vết thương, nhưng máu vẫn không ngừng chảy ra, sắc mặt lập tức ngưng trọng, hỏi: “Bị thương như thế nào?” Đường Thiệu Nghĩa nói xong định tiến lên kiểm tra thương thế của A Mạch, A Mạch dấu dấu diếm diếm tránh đi, tay vẫn giữ chặt vết thương, đáp: “Chỉ là vết thương trên da thịt, không sao đâu.”



Đường Thiệu Nghĩa không nghi ngờ gì, vội cởi áo bào trên người xuống xé thành những băng vải nhỏ, không để ý đến sự từ chối của A Mạch, liền vội vàng băng chặt miệng vết thương trên người nàng lại, lúc này mới xoay người ngồi xổm trước mặt A Mạch, trầm giọng nói: “Lên đi, ta cõng ngươi tới y quán!”



Tiết trời vốn nóng bức, bên trong áo bào, Đường Thiệu Nghĩa chỉ mặc một chiếc áo lót mỏng nhưng cũng đã thấm ướt mồ hôi, dính sát vào tấm lưng rộng lớn mà rắn chắc, hằn rõ đường nét cơ thể bên trong lớp áo. A Mạch chẳng những không nằm lên, mà ngược lại, lại lùi về phía sau hai bước, Đường Thiệu Nghĩa kinh ngạc quay đầu nhìn A Mạch. A Mạch lắc lắc đầu, nói: “Đại ca không cần cõng ta, ta vẫn tự đi được.”



Trong mắt Đường Thiệu Nghĩa hiện lên một tia khó hiểu, Lâm Mẫn Thận đang đứng bên cạnh đột nhiên lên tiếng: “Mạch tướng quân nếu vẫn có thể chịu đựng được thì cũng nên tự đi, hơn nữa các ngươi cũng không thể cứ như vậy mà đi ra ngoài được, nếu để người khác biết Mạch tướng quân xô sát cùng thát tử, thì nguyên soái nhìn cũng không vừa mắt đâu.”



Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy khẽ nhíu mày, rõ ràng là A Mạch bị Thường Ngọc Thanh cùng Thôi Diễn cố ý gây thương tích, qua miệng anh ta thế nào lại thành A Mạch xô sát với người khác nên bị thương, tên Lâm Mẫn Thận này đúng là cố ý lẫn lộn việc này rồi. Đường Thiệu Nghĩa còn đang nghi hoặc, lại nghe A Mạch nói: “Việc này nếu để cho nguyên soái biết thì đúng là rất phiền toái, chúng ta vẫn nên tránh đi thì hơn.”



Lâm Mẫn Thận cao thấp đánh giá Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch, lại nói tiếp: “Ta đã có cách, các ngươi chờ một lát, ta đi rồi sẽ trở lại.” Nói xong liền vội vàng ra khỏi ngõ nhỏ, để lại hai người đứng trong đó. Đường Thiệu Nghĩa nhìn thương thế của A Mạch, hai hàng lông mày lại càng nhíu chặt hơn nữa. A Mạch sợ anh ta hỏi vì sao mình lại cùng Thường Ngọc Thanh đánh nhau nên lập tức hỏi thật nhanh: “Đại ca sao lại đi cùng Lâm Mẫn Thận?”



Sắc mặt Đường Thiệu Nghĩa có chút bực mình đáp: “Gặp trên đường. Anh ta cứ quấn lấy ta hỏi han linh tinh, nếu không phải tại anh ta, thì ta đã sớm tìm được ngươi rồi, ngươi cũng sẽ không phải chịu một đao này.”



A Mạch thản nhiên cười cười, không nói gì. Đường Thiệu Nghĩa thấy sắc mặt nàng càng lúc càng tái nhợt, máu trên vết thương lại dần dần thấm qua lớp vải băng bó mà lộ ra ngoài, trong lòng càng sốt ruột, cả giận nói: “Cái tên Lâm Mẫn Thận này làm gì thế không biết, sao vẫn còn chưa chịu quay về?”



A Mạch cố gắng chịu đựng sự đau đớn từ dưới sườn dội lên, đáp: “Sợ là chạy đi mua quần áo cho ta và huynh.”



Quả nhiên, một lát sau, Lâm Mẫn Thận mang theo hai chiếc trường bào trở về, một chiếc đưa cho Đường Thiệu Nghĩa, một chiếc đưa cho A Mạch: “Mặc thêm cái này vào, nhất định phải che vết máu trên người của ngươi lại.”



A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa cùng khoác trường bào lên người, Đường Thiệu Nghĩa mặc rất vừa vặn nhưng khi khoác lên người A Mạch lại vừa dài vừa rộng, bao kín cả người nàng. Lâm Mẫn Thận thập phần vừa lòng, khẽ gật đầu nói: “Tốt lắm, mặc như vậy rất thích hợp.”



A Mạch cũng không phản bác, trên mặt cũng hiện lên vẻ đồng lòng. Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch và Lâm Mẫn Thận ngôn ngữ cử chỉ thật khác thường, trong lòng lập tức có chút nghi hoặc, song lại không để lộ ra ngoài, chỉ để tâm chú ý hai người. Ba người đi ra ngoài ngõ, vừa đến đầu ngõ, đột nhiên A Mạch nghĩ đến điều gì đó liền dừng cước bộ, nói với Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, những thứ huynh mua về vẫn còn để ở tửu lâu!”



Đường Thiệu Nghĩa còn chưa tiếp lời, Lâm Mẫn Thận đã nói: “Ai chà, khéo mà lại có người trộm mất thì khổ, Đường tướng quân mau trở về xem thế nào, ta và Mạch tướng quân đến y quán là tốt rồi.”



Đường Thiệu Nghĩa không để ý đến Lâm Mẫn Thận, chỉ nhìn A Mạch. Trên mặt A Mạch hiện lên một tia xấu hổ, nhưng vẫn nói: “Đại ca, vết thương của ta không việc gì, huynh đến tửu lâu lấy đồ về trước, nếu nguyên soái tìm ta, huynh che dấu cho ta một chút, ta đến y quán lấy thuốc rồi sẽ về.”



Đường Thiệu Nghĩa trầm mặc một lát, gật đầu nói: “Được, ta về trước, các ngươi cẩn thận.”



Lâm Mẫn Thận đợi thân ảnh của Đường Thiệu Nghĩa biến mất trong đám đông, lúc này mới quay đầu nhìn A Mạch nói: “Ngươi lấy cớ thực vụng về! Ta đến đỏ mặt thay cho ngươi, nhưng anh ta thật đúng là rất biết phối hợp với ngươi.” Anh ta ngừng lại, nhịn không được lại hỏi: “Anh ta không biết ngươi là nữ thật sao?”



A Mạch cụp mắt không nói, Lâm Mẫn Thận không khỏi bật cười nói: “Người vốn lắm mưu nhiều kế, sao giờ lại trì độn như thế!”



A Mạch không để ý tới Lâm Mẫn Thận trêu chọc, chỉ hỏi: “Đi đâu?”



Lâm Mẫn Thận cười nói: “Tùy ngươi, nếu muốn đến y quán, ta sẽ giúp ngươi diệt khẩu. Nếu muốn đi cửa sau của Thương phủ, ta sẽ nghĩ cách khiến người không biết, quỷ không hay giúp người trà trộn vào.”



Trong lòng A Mạch nhất thời rất mâu thuẫn, Thương Dịch Chi không như Đường Thiệu Nghĩa, nếu đã biết việc này chắc chắn sẽ truy cứu, nhưng nàng và Thường Ngọc Thanh lại có khúc mắc không muốn để người khác biết, đến lúc đó phải làm thế nào để che dấu đây? Còn đi y quán, nếu như không giết những người trong y quán diệt khẩu, thì sẽ lưu lại hậu họa về sau. A Mạch cân nhắc một lát, cuối cùng nói: “Đi Thương phủ.”



Thương Dịch Chi chủ trì việc nghị hòa với Bắc Mạc nên không có mặt trong phủ, đến khi trở về đã là ban đêm, vết thương của A Mạch lúc này đã khâu xong. Một đao của Thường Ngọc Thanh không quá sâu, chưa đả thương đến nội tạng, nhưng cũng đã chạm đến xương sườn, chỉ khẽ cử động một chút liền cảm thấy đau đến tận xương tủy, A Mạch lại không muốn dùng ma phí tán(2), cho nên phải cố gắng chịu đựng, cả người mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa, không khác gì mới từ trong nước vớt lên, hơn nữa nàng mất máu quá nhiều, sắc mặt lại càng thêm trắng bệch khiến cho người khác nhìn mà phát sợ.



Từ miệng của Lâm Mẫn Thận, Thương Dịch Chi đã biết đại khái, nhưng khi chính mắt nhìn thấy dáng vẻ của A Mạch thì vẫn không khỏi giật mình kinh hãi. Anh ta âm trầm ngồi xuống bên cạnh, lạnh giọng hỏi: “Vì sao không chịu dùng ma phí tán?”



A Mạch không ngờ câu đầu tiên anh ta hỏi sẽ là câu này, liền cúi đầu trầm mặc rồi mới nhẹ giọng đáp: “Sợ về sau ảnh hưởng đến trí óc.”



Thương Dịch Chi vô cùng tức giận mà bật cười: “Chẳng phải hiện giờ trí óc của ngươi đã lú lẫn hết rồi sao, thế sau này vẫn còn sử dụng được à?”



Vết thương của A Mạch vẫn rất đau đớn, vô cùng khó chịu, vậy nên giọng nói có phần run rẩy, đáp: “Càng đau sẽ càng nhớ kỹ, về sau sẽ không tiếp tục phạm sai lầm.”



Nghe nàng trả lời như vậy, Thương Dịch Chi lại trở nên trầm mặc, lẳng lặng nhìn A Mạch, đột nhiên nói: “Triều đình rất nhanh sẽ ký kết hiệp ước nghị hòa với thát tử, ngươi nên sớm chuẩn bị đi.”



A Mạch ngẩn ra, không khỏi hỏi: “Sao lại nhanh như vậy?”



Thương Dịch Chi nói: “Tình hình chiến sự ở Vân Tây căng thẳng, thát tử đã vừa ý với những thứ đạt được, triều đình lại muốn nhanh chóng giải quyết việc ở Giang Bắc để tránh thế hai mặt thụ địch.”



A Mạch nghĩ nghĩ, nói: “Đường Thiệu Nghĩa đã rời quân ngũ, không cần phải cố kỵ, những người khác trong quân đều không đáng lo ngại, nhưng còn Vệ Hưng thì phải xử trí như thế nào?”



Khẩu khí Thương Dịch Chi mặc dù nhẹ nhàng, nhưng từ ngữ thốt ra lại thật kinh người: “Giết.”



A Mạch lơ đễnh, lại hỏi: “Còn Lâm Mẫn Thận?”



Thương Dịch Chi thản nhiên liếc mắt nhìn nàng, đáp: “Ta để anh ta lưu lại cùng ngươi, để ngươi đỡ phải không biết khi nào thì bị người khác cho mình một đao.”



A Mạch nghe ý tứ ám chỉ trong lời nói của anh ta, nhất thời không dám nói tiếp, đành phải cụp mắt xuống.



Thương Dịch Chi nhẹ nhàng cười khẩy, nói: “A Mạch, ngươi cuối cùng cũng không phải là nam nhân, nên mãi mãi không thể đoán ra được tâm tư của nam nhân, Thường Ngọc Thanh là người như thế nào, cho dù tư tình có sâu nặng đến đâu thì cũng không thể vượt qua được hai chữ quốc gia!”



Trong lòng A Mạch vô cùng kinh hãi, nhất thời chấn động đến nỗi không biết phải ứng đối thế nào. Vẻ mặt đó rơi vào trong mắt Thương Dịch Chi khuấy động một nỗi tức giận khôn cùng trong lòng anh ta, nhưng anh ta lại không muốn dây dưa vụn vặn nên chỉ nói: “A Mạch, ta dùng ngươi nên tin ngươi, chỉ có điều về sau không được tiếp tục làm chuyện ngu xuẩn như thế này nữa! A Mạch có thể không có nước, nhà, nhưng Mạch Tuệ của quân Giang Bắc thì cả quốc và gia đều phải lưỡng toàn!”



A Mạch khống chế cảm xúc trong lòng, chậm rãi đáp: “A Mạch hiểu rồi.”



Thương Dịch Chi định nói tiếp điều gì đó nhưng lại thôi, lập tức chuyển sang chuyện khác: “Giờ ngươi muốn lĩnh quân thế nào? Có trở lại Ô Lan không?”



Nghe anh ta hỏi việc quân tình, tinh thần của A Mạch mới ổn định trở lại, trầm giọng đáp: “Trần Khởi mai phục trọng binh ở phía tây Thái Hưng, lúc này tây tiến ắt gặp phục kích, hơn nữa nguồn chiêu mộ binh lính trong núi Ô Lan có hạn, nếu trở về cũng rất khó để phát triển.”



Trong mắt Thương Dịch Chi lộ ra ánh sáng, hỏi: “Vậy sẽ đi đâu?”



———————



Chú thích:

1- Thương hậu: từ này có nghĩa là sau khi bị thương. Tuy nhiên, mẹ Cún nghĩ trong văn cảnh này là để chỉ một nơi chữa bệnh thì phải, nhưng không tìm được từ tương ứng trong tiếng Việt nên vẫn để nguyên văn. Nàng nào biết thì hỗ trợ cho mẹ Cún nhé.

2- Ma phí tán: một loại thuốc gây tê do Hoa Đà phát minh ra, dùng trong điều trị ngoại khoa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

112#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:14:02 | Chỉ xem của tác giả
Chương 103

MƯU KẾ(1)



“Thanh Châu!” A Mạch đáp.



Thanh Châu, phía bắc tiếp giáp bờ sông Tử Nha, phía đông dựa vào dãy núi Thái Hành, dễ thủ khó công, chính là nơi Thương Dịch Chi trấn thủ trước đây. A Mạch lại nói tiếp: “Chiếm giữ Thanh Châu rồi tiến vào Thái Hành, Ký Châu tạo thành địa thế hình túi, phía bắc có núi Yến Thứ có thể chống cự địch vùng quan ngoại, phía đông tiếp giáp biển lớn thành bức bình phong ngăn cản, phía nam hướng về vùng Sơn Đông, đi qua đó là sông Uyển địa thế hung hiểm. Bốn bề hiểm trở, bế quan(2) có thể tự thủ, xuất quan(3) có thể tiến thủ. Bên trong Ký Châu lại nhiều bình nguyên, sản vật phong phú, đủ để cung cấp nuôi dưỡng quân ta. Nhờ đó, quân ta có thể ổn định, củng cố hậu phương, tự cung tự cấp, cũng có thể vượt qua vùng núi non hiểm trở mà tiến công, hoặc lui về phía sau để phòng thủ, chỉ cần thúc đẩy lưu thông buôn bán, tích lũy lực lượng, sau này giành lại vùng Giang Bắc cũng không thành vấn đề.”



Tuy Thương Dịch Chi trầm ngâm không nói, nhưng ánh mắt đã dần dần sáng rực lên. A Mạch thấy vậy, biết anh ta đã bị lời nói của mình làm cho động tâm. Thương Dịch Chi cúi đầu cân nhắc một lát, rồi đưa mắt nhìn A Mạch, hỏi: “Ngươi thực sự thấy vậy sao?”



A Mạch vốn định gật đầu xác nhận, nhưng trước đôi mắt sâu không thấy đáy của Thương Dịch Chi, lời nói trong miệng lại chuyển thành: “Là Từ tiên sinh từng đề cập qua như vậy.”



Thương Dịch Chi yên lặng đánh giá A Mạch, ánh mắt sâu xa, không biết đang suy tính điều gì.



A Mạch dùng tay phủ lên vết thương bên sườn, cảm giác đau đớn kích thích tinh thần của nàng rung lên, thong dong nói tiếp: “Khi còn ở trong núi Ô Lan, ta từng nói chuyện phiếm với tiên sinh, tiên sinh đã giảng giải rằng thế cục giống như bàn cờ, trong đó Ung châu, Ký Châu, Vân Tây cùng Đông Nam hình thành nên một tứ giác, Dự Châu, Sơn Đông, Hán Trung, Kinh Châu là vệ tinh của tứ giác đó, Trung Nguyên chính là vùng trung tâm. Mặc dù mục tiêu tranh giành là Trung Nguyên, nhưng nơi thực sự diễn ra sự tranh giành của quần hùng, phần lớn lại không bắt đầu từ Trung Nguyên, mà là ở vùng tứ giác. Hay như nói ở vùng Giang Bắc, Ung Châu và Ký Châu là hai nơi dễ dàng cát cứ, mà phía tây Dự Châu tiếp giáp Ô Lan, phía đông hướng về Thái Hành, nếu tiến được vào cửa ngõ Ung châu và Ký Châu, bề mặt hướng về lưu vực sông Bình Nguyên, chính là giành lấy yếu hầu của vùng Giang Bắc. Trước, quân ta có thể chiếm Ký Châu làm căn cơ, sau, có thể tiếp tục chiếm Dự Châu, rồi từ từ giang rộng đôi cánh, bao bọc lấy Trung Nguyên, như vậy nhất định sẽ đoạt được Giang Bắc.”



Nàng một phen nói xong khiến Thương Dịch Chi khó nén được kích động, không kiềm chế được, tay liền nắm chặt thành quyền nói: “Không sai! Hoàn đàm [ tân luận ] viết: Thượng giả viễn kì khai trương, trí dĩ hội vi. Nhân nhi thành đắc đạo chi thắng. Trung giả tắc vụ tương tuyệt già, yếu dĩ tranh tiện cầu lợi, cố thắng phụ hồ nghi, tu kế sổ dĩ định. Hạ giả tắc thủ biên ngung, xu tác quải, dĩ tự sinh vu tiểu địa. (Thượng, xa xôi lúc bắt đầu, tỉ mỉ sử dụng sẽ thành. Người đắc đạo sẽ thắng. Trung, nguyên tắc công việc tự mình xem xét qua lại, nhất định phải tranh thủ sự thuận tiện mà thu lợi, cho dù thắng bại không chắc chắn, tính kế đã định. Hạ, nguyên tắc giữ vùng đất liền kề, tạo nên trở ngại, có thể tự tồn tại được ở vùng đất nhỏ)(4) Chính là để nói đạo lý này!”



A Mạch cười yếu ớt không nói, Thương Dịch Chi tuy rằng kích động, nhưng rất nhanh đã khống chế được cảm xúc của mình, trên mặt hồi phục lại thần sắc bình tĩnh, bỗng hỏi: “Ngươi và Từ Tĩnh vẫn thường chơi cờ?”



Sắc mặt A Mạch bất động, nhưng ý niệm trong đầu đã xoay chuyển rất nhanh, thần thái tự nhiên đáp: “Những lúc rảnh rỗi thật ra cũng cùng Từ tiên sinh chơi vài ván.”



Nhó lại chuyện năm trước, khi A Mạch cùng anh ta trên đường trở về Thịnh Đô, tình cảnh khi hai người ở trên thuyền đánh cờ, tinh thần Thương Dịch Chi không khỏi hoảng hốt, nhẹ giọng hỏi: “Ông ta có cho ngươi đi lại không?”



A Mạch lắc đầu nói: “Từ tiên sinh vừa mắng ta là cờ thối, vừa tính toán chi li, có chết cũng không nhường.”



Thương Dịch Chi không khỏi bật cười, khóe môi khẽ cong lên, thần sắc trong mắt cũng trở nên dịu dàng, khẽ cười nói: “Đúng là rất thối!”



A Mạch nhìn mà khẽ giật mình, Thương Dịch Chi nhận thấy vậy, trên mặt thoáng hiện lên vẻ xấu hổ, cúi đầu xuống uống trà tránh tầm mắt của A Mạch, đến khi ngẩng lên thì trong mắt đã là một mảnh an tĩnh, trầm giọng hỏi A Mạch: “Nếu muốn dẫn binh vào Thanh Châu, trong lòng đã có kế sách cụ thể gì chưa?”



A Mạch mím môi trầm ngâm một lát, đáp: “Có rồi, chỉ có điều là quá mạo hiểm.”



Thương Dịch Chi đổi chén trà, đứng dậy đặt vào trong tay A Mạch, nói: “Nói ta nghe thử một chút.”



A Mạch sớm đã khát khô, thấy vậy cũng không chối từ, nhận lấy chén trà uống một hơi, lúc này mới nói: “Từ Thái Hưng đông tiến đến Thanh Châu, nếu đi theo đường phía bắc, chắc chắn sẽ đi qua trấn Tân Dã, mà Tân Dã sớm đã bị Chu Chí Nhẫn chiếm giữ, khi đó sẽ không tránh khỏi một trận ác chiến. Nếu đi theo đường phía nam, dọc theo sông Uyển, trên đường mặc dù không có trọng binh của thát tử, nhưng đường đi gập ghềnh xa xôi, hiện lại đang là mùa mưa, đi được tới nơi cũng vô cùng vất vả. Từ năm trước, Trần Khởi đã lệnh cho Thường gia lĩnh quân đông tiến đến Thanh Châu, ngoại trừ ba vạn kỵ binh của Thường Ngọc Tông, còn có hơn hai vạn quân ở phía tây Thanh Châu, mặc dù không thể đánh hạ Thanh Châu, nhưng lại có thể tràn tới chặn đánh quân ta vừa từ xa đến, một trận thắng bại khó liệu.”



Thương Dịch Chi cau mày: “Sợ là thắng ít bại nhiều.”



“Đúng vậy, chẳng qua…”



“Chẳng qua thế nào?” Thương Dịch Chi hỏi.



A Mạch đáp: “Nếu quân Thanh Châu ra khỏi thành đánh lén thát tử từ phía sau, thì một trận này sẽ là thắng nhiều bại ít!”



Thương Dịch Chi khẽ nhướn mày, tựa tiếu phi tiếu nhìn A Mạch, nói: “Thanh Châu là nơi ta phát binh, mặc dù hiện nay những quân nhân cũ trong quân đã chết trận quá nửa, nhưng vẫn còn không ít người xuất thân từ Thanh Châu, ngươi còn sợ không có cách nào điều động được quân Thanh Châu sao?”



A Mạch thấy Thương Dịch Chi nói trúng tâm tư của mình, cười gượng hai tiếng, nói: “Nếu nguyên soái có thể ra mặt, quân Thanh Châu tất nhiên là có thể điều động rồi.”



Thương Dịch Chi cười nhạt nói: “Nói hay lắm, còn gì khác nữa không?”



A Mạch thu lại nét tươi cười trên mặt, nghiêm sắc mặt nói: “Sau khi vào được Thanh Châu, tạm thời thát tử sẽ không đủ sức uy hiếp ta nữa, khó ở chỗ là làm thế nào vượt qua Thái Hành mà chiếm giữ Ký Châu, ta phản lại triều đình, Ký Châu tất nhiên sẽ không dễ dàng để ta tiến vào, vì thế có thể dẫn đến việc quân ta chưa đánh nhau với thát tử thì đã phải nồi da nấu thịt trước với đồng bào của mình, như vậy chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến thanh danh.”



Thương Dịch Chi yên lặng nhìn A Mạch, thản nhiên nói: “A Mạch, ngươi muốn thế nào thì cứ nói thẳng ra.”



A Mạch cẩn thận liếc mắt nhìn Thương Dịch Chi, thử nói: “Nghe nói thủ thành Ký Châu là tướng Tiếu Dực, từng là cấp dưới của Thương lão tướng quân…”



“Đúng!” Thương Dịch Chi tiếp lời, sảng khoái nói,“Ký Châu ta cũng sẽ thay ngươi nghĩ cách!”



A Mạch xoay người quỳ rạp xuống trước mặt Thương Dịch Chi, ôm quyền nói: “A Mạch đa tạ nguyên soái!”



Thương Dịch Chi cũng không đưa tay đỡ dậy, đợi A Mạch quỳ trên mặt đất một lúc lâu, bấy giờ mới chậm rãi nói: “A Mạch, trước ta vẫn dung túng ngươi, sau này còn có thể trợ giúp ngươi, ngươi…… đừng để cho ta cảm thấy thất vọng.”



A Mạch rùng mình, ngẩng đầu đón lấy ánh mắt sắc bén của Thương Dịch Chi, không hề né tránh, kiên định đáp: “A Mạch đã biết.”



Thương Dịch Chi vẫn bất động thanh sắc, thản nhiên nói: “Đứng lên đi.”



A Mạch đứng dậy, không dám ngồi, chỉ khoanh tay đứng một bên. Thấy nàng như thế, Thương Dịch Chi đứng dậy, nói: “Trên người ngươi có thương tích, hôm nay đi nghỉ sớm đi, ngày mai Lâm Mẫn Thận sẽ đưa ngươi về.”



Thương Dịch Chi nói xong liền không để ý tới A Mạch nữa, xoay người rời đi. A Mạch đợi tiếng bước chân anh ta càng lúc càng xa, lúc này mới để nguyên quần áo nằm xuống giường, tinh thần buông lỏng, vết thương dưới sườn lại bắt đầu đau dội lên, nói là phải ngủ sớm một chút, nhưng làm sao mà ngủ được.



Cứ mở to mắt như thế chịu đựng đến nửa đêm, vết thương mới hơi dịu đi một chút, A Mạch lúc này kiệt sức mà rơi vào mê man, đến khi mở mắt ra thì mặt trời đã lên cao quá đỉnh đầu.



Bên ngoài, Lâm Mẫn Thận gõ cửa gọi: “A Mạch, nhanh lên, cho dù là qua đêm ở kỹ viện thì cũng phải nhanh lên một chút.”



A Mạch nghe anh ta nói thì bực không chịu nổi, nhíu mày, đứng dậy mở ra cửa phòng. Lâm Mẫn Thận lấy từ trong người ra một bình kim sang dược đưa cho A Mạch, nói: “Cầm lấy, về tự bôi đi, lang trung nói phải bôi mấy ngày.” Anh ta thấy A Mạch chần chờ không chịu nhận, liền ấn bình sứ kia vào lòng A Mạch, nói: “Yên tâm đi, không độc chết ngươi đâu. Anh ta nếu đã để ta lưu lại, chính muốn đem cái mạng nhỏ của ta và ngươi buộc chung vào một chỗ. Ngươi mà chết, thì ta cũng chẳng cách nào giải thích được.”



A Mạch không để ý tới sự châm chọc của Lâm Mẫn Thận, thu chiếc bình nhỏ vào trong lòng, thản nhiên nói: “Chúng ta đi thôi.”



Lâm Mẫn Thận thấy nàng lạnh nhạt như thế, ngược lại cảm thấy lạ, không khỏi đuổi theo hai bước, nhìn kỹ vẻ mặt A Mạch, hỏi: “Ngươi không muốn nói gì sao”



A Mạch liếc nhìn anh ta, hỏi ngược lại: “Nói gì?”



Lâm Mẫn Thận nhất thời nghẹn giọng, tức giận nói: “Dù sao về sau ngươi cũng ít gây chuyện thôi, ta không phải nhìn thấy những chuyện như thế thì nhất định sẽ giữ được cái mạng nhỏ của ngươi.”



A Mạch dừng chân lại, xoay người nhìn Lâm Mẫn Thận, yên lặng đánh giá Lâm Mẫn Thận, nhìn đến khi Lâm Mẫn Thận cảm thấy có chút sợ hãi, lúc này mới nói: “Ngươi không muốn lưu lại, ta kỳ thật lại càng không muốn ngươi lưu lại, ngươi cũng không cần phải bảo vệ cái mạng nhỏ của ta, chỉ cần đừng ở sau lưng đâm cho ta một dao là được rồi.”



Lâm Mẫn Thận ngẩn ra: “Ngươi……”



“Ngươi cái gì?” A Mạch ngắt lời anh ta, cười lạnh nói: “Hơn nữa anh ta vì sao phải để ngươi ở lại bên ta, trong lòng ngươi và ta đều hiểu rõ, ngoại trừ đề phòng ngươi còn muốn đề phòng ta, ngươi sao phải bày ra cái bộ dạng buồn cười này!”



A Mạch nói xong phẩy tay áo bỏ đi, chỉ còn lại Lâm Mẫn Thận ngây ngốc đứng ở phía xa xa, hơn nữa ngày mới hồi phục lại, thì thầm lẩm bẩm: “Đây… là nữ nhân sao?”



Lâm Mẫn Thận và A Mạch trở lại thành phủ vào buổi trưa, hai người trắng đêm không về đã kinh động đến Vệ Hưng, Vệ Hưng nghe nói trên người họ vẫn còn vương lại mùi rượu, sắc mặt liền trở nên âm trầm, rõ ràng là rất tức giận. A Mạch đang muốn thỉnh tội, lại bị Lâm Mẫn Thận vụng trộm kéo lại, đành phải đem những lời đã lên đến đầu lưỡi nuốt xuống, chỉ cúi đầu đứng đợi Vệ Hưng trách mắng.



Trong lòng Vệ Hưng vô cùng bực bội, hai người bọn họ, một là con trai độc nhất của Lâm tể tướng, không thể mắng, một là đối tượng mà anh ta đang phải mượn sức, cũng không thể trách. Vệ Hưng đành nén cơn tức giận trong lòng lại, lúc này mới giáo huấn: “Hiện giờ là lúc nào rồi! Hai ngươi còn dám uống say không về! Tại sao lại không biết phân nặng nhẹ như thế!”



A Mạch cúi đầu nói: “Mạt tướng biết sai rồi, về sau cũng không dám nữa.”



Vệ Hưng thấy sắc mặt A Mạch tái nhợt, chỉ nghĩ là nàng say rượu khó chịu, lại thấy nàng rất thành khẩn nhận lỗi, nỗi tức giận trong lòng cũng giảm bớt, lại giáo huấn vài câu rồi cho nàng trở về phòng nghỉ ngơi. Đợi A Mạch đi rồi, Vệ Hưng mới xoay người nhìn Lâm Mẫn Thận, còn chưa kịp mở miệng, Lâm Mẫn Thận đã cười hì hì nói: “Ta sao biết anh ta lại như thế, mới được vài chén rượu đã dính lấy cô nương ở kỹ viện rồi, ta còn phải kéo anh ta ra, nếu không thì túi bạc của ta nguy mất.”



Vệ Hưng chỉ sợ Lâm Mẫn Thận vẫn còn đặt tâm tư lên người A Mạch, liền cố gắng khuyên nhủ: “Mẫn Thận, mặc dù bộ dạng anh ta có vẻ mềm yếu, nhưng thật ra là một viên mãnh tướng, sau này biết đâu lại trở thành trợ thủ đắc lực cho Lâm tể tướng, ngươi ngàn vạn lần không nên đùa giỡn, khinh khi anh ta.”



Lâm Mẫn Thận trưng ra một vẻ mặt đau khổ, rất không tình nguyện nói: “Ta nếu không coi anh ta là huynh đệ thì sao có thể đưa anh ta tới kỹ viện a!”



Vệ Hưng nghe vậy không nói gì, yên lặng nhìn Lâm Mẫn Thận một lúc lâu, thấy trên mặt anh ta đầy vẻ ủy khuất cùng không cam lòng, đành phải bất đắc dĩ khoát tay áo, ý bảo Lâm Mẫn Thận rời đi. Lâm Mẫn Thận vội vàng ra ngoài, cho đến khi ra khỏi viện, khóe miệng mới cong lên một cái, rồi ngẩng đầu tìm A Mạch, đã không thấy thân ảnh của nàng đâu, trong lòng thầm mắng A Mạch người này quả thật chẳng thú vị chút nào, thế mà lại không tò mò xem Vệ Hưng lưu mình lại có việc gì.



Lúc này A Mạch đã về đến viện của mình, hai ngày nay nàng đã phải hao tổn tâm tư rất nhiều, lại thêm thương tích trong người, thể lực cùng tinh thần đã đến cực hạn, chỉ sợ thêm một lát nữa sẽ không thể chịu đựng nổi. Trương Sĩ Cường đã lo lắng đợi nàng suốt một đêm, hiện thấy nàng bình an trở về vừa mừng vừa sợ, vội vàng tiến đến hỏi: “Sao giờ mới về? Đường tướng quân chỉ nói ngươi đi cùng Lâm tham quân…”



A Mạch ngồi xuống giường, khoát tay áo cắt ngang lời Trương Sĩ Cường, hữu khí vô lực nói: “Đừng nói nữa, ta nghỉ một lát, ngươi xem có gì dễ tiêu đem đến cho ta ăn.”



Trương Sĩ Cường cũng phát hiện sắc mặt A Mạch không tốt, nghe nàng phân phó như thế cũng không dám hỏi lại, vội vàng xoay người đi ra ngoài chuẩn bị cơm canh. A Mạch để nguyên quần áo ngã xuống giường, đang lúc mơ màng liền cảm thấy có người vào nhà, ban đầu chỉ cho đó là Trương Sĩ Cường nên cũng không để ý, nhưng đợi một lát không nghe thấy Trương Sĩ Cường gọi nàng, trong lòng kinh nghi, cố gắng mở mắt ra nhìn, đã thấy Đường Thiệu Nghĩa im lặng đứng ở đầu giường.



A Mạch lập tức lại nằm trở lại trên giường, nhẹ nhàng thở dài, nói: “Đại ca, ngươi làm ta sợ muốn chết.”



Đường Thiệu Nghĩa ngồi xuống giường, nói: “Thấy ngươi ngủ, sợ làm ngươi tỉnh giấc nên không dám lên tiếng.”



A Mạch cười cười, không nói gì. Đường Thiệu Nghĩa cũng im lặng, hai người một nằm, một ngồi nhìn nhau không nói gì, im lặng hơn nữa ngày, A Mạch đột nhiên lên tiếng: “Đại ca, ta cảm thấy rất mệt mỏi.”



Đường Thiệu Nghĩa trầm mặc một lát, nhẹ giọng nói: “Sống ở trên đời, có ai là không phiền lụy?”



Ánh mắt A Mạch dừng lại trên đỉnh màn, cười tự giễu, nói: “Đại ca, huynh không biết đấy thôi, ta là người nói dối rất nhiều, nhiều đến nỗi về sau chính ta cũng không biết rốt cuộc lời nào là thật, lời nào là giả dối.”



———————-

1- Mưu kế: nguyên văn là “mưu hoa”, nghĩa là kế hay, nhưng mẹ Cún thấy để mưu kế hay hơn.

2- Bế quan: nghĩa là đóng cửa không giao lưu với bên ngoài.

3- Xuất quan: ngược lại với bế quan.

4- Đoạn này tốn nơ-ron thần kinh quá, hơi lủng củng, các nàng thông cảm nhé. Mấy cái đoạn trích dẫn binh thư này sao mà oải thế không biết
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

113#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:15:05 | Chỉ xem của tác giả
Chương 104

CÕI LÒNG




Lời nói tuy thoải mái, nhưng lại không dấu được sự đau khổ bên trong, Đường Thiệu Nghĩa nghe mà mặt mày rung động, nhẹ nhàng đặt tay lên tay A Mạch, muốn khuyên giải an ủi nàng vài câu, nhưng lại không biết nên nói gì, cuối cùng chỉ nắm chặt tay A Mạch, thấp giọng nói: “Đừng nghĩ nhiều nữa, trên người ngươi có thương tích, trước hãy nghỉ ngơi cho khỏe đi.”



A Mạch quay đầu nhìn Đường Thiệu Nghĩa, hỏi: “Đại ca, nếu ta cũng từng nói dối huynh, huynh có oán ta hay không?”



Đường Thiệu Nghĩa hơi cân nhắc một chút, thành thật sự đáp: “A Mạch, ngươi và ta cùng nhau ra khỏi thành Hán Bảo đến Dự Châu, rồi xông pha trên núi Ô Lan, chiến đấu ở Thái Hưng, cùng trải qua sinh tử, là huynh đệ cùng chung hoạn nạn, miệng nói gì cũng không quan trọng, chỉ cần ngươi vẫn còn gọi ta một tiếng đại ca, ta vẫn sẽ là  huynh đệ của ngươi.”



Trong lòng A Mạch bất chợt dâng lên cả trăm vị, trong mắt có ngấn lệ, vội vàng quay đầu vào phía trong dấu diếm. Đường Thiệu Nghĩa thấy khóe mắt nàng lấp lánh lệ quang, theo bản năng đưa tay định lau, nhưng chưa kịp chạm vào hai má của A Mạch thì bỗng chợt giật mình, vội vàng thu tay lại, mặt nóng bừng.



A Mạch chợt tỉnh táo, lo lắng quay lại hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, ngươi đã hạ quyết tâm rời khỏi quân Giang Bắc?”



Mi mắt Đường Thiệu Nghĩa cụp xuống, che khuất thần sắc phức tạp vừa lóe lên trong mắt,  gật đầu đáp: “Ta đã suy nghĩ rất lâu rồi, chi bằng cứ dứt khoát rời đi có khi lại hơn.”



A Mạch nghĩ ngợi một lát, nghiêm sắc mặt nói: “Nếu đại ca đã quyết định rời đi, vậy thì nên đi cho sớm.” Nàng thấy thần sắc biến ảo trong mắt Đường Thiệu Nghĩa liền giải thích: “Ta nhận được tin tức rất chính xác, tình hình chiến sự tại Vân Tây đang hết sức căng thẳng, trong triều vì tránh lâm vào thế hai mặt thụ địch, cho nên muốn đẩy nhanh việc ký kết hòa ước với thát tử, trừ phía đông Ký Châu và Sơn Đông, toàn bộ vùng Giang Bắc đều phải nhượng lại cho thát tử, ít ngày nữa quân ta nhất định phải di chuyển về Giang Nam.”



Đối với kết quả nghị hòa, Đường Thiệu Nghĩa mặc dù đã sớm có sự chuẩn bị, nhưng khi thực sự nghe thấy kết quả này, thì vẫn tức giận đến lông mày dựng đứng lên, một quyền đấm mạnh xuống giường, căm hận nói: “Trong triều làm như vậy rõ ràng chính là uống rượu độc để giải khát đây mà!”



Tâm tư A Mạch xoay chuyển, nói: “Một khi hòa ước được ký kết, triều đình vì đề phòng quân ta có thể bất ngờ làm phản, tất sẽ tìm cách áp chế các tướng lãnh trong quân, đến lúc đó nếu đại ca muốn đi, sợ là không dễ, chi bằng thừa dịp hiện giờ đàm phán chưa xong mà sớm rời đi là tốt nhất.”



Đường Thiệu Nghĩa cụp mắt trầm mặc một lát, rồi đưa mắt nhìn A Mạch, hỏi: “Ngươi thì sao? Chẳng lẽ thật sự muốn theo quân đi về phía nam?”



A Mạch khẽ cười khổ, ánh mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa chăm chú, thành khẩn nói: “Ta vốn còn chưa xong việc, cho nên phải ở lại trong quân, về sừ tình cụ thể trong đó ta tạm không thể nói, đại ca, ta không muốn phải nói dối huynh.”



Đường Thiệu Nghĩa ánh mắt ngưng đọng, nói: “Ta hiểu, ta không hỏi nữa.”



A Mạch cố gắng ngồi dậy, lại yên lặng nhìn Đường Thiệu Nghĩa một lát, lúc này mới nói: “Đại ca, từ biệt lần này không biết khi nào mới gặp lại, ta vẫn chỉ có câu nói trước kia, chỉ mong đại ca và ta đều còn sống!”



Trên mặt Đường Thiệu Nghĩa cuối cùng cũng lộ ra chút ý cười, đáp rành mạch từng từ một: “Được! Chúng ta, chúng ta nhất định đều phải còn sống!”



Hai người nhìn nhau một lát, cùng mỉm cười. Sau đó Đường Thiệu Nghĩa lại nghiêm sắc mặt nói: “A Mạch, nếu ngươi vẫn gọi ta là đại ca, đại ca có mấy lời này muốn nói với ngươi, ngươi thông minh thiên bẩm, chỉ cần gặp cơ duyên thích hợp, chuyện nổi danh chỉ là sớm muộn. Đại trượng phu lập thân vốn cần kiến công lập nghiệp, nhưng cũng không thể vì chuyện công danh mà cố tình phụ lại ân nghĩa, bỏ mặc dân chúng.”



A Mạch cúi đầu trầm mặc không nói, Đường Thiệu Nghĩa chỉ sợ A Mạch lơ đễnh, lại nói thật thấm thía: “Hiện nay, phần lớn non sông vùng Giang Bắc của ta đã bị thát tử xâm chiếm, phản quân Vân Tây lại từng bước tới gần, dân chúng đừng nói đến của cải, mà ngay cả tánh mạng cũng khó bảo toàn. A Mạch, ngươi và ta đều là người Nam Hạ, cha mẹ huynh muội chúng ta cũng là người Nam Hạ, bảo vệ bách tính Nam Hạ cũng chính là bảo vệ phụ mẫu, huynh muội của chúng ta… A Mạch! Ngươi có nghe không?”



Đường Thiệu Nghĩa càng nói, ngữ khí càng thêm phần nghiêm khắc. A Mạch ngẩng đầu, nhìn Đường Thiệu Nghĩa cười, đáp: “Ta đang nghe.”



Đường Thiệu Nghĩa thấy nàng trả lời hời hợt, sắc mặt lại càng trầm xuống, ngữ khí càng nặng nề hơn: “A Mạch, một mệnh lệnh sai lầm của người cầm quân sẽ đánh đổi bằng tính mạng của binh lính! Thủ hạ của ngươi có hàng trăm, hàng ngàn tướng sĩ, chỉ một sơ xuất của ngươi sẽ đẩy họ vào chỗ chết! Những người này đều là nam nhi tốt của Nam Hạ ta, là cha, là anh, là con của bá tánh, bọn họ đi theo ngươi không phải vì công danh lợi lộc cá nhân, mà vì bảo vệ quốc gia, bảo vệ già trẻ lớn bé trong nhà! Bọn họ giao tính mạng của mình vào tay ngươi, ngươi nhất định phải trân trọng chuyện sinh tử của bọn họ, nếu như điểm ấy mà cũng không làm được! Ngươi cũng đừng đứng ở vị trí cầm quân nữa!”



A Mạch chưa từng nghĩ Đường Thiệu Nghĩa sẽ đột nhiên nói những lời cay độc như thế, kinh ngạc nhìn anh ta, sửng sốt kêu lên: “Đại ca…”



Thấy A Mạch phản ứng như thế, Đường Thiệu Nghĩa phát hiện mình đã nặng lời, bất giác có chút xấu hổ, ánh mắt không được tự nhiên nhìn đi nơi khác, trầm mặc một lát rồi mới khẽ thở dài, thấp giọng nói: “A Mạch, đại ca không phải đồ ngốc, tâm tư của ngươi, đại ca cũng có thể đoán được vài phần, đại ca không ngăn cản ngươi, chỉ cần ngươi trung quân ái quốc, bảo vệ bách tính, đại ca cam tâm tình nguyện…” Nói được nửa chừng, Đường Thiệu Nghĩa lại không nói nữa, một lúc lâu sau mới lại tiếp tục: “Nhưng đại ca tuyệt không thể để cho ngươi đem cả trăm ngàn tính mạng của người khác ra làm bước đệm cho dục vọng của mình.”



Đường Thiệu Nghĩa nói ra những lời như vậy, khiến cho A Mạch không khỏi trợn tròn mắt, hơn nửa ngày mới hồi phục lại tinh thần, mím chặt môi, nhìn Đường Thiệu Nghĩa nói: “Đại ca, ngươi nhìn ta đi.” A Mạch vẻ mặt rất nghiêm túc, thong thả nói thật rõ ràng: “Đại ca, ta tòng quân thực sự không phải vì cứu dân cứu nước, nhưng cũng không phải vì ham công danh lợi lộc. Ta chỉ muốn bảo vệ niềm vinh quang của phụ thân ta, người cũng từng là một quân nhân Nam Hạ, ba mươi năm trước từng chống lại thát tử, bình định tứ phương, chiến công hiển hách, không ngờ cuối cùng lại chết trong tay nghĩa tử của mình.”



Vết thương dưới sườn A Mạch lại đau nhói, mỗi lần hít thở đều đau dội lên, nàng đành phải ngừng lại, nhắm mắt một lát, lúc này mới tiếp tục nói: “Nghĩa  tử đó là một đứa trẻ mồ côi được phụ thân ta thu dưỡng từ trong chiến tranh loạn lạc, lý do hắn ta giết người đã có công ơn giáo dưỡng với mình là vì quốc thù gia hận.”



Đường Thiệu Nghĩa không biết A Mạch có thân thế như vậy, nghe xong, trên khuôn mặt chợt hiện đầy nét thương cảm, hai tay nắm chặt bả vai A Mạch, nhịn không được mà kêu lên: “A Mạch.”



Khóe môi A Mạch nhếch lên một nụ cười châm chọc, nhẹ giọng nói: “Cái gì mà quốc thù gia hận, chẳng qua là e ngại uy danh của phụ thân ta mà thôi! Nên ta càng muốn để cho người nọ biết, Nam Hạ mặc dù không có phụ thân ta, cũng sẽ không để cho người khác biến thành thịt cá trên thớt, phụ thân có ta, Nam Hạ có ta!”



A Mạch chưa bao giờ nói về thân thế của mình với người khác, cho dù có người hỏi, nàng cũng chỉ nói hàm hồ mấy câu cho qua chuyện, giờ lại dùng khẩu khí bình thản, chậm rãi nói với Đường Thiệu Nghĩa. Đường Thiệu Nghĩa nghe mà vừa kinh ngạc vừa mắc cỡ, kinh ngạc vì A Mạch lại có thân thế thế như vậy, mắc cỡ vì anh ta lại hiểu lầm A Mạch, sợ nàng sẽ dùng tính mạng của tướng sĩ để đổi lấy quyền thế danh vọng. Đường Thiệu Nghĩa vốn không phải người có khẩu khiếu lanh lợi, giờ phút này biết mình nghĩ oan cho A Mạch, liền âm thầm tự trách bản thân, vì thế nhất thời lại không biết nên nói cái gì mới tốt, vài lần há miệng, nhưng rồi lại không thể nói ra lời nào.



A Mạch cũng chỉ thản nhiên cười, nói: “Đại ca, là ta không tốt, không nên gạt huynh như vậy.” Nàng không để Đường Thiệu Nghĩa kịp trả lời, lại nói thêm: “Đại ca, huynh đừng hỏi cha ta là ai, cũng đừng hỏi danh tính người kia là ai, được không?”



Đường Thiệu Nghĩa yên lặng nhìn A Mạch, hai tay không tự giác nắm chặt lấy bả vai A Mạch, trầm giọng đáp: “Được, ta không hỏi.”



Giờ phút này, cõi lòng A Mạch đã vững vàng trở lại, trái lại, cảm xúc trong lòng Đường Thiệu Nghĩa lại khuấy động không ngừng, A Mạch sợ anh ta trong lúc nhất thời xúc động sẽ kéo mình ôm vào lòng, vội hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa nhếch miệng cười, cố ý trêu chọc nói: “Đại ca, tay huynh mà dùng thêm chút lực nữa là có thể gỡ được hai cánh tay của ta xuống đấy.”



Đường Thiệu Nghĩa nhất thời quẫn bách, vội vàng buông lỏng tay ra, đúng lúc đó lại nghe thấy tiếng cửa phòng mở ra, Trương Sĩ Cường bưng cơm canh từ ngoài cửa nhẹ nhàng bước vào, nhìn thấy Đường Thiệu Nghĩa ở trong phòng không khỏi sửng sốt, kinh ngạc nói: “Đường tướng quân? Ngài đến khi nào vậy?”



Đường Thiệu Nghĩa đỏ mặt gật gật đầu, cũng không trả lời câu hỏi của Trương Sĩ Cường, chỉ quay đầu nói với A Mạch: “Ngươi nhanh ăn cơm đi, ta về trước đây.” Nói xong, không đợi A Mạch trả lời liền vội vã đứng dậy đi ra ngoài.



Trương Sĩ Cường nhìn thấy thật kỳ quái, nhịn không được quay đầu hỏi A Mạch: “Đại nhân, Đường tướng quân làm sao vậy?” Lời còn chưa dứt, Đường Thiệu Nghĩa vừa ra khỏi cửa đã quay lại, đến trước đầu giường của A Mạch, muốn nói gì đó rồi lại thôi.



A Mạch ngửa đầu nhìn anh ta, ngạc nhiên nói: “Đại ca, làm sao vậy?”



Trên mặt Đường Thiệu Nghĩa vẫn còn chút ửng hồng, vài lần muốn nói lại thôi, cuối cùng khi mở miệng chỉ là câu: “Ngươi nhanh ăn cơm đi!”



Nói xong lại xoay thẳng người bước đi. Trương Sĩ Cường bưng cơm canh đứng trước giường A Mạch, nhìn mà chẳng hiểu gì. Thần sắc A Mạch cũng đầy phức tạp nhìn theo bóng dáng kích động của Đường Thiệu Nghĩa, nhất thời có chút thất thần.



Bên ngoài phòng, mặt trời dù đã ngả về tây nhưng sức nóng lại vẫn vô cùng gay gắt. Đường Thiệu Nghĩa bước nhanh ra khỏi tiểu viện của A Mạch rồi mới dừng lại, chậm rãi mở lòng bàn tay vẫn nắm chặt ra. Trong lòng bàn tay, một khuyên tai bạc phản chiếu ánh nắng mặt trời tỏa ra ánh sáng chói mắt, chính là vật mà hôm qua ở cửa hàng trang sức A Mạch nhìn đến ngây người. Đường Thiệu Nghĩa cúi đầu yên lặng nhìn một lát, đem khuyên tai cẩn thận để vào trong hà bao tùy thân, lại quay đầu đưa mắt nhìn tiểu viện của A Mạch, lúc này mới nhanh chóng rời đi.



Cũng ở trong thành Thái Hưng, Thường Ngọc Thanh một mình ngồi dựa vào gốc cây hòe sau hậu viện, ước chừng đã ngồi đó cả nửa ngày. Thôi Diễn vài lần mượn cớ đi qua, cũng không khiến Thường Ngọc Thanh chú ý, lần cuối cùng, khi Thôi Diễn thật sự không còn kiên nhẫn nữa, lập tức đi đến trước mặt Thường Ngọc Thanh, kêu lên: “Đại ca!”



Thường Ngọc Thanh cụp mi mắt xuống không biết cân nhắc cái gì, thần trí chẳng biết lạc ở đâu, khẽ “Hử” một tiếng.



Thôi Diễn nhìn mà không thở nổi, lại lớn tiếng kêu một tiếng: “Đại ca”, Thường Ngọc Thanh lúc này mới đưa mắt nhìn Thôi Diễn, thản nhiên hỏi: “Chuyện gì?”



Thôi Diễn đặt mông ngồi đối diện với Thường Ngọc Thanh, phẫn nộ nói: “Chẳng qua cũng chỉ là một nữ nhân, huynh nếu thực sự thích nàng như vậy, thì cứ đoạt nàng về, trước đưa vào động phòng rồi sau hãy tính! Khi gạo đã nấu thành cơm, nàng chẳng lẽ còn không ngoan ngoãn đi theo huynh sao!”



[Cuốn thứ 4 hoàn ]
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

114#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:19:29 | Chỉ xem của tác giả
CUỐN THỨ NĂM




CAO TRIỂN SÍ BẰNG TRÌNH THIÊN VẠN LÝ

(Đại bàng cất cao cánh bay xa ngàn dặm)




CHƯƠNG 105

MẠCH TUỆ – Sửa chữa sai lầm








Thường Ngọc Thanh nghe mà dở khóc dở cười, A Mạch là một tướng lãnh hết sức quan trọng của quân Giang Bắc, bao nhiêu năm qua Nam Hạ mới có được, vậy mà qua miệng Thôi Diễn lại thành “chẳng qua chỉ là một nữ nhân”! Lại thấy vẻ mặt tức giận cùng khinh thường của Thôi Diễn, Thường Ngọc Thanh đành phải trầm mặt, giáo huấn: “Ngươi quá loạn ngôn rồi đấy, nàng là tướng lãnh Nam Hạ, sao có thể dễ dàng để ngươi cướp đoạt? Lại còn gạo nấu thành cơm, ngươi coi ta là loại người nào?”



Thôi Diễn gân cổ, trừng mắt nói: “Cái gì mà tướng lãnh Nam Hạ, chẳng phải chỉ là một nữ nhân thôi sao, chúng ta chỉ cần vạch trần thân thế của nàng, ta không tin đám mọi rợ Nam Hạ có thể chấp nhận một tướng quân là nữ nhi! Đến lúc đó đại ca…”



“Thôi Diễn!” Thường Ngọc Thanh đột nhiên lớn tiếng quát, cắt ngang lời Thôi Diễn, sắc mặt đầy vẻ giận dữ, lạnh giọng nói: “Ngươi và ta thân là đại trượng phu, trên chiến trường lại thất bại trong tay nữ nhân đã là một nỗi sỉ nhục rồi, sao có thể lợi dụng thân phận nữ nhân của nàng để bức bách người  ta ủy thân cho mình!”



Thôi Diễn thấy Thường Ngọc Thanh thật sự tức giận, sợ tới mức cúi đầu, miệng cũng chỉ dám nhỏ giọng nói thầm: “Ta cũng chỉ nói thế thôi, đại ca đừng giận a.”



Sắc mặt Thường Ngọc Thanh vẫn lạnh lùng như trước, nói: “A Diễn, dù ta có muốn cướp người, thì cũng là ở trên chiến trường quang minh chính đại cướp lấy, tuyệt sẽ không ngấm ngầm dùng thủ đoạn hạ lưu này, ngươi đánh giá đại ca ngươi quá thấp rồi đấy!”



Thôi Diễn nghe xong vội vàng nói: “Đại ca, ta không có ý đó.”



“Tốt nhất là không có,” sắc mặt Thường Ngọc Thanh thoáng dịu đi, ngừng lại một chút rồi nói thêm: “Về sau đừng bao giờ nhắc lại những lời này nữa!”



Thôi Diễn vội vàng vâng vâng dạ dạ, nhưng trong đầu vẫn vương vẫn chút thắc mắc, chần chờ một lát lại hỏi: “Đại ca, chẳng phải lần này chúng ta sẽ nghị hòa với bọn mọi rợ Nam Hạ hay sao? Chờ nghị hòa xong, đại ca và nàng không còn đánh trận nữa, thế thì làm sao ở trên chiến trường mà cướp người được?”



Thường Ngọc Thanh bị hỏi nhất thời nghẹn giọng, chằm chằm nhìn Thôi Diễn một lúc lâu, thấy trên mặt Thôi Diễn không hề có vẻ đùa giỡn, đúng là thật sự đang thắc mắc về vấn đề này. Thường Ngọc Thanh cười, bất đắc dĩ nói: “Chẳng qua chỉ là một cách nói khác mà thôi, chứ ta đâu thể ở trên chiến trường, trước mặt thiên binh vạn mã mà cướp người được! Lại nói lần này chúng ta nghị hòa cũng không biết là được bao nhiêu năm, chẳng lẽ không bao giờ còn đánh trận nữa sao? Hôm nay nghị hòa, ngày sau lại đánh, chỉ cần Bắc Mạc ta một ngày chưa bình định thiên hạ, thì trận chiến này chỉ là đánh trước hay đánh sau mà thôi.” Thường Ngọc Thanh dừng lại, nhẹ nhàng nhếch môi cười, lại nói tiếp: “Huống chi ta và nàng lại ở hai đầu chiến tuyến, trên tay ta dính máu mười mấy vạn tính mạng người Nam Hạ, trên tay nàng cũng dính máu mấy vạn nam nhi Bắc Mạc chúng ta, vậy thì còn có thể như thế nào được nữa?”



Những lời này khiến tâm tư Thôi Diễn càng thêm rối rắm, lấy tay gãi đầu, rất là khó xử hỏi: “Vậy làm sao bây giờ?”



Thường Ngọc Thanh mày kiếm khẽ nhếch lên, hỏi ngược lại: “Cái gì làm sao bây giờ?”



“Đại ca không phải thích nàng sao?”



Thường Ngọc Thanh nhìn Thôi Diễn, bật cười sang sảng, sắc mặt nặng nề, cười nói: “Bây giờ nên làm thế nào thì cứ làm thế ấy đi, ngươi không phải cũng đã nói rồi sao? Chẳng qua cũng chỉ là một nữ nhân!” Vừa nói, vừa từ dưới tàng cây đứng dậy, tùy ý vỗ vỗ bụi đất bám trên người, rồi một mình xoay người rời đi.



——————-



Tháng bảy năm thứ tư Thịnh Nguyên, trên bàn đàm phán của hai nước Bắc Mạc và Nam Hạ nóng như trên chảo lửa, Bắc Mạc từng bước ép sát, ngoài phần lớn lượng tiền cống hàng năm, còn ép buộc Nam Hạ cắt nhường vùng Giang Bắc gồm tám châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh, Ký. Ngoài bàn đàm phán, Chu Chí Nhẫn đã tập trung hơn mười vạn quân hướng vào phía bắc thành Thái Hưng, chỉ đợi nghị hòa thất bại liền tấn công Nam Hạ.



Sáu châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương đã bị Bắc Mạc khống chế, cắt nhượng thì đã đành, nhưng hai châu Thanh, Ký vẫn còn nằm trong tay mình, cứ như vậy mà đem những vùng đất trong thực tế không hề bị khống chế dâng cho địch, sao tránh được miệng lưỡi thiên hạ? Nhưng nếu nghị hòa không thành thì lại tiếp tục đánh, trong khi chuyện bình định ở Vân Tây mãi không thấy có kết quả, chưa nói đến quốc khố không thể duy trì chi phí quân sự khổng lồ này, mà chỉ cần nói vạn nhất đại quân Bắc Mạc thuận theo sông Uyển đánh xuống Giang Nam, cùng phản quân Vân Tây hai mặt giáp công Thịnh Đô, thì Nam Hạ lập tức sẽ rơi vào hiểm cảnh mất nước.



Triều đình Nam Hạ thực khó xử, những biện thủ(1) trên bàn đàm phán lại càng khó xử. Tuy rằng sứ thần nghị hòa mới tới là Thương tiểu Hầu gia đã mang chỉ thị mới nhất của triều đình đến – cắt nhường những vùng bị chiếm đóng ở Giang Bắc để đổi lấy hòa bình, nhưng không ngờ rằng cái miệng sư tử của Bắc Mạc hóa ra lại rất lớn, ngay cả hai châu chưa công chiếm được là Thanh, Ký cũng đều muốn!



Nếu nhất định phải cắt nhường hai châu đó thì thật uất ức! Nếu không cắt nhường thì lại rất nguy hiểm! Rốt cuộc phải làm thế nào mới tốt?



Biện thủ Nam Hạ quay đầu nhìn thần sắc của sứ thần nghị hòa Thương Dịch Chi, chỉ thấy anh ta vẫn cúi thấp đầu, không nhanh không chậm thổi chén trà trong tay, khuôn mặt vẫn trầm lắng không lộ chút thanh sắc như mọi khi! Nhìn là biết không chịu đồng ý, vậy thì phải tiếp tục đàm phán rồi!



Nhưng phải đàm phán thế nào đây? Biện thủ Nam Hạ vừa khổ sở buồn phiền lại vừa mê man. Vị sứ thần nghị hòa mới tới này đúng là đại Phật gia a, chỉ biết ngồi đó mà chẳng chịu nói gì. Bộ dạng của vị Phật gia này trên bàn đàm phán nếu không phải híp mắt ngủ gà ngủ gật thì là bưng chén nhàn nhã tự tại phẩm trà, đến nửa phần cũng không bằng sứ thần nghị hòa Cao Cát trước đây.



Vẫn phải quay lại cùng Bắc Mạc tiếp tục thương lượng thôi: Nếu không làm như thế này đi, chúng ta cắt nhường sáu châu là Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, tiền cống hàng năm cho các ngươi sẽ nhiều lên một chút, được không?



Cầm đầu đám biện thủ Bắc Mạc: Không được, tiền cống hàng năm các ngươi không thể ít hơn, mà hai châu Thanh, Ký chúng ta nhất định cũng phải lấy.



Biện thủ Nam Hạ phẫn uất: Các ngươi đừng khinh người quá đáng, hai châu này vẫn nằm trong tay chúng ta, dựa vào cái gì chúng ta phải cho các ngươi?



Biện thủ Bắc Mạc khinh thường nói: Chúng ta ở phía tây thành Thanh Châu có đại quân đóng giữ, ít ngày nữa liền đánh hạ Thanh Châu, sau đó đông tiến đánh chiếm Ký Châu, hạ Sơn Đông, chúng ta có thừa sức lấy sông Uyển làm gianh giới!



Biện thủ Nam Hạ nóng nảy: Ngươi nói ngươi có có thừa sức? Nói suông vô dụng, ngươi cứ thử đem thực lực của ngươi chiếm lĩnh toàn bộ phía bắc sông Uyển để chứng minh thực lực của ngươi đi, không cần phải “Phân tích” nhiều! Trên bàn đàm phán tất cả những thứ phân tích đều không thể thừa nhận được.



Biện thủ Bắc Mạc đứng bật dậy vỗ mông nói: Tốt lắm, vậy thì chúng ta đánh tiếp.



Biện thủ Nam Hạ vô lực… Đánh tiếp? Binh lực triều đình chủ yếu đã tập trung  bình định Vân Tây, sao còn có tinh lực cho phương bắc nữa!



Biện thủ Nam Hạ vội vàng đưa tay lên: Đừng nóng vội, ngồi xuống, ngồi xuống đã, có gì chúng ta cứ tiếp tục thương lượng, thương lượng…



Cuối tháng bảy năm thứ tư Thịnh Nguyên, Nam Hạ và Bắc Mạc cuối cùng đã đạt được hòa ước: Thứ nhất, phía tây lấy sông Uyển làm gianh giới, phía đông lấy Thái Hành Sơn làm gianh giới, lấy phía bắc nối liền Bắc Mạc, lấy phía nam nối liền Nam Hạ; thứ hai, Nam Hạ cắt nhường bảy châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh cho Bắc Mạc; thứ ba, hàng năm Nam Hạ phải tiến cống cho Bắc Mạc bạc, lụa mỗi loại năm mươi vạn lượng, tấm; từ năm thứ năm Thịnh Nguyên sẽ bắt đầu, hàng năm vào mùa xuân sẽ đưa tới Thái Hưng giao nộp.



Đến đây, hòa ước Thái Hưng chính thức được ký kết, có người vui mừng có người buồn bã, còn có người nhìn không thấu.



Bên trong dịch quán Thái Hưng, Khương Thành Dực cúi đầu xem kỹ các điều khoản của hòa ước, đến khi nhìn đến điều khoản Nam Hạ chỉ cắt nhường bảy châu Dự, Túc, Ung, Ích, Kinh, Tương, Thanh, thì ngẩng đầu hỏi Trần Khởi: “Nguyên soái, tại sao không lấy nốt cả Ký Châu?”



Trần Khởi một thân thường phục, thẳng lưng ngồi trước án thư, lật một trang của cuốn sách cầm trong tay, tùy ý đáp: “Có Thanh Châu sẽ không cần Ký Châu, bức ép bọn họ quá ngược lại cũng không tốt.”



Khương Thành Dực vẫn khó hiểu, hỏi: “Chẳng phải nói chỉ tiến cống thôi sao? Sao bọn họ lại đổi ý?”



Trần Khởi nghe vậy ngẩng đầu liếc mắt nhìn tâm phúc của mình, khóe miệng lộ ra một ý cười thản nhiên, nói: “Lời nói của Nam Hạ thì làm sao mà chuẩn xác được, hơn nữa thành trì chỉ có tự mình đánh hạ thì mới có ý nghĩa, Thanh Châu có thể cho chúng ta cũng đã là ngoài ý muốn rồi, có thể thấy được Thường gia cũng thật công phu, biết cũng nhiều!”



Khương Thành Dực nghe xong gật đầu, nói: “Khó trách lão hồ li Thường gia lại để Thường Ngọc Thanh đến Thịnh Đô, Thường gia tấn công đã lâu mà không hạ được Thanh Châu, nay mượn cơ hội này lấy được Thanh Châu, về sau làm bàn đạp tấn công hạ Ký Châu. Thường Ngọc Thanh vốn có công phá Tĩnh Dương quan, nếu có thể tiếp tục cướp lấy Ký Châu, e rằng Thường gia có lẽ sẽ được phong hầu.”



Trần Khởi cười cười, khẽ lắc lắc đầu, Thường gia đã tồn tại cả trăm năm, sao chỉ ham muốn một Ký Châu nhỏ bé như vậy!



Khương Thành Dực do dự một lát, lại hỏi: “Nguyên soái, ta vẫn không hiểu vì sao chúng ta phải nghị hòa với Nam Hạ, hiện giờ tình thế của chúng ta đang rất tốt, sao không tiếp tục truy kích, thừa cơ tấn công Nam Hạ? Cùng quân Vân Tây hình thành thế giáp công Thịnh Đô, chắc chắn sẽ diệt được Nam Hạ!”



Trần Khởi buông cuốn sách trong tay xuống, ngẩng đầu nhìn Khương Thành Dực, nói: “Thời cơ tiêu diệt Nam Hạ chưa tới.”



“Vì sao?” Khương Thành Dực hỏi.



Trần Khởi cân nhắc một chút rồi chậm rãi nói: “Quân ta sở dĩ có thể công chiếm Giang Bắc, chẳng qua chỉ dựa vào ưu thế của kỵ binh, thực hiện tấn công thọc sâu, sau đó quay ngược trở lại tấn công Tĩnh Dương quan, mở được biên quan Nam Hạ. Sau khi đại quân lọt qua quan ải cũng là tận dụng lợi thế tốc độ của kỵ binh, áp dụng nhiều hướng đột tiến, tiến công trọng điểm chiến lược. Mặc dù đã đánh hạ được đại bộ phận Giang Bắc, nhưng vốn chiến tuyến vừa trải rộng lại kéo dài, kết quả là binh lực bị phân tán, việc cấp dưỡng cung ứng gặp nhiều khó khăn. Mà Nam Hạ dù bị sa lầy trong vũng bùn bình định Vân Tây, nhưng quốc lực chiếm thế thượng phong, lại có sông Uyển hiểm trở, phòng thủ chiến tuyến tại sông Uyển vững chắc…”



Khương Thành Dực chỉ cảm thấy trong lòng được khai sáng, không khỏi nói tiếp: “Mà quân ta nếu một mình xâm nhập quá sâu, sẽ rơi vào thế hai mặt thụ địch, thêm nữa, càng đi về phía nam, ưu thế của kỵ binh quân ta lại càng giảm, tiếp viện cũng gặp nhiều khó khăn hơn.”



Trần Khởi cười, nói: “Không sai, cho nên hiện giờ không phải thời cơ tốt nhất để tiêu diệt Nam Hạ, cùng đối đầu với Nam Hạ, không bằng quay lại tập trung lực lượng giải trừ nỗi lo về sau(2), trước phân tán lực lượng phản kháng ở Giang Bắc, đợi Nam Hạ dốc toàn lực đối phó Vân Tây, binh lực bảo vệ sông Uyển không đủ, lúc đó chúng ta tấn công Nam Hạ cũng không muộn, trước từ Thanh Châu xuống Ký Châu, Sơn Đông, sau đó vượt qua Giang Nam, đó là thời khắc bại vong của Nam Hạ.”



Khương Thành Dực nghe được kêu lớn một tiếng tuyệt, khen: “Khó trách lần này nguyên soái cùng Thường gia lại thống nhất ý kiến, không để ý đến sự phản đối trong triều mà nghị hòa, thì ra là sớm tính toán kỹ càng rồi.”



Trần Khởi cười mà không nói, lại cúi đầu đọc sách. Khương Thành Dực nghĩ nghĩ, lại có nghi vấn khác, nhịn không được lại hỏi: “Nhưng trước thì hòa ước, sau lại bội ước khởi binh, sợ là không hay cho lắm.”



Trần Khởi cười liếc nhìn anh ta, vui đùa nói: “Đến lúc đó tùy tiện tìm cái cớ nào mà chẳng được? Ngươi cũng không phải ngày đầu tiên mang binh đánh giặc, chẳng lẽ điều đơn giản như vậy cũng không biết đấy chứ?”



Khương Thành Dực đỏ mặt, đang muốn biện giải vài câu, lại nghe thấy ngoài cửa có thân binh bẩm báo sứ thần nghị hòa Tạ Thừa Ân cầu kiến. Khương Thành Dực ngẩn ra, không khỏi nhìn về phía Trần Khởi, thấy trên mặt Trần Khởi cũng hiện lên một tia ngạc nhiên, hiển nhiên cũng không biết Tạ Thừa Ân sao lại đến đây. Khương Thành Dực đang lúc cảm thấy lạ thì Trần Khởi đã lên tiếng: “Mời Tạ đại nhân vào.”



Sứ thần nghị hòa của Bắc Mạc Tạ Thừa Ân từ bên ngoài tiến vào, đồng thời mang đến một tin tức ngoài dự liệu cho Trần Khởi và Khương Thành Dực. Đó là nguyên soái Vệ Hưng của quân Giang Bắc yêu cầu để quân Giang Bắc đóng ở phía tây thành Thái Hưng hội ngộ cùng quân giữ thành Thái Hưng, trước tiến vào thành, đi qua cửa nam thành Thái Hưng, ra khỏi thành Thái Hưng rồi hành quân về hướng Giang Nam.



Trong hòa ước Thái Hưng đã viết rất rõ ràng rằng Thái Hưng là thành trì lệ thuộc Bắc Mạc, cũng quy định quân Giang Bắc nhất định phải đi về Giang Nam, nhưng lại không quy định quân Giang Bắc là đi thẳng về Giang Nam hay là vào thành Thái Hưng rồi mới độ nam(3), vì thế mới sinh ra nghĩa khác, Vệ Hưng liền đưa ra yêu cầu này. Đừng nói Tạ Thừa Ân cảm thấy hồ đồ, mà ngay cả Trần Khởi nghe vậy cũng nhất thời không hiểu.



Vệ Hưng định làm gì?



Tạ Thừa Ân nói: “Vệ Hưng nói quân Giang Bắc vốn là vì Thái Hưng mới ra khỏi núi Ô Lan, vì thế tám vạn đại quân thiệt hại mất quá nửa, hiện nay nhất định phải độ nam, nói cái gì mà muốn cho tướng sĩ được một lần tiến vào thành Thái Hưng.”



Trần Khởi trầm mặc không nói gì, giống như đang cân nhắc. Khương Thành Dực đưa mắt nhìn Trần Khởi, ngạc nhiên nói: “Trong thành Thái Hưng, quân giữ thành đã độ nam hơn phân nửa, chỉ còn lại mấy ngàn người ở trong thành duy trì trị an. Quân Giang Bắc hiện tại không đủ ba vạn, vào thành Thái Hưng thì có thể làm được gì? Chẳng lẽ còn dám thủ thành? Như thế chẳng phải thành cá trong chậu sao?”



Trần Khởi đưa mắt nhìn Tạ Thừa Ân, hỏi: “Tạ đại nhân thấy thế nào?”



Trên mặt Tạ Thừa Ân hiện lên vẻ ngượng nghịu, do dự một chút rồi nói: “Hiện tại hòa ước mặc dù đã ký kết, nhưng hạ quan cảm thấy quân Giang Bắc một ngày chưa di chuyển về phía nam, hòa ước có khả năng sẽ xảy ra chuyện xấu, ý của hạ quan là, chi bằng…”



“Chi bằng trước hết làm theo ý bọn họ, cho bọn họ vào thành Thái Hưng, cũng sớm hoàn thành việc nghị hòa.” Trần Khởi cười, anh ta biết rõ tâm tư của Tạ Thừa Ân, thân là sứ thần nghị hòa, đương nhiên mọi sự đều lấy việc nghị hòa đặt lên hàng đầu.



Tạ Thừa Ân thấy Trần Khởi nói thẳng tâm tư của mình ra, không khỏi có chút ngượng ngùng, vội vàng nói thêm: “Hạ quan không hiểu việc quân, cũng không đoán ra Vệ Hưng rốt cuộc là có ý đồ gì, vẫn là thỉnh Trần soái định đoạt.”

Tuy Trần Khởi nắm trong tay hơn nửa binh quyền của quốc gia, nhưng cách xử sự làm người lại vẫn vô cùng nhũn nhặn, khi kết giao với đám quan văn lại càng khách khí hơn, nghe Tạ Thừa Ân nói thế, liền cười nói: “Tạ đại nhân quá khiêm nhường rồi. Hoàng Thượng lệnh cho ta đưa quân đến Thái Hưng chẳng qua là để đề phòng việc đàm phán thất bại có thể bất ngờ sinh biến cố. Này Hoàng Thượng đã giao việc nghị hòa cho Tạ đại nhân, vậy thì Tạ đại nhân cứ tuỳ cơ mà ứng biến.”



Trần Khởi tuy nói như vậy, nhưng Tạ Thừa Ân cũng không dám vượt mặt đại nguyên soái chinh nam mà tỏ ra chuyên quyền độc đoán, lại vội vàng cùng Trần Khởi khách khí đưa đẩy, thấy Trần Khởi cũng không cố ý làm ra vẻ ta đây, liền đứng dậy cáo từ, nói rằng sẽ đi chuyển thông cáo cho người phụ trách việc nghị hòa của Nam Hạ, cho phép quân Giang Bắc đi qua thành Thái Hưng thành nam độ.



Trần Khởi lại gọi Tạ Thừa Ân lại, cười nói: “Đàm phán đã thành công, ta ở lại trong thành cũng không có tác dụng nữa, hai ngày sau sẽ rút khỏi Thái Hưng đến đại doanh của Chu Chí Nhẫn, sau này sẽ cùng đại quân vào thành.”



Lời này vừa nói ra, lập tức khiến Tạ Thừa Ân giật mình, chỉ có điều ông ta có thể trở thành sứ thần nghị hòa của Bắc Mạc, thì có nghĩa cũng là người rất thông minh, chỉ một lát sau liền hiểu được ý của Trần Khởi, lập tức nói: “Cũng tốt, đợi mấy ngày nữa hạ quan tiếp quản thành Thái Hưng, chắc chắn sẽ đốt pháo nghênh đón Trần soái vào thành!”



Trần Khởi cười tiễn Tạ Thừa Ân đến tận cửa, lại lệnh cho Khương Thành Dực thay mình đưa ông ta ra ngoài. Một lúc sau, Khương Thành Dực trở về, lúc này mới hỏi Trần Khởi về nỗi nghi hoặc trong lòng: “Nguyên soái sợ Vệ Hưng vào thành là vì chúng ta sao?”



Khuôn mặt Trần Khởi bình tĩnh, ánh mắt trầm ổn, thản nhiên đáp: “Thường Ngọc Thanh, Thôi Diễn cùng ngươi và đều ở trong thành, mặc dù là âm thầm vào thành, nhưng khó tránh khỏi có người nhận ra.” Nói tới đây, Trần Khởi bất giác khẽ giật mình mà ngừng lại, song rất nhanh lại phục hồi tinh thần, tiếp tục nói: “Mặc dù đại quân chỉ cách Thái Hưng khoảng một trăm dặm, nhưng vạn nhất khi Vệ Hưng đưa quân Giang Bắc vào thành, sau đó đột nhiên gây khó dễ, mấy người chúng ta e là khó có thể ứng phó được. Cho nên… không thể không đề phòng.”



Ngày hai mươi tám tháng bảy, Trần Khởi, Khương Thành Dực, Thường Ngọc Thanh, Thôi Diễn cùng các tướng lĩnh Bắc Mạc âm thầm ra khỏi thành Thái Hưng đến đại doanh của Chu Chí Nhẫn, cùng ngày hôm đó, sứ thần nghị hòa Bắc Mạc là  Tạ Thừa Ân đồng ý cho quân Giang Bắc của Nam Hạ đi qua thành Thái Hưng mà nam độ.



Đại doanh Chu Chí Nhẫn cách Thái Hưng cùng lắm chỉ một trăm dặm, đám người Trần Khởi chưa đến buổi trưa đã đến bên ngoài đại doanh, chỉ thấy bên trong quân doanh kỷ luật nghiêm minh, hàng ngũ nghiêm chỉnh, phòng vệ chặt chẽ, thỉnh thoảng còn có quân sĩ mặc trang phục cấm vệ quân ra vào cổng doanh trại. Trần Khởi nhìn thấy trong lòng vừa động, Khương Thành Dực ở bên cạnh đã nhỏ giọng hỏi: “Nguyên soái, sao cấm vệ quân cũng đến đây?”



Trần Khởi vẫn chưa trả lời, chỉ xuống ngựa chờ trước cổng doanh trại, sai người vào thông báo cho Chu Chí Nhẫn. Thôi Diễn mất kiên nhẫn, nhịn không được lên tiếng nói: “Nguyên soái sao còn phải cho người thông báo làm gì, quân giữ cổng doanh trại nhìn thấy chúng ta kiểu gì chẳng nhận ra, cứ bảo thẳng hắn mở cổng doanh trại ra là được.” Nói xong liền đi lên định tìm tên quan giữ cổng, vừa nhấc được một bước chân đã bị Thường Ngọc Thanh kéo lại. Thôi Diễn nhìn vẻ mặt trầm mặc của Trần Khởi, lại liếc mắt nhìn Thường Ngọc Thanh đang nhếch khóe miệng cười, tuy không rõ điều gì nhưng cũng dừng cước bộ lại.



Một lát sau, cổng doanh trại mở ra, phó tướng của Chu Chí Nhẫn vội vàng từ trong doanh trại bước ra, một mặt đón đoàn người Trần Khởi vào trong doanh trại, một mặt thấp giọng nói với Trần Khởi: “Hoàng thượng tới, Chu tướng quân đang ở trong đại trướng tiếp thánh giá.”



Trong lòng Trần Khởi mặc dù sớm đã đoán ra, nhưng vẫn kinh ngạc hỏi: “Sao Hoàng Thượng lại đến đây?”



Phía sau, Thường Ngọc Thanh đột nhiên khẽ bật ra tiếng cười chế nhạo, khiến cho mấy người bên cạnh đều đưa mắt nhìn sang, Thường Ngọc Thanh lại cười giải thích với Thôi Diễn: “Đột nhiên nhớ tới câu chuyện cười ngươi kể hôm qua, nhất thời không nhịn được.” Thôi Diễn lần này không ngốc đến nỗi hỏi lại anh ta hôm qua mình kể chuyện cười gì, nhưng cũng không tự chủ được mà liếc mắt nhìn Trần Khởi. Sắc mặt Trần Khởi vẫn bình tĩnh, như thể không nghe thấy Thường Ngọc Thanh nói gì, thấp giọng hỏi viên phó tướng: “Hoàng Thượng tuyên triệu ta vào yết kiến sao?”



Viên phó tướng gật đầu nói: “Hoàng Thượng tuyên một mình nguyên soái vào yết kiến.”



Bên ngoài đại trướng, binh khí như rừng, bảo vệ nghiêm ngặt, quân sĩ bảo vệ mặc áo giáp sáng chói, đều là phục sức cấm vệ quân. Trong đại trướng, tiểu hoàng đế Bắc Mạc đang nghe lão tướng Chu Chí Nhẫn báo cáo dự trù kế hoạch kiến tạo thành lập thuỷ quân, nghe thấy thông báo Trần Khởi đã đến, liền vội vàng cho người triệu Trần Khởi vào trướng.



Trần Khởi tiến vào đại trướng, cung kính hành lễ với tiểu hoàng đế, sau đó ngay lập tức dùng trực ngôn can gián mà nói rằng: “Quân Nam Hạ chỉ cách nơi này hơn một trăm dặm, Hoàng Thượng không nên mạo hiểm đến đây.”



Tiểu hoàng đế Bắc Mạc mới mười bảy, mười tám tuổi, trong ánh mắt vẫn còn lộ vẻ non nớt của một thiếu niên ít tuổi, cười nói: “Ngươi và Chu lão tướng quân đều ở đây, trẫm đâu thể gặp nguy hiểm được!”



Khóe miệng Trần Khởi mấp máy, muốn nói lại thôi. Tiểu hoàng đế thấy vậy lại trêu ghẹo nói: “Ngươi chớ có học Thái Hậu mà suốt ngày nhẩm nhẩm niệm niệm đấy nhé, trẫm đợi ở Dự Châu ước chừng đã hơn một năm nay, thật sự rất nhàm chán, Thái Hậu lại còn truy theo, ngày ngày đều nhắn nhủ nhớ trẫm, giục trẫm quay về, trẫm có lẽ cũng sớm phải chạy về kinh đô mất thôi.”



Hoàng đế kể chuyện cười ai dám không cười? Trong trướng, mọi người đều vội vàng mỉm cười. Trần Khởi cũng cười, mượn cơ hội này không nói lời khuyên can nữa, đợi khi tiểu hoàng đế hỏi về việc tại thành Thái Hưng, liền đem chuyện Vệ Hưng nhất định đòi vào thành Thái Hưng nói ra, tiểu hoàng đế vừa nghe đến trong tay Vệ Hưng không có đủ hai vạn quân, thì chẳng buồn để ý, thậm chí còn nói đùa một câu: “Nghe nói Vệ Hưng trước kia từng làm thị vệ của hoàng đế Nam Hạ, một thân nội gia công phu rất cao, cứ để hắn ta chạy đi như vậy cũng thật đáng tiếc.”



Trần Khởi khẽ nhếch khóe môi, nhưng lại không nói gì.



Tiểu hoàng đế lại hỏi Trần Khởi một chút tình hình trong thành Thái Hưng, cuối cùng mới lệnh cho Trần Khởi lui xuống nghỉ ngơi. Khi Trần Khởi trở lại trong doanh trướng của mình, Khương Thành Dực đã là chờ ở đó, hai người chưa kịp nói chuyện, lại thấy tiểu công công hầu hạ  bên cạnh hoàng đế tiến vào, trên mặt lộ nụ cười lấy lòng, đem một phong thư đặt vào tay Trần Khởi, nói: “Hoàng Thượng lệnh cho nô tỳ giao tận tay cho Trần soái, nói là vừa rồi quên mất.”



Trần Khởi trịnh trọng tiếp nhận, tạ ơn tiểu công công kia rồi nói: “Làm phiền tiểu công công rồi.”



Tiểu công công kia đưa xong rồi cũng không chịu đi, vừa cười vừa nói: “Hoàng Thượng phân phó nô tỳ phải nhìn Trần soái đọc thư xong rồi mới được đi.”



Trong lòng Trần Khởi kinh ngạc, theo lời mở phong thư ra, rút ra một bức thư màu hồng nhạt, bất giác ngẩn người. Khương Thành Dực đứng bên cạnh cũng ngửi thấy có mùi thơm thoang thoảng từ lá thư kia bay ra, nhất thời cũng sửng sốt. Tiểu công công cũng che miệng cười, nói: “Hoàng Thượng lệnh cho nô tỳ chuyển lời tới Trần soái, nếu muốn hồi âm thì cứ viết một phong thư để Hoàng Thượng mang trở về, Trần soái yên tâm, Hoàng thượng nhất định sẽ không đọc đâu.”



Trần Khởi dở khóc dở cười, hướng về phía tiểu công công nói: “Đa tạ ý tốt của Hoàng Thượng.”



Tiểu công công lúc này mới đi. Khương Thành Dực vui tươi hớn hở nhìn Trần Khởi, cười hỏi: “Nguyên soái, là Ninh Quốc trưởng công chúa?”



Trần Khởi khẽ gật đầu, tùy ý đưa mắt nhìn nội dung bức thư, rồi nhét lại vào phong thư đặt lên góc án, nghĩ nghĩ, cảm thấy thế cũng không hay, lại cầm lá thư lên.



Khương Thành Dực vốn rất thân cận với Trần Khởi, khi nói chuyện cũng không câu thúc, lại biết Ninh Quốc Trưởng công chúa từ nhỏ vốn ái mộ Trần Khởi, không khỏi cười nói: “Nguyên soái vốn đã sớm đến tuổi cưới vợ sinh con rồi. Xem ra Hoàng Thượng có ý tác hợp nguyên soái cùng Ninh Quốc Trưởng công chúa, nghe nói Ninh Quốc công chúa vừa xinh đẹp lại vừa hiền thục…”



Trên mặt Trần Khởi lại chẳng hề lộ chút vui mừng nào, trong lòng đột nhiên hiện lên bóng dáng của A Mạch, khi đó nàng mới mười ba, mười bốn tuổi, vẫn thường nắm lấy tay áo mình hỏi khi nào thì sẽ lấy tiểu nha đầu là nàng… Trần Khởi khẽ mỉm cười, chẳng nói gì.



Khương Thành Dực thấy thần sắc Trần Khởi không tốt, liền thôi không nói tiếp chuyện đó nữa, chuyển sang hỏi những ngày tới nên an bài như thế nào. Cõi lòng Trần Khởi đã bình ổn lại, thản nhiên cười nói: “Trước cứ chờ xem đã.”



Ngày mùng một tháng tám, sứ thần nghị hòa của Nam Hạ là Thương Dịch Chi quay về Thịnh Đô phục mệnh, thử thành Thái Hưng là Vạn Lương ở lại thành tiếp tục cai quản Thái Hưng.



Ngày mùng ba tháng tám, Vệ Hưng mang quân Giang Bắc từ phía tây thành Thái Hưng vào thành, nhưng không đi ra theo cửa phía nam như đã nói mà lại trú lại trong thành, ép Vạn Lương đóng tất cả bốn cửa thành lại, cũng không động chạm gì đến phái đoàn nghị hòa của Bắc Mạc, ngược lại, dung túng cho quân binh cướp phá cửa hàng của các phú hộ trong thành.



Vì sao Vệ Hưng lại cứ nhất quyết phải vào thành Thái Hưng cho bằng được, giờ thì mọi người đã nhất thời sáng tỏ, chẳng qua mắt thấy Thái Hưng sẽ được cấp cho Bắc Mạc, liền bất chấp nguyên tắc, lúc sắp đi muốn cướp phá sạch sẽ rồi mới tiến về phía nam.



Quả nhiên chẳng thể phân biệt được là binh lính hay giặc phỉ a!



Quân Bắc Mạc nhất thời đều ngạc nhiên. Lặng im một lát, tiểu hoàng đế mới than nhẹ một tiếng: “Vệ Hưng đã từng làm cận thần cho hoàng đế Nam Hạ, sao mới vào quân Giang Bắc chưa đầy một năm lại biến thành phường lưu manh vô lại thế này, quân Giang Bắc chẳng lẽ chính là một nhóm sơn tặc thổ phỉ hay sao?”



Chư tướng trong trướng phần nhiều đã cùng giao chiến với quân Giang Bắc, đều biết rằng sự lợi hại của quân Giang Bắc thì sơn tặc thổ phỉ còn lâu mới sánh bằng, riêng Thôi Diễn vốn nhanh mồm nhanh miệng, chỉ có điều những câu vọt ra miệng thường chưa thông qua đầu óc, lập tức nói: “Cũng không phải vậy! Đường Thiệu Nghĩa vốn cũng từng làm phỉ, trước kia từng mang theo một đám kỵ binh đánh cướp quân ta ở Tây Hồ. Trong đó còn có kẻ gọi là Mạch Tuệ, lại…”



Thôi Diễn nói đến đây mới đột nhiên tỉnh ngộ, trong giây lát liền ngậm miệng. A Mạch tuy có rất nhiều điểm không tốt nhưng cũng là người mà Thường Ngọc Thanh thích, há có thể trước mặt hoàng đế và bao nhiêu người khác mà mắng nàng sao.



Tiểu hoàng đế vốn đang nghe, thấy Thôi Diễn đột nhiên không nói nữa, không khỏi có chút kỳ quái, hỏi: “Mạch Tuệ có phải là kẻ đã mai phục Thường Ngọc Tông không? Lại thế nào, sao không nói tiếp?”



Khóe mắt Thôi Diễn cẩn thận liếc nhìn Thường Ngọc Thanh, ý nghĩ trong đầu đã xoay chuyển vài vòng, trên mặt liền hiện ra vẻ xấu hổ, ngượng ngùng nói: “Thần là bại tướng dưới tay hắn ta, không có mặt mũi nào để nói hắn.”



Tiểu hoàng đế cũng đang lúc vui vẻ, nên chẳng những không có trách cứ Thôi Diễn, ngược lại còn an ủi anh ta: “Thắng bại là chuyện thường của nhà binh, cũng không cần phải như vậy.”



Thấy tiểu hoàng đế như thế, Chu Chí Nhẫn và Thường Ngọc Thanh bất giác đều nhẹ nhàng thở ra, thầm nghĩ tiểu tử Thôi Diễn này đúng là một tên ngốc thành thực, vận khí cũng không tồi, gặp đúng lúc tâm tình của tiểu hoàng đế đang rất tốt. Vệ Hưng dung túng cho binh lính đánh cướp dân chúng Thái Hưng, chính là tự hủy căn cơ của mình, tiểu hoàng đế mừng rỡ chế giễu, cười nói: “Cứ để mặc cho Vệ Hưng cướp bóc mấy ngày nữa rồi chúng ta dán thông báo an dân, thể hiện rằng quân ta chính là đội quân nhân nghĩa yêu dân.”



Tuy nói như thế, song tiểu hoàng đế vẫn hạ lệnh cho đại quân Bắc Mạc chuẩn bị có thể nhổ trại bất cứ lúc nào để “Cứu” dân chúng Thái Hưng khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. Ai ngờ đại quân Bắc Mạc còn chưa kịp nhổ trại, thì từ thành Thái Hưng lại truyền ra tin tức: Vệ Hưng bị thủ hạ là hữu phó tướng quân Mạch Tuệ giết, đoạt lấy binh quyền, sau đó dán thông báo an dân, tiếp đó lại bố cáo trước dân chúng tuyên ngôn chống giặc ngoại xâm, rồi đưa binh ra khỏi Thái Hưng đi về hướng đông!



Trong đại trướng, tiểu hoàng đế Bắc Mạc sắc mặt âm trầm ngồi sau ngự án, viên tiểu công công từ ngoài trướng đi vào, dâng một tờ giấy được cuộn tròn lên trước án. Tiểu hoàng đế thản nhiên nhìn lướt qua, lạnh giọng phân phó: “Đọc đi.”



Trong trướng lập tức vang lên thanh âm the thé của tiểu công công:



“Mạch Tuệ, quê quán không rõ, sinh năm Đinh Hợi.



Năm Thiên Hạnh thứ bảy, theo thủ thành Thanh Châu là tướng Thương Dịch Chi gia nhập quân đội, trước khi tới Dự Châu là thân vệ của Thương Dịch Chi, sau gia nhập vào quân số bộ binh doanh của quân Thanh Châu, trong chiến dịch Dã Lang Câu chém hai mươi ba quân sĩ Bắc Mạc, được thăng làm Ngũ trưởng.



……



Năm Thiên Hạnh thứ tám, trong chiến dịch Ô Lan, dùng ba trăm tàn quân dụ Thường Ngọc Thanh liều lĩnh vượt ngàn dặm tiến vào núi Ô Lan, được thăng làm thiên tướng quan doanh.



Năm Thiên Hạnh thứ chín, trong chiến dịch Thái Hưng, cho quân mai phục tại Bạch Cốt Hạp giết hại ba vạn kỵ binh của Thường Ngọc Tông, sau tại bờ phía đông sông Tử Nha đánh tan truy binh của Thôi Diễn…”



———————-

Chú thích:

1-    Biện thủ: người phụ trách việc biện luận trong cuộc nghị hòa.

2-    Mối lo về sau: nguyên văn: Hậu cố chi ưu

3-     Nam độ: tiến quân về phía nam
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

115#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:21:03 | Chỉ xem của tác giả
Chương 106

ĐÔNG TIẾN




Bên trong đại trướng yên lặng như tờ. Cứ thế mà tính ra, thì mấy viên đại tướng chinh nam của Bắc Mạc, liên quan đến nguyên soái Trần Khởi, hóa ra đều từng là bại tướng dưới tay của Mạch Tuệ! Chu Chí Nhẫn, Chu lão tướng quân đứng nghiêm trang trước án trong tư thế mắt nhòm mũi, mũi nhòm mồm, hoàn toàn rơi vào trạng thái của một lão tăng nhập định, trầm mặc không nói năng gì. Trần Khởi cụp mắt xuống, che khuất thần sắc trong ánh mắt. Sắc mặt Thường Ngọc Thanh thì vẫn không thay đổi, khóe môi khẽ nhếch lên. Chỉ có Thôi Diễn khuôn mặt trắng bệch lộ ra vẻ vô cùng giận dữ.



Thanh âm của tiểu hoàng đế có chút âm lãnh vang lên, phá vỡ bầu không khí tĩnh mịch trong trướng: “Hay cho một gã Mạch Tuệ!”



Đây có thể coi như một lời kết án không?



Khá khen cho ý niệm quá mức mạnh mẽ của tiểu hoàng đế, khiến cho A Mạch dù đã đi về hướng đông, cách rất xa thành Thái Hưng, hiện đang đứng ở điểm cao quan sát đại quân hạ trại, cũng cảm nhận được mà không khỏi hắt xì một cái thật to. Phía sau, cách đó không xa, Lâm Mẫn Thận thúc ngựa vài bước chạy lên. Anh ta đã thay trang phục thân binh, lông mày có vẻ dày lên không ít, trên mặt cũng xuất hiện râu quai nón, vừa nhìn thấy liền có cảm giác như đã biến thành người khác, chỉ có ánh mắt kia là vẫn trong trẻo như trước, giọng điệu mang theo vài phần mỉa mai, tựa tiếu phi tiếu liếc nhìn A Mạch, hỏi: “Thế nào? Mạch tướng quân bị trúng phong hàn sao?”



A Mạch biết anh ta đối với việc lừa giết Vệ Hưng còn có chút oán khí, cũng không muốn cùng anh ta so đo, chỉ quay đầu nói với Trương Sĩ Cường đang đứng bên cạnh: “Những ngày này thời tiết hay thay đổi, chúng ta lại hành quân ngày đêm, trong quân sợ là cũng có không ít người bị phong hàn, ngươi đi thông báo với Lý Thiếu Hướng, bảo anh ta làm canh sinh khương(1), không phân biệt là quan hay binh, mỗi người đều nên uống một ít.”



Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch căn bản không để ý tới mình, trong lòng lại khó chịu, trên mặt liền ra vẻ kinh ngạc, hỏi: “Sao thế? Mạch tướng quân ngay cả sinh khương cũng cướp sao?”



Lời này vừa nói ra liền chọc cho Trương Sĩ Cường tức giận trợn mắt nhìn Lâm Mẫn Thận, song A Mạch vẫn không hề bực mình, chỉ bảo Trương Sĩ Cường: “Mau đi đi.” Trương Sĩ Cường lườm Lâm Mẫn Thận một cái rồi lĩnh mệnh mà đi. A Mạch lại cho thân binh bên cạnh đều lui xuống, lúc này mới quay lại nhìn Lâm Mẫn Thận, đột nhiên hỏi: “Vệ Hưng là ai giết?”



Lâm Mẫn Thận ngẩn ra, theo bản năng trả lời: “Không phải ngươi bày kế dụ ông ta ra để giết sao?”



A Mạch thản nhiên cười, nói: “Vệ Hưng một thân công phu vang danh khắp từ nam ra bắc, những tướng lãnh binh sĩ bình thường khác đâu thể nào là địch thủ của ông ta?”



Lâm Mẫn Thận hiểu ám chỉ trong lời nói của A Mạch, lạnh mặt nói: “Không sai, là ta giết. Mặc dù ngươi bày kế khiến vết thương cũ của anh ta vỡ toác ra, nhưng kẻ ra sát chiêu cuối cùng là ta.”



Sắc mặt A Mạch thay đổi, lạnh lùng nói: “Nếu người là do ngươi giết, vậy thì ngươi cũng không nên nói quá nhiều những lời rắm thối như vậy?”



Lâm Mẫn Thận bị lời lẽ thô tụng của A Mạch chặn ngang họng, liền nhìn A Mạch trân trối: “Ngươi, ngươi…”



A Mạch nói tiếp: “Vệ Hưng võ công cao cường, cho dù vết thương cũ bị vỡ, nội lực bị hao tổn, nhưng nếu ngươi niệm tình xưa nghĩa cũ không chịu động thủ, thì ta có thể làm gì được ông ta? Ngươi đã xuống tay giết ông ta, giờ có nói cái gì cũng đã muộn rồi, cứ cứ cau cau có có chẳng qua là muốn tìm cho mình một lý do để rũ bỏ trách nhiệm, khiến cho thâm tâm mình được thoải mái một chút mà thôi.” Nói đến đó, thần sắc của A Mạch bỗng trở nên lạnh lùng, ánh mắt như phủ một tầng sương lạnh,“Giết chính là giết, vì quyền thế cũng được, mà vì danh lợi cũng thế, có gan thừa nhận cũng coi như có can đảm. Tốt xấu gì cũng là một nam nhân, đừng có hơi một chút lại làm những việc khiến người ta phải coi thường!”



Một hơi lôi hết tâm tư trong lòng Lâm Mẫn Thận ra, khiến anh ta á khẩu không trả lời được, nghẹn hơn nửa ngày mới không cam lòng tranh cãi: “Nhưng ngươi rõ ràng có thể lưu tánh mạng ông ta lại, hơn nữa cho dù giết ông ta là bất đắc dĩ, vì sao còn hắt thêm bát nước bẩn lên người ông ta? Ông ta dung túng cho binh lính cướp phá khi nào? Chẳng qua chính ngươi muốn nhân cơ hội này đánh cướp vật tư quân lương thì có! Còn giả mù sa mưa dán thông báo an dân, thế tại sao không thấy ngươi đem tiền tài trả lại cho dân chúng?”



Lông mày A Mạch khẽ nhếch lên, hỏi ngược lại: “Vệ Hưng làm ảnh hưởng đến danh tiếng mấy vạn tướng sĩ quân Giang Bắc, vì sao ta không thể giết anh ta? Ta không đánh cướp quân tư, thì ai có thể đem tới cho ta? Về phần vì sao ta phải đem tội danh này đổ lên đầu Vệ Hưng, chẳng lẽ thân là công tử của Lâm tể tướng mà ngươi lại không biết duyên cớ bên trong hay sao?” A Mạch cười xùy một tiếng, chế nhạo: “Việc này, vốn dĩ Lâm tể tướng thành thục hơn người khác rất nhiều, Lâm công tử lẽ nào lại chưa từng thấy qua? Chẳng lẽ Lâm tể tướng vẫn nuôi ngươi như nuôi con gái mà nhốt ở trong nhà sao?”



Lâm Mẫn Thận bị A Mạch dùng lời nói chèn ép mà đỏ bừng cả mặt, rốt cuộc không còn giữ được dáng vẻ cà lơ phất phơ nữa, chỉ thẳng vào A Mạch giận dữ nói: “Ngươi! Ngươi…”



A Mạch cười lạnh nói tiếp: “Ta làm sao? Ta chưa bao giờ tự nhận mình là bậc đại thánh nhân Bi Thiên Mẫn Nhân(2), cũng không nghĩ sẽ làm đại anh hùng Nghĩa Bạc Vân Thiên(3), cho nên ngươi không được chỉ trích ta, nói cho cùng thì ngươi chẳng có tư cách này, Lâm gia nếu thật sự là trung thần lương tướng, thì hiện giờ Lâm Mẫn Thận ngươi cũng sẽ không có mặt ở đây!”



Lâm Mẫn Thận vẫn chưa từ bỏ ý định bài bác liền nói: “Hiện nay hoàng đế chính là kẻ giết huynh đoạt quyền, Lâm gia ta nhất định phải bảo vệ hoàng thất chính thống, như thế có gì là sai?”



A Mạch cười khẩy nói: “Lâm gia nhất định phải bảo vệ hoàng thất chính thống? Vậy thì phải làm sớm hơn từ vài chục năm trước kia? Ngươi cho là ta không biết sao? Tề Cảnh mặc dù không phải ngồi lên ngôi vị hoàng đế một cách chính thống, nhưng trong lòng lại rất nặng hai chữ “Chính thống” này. Thái tử trời sinh thông minh, tính tình lại quá mức trung hậu, Tề Cảnh sợ thái tử sau này không khống chế được những lão thần quyền cao chức trọng, trước thuận tiện giúp Nhị hoàng tử Tề Mẫn mài đao, một mặt quan sát mũi dao nhọn của thái tử, thuận tiện thanh trừ những thần tử có dị tâm. Lâm tể tướng là kẻ cáo già như thế nào, chẳng lẽ lại không nhìn thấu tâm can của đế vương, vì thế liền làm ra một bộ dạng thần tử thuần túy vô hại, căn bản không can dự vào chuyện tranh đấu của các hoàng tử. Đáng tiếc, hoàng đế cũng chẳng phải là kẻ lương thiện, nên vẫn quyết tâm phải ra tay trước, thay thái tử diệt trừ cây đại thụ là Lâm tể tướng này, cho nên mấy năm qua luôn tỉa bỏ cành lá của Lâm tể tướng, chờ đến khi chỉ còn lại một thân cây trơ trụi, để cho tân đế sau khi đăng cơ sẽ đạp đổ thân cây đó để lập uy. Mặc dù Lâm gia hiện giờ nhìn vào thì phong quang sáng lạn, kỳ thật sớm đã là gan thỏ trước miệng cọp rồi…”



Lâm Mẫn Thận nói không nên lời, kinh ngạc nhìn A Mạch, như thể không còn nhận ra nàng là ai nữa.



Loại người như Lâm Mẫn Thận được gọi là đệ tử thế gia, mặc dù trên mặt đối với ai cũng đều thân thiện, nhưng trong lòng thật ra lại rất xem thường người khác, A Mạch một phen nói tuột hết tâm can của anh ta ra, khiến anh ta khó tránh khỏi chấn động đến nỗi nhất thời thất thố. A Mạch khinh thường cười cười, lại nói tiếp: “Nếu không Lâm tể tướng vốn là kẻ dưới một người trên vạn nhân, vì sao lại phải chạy đi phù trợ một thái tử mồ côi từ trong bụng mẹ, giữ gìn chính thống cái gì! Ta nói vậy đúng hay sai, Lâm công tử? Ta không thích sự nhiễu loạn ở Thịnh Đô nhưng không có nghĩa là ta không nhìn thấu sự nhiễu loạn đó! Lâm công tử, A Mạch ta nói có chỗ nào sai không?”



Lâm Mẫn Thận sửng sốt một hồi lâu, lúc này mới chậm rãi nói: “Có một chỗ ngươi nói sai rồi…”



A Mạch nhướng mày: “Vậy à?”



Lâm Mẫn Thận nói tiếp: “Lâm tướng công tử đã chết theo Vệ Hưng rồi, trước mặt ngươi không phải là Lâm công tử, mà chính là thân binh của Mạch tướng quân tên là Mục Bạch mà thôi.”



A Mạch đanh mặt, lạnh giọng nói: “Ngươi còn nhớ thân phận của mình là tốt rồi!”



Nói xong cũng không buồn để ý đến Lâm Mẫn Thận nữa mà giục ngựa chạy về chân núi nơi đại quân hạ trại.



Lâm Mẫn Thận nhất thời không có phản ứng gì, thần sắc phức tạp nhìn theo bóng dáng A Mạch. Sau biến cố ở thành Thái Hưng, anh ta đã cải trang trà trộn vào trong đội thân binh của A Mạch, mới đầu còn sợ bị người khác nhận ra thân phận, rồi lại thấy A Mạch chẳng cố kỵ chút nào mà sai khiến mình khiến anh ta càng cảm thấy kỳ quái, sau suy nghĩ cẩn thận lại liền thông suốt. Từ lúc còn ở trong núi Ô Lan, khi đó các doanh phân tán khắp nơi, anh ta và tướng lĩnh các doanh tiếp xúc không nhiều lắm. Sau lại trải qua vài trận chiến, nhiều tướng lãnh đã hy sinh, những người còn sống sót cũng không nhiều, quen biết anh ta lại càng ít. Hơn nữa, sau biến cố tại Thái Hưng, A Mạch đã tiêu diệt hết tâm phúc của Vệ Hưng, nên những kẻ có thể nhận ra Lâm Mẫn Thận lại càng không có mấy. Nếu có, cũng đều là tâm phúc của A Mạch.



Tham quân Lâm Mẫn Thận sớm đã chết ở trong thành Thái Hưng, kẻ hiện giờ còn sống chẳng qua là tên thân binh Mục Bạch mà thôi! Lâm Mẫn Thận chậm rãi lắc lắc đầu, thong thả cưỡi ngựa đi về hướng doanh trại.



Trong quân đã bắt đầu nổi lửa thổi cơm, binh lính tuy bận rộn nhưng cũng không hề bối rối, chỉ trong chốc lát đã ngửi thấy mùi cơm chín. Trước lúc xảy ra biến cố ở Thái Hưng, A Mạch đã âm thầm phái người giả làm thương lái đi về hướng Thanh Châu thu mua tích trữ lương thảo ở các trấn dọc đường! Bởi vậy lần này, quân Giang Bắc không có xe chở đồ lương thảo, quân nhu đi cùng, lại hành quân ngày đêm, tốc độ cực nhanh, hiện nay đã tiến vào vùng trung du phía đông Tương Châu. Nơi này cách Thái Hưng rất xa, lại có địa hình thuận lợi, kỵ binh Bắc Mạc truy kích theo lại bị Trương Sinh dẫn kỵ binh quấy nhiễu, hiện giờ cũng chỉ có thể nhìn theo bóng lưng của quân Giang Bắc mà than thở.



Lâm Mẫn Thận không khỏi than nhẹ một tiếng, A Mạch người này tâm tư kín đáo, lắm mưu nhiều kế, thật không giống với nữ nhân, thực không thể xem nhẹ nàng.



Giữa tháng chín, quân Giang Bắc thoát khỏi sự truy đuổi của truy binh Bắc Mạc mà vượt trước đến phía tây thành Thanh Châu, quân Bắc Mạc do Thường Tu An làm chủ tướng vốn trú quân ở ngoài thành Thanh Châu, do sớm nhận được chiến báo(4) của Trần Khởi, nên đã cho quân mai phục cách thành Thanh Châu bốn mươi dặm về hướng tây để ngăn chặn quân Giang Bắc. Ai ngờ quân Thanh Châu vốn từ lâu đóng cửa ở trong thành như gấu ngủ đông đột nhiên lại theo sát sau lưng, cùng quân Giang Bắc giáp kích trước, sau khiến quân của Thường Tu An đại bại, sau đó, quân Giang Bắc lại không chút hoang mang mà tiến thẳng vào thành Thanh Châu, khiến kỵ binh Bắc Mạc dù đuổi sát tới nơi cũng chỉ có thể đứng ngó ở ngoài cổng thành.

Thành Thanh Châu, phía bắc tiếp giáp sông Tử Nha, phía đông dựa vào dãy núi Thái Hành, phía sau cắt ngang qua dãy Thái Hành khoảng một trăm dặm là khe núi Phi Long. Vách núi hai bên cao chót vót, một con đường nhỏ hẹp xuyên qua hơn trăm dặm. Người xưa cho rằng: chiếm cứ Phi Long, chèn ép cổ họng phía sau, tiến sát đến Ký, Lỗ, nhất định thắng. Theo khe núi phía đông có thể tấn công Ký Châu, theo phía nam vượt qua sông Uyển có thể tấn công Nghi thành, theo phía tây có thể uy hiếp Tân Dã, Dự Châu, đúng là một cửa ải quân sự hiểm yếu, tấn công hay phòng thủ đều thuận lợi.



Quân Giang Bắc đã vào Thanh Châu, Bắc Mạc dù có mấy vạn kỵ binh cũng chỉ có thể nhìn tòa thành mà than thở. Thường Ngọc Tông truy kích thẳng một đường đến đây, nhìn thành Thanh Châu không nhịn được mà chửi ầm lên, nhưng mắng chửi một hồi cũng cảm thấy thật vô vị, đành mang theo ba ngàn quân tiên phong phẫn nộ mà quay về. Đợi bại binh của Thường Tu An quay trở về, Thường Ngọc Thanh tự mình giúp thúc phụ Thường Tu An thu thập tàn quân. Ba chú cháu Thường gia tề tụ trong trướng, thúc thúc Thường Tu An kích động thiếu chút nữa ngay cả nước mắt cũng rớt xuống, hai bàn tay nắm chặt lại, thầm nghĩ hai tiểu tử các ngươi mà đến muộn thêm chút nữa, thì cái mạng già của thúc thúc này có lẽ đã bỏ lại tại đây.



Thường Ngọc Tông vẫn vì chuyện mình thiếu chút nữa đuổi theo quân Giang Bắc mà canh cánh trong lòng, Thường Ngọc Thanh liếc mắt nhìn anh ta, cười nhạo nói: “Ta sớm đã nói là không cho ngươi truy đuổi, nếu quân Giang Bắc đã dám quay lại thu dọn chiến trường thì sợ gì sự truy đuổi của ngươi, coi như mọi chuyện đã định rồi, ngươi có đuổi theo cũng không kịp!”



Thường Ngọc Tông cúi đầu không nói gì, chỉ có Thường Tu An tức giận tiếp lời: “Thất nhi, ngươi cùng quân Giang Bắc giao chiến đã nhiều, ngươi nói cho tam thúc nghe, quân Giang Bắc rốt cuộc là loại quân gì? Ngươi xem, bọn chúng thu dọn chiến trường so với dùng chổi sắt quét còn sạch hơn! Đừng nói đến khí giới mà chúng ta vất vả chế tạo đều bị đoạt đi, mà ngay cả áo giáp trên người những tướng sĩ chết trận của ta chúng cũng cởi sạch! Thế này, thế này, thế này hóa ra còn không bằng cả thổ phỉ!”



——————————

Chú thích:

1- Sinh khương: tên một vị thuốc họ gừng có công dụng trị cảm lạnh.

2- Bi thiên mẫn nhân: Bi, tức là chữ bi trong từ bi, “bi thiên mẫn nhân” tức là cảm thán thời đại bấp bênh, thương xót đời người thống khổ

3- Nghĩa bạc vân thiên: có tình có nghĩa

4- Chiến báo: chiến nghĩa là chiếu đấu, chiến tranh; báo nghĩa là thông báo.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

116#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:23:39 | Chỉ xem của tác giả
Chương 107

THANH CHÂU




Kỳ thật cũng chẳng thể trách Thường Tu An cảm thấy tức giận, quân Giang Bắc đi qua nơi nào thì nơi ấy chẳng khác gì vừa gặp đại dịch châu chấu, thế thì làm gì có ai không cảm thấy tức giận? Đừng nói ông ta, mà ngay cả thống soái A Mạch của quân Giang Bắc, nhìn thấy Lý Thiếu Hướng chỉ huy người khuân khuân, vác vác, trong mắt cũng không khỏi bốc hỏa. Đợi đến khi có hai tên lính khuân nồi niêu xoong chảo đi ngang qua nàng, A Mạch thật sự không nhịn được nữa, đưa tay cản hai tên lính kia lại, hết chỉ cái này lại chỉ cái kia hỏi Lý Thiếu Hướng: “Đây là cái gì?”



“Nồi a.” Lý Thiếu Hướng cười tủm tỉm đáp.



A Mạch hít sâu một hơi, lúc này mới nói: “Ta biết đây là nồi, là ta hỏi ngươi, ngươi cho người xách mấy cái nồi rách này về để làm gì?”



Nghe A Mạch hỏi thế, Lý Thiếu Hướng trợn tròn mắt, lấy tay chỉ vào mấy cái nồi, kêu lên một cách rất khoa trương: “Đại nhân, đây chính là sắt đấy! Nấu chảy ra làm thành cái gì chả được!”



A Mạch nghẹn lời không thể nói được gì, chỉ đành phẩy phẩy tay áo, ý bảo anh ta mau cho người đem nồi sắt đi. Nồi thủng vừa mang đi, phía sau lại có binh lính ôm một lá cờ Bắc Mạc lại. A Mạch chẳng qua mới nhìn lướt qua, Lý Thiếu Hướng lập tức cầm lấy lá cờ kêu lên: “Đại nhân, ngài sờ thử chất vải này mà xem, rất mềm mại, nếu không thể đem về nhà làm yếm cho thê tử, thì có thể để cho mọi người làm…”



“Ngừng!” A Mạch thật sự không có cách nào có thể tưởng tượng ra mình lại đem lá cờ Bắc Mạc kia mặc lên người, đành phải vội vàng nói: “Ngươi muốn làm thế nào thì cứ làm như thế đi!”



Lý Thiếu Hướng giả dối cười cười, quay đi tiếp tục kiểm kê chiến lợi phẩm. A Mạch không còn hứng thú xem tiếp, quay lại tìm thủ thành Thanh Châu là tướng Tiết Vũ. Người này vốn là một viên tướng tâm phúc của Thương Dịch Chi, năm thứ hai Thịnh Nguyên, Thương Dịch Chi từ Thanh Châu đi cứu viện Thái Hưng, đã lệnh cho anh ta lưu lại trấn giữ Thanh Châu, đến nay đã được hơn hai năm, cuối cùng không đợi được Thương Dịch Chi đến, mà lại là Mạch Tuệ và quân Giang Bắc.



Vốn đã nhận được lệnh từ trước của Thương Dịch Chi, A Mạch vừa vào Thanh Châu, Tiết Vũ đã đem toàn bộ quân vụ thành Thanh Châu giao cho A Mạch. A Mạch tiếp quản Thanh Châu, song vẫn rất tín nhiệm Tiết Vũ, việc canh phòng thành trì phần nhiều vẫn dùng những tướng lãnh cũ của Thanh Châu. Kể từ đó, công việc phòng ngự tiến hành thật sự thuận lợi, chỉ qua một, hai ngày, quân coi giữ tường thành Thanh Châu đều đổi thành quân Giang Bắc.



A Mạch đang cùng Tiết Vũ thương nghị hủy bỏ chế độ hai quân đội để sáp nhập thành một đội quân duy nhất, Vương Thất, tạm lĩnh chức đội trưởng thám báo quân Giang Bắc, từ bên ngoài bước nhanh vào, nói: “Thường Ngọc Thanh đã lui binh.”



A Mạch và Tiết Vũ đều ngẩng đầu lên nhìn Vương Thất, trên mặt Vương Thất vẫn còn lưu lại một tia hưng phấn, nói với A Mạch: “Đúng như đại nhân dự liệu, hai vạn kỵ binh của Thường Ngọc Thanh và mấy ngàn tàn binh của cũng Thường Tu An đã nhổ trại theo hướng tây bắc đi về phía thành Võ An.”



Thành Võ An, cách thành Thanh Châu cùng lắm chỉ hơn một trăm tám mươi dặm, từ Thanh Châu đi về phía tây bắc tất yếu phải qua nơi này.



Tiết Vũ quay đầu nhìn A Mạch, trong ánh mắt hiện lên vài phần khâm phục, lên tiếng hỏi: “Thường Ngọc Thanh quả thật muốn tính đánh lâu dài?”



A Mạch đáp: “Thường Ngọc Thanh là người dũng mãnh nhưng không lỗ mãng, trong tay không đủ binh mã tất nhiên sẽ không dám manh động tấn công Thanh Châu. Huống chi Trần Khởi trước hết phải bình định Ung, Dự, lại vừa muốn đưa tiểu hoàng đế hồi kinh, nhất thời cũng không thể điều thêm quân cho anh ta. Anh ta cũng sợ chúng ta ra khỏi thành đánh lén, nên phải tìm một nơi đóng quân vững chắc đã!”



Tiết Vũ hỏi: “Vậy chúng ta phải đối đãi lại như thế nào?”



A Mạch cười, nói: “Nếu anh ta không công thành, chúng ta trước mắt cũng chẳng cần phải để ý tới anh ta, cứ làm tốt những việc trong thành đã rồi nói sau.” A Mạch quay đầu nhìn Vương Thất phân phó: “Ngày mai triệu tập các đội trưởng trong quân mở đại hội, quán triệt quân kỷ, quân pháp nghiêm minh, phàm kẻ nào dám quấy nhiễu dân chúng, bất luận chức quan hay lai lịch là gì, chỉ có một chữ ‘Trảm’!”



Vương Thất gật đầu: “Đã rõ!”



A Mạch lại hướng Tiết Vũ nói: “Thanh Châu vốn đã bị triều đình cắt nhượng cho thát tử, thỉnh Tiết tướng quân cho người đem chuyện này lan truyền ra bên ngoài, nói gian thần trong triều vì muốn bảo vệ phú quý của bản thân đã xúi giục hoàng đế bỏ rơi Thanh Châu. Sau đó lại tuyên truyền về sự tàn bạo của thát tử, để thu phục nhân tâm của dân chúng trong thành.”



Tiết Vũ chưa kịp lên tiếng đồng ý, Vương Thất đột nhiên nói xen vào: “Thát tử vốn rất tàn bạo, sao còn phải tuyên truyền!”



A Mạch cười hỏi: “Sao ngươi nói thát tử tàn bạo? Trần Khởi ở Dự Châu không hề tơ hào đến bất cứ thứ gì của dân, lại đối đãi với người Nam Hạ không có gì bất đồng so với người Bắc Mạc.”



Vương Thất hừ lạnh một tiếng, mắng: “Không tơ hào cái chó gì! Không tơ hào thì tại sao thành Hán Bảo lại thành thành hoang? Cái gì mà đối đãi không bất đồng? Nếu thế thì ba mươi năm trước, khi xâm chiếm chúng ta cũng đã không đối đãi như thế!”



Sắc mặt A Mạch trở nên ảm đạm, trầm mặc một lát rồi mới tiếp tục nói: “Hán Bảo cách Thanh Châu quá xa, ba mươi năm trước cũng đã trôi qua quá lâu rồi, khó tránh khỏi sẽ có những người không nhìn thấy, không nhớ nổi, nên sẽ ảo tưởng rằng có thể sống yên ổn qua ngày dưới gót sắt của dị tộc.”



Trong phòng, ba người đều trở nên trầm mặc, A Mạch phục hồi lại tinh thần, giao cho Vương Thất xử lý thêm vài công vụ nữa, Vương Thất lĩnh mệnh mà đi, trong phòng lại chỉ còn lại A Mạch và Tiết Vũ. A Mạch cẩn thận cân nhắc, lại nói với Tiết Vũ: “Tuy quân ta vì chống lại thát tử, nhưng trong triều chưa chắc đã nghĩ như vậy, không quá mấy ngày nữa, có lẽ sẽ tuyên bố chúng ta là quân phản loạn, đến lúc đó chỉ sợ chúng ta sẽ rơi vào cảnh hai bề thụ địch! Phía trước đã bị Thường Ngọc Thanh phong kín, phía sau là khe núi Phi Long thì chúng ta lại chưa kịp chuẩn bị.”



Tiết Vũ vốn đã nghĩ tới điều này, nên trước khi quân Giang Bắc đến đã tiến hành an bài rồi, nghe A Mạch nhắc đến, tinh thần theo đó mà rung lên, nói: “Thuộc hạ cũng đã nghĩ đến điều này, nên những cửa ngõ trong núi Phi Long đều đã tăng cường phòng thủ. Hơn nữa,” trên mặt Tiết Vũ lộ ra vẻ đắc ý, nói: “Trước đó vài ngày, thuộc hạ đã trưng thu lương thảo của mấy quận huyện ở phía đông, đồng thời chiêu mộ thêm không ít tráng đinh, tất cả đều có thể sung quân.”



A Mạch nghe xong khen: “Tiết tướng quân quả nhiên có tài tướng soái, không hổ Thương soái nhiều lần khen ngợi.”



“Đại nhân quá khen, thật không dám nhận!” Tiết Vũ vội vàng nói. Khi Thương Dịch Chi còn ở Thanh Châu, anh ta chỉ là một viên tướng giữ thành, hai năm nay mặc dù tạm giữ chức tướng thủ thành, nhưng chẳng qua cũng chỉ là phó tướng mà thôi, hiện được A Mạch khen anh ta là tướng soái có tài, bất giác có chút ngượng ngùng, trên mặt thoáng đỏ ửng, nhưng trong mắt cũng không dấu được tia kích động.



A Mạch nhìn thấy liền hiểu, còn nói thêm: “Quân Giang Bắc khổ chiến cùng thát tử đã lâu, biên chế trong quân đã không còn đầy đủ, nay cùng quân Thanh Châu kết hợp làm một, cũng nên tìm cách bù đắp những vị trí còn khuyết thiếu này.”



Tiết Vũ không phải kẻ ngốc, chỉ vừa nghe A Mạch nói vậy liền hiểu ngay, lập tức đáp: “Lý nào lại như thế, mọi người cứ theo năng lực mà giữ các chức vụ khác nhay, quân ta cũng rất nhanh mà trở nên lớn mạnh.”



A Mạch hỏi: “Không biết Tiết tướng quân có thể tiến cử người tài giỏi nào không?”



Tiết Vũ biết A Mạch hỏi vậy chính là muốn mình tiến cử người thân tín, tâm phúc, bất giác có chút động tâm, nhưng sau khi cân nhắc cẩn thận liền nói: “Tướng lĩnh trong thành đều do Thương soái sử dụng trước đây, đều là người trung hậu thật thà, nên sẽ toàn tâm toàn ý nghe theo sự an bài của đại nhân.”



A Mạch thản nhiên cười, nói: “Nếu đã như vậy, trước hết đều thăng mỗi viên quan lên một cấp, sau đó xét theo sở trường của mỗi người mà sắp xếp trong quân Giang Bắc.”



Tiết Vũ có chút không thể tin được nhìn A Mạch, lại nghe nàng nói tiếp: “Tiết tướng quân, ngươi và ta trước kia tuy đều là thủ hạ của Thương soái, lại vô duyên vô cớ kết thành cộng sự, khó tránh khỏi có điều chưa hiểu rõ về nhau. Song về sau qua tiếp xúc lâu dài, thì dần dần cũng sẽ hiểu.”



Trên mặt A Mạch lộ ra ý cười hoà thuận vui vẻ, chân thành ấm áp, thần thái tinh anh không hề giảm sút, Tiết Vũ nhìn mà nhất thời có chút giật mình.



Cho đến buổi chiều, khi trở về trong phủ của mình, trong đầu Tiết Vũ thỉnh thoảng lại hiện lên hình ảnh A Mạch ôn hòa tươi cười mà không sao nắm bắt được A Mạch rốt cuộc có tâm tư gì! Thê tử của ông ta là Uông Thị tiến đến giúp ông ta cởi giáp, đuổi nha hoàn ra ngoài, vừa tự tay cởi tấm bảo vệ tay, vừa nhỏ giọng hỏi: “Hôm nay mọi việc thế nào? A Mạch tướng quân đã quyết định chức quan cho chàng rồi phải không?”



Tiết Vũ khẽ gật gật đầu.



Uông Thị vội thấp giọng hỏi: “Là chức quan gì?”



Tiết Vũ đáp: “Tả phó tướng quân Giang Bắc.”



Uông Thị nghe xong thất vọng, nhịn không được than thở nói: “Vẫn là phó tướng à, còn tưởng rằng lần này có thể thăng lên làm trưởng quan chứ!”



Tiết Vũ không khỏi chau mày, trợn mắt quát: “Nàng là nữ nhân thì biết cái gì! Phó tướng thành Thanh Châu há có thể so với Tả phó tướng quân Giang Bắc sao!”



Uông Thị cũng chẳng sợ dáng vẻ trừng mắt hung dữ của trượng phu, nhẹ nhàng bĩu môi, nói: “Cái gì mà quân Giang Bắc với chả không quân Giang Bắc, thiếp thấy còn chẳng bằng làm phó tướng thành Thanh Châu, chúng ta đều là người Thanh Châu, nơi này núi cao hoàng đế ở xa, chủ tướng lại không có ở trong thành, chẳng phải đều do chàng định đoạt hay sao! Đột nhiên mở rộng cổng thành nghênh đón quân Giang Bắc, hiện giờ nhìn lại thì có vẻ chức quan của chàng cao hơn trước, nhưng thực ra chẳng phải là chàng đã bị mất quyền lực rồi hay sao!”



Tiết Vũ im lặng không nói gì, quân Giang Bắc vốn do hai quân Thanh, Dự hợp thành, vì vậy không hề thiếu những cựu binh Thanh Châu, sau hai năm chinh chiến trở về, việc thăng chức của họ vốn nhanh hơn so với ông ta ở lại canh giữ Thanh Châu.



Uông Thị liếc mắt nhìn thần sắc trên mặt trượng phu, lại nói tiếp: “Chúng ta giơ đầu gánh tội danh phản quốc mà nghênh đón quân Giang Bắc vào thành, sớm biết như thế chi bằng nghe theo sự an bài của triều đình mà rút khỏi Thanh Châu, đem nơi này giao cho thát tử. Ký Châu so với Thanh Châu không chỉ mạnh hơn gấp trăm lần, lại nói Tiếu lão tướng quân vốn là di phu của chàng, chẳng lẽ lại bạc đãi chàng hay sao? Cho dù vẫn làm phó tướng……”



Lời còn chưa dứt, Tiết Vũ đột nhiên đẩy mạnh Uông Thị ngã xuống đất. Uông Thị nhất thời bị quẳng xuống đất mà choáng váng, chằm chằm nhìn trượng phu, hỏi: “Chàng! Thế này… Là sao chứ?”



Trên mặt Tiết Vũ lạnh băng, nghiến răng mắng: “Ngươi là phụ nữ đã có chồng mà không biết giữ mồm giữ miệng, ta sớm muộn gì cũng phải cắt lưỡi ngươi!”



Uông Thị và Tiết Vũ thuở nhỏ là thanh mai trúc mã, từ lúc thiếu niên đến giờ đã kết thành vợ chồng, chưa từng bị trượng phu mắng cay độc như vậy, trong lúc nhất thời vừa thẹn vừa giận, xoay người nằm dưới đất òa khóc, vừa khóc vừa mắng: “Chàng ở bên ngoài bị người ta làm cho uất giận mà không dám lên tiếng, về nhà lại trút lên đầu thiếp, như thế mà gọi là đàn ông sao!”



Tiết Vũ lại tức giận đến sắc mặt xanh mét, đưa mắt nhìn về phía cửa phòng, lại cúi lưng hạ giọng nói tiếp với Uông Thị: “Nàng nếu muốn sớm thành quả phụ, thì cứ việc khóc, cứ việc mắng cho lớn tiếng vào, khiến cho cả thành Thanh Châu đều đồn ầm lên rằng Tiết Vũ ta là kẻ đầu hàng thát tử!”



Uông Thị mặc dù có chút ngang bướng, nhưng không phải là một thôn phụ ngu muội, vừa nghe trượng phu nói vậy, nàng nhất thời cả kinh, lập tức dừng khóc, ngẩng đầu nhìn trượng phu, thấy sắc mặt Tiết Vũ vẫn vô cùng giận dữ, không hề có ý sẽ đỡ mình dậy, liền tự mình đứng lên.



Tiết Vũ nói xong, cũng không buồn để ý tới Uông Thị, xoay người sang chỗ khác tự mình cởi áo giáp trên người. Uông Thị từ phía sau Tiết Vũ cởi thắt lưng, áo giáp giúp chồng, mềm giọng nói: “Tứ lang đừng tức giận, là thiếp sai rồi.”



Uông Thị có một điểm tốt, đó là có lúc thì rất ngang bướng nhưng cũng có thể mềm mại uyển chuyển được. Mấy lời vừa rồi khiến Tiết Vũ cũng không thể tiếp tục làm mặt lạnh với nàng nữa, chỉ nói: “Nàng là phụ nữ, kiến thức nông cạn! Nếu Thanh Châu mà mất thì Ký Châu còn có giữ được sao? Lại nói nếu ta chống lại thát tử khôi phục non sông, sau này chẳng phải sẽ được an nhàn mà hưởng phú quý hay sao!”



Uông Thị cũng là phì cười một tiếng, nói: “Vâng, vâng, Tiết tứ lang là đại anh hùng trung can nghĩa đảm, vì nước vì dân, thiếp tóc dài nhưng trí ngắn, chàng còn nổi giận với thiếp làm gì?”



Lời này nói ra khiến Tiết Vũ không khỏi xoay chuyển tâm tư, quay người lại nhìn Uông Thị, dịu dàng hỏi: “Vừa rồi cũng là nhất thời tức giận, nàng có đau không?”



Uông Thị lúc này lại cảm thấy vô cùng ủy khuất, đôi mắt cũng đỏ hoe, nhưng không khóc, chỉ nói: “Tứ lang còn biết quan tâm xem thiếp có đau hay không ư, vừa rồi chẳng phải chàng còn hận không thể lấy kiếm mà đâm thiếp hay sao.”



Tiết Vũ thấp giọng an ủi Uông Thị vài câu, rồi nói: “Nàng không biết đấy thôi, trong triều cắt đất nghị hòa cũng là bất đắc dĩ, Thanh Châu là nơi cửa ngõ hiểm yếu, thật sự không thể giao cho thát tử. Nhưng lại bị thát tử bức bách đến không còn cách nào khác, nên bề ngoài đành phải thượng cho thát tử, nhưng bên trong thì âm thầm dung túng cho quân Giang Bắc chiếm lấy Thanh Châu, chống lại thát tử. Nếu không, Thanh Châu là nơi đất bạc, dân nghèo, chỉ cần Ký Châu cắt đứt nguồn cung ứng lương thảo thì không cần đánh, thành này cũng bị phá. Quân Giang Bắc đã phản Thái Hưng hơn một tháng, vì sao không thấy Ký Châu có chút động tĩnh gì? Trước đó vài ngày, ta đã đi mấy quận huyện phía đông trưng thu lương thảo và tráng đinh, di phu(1) đều làm bộ như không thấy, không biết.”



Uông Thị chần chờ một lát, hỏi: “Nói như vậy, hoàng đế cũng không phải là kẻ  hồ đồ ?”



Tiết Vũ lạnh lùng cười, nói: “Có thể lên làm hoàng đế, thì còn hồ đồ được sao? Chỉ là trước mắt không thể làm khác được mà thôi. Hơn nữa quân Giang Bắc lại giương cao lá cờ chống thát tử, Mạch tướng quân đến giờ cũng chỉ xưng là tướng quân, mà không tự phong là nguyên soái, nên cũng không mang danh mưu phản.”



Uông Thị nghe cũng minh bạch được vài điều, nhưng phần lớn là chẳng hiểu gì, nghe nói A Mạch thật ra cũng chỉ là một tướng quân, trong lòng nhất thời cân bằng lại, vì thế liền nói: “Thôi, Tứ lang đừng nói chuyện quan trường với thiếp nữa, thiếp nghe mà đau hết cả đầu.”



Tiết Vũ đã thay xong thường phục, xoay người ngồi xuống ghế, cười nói: “Nàng nhớ cho kỹ, cho dù chúng ta có giao thành Thanh Châu cho thát tử, đến Ký Châu có di phu chiếu cố, thì chưa chắc đã tốt.”



Uông Thị cười cười, lại tiến lên nhẹ nhàng xoa bóp bả vai trượng phu, cười hỏi: “Nếu Tứ lang đều đã nhìn thấu như vậy, sao còn mang bộ mặt như thế trở về?”



Tiết Vũ nghĩ nghĩ, thấp giọng nói: “Vì vừa rồi Mạch tướng quân bỗng nhiên lại hỏi ta có thể tiến cử người thân tín hay không, ta sợ anh ta là cố ý thử ta, cũng không dám nhiều lời, không ngờ anh ta lại thăng chức cho tất cả các viên quan trong quân Thanh Châu lên một cấp, rồi căn cứ theo năng lực mà an bài chức vụ. Người này… thật khiến cho người ta không thể đoán ra tâm tư.”



Uông Thị cũng cười nói: “Tứ lang trung thành với chủ, thành tâm làm việc, nghiền ngẫm tâm tư của anh ta làm gì? Anh ta tâm cơ có thâm trầm đến mấy thì liệu có thể bằng Thương soái được không? Tứ lang chẳng phải vẫn được Thương soái tín nhiệm trọng dụng hay sao! Theo thiếp thì chàng chẳng cần phải cân nhắc này nọ làm gì, không dò được  tâm tư thì đừng dò nữa, anh ta cho chàng làm gì thì chàng cứ làm cái đó là được rồi! Về lâu về dài, tự anh ta sẽ hiểu được cách làm người của Tứ lang!”



Uông Thị nói một hồi khiến trong lòng Tiết Vũ trở nên minh bạch sáng tỏ, liền kéo Uông Thị ôm vào lòng, khen: “Đúng là đạo lý này, chỉ có nàng là hiểu được!”



Uông Thị tươi cười đắc ý, nhãn châu chuyển động, ghé miệng sát đến bên tai Tiết Vũ thấp giọng hỏi: “Nghe nói Mạch tướng quân so với Thương soái dáng vẻ còn tuấn tú hơn, có phải thật không?”



Tiết Vũ trước mắt lại thoáng hiện lên hình ảnh A Mạch với nụ cười ấm áp trên môi, không khỏi gật đầu. Trong giọng nói của Uông Thị liền để lộ ra vẻ hưng phấn, nói: “Nhưng vẫn chưa có thê thất? Không bằng đem Tố Lan nhà chúng ta gả cho anh ta đi!”



“Hả!” Tiết Vũ sợ tới mức cả kinh, đưa tay đẩy Uông Thị từ trên đùi đẩy ra, giáo huấn: “Nàng lại muốn giật dây làm loạn gì vậy!”



Uông Thị bất mãn bĩu môi, nói: “Tố Lan là muội tử của chàng, cũng không phải của thiếp, thiếp đây mới không phải là cố sức lấy lòng! Hơn nữa,” Uông Thị vẫn chưa từ bỏ ý định, lại khuyên: “Hai năm trước, khi Thương soái vẫn còn ở đây, thì Tố Lan hãy còn nhỏ, nay vừa đến tuổi cập kê, dáng vẻ lại xinh đẹp, chẳng phải rất xứng với Mạch tướng quân tuổi trẻ tuấn tú hay sao?”



Tiết Vũ nghe thê tử nói thế liền tâm động, nghĩ ngợi một chút rồi nói: “Nàng đừng gấp, vạn nhất không thành thì thật mất mặt, việc này để ta âm thầm điều tra trước đã rồi nói sau.”



Uông Thị biết trượng phu nói có lý, gật đầu, cười nói: “Thiếp nghe lời chàng.”



————————

Chú thích:

1- Di phu: chồng của chị/em gái của mẹ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

117#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:25:08 | Chỉ xem của tác giả
Chương 108

TÌNH THẾ




Cuối tháng chín, trước áp lực của Bắc Mạc, Nam Hạ tuyên bố quân Giang Bắc là quân phản loạn, song cũng không xuất binh chinh phạt. Đối diện với sự chất vấn, khiển trách của sứ thần Bắc Mạc, viên quan Nam Hạ hai tay buông xuôi vô lực, vẻ mặt bất đắc dĩ nói: Trời thì ban mưa xuống, con gái lớn thì phải lấy chồng, đây đều là những việc mà triều định không thể quản được! Quân Giang Bắc không nghe lời muốn tạo phản, chúng ta cũng không có biện pháp, đúng không? Thanh Châu nếu đã giao cho các ngươi, các ngươi cứ tự mình đi đánh là được, chẳng phải các ngươi còn mấy vạn binh ở Võ An sao? Có Sát tướng Thường Ngọc Thanh ở đó nữa mà, thế thì làm gì có thành nào mà không hạ được a!



Sứ giả Bắc Mạc bị những lời vô sỉ của viên quan Nam Hạ này làm cho tức giận đến nỗi gân xanh nổi đầy mặt, hận không thể tiến lên túm lấy anh ta đánh cho một trận rồi nói sau. Chẳng qua làm công việc của sứ thần này, kiêng kị nhất chính là cùng người khác động thủ, vì thế chỉ có thể cố gắng nén lại, đem tình hình trình tấu lên triều đình Bắc Mạc.



Đợi đến khi đám người Thường Ngọc Thanh ở Võ An biết được tin này thì đã là tháng mười, Thường Ngọc Tông còn chưa nói gì, Thường Tu An thân là trưởng bối nhất tuổi nhất đã vùng đứng dậy mắng: “Bà nội nó! Lũ mọi rợ Nam hạ này không phải muốn đùa giỡn chúng ta sao, nói là đem Thanh Châu giao cho chúng ta, hiện giờ lại bị phản quân của anh ta chiếm mất, lại còn bảo chúng ta phải tự mình đi đánh, thế thì còn ký hòa ước cái cứt chó gì nữa! Mọi rợ Nam Hạ, các ngươi cứ chờ đấy, chờ lão tử đánh hạ Thanh Châu, chẳng lẽ không thuận đường thu thập luôn Ký Châu hay sao!”



Thấy tam thúc kích động như thế, Thường Ngọc Tông ngược lại không nói gì, chỉ đưa mắt nhìn trộm Thường Ngọc Thanh, hỏi: “Chẳng lẽ quân Giang Bắc đến Thanh Châu thật sự là do triều đình Nam Hạ đã sớm thương lượng trước rồi sao?”



Thường Ngọc Thanh nghĩ rồi lắc đầu, khẽ cười nói: “Chưa chắc.”



Thường Tu An và Thường Ngọc Tông đều thấy khó hiểu. Thường Ngọc Thanh thấy hai người bọn họ đều có vẻ mặt nghi nghi hoặc hoặc, đành phải giải thích: “Nếu bọn họ đã sớm thương lượng tốt, thì Thương Dịch Chi sau khi hồi triều sẽ không bị chèn ép, quấy nhiễu như vậy.”



Thường Ngọc Thanh nói không sai, sau khi Thương Dịch Chi trở về liền bị hoàng đế Tề Cảnh hoài nghi, nên vẫn chưa được tin dùng. Lâm tể tướng lại dâng một tấu chương chỉ đích danh Thương Dịch Chi đã âm thầm dung túng binh lính mưu phản, khiến Thương Dịch Chi vừa về đến Thịnh Đô đã bị đặt vào cảnh đầu sóng ngọn gió.



Đầu tiên, quân Giang Bắc vốn xem như do Thương Dịch Chi thành lập, mặc dù Thương Dịch Chi đã thoát ly quân Giang Bắc, nhưng khó tránh khỏi có ngàn vạn mối dây liên hệ. Thứ đến, nếu do Vệ Hưng mang binh tạo phản thì cũng thôi, nhưng đằng này lại do Mạch Tuệ một đao giết chết Vệ Hưng rồi dấy binh tạo phản, rõ ràng là không chịu thừa nhận Vệ Hưng là nguyên soái. Lại nữa, phản quân Giang Bắc sau khi ra khỏi Thái Hưng đi đâu chẳng đi, mà lại thẳng tiến đến Thanh Châu, mà tướng Tiết Võ thủ thành Thanh Châu cũng lại mở rộng cửa thành đón quân Giang Bắc tiến vào. Thanh Châu là nơi nào? Chính là nơi Thương Dịch Chi coi giữ trước đây nha!



Cái khác tạm thời không nói đến, chỉ với ba điểm này, Tề Cảnh không thể không đem lòng nghi ngờ quân Giang Bắc làm phản có sự sai khiến của Thương Dịch Chi. Chỉ có một điều khiến cho ông ta không thể nghĩ ra được là vì sao Thương Dịch Chi phải làm như vậy? Đã làm như vậy rồi sao còn trở lại Thịnh Đô?



Tề Cảnh nhất thời cũng có chút nghi hoặc, chẳng qua ông ta còn chưa làm gì Thương Dịch Chi, thì mẫu thân của Thương Dịch Chi là Thịnh Hoa Trưởng công chúa đã động thủ trước, trực tiếp mang Thương Dịch Chi vào cung yết kiến, đợi gặp Tề Cảnh, Trưởng công chúa vốn là người yểu điệu mảnh mai, chỉ một cái tát liền đem con quỳ gối xuống trước mặt Tề Cảnh, sau đó khóc sướt mướt hướng về phía Tề Cảnh cầu xin: “Hoàng Thượng thay ta quản tiểu súc sinh này đi.”



Tề Cảnh thấy Trưởng công chúa đột nhiên vừa đến đây đã như vậy, đành phải hỏi là đã xảy ra chuyện gì, Trưởng công chúa lúc này mới vừa khóc vừa kể nói: “Quân Giang Bắc đến Thanh Châu đúng là do tiểu súc sinh này cho chủ ý, còn viết thư cho Tiết Võ ở Thanh Châu, để anh ta mở cửa thành cho quân Giang Bắc vào.”



Tề Cảnh lông mày nhíu chặt, lạnh lùng nhìn Thương Dịch Chi, lạnh giọng hỏi: “Việc này là thật sao?”



Thương Dịch Chi quỳ thẳng tắp, vẻ mặt quật cường, ngẩng đầu nhìn Tề Cảnh, cao giọng đáp: “Thát tử bức chúng ta ngay cả Thanh, Ký châu cũng phải cắt, trong lòng thần thật sự rất khó chịu, vừa lúc Vệ Hưng lén tìm thần hỏi việc nghị hoà, thần hỏi anh ta vài câu. Vệ Hưng cũng hận thát tử thấu xương, chúng thần tính toán nửa ngày liền nghĩ ra một cách, đó là giả đem Thanh Châu cấp cho thát tử để thỏa mãn lòng tham của chúng, đợi sau khi hòa ước ký kết xong, quân Giang Bắc giả kháng chỉ không tuân theo hiệu lệnh, tạo phản ở Thái Hưng, sau đó chiếm cứ Thanh Châu cùng thát tử giằng co. Đến lúc đó triều đình chối phắt đi rằng không có mối liên hệ với quân Giang Bắc. Vậy nên, thần đã viết một phong thư cho Tiết Võ giao cho Vệ Hưng.”



“Vậy vì sao lại giết Vệ Hưng?” Tề Cảnh hỏi, sắc mặt mặc dù bình thản, nhưng thanh âm lại lạnh đến thấu xương.



Thương Dịch Chi cúi đầu, thấp giọng đáp: “Thần cũng không biết, quân Giang Bắc làm phản ra khỏi Thái Hưng vốn do thần và Vệ Hưng hai người cùng hợp mưu, chẳng may khi rơi vào mắt người khác lại thành đại tội mưu phản nên hai chúng thần không dám để cho người khác biết, vì vậy thương nghị chờ thần quay về Thịnh Đô sẽ mật tấu lên Hoàng Thượng, ai ngờ vừa về đến Thịnh Đô lại nghe được tin Vệ Hưng bị Mạch Tuệ giết chết, thần lập tức tỉnh mộng, lại nhớ đến phong thư thần viết cho Tiết Võ, vội vàng phái người đến Thanh Châu truyền tin, ai ngờ vẫn chậm hơn Mạch Tuệ một bước.”



Tề Cảnh sau một lúc lâu không hề động tĩnh, chỉ yên lặng đánh giá Thương Dịch Chi. Trưởng công chúa vốn vẫn im lặng, bỗng dùng khăn che miệng khóc lớn, vừa khóc vừa nói: “Hoàng Thượng, ta đời này chỉ có duy nhất một đứa con là hắn, khó tránh khỏi có chút nuông chiều, không ngờ tên tiểu súc sinh này lại gây ra tội lỗi ngập trời như vậy. Chẳng những đã chết Vệ Hưng, mà ngay cả con trai duy nhất của Lâm Hiền cũng bị Mạch Tuệ giết, Lâm Hiền vốn không vừa mắt tiểu súc sinh này rồi, nếu biết, tất sẽ muốn bắt hắn phải đền mạng. Hơn nữa tiểu súc sinh lại phạm phải tội tru di cửu tộc, chỉ thương cho Thương lão tử cả đời vì nước, cuối cùng lại bị tiểu súc sinh này liên lụy.”



Tề Cảnh không khỏi nhíu mày, khiển trách: “Thương tướng quân bình định phản quân Vân Tây, càng vất vả công lao lại càng lớn, sao lại liên lụy đến hắn ta!”



Trưởng công chúa càng cảm thấy ủy khuất, không khỏi khóc nói: “Hoàng Thượng, cũng đều tại người và phụ hoàng, lúc trước ta không muốn gả cho Thương Duy là một quân nhân, các người lại cứ muốn ta phải lấy hắn, nếu lúc ấy người ta lấy là một Trạng Nguyên, thì đâu thể sinh ra một tiểu súc sinh lúc nào cũng muốn đấu tranh đến thành tính như thế này!”



Tề Cảnh bị Trưởng công chúa càn quấy khiến cho dở khóc dở cười, đành phải quát lớn: “Thế này mà cũng nói được sao, ngươi làm như mình vẫn là tiểu cô nương không bằng!”



Trưởng công chúa dùng khăn lau lệ nghẹn ngào không nói. Thương Dịch Chi lại đột nhiên lên tiếng: “Hoàng Thượng, thần và Tiết Võ vẫn liên lạc với nhau, để thần cho anh ta biết tình hình thực tế, rồi kêu anh ta phản Mạch Tuệ quy thuận triều đình được không?”



“Không thể!” Tề Cảnh chắp tay sau lưng đi qua đi lại đi giữa hai người, cuối cùng dừng lại nhìn chằm chằm Thương Dịch Chi nói: “Việc này tuy ngươi có chút lỗ mãng, nhưng cũng là một lòng vì nước. Trẫm biết ngươi rất khổ tâm, việc này về sau không được nhắc lại, nếu không, trẫm cũng chẳng có cách nào bảo hộ cho ngươi.”



“Nhưng Thanh Châu thì làm sao bây giờ?” Thương Dịch Chi không khỏi hỏi.



Tề Cảnh cẩn thận cân nhắc, trầm giọng đáp: “Trước cứ để cho quân Giang Bắc chiếm cũng tốt.”



Trưởng công chúa thấy Tề Cảnh không hề truy cứu việc này thì nhất thời mừng rỡ, vội vàng dắt Thương Dịch Chi tạ ơn, cam đoan sau khi trở về sẽ quản giáo con mình cẩn thận. Nỗi nghi ngờ trong lòng Tề Cảnh đối với Thương Dịch Chi đã hết, thầm nghĩ mình đã nắm được nhược điểm mưu đồ phản nghịch của Thương Dịch Chi ở trong tay, nên những kiêng kị đối với Thương Duy ở Vân Tây xa xôi cũng bớt đi ít nhiều.



Chưa đầy mấy ngày sau, Trưởng công chúa lại vào cung, lần này đến là vì cầu thân cho Thương Dịch Chi, không phải là người nào khác, mà chính là công chúa do đương kim hoàng hậu sinh ra. Tề Cảnh đầu tiên là ngẩn người, sau đó thì tảng đá vốn đè nặng trong lòng trong suốt hơn hai mươi năm rốt cuộc rơi xuống đất. Chưa từng nghĩ đến Trưởng công chúa cửa trước vừa rời đi, cửa sau hoàng hậu đã cầu kiến, không nói hai lời liền quỳ xuống trước mặt Tề Cảnh, sống chết không chịu đem nữ nhi gả cho Thương tiểu Hầu gia phong lưu thành tánh kia.



Vì thế, Trưởng công chúa và hoàng hậu, cảnh đấu tranh giữa chị dâu, em chồng chính thức kéo màn che, điều này khiến cho Tề Cảnh rất đau đầu, trái phải cân nhắc hồi lâu, cuối cùng vì không chịu nổi việc hoàng hậu cả ngày ở trước mặt mình khóc sướt mướt, đành phải cự tuyệt lời cầu hôn của Trưởng công chúa. Đồng thời, để trấn an Thương gia, mà không buồn để ý đến sự phản đối của Lâm tể tướng, lệnh cho Thương Duy làm đại nguyên soái của đại quân ở Vân Tây, đồng thời lệnh cho cháu ngoại của Lâm tể tướng là Giang Hùng làm phó soái để kiềm chế, lệnh cho Thương Duy và Giang Hùng cùng hợp lực bình định Vân Tây.



Thịnh Đô khí thế đấu tranh ngất trời, đồng thời, trong thành Thanh Châu một tình thế mới cũng dần dần được hình thành. Quân Giang Bắc cùng quân Thanh Châu kết hợp và tổ chức lại rất thuận lợi, A Mạch tự phong là tướng quân quân Giang Bắc, phong Tiết Võ làm tả phó tướng quân Giang Bắc, nguyên thống lĩnh bộ binh quân Giang Bắc là tướng Mạc Hải làm hữu phó tướng quân, nguyên giáo úy kỵ binh quân Giang Bắc là Trương Sinh phong làm thống lĩnh kỵ binh, nguyên giáo úy bộ binh thất doanh quân Giang Bắc, Vương Thất, thăng làm thống lĩnh bộ binh, chưởng quản lương thảo quân nhu Lý Thiếu Hướng phong làm quan quân nhu. Ngoại trừ mấy người này, bất luận chư tướng trong quân Giang Bắc đi theo A Mạch tiến vào Thanh Châu hay là thủ hạ của Tiết Võ, nguyên thủ thành Thanh Châu, đều căn cứ theo năng lực mà an bài thích đáng.



Trong quân trên dưới đều rất vừa lòng, trong thành Thanh Châu là một mảnh hài hòa.



Ngày mười lăm tháng mười, thời tiết rất đẹp. Trên con đường phía tây thành Thanh Châu có một chiếc xe la chạy vội vã, người đánh xe là một hán tử mặt đen chừng hơn ba mươi tuổi, một thân vải thô đen gọn gàng, một tay cầm cương, một tay cầm roi, ngồi ở trước xe, thỉnh thoảng lại vung roi thúc giục con la trước xe, khiến cỗ xe chạy như bay lên phía trước.



Xe la đến dưới thành Thanh Châu, trên tường thành, thủ binh nhô đầu ra lớn tiếng quát hỏi “Người vừa đến là kẻ nào?”, hán tử mặt đen lúc này mới dừng xe la lại, chưa vội trả lời câu hỏi của thủ binh, mà nhảy xuống xe, hướng vào bên trong nói: “Tiên sinh, đã đến rồi.”



Người bên trong cũng không nói chuyện, sau một lúc lâu, từ trong thùng xe có một cánh tay vén tấm màn phía trước xe lên, tinh tế đánh giá hai chữ “Thanh Châu” bút lực mạnh mẽ trên cổng thành, qua một lúc mới có chút không xác định giống như hỏi: “Đã đến rồi?”



Hán tử mặt đen hán tử, gật đầu nói: “Đến rồi, tiên sinh.”



Trên tường thành, binh lính thấy người phía dưới không lên tiếng trả lời, liền giương cung tên nhắm vào hán tử mặt đen, kêu lên: “Nếu không nói ta sẽ bắn!”



Hán tử mặt đen nghe xong lời này cũng chẳng buồn đến ý, chỉ ngẩng đầu liếc mắt một cái lên tường thành, hỏi người trong xe: “Tiên sinh, có nên nói rõ thân phận để vào thành không?”



Người bên trong xe cân nhắc một lát rồi đáp: “Không cần, cứ nói tới tìm A Mạch đi.”



Hán tử mặt đen cung kính vâng lời, buông màn xe xuống, xoay người nói với binh lính trên tường thành: “Ta tới tìm Mạch Tuệ, Mạch tướng quân.”



Thủ binh trên tường thành vừa nghe nói là đến tìm Mạch tướng quân, liền vội vàng thu cung tên, phái người đi gọi tướng đang trực cổng thành đến. Trong chốc lát, thân ảnh Trương Sinh đã xuất hiện ở phía trên tường thành. Anh ta chỉ liếc mắt nhìn xe la dưới thành một cái, trên mặt liền lộ ra thần sắc vừa mừng vừa sợ, vội vàng kêu thân binh bên người đi báo tin cho A Mạch, còn mình lại bước nhanh xuống dưới thành.



Cầu treo ngoài cổng thành chậm rãi thả xuống, Trương Sinh từ trong thành đi ra, cung kính chào người trong xe: “Tiên sinh.”



Người trong xe thản nhiên đáp lời.



Trương Sinh cười nói: “Tiên sinh cuối cùng cũng đã đến, Mạch đại nhân đợi tiên sinh đã lâu.” Nói xong, hướng về phía hán tử mặt đen gật gật đầu xem như chào hỏi, lại nhận lấy dây cương từ trong tay anh ta, vừa vội vàng đánh xe hướng vào trong thành, vừa tiếp tục nói chuyện với người trong xe: “Mạch đại nhân tính toán tiên sinh mấy ngày nay sẽ đến, nên đã chờ ở cổng thành mấy ngày rồi, nhưng hôm nay có việc quân quan trọng phải chủ trì, nên mới rời đi, mạt tướng đã cho người đi thông tri với Mạch đại nhân, chỉ lát nữa Mạch đại nhân sẽ tới đón tiên sinh.”



Vừa dứt lời, trên ngã tư đường đã vang lên tiếng vó ngựa, A Mạch mang theo vài tên thân vệ từ xa phi đến. A Mạch phóng ngựa trước nhất, phi như bay đến trước xe la mới vội vàng kéo cương ngựa lại, rồi từ trên lưng ngựa nhảy xuống đất chạy đến bên xe la, vén màn xe lên, hướng vào bên trong kêu lên: “Từ tiên sinh!”



Trong xe, Từ Tĩnh khó nén nổi vẻ mỏi mệt, biểu hiện cũng có chút bất đắc dĩ, theo thói quen lại đưa tay vuốt chòm râu trên cằm, nói với A Mạch: “A Mạch, ngươi chẳng gì cũng đã là người tối cao trong quân, tại sao lại không thấy một chút trầm ổn của đại tướng quân!”



A Mạch cười gượng hai tiếng, ánh mắt trong suốt nhìn Từ Tĩnh, đáp: “Chẳng phải nhìn thấy tiên sinh mà cao hứng quá đó sao!” Nói xong xoay người phân phó mọi người về thành phủ, tự mình lại chui vào bên trong xe, ngồi xếp bằng đối diện Từ Tĩnh, hỏi: “Tiên sinh đi đường có thuận lợi không?”



Từ Tĩnh đưa đôi mắt trắng dã nhìn nàng, âm dương quái khí đáp: “Thuận lợi! Tất nhiên là thuận lợi rồi! Có Hắc Diện đi theo, ta có thể không thuận lợi được sao? Ta ngày hai mươi sáu tháng chín ra khỏi Ô Lan, hôm nay đã chạy tới đây, chưa dám trì hoãn dù chỉ một ngày, còn có thể thuận lợi như thế nào nữa? Nếu thuận lợi hơn chút nữa, mấy cái xương già của lão phu có lẽ đã rơi ở dọc đường rồi!”



A Mạch nhếch miệng cười, giải vây thay Hắc Diện nói: “Hắc Diện tính tình vốn nóng nảy, tiên sinh chớ nên trách anh ta, đều là ta không phải.”



Từ Tĩnh hắc hắc cười lạnh hai tiếng, nói: “Ta biết đều là ngươi không phải, ngươi kêu Hắc Diện đưa ta trở về, còn bày đặt mĩ danh là để bảo vệ ta, sợ là trong bụng cũng sẽ không nghĩ tốt như vậy!”



A Mạch vội vàng cười nói: “Sao có thể! Sao có thể! Kêu Hắc Diện đi đón tiên sinh đúng thật là vì sự an toàn của tiên sinh. Tiên sinh cũng không phải không biết, anh ta là người có võ nghệ tốt nhất ở trong doanh ta đấy.”



Từ Tĩnh bĩu môi, hiển nhiên không tin.



A Mạch lại cười tiếp rồi nói: “Đương nhiên, cũng có một chút tính toán riêng.” Nàng lúc ấy phái Hắc Diện đi đón Từ Tĩnh, ngoại trừ bảo đảm an toàn cho Từ Tĩnh, còn lại chủ yếu là lo Hắc Diện người này vốn luôn luôn không quá phục nàng, ở trong doanh sợ là không dễ khống chế, chi bằng lệnh cho anh ta đi theo Từ Tĩnh để bảo vệ.



Từ Tĩnh thấy A Mạch thản nhiên thừa nhận, nếu tiếp tục so đo với nàng cũng không hay, đành phải đảo cặp mắt trắng dã coi như bỏ qua việc này.



A Mạch biết tính nết Từ Tĩnh, thấy ông ta như thế liền biết việc này xem như đã trôi chảy, vội vàng nói sang chuyện khác: “Tiên sinh thấy thành Thanh Châu này thế nào?”



Ai ngờ Từ Tĩnh phản ứng lại có phần lãnh đạm, chỉ khẽ gật đầu, đáp lấy lệ: “Thành cao thế hiểm, dễ thủ khó công.”



A Mạch cười cười, nói: “Chẳng lẽ không phải như thế, đâu thể nơi nào cũng có núi Thái Hành làm cánh cửa bảo vệ, phía sau còn yểm trợ được cho cả hai vùng Ký Châu và Sơn Đông nữa.”



Từ Tĩnh giương mắt nhìn A Mạch, đột nhiên hỏi: “Ngươi cũng biết Thường Ngọc Thanh đang trú quân ở Võ An?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

118#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:26:11 | Chỉ xem của tác giả
Chương 109

KHỐN CẢNH




A Mạch không khỏi ngẩn người, lặng đi một lúc mới đáp: “Biết.”



Từ Tĩnh lại hỏi: “Võ An cách Thanh Châu bao xa?”



“Chưa đến hai trăm dặm.”



Từ Tĩnh sắc mặt hơi trầm xuống: “Nếu biết chưa đến hai trăm dặm, vì sao còn dung túng cho anh ta đến lúc này?”



A Mạch giải thích nói: “Quân Giang Bắc mới đến Thanh Châu, căn cơ chưa ổn định, phía sau, Tiếu Dực lại chưa tỏ rõ thái độ có phải bằng hữu hay không, nên ta không dám tùy tiện xuất binh. Hơn nữa trong tay Thường Ngọc Thanh cùng lắm cũng chỉ có khoảng ba, bốn vạn binh, phần lớn lại là kỵ binh, không có ưu thế công thành, nên khó có thể uy hiếp Thanh Châu. Chi bằng trước mắt không cần để ý tới anh ta, nhân cơ hội này cứ chỉnh đốn lại Thanh Châu cho ổn định vững chắc đã.”



Từ Tĩnh dùng khí thế bức người nói: “Ngươi cẩn thận chặt chẽ chỉ cầu yên ổn, lại quên mất Thường Ngọc Thanh là người như thế nào rồi sao! Hổ sói sát bên sườn, mà vẫn yên tâm say ngủ! Thường Ngọc Thanh tuy trẻ tuổi nhưng lại có thể leo lên hàng ngũ danh tướng Bắc Mạc, cái tên ‘Sát tướng’ đâu phải vô duyên cớ mà có. Vì sao anh ta phải trú quân ở một thành nhỏ như Võ An? Ngươi có từng nghĩ tới nguyên nhân chưa?”



A Mạch nhất thời trầm mặc, tất nhiên nàng đã từng nghĩ tới nguyên nhân vì sao Thường Ngọc Thanh lại đem đại quân đóng ở thành Võ An, Võ An chính là nơi mà quân Thanh Châu khi xuất quân về hướng tây bắc chắc chắn phải đi qua, Thường Ngọc Thanh đóng quân ở nơi này, chẳng những có thể đợi viện binh, lại có thể đề phòng quân Giang Bắc đánh lén, lại có thể khống chế việc quân Giang Bắc tiến quân theo hướng tây bắc, ngoại trừ ba điều này, chẳng lẽ anh ta còn có ý đồ khác sao?



Từ Tĩnh hừ lạnh một tiếng, nói thêm: “Nếu Thường Ngọc Thanh dung túng binh lính ở Võ An đánh cướp, giết chóc dân chúng những quận huyện xung quanh, khiến dân chúng hoảng loạn chạy trốn, sau đó lại phái kỵ binh đuổi lưu dân về hướng Thanh Châu, lùa dân chúng công thành, ngươi sẽ làm thế nào? Có dùng tên bắn chết dân chúng công thành để bảo đảm an toàn cho Thanh Châu hay không?”



“Không thể!” A Mạch theo bản năng đáp.



“Không thể?” Từ Tĩnh cười lạnh, chế nhạo nói: “Vậy ngươi muốn liều mạng hy sinh quân đội, mạo hiểm việc thành có thể bị phá để cho dân chúng vào thành sao?”



A Mạch chau mày, mím môi không nói. Không cần Từ Tĩnh phải giảng giải, nàng cũng biết tuyệt đối không thể cho dân chúng vào thành, bởi vì trong đó chắc chắn sẽ có gian tế của thát tử, hoặc chúng sẽ đoạt cổng thành, hoặc sẽ vào trong thành làm nội ứng, khi đó thành Thanh Châu khó có thể giữ được.



Từ Tĩnh nhìn A Mạch chằm chằm, lại tiếp tục ép hỏi: “Vừa không dám cho dân chúng vào thành, lại không muốn bắn chết dân chúng, vậy ngươi phải làm thế nào? Theo sát phía sau dân chúng là gót sắt của kỵ binh thát tử, đừng nói ngươi không bắn chết dân chúng, chỉ cần ngươi nhất thời hơi do dự, bắn chậm một chút, thát tử đã có thể vọt tới dưới thành, cung thủ trên tường thành của ngươi còn có tác dụng gì nữa không? Còn nữa, một khi dân chúng đến gần sông đào bảo vệ thành, ngươi giết hay không giết? Nếu giết, đó đều là dân chúng Nam Hạ, thậm chí còn có những người có quan hệ họ hàng với quan quân giữ thành của ngươi, họ đều bị thát tử chĩa đao kề sát phía sau mà buộc phải chạy đến đây, nếu giết, tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sĩ khí. Nhưng nếu không giết, một khi bọn họ chạy đến chật kín như nêm, khí giới công thành của thát tử cũng được đẩy đến, cổng thành của ngươi có thể phòng thủ kiên cố được nữa không?”



A Mạch biến sắc mặt, trên người đã đã toát ra một thân mồ hôi lạnh. Lùa dân chúng công thành thật sự là một độc kế. Bất kể là giết hay không giết, đều ảnh hưởng rất lớn đến sĩ khí của quân sĩ thủ thành. Giết, sẽ gây hao tổn vật tư thủ thành, cũng như thể lực cùng sĩ khí của binh lính. Không giết, thát tử sẽ thoải mái công thành.



Từ Tĩnh dựa lưng vào thùng xe, ngửa đầu thở dài, thản nhiên nói: “Thường Ngọc Thanh là người có năng lực tiềm tàng, nhiều ngày rồi mà vẫn bất động như thế tất nhiên là có dự tính, nếu như lão phu không đoán sai, giờ phút này anh ta đang tăng cường chế tạo binh khí công thành.”



A Mạch nghe xong lại càng kinh hãi, nàng và Thường Ngọc Thanh quen biết đã lâu, vài lần gặp nhau mặc dù đều là tranh đấu đến ngươi chết ta sống, nhưng trong suy nghĩ đã mơ hồ nhận định người này tuy không phải là chính nhân quân tử, nhưng cũng không thể là kẻ âm hiểm đê tiện, đúng là bản thân đã quên mất anh ta còn có tên là “Sát tướng”, quên mất “Sự tích” anh ta từng chôn sống hơn sáu vạn hàng binh!



Từ Tĩnh lâu không nghe thấy A Mạch có động tĩnh gì, biết nàng đã đem những lời của mình lọt vào trong tai, cũng không nói nhiều lời, chỉ dựa vào thùng xe nhắm mắt dưỡng thần, cho A Mạch có thời gian tự mình cân nhắc cho thông suốt. Ngoài xe, Trương Sinh cùng Hắc Diện mơ hồ nghe được đối thoại giữa Từ Tĩnh và A Mạch, hai người nhìn nhau, đều rơi vào im lặng.



Đoàn người lặng lẽ đi tới thành phủ, vốn hôm nay là ngày quân nghị, các tướng lĩnh tề tụ thật chỉnh tề, bọn Lý Thiếu Hướng, Vương Thất đã sớm chờ ở ngoài cửa, thấy xe la trở về, tất cả đều vây quanh lại, đón A Mạch và Từ Tĩnh vào trong phủ. Từ Tĩnh đơn giản chỉ cùng mọi người chạm mặt, rồi nói thẳng ra rằng thân thể mỏi mệt nên muốn đi nghỉ trước. A Mạch sớm đã cho người chuẩn bị phòng cho ông ta, nghe vậy liền sai Trương Sĩ Cường đưa Từ Tĩnh đi nghỉ, còn mình tiếp tục chủ trì hội nghị quân sự mỗi tuần một lần.



Quân Giang Bắc ngụ tại Thanh Châu đã hơn một tháng, việc kết hợp và tổ chức lại cũng đã hoàn thành, trong thành, biên chế của binh lính tác chiến đã có bốn vạn bảy ngàn sáu trăm năm mươi sáu người, trong đó kỵ binh có bốn ngàn năm trăm ba mươi mốt người. Cái khác tạm thời không nói, chỉ riêng chuyện xuất lương thảo mỗi ngày thôi đã phải chi phí rất lớn rồi. Mặc dù tiền bạc được thưởng từ Thái Hưng khá nhiều, nhưng cũng không thể lo nổi chi phí sinh hoạt cho bốn vạn người, mỗi khi nhắc tới việc này, quân nhu quan Lý Thiếu Hướng lại giống như vừa ăn phải hoàng liên(1), hé miệng là có thể phun ra mật vàng bất cứ lúc nào.



Thanh Châu là vùng đất nghèo, trước đây đều phải dựa vào sự cung dưỡng của Ký Châu mà tồn tại, hiện giờ bề ngoài Thanh Châu và Ký Châu đã thành thế đối địch, tuy Tiếu Dực thủ thành Ký Châu vẫn chưa tiến hành phong tỏa kinh tế đối với Thanh Châu nhưng cũng không tiếp tục cung cấp tiền, lương cho Thanh Châu nữa.



“Xem tình thế này, chi bằng chúng ta phải nhanh chóng hạ Ký Châu thôi.” Hữu phó tướng quân Giang Bắc đương nhiệm Mạc Hải đề nghị.



Tiết Vũ lắc đầu, nói: “Võ An còn có đại quân của thát tử, chúng ta vốn giơ cao lá cờ chống lại thát tử, giờ chưa thấy khai chiến với thát tử, lại đi đánh người trong nhà trước, e là sẽ ảnh hưởng không tốt đến danh tiếng.”



Mạc Hải vốn xuất thân từ quân Dự Châu, là một người cao lớn thô kệch, tính tình cũng rất ngay thẳng, nghe Tiết Vũ nói như thế liền phản bác: “Tiết tướng quân quên là chúng ta đã làm phản rồi sao? Chẳng lẽ vì thanh danh mà để cho mọi người chết đói? Cả mấy vạn người như vậy, miệng ăn núi lở, không lấy Ký Châu thì làm sao bây giờ? Thái Hành không thể so với Ô Lan được, cái gì cũng không có, thì lấy gì để nuôi quân?”



Nghe Mạc Hải nói như vậy, sắc mặt Tiết Vũ liền có chút không tốt, anh ta sinh ra và lớn lên ở Thái Hành, tất nhiên không thích nghe người khác nói xấu Thái Hành nửa câu, mặc dù Thái Hành đúng là nơi đất bạc dân nghèo.



Vương Thất nhìn thấy Tiết Vũ không vui, sợ Mạc Hải tiếp tục đắc tội với người ta, vội vang cười nói: “Ngẫm lại có lẽ sẽ nghĩ ra biện pháp, nhớ ngày đó mới vào Ô Lan, mọi người lúc đó chẳng phải đều sợ trong núi không có gì nuôi quân đó thôi, nhưng kết quả thì sao, quân Giang Bắc chúng ta không chỉ nuôi được, mà còn lớn mạnh lên không ít còn gì!”



A Mạch đưa mắt nhìn Tiết Vũ, dò hỏi: “Tiết tướng quân, trước đây binh lính giữ thành Thanh Châu cũng có hai vạn người, ngoại trừ lương thảo do triều đình cấp, còn có nguồn cung cấp nào khác nữa không?”



Tiết Vũ lắc đầu nói: “Chỉ trông vào lương thảo do triều đình cấp mà miễn cưỡng nuôi quân, Thanh Châu vốn đã nổi danh là vùng đất nghèo, nên trong triều có rất nhiều người không nguyện đến đây làm quan.”



A Mạch cười, nàng biết Thanh Châu nghèo, chỉ có điều nhìn phủ đệ của các tướng lãnh trong thành này lại chẳng có vẻ khốn cùng như Tiết Vũ nói, vì thế lại hỏi: “Những người đến đây thì sao? Cũng không thể để cho họ ngay cả người nhà cũng không nuôi nổi!”



Tiết Vũ nghĩ nghĩ nói: “Thanh Châu là nơi tận cùng, triều đình cấp bổng lộc lại thiếu, nếu chỉ duy nhất một người đến thì không nói làm gì, nhưng nếu mang theo gia quyến đến thì đúng là không nuôi nổi. Về sau lại có một vị tướng thủ thành nghĩ ra một cách, đó là phân cho họ mỗi người một đỉnh núi Thái Hành, thu hoạch sản vật sẵn có đem về dùng trong gia đình.” Anh ta nói xong nhìn về phía đám người Vương Thất và Lý Thiếu Hướng, nói: “Nhị vị đã từng từ thành Thanh Châu ra ngoài, hẳn là vẫn còn nhớ rõ chứ?”



Lý Thiếu Hướng và Vương Thất đều sửng sốt, đây là chuyện giữ kín trong quân đội Thanh Châu, nói là phân cho đỉnh núi, kỳ thật chính là bị các tướng lĩnh cao cấp này chiếm lấy, sau đó sai sử binh lính đi canh tác thay bọn họ. Hai người bọn họ đều là mới phát đạt sau khi gia nhập quân Giang Bắc, ở Thanh Châu cũng không ít lần lên “Đỉnh núi” khổ lao. Hiện giờ Tiết Vũ điểm danh đến hai người, bọn họ bất giác đều có chút xấu hổ.



Lý Thiếu Hướng con mắt vòng vo xoay chuyển, cười nói: “Trước kia đúng thật là có nghe đến.”



Vương Thất nói thẳng: “Nhớ, ta còn lên núi ở lại mấy ngày. Nếu nhớ không lầm, vườn đào trên núi Phi Hà là của nhà Tiết tướng quân?”



Mặt Tiết Vũ đỏ hồng lên, có chút không được tự nhiên, ứng phó nói: “Chuyện trong nhà đều do nội tử để ý, ta cũng không quá quan tâm.”



Trương Sinh nhìn thấy Tiết Vũ không được tự nhiên, vội vàng nói sang chuyện khác: “Tình hình ở đây với trên núi Ô Lan không giống nhau, liệu có thể đem các doanh tản vào trong núi được không?”



Người khác còn chưa mở miệng, Lý Thiếu Hướng cũng đã liên tục lắc đầu, phản đối: “Không được, vùng núi này rất hoang sơ, khí hậu lại khô hạn, chỉ trông chờ vào  chút cao lương, sản lượng lại không cao. Những hộ nông gia trên núi ăn còn không đủ no, nên kể cả có tiền cũng không thể mua được lương thực.”



Không thiếu chư tướng trong quân là người Thanh Châu, tất nhiên cũng biết đó đều là tình hình thực tế, đều gật đầu công nhận, nhất tề nhìn về phía A Mạch, chờ chủ ý của nàng. A Mạch vẫn trầm mặc, vừa rồi khi Trương Sinh nói đem các doanh phân tán vào trong núi khiến trong lòng A Mạch vừa động, cũng nhân việc nuôi quân mà nghĩ ra cách giải quyết một vần đề nan giải.



Mọi người thấy A Mạch trầm mặc không nói, cũng theo nhau mà trở nên im lặng, nhưng đợi đến nửa ngày vẫn không thấy A Mạch có phản ứng gì, trong lòng đều không khỏi cảm thấy kỳ quái. Vương Thất nhìn thoáng qua Lý Thiếu Hướng ở bên cạnh, dùng khuỷu tay khẽ huých anh ta, hướng về phía A Mạch bĩu môi. Lý Thiếu Hướng đối với động tác nhỏ của Vương Thất làm như không thấy, chỉ khẽ đằng hắng trong họng, đang định mở miệng, thì Trương Sinh đã lên tiếng gọi A Mạch trước: “Mạch đại nhân, ngài nói đi? Trong núi này không đủ sản vật và lương thực nuôi quân, Ký Châu mặc dù trù phú, nhưng chúng ta có nhờ cậy được hay không vẫn còn rất khó nói, dù sao chúng ta cũng phải nghĩ ra biện pháp mới được.”



A Mạch giờ phút này đã là phục hồi lại tinh thần, Trương Sinh nói lại vô cùng rõ ràng, A Mạch hiểu được ý tốt của Trương Sinh, trước hướng anh ta khẽ cười rồi mới hỏi chư tướng: “Mọi người nghĩ thế nào?”



Lý Thiếu Hướng chần chờ một chút rồi nói: “Nếu không, ta cho người đi tìm vài ngọn núi thu hoạch ít sản vật tự nhiên đi?”



A Mạch cười nói: “Khai hoang trồng trọt cũng là một cách, chỉ có điều ít nhất phải hai năm mới nhìn thấy kết quả, không phải giải pháp trước mắt. Ngươi trước cứ cho người tìm, cũng là làm một việc tốt cho dân chúng Thanh Châu.”



Lý Thiếu Hướng gật đầu nói phải.



A Mạch còn nói thêm: “Nhất định phải giải quyết vấn đề ăn mặc, biện pháp tốt nhất chính là lấy từ vùng đất Ký Châu trù phú, chỉ có điều hiện tại có quân đội thát tử ở Võ An, chúng ta không có cách nào khác để xoay sở, cũng không thể làm ra cảnh nồi da nấu thịt mà biến người nhà thành kẻ địch được.”



Tiết Vũ nghe xong lời ấy vội vàng gật đầu, nói: “Đúng là như thế.”



A Mạch nói tiếp: “Cho nên, tốt nhất là Tiếu tướng quân ở Ký Châu có thể chủ động đưa lương, tiền cho chúng ta là tốt nhất.” Thấy trên mặt chư tướng đều lộ vẻ khó hiểu, A Mạch cười cười, lại nói với Tiết Vũ: “Việc này phải phiền Tiết tướng quân tự mình đi Ký Châu một chuyến, nói quân Giang Bắc chúng ta không đủ lương thảo, trước mắt tính phải bỏ Thanh Châu, xin Tiếu tướng quân tạm thời cho quân ta mượn tạm vài quận huyện để làm chỗ trốn tránh.”



Tiết Vũ nghe đến đây biết A Mạch muốn mình đi lừa đảo, mặc dù không hoàn toàn tán thành, nhưng cũng khó mà nói khác, đành phải trầm giọng lĩnh mệnh.



Đợi cho quân nghị chấm dứt, sắc trời đã tối. Tiết Vũ theo mọi người rời khỏi phòng nghị sự, cố ý đi chậm vài bước tụt lại phía sau mọi người, vụng trộm kéo Lý Thiếu Hướng lại, thấp giọng dò hỏi: “Lý tướng quân, không biết vị Từ tiên sinh mà lúc trước mọi người ra khỏi phủ nghênh đón là người phương nào?”



Lý Thiếu Hướng giơ ngón tay cái về phía Tiết Vũ, đáp: “Đó là người lắm mưu nhiều kế nhất quân Giang Bắc ta, vốn là quân sư bên cạnh Thương soái, Từ Tĩnh, Từ tiên sinh.”



Tiết Vũ có chút kinh ngạc, nói: “Quân sư của Thương soái? Nhưng sao lại có vẻ rất thân thiết với Mạch đại nhân vậy?”



Lý Thiếu Hướng thần bí cười cười: “Bởi vì Từ tiên sinh là thúc trượng của Mạch đại nhân!”



“Thúc trượng?” Tiết Vũ không khỏi kinh ngạc,“Mạch đại nhân đúng là đã có thê tử rồi sao?”



Lý Thiếu Hướng cười hắc hắc, hỏi: “Thấy không giống người có thê tử phải không?”



Tiết Vũ theo bản năng lắc lắc đầu, trong lòng đột nhiên cảm thấy vô cùng may mắn, may là thê tử chưa tìm bà mối đem muội tử nhà mình gả cho Mạch đại nhân, nếu không, người khác còn không hiểu tại sao mình lại đem muội muội gả cho thủ trưởng làm thiếp? Đang nghĩ ngợi, chợt nghe Lý Thiếu Hướng hô: “Mạch đại nhân”, Tiết Vũ vừa đưa mắt nhìn lên, thấy A Mạch mang theo thân vệ từ trước mặt đi tới, vội vàng cất tiếng chào: “Mạch đại nhân.”



A Mạch cười cười, nói với Tiết Vũ: “Đúng lúc Tiết tướng quân còn chưa đi, vừa rồi có câu quên chưa nói với tướng quân, khi nào Tiết tướng quân đi Ký Châu, nhất định phải nói rõ với Tiếu tướng quân rằng quân Giang Bắc chúng ta đúng là bất đắc dĩ mới dùng đến hạ sách này, chỉ mong Tiếu tướng quân niệm tình dân chúng Thanh Châu, quân Giang Bắc ta thật không đành lòng bỏ dân chúng Thanh Châu lại cho thát tử giết hại.”



Tiết Vũ và Lý Thiếu Hướng đều ngẩn ra, tên thân vệ phía sau A Mạch lại phì cười thành tiếng. A Mạch quay đầu liếc nhìn anh ta một cái, anh ta vội vàng nghiêm mặt cúi đầu xuống.



Tiết Vũ bị tiếng cười của tên thị vệ kia làm cho bừng tỉnh, vội vàng đồng ý nói: “Thuộc hạ hiểu rồi.”



A Mạch lại hàn huyên cùng anh ta vài câu, rồi mang theo tên thị vệ kia xoay người rời đi.



Tiết Vũ vẫn ngây ngốc đứng nguyên tại chỗ, Lý Thiếu Hướng cười hắc hắc vỗ vai anh ta, nói: “Không phải buồn, dù sao ngươi và Tiếu lão tướng quân cũng không phải người ngoài, ta bảo thật, ngươi đi thì cứ việc nói thẳng: Ngài cấp lương thảo cho chúng ta đi, nếu cho, chúng ta nhất định nhớ kỹ ơn của ngài. Còn không cho? Tốt lắm, đừng trách chúng ta da mặt quá dày, cũng chỉ có thể mang theo dân chúng Thanh Châu đến chỗ ngài tìm nơi nương náu, ngài mau chuẩn bị phòng ở cho chúng ta đi!”



Tiết Vũ chớp chớp ánh mắt nhìn Lý Thiếu Hướng mà cảm thấy vô cùng choáng váng.



Lại nói A Mạch mang theo tên thân vệ kia rời đi, cũng không về chỗ ở của mình, mà đi vòng đến chỗ của Từ Tĩnh. Trong phòng Từ Tĩnh đã sáng đèn, Trương Sĩ Cường đang chỉ huy hai tiểu binh khiêng một thùng nước nóng lớn, đưa mắt lên thấy A Mạch đang lại gần, vội vàng bảo hai tiểu binh đưa thùng nước ra ngoài, còn mình thì bước nhanh ra nghênh đón, kêu lên: “Đại nhân.”



A Mạch tùy ý khẽ gật đầu, hỏi anh ta: “Tiên sinh không ngủ sao?”



Trương Sĩ Cường lắc đầu nói: “Tiên sinh nói rong ruổi trên đường cả người rất khó chịu, cho nên nhất định phải tắm rửa, cũng vừa thu dọn xong.”



Trong phòng, Từ Tĩnh đã nghe được A Mạch và Trương Sĩ Cường nói chuyện, liền cất giọng hỏi: “Là A Mạch sao?”



A Mạch vội vàng cao giọng đáp: “Tiên sinh, là ta, A Mạch.”



———————-



Chú thích:



1- Hoàng liên: một vị thuốc trong Đông y, rễ to bằng đầu đũa, khúc khuỷu, ít rễ con nhiều, nhánh như bàn chân gà, ngoài vàng sẫm, trong vàng tươi, vị rất đắng.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

119#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:28:53 | Chỉ xem của tác giả
Chương 110

QUÂN SƯ







Rèm cửa được vén lên, Từ Tĩnh đã thay xong một thân quần áo sạch sẽ từ trong phòng chậm rãi bước ra, nhìn A Mạch hỏi: “Hội nghị quân sự xong rồi sao?”







A Mạch vội nói: “Đã xong rồi, ta đến đây thăm tiên sinh, phải chăng đã quấy rầy tiên sinh nghỉ ngơi?”







Từ Tĩnh không trả lời, tầm mắt dừng lại trên người tên thân vệ sau lưng A Mạch, từ lúc ông ta vào thành đã phát hiện thấy tên thân vệ này vẫn không rời khỏi A Mạch nửa bước, không khỏi hỏi A Mạch: “Ai vậy? Sao lúc nào cũng như cái đuôi bám sau lưng ngươi thế?”







A Mạch còn chưa trả lời, tên thân vệ kia đã tranh lời nói trước: “Từ tiên sinh, tại hạ họ Mục.”







“Họ Mộc(1)?” Từ Tĩnh đưa tay vuốt râu.







Thân vệ này chính là Mục Bạch, một cái tên giả của Lâm Mẫn Thận, anh ta thấy Từ Tĩnh hỏi, thản nhiên cười, đáp: “Đúng vậy, tại hạ là Mục Bạch, đối với Từ tiên sinh…” Không để cho Lâm Mẫn Thận kịp nói hết lời, Từ Tĩnh liền ngắt lời nói: “Hai cây(2) thành rừng?”







Lâm Mẫn Thận ngẩn người, lập tức liền hiểu ra, ánh mắt lộ vẻ khâm phục, khen: “Đúng vậy, Từ tiên sinh quả nhiên lợi hại.”







Từ Tĩnh nhíu mày, tức giận nói: “Ngươi không sợ người khác biết ngươi là ai sao?” Nói xong lại quay đầu giáo huấn A Mạch: “Sao ngươi lại thu nhận con chim công này bên người thế?”







Lâm Mẫn Thận nhất thời lúng túng, trêm mặt hết đỏ lại trắng, Trương Sĩ Cường đứng bên cạnh cũng cười xì một tiếng. A Mạch nhịn cười, đáp: “Là do Thương soái an bài, ta cũng chẳng có cách nào.”







Từ Tĩnh lại nhìn nhìn Lâm Mẫn Thận, đột nhiên nói: “Đổi lại đi!”







Lâm Mẫn Thận sửng sốt, lại nghe Từ Tĩnh nói tiếp: “Đừng gọi là Mục Bạch, đổi thành Bạch Mục(3) tốt hơn.”







Lâm Mẫn Thận nổi giận nói: “Từ tiên sinh sao lại nói thế, uổng cho tại hạ từ lâu ngưỡng mộ tiên sinh…”







“Mục Bạch!” A Mạch lên tiếng ngăn Lâm Mẫn Thận lại: “Không được làm càn!”







Lâm Mẫn Thận mặt đỏ đỏ phừng phừng vẫn muốn nói tiếp, nhưng Từ Tĩnh đã xoay người sang nói với A Mạch: “Ngươi theo ta đi dạo quanh đây đi.” Lâm Mẫn Thận thấy Từ Tĩnh coi khinh mình như thế, trong lòng lại tức giận, muốn vượt lên phía trước Từ Tĩnh để tranh luận phải trái. Nhưng Trương Sĩ Cường đã vội vàng túm anh ta lại, kéo ra ngoài sân: “Đại nhân và Từ tiên sinh có việc muốn nói, ngươi và ta ra ngoài vườn canh gác.”







Lâm Mẫn Thận bị Trương Sĩ Cường lôi ra khỏi cửa, A Mạch thong thả đi bộ cùng Từ Tĩnh dọc theo con đường mòn trong vườn, cười khuyên nhủ: “Tiên sinh cần gì phải bực bội với anh ta như vậy.”







Từ Tĩnh im lặng một lát, đột nhiên nói: “Anh ta không nên như vậy, dùng người thì không nên nghi ngờ, người đã nghi ngờ thì không nên dùng, làm như vậy trái lại thật là tầm thường.”







A Mạch sửng sốt, lập tức liền hiểu được “anh ta” mà Từ Tĩnh nhắc đến là chỉ Thương Dịch Chi. A Mạch lặng đi một lúc rồi nói: “Võ công của Lâm Mẫn Thận rất tốt.” Thấy Từ Tĩnh quay lại nhìn mình, A Mạch thản nhiên cười cười, giải thích: “Anh ta cũng là có ý tốt, có chuyện này chắc tiên sinh chưa biết, khi ta ở Thái Hưng có bị thương một lần, thiếu chút nữa thì mất mạng. Anh ta đầu tư trên người ta nhiều lắm, sợ chưa kịp thu hồi vốn thì ta đã bị kẻ khác giết mất, thế nên mới đặc biệt để Lâm Mẫn Thận ở bên cạnh để bảo vệ ta.”







Từ Tĩnh quan sát A Mạch một khắc, nở nụ cười, nói: “Xem ra ngươi đã thông suốt rồi, so với ngươi, lão phu trái lại đã thấp kém hơn rồi.”







A Mạch vội nói: “Tiên sinh đừng nói như vậy, tiên sinh đối với A Mạch chính là thầy tốt bạn hiền, nếu không có tiên sinh, A Mạch sao có ngày hôm nay.”







Từ Tĩnh nhìn một cách xem thường, không khách khí nói: “Ngươi đừng vuốt mông ngựa ta, trong lòng ta và ngươi đều hiểu, chúng ta cùng nhau kết hợp lại là vì nhu cầu, ngươi không nhận ân tình của ta, ta cũng chẳng thiếu ân tình của ngươi.”







A Mạch cười cười: “A Mạch biết.”







Từ Tĩnh vuốt râu, nói trắng ra: “Biết là tốt, cho nên về sau hãy thu hồi cái sự khôn vặt của ngươi lại, lão phu không cần cái này. Hơn nữa, ngươi giờ đã là người giữ vị trí cao nhất ở trong quân, không cần phải nhìn vẻ mặt của người khác để sống nữa, phải cứng rắn lên, chỉ cần ngươi có thể đánh thắng trận, người khác tự nhiên sẽ phải kính trọng ngươi, sợ ngươi.”







A Mạch biết Từ Tĩnh có ý tốt, trong lòng không khỏi có chút cảm kích, lại theo thói quen ôm quyền vái một cái, cung kính nói: “Đa tạ tiên sinh dạy bảo.”







Từ Tĩnh thấy vậy lại nhướn mắt nhìn một cách xem thường, rồi chép miệng lắc lắc đầu, không chịu nói tiếp nữa. A Mạch thấy thế không khỏi cười khổ, nàng vốn phải sống như vậy trong một thời gian rất lâu rồi, nhất thời muốn sửa cũng không phải chuyện dễ.







Từ Tĩnh hỏi: “Ngươi tới tìm lão phu có việc gì?”







A Mạch suy nghĩ, nói: “Vẫn là việc Thường Ngọc Thanh ở Võ An, ta đã cẩn thận suy nghĩ rồi, cảm thấy hiện giờ vẫn chưa phải thời cơ tốt để chủ động tấn công. Hơn nữa, hiện giờ quân Giang Bắc cũng vừa bại trận chưa kịp hồi phục.”







Từ Tĩnh nghe vậy liền dừng cước bộ, xoay người nhìn A Mạch, hỏi: “Ngươi đã nghĩ ra đối sách rồi sao?”







Khuôn mặt A Mạch trở nên kiên nghị, trầm giọng đáp: “Thuận theo tình thế, gặp dịp thì biến hóa. Vả lại phải xem động tác của Thường Ngọc Thanh như thế nào, nếu vẫn lùa dân chúng đến công thành, thì sẽ tương kế tựu kế dụ anh ta vào thành rồi tiêu diệt.”







“Vậy dân chúng thì sao?” Từ Tĩnh hỏi.







A Mạch mím chặt môi, đáp: “Dân chúng nếu có thể cứu liền cứu, không thể cứu thì dùng làm mồi nhử.”







Từ Tĩnh lẳng lặng nhìn A Mạch, đột nhiên nở nụ cười, nói: “A Mạch, ngươi hiện tại mới chân chính là một tướng quân.”







A Mạch cười khổ nói: “Tiên sinh đừng nói móc ta.”







“Không, không phải nói móc, mà là khen ngươi!” Từ Tĩnh nghiêm mặt nói: “Từ xưa đến nay không có tướng quân nào được lưu danh vì có tấm lòng từ bi nhân ái, câu nhân từ không thể cầm quân chính là ý này, nếu ngươi chỉ lo nhân ái đối với dân chúng ở dưới thành thì sẽ bất nhân với dân chúng trong thành và quân giữ thành, một khi thành bị phá, tất cả đều sẽ bị tàn sát.”







A Mạch thản nhiên cười.







Từ Tĩnh ngồi xuống một tảng đá, lại tiếp tục theo câu chuyện vừa rồi mà hỏi: “Nếu Thường Ngọc Thanh lùa dân chúng đến sông đào bảo vệ thành thì sao?”







A Mạch ngồi xuống đối diện với Từ Tĩnh, không trực tiếp trả lời vấn đề của Từ Tĩnh mà nói: “Tiên sinh, ta muốn lấy một bộ phận tinh nhuệ từ kỵ binh dùng làm đội du kích, còn lại sắp xếp cho các bộ binh doanh.”







Hiện nay cơ cấu trong quân chính là lấy đội làm đơn vị chiến thuật cơ bản, một đội có một trăm người, quản lý mười ngũ, trên đội là doanh, trên doanh là quân đoàn. Trong đó, bộ binh, kỵ binh là doanh độc lập, không có quan hệ quản lý trực tiếp. Trong bộ binh doanh mặc dù cũng có kỵ binh, nhưng số lượng rất nhỏ, phần lớn làm thân vệ cho các tướng lĩnh hoặc làm thám báo trong doanh.







Từ Tĩnh bỗng nhiên phát sinh hứng thú, lại dùng tay khẽ vuốt râu, hỏi: “Nói thử một chút nghe xem, ngươi có ý tưởng gì?”







A Mạch nói: “Một số kỵ binh vì không có chiến mã tốt nên không thể dùng trong chiến đấu, chi bằng phối hợp với bộ binh doanh, thứ nhất, có thể đảm nhiệm làm lính liên lạc cho các tướng lĩnh, hoặc dùng để vận tải đồ quân nhu. Thứ hai, có thể làm một đội độc lập, dùng để tiến hành trinh sát và chiếm lĩnh một số vị trí trọng yếu trong trận địa, hoặc khi quân địch lộ vẻ hỗn loạn, bố trí thành đội hình chiến đấu ở mặt sau bộ binh, dưới sự chỉ huy của tướng quân bộ binh, có thể lợi dụng thời cơ có lợi mà truy đuổi quân địch.”







Từ Tĩnh nghe xong, trong mắt lập tức lóe tinh quang, tay vẫn không ngừng vuốt râu, đột nhiên hỏi: “Nếu là đại binh tác chiến, thì kỵ binh dùng như thế nào?”







A Mạch ngượng ngùng cười, đáp: “Nhất thời còn chưa nghĩ đến, chỉ nghĩ dù sao những kỵ binh đó nếu giao chiến trực diện cùng thiết kỵ thát tử thì sẽ gặp nguy hiểm, chi bằng lưu lại để dùng vào việc khác có ích hơn.”







Trên mặt Từ Tĩnh lộ ra vẻ suy ngẫm, tự mình nghiên cứu, khảo xét, qua một lúc lâu mới vừa cười vừa hỏi: “Vậy ngươi muốn thả kỵ binh tinh nhuệ ra ngoài để làm gì? Đề phòng Thường Ngọc Thanh công thành sao?”







A Mạch đáp: “Đúng vậy, chỉ cần một sư (4) du kích tinh nhuệ bên ngoài, cho dù Thường Ngọc Thanh có công thành, chúng ta cũng chiếm được phần thắng nhiều hơn.”







Từ Tĩnh không khỏi gật đầu, lại hỏi: “Đường Thiệu Nghĩa đi rồi, hiện giờ ai thống lĩnh kỵ binh?”







“Trương Sinh.” A Mạch đáp.







Từ Tĩnh nghe vậy thì kinh ngạc nhìn A Mạch.







A Mạch bất đắc dĩ cười, nói: “Đã nghi ngờ thì không dùng người, đã dùng người thì không nên nghi ngờ, ta tin anh ta.”







Từ Tĩnh trầm mặc một lát, nói: “Vậy ngươi cần thương lượng trước với anh ta về việc thay đổi này, dù sao chủ yếu vẫn là điều động kỵ binh.”







A Mạch gật đầu đáp: “Ta ngày mai sẽ đi.”







Sáng sớm hôm sau, A Mạch đến giáo trường kỵ binh doanh tìm Trương Sinh, ai ngờ còn chưa nhìn thấy Trương Sinh đâu, lại đã thấy Vương Thất và Lý Thiếu Hướng ở góc giáo trường xa xa phía trước. Lý Thiếu Hướng đang giơ hai tay ngăn cản Vương Thất, giống như hai người đang tranh luận chuyện gì đó.







A Mạch thấy lạ, liền đi lại gần nghe, chợt thấy Lý Thiếu Hướng nói: “Không được, không được, Vương Thất ngươi không được quấy phá lung tung!”







Vương Thất trên người dính đầy bụi, vừa đẩy mạnh Lý Thiếu Hướng, vừa chửi bậy nói: “Ngươi giữ lại con súc sinh này mới là quấy phá lung tung, lãng phí lương thảo chưa nói, lại còn cả ngày coi hắn như đại gia mà cho người đến hầu hạ, ôi giời! Ngươi nhìn nó xem, ngươi nhìn nó xem, ngươi nhìn cái bộ dạng của nó xem! Đúng là chủ làm sao, tớ làm vậy!”







Vương Thất kêu lên chỉ về phía sau Lý Thiếu Hướng, A Mạch nhìn theo hướng đó, thấy trên giáo trường không có ai, nhưng tại bãi cỏ, phía trên cọc gỗ có buộc một thần tuấn chiến mã hung hãn lông màu trắng, bờm dựng đứng, vẻ mặt hiên ngang. A Mạch nhíu mày nhìn kỹ, càng nhìn càng cảm thấy con ngựa này rất quen, trong giây lát chợt nhớ ra đây đúng là con ngựa mà Thường Ngọc Thanh vẫn thường cưỡi, hình như có tên là “Chiếu Dạ Bạch”.







Lý Thiếu Hướng trong lúc vô tình nhìn thấy A Mạch, liền thở phảo nhẹ nhõm, vội vàng kéo Vương Thất lại, kêu lên: “Đại nhân, ngài mau phân xử giúp chúng ta đi.”







Thì ra A Mạch không nhớ lầm, chiến mã này quả nhiên chính là con Chiếu Dạ Bạch, trong đại chiến tại sông Tử Nha, Thường Ngọc Thanh đã lưu lại bên bờ sông. Lần đại chiến đó, Thường Ngọc Thanh trúng kế bị vây hãm, liền kéo theo A Mạch  nhảy xuống sông trốn thoát, để lại con ngựa mình cưỡi trên bờ sông, sau trận chiến liền bị Lý Thiếu Hướng coi như bảo bối “nhặt được” mà đem về, cất giấu lén lút mang đến Thanh Châu.







Mấy ngày trước đây, Vương Thất tới tìm Lý Thiếu Hướng để lấy chiến mã, vừa lúc trông thấy con Chiếu Dạ Bạch này, thấy nó là thần tuấn, liền chẳng nói qua với Lý Thiếu Hướng lời nào đã nhảy lên cưỡi. Ai ngờ Chiếu Dạ Bạch tính tình rất quái. Ngươi nói nó ôn hòa nhu thuận, nhưng nó lại không chịu để cho ngươi khống chế, bất kể là ai nhảy lên lưng nó để cưỡi đều bị nó hất ngã. Nhưng nếu ngươi nói nó là con ngựa trái tính trái nết, thì ai cho nó lương thảo nó đều ăn, đúng là một con ngựa không có khí tiết.







Nói ngắn gọn, thì con Chiếu Dạ Bạch chính là một con ngựa vô lại. Vương Thất mấy lần thử thuần phục con ngựa này đều không thành, tức giận đến nỗi chỉ muốn giết ngay con tuấn mã này cho hả giận, nhưng Lý Thiếu Hướng thì đâu thể để cho anh ta làm thế được, vì thế hai người liền bắt đầu tranh cãi.







A Mạch nghe xong liền đưa mắt nhìn Chiếu Dạ Bạch bên sân kia đang vươn cổ ngẩng cao đầu, trong đầu đột nhiên hiện lên khuôn mặt của Thường Ngọc Thanh, cũng một vẻ kiêu ngạo, hiên nganh như vậy…







Lý Thiếu Hướng vẫn còn đang lải nhải: “Đại nhân, ngài nói một con thần tuấn như vậy, chẳng lẽ lại không có cá tính hay sao? Vương Thất tự mình không thuần phục được, nên mới đòi giết nó cho hả giận, ngài nói anh ta đây có phải là quấy phá lung tung hay không?”







Vương Thất lại tức giận: “Ngươi nuôi nó mấy tháng, có thấy ngươi thuần phục nó đâu, nếu không thể thuần phục thì còn lưu nó lại làm gì? Không bằng giết đi cho rảnh nợ!”







Lý Thiếu Hướng nghe xong tất nhiên lại cãi lại, hai người ngươi một câu, ta một câu, đứng cãi nhau trước mặt A Mạch, cuối cùng nhất tề hỏi A Mạch: “Đại nhân, ngài nói xem phải làm thế nào?”



——————–



Chú thích:



1, 2 – Mục và Mộc: đều có nghĩa là gỗ.



3-    Bạch Mục: gỗ rỗng



4-    Hai cây thành rừng: nguyên văn “Song mục thành lâm”, ý nói thân phận thật của Mục Bạch không phải là họ Mục mà là họ Lâm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

120#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:29:59 | Chỉ xem của tác giả
Chương 111

KHÍCH TƯỚNG








“Đưa trở về!” A Mạch bỗng nói, “đea đến Võ An cho Thường Ngọc Thanh để anh ta bỏ tiền ra chuộc, nếu không chịu thì giết chết con ngựa này ngay ngoài thành Võ An.”







Lý Thiếu Hướng và Vương Thất đều sửng sốt, ngay cả con Dạ Chiếu Bạch kia dường như nghe cũng hiểu được lời A Mạch, liền há mồm trợn mắt, ngẩng đầu hí vang, dãy dụa muốn giật đứt dây cương mà chạy. Lý Thiếu Hướng vẫn có chút do dự không muốn, Vương Thất thì vỗ tay trầm trồ khen ngợi nói: “Đúng! Kêu Thường Ngọc Thanh lấy tiền ra chuộc, chúng ta vừa kiếm được bạc lại vừa khiến anh ta mất mặt, một công đôi việc.”







“Còn có thể thăm dò tình hình quân địch ở Võ An.” A Mạch cười cười, lại dặn dò: “Gọi người cưỡi khoái mã đi, không cần thiết thì không quay trở lại.”







Vương Thất vội vàng gật đầu nhận lệnh, quay về tuyển chọn một số người thông minh, linh hoạt từ đội thám báo, dặn dò cứ làm như thế, như thế, lại cho bọn họ cưỡi ngựa hàng đôi, đem theo con Dạ Chiếu Bạch phi thẳng đến thành Võ An.







Thành Võ An cách Thanh Châu chưa đến hai trăm dặm về phía tây bắc, ra roi thúc ngựa chỉ một ngày là đến. Mấy thám báo vốn đã được Vương Thất dặn dò, trên đường đi cũng không hề vội vã, đi đến dòng suối cạn cách Võ An ba mươi dặm liền cố ý dừng lại nghỉ ngơi, đợi sáng sớm ngày hôm sau, trước thì cho ngựa ăn uống thật no nê, để lại hai cánh quân cưỡi chiến mã chờ trong rừng cây cạnh dòng suối, những người khác lúc này vừa cưỡi tuấn mã, vừa dắt Dạ Chiếu Bạch đi về phía thành Võ An.







Trong thành Võ An, Thường Ngọc Tông nghe thấy tiểu giáo gác cổng thành bẩm báo, vội vàng lên vọng lâu trên cổng thành xem, chỉ thấy phía ngoài cổng thành, ngoài một tầm tên bắn quả thực có mấy kỵ binh Nam Hạ, ở giữa nổi bật lên một thần tuấn chiến mã màu trắng béo tốt, cường tráng, đúng là con Dạ Chiếu Bạch mà Thường Ngọc Thanh vẫn cưỡi. Thường Ngọc Tông quay đầu hỏi giáo úy bên cạnh: “Bọn chúng đòi đổi lấy cái gì?”







“Năm ngàn lượng bạc trắng” Giáo úy kia đáp. Trong lòng Thường Ngọc Tông bỗng mừng thầm, nhưng trong người lại không mang theo nhiều bạc như vậy, chắc là bọn thuộc hạ cũng thế. Viên giáo úy kia sau khi do dự lại nói tiếp: “Nói không cần bạc trắng, chỉ cần ngân phiếu, nếu không có ngân phiếu của Nam Hạ thì ngân phiếu Bắc Mạc của chúng ta cũng được.”







Thường Ngọc Tông sửng sốt, đợi đến khi phản ứng được liền tức giận mắng: “Bọn mọi rợ Nam Hạ thật đáng hận!”







Viên giáo úy kia lén nhìn sắc mặt Thường Ngọc Tông, cẩn thận hỏi: “Tướng quân, chúng ta làm làm thế nào bây giờ?”







Theo như Thường Ngọc Thanh vẫn nói, Thường Ngọc Tông mặc dù tuổi chưa nhiều, nhưng làm việc lại ít khi lỗ mãng, rõ ràng giờ phút này trong lòng rất tức giận, nhưng vẫn không có ý định làm việc sơ xuất, liền dặn dò viên giáo úy: “Trước cố gắng kéo dài thời gian, rồi mau phái người đi bẩm báo đại tướng quân.”







Viên giáo úy nghe xong khẽ gật đầu, phái người nói với kỵ sĩ Nam Hạ dưới thành rằng phải đi gom góp ngân lượng, rồi âm thầm phái người cưỡi khoái mã đi thông báo với đại tướng quân Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Tông ở trên tường thành chờ đường huynh, kết quả là chưa đợi được Thường Ngọc Thanh, nhưng lại chờ được thúc phụ Thường Tu An đến.







Thường Tu An người chưa lên đến thành nhưng đã nghe thấy tiếng: “Để ta xem xem, để ta xem xem, có đúng là con Dạ Chiếu Bạch của Lão Thất không?”







Thường Ngọc Tông nghe thấy liền kinh ngạc quay người lại, chỉ thấy Thường Tu An bước từng bước đến lỗ châu mai, híp mắt quan sát cẩn thận, rồi kêu lên thành tiếng: “Ô! Đúng là con Dạ Chiếu Bạch của Lão Thất, sao lại rơi vào tay bọn mọi rợ Nam Hạ được nhỉ?”







Thường Ngọc Tông không trả lời, chỉ nhìn lướt qua vẻ mặt bất đắc dĩ của tên lính liên lạc đi theo sau Thường Tu An, liền hỏi Thường Tu An: “Sao tam thúc lại đến đây?”







Thường Tu An vừa nhìn vừa đáp: “Lão Thất đi đôn đốc việc chế tạo khí giới công thành, việc nhỏ thế này không đáng phải đi tìm anh ta.” Ông ta nói xong lại quay người nhìn Thường Ngọc Tông, dùng giọng trưởng bối giáo huấn: “Không phải ta nói ngươi a, Lão Thập Nhất, ngươi chuyện gì cũng tốt, chỉ có điều là làm việc quá cẩn thận, có mỗi việc cỏn con này mà ngươi cũng phải đi hỏi Lão Thất sao?”







Thường Ngọc Tông thầm nghĩ đây chính là chuyện liên quan đến Mạch Tuệ, ta có thể không cẩn thận sao? Ta cũng vì một lần không cẩn thận, kết quả liền bị Mạch Tuệ tiêu diệt mất ba vạn tinh kỵ binh… Trong lòng mặc dù nghĩ như vậy, nhưng trên mặt cũng không dám tỏ vẻ bất kính, chỉ cúi đầu cụp mắt nói: “Tam thúc dạy phải lắm.”







Thường Tu An cười ha hả, dùng tay vỗ vỗ vai Thường Ngọc Tông, ghé sát vào tai nói: “Mấy tên mọi rợ Nam Hạ này đi đường xa từ Thanh Châu mà đến, chắc chắn là người, ngựa đều kiệt sức, ngươi trước cứ dùng ngân phiếu đổi lấy Dạ Chiếu Bạch về, sau lại phái người truy kích, bọn chúng chỉ có vài tên, còn có thể chạy được sao?”







Thường Ngọc Tông có chút do dự, hỏi: “Làm như vậy có được hay không… Cái này… có chút…?”







Thường Tu An trừng mắt: “Có chút cái gì mà có chút? Ngươi chẳng lẽ muốn nói chuyện tín nghĩa với bọn mọi rợ Nam Hạ này hay sao, lúc bọn chúng lột áo giáp của những tướng sĩ chết trận của chúng ta thì có nói đến chuyện tín nghĩa hay không? Hơn nữa, mấy tên mọi rợ Nam Hạ dưới thành này không chừng đến để tìm hiểu động tĩnh của chúng ta, sao có thể thả cho chúng còn sống mà trở về được!”







Trong lòng Thường Ngọc Tông vẫn cảm thấy có chút gì đó không yên tâm, chần chờ một chút rồi hỏi: “Mấy tên mọi rợ Nam Hạ này cũng chỉ đứng ở dưới thành thì có thể tìm hiểu được tin tức gì ở trong thành chúng ta được? Đừng trúng kế dụ địch của chúng!”







Thường Tu An không kiên nhẫn khoát tay áo, trực tiếp căn dặn tiểu giáo canh giữ cổng thành: “Chuẩn bị ngân phiếu theo yêu cầu của chúng, chờ hai bên giao dịch xong, khi Dạ Chiếu Bạch về đến tay, lập tức giết chết mấy tên mọi rợ đó đi.”







Tên tiểu giáo lại liếc trộm Thường Ngọc Tông, thấy anh ta cũng không có ý ngăn cản, lúc này mới ôm quyền nói: “Tuân lệnh!” Khi tên tiểu giáo vừa xoay người bước đi, Thường Tu An lại cao giọng gọi anh ta, vẫy vẫy tay ý bảo tiểu giáo quay lại, thấp giọng nói: “Tốt nhất là bắt sống để chúng ta thẩm vấn tình hình của chúng ở Thanh Châu.”







Ngoài thành, kỵ binh quân Giang Bắc vốn đã sớm yêu cầu trong thành chỉ được phái ra một người cầm ngân phiếu, đi bộ ra đổi ngựa, chỉ cần nhiều hơn một người, bọn họ sẽ lập tức sẽ giết chết Dạ Chiếu Bạch. Chính vì thế, tiểu giáo Bắc Mạc đặc phái một tên lính can đảm một mình ra khỏi thành, còn mình thì tự lĩnh một đội kỵ binh nấp sau cửa thành, chỉ đợi tên lính kia đổi bạc lấy Dạ Chiếu Bạch xong, anh ta liền dẫn người xông ra, nhất định phải bắt sống mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc.







Ban đầu, mọi chuyện đều tiến hành rất thuận lợi, tên lính Bắc Mạc kia đưa mắt kiểm tra Dạ Chiếu Bạch, thấy toàn thân cũng không có thương tích gì, lúc này mới lấy ngân phiếu năm vạn lượng giao cho kỵ binh quân Giang Bắc rồi cầm lấy dây cương của Dạ Chiếu Bạch. Vốn anh ta trước khi ra khỏi thành đã được dặn rằng Dạ Chiếu Bạch không bao giờ để người khác cưỡi, cho nên cũng không lên ngựa, chỉ dắt Dạ Chiếu Bạch thong thả đi về phía cổng thành. Mới đi được nửa đường, cổng thành đột nhiên mở rộng, đại đội kỵ binh từ trong thành phóng ngựa lao ra, phi như bay về hướng mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc.







Lại nói mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc sau khi cầm được ngân phiếu liền quay ngựa đi, chưa đi được xa lắm liền nghe thấy phía sau đột nhiên truyền đến tiếng vó ngựa dồn dập như sấm động, không khỏi quay đầu lại nhìn, chỉ thấy một đội kỵ binh Bắc Mạc tay vung loan đao từ trong thành vọt ra rất nhanh, bụi đất theo vó ngựa cuộn lên, miệng hét rất lớn, thanh thế bức người.







“Đi mau!” Tên kỵ binh cầm đầu quân Giang Bắc gấp giọng quát, hai chân dùng sức kẹp bụng ngựa rồi giục ngựa phi nước đại, còn mình thì ở trên lưng ngựa xoay người giương cung, ngắm thẳng vào con Dạ Chiếu Bạch chưa đến cổng thành mà bắn. Những tên kỵ binh bên cạnh cũng rất nhanh xoay người lại lắp cung tên mà bắn.







Tên lính Bắc Mạc vừa rồi thấy cổng thành mở rộng, liền nắm lấy Dạ Chiếu Bạch mà chạy như bay, may mà con Dạ Chiếu Bạch này cũng rất biết phối hợp chạy theo. Mắt thấy sẽ lọt vào bên trong vòng bảo vệ của kỵ binh quân mình, ai ngờ Dạ Chiếu Bạch lại đột nhiên giở chứng, chẳng những không hề chạy theo anh ta, mà còn đột nhiên kéo anh ta sang hướng khác mà phóng đi. Tên lính kia trong lòng rất khẩn trương, lại không dám buông dây cương, thiếu chút nữa bị Dạ Chiếu Bạch kéo ngã, vừa lảo đảo mấy bước lại nghe thấy tiếng gào thét thất thanh của người bên cạnh, một mũi tên lướt sát qua bên cạnh anh ta. Tên lính ngẩn người, trên người bỗng toát mồ hôi lạnh.







Mấy kỵ binh quân Giang Bắc chỉ bắn một mũi tên rồi quất ngựa chạy đi, ngựa mà bọn họ cưỡi vốn đều là tuấn mã do Vương Thất cố ý chọn trong quân Giang Bắc, hơn nữa lại sớm có đề phòng, cho nên kỵ binh quân Bắc Mạc phía sau mặc dù cố hết sức đuổi theo nhưng vẫn bị rớt lại khoảng một tầm tên bay. Hai bên cứ như vậy mà chạy thẳng đến ba mươi dặm, đến lúc này thì thể lực kỵ binh quân Giang Bắc lộ rõ vẻ không thể chống đỡ nổi, tốc độ dần dần chậm lại. Phía sau, giáo úy chỉ huy đội quân truy kích Bắc Mạc trong lòng mừng rỡ, biết rằng ngựa của mình tuy cũng đã bắt đầu mỏi mệt, nhưng vẫn còn tốt hơn so với đối phương, chỉ cần tiếp tục kiên trì một lát nữa thôi thì nhất định có thể bắt sống được bọn mọi rợ Nam Hạ. Nhưng anh ta lại không biết rằng ở phía trước, phía sau một khe núi, có một dòng suối cạn, ở hai bên rừng cây của con đường núi, hai cánh kỵ binh quân Giang Bắc đã chuẩn bị sẵn cung tên cưỡi chiến mã đứng chờ…







Thường Tu An và Thường Ngọc Tông ở trên tường thành cũng có chút nghi hoặc, Dạ Chiếu Bạch và tên lính kia đã an toàn trở về thành, nhưng đợi rất lâu mà không thấy đội kỵ binh quay lại. Hai người nhìn nhau, đều thấy trong mắt người kia lộ ra một tia nhìn chột dạ.







Thường Tu An lẩm bẩm như thể tự an ủi mình: “Chúng ta không nghe thấy động tĩnh gì, chắc sẽ không phải là bọn chúng dùng kế dụ binh, nhưng không hiểu bọn chúng đuổi mấy thằng nhãi kia đến tận đâu vậy?”







Thường Ngọc Tông suy nghĩ rồi hỏi Thường Tu An: “Tam thúc, có nên đi báo cho Thất ca một tiếng không?” Một lời của anh ta thốt ra lại sợ Thường Tu An suy nghĩ nhiều, vội vàng nói thêm: “Nếu Thất ca biết tìm được Dạ Chiếu Bạch chắc chắn sẽ rất cao hứng.”







Lần này Thường Tu An không phản đối, Thường Ngọc Tông vội vàng gọi người dắt Dạ Chiếu Bạch đi đến phía thành bắc, chỗ chế tạo quân giới tìm Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh đang quan sát thợ thủ công thí nghiệm máy bắn đá vừa mới chế tạo ra. Đây là một loại vũ khí công thành rất lợi hại, có thể bắn đá vào quân địch trên tường thành hoặc bắn vào trong thành, gây sát thương rất lớn cho quân giữ thành. Nhưng Thường Ngọc Thanh vẫn chưa cảm thấy hài lòng đối với cái máy bắn đá do thợ thủ công vừa mới làm ra, ngay như trong thí nghiệm vừa rồi, tầm bắn của máy bắn đá này còn chưa đến năm mươi trượng, trong khi quân giữ thành Thanh Châu lại có thể dùng ưu thế của tháp cao cùng công sự trên mặt thành mà thoải mái bắn tên tới khoảng cách này. Nếu không thể tăng tầm bắn của máy bắn đá thì rất khó tạo thành lực sát thương đối với quân lính và công sự phòng ngự trên tường thành.







Người đời đều biết Thường Ngọc Thanh nổi tiếng nhờ kỵ binh, lại thấy anh ta xuất thân từ tướng môn vọng tộc, ngày thường làm việc cuồng ngạo không kiềm chế, rất khó tưởng tượng được là anh ta sẽ lại tới những nơi như chỗ chế tạo quân giới này, lại càng không thể ngờ rằng anh ta lại vô cùng kiên nhẫn thảo luận cùng thợ thủ công về cách làm thế nào để kéo dài tầm bắn cho máy bắn đá.







Dạ Chiếu Bạch từ phía xa đã nhìn thấy Thường Ngọc Thanh, liền hí dài một tiếng, giật dây cương ra khỏi tay tên lính mà chạy thẳng đến chỗ Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh kinh ngạc xoay người, thấy Dạ Chiếu Bạch chạy đến bên cạnh dùng cổ cọ vào người anh ta, nhất thời cảm thấy vô cùng mừng rỡ, vừa lấy tay vuốt ve bờm của Dạ Chiếu Bạch, vừa hỏi tên lính chạy theo phía sau: “Sao lại thế này? Tìm được ở đâu thế?”







Tên lính kia đem sự tình đầu đuôi kể lại, Thường Ngọc Thanh càng nghe, sắc mặt càng lạnh, sau khi nghe xong, trên mặt đã phủ một tầng sương lạnh buốt, dùng tay ấn lên người Dạ Chiếu Bạch một cái, thân thể đã nhẹ nhàng bay lên rồi rơi xuống yên ngựa, giật dây cương phi như bay.







Phía trên vọng lâu tướng thành, Thường Tu An nhìn thấy Thường Ngọc Thanh cưỡi ngựa chạy vội từ trong thành ra, trong lòng bất giác có chút không yên, nhất thời không dám đi xuống giáp mặt Thường Ngọc Thanh, chỉ bắt Thường Ngọc Tông đi xuống nghênh đón Thường Ngọc Thanh. Ai ngờ Thường Ngọc Thanh lại không xuống ngựa, chỉ quát lớn với Thường Ngọc Tông vừa từ trên tường thành xuống nghênh đón: “Mở cửa thành!”







Thường Ngọc Tông vội vàng tiến lên vài bước, kéo con ngựa Thường Ngọc Thanh đang cưỡi, khuyên nhủ: “Thất ca, huynh bình tĩnh một chút, đừng tiếp tục trúng kế khích tướng của bọn mọi rợ Nam Hạ nữa.”







Thường Ngọc Thanh biết phái kỵ binh đuổi theo giết quân Giang Bắc không phải chủ ý của Thường Ngọc Tông, nhưng Thường Tu An dù sao cũng là trưởng bối, anh ta không thể nói nặng lời được, nên chỉ có thể phát hỏa với Thường Ngọc Tông: “Ngươi cũng biết đó là kế khích tướng của bọn mọi rợ Nam Hạ sao? Vậy sao ngươi còn phái một đội kỵ binh đuổi theo giết bọn họ?”







Kỵ binh Bắc Mạc xây dựng theo biên chế một trăm người thành một đội, một ngàn người thành một đoàn, một đội kỵ binh đó ước chừng có một trăm kỵ binh. Kỳ thật cho dù muốn bắt sống mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc thì cũng không đáng phải dùng nhiều kỵ binh như vậy, nhưng Thường Tu An phái nhiều người như vậy chỉ để giết chết mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc thì rõ ràng là có ý bỡn cợt.







Thường Ngọc Tông bị Thường Ngọc Thanh răn dạy thì nói không nên lời, lại nghe thấy phía sau có tiếng vó ngựa ầm ầm như sấm dậy, quay đầu nhìn lại, thấy phía sau Thường Ngọc Thanh có một đại đội kỵ binh đang chạy đến. Trong lòng Thường Ngọc Tông càng gấp, vội vàng ngẩng đầu nhìn lên phía trên tường thành, hy vọng Thường Tu An có thể xuống dưới khuyên Thường Ngọc Thanh, ai ngờ Thường Tu An đã sợ tới mức ngay cả đầu cũng không dám lộ ra. Thường Ngọc Tông bất đắc dĩ đành phải giữ chặt lấy đầu Dạ Chiếu Bạch, gấp giọng khuyên nhủ: “Thất ca, Thất ca, nếu huynh cứ như vậy mà xông ra ngoài, chẳng phải là đúng ý của bọn mọi rợ Nam Hạ hay sao! Ngàn vạn lần không thể đi được!”







Thường Ngọc Thanh cười lạnh nói: “Nếu ta không đi, mới là đúng ý của bọn mọi rợ Nam Hạ! Nhân số một đội không nhiều cũng không ít, vừa hợp với khẩu vị của bọn chúng! Nếu còn chậm thêm chút nữa, e rằng đến một người cũng chẳng cứu nổi! Buông tay!” Thường Ngọc Thanh gầm lên một tiếng, vung mũi thương vào bàn tay đang giữ dây cương của Thường Ngọc Tông. Thường Ngọc Tông sợ hãi vội vàng buông tay, không dám tiếp tục ngăn cản, đành phải bảo quân sĩ mở cổng thành.







Cổng thành Võ An một lần nữa lại mở rộng, đại tướng quân Thường Ngọc Thanh tự mình thân chinh mang theo một ngàn kỵ binh đi cứu đội kỵ binh lúc trước ra khỏi thành truy bắt mấy tên kỵ binh quân Giang Bắc. Một đường đuổi theo đến hơn một trăm dặm, đến rạng sáng ngày thứ hai mới đuổi kịp đội kỵ binh quân Bắc Mạc. Mà lúc này, đội kỵ binh đã bị kỵ binh quân Giang Bắc tầng tầng lớp lớp vây quanh, đang khốn khổ chống đỡ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách