Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: myngoc2708
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Cổ Đại] A Mạch Tòng Quân | Tiên Chanh

[Lấy địa chỉ]
101#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 11:56:46 | Chỉ xem của tác giả
Chương 92

ĐÁNH CHẾT




Trong lòng Thường Ngọc Thanh khả nghi, nheo mắt lại cẩn thận quan sát thần sắc A Mạch: “Ngươi đưa ta ra khỏi trận? Không sợ bị người khác tố cáo ngươi thông đồng với địch sao?”



A Mạch vừa muốn trả lời, lại đột nhiên ngẩng đầu, đưa một tay lên bưng mũi. Thường Ngọc Thanh thấy lạ, nhịn không được liền gạt cổ tay nàng ra, thấy máu mũi A Mạch cứ thế chảy xuống, không khỏi ngạc nhiên hỏi: “Sao lại chảy máu mũi ?”



A Mạch bực mình hất tay Thường Ngọc Thanh ra, rồi dùng ngón tay bít lỗ mũi lại, bực bội nói: “Ngươi cứ thử chúc đầu xuống đất nửa ngày xem!”



Thường Ngọc Thanh nhất thời bật cười, cũng không biết phải đối đáp thế nào.



Bên cạnh, Đường Thiệu Nghĩa cũng đã phát hiện mũi A Mạch bị chảy máu, gấp giọng hỏi: “A Mạch, làm sao vậy?”



A Mạch dùng mu bàn tay quệt ngang quệt dọc, phát hiện máu đã tự ngừng chảy, vội vàng trả lời: “Không việc gì, đại ca, ta đưa anh ta ra khỏi trận, ngươi mau chỉnh đốn binh lính các doanh, đề phòng Thường Ngọc Tông sinh biến từ phía bắc!”



Đường Thiệu Nghĩa ghìm ngựa, nhìn A Mạch chăm chú một khắc rồi nói: “Được, ta sẽ cho người ta giả bộ truy kích rồi hộ tống ngươi ra khỏi doanh.”



A Mạch nói: “Được! Trương… Sỹ Cường có thể đưa ta ra!”



Đường Thiệu Nghĩa gật đầu, xoay chuyển ánh mắt, lại sắc bén nhìn về phía Thường Ngọc Thanh, nói: “Thường Ngọc Thanh, hy vọng ngươi thủ tín, sau khi ra khỏi trận lập tức thả A Mạch! Nếu A Mạch có mệnh hệ gì, ta nhất định sẽ giết sạch lũ Bắc Mạc các ngươi!”



Thường Ngọc Thanh nghe xong cười lạnh, nói: “Nếu ngươi giữ lời, ta tất cũng giữ lời!”



Đường Thiệu Nghĩa trầm giọng hừ một tiếng, không nói gì, giục ngựa chậm rãi tránh sang một bên, phía sau anh ta, kỵ binh quân Giang Bắc hàng ngũ chỉnh tề cũng tách sang hai bên, tạo thành một con đường nhỏ thông ra khỏi trận.



Thường Ngọc Thanh cười cười, buộc trường thương lại, nắm lấy cánh tay A Mạch, nhấc nàng ngồi ra sau ngựa, kéo hai tay nàng qua sườn thắt lưng của mình vòng ra trước, rồi dùng vạt áo trói chặt lại trước người. Từ lúc đó, A Mạch ở trong tư thế ngồi ôm chặt lấy Thường Ngọc Thanh, ngay cả má nàng cũng kề sát lưng anh ta, không khỏi cả giận nói: “Ngươi làm cái gì thế?”



Thường Ngọc Thanh lúc này mới cầm thương, cười nói: “Chỉ dùng ngươi để đề phòng những mũi tên bắn lén mà thôi, nếu bọn họ giữ lời, tất nhiên ngươi đến một sợi tóc cũng không bị tổn hại.”



Đường Thiệu Nghĩa vô cùng giận dữ, nếu không phải A Mạch vẫn dùng ánh mắt áp chế, sợ là anh ta đã sớm vung kiếm chém tới rồi, hiện giờ chỉ có thể siết chặt chuôi kiếm, trầm mặc ngồi trên lưng ngựa.



Thường Ngọc Thanh mỉm cười liếc mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa, hai chân kẹp bụng ngựa, giật dây cương phi ra ngoài trận. Kỵ binh trong trận quả nhiên không ai ngăn trở, đến khi ra ngoài trận cùng bộ binh đang giao chiến, thì bọn họ đâu thể ngăn được Thường Ngọc Thanh, A Mạch sợ anh ta giết binh sĩ của mình, liền gấp giọng nói: “Chớ có đả thương binh sĩ của ta!”



Thường Ngọc Thanh cười cười, dù chưa trả lời, song xuống tay cũng dịu đi không ít, nhiều nhất cũng chỉ đánh những binh lính chặn đường. Phía sau đã có hơn trăm kỵ binh ráo riết đuổi theo, Thường Ngọc Thanh thừa dịp phía trước có khoảng trống liền quay đầu lại nhìn, không khỏi cười nói: “Diễn trò mà xem ra còn giống hơn cả làm thật.”



Cũng không nghe thấy A Mạch trả lời, Thường Ngọc Thanh đang cảm thấy lạ, thình lình nghe A Mạch gấp giọng kêu lên: “Không tốt rồi, bọn họ dùng cung tên!”



Thường Ngọc Thanh còn chưa kịp phản ứng, A Mạch đã kề sát vào lưng anh ta ghìm người xuống, hai người cúi rạp xuống nằm áp sát trên lưng ngựa, một trận mưa tên phía sau đã bay đến, liên tục có mấy mũi tên lướt sát qua bên sườn, hung hiểm vạn phần, hiển nhiên là không chút bận tâm đến A Mạch đang ngồi trên lưng ngựa.



Nhìn tình hình như thế, Thường Ngọc Thanh nhất thời cũng có chút nghi hoặc, liền quay lại nhìn, chỉ thấy Trương Sỹ Cường, thân vệ của A Mạch vừa vung đao chém vào người đứng cạnh anh ta là Trương Sinh, vừa gấp giọng cảnh báo A Mạch: “Ngũ trưởng chạy mau! Trương Sinh muốn nhân cơ hội giết ngài!”



Lời còn chưa dứt, Trương Sinh đã một đao hất Trương Sỹ Cường rơi khỏi mình ngựa, lại mang người đuổi theo Thường Ngọc Thanh cùng A Mạch.



Thường Ngọc Thanh vung tay hất ngược trường thương về phía sau gạt được một mũi tên bay tới, hỏi A Mạch: “Sao lại thế này?”



A Mạch cười lạnh một tiếng nói: “Người này ở trên sông Uyển đã muốn giết ta, lần này chỉ sợ cũng muốn nhân cơ hội này để giết ta mà thôi, vừa có thể giết chết Sát tướng danh chấn tứ quốc, lại nhân cơ hội trừ khử được mầm họa là ta, chuyện nhất cử lưỡng tiện như vậy sao lại không làm?”



Thường Ngọc Thanh nghe nàng nói như vậy, không kịp nghĩ lại, cân nhắc một lát, rồi rút loan đao cắt dây trói trên cổ tay A Mạch, nhấc nàng lên trước ngồi vào chỗ của mình, kêu lên: “Ngươi điều khiển ngựa!”



Nói xong quay người lại dùng thương bảo vệ hai người từ phía sau, gạt hết những mũi tên bay tới gần hai người.



A Mạch cũng không chối từ, lật tức giật dây cương, giục ngựa lao đi. Phía sau có hơn trăm kỵ binh đuổi theo, lúc thì tụ lại, lúc thì tản ra, gấp rút vây bắt chặn đường hai người, tên bay như mưa, vô cùng nguy cấp, A Mạch thỉnh thoảng lại phải thúc ngựa thay đổi phương hướng, bất tri bất giác đã đi chệch khỏi hướng bắc theo dự định ban đầu, ngược lại, càng lúc lại càng đi lệch về hướng đông nam.



Dạ Chiếu Bạch tuy là thần tuấn, nhưng dù sao cũng phải mang hai người trên lưng, trước đó lại theo Thường Ngọc Thanh bôn tập đường dài, sớm đã có chút mệt mỏi, hiện nay mặc dù vẫn còn có thể nỗ lực duy trì, song lại không thể dũng mãnh như xưa, chạy đến nửa ngày cũng không thể bỏ lại truy binh phía sau, sức ngựa cũng dần dần hao hết.



Phía trước đã tiến dần đến bờ sông, phía sau là truy binh cách một đoạn xa xa, Thường Ngọc Thanh trong lòng thật nhanh trấn tĩnh lại, nhận thấy hai người một ngựa chạy vội về phía đông nam, trong lòng đột nhiên vừa động, liền nổi lên nỗi nghi ngờ, xoay tay chụp lên vai A Mạch, lại chỉ nắm được hư không. Bởi đúng lúc đó, A Mạch ngồi phía trước đã sớm xoay người lại, nhanh chóng đưa tay rút loan đao bên hông Thường Ngọc Thanh ra, một đao hất ngược ra sau, chém thẳng vào thắt lưng anh ta. Thường Ngọc Thanh nhất thời trở tay không kịp, trường thương trong tay vì quá gần người nên không thể thi triển, đành phải ngửa mạnh về phía sau, nhân thể rơi xuống ngựa, Thường Ngọc Thanh cả giận nói: “Mạch Tuệ! Ngươi lại lừa ta!”



A Mạch giục ngựa chạy vọt về phía trước một đoạn, lúc này mới kéo cương quay ngựa lại, nhìn Thường Ngọc Thanh khẽ cười nói: “Binh bất yếm trá!”



Thường Ngọc Thanh ép lửa giận xuống, chỉ nhìn về phía A Mạch, lạnh giọng hỏi: “Trương Sinh và ngươi thật ra không hề có hiềm khích cũ có phải không?”



A Mạch đáp: “Anh ta nếu có chút hiềm khích với ta, Đường đại ca sao lại để cho anh ta dẫn quân đuổi theo? Ngươi còn có gì chưa minh bạch, thì cứ việc hỏi đi.”



Ánh mắt Thường Ngọc Thanh càng lạnh hơn, lại hỏi: “Ngày ấy trên thuyền, người đẩy ngươi cũng không phải anh ta?”



A Mạch cười nói: “Chẳng lẽ Thường tướng quân chưa từng nghe qua trong kỵ binh quân Giang Bắc có một Trương lang liều mạng sao? Trương Sinh là thủ hạ vẫn đi theo Đường đại ca, đâu thể cùng lúc xuất hiện trên thuyền với ta được! Ánh mắt của Thường tướng quân quả thực không được tốt cho lắm.”



Thường Ngọc Thanh nghe vậy thì vừa thẹn vừa giận, đồng thời lại cảm thấy phía trước ngực bị trúng tên cũng bắt đầu đau, phía sau lại truyền đến tiếng vó ngựa dồn dập, cười lạnh một tiếng nói: “Ta đoán giờ phút này ngươi thành thật như vậy cũng chẳng phải vì tốt bụng gì mà chẳng qua là vì muốn kéo dài thời gian có đúng không?”



A Mạch cười cười, thản nhiên thừa nhận: “Không sai.”



Thường Ngọc Thanh nhìn A Mạch hắc hắc cười lạnh, A Mạch vội vã đề phòng, đã thấy Thường Ngọc Thanh đột nhiên đứng dậy cởi giáp, A Mạch quay đầu liếc mắt một cái nhìn về phía bờ sông, kích Thường Ngọc Thanh: “Chẳng lẽ đường đường là sát tướng, thế nhưng vì bị đánh cho tơi tả mà phải nhảy xuống nước chạy trốn sao?”



Thường Ngọc Thanh không để ý đến sự châm chọc của A Mạch, rất nhanh đã cởi xong toàn bộ khôi giáp ra, ngẩng đầu hỏi A Mạch: “Ta chỉ hỏi ngươi, các ngươi đã thựa sự thả đám người Thôi Diễn rồi phải không?”



A Mạch gật đầu nói: “Một tên thất phu Thôi Diễn đổi lấy sát tướng Thường Ngọc Thanh, tất nhiên là có lời.”



Thường Ngọc Thanh đột nhiên nở nụ cười, đưa hai ngón tay lên miệng, huýt gió `một tiếng vang dội.



A Mạch trong lòng cả kinh, bên dưới, Dạ Chiếu Bạch đã phi thẳng về hướng Thường Ngọc Thanh, A Mạch vội vàng kéo cương, nhưng Dạ Chiếu Bạch lại không chịu nghe theo sự khống chế của nàng, liên tục tung vó đá hậu, cơ hồ muốn hất nàng té xuống ngựa. Chỉ khoảng nửa khắc, A Mạch cả người lẫn ngựa đã là đến trước mặt Thường Ngọc Thanh, trong lúc vội vã, A Mạch cúi người vung đao chém luôn, lại bị Thường Ngọc Thanh nắm được cánh tay kéo rơi xuống đất.



Thường Ngọc Thanh cười vang nói: “Cùng nhau xuống nước đi!” Nói xong, dùng hai tay ôm chặt người A Mạch, lăn về phía bờ sông.



Dòng sông này không khoan hòa như sông Tử Nha, nguyên nhân là do địa thế, mặc dù không rộng nhưng dòng nước lại chảy xiết, hai người vừa rơi vào trong nước liền bị cuốn đi thật xa. Thường Ngọc Thanh sớm đã phi vào trong nước, tất nhiên là bình an vô sự, nhưng trên người A Mạch vẫn còn nguyên mấy chục cân áo giáp sắt, dù nàng có bơi giỏi đến đâu, cũng bị chúng kéo chìm xuống đáy sông. Đợi đến khi đám người Trương Sinh đuổi tới bờ sông, tiếp tục giương cung lên, thì trên bề mặt sông đã sớm không còn thấy bóng dáng của A Mạch và Thường Ngọc Thanh đâu nữa.



Ở trên bờ, quân sĩ phát hiện ra khôi giáp của Thường Ngọc Thanh, kêu lên: “Chính là áo giáp của Thường Ngọc Thanh, nhưng không thấy của Mạch tướng quân đâu.”



Trương Sinh nghe được trong lòng càng nặng nề, lạnh giọng phân phó: “Chia ra một đội trở về bẩm báo tả phó tướng quân, còn lại đều theo ta đi dọc theo hạ du sông tìm kiếm!”



Lập tức, một đội kỵ binh liền quay trở về, Trương Sinh mang mấy chục kỵ binh đi dọc theo hạ du sông tìm kiếm, chưa đi được xa, đã thấy Trương Sỹ Cường cưỡi ngựa chạy vội tới, gấp giọng hỏi thẳng Trương Sinh: “Ngũ trưởng của ta đâu?”



Trương Sinh cụp mắt trầm mặc không nói, Trương Sỹ Cường gầm lên hỏi lại: “Ta hỏi ngươi, Ngũ trưởng đâu!”



Trương Sinh lúc này mới đưa mắt nhìn về phía Trương Sỹ Cường, thấy đôi mắt anh ta đã đỏ ngầu, trợn lên nhìn mình chằm chằm, đành phải đáp: “A Mạch bị Thường Ngọc Thanh kéo xuống giữa sông rồi.”



Trương Sỹ Cường rốt cuộc không thể khống chế được cảm xúc, lao thẳng vào Trương Sinh, hai người lập tức ngã nhào xuống đất, Trương Sỹ Cường ghìm chặt Trương Sinh bên dưới, dùng khuỷu tay chặn trên cổ Trương Sinh, tức giận nói: “Ngươi không phải nói sẽ bảo đảm Ngũ trưởng không xảy ra chuyện gì sao? Ngươi không phải nói sẽ không có chuyện gì sao?”



Trương Sinh cũng không phản kháng, khó khăn đáp: “A Mạch bơi rất giỏi, rơi xuống sông chắc cũng không thể xảy ra chuyện gì đâu.”



Trương Sỹ Cường vung quyền đánh vào mặt Trương Sinh, phẫn nộ nói: “Ngươi ăn nói bậy bạ! Trên người ngũ trưởng còn có mấy chục cân trọng giáp, rơi vào giữa sông thì sao có thể không xảy ra chuyện gì? Sao có thể không xảy ra chuyện gì! Sao có thể không xảy ra chuyện gì!”



Trương Sỹ Cường gầm lên, cứ thế, một quyền lại một quyền đánh thẳng về phía Trương Sinh, nước mắt cuối cùng không nhịn được mà lăn xuống.



Trương Sinh không né cũng không tránh, để mặc cho anh ta đánh, quân sĩ xung quanh nhịn không được, liền tiến lên kéo Trương Sỹ Cường ra, lại có người đỡ Trương Sinh dậy, hỏi: “Tướng quân, ngài không việc gì chứ?”



Trương Sinh đẩy người nọ ra, ngồi dưới đất yên lặng lau vết máu trên khóe miệng. Phía trước, có một kỵ binh phi ngựa lại, bẩm báo: “Tướng quân, phía trước có núi cao chặn lại, không thể cưỡi ngựa.”



Trương Sinh trầm giọng nói: “Xuống ngựa! Đi bộ!” Anh ta quay đầu nhìn về phía bị những người đang kiềm giữ Trương Sỹ Cường, nói: “Buông anh ta ra!” Mấy quân sĩ do dự một chút rồi mới buông Trương Sỹ Cường ra. Trương Sinh yên lặng nhìn vẻ mặt đầy bi phẫn của Trương Sỹ Cường một lát rồi mới nói: “Ta chắc chắn sẽ đem Ngũ trưởng trả lại cho ngươi! Nếu không thể tìm được A Mạch, ta dùng mạng của mình đền cho ngươi!”



Nói xong, Trương Sinh chống tay đứng dậy, cũng không lên ngựa, chỉ đi bộ về hướng hạ nguồn con sông.



Chuyện Trương Sinh cùng Trương Sỹ Cường đưa quân sĩ đi tìm kiếm A Mạch tạm thời không nhắc tới nữa, chỉ nói Đường Thiệu Nghĩa ở trong quân được quân sĩ hồi báo nói A Mạch rơi vào giữa sông sống chết không rõ, trong lòng giống như bị một cái búa tạ đột nhiên giáng xuống, chỉ cảm thấy đau buốt vô cùng, nhất thời không thể nói nên lời, bên tai chỉ vang lên tiếng A Mạch đêm đó ở ngoại thành Thái Hưng gọi anh ta ngừng lại, nói với anh ta rằng: Đại ca, không phải ngươi nhất định phải còn sống, cũng không phải ta nhất định phải còn sống, mà là chúng ta, chúng ta nhất định phải còn sống!



Vệ Hưng cùng Lâm Mẫn Thận nghe được cũng kinh hãi, Lâm Mẫn Thận nhìn quân sĩ hỏi dồn dập: “Sao lại rơi xuống giữa sông? Thường Ngọc Thanh đâu?”



Quân sĩ đáp: “Từ đằng xa nhìn lại thấy Thường Ngọc Thanh đem Mạch tướng quân kéo xuống giữa sông, đợi đến khi chúng ta đuổi tới bên bờ sông thì trên bờ chỉ còn lại khôi giáp của Thường Ngọc Thanh.”



Vệ Hưng nhìn khôi giáp trên mặt đất, chất liệu và cách chế tạo đúng là của quân Bắc Mạc.



Lâm Mẫn Thận thấy Thường Ngọc Thanh bỏ giáp, tất là có sự chuẩn bị để nhảy xuống sông, chỉ có A Mạch toàn thân vẫn mặc nguyên trọng giáp, sợ là dữ nhiều lành ít. Anh ta biết Đường Thiệu Nghĩa cùng A Mạch vốn rất thâm tình, hiện giờ thấy Đường Thiệu Nghĩa vẫn im lặng không nói tiếng nào, không khỏi quay đầu nhìn lại.



Trên mặt Đường Thiệu Nghĩa không rõ buồn hay vui, chỉ chậm rãi rời mắt khỏi áo giáp của Thường Ngọc Thanh, xoay người trầm giọng nói với Vệ Hưng: “Mặc kệ Thường Ngọc Thanh còn sống hay đã chết, chúng ta vẫn tuyên bố ra bên ngoài là anh ta đã bị quân giết chết, rồi tìm một người có hình dáng tương tự anh ta cho mặc bộ áo giáp này vào, treo lên trước trận của quân ta, gây nhiễu loạn quân tâm của địch, kích Thường Ngọc Tông, Thôi Diễn xuất chiến!”



Lời này vừa nói ra đều nằm ngoài dự liệu của mọi người, không thể ngờ được trong lúc này mà Đường Thiệu Nghĩa lại không đề cập tới chuyện của A Mạch.



Đường Thiệu Nghĩa không để ý tới sự kinh ngạc của mọi người, chỉ nói: “Hiện tại việc cấp bách nhất là nhanh chóng cho quân sĩ các doanh nghỉ ngơi hồi phục, thừa dịp Thôi Diễn chưa thu thập xong tàn quân, Thường Ngọc Tông quân tâm lại không ổn, dồn toàn lực tiêu diệt thát tử.”



Vệ Hưng gật đầu nói phải, một mặt cho người đi làm việc này, một mặt lại phái người đi dặn dò Trương Sinh đi dọc theo bờ sông tìm cứu A Mạch.



Đường Thiệu Nghĩa từ chỗ Vệ Hưng đi ra, vừa đi được mấy bước liền nghe thấy phía sau có người gọi, là Lâm Mẫn Thận đang đuổi theo, nhìn thần sắc của Đường Thiệu Nghĩa, thân thiết hỏi: “Đường tướng quân, ngươi không sao chứ?”



Đường Thiệu Nghĩa cười nhẹ, hỏi ngược lại: “Ta có thể có chuyện gì?”



Lâm Mẫn Thận nhìn Đường Thiệu Nghĩa một lát, do dự một chút, mới nói thêm: “Mạch tướng quân…”



“Lâm tham quân!” Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên cắt ngang lời Lâm Mẫn Thận, nói: “Đều là quân nhân, chết trận nơi sa trường đó là chuyện bình thường, có gì lạ đâu?”



Lâm Mẫn Thận bị anh ta nói như vậy thì không thể nói gì nữa, Đường Thiệu Nghĩa xoay người rời đi, đến khi lên ngựa, nhấc chân dẫm vào bàn đạp, dùng hai tay túm lấy yên ngựa, nhưng lại phải dùng sức vài lần mới lên được lưng ngựa. Lâm Mẫn Thận ở phía sau nhìn mà lắc đầu cười khổ, nhưng trong lòng cũng lại cảm thấy trào lên một nỗi bi thương.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

102#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 11:58:35 | Chỉ xem của tác giả
Chương 93

Ở CHUNG




Khi A Mạch mở mắt ra thì đêm đã rất khuya rồi, bầu trời đêm sâu thăm thẳm được phủ đầy những ngôi sao lấp lánh, ánh lam nhạt xuyên thấu qua tán lá trải ra xung quanh có chút loang lổ. A Mạch cảm thấy phía dưới người mình có gì đó không được thích hợp cho lắm, vừa định cử động cánh tay thì bên tai đột nhiên truyền đến thanh âm lạnh lùng của Thường Ngọc Thanh: “Đừng nhúc nhích!”



Toàn thân A Mạch theo bản năng cứng đờ lại, không hề cử động, chỉ đưa mắt liếc nhìn chung quanh, rất nhanh liền ý thức được bản thân mình không phải đang nằm trên mặt đất, mà là trên một chạc cây đại thụ. Chỉ một chạc cây thôi cũng có thể làm chỗ nằm vững chắc cho nàng, có thể thấy được cái cây này lớn đến đâu. Sau một lúc lâu, A Mạch không thấy Thường Ngọc Thanh có động tĩnh gì, không nhịn được liền hơi xoay đầu về phía vừa phát ra tiếng nói của anh ta, thấy anh ta đang ngồi ở một chạc cây khác hơi cao một chút, đang cúi đầu băng bó miệng vết thương trên bả vai.



Thường Ngọc Thanh ngẩng đầu lên, thoáng thấy A Mạch đang nhìn mình, thản nhiên giải thích: “Ta đánh rơi cái đánh lửa ở trong nước, xem trên người ngươi cũng không có, ban đêm không có cách nào để nhóm lửa, nên ở trên cây an toàn hơn.”



A Mạch nhẹ nhàng mà “A” lên một tiếng, đưa tay nắm lấy thân cây cẩn thận ngồi dậy. Trên người nàng sớm đã không còn áo giáp, chỉ mặc quân trang Nam Hạ, vẫn còn chưa khô, dính bết vào người rất khó chịu, A Mạch không khỏi khẽ nhíu mày, nàng quan sát bốn phía, chỉ thấy khung cảnh xung quanh toàn là núi rừng, bên tai còn nghe thấy cả tiếng nước chảy đâu đây, hẳn là cách bờ sông không xa lắm.



Vết thương do đao chém trên vai Thường Ngọc Thanh đã băng bó xong, anh ta cũng không nói gì, chỉ đưa mắt lạnh lùng nhìn A Mạch, thấy nàng đối với tình trạng thân thể của mình không phật lòng chút nào, chỉ yên lặng đánh giá quang cảnh bốn phía, nhịn không được cúi đầu cười lạnh hai tiếng.



A Mạch xoay mặt lại nhìn Thường Ngọc Thanh, thấy anh ta vẫn cởi trần, vai trái dùng vải trắng băng kín lại, trên mặt lộ ra vài vệt sẫm màu, giống như vết máu.



Thường Ngọc Thanh theo tầm mắt của A Mạch cúi đầu nhìn bả vai của mình, khi ngẩng lên, trên khóe miệng đã hiện rõ vẻ trêu ngươi, hỏi A Mạch: “Thế nào? Nhìn có thấy quen mắt không?”



A Mạch liếc mắt nhìn Thường Ngọc Thanh, bình tĩnh nói: “Quân tử không lợi dụng lúc người ta gặp khó khăn.”



Thường Ngọc Thanh, khiêu khích: “Ai nói ta là quân tử?”



A Mạch lơ đễnh, thản nhiên cười cười, nói: “Đa tạ ngươi đã cứu ta.”



Thường Ngọc Thanh nghe xong lời này, khuôn mặt trở nên lạnh lùng, lạnh giọng nói: “Ta vốn không muốn cứu ngươi, ngươi không phải bơi rất giỏi sao? Ta đáng lẽ nên để ngươi chết chìm trong nước.”



A Mạch nhẹ giọng nói: “Nhưng ngươi vẫn vất vả cứu ta lên, cho nên, ta vẫn phải cảm tạ ngươi.”



Thường Ngọc Thanh nghe vậy hơi ngẩn ra, bỗng nhiên cười nói: “Ta cứu ngươi cũng không phải tốt bụng gì, chỉ cảm thấy để cho ngươi chết đuối như vậy ngược lại là quá tiện nghi cho ngươi.”



A Mạch yên lặng nhìn Thường Ngọc Thanh một lát, đột nhiên cười nhạo nói: “Còn sống so với đã chết dù sao đã là chiếm tiện nghi rồi, phải không?”



Thường Ngọc Thanh cũng trầm mặc một lát, chỉ nhìn A Mạch, đột nhiên nhếch miệng cười, ngồi thẳng dậy nói: “Ngươi muốn luôn nhớ tới ơn cứu mạng của ta, ta cứ chối từ mãi thì cũng không hay, nếu đã như vậy, ta coi như ngươi đã thiếu nợ ta ân tình này, chỉ muốn hỏi một chút, ngươi định làm thế nào để báo đáp lại ơn cứu mạng của ta?”



A Mạch không nghĩ rằng anh ta đột nhiên hỏi như vậy, sau khi giật mình sửng sốt, liền nghiêm sắc mặt nói: “Sau này ở trên chiến trường, nếu ngươi rơi vào tay ta, ta sẽ lưu lại cho ngươi một mạng.”



Thường Ngọc Thanh nghe xong cười nhạo nói: “Lời nói của ngươi, ta mà tin thì đúng là đồ ngốc.”



A Mạch thản nhiên nói: “Tin hay không là việc của ngươi, nói hay không là việc của ta.”



Thường Ngọc Thanh không bày tỏ ý kiến gì, A Mạch cũng không nói thêm, chỉ dùng tay vịn vào thân cây thăm dò, thấy thân cây này vừa thô ráp lại thẳng, chạc cây cách mặt đất khá cao, không biết Thường Ngọc Thanh làm thế nào đem nàng lên đây được.



Thường Ngọc Thanh nghĩ A Mạch muốn xuống, liền lên tiếng nói: “Ngươi nếu không ngại quăng mình xuống đất thì cứ nhảy đi.”



A Mạch quay đầu nhìn Thường Ngọc Thanh, tay lại càng bám chặt vào thân cây hơn. Thường Ngọc Thanh thấy nàng phản ứng như thế, không khỏi muốn bật cười, song khóe môi vừa cong lên một chút lại thu trở về, chỉ mím môi yên lặng nhìn hành động của A Mạch.



A Mạch mặc dù bám chặt thân cây, song vẫn cảm thấy có chút choáng váng, trong lòng thầm cảm thấy lạ, ngày xưa đứng trên vách núi cao cả trăm trượng cũng không thấy thế nào, sao hôm nay chỉ đứng trên chạc cây hơi cao một chút mà đã cảm thấy chóng mặt rồi. Trong rừng có gió thổi đến, quần áo trên người nàng lại chưa khô hẳn, một cơn gió nhẹ thổi qua cũng cảm thấy lạnh, liền quay lại nhìn Thường Ngọc Thanh, thấy anh ta vẫn cởi trần như trước, nhịn không được hỏi: “Ngươi có thấy lạnh không?”



Thường Ngọc Thanh bị hỏi thì ngẩn ra, đáp: “Không, ngươi thấy lạnh sao?”



A Mạch gật gật đầu.



Thường Ngọc Thanh nghĩ một chút rồi nói: “Có lẽ do y phục trên người ngươi vẫn chưa khô nên mới vậy.” Anh ta chỉ vào quần áo của mình đang phơi trên nhánh cây, lại trêu chọc nàng: “Vốn định đem phơi cả quần áo của ngươi lên, nhưng lại sợ khi ngươi tỉnh lại sẽ thẹn thùng, xấu hổ nên cũng không cởi, ngươi hiện giờ nếu cảm thấy lạnh, chi bằng cũng làm giống như ta cởi hết đồ ra là được.”



A Mạch nghe xong cũng không phản bác, mà lại nhắm mắt lại. Thường Ngọc Thanh thấy nàng thật lạ, sợ nàng lại tiếp tục lừa mình, trong lòng không khỏi bắt đầu đề phòng, nhưng đợi một lát cũng không thấy A Mạch có động tĩnh gì, ngược lại thân thể nàng lại có chút chao đảo.



“A Mạch?” Thường Ngọc Thanh lên tiếng gọi, thấy A Mạch vẫn như trước không hề trả lời, không khỏi từ chạc cây đứng lên, đề phòng nhìn về phía A Mạch, nghiêng người về phía nàng dò xét, trong miệng lại nói: “A Mạch? Ngươi đừng vội lừa ta, cẩn thận vừa mất công lại quăng mình xuống đất.”



A Mạch cuối cùng cũng có chút phản ứng, chậm chạm ngẩng đầu nhìn Thường Ngọc Thanh, lẩm bẩm nói: “Thường Ngọc Thanh, ta……”



Thường Ngọc Thanh: “Sao?”



A Mạch lại không nói tiếp. Thường Ngọc Thanh đang cảm thấy lạ, chợt thấy cả người A Mạch đổ nhào xuống, rơi thẳng xuống phía dưới gốc cây. Thường Ngọc Thanh trong lòng cả kinh, theo bản năng đưa tay túm lấy A Mạch, ai ngờ chẳng những không kéo được A Mạch mà ngược lại, lại theo nàng rơi xuống. Thường Ngọc Thanh không kịp suy nghĩ, vội vàng kéo A Mạch ôm chặt trong lòng, đồng thời thắt lưng dùng sức xoay một cái, lật người xoay lưng mình hướng xuống đất, lại ôm theo A Mạch lăn tròn trên mặt đất hai vòng lúc này mới dừng lại.



Vết thương trên vai vừa mới băng bó xong lại bị rách toạc ra, Thường Ngọc Thanh lúc này mới hối hận, trong lòng thầm than: Hỏng rồi! Lại bị nha đầu kia lừa rồi!



Ai ngờ A Mạch nằm trên người anh ta vẫn không hề động tĩnh, chỉ nghe thấy tiếng hít thở dồn dập, Thường Ngọc Thanh kinh ngạc, đưa tay sờ trán nàng, quả nhiên thấy nóng bỏng, đúng là đã lên cơn sốt cao. Khó trách lại bị ngã từ trên cây xuống, hóa ra không phải là lừa gạt, mà là bị mất sạch ý thức. Thường Ngọc Thanh đẩy nhẹ A Mạch ra, cúi đầu nhìn nàng, cân nhắc một lát rồi nâng nàng lên, anh ta vốn bị thương một bên bả vai, khi ôm nàng đã phải cố hết sức, để A Mạch sang bờ vai lành lặn rồi khiêng đi, xoay người bước nhanh dọc theo hướng bờ sông.



Cách bờ sông không xa có rải rác mấy hộ dân thường sinh sống, Thường Ngọc Thanh trước lúc lên bờ đã nhìn thấy, nhưng vì không muốn để người khác biết nên mới mang theo A Mạch đang hôn mê vào trong rừng, hiện giờ A Mạch đã lên cơn sốt cao, rốt cuộc cũng không thể qua đêm ở trong rừng, nên anh ta cũng chỉ có thể mang A Mạch đến đó tìm nơi ngủ trọ.



Đến bìa rừng, Thường Ngọc Thanh dừng lại, đầu tiên cởi hết quân trang trên người A Mạch giấu đi, chỉ để lại trung y trên người nàng, sau đó lại gỡ búi tóc của nàng xõa xuống, lúc này mới lại nhấc nàng lên, chọn một ngôi nhà gần rừng nhất của một gia đình nông dân, trông có vẻ cũ nát, tiến lên gõ cửa.



Gõ đến nửa ngày, trong sân chó sủa cũng đến nửa ngày, cuối cùng trong nhà mới có động tĩnh, một cặp vợ chồng già cả đốt đèn lồng nghễnh ngãng đi ra, đi đến cổng cũng không mở cửa, chỉ hỏi là ai.



Thường Ngọc Thanh sớm đã nghĩ ra cách nói dối, nhận là một đôi vợ chồng, trên thuyền gặp thủy tặc, không những tiền tài bị cướp hết mà ngày cả người cũng bị bọn cướp ném xuống sông, may mà trên người anh ta chỉ bị vết thương nhỏ, nhưng nương tử thì lại sốt cao, ngoài trời rất lạnh, nương tử quả thật không chịu nổi, đành phải đến xin tá túc một đêm.



Vợ chồng lão nông kia nghe Thường Ngọc Thanh nói chuyện tao nhã, lễ độ, liền mở cửa cho anh ta vào, giơ đèn lồng lên soi, thấy cánh tay anh ta để trần nhưng diện mạo lại tuấn dật phi thường, đang dìu nương tử tóc tai bù xù, đầu dựa vào bờ vai anh ta, hai mắt nhắm chặt, gò má đỏ đậm, quả nhiên là đã sốt cao đến hôn mê.



Vợ chồng lão nông vội vàng cho Thường Ngọc Thanh qua cửa, Thường Ngọc Thanh tuy nói là chỉ cần ở phòng chứa củi là được rồi nhưng vợ chồng lão nông lại là người tốt bụng, cũng không đành lòng để A Mạch đang bị bệnh như thế mà lại ngủ trong phòng chứa củi, nói trong nhà chỉ có hai người bọn họ, con trai tòng quân chưa về, phòng vẫn để trống nên hai người có thể vào phòng ngủ của đứa con đi xa đó.



Thường Ngọc Thanh nói cảm ơn, động tác cũng không hề câu nệ, liền ôm A Mạch vào trong phòng đặt lên trên giường, lại hỏi bà lão có chút nước nóng nào không cho xin một chút cho nương tử uống. Bà lão vội vàng đi ra, một lát sau liền bưng một bát canh giả nhiệt đến, nói là trước hết phải cho A Mạch uống cho đổ mồ hôi, nếu muốn tìm lang trung, thì phải đợi đến sáng đi lên trấn trên tìm mới có, còn những thôn xung quanh đây đều không thể tìm được.



Thường Ngọc Thanh nghe theo, nâng A Mạch dậy cho nàng uống canh giải nhiệt, lại đắp chăn rồi rém kín quanh người nàng, lúc này mới trở lại cảm tạ vợ chồng lão nông, nói tiền tài trên người đều bị thủy tặc cướp hết rồi, chỉ biết sau này nhất định sẽ báo đáp. Mới nói mấy câu mà cũng khiến cho vợ chồng lão nông ngượng ngùng, ngược lại nói rằng thật ngại vì nhà mình khốn cùng, thật sự không có gì tốt để đãi khách, lại thay Thường Ngọc Thanh mắng bọn thủy tặc bất nhân bất nghĩa, đến lúc đó mới trở về phòng ngủ.



Thường Ngọc Thanh đợi bọn đi rồi, lại nghiêng tai nghe ngóng, thấy hai người thật sự đã trở về phòng ngủ, lúc này mới ngồi xuống bên cạnh A Mạch, thỉnh thoảng lại đắp khăn ướt lên trán nàng, yên lặng chờ trời sáng.



A Mạch tuy rằng sốt đến hôn mê, nhưng cũng không phải hoàn toàn mất hết ý thức, những câu đối đáp của Thường Ngọc Thanh cùng vợ chồng lão nông kia vẫn nghe được vài câu, chỉ thều thào nói với Thường Ngọc Thanh: “Chớ có giết người lung tung.”



Thường Ngọc Thanh mới đầu chưa nghe rõ, đến khi ghé sát vào miệng A Mạch mới nghe ra, biết nàng sợ mình sẽ giết vợ chồng lão nông này diệt khẩu, không khỏi thấp giọng cười nói: “Ngươi trở thành người có thiện tâm từ bao giờ vậy? Đừng lo cho người khác vội, cố mà lo cho bản thân mình là được rồi.”



Nghe anh ta nói vậy, A Mạch mới thả lỏng bản thân, không gắng sức thêm nữa, quay đầu nặng nề chìm vào giấc ngủ.



—————- đổi mới phân cách tuyến ——————-



A Mạch rất ít khi có thể ngủ sâu như vậy, từ khi giả nam trang, bất luận là khi lưu lạc lúc trước hay khi đã tòng quân, nàng luôn rất thính ngủ, chỉ cần hơi có động tĩnh sẽ bừng tỉnh, rất ít khi ngủ mà không chút đề phòng như vậy, có lẽ cũng chỉ có quãng thời gian ở Thịnh Đô trong phủ của Thương Dịch Chi là được như vậy mà thôi.



Cứ ngủ như vậy hai ngày liền, khi tỉnh lại đã là giữa trưa, Thường Ngọc Thanh vẫn đang ngồi ở trên giường, trên mặt đã phủ một lớp râu cằm lởm chởm như gốc rạ. Nhìn thấy A Mạch mở mắt ra, Thường Ngọc Thanh nhếch miệng cười, lại nói: “Ngươi nói xem trên mặt ngươi nhiều năm như vậy không hề có cọng râu nào, ngay cả hầu kết(1) cũng không có, bọn họ sao lại không nhận ra thân phận của ngươi?”



A Mạch tỉnh lại sau một giấc ngủ dài, ánh mắt vẫn còn có chút mơ màng, chỉ im lặng nhìn chăm chú Thường Ngọc Thanh, như thể vẫn chưa nghe rõ anh ta hỏi gì.



Thường Ngọc Thanh cúi đầu liếc mắt nhìn chiếc áo ngắn màu xám trên người mình, cười hỏi: “Thế nào? Có phải phong thái vẫn tiêu sái, khí chất vẫn hiên ngang như trước hay không?”



Những lời này A Mạch thật ra đã nghe rõ, không khỏi mỉm cười, nhẹ giọng nói: “Cũng không tệ lắm.”



Bên ngoài có người gõ cửa, bà lão bưng một chén thuốc bước vào, thấy A Mạch đã tỉnh, trên mặt hiện rõ vẻ vui mừng: “Tiểu nương tử tỉnh lại là tốt rồi, chén thuốc này đúng là rất công hiệu.”



Thường Ngọc Thanh cười, lên tiếng nói cảm tạ, rồi nhận lấy chén thuốc, lại nâng A Mạch từ trên giường dậy cẩn thận cho nàng uống thuốc.



Bà lão kia ở một bên nhìn rồi cười tủm tỉm, hướng về phía A Mạch mà tán dương Thường Ngọc Thanh: “Tiểu nương tử thật có phúc, được gả cho một lang quân chu đáo như vậy, thật khiến cho một bà lão như ta cũng phải ghen tỵ.”



A Mạch nghe thấy mà dở khóc dở cười, vẻ mặt có chút quái dị.



Thường Ngọc Thanh cũng tựa tiếu phi tiếu liếc nhìn A Mạch, rồi cười nói với bà lão: “Thế mà nàng ấy lại luôn thấy chưa đủ, vẫn thường nhăn mặt với ta.”



Bà lão cũng cười rộ theo, nói: “Tiểu nương tử nhất định là da mặt mỏng, không chịu nổi sự chọc ghẹo của tiểu lang quân rồi.”



A Mạch biết Thường Ngọc Thanh nhất định đã che dấu thân phận với vợ chồng lão nông này, cũng không tiện vạch trần anh ta, trên mặt không biểu lộ gì chỉ nghe Thường Ngọc Thanh cùng bà lão kia nói giỡn. Bà lão kia nói chuyện với Thường Ngọc Thanh được vài câu, đột nhiên vỗ tay một cái, kêu lên: “Ai da, ngươi xem ta này, bà  lão này trí nhớ kém quá, chỉ lo nói chuyện, thế mà chuyện quan trọng lại quên mất.”



Bà lão nói xong, lấy từ bên hông ra hai nén bạc giao cho Thường Ngọc Thanh, nói: “Trên trấn chỉ có một hiệu cầm đồ của nhà họ Thạch, Thạch chưởng quầy nói miếng ngọc của tiểu lang quân rất tốt, chỉ có điều hiện nay đang thời buổi rối ren, thật không muốn thu nhận mấy thứ này, nếu tiểu lang quân nhất định phải cầm cố, cũng chỉ có thể đưa được ngần này. Nếu tiểu lang quân không hài lòng, trong vòng 3 ngày có thể đem bạc đến lấy miếng ngọc về.”



Thường Ngọc Thanh cầm lấy hai thỏi bạc, cười nói: “Như vậy là đủ rồi, đa tạ lão bà.”



Bà lão cười cười, lại lấy từ trong lòng một tờ giấy đưa cho Thường Ngọc Thanh, nói: “Đây là phương thuốc của lang trung, ông ta nói nếu tiểu nương tử hôm nay có thể hạ sốt thì không sao nữa, đổi sang dùng thang thuốc này là được, nhưng thân thể tiểu nương tử nhiễm lạnh đã lâu, phải điều trị lâu dài mới được.”



Thường Ngọc Thanh nhận lấy phương thuốc kia, mơ hồ nhìn lướt qua, cười rồi cất vào trong người, lại lấy một thỏi bạc giao cho bà lão nói: “Phiền ngài trả tiền khám và thuốc thang cho lang trung giúp ta.”



Bà lão kêu lên: “Chẳng qua chỉ lấy của ông ta hai, ba thang thuốc, đâu hết nhiều tiền đến thế.”



Thường Ngọc Thanh cười nói: “Còn lại là vợ chồng ta đáp tạ ân tình của hai ngài.”



Bà lão nghe xong rất ngượng ngùng, vội vàng chối từ nói: “Cứu người là bổn phận ta phải làm, sao có thể nhận tiền của ngài được!”



Thường Ngọc Thanh vẫn kiên trì đưa cho, lúc bầy giờ bà lão mới cảm tạ mà nhận lấy, lại vội vàng đi ra ngoài mổ gà cho A Mạch bồi bổ, Thường Ngọc Thanh cười tiễn bà lão đi ra.



A Mạch sợ mình lên tiếng sẽ lộ dấu vết, đợi bà lão kia ra khỏi cửa, lúc này mới đánh giá Thường Ngọc Thanh, nói: “Không nhận ra ngươi lại là người biết đạo lí đối nhân xử thế như vậy.”



Thường Ngọc Thanh bật cười nói: “Ngươi cho ta là người như thế nào? Chẳng lẽ trong mắt người ta chỉ là kẻ thất phu lỗ mãng chỉ biết chém giết hay sao?”



A Mạch dời ánh mắt đi, thản nhiên nói: “Nhìn những việc ngươi làm ở Hán Bảo, ta còn tưởng rằng ngươi sẽ giết bọn họ diệt khẩu.”



Thường Ngọc Thanh nghe vậy thì ngẩn ra, chậm rãi thu lại ý cười trên mặt, lạnh lùng nhìn A Mạch một khắc, lúc này mới lạnh giọng nói: “Không sai, ta có tên là Sát tướng, nhưng A Mạch, mười ngón tay của ngươi cũng không phải là những ngón tay trong sạch của thiếu nữ chốn khuê phòng, lúc trước tạm thời không nói, chỉ nói ngươi mai phục giết ba vạn kỵ binh của Thường Ngọc Tông, sau lại đưa mấy vạn đại quân của Thôi Diễn vào chỗ chết, bàn tay ngươi so với ta sạch sẽ hơn được bao nhiêu?”



A Mạch quay đầu nhìn về phía Thường Ngọc Thanh, đón nhận ánh mắt sắc bén của anh ta, bình tĩnh đáp: “Quan doanh trước kia của ta là Lục Cương đã từng nói một câu: Một khi đã tòng quân, phải sẵn sàng chuẩn bị da ngựa bọc thây. Chết trận trên sa trường là bổn phận của quân nhân, trên sa trường, ta giết người không hối hận, nếu có bị giết cũng không oán thán, nhưng ngươi lại dung túng cho binh lính giết chóc những người dân bình thương không tấc sắt trong tay, dân chúng Hán Bảo cô độc, vì sao phải chịu tai ương diệt thành?”



Thường Ngọc Thanh cười lạnh nói: “Ta vốn nghĩ ngươi là một kỳ nữ không câu nệ thế tục, không ngờ ngươi cũng có lòng dạ đàn bà như vậy, uổng cho ngươi còn là một tướng cầm quân, chẳng lẽ ngay cả binh pháp tôn tử ngươi cũng chưa từng đọc qua sao? Ta lĩnh quân ngàn dặm đến, phải chiến đấu mới có thể tồn tại, không chiến đấu sẽ diệt vong. Còn nữa, trên chiến trường quan trọng nhất là khí thế, diệt thành, chính là để tích tụ năng lượng tăng sức mạnh cho quân đội, là sự trợ lực tốt nhất kích thích cho binh lính sau một trận liều chết, còn có thể khiến cho quân đội của về sau không phải lo lắng, nhiều điểm tốt như vậy, ta sao phải thương tiếc cho dân chúng của địch quốc?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

103#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 11:59:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 94(1+2)


PHÁ KẾ




A Mạch lên tiếng tiếp lời: “Chỉ mong ngày khác dân chúng Bắc Mạc của ngươi bị tiêu diệt, ngươi cũng có thể bàng quan như thế!”



Thường Ngọc Thanh nghe xong rất tức giận, trong mắt chợt lóe lên tia sát khí, A Mạch đang đề cao tinh thần cảnh giác, thì lại thấy anh ta bỗng mỉm cười, chỉ nói: “Ngươi đúng thật vẫn chỉ là một nữ nhân mà thôi.”



A Mạch cũng không muốn tranh cãi, chỉ đưa mắt đi nơi khác không nhìn anh ta, Thường Ngọc Thanh cũng không nói chuyện, trong phòng bỗng trở nên yên tĩnh, ngoài sân, âm thanh huyên náo của bà lão đang đuổi bắt gà truyền vào trong phòng rõ mồn một, dường như con gà mà bà lão đuổi theo đã bay lên đầu tường, bà lão tức giận gọi chồng trèo lên tường bắt, nhưng khi ông lão trèo lên tường thì lại làm con gà bay ra bên ngoài khiến bà lão bực bội mằng cho một trận.



Không biết tại sao, Thường Ngọc Thanh và A Mạch đều lắng nghe những âm thanh ấy đến nhập thần, quên mất cả cuộc tranh cãi vừa rồi.



Buổi tối, bà lão bưng đồ ăn tới, quả nhiên trong đó có một bát canh gà rất lớn, A Mạch mặc dù vẫn chưa hết bệnh, nhưng khẩu vị lại rất tốt, ăn một lèo hết hơn nửa bát, khiến Thường Ngọc Thanh nhìn mà trợn mắt há mồm, cuối cùng nhịn không được mà cũng đưa tay gắp thử một miếng nho nhỏ, thấy mùi vị thật ra cũng bình thường, không hiểu vì sao A Mạch lại ăn như thể đó là cao lương mỹ vị như vậy.



A Mạch ăn đến no căng rồi sảng khoái buông bát, lấy mu bàn tay lau miệng, nhìn về phía Thường Ngọc Thanh, thản nhiên hỏi: “Ban đêm phải rời khỏi đây phải không?”



Thường Ngọc Thanh liếc mắt nhìn A Mạch, cười hỏi: “Thế nào? Còn chưa ở đủ hay sao?”



A Mạch vẫn chưa trả lời, sau một lúc lâu, đột nhiên nói: “Nếu muốn ta ăn vận như thế này đi ra ngoài, không bằng ngươi cứ trực tiếp giết ta luôn ở đây còn hơn.”



Quân trang trên người nàng đã bị Thường Ngọc Thanh cởi ra giấu ở trong rừng, hiện tại quần áo đang mặc là đồ cũ của bà lão kia, một thân quần áo thiếu phu nông thôn thoạt nhìn có chút không được tự nhiên.



Thường Ngọc Thanh trầm mặc một lát, hỏi: “Chỉ vì bộ quần áo này?”



A Mạch nói: “Ta rơi xuống sông, trong quân tất nhiên sẽ phái người đi dọc theo bờ sông tìm kiếm, ngươi lại để cho ta ăn mặc như vậy, nếu để người khác nhìn thấy, ta biết giải thích thế nào?”



Thường Ngọc Thanh cũng cười, nói: “Như thế chẳng phải là đúng lúc hay sao? Ngươi và ta đều không muốn đụng độ với quân Giang Bắc, vậy thì càng nên đi ngay lập tức, tránh gặp phải nhiều điều phiền toái.”



A Mạch không nói, chỉ thả đôi đũa mộc lên bàn, yên lặng đến bên giường ngồi xuống.



Thường Ngọc Thanh thấy vậy, lại hỏi: “Không đi thật sao?”



A Mạch kiên định đáp: “Không đi, ngươi dùng cách này để vũ nhục ta, không bằng giết ta đi.”



Sự nhẫn nại của Thường Ngọc Thanh cũng đến giới hạn, lạnh giọng hỏi: “A Mạch, ngươi cho rằng ta thực sự không nỡ giết ngươi?”



A Mạch nhướng mày nhìn về phía Thường Ngọc Thanh, khiêu khích nói: “Vậy thì ngươi cứ giết ta đi.”



Thường Ngọc Thanh lạnh lùng nhìn A Mạch, dù không nói thành lời, nhưng trong lòng hiển nhiên đã tức giận vô cùng.



A Mạch cũng cười nhạo một tiếng, nói: “Giết hay không tùy ngươi, ta có chết cũng không chịu mặc bộ quần áo này đi ra ngoài !”



Nói xong, liền tung chăn ra rồi nằm xuống.



Thường Ngọc Thanh nhìn bóng dáng A Mạch nằm trên giường, cố gắng kiềm chế nỗi tức giận trong lòng, hỏi A Mạch: “Ngươi muốn thế nào?”



A Mạch cũng không quay đầu lại, chỉ thấp giọng đáp: “Ta muốn đổi sang trang phục nam giới.”



Thường Ngọc Thanh chỉ vào tủ quần áo đặt trong góc phòng nói: “Trong đó vẫn còn giữ lại vài bộ quần áo của con trai họ, ngươi tìm một bộ mặc vào là được!”



A Mạch lại từ chối nói: “Ta không mặc lại quần áo của người khác! Ngươi ngày mai nói với bà lão kia đi lên trấn trên mua cho ta một bộ quần áo mới thì ta sẽ đi cùng ngươi.”



Lời này nói ra, Thường Ngọc Thanh lâu cũng không thấy động tĩnh, A Mạch yên lặng nằm chờ, bỗng chăn trên người bị hất mạnh ra, A Mạch kinh ngạc quay lại, thấy Thường Ngọc Thanh đã đứng ở đầu giường, quan sát nàng rồi hỏi: “Mạch Tuệ, đây là ngươi đang làm nũng với ta?”



A Mạch chưa trả lời, Thường Ngọc Thanh đã đưa một tay nắm lấy vạt áo trước người nàng kéo lên, lạnh giọng nói: “Chỉ tiếc ngươi thật không am hiểu chút nào, khó tránh khỏi làm ra vẻ quá mức. Một nữ nhân như ngươi, cho dù có lột hết quần áo của người, ngươi cũng vẫn dám đi ra ngoài như thường, hôm nay vì sao lại vì chuyện quần áo mà trở nên ngoan cố như vậy? Thế nào? Mạch Tuệ, ngươi lại tính kế gì đây?”



Ngữ điệu Thường Ngọc Thanh tuy nhẹ, song ánh mắt lại sắc bén vô cùng, giống như nhìn thấu vào tận tâm can của nàng. A Mạch cố gắng khống chế nhịp tim đang đập liên hồi trong lồng ngực, trên mặt làm ra vẻ bình tĩnh, lạnh nhạt hỏi: “Tính mạng của ta đã ở trong tay ngươi, còn có thể tính kế gì?”



Ánh mắt Thường Ngọc Thanh cũng nhìn A Mạch chằm chằm nói: “Lời nói của một nữ nhân như ngươi tốt nhất là không nên tin.”



A Mạch hỏi ngược lại: “Không nên tin thì ngươi còn hỏi làm gì?”



Thường Ngọc Thanh yên lặng nhìn A Mạch, đột nhiên nở nụ cười, nói: “A Mạch, ngươi ở cố ý kéo dài thời gian, đúng không?” A Mạch chợt rùng mình, lại nghe Thường Ngọc Thanh tiếp tục nói: “Ngay từ đầu ngươi đã cố ý kéo dài thời gian rồi phải không? Ngươi chẳng qua chỉ sốt có một đêm, nhưng lại ngủ tới hơn hai ngày! Ta cũng nhất thời sơ xuất, chỉ nghĩ ngươi do sốt cao nên thân thể suy nhược vì vậy mới mê man bất tỉnh, hiện giờ nghĩ lại mới nhận ra là ngươi cố ý thả lỏng bản thân, tự cho phép mình ngủ say như vậy đi?”



Thường Ngọc Thanh mặc dù cười, nhưng bàn tay kéo vạt áo A Mạch lại càng lúc càng dùng thêm sức, chỉ híp mắt lại đánh giá A Mạch: “Khó trách hôm nay ngươi tỉnh dậy lại thành thật đến vậy, không hề có tâm tư bỏ trốn, ta còn đang lấy làm lạ, không biết Mạch Tuệ ngươi trở nên nhu thuận như vậy từ khi nào, thì ra là thế……”



A Mạch biết Thường Ngọc Thanh đang giận dữ, không dám nhúc nhích chút nào, chỉ bình tĩnh nhìn anh ta.



Thường Ngọc Thanh lại nói tiếp: “Ngươi cố ý kéo dài thời gian, không muốn để cho ta trở về trong quân, là muốn nhân dịp ta không có mặt sẽ kích động Ngọc Tông xuất chiến chứ gì? Vậy thì e là phải làm ngươi thất vọng rồi, Ngọc Tông mặc dù không phải là kẻ tài năng xuất chúng, lại chưa đủ lịch duyệt nhưng lại là người thận trọng, nếu ta không trở về, anh ta sẽ càng phòng thủ cẩn thận hơn mà thôi, Đường Thiệu Nghĩa đâu thể ép được anh ta?”



Thường Ngọc Thanh chậm rãi nói, tay khác đưa lên xoa xoa yết hầu của A Mạch.



“Thường Ngọc Tông không chịu kích xuất giao chiến, nhưng Thôi Diễn thì có!” A Mạch đột nhiên lên tiếng.



Ngón tay Thường Ngọc Thanh bỗng ấn mạnh một cái, A Mạch nhất thời ho sặc sụa, chỉ nghe Thường Ngọc Thanh lạnh giọng nói: “Khó trách ngươi lại dễ dàng thả Thôi Diễn như thế.”



A Mạch cố gắng đè nén cơn ho khan, cười nói: “Ta dễ dàng với Thôi Diễn như thế, tất nhiên là để tận dụng anh ta. Chỉ một mình Thường Ngọc Tông tất nhiên là sẽ không dễ dàng xuất chiến, nhưng thật khéo là lại có một Thôi Diễn xúc động hiếu chiến ở đây, hơn nữa ngươi đi lâu không trở về doanh chuyện sống chết khó định, nên cũng khó nói lắm.”



Thường Ngọc Thanh giận dữ mà bật cười, nói: “Giỏi lắm, Mạch Tuệ, thì ra ngươi lại tính toán nhiều như vậy!” Thường Ngọc Thanh đột nhiên kéo A Mạch lại gần, ghé sát vào mặt nàng, chế nhạo: “Mạch tướng quân thật đúng là đã phải hạ thấp bản thân mình rồi, để ta cứ như vậy mà mớm thuốc cho người, vậy mà ngươi cũng có thể chịu được!”



A Mạch cũng trả lời lại một cách mỉa mai: “Thường tướng quân cũng chẳng dễ dàng gì, đối với một tướng lĩnh địch quân mà cũng có thể dốc lòng chăm sóc như vậy, thật không hợp với danh tiếng Sát tướng của ngươi chút nào!”



Thường Ngọc Thanh biến sắc mặt, siết chặt mấy ngón tay trên yết hầu của A Mạch, cuối cùng cũng tỉnh táo lại, thả A Mạch ra. Anh ta vừa lỏng tay, A Mạch liền ngã khuỵu xuống giường, hơn nửa ngày mới bình phục lại, sắc mặt đỏ bừng, ngẩng đầu nhìn Thường Ngọc Thanh.



Thường Ngọc Thanh thản nhiên thừa nhận: “Không sai, là ta có ý với ngươi, thế thì sao?”



A Mạch không ngờ anh ta sẽ nói thẳng ra như thế, trợn tròn mắt lên nhìn.



Thường Ngọc Thanh lại nói tiếp: “A Mạch, ngươi cho rằng ta không thể giết ngươi sao? Có lẽ ngươi đã quá coi trọng mình rồi.”



“Ta cá là ngươi không thể giết ta.” A Mạch bình tĩnh đáp,“Việc đã đến nước này, ngươi giết ta thì làm được gì? Ngươi mặc dù hành sự khác thường, nhưng cũng không phải là người tùy tiện phóng túng, nếu giết ta chỉ để hả nỗi hận trước mắt, không bằng lưu ta lại sẽ có nhiều ích lợi hơn.”



Thường Ngọc Thanh cười nhạo, hỏi ngược lại: “Ta không phải là người tùy tiện phóng túng? Cách nói này ta lần đầu tiên nghe thấy. Ta nếu không giết ngươi để hả nỗi giận trước mắt, thì ngươi có thể làm được gì?”



A Mạch cười cười, đáp: “Ta thì làm được chuyện gì? Nguyện chịu thua thôi.”



Việc đã đến nước này, Thường Ngọc Thanh liền cố gắng bình tĩnh lại, ngồi xuống một bên, yên lặng nhìn A Mạch. Anh ta cứ nhìn A Mạch như vậy, ngược lại khiến A Mạch cảm thấy chột dạ, không biết trong lòng anh ta đang tính toán những gì. Hai người cứ ngồi nhìn nhau như vậy một lúc lâu, sau đó Thường Ngọc Thanh mới than nhẹ một tiếng, mở miệng hỏi: “Nói đi, ngươi tính thế nào?”



A Mạch hơi hơi nhướn mày, Thường Ngọc Thanh chế nhạo: “Trong lòng ngươi rõ ràng là đã tính toán cả rồi, bằng không sao lại thành thật như thế, không bằng hiện giờ cùng nói ra, ngươi và ta sẽ cùng nhau trao đổi điều kiện.”



A Mạch cuối cùng thả lỏng tâm tư, nói: “Vị trí Thường Ngọc Tông đóng quân ở phía Bắc chính là Nhạn Sơn, khi thất bại anh ta tất sẽ rút lui lên trên núi, Đường Thiệu Nghĩa vì muốn đảm bảo an toàn nên sẽ chỉ vây núi mà không tấn công, nếu ngươi chạy về đúng lúc thì còn có cơ hội mang theo tàn quân của Thường Ngọc Tông phá vòng vây ra ngoài.”



A Mạch nói tới đây thì ngừng lại, chỉ yên lặng nhìn chăm chú vào Thường Ngọc Thanh, đợi phản ứng của anh ta.



Thường Ngọc Thanh cười nhạo, hỏi ngược lại: “Ngươi sao lại khẳng định chắc chắn như vậy, tại sao Ngọc Tông mặc dù không xuất chiến mà vẫn nhất định gặp thất bại, hơn nữa cho dù có bị đánh bại, lại nhất định sẽ trốn lên trên núi Nhạn Sơn?”



A Mạch không nói, chỉ trầm mặc nhìn Thường Ngọc Thanh, sau một lúc lâu,  lại nghe Thường Ngọc Thanh hỏi: “Điều kiện của ngươi là gì?”



A Mạch đáp: “Ngươi thả ta trở về quân doanh, ta thả cho ngươi vào núi.”



Thường Ngọc Thanh cười: “Ngươi thả ta vào núi? Đường Thiệu Nghĩa đúng là có thể vây núi nhưng sao có thể ngăn được ta?”



A Mạch nhìn Thường Ngọc Thanh chằm chằm, thản nhiên nói: “Tất nhiên là không ngăn được ngươi, nhưng lại có thể kháng cự được tàn quân của Thường Ngọc Tông.”



Thường Ngọc Thanh hai mắt chợt lóe tinh quang, trầm giọng hỏi: “Ngươi dám vì tình cảm riêng tư mà thả địch quân sao?”



A Mạch cười cười, đáp: “Ngày thường tất nhiên là không dám, nhưng hiện nay tính mạng ta đang ở trong tay người khác, không dám cũng phải dám.”



Thường Ngọc Thanh trầm mặc một lát, bỗng hỏi: “Ta sao có thể tin ngươi?”



“Chuyện tới nước này, ngươi cũng chỉ có thể tin ta mà thôi.” A Mạch đáp, nàng trầm ngâm một lát, lại nói tiếp: “Chủy thủ mà ngươi đoạt trên người của ta là di vật của phụ thân ta, đối với ta nó còn quan trọng hơn cả tính mạng, ta lấy nó ra mà thề, nếu ngươi thả ta trở về quân doanh, ta sẽ thả cho quân của Thường Ngọc Tông xuống núi!”



Thường Ngọc Thanh tất nhiên biết A Mạch coi trọng thanh chủy thủ này, nhưng nếu nói nàng sẽ coi nó quan trọng hơn cả tính mạng của mình thì cũng không sao tin nổi, bởi vậy chỉ cười mà nói rằng: “Chủy thủ đúng là ở trong tay ta, chẳng qua ta cũng không sợ ngươi thất tín, nếu ngươi lần này còn dám bội ước, ta liền cho toàn thể quân sĩ ở trên núi cùng cùng kêu lên rằng: Mạch Tuệ trong quân Giang Bắc là một mụ đàn bà!”



A Mạch nhất thời tức giận đến không nói nên lời, chỉ trừng mắt căm hận nhìn Thường Ngọc Thanh.



Thường Ngọc Thanh lại hỏi: “Ngươi vẫn muốn kéo dài thời gian, hóa ra là vì ý này sao? Nếu hôm nay ta không phát hiện ra, ngươi vẫn tiếp tục kéo dài thời gian tiếp sao?”



A Mạch hắc hắc cười lạnh hai tiếng, đáp: “Đó là điều đương nhiên, chỉ cần ta giữ lại ngươi thêm một ngày, quân Bắc Mạc nhất định sẽ thiệt hại thêm một phần, ta cớ sao lại không làm?”



Thường Ngọc Thanh cũng không bực bội, chỉ nhìn A Mạch, đột nhiên hỏi: “Quân Giang Bắc cho ngươi lợi lộc gì? Vì sao ngươi phải bán mạng cho bọn họ như vậy?” Nhìn thấy A Mạch ngẩn ra, lại nói tiếp: “Nhìn vóc người của ngươi, hiển nhiên không giống người Nam Hạ, ngươi rốt cuộc là người nơi nào? Tại sao trước đây lại là bạn cũ của Trần Khởi?”



Thường Ngọc Thanh nhìn chằm chằm vào A Mạch, thấy sắc mặt của nàng mặc dù bình tĩnh, nhưng cảm xúc trong mắt lại không ngừng thay đổi, cuối cùng quay đầu đi chỗ khác thản nhiên nói: “Thường tướng quân không lo lắng xem quân sĩ của mình còn lại được bao nhiêu người hay sao mà lại nhàn rỗi ở đây quan tâm xem ta là người ở nơi nào đến đây, thật là buồn cười.”



Thường Ngọc Thanh cười cười, cũng không hỏi lại, chỉ đứng lên, nói: “Tốt lắm, chúng ta chia tay ở đây, đợi trở lại trong quân sẽ cùng nhau thủ tín, ta đánh nghi binh một bên, ngươi sẽ điều quân sang một sườn núi khác, thả quân ta xuống núi.”



A Mạch gật đầu nói: “Được, một lời đã định.”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

104#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:01:12 | Chỉ xem của tác giả
Chương 95


RÚT QUÂN




Ngay sau đó, Thường Ngọc Thanh một mình rời đi, A Mạch đợi một lúc rồi mới lấy ra từ trong tủ một bộ quần áo nam giới, chẳng buồn quan tâm xem xấu đẹp hay cũ mới, chỉ cần khoác được lên người, sau đó lén lút lẻn ra khỏi nhà ra đến bờ sông, đi ngược lên vùng thượng lưu.



Lại nói Trương Sinh và Trương Sĩ Cường đưa người đi dọc theo hạ lưu, gặp phải núi cao nên đường rất khó đi, lại vừa cẩn thận tìm kiếm ở giữa sông, tốc độ vì thế mà chậm lại rất nhiều. Cứ như vậy tìm đến ba ngày mà vẫn không thấy bóng dáng của A Mạch đâu, sắc mặt mọi người càng thêm u ám, trong lòng ai cũng cảm thấy không hy vọng là A Mạch còn sống, chỉ có Trương Sinh và Trương Sĩ Cường vẫn không chịu bỏ cuộc, nhất là Trương Sĩ Cường, vẫn kiên trì nói Ngũ trưởng sẽ không chết. Mọi người không dám nói gì, đành phải tiếp tục tìm kiếm, ai ngờ đợi đến sáng sớm ngày thứ tư, A Mạch thế mà lại xuất hiện trước mặt bọn họ.



Trương Sĩ Cường nhất thời vừa mừng vừa sợ, ngay cả nói cũng không nói nên lời, A Mạch cười cười, đẩy mạnh vào người Trương Sĩ Cường, cười nói: “Thế nào? Mới mấy ngày không gặp mà đã không còn nhận ra ta nữa sao?” Nói chưa dứt lời, đôi mắt Trương Sĩ Cường đã đỏ hoe. A Mạch dở khóc dở cười, trước mặt nhiều người thế này cũng không tiện nói gì, liền quay đầu gọi Trương Sinh: “Trương đại ca, ngươi vất vả rồi.”



Trương Sinh cũng nhìn A Mạch chằm chằm, lúc này mới thở phảo nhẹ nhõm, thì thào nói: “Cuối cùng cũng đã tìm thấy……”



A Mạch nhất thời nghe không rõ liền hỏi lại: “Cái gì?”



Trương Sinh lại nói: “Mạch tướng quân trở về là tốt rồi, đại tướng quân và Đường tướng quân đều vô cùng lo lắng, nếu thân thể Mạch tướng quân không có gì trở ngại, mời tướng quân mau chóng trở về doanh trại.”



A Mạch gật đầu, hỏi Trương Sinh nói: “Đại quân hiện ở đâu?”



Trương Sinh đáp: “Một ngày trước có người tới thông báo nói là đã lên phía bắc giao chiến cùng Thường Ngọc Tông, hiện tại không biết đã đi đến đâu.”



A Mạch nhìn bốn phía, không thấy có ngựa liền hỏi: “Ngựa đâu?”



Trương Sĩ Cường giành trả lời trước nói: “Dọc bờ sông có nơi địa thế quá cao, chiến mã không thể đi được, Trương tướng quân liền cho mọi người đi bộ tới đây.”



Thì ra A Mạch khi rơi vào giữa sông đã bị dòng nước cuốn về phía hạ du, sau lại lại bị hôn mê bất tỉnh, tất cả đều là dựa vào Thường Ngọc Thanh mang lên bờ, chính nàng cũng không biết địa hình dọc theo con sông như thế nào, hiện nghe Trương Sĩ Cường nói mới hiểu được vì sao Trương Sinh phải mất tới mấy ngày đêm mới đi đến nơi này. A Mạch biết xuôi theo dòng nước là núi cao nhưng nếu đi dọc theo bờ sông này rồi vượt qua mấy ngọn núi kia thì lại càng khó khăn hơn, khó trách nhìn dáng vẻ của mọi người lại chật vật đến vậy. Nghĩ đến đây, A Mạch không khỏi lại nhìn về phía Trương Sinh, thấy trên người anh ta bám đầy bùn đen, cái chân bị thương cũng bị bùn đen bao kín nhìn không rõ màu da, trong lòng A Mạch âm thầm cảm động, trịnh trọng hướng về phía Trương Sinh hành lễ nói: “Đa tạ ơn cứu trợ của Trương đại ca!”



Trương Sinh vội vàng lắc mình tránh né, nói: “Mạch tướng quân đừng như vậy, làm thế khác nào muốn lấy mạng ta.”



A Mạch cười cười, không nhiều lời nữa, sau khi cân nhắc cẩn thận liền phân phó mọi người lưu lại cùng Trương Sinh thong thả đi sau, còn mình dẫn theo Trương Sĩ Cường vội vàng vượt núi trở lại quân doanh. Trương Sĩ Cường vốn sớm theo A Mạch rèn luyện cước lực, lại thêm đương độ tuổi trẻ, nên mặc dù trước đó đã mệt mỏi đến cực điểm, lại vẫn cắn răng theo sát phía sau A Mạch chưa từng bị tụt lại quá xa, hai người cứ như vậy đi vội vã hai ngày đêm mới trở về đến quân doanh, Đường Thiệu Nghĩa quả nhiên đã dẫn quân bao vây tàn quân của Thường Ngọc Tông ở Nhạn Sơn.



A Mạch và Trương Sĩ Cường đã mệt mỏi đến nỗi không còn ra người hình, A Mạch tuy là một cô gái khỏe mạnh hiếm thấy nhưng lại vừa bị bệnh nặng mới khỏi, thân thể lúc này gần như kiệt sức, hoàn toàn dựa vào Trương Sĩ Cường mới đến được doanh trướng của Đường Thiệu Nghĩa. Đường Thiệu Nghĩa bước vội vài bước tiến đến nắm chặt lấy hai vai A Mạch, tinh tế nhìn nàng đánh giá mấy lượt, lúc này mới trầm giọng nói: “Còn sống là tốt rồi.”



Tuy chỉ là bốn chữ ngắn ngủn song khi lọt vào trong tai thì A Mạch cũng không khỏi cảm động. Nàng nhếch miệng cười cười, hạ mắt xuống nói: “Đại ca đã quên rồi sao? Khi còn ở phía Bắc thành Thái Hưng, ta cùng đại ca đã từng nói chúng ta đều nhất định phải còn sống!”



Đường Thiệu Nghĩa cũng gượng cười, hai tay vẫn nắm chặt vai A Mạch, cố gắng nén lại nỗi xúc động muốn ôm A Mạch vào lòng, mà chỉ kéo A Mạch ngồi xuống, quay đầu lại phân phó thân binh đi chuẩn bị cơm canh, rồi lại nói với Trương Sĩ Cường đang đứng bên cạnh: “Không cần giữ lễ tiết, ngồi xuống đi.”



Nhưng Trương Sĩ Cường vẫn không chịu ngồi xuống, chỉ cảm tạ Đường Thiệu Nghĩa rồi nhìn về phía A Mạch nói: “Tướng quân, ta ra ngoài trước.”



A Mạch biết anh ta ở trong này tất sẽ cảm thấy câu thúc, liền gật đầu nói: “Ngươi về doanh trước đi, có việc gì thì ta sẽ cho gọi ngươi.”



Trương Sĩ Cường đồng ý, lại hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa hành quân lễ, rồi mới xoay người rời đi.



A Mạch đợi anh ta ra ngoài mới quay lại hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, tình hình chiến sự giữa ta và thát tử thế nào rồi?”



Đường Thiệu Nghĩa đáp: “Quân của Thôi Diễn sau khi bị đánh cho tan tác thì chạy lên hướng bắc hội quân cùng tàn quân của Thường Ngọc Tông, Thường Ngọc Tông vốn không chịu xuất chiến, ta cho người đóng giả Thường Ngọc Thanh, treo lên trước quân mới khiến Thôi Diễn xuất trận, Thường Ngọc Tông sợ Thôi Diễn mắc phải sai lầm, rơi vào đường cùng cũng đành phải xuất chiến, sau khi bị quân ta đánh bại liền dẫn quân trốn lên núi Nhạn Sơn, hôm nay đã là ngày thứ ba rồi.”



A Mạch lại hỏi: “Tình hình thương vong giữa địch và ta thì thế nào?”



“Quân Bắc Mạc tổn thất quá nửa, quân ta có thương vong nhưng không lớn, chỉ có điều Thôi Diễn từng xâm nhập vào trong trận địa của ta, Vệ Hưng chưa lành vết thương nên không thể nghênh chiến, khiến cho Thôi Diễn giết mất mấy tên thân vệ, trong lúc bối rối,  Lâm Mẫn Thận làm đổ lá cờ nguyên soái của đại tướng quân, trùng hợp lại phủ lên đầu Thôi Diễn làm che mất tầm mắt của anh ta, lúc này, một thân vệ nhân cơ hội đó liền cho Thôi Diễn một đao, chỉ tiếc là không chém trúng chỗ hiểm nên vẫn để cho anh ta chạy thoát.”



A Mạch nghe thấy Lâm Mẫn Thận trong lúc vô tình đụng phải soái kỳ cứu Vệ Hưng thoát chết, trong lòng không khỏi vừa động, lập tức hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, ngươi có tin lá cờ nguyên soái lại trùng hợp đổ lên đầu Thôi Diễn như vậy không?”



Đường Thiệu Nghĩa hơi trầm ngâm, nói: “Anh ta nói là đúng dịp thì đó là đúng dịp, trong lòng ta và ngươi cứ hiểu như vậy là được rồi.”



“Cũng phải.” A Mạch gật đầu, lại hỏi: “Đại ca hiện giờ vây Thường Ngọc Tông trên núi, huynh đã có tính toán gì chưa?”



Đường Thiệu Nghĩa đáp: “Ta đang cân nhắc biện pháp ép Thường Ngọc Tông xuống núi.”



A Mạch thầm nghĩ nếu chỉ có Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn thì buộc bọn họ xuống núi thật ra dễ như trở bàn tay, nhưng hiện giờ Thường Ngọc Thanh sợ là cũng đã lên trên núi, nếu tính kế để lừa anh ta thì rất khó, huống chi nàng và anh ta đã có hẹn ước từ trước rồi. A Mạch lo nghĩ, song cũng không nói ra chuyện cùng Thường Ngọc Thanh ước hẹn, chỉ nói: “Thường Ngọc Tông vốn có ý định bất động tại phía bắc mà chờ viện quân Dự Châu, hiện nay trốn lên trên núi, nếu nói về thời gian thì anh ta có lợi thế hơn chúng ta, một khi viện quân của thát tử ở Dự Châu đến, quân ta sẽ rơi vào tình thế thập phần hung hiểm.”



Đường Thiệu Nghĩa sao lại không nhìn thấu  ý đồ của Thường Ngọc Tông, chỉ có điều nếu cứ như vậy buông tha Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn thì đúng là không cam lòng, không khỏi thở dài: “Hiện nay trên tay Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn không tới một vạn quân, trong đó lại có nhiều kẻ là thương binh bại tướng, nếu cứ như vậy mà thả bọn chúng thì thật đáng tiếc.”



A Mạch hỏi: “Đại ca thấy tiếc vì không thể nuốt gọn một vạn binh mã hay là thấy tiếc vì không thể trừ bỏ được Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn?”



Đường Thiệu Nghĩa hơi có chút khó hiểu, nhìn về phía A Mạch hỏi: “Có gì khác nhau sao?”



A Mạch cười nói: “Tất nhiên là rất khác nhau, bỏ qua một vạn binh mã thì đáng tiếc vô cùng, nhưng nếu buông tha Thường Ngọc Tông và Thôi Diễn, thì đại ca phải cao hứng mới đúng, Thường Ngọc Tông không phải là kẻ đại tài đủ để gây nên mối họa, Thôi Diễn lại chỉ là một gã thất phu lỗ mãng, thả anh ta ra so với giết có khi còn lợi hơn rất nhiều!”



Đường Thiệu Nghĩa nghĩ một lát rồi cũng nở nụ cười, nói: “Ngươi nói cũng đúng, chẳng qua nếu muốn lui binh thì Vệ Hưng phải gật đầu đồng ý mới được, mặc dù ông ta bị trọng thương nhưng dù sao vẫn là thống soái của quân Giang Bắc! Ngươi thấy trong người như thế nào? Hay là nghỉ ngơi một chút rồi hãy đến gặp ông ta?”



A Mạch từ trên ghế đứng dậy, nói: “Không việc gì, đi thôi.”



Đường Thiệu Nghĩa lại đưa mắt nhìn A Mạch nói: “Lui binh cũng không phải chuyện cần làm gấp gáp, trước mắt ngươi cứ ăn vài thứ đi đã.”



A Mạch sớm đã đói cồn cào, nhưng nàng đến tìm Đường Thiệu Nghĩa trước Vệ Hưng đã là không đúng, nếu còn tiếp tục ở lại đây ăn cơm rồi mới đi gặp Vệ Hưng, sợ là càng khiến Vệ Hưng nghi kỵ, liền lập tức nói: “Không sao, chỉ đói một chút không đáng ngại, đi gặp Vệ Hưng trước thì hay hơn.”



Đường Thiệu Nghĩa ngẫm lại cũng thấy phải, gật đầu nói: “Cũng tốt.” Mới ra đến cửa trướng thì đúng lúc gặp thân binh bưng cơm canh đến, Đường Thiệu Nghĩa cầm lấy cái bánh bao nhét vào trong tay A Mạch, lúc này mới đưa nàng đi tìm Vệ Hưng.



Vệ Hưng ở trong trướng nhìn thấy A Mạch vẫn còn sống trở về thì vô cùng cao hứng, trấn an vài câu, rồi lại hỏi A Mạch những chuyện diễn ra khi nàng chạy trốn. A Mạch đem những chuyện trải qua mấy ngày vừa rồi nửa thật nửa giả nói một lượt, chỉ kể là ở trong nước dùng chủy thủ cắt đứt dây buộc áo giáp bằng da trâu mới thoát thân được, lại bị dòng nước cuốn đi rất xa mới bơi được vào bờ, nhưng lúc đó lại kiệt sức mà ngất đi, may mắn được một hộ nông gia cứu, vì thế mà còn sống trở về.



Đúng lúc Lâm Mẫn Thận đang ở trong trướng của Vệ Hưng, nghe thấy vậy liền liên tục kinh hô, lại sợ hãi mà than rằng: “Mạch tướng quân bơi giỏi thật, nếu đổi là người khác, sợ là sớm đã bị cái áo giáp kia kéo chìm xuống đáy sông rồi, thế mà Mạch tướng quân vẫn còn có thể bình tĩnh cắt đứt dải áo, quả thực không giống với người thường!”



A Mạch thản nhiên nói: “Tình thế bức bách cũng chỉ có thể liều chết thử một lần xem sao, nếu Lâm tham quân bị rơi xuống sông, e là cũng có thể làm được.”



Lâm Mẫn Thận cười cười, đang muốn nói tiếp, lại nghe Đường Thiệu Nghĩa nói: “Đại tướng quân, quân ta đã vây khốn thát tử ba ngày, Thường Ngọc Tông quyết tử thủ Nhạn Sơn, nếu chúng ta tiếp tục vây nữa chỉ sợ là sẽ mất đi lợi thế, một khi viện quân thát tử ở Dự Châu đến nơi, quân ta sẽ rơi vào cục diện bị động, chi bằng hiện giờ ta bỏ Nhạn Sơn mà đi, tránh rơi vào kế của bọn chúng.”



Vệ Hưng cân nhắc một lát rồi nhìn về phía A Mạch, hỏi: “Mạch tướng quân cảm thấy thế nào?”



A Mạch đáp: “Thường Ngọc Tông đã không còn khả năng gây họa nữa, mà quân ta vây núi cũng đã lâu, lúc này cũng nên tìm một nơi phù hợp để nghỉ ngơi hồi phục rồi sẽ tính tiếp.”



Vệ Hưng thấy A Mạch nói có lý, khi anh ta ra khỏi núi Ô Lan thì hào quang vạn trượng, nhưng qua một trận chiến ở thành Thái Hưng thì lại phải chịu một đòn đả kích lớn, nên thái độ của anh ta trong việc điều quân khiển tướng đối với Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch nể trọng hơn rất nhiều, hiện nghe Đường Thiệu Nghĩa cùng A Mạch đều đề nghị lui binh, liền gật đầu nói: “Cũng tốt, chỉ không biết nên lui về hướng nào để bố trí cho quân sĩ nghỉ ngơi hồi phục được thỏa đáng?”



Đường Thiệu Nghĩa nghĩ một lát rồi nói: “Hiện nay hai lộ đại quân của thát tử đều bị chúng ta phá, hướng đông hướng tây đều có thể đi, song thát tử đương nhiên không thể ngờ được chúng ta còn dám quay đầu lại đi theo hướng tây, nên theo ta thấy không bằng bày ra hư chiêu ở hướng đông mà lừa Thường Ngọc Tông, đợi viện quân thát tử của Dự Châu đến cũng sẽ nghĩ rằng chúng ta đi theo hướng đông, lừa bọn họ đi theo hướng đó, còn chúng ta lại âm thầm đi về hướng tây mà chọn nơi nghỉ ngơi hồi phục.”



Vệ Hưng vẫn chưa hạ quyết tâm, Lâm Mẫn Thận đứng bên cạnh đã vỗ tay hoan nghênh khen: “Kế sách của Đường tướng quân hay lắm, đợi chúng ta nghỉ ngơi hồi phục xong, có thể từ phía sau đánh lén viện quân thát tử Dự Châu, đúng là kế sách nhất cử lưỡng tiện!”



A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa đưa mắt nhìn nhau rồi đều im lặng, Vệ Hưng lại hạ quyết tâm nói: “Nếu đã như vậy, chúng ta liền lui về hướng tây.”



A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa nhất tề đồng ý. Đợi ra khỏi doanh trướng của Vệ Hưng, A Mạch mới hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, ngươi cảm thấy Lâm Mẫn Thận là người như thế nào?”



Đường Thiệu Nghĩa khẽ lắc đầu, nói: “Nhất thời cũng chưa nhìn thấu.”



A Mạch trầm mặc một lát, đột nhiên nói: “Ta chỉ cảm thấy anh ta có vấn đề, lại không biết là ở chỗ nào.”



Đường Thiệu Nghĩa cũng có loại cảm giác này, luôn cảm thấy Lâm Mẫn Thận có chút cổ quái, nhưng lại không thể nói được anh ta bất bình thường ở điểm nào. Ban đầu chỉ nghĩ anh ta được Vệ Hưng che chắn cho theo quân Giang Bắc để đánh bóng, nhưng sau một thời gian, trải qua vô số chiến dịch lớn nhỏ, lại càng cảm thấy người này không hề đơn giản. Những cái khác tạm thời không nói đến, chỉ nói đến hai lần Thôi Diễn xâm nhập vào trong trận địa của quân Giang Bắc, chém Vệ Hưng bị thương, giết chết vô số thân vệ, phụ tá, mà Lâm Mẫn Thận lại chẳng hề bị tổn thương đến một sợi tóc, vận khí của anh ta không thể chỉ dùng một từ “Tốt” để hình dung.



Đường Thiệu Nghĩa không nói gì, mặc dù trong lòng có nhiều phỏng đoán, cũng không nói, chỉ bảo A Mạch: “Trước mắt đừng vội quản đến việc này, ngươi về doanh trại ăn uống rồi nghỉ ngơi cho tốt, ta đi an bài quân đội đánh nghi binh để lui quân.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

105#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:02:26 | Chỉ xem của tác giả
Chương 96

NGHỊ HÒA




A Mạch gật đầu, xoay người quay trở về doanh trại. Trong doanh, mặc dù từ miệng của Trương Sĩ Cường, mọi người đã biết A Mạch bình an trở về, nhưng khi thực sự nhìn thấy nàng vẫn không nén được một phen hoan hô kích động, ngay cả Hắc Diện ngày thường vốn rất kiệm lời, hôm nay cũng cười ngoác cả miệng, nói gì đến đám người Lý Thiếu Hướng và Vương Thất, tất cả mọi người đều cười hì hì vây quanh A Mạch, hỏi han nàng chuyện trải qua mấy ngày vừa rồi, A Mạch lại đem những lời nửa thật nửa giả đã nói ở trong trướng của Vệ Hưng nói lại một lần nữa, mọi người nghe xong đều vừa sợ lại vừa thán phục, nói rằng A Mạch đúng là có số cát nhân thiên tướng, lần này đại nạn không chết tất sẽ được hưởng phúc đến cuối đời.



A Mạch chỉ cười, rồi tiễn mọi người ra ngoài, lúc này mới sai Trương Sĩ Cường chuẩn bị quân trang cho nàng thay, lại dặn: “Ta ngủ một lát, một lúc nữa cho người đến gọi ta dậy, ngươi cũng không phải canh gác đâu, đi ngủ đi, khoảng đầu giờ chiều thì đến đây.”



A Mạch quả nhiên đoán không sai, đến đầu buổi chiều, quân Giang Bắc đã chuẩn bị đâu vào đấy, bắt đầu lui về phía đông.



Trên núi Nhạn Sơn, Thường Ngọc Tông được quân sĩ hồi báo rằng quân Giang Bắc bắt đầu rút quân, trong lòng kinh ngạc, liền hỏi Thường Ngọc Thanh: “Thất ca, bọn mọi rợ rút quân như thế liệu có trá không?”



Thường Ngọc Thanh im lặng không nói gì, anh ta trở về sớm hơn so với A Mạch, thừa dịp đêm tối liền lẻn lên núi Nhạn Sơn, vừa lên đến nơi đã tiến hành an bài lại tuyến phòng ngự, không ngờ quân Giang Bắc lại rút quân. Thường Ngọc Tông thấy anh ta trầm mặc cũng không dám quấy rầy, chỉ yên lặng đứng một bên, đợi lát sau mới nghe Thường Ngọc Thanh nói: “Trước cứ quan sát cho kỹ rồi hẵng hay.”



Hai người đi đến điểm cao nhìn, quả nhiên thấy dưới núi, quân Giang Bắc đã nhổ trại đi về hướng đông. Là A Mạch sự thật muốn thủ tín thả anh ta xuống núi hay là nàng lại có quỷ kế gì khác đây? Thường Ngọc Thanh nhất thời cũng không có cách nào xác định được.



Thường Ngọc Tông thấy quân Giang Bắc đúng là rút lui thật, không khỏi ngạc nhiên nói: “Thất ca, đúng là bọn mọi rợ Nam Hạ rút lui thật.”



Thường Ngọc Thanh nghĩ nghĩ, rồi nói với Thường Ngọc Tông: “Ngươi chọn lấy một ít tướng sĩ khỏe mạnh truy kích phía sau quân Giang Bắc.”



Trong lòng Thường Ngọc Tông cảm thấy vô cùng kỳ lạ, thầm nghĩ quân Giang Bắc rời đi như vậy như vậy, ta thắp hương cầu trời khấn phật còn chẳng được, giờ lại còn truy kích bọn họ làm gì? Nhỡ đâu làm thế lại khiến bọn chúng quay lại thì sao? Chẳng lẽ lại đem ngót nghét một vạn tàn binh bại tướng chạy lên núi lần nữa? Lại nói viện quân Dự Châu đúng là sẽ đến, nhưng chúng ta là kẻ cầm quân đánh giặc, trong lòng đều biết điểm chí tử này, cho dù chúng ta có thể cầm cự đợi được viện quân, thì có đến ngàn cái miệng sợ là cũng không đủ thanh minh, tự mình làm đá kê chân cho kẻ khác, hỏi rằng có mệt hay không!



Thường Ngọc Tông do dự một chút rồi nói: “Nếu mọi rợ Nam Hạ cố ý lừa chúng ta mắc mưu thì làm sao bây giờ? Chúng ta xuống núi truy kích, chẳng phải sẽ rơi vào quỷ kế của bọn họ sao?”



Thường Ngọc Thanh khẽ cười cười, giải thích: “Ngươi chỉ đuổi theo nhưng không cần giao chiến, yên tâm, nếu quân Giang Bắc quay lại thì ngươi cứ đem binh quay trở về.”



Thường Ngọc Tông lại càng hồ đồ, hỏi: “Vì sao phải làm thế?”



Thường Ngọc Thanh quan sát quân Giang Bắc đang rút đi dưới núi, khẽ cười nói: “Người lắm mưu nhiều kế nhất định cũng là người đa nghi, ngươi truy kích ở phía sau, hắn tất nhiên nghĩ là ngươi cố ý dây dưa, sợ là sẽ càng chạy nhanh hơn.”



Tuy Thường Ngọc Tông bán tín bán nghi, nhưng cũng không dám trái ý thất ca, lập tức tuyển ra năm trăm tinh binh truy kích quân Giang Bắc. Trên đùi Thôi Diễn bị chém một đao, vốn đang ở trong trướng dưỡng thương, nghe được tin này liền vội vội vàng vàng tới tìm Thường Ngọc Thanh, vừa mở miệng đã kêu lớn: “Đại ca, cho ta dẫn quân đi truy kích!”



Thường Ngọc Thanh đang cẩn thận lau thanh chủy thủ của A Mạch, nghe vậy không buồn ngẩng đầu lên, chỉ thản nhiên nói: “Không được.”



Thường Ngọc Tông lại cả giận nói: “Còn muốn đuổi sao! Ngươi ba lần bảy lượt đều bị bắt, nếu không phải tại ngươi, thất ca sao phải chịu khốn đốn nhiều ngày như vậy, chúng ta cũng không bị thiệt hại mất mấy ngàn nhân mã, cũng không phải lưu lạc ở đây!”



Thôi Diễn gân cổ cãi: “Cái này đâu thể trách ta, ta đã sớm nói từ trước là cứ một đao chém quách Mạch Tuệ đi cho xong việc, nhưng đại ca…”



Thường Ngọc Thanh ngẩng phắt đầu lên nhìn Thôi Diễn, Thôi Diễn bị ánh mắt sắc bén của anh ta chiếu vào thì phát sợ, nửa câu nói còn lại mắc nghẹn trong cổ họng không sao thoát ra được, chỉ cúi đầu nhỏ giọng ngập ngừng nói: “Dù sao… cũng không thể trách một mình ta được.”



Thường Ngọc Thanh lại cúi đầu, chậm rãi lau thanh chủy thủ, nói: “Ngọc Tông, ngươi dẫn quân truy kích, nhớ lấy, không cần giao chiến.”



Thường Ngọc Tông lĩnh mệnh mà đi. Thôi Diễn liếc mắt nhìn trộm Thường Ngọc Thanh, thấy trên mặt anh ta không biểu lộ là vui hay giận, trong lòng càng hối hận, đang cân nhắc xem nên mở miệng như thế nào, lại nghe Thường Ngọc Thanh đột nhiên nói: “Ngươi nói đúng.”



Thôi Diễn sửng sốt, thận trọng nói : “Đại ca, kỳ thật…”



Thường Ngọc Thanh ngẩng đầu lên nhìn Thôi Diễn, khuôn mặt bình tĩnh nói: “Thật ra ngươi nói đúng, nếu ta vừa gặp liền giết nàng ngay thì đã không rơi vào quỷ kế của nàng, về sau cũng không xảy ra nhiều chuyện như vậy.” Thường Ngọc Thanh nhẹ nhàng đứng dậy, đi được vài bước, giơ thanh chủy thủ trong tay lên, xoay người cười nói với Thôi Diễn: “A Diễn, lần sau nếu ngươi thấy nàng, thì cứ thẳng tay mà giết.”



Thôi Diễn nhất thời trố mắt nói không ra lời……



Thịnh Nguyên mùa xuân năm thứ tư, quân Giang Bắc vây Nhạn Sơn không thành liền rút quân về hướng tây, ngoài dự đoán của mọi người, Thường Ngọc Tông vậy mà lại mang binh đuổi theo, đại tướng quân Vệ Hưng quân Giang Bắc nghĩ Thường Ngọc Tông cố ý muốn đeo bám theo nên cũng không để ý tới, chỉ mang binh quay về phía tây, tới một thành nhỏ là Thuận Bình liền cho đại quân nghỉ ngơi hồi phục. Ai ngờ vừa đến Thuận Bình được hai ngày, lại nhận được thánh chỉ từ triều đình.



Vệ Hưng cho gọi A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa vào trong trướng, đưa thánh chỉ ra, lúc này mới nói: “Vừa mới nhận được thánh chỉ trong triều, muốn chúng ta lập tức lui về Thái Hưng.”



Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch nghe vậy đều sửng sốt, không khỏi hỏi: “Lui về Thái Hưng?”



“Không sai,” Vệ Hưng gật đầu, chậm rãi nói: “Triều đình và Bắc Mạc nghị hòa.”



“Ở Thái Hưng nghị hòa?” Đường Thiệu Nghĩa hỏi.



Vệ Hưng đáp: “Đúng vậy, cho nên muốn quân ta lập tức lui về Thái Hưng. Bắc Mạc vì muốn thể hiện thành ý nghị hòa nên đã đồng ý cho đại quân của Chu Chí Nhẫn rút lui về phía bắc Thái Hưng, quân ta tiến vào thành Thái Hưng cùng quân giữ thành đợi sứ đoàn hai nước đến đó nghị hòa.”



A Mạch cụp mắt xuống không nói gì, nhưng trong lòng lại không ngừng dấy lên từng cơn sóng to gió lớn, nghị hòa, đúng là nhất định sẽ nghị hòa ư! Nếu nghị hòa, nàng làm sao có thể thay phụ thân đánh bại Trần Khởi? Nếu nghị hòa, hai năm vất vả liều mạng của nàng để làm gì? A Mạch đột nhiên nhớ tới trước khi đưa quân ra khỏi núi Ô Lan, Từ Tĩnh từng hỏi mình: “A Mạch, vì sao ngươi lại tòng quân?” A Mạch biết nếu nói là vì trung quân ái quốc sẽ không thể lừa được lão hồ ly Từ Tĩnh, đang muốn biên soạn một chút lý do hợp lý để trả lời Từ Tĩnh thì ông ta lại hỏi tiếp: “Nếu quân Giang Bắc ra trận mà không đánh, nếu quân Giang Bắc không còn tồn tại nữa, thì ngươi sẽ làm thế nào? Ngươi sẽ cảm thấy ra sao?”



A Mạch nhất thời bị ông ta hỏi vậy thì nghẹn họng lại nhìn trân trối, một nửa vùng Giang Bắc đều nằm dưới gót sắt của thát tử, vì sao ra trận mà lại không đánh? Quân Giang Bắc lập được nhiều chiến công, thanh thế đang vô cùng mạnh mẽ, sao lại không còn tồn tại nữa? Từ Tĩnh nhìn A Mạch nở nụ cười, nói: “Ngươi không cần trả lời ta, cứ tự mình suy nghĩ cho cẩn thận, ngày khác tất sẽ dùng đến.”



Lúc ấy, A Mạch còn có chút buồn bực không hiểu vì sao Từ Tĩnh lại hỏi những câu kỳ quái như thế, hiện giờ nghĩ lại, thì ra ông ta đã sớm đoán được là sẽ có chuyện ngày hôm nay.



Lại nghe Đường Thiệu Nghĩa căm phẫn nói: “Còn muốn nghị hòa ư? Chẳng lẽ chỉ cần bàn bạc là có thể khiến lũ thát tử tự mình rời khỏi Tĩnh Dương quan sao? Nếu không phải vì triều đình nghị hòa, thì từ năm thứ hai Thịnh Nguyên chúng ta đâu bị thát tử công phá cửa khẩu Tĩnh Dương! Hiện giờ thát tử đã chiếm một nửa vùng Giang Bắc của ta, trong triều lấy cái gì để cùng thát tử nghị hòa?”



Sắc mặt Vệ Hưng bình tĩnh, chỉ nhìn Đường Thiệu Nghĩa chằm chằm, lạnh lùng nói: “Quân lệnh như sơn!”



Đường Thiệu Nghĩa đón ánh mắt của Vệ Hưng, gằn từng tiếng đáp: “Tướng bên ngoài biên ải, quân lệnh có điều không thể nghe theo!”



Trong mắt Vệ Hưng lóe tinh quang, hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Chẳng lẽ Đường tướng quân muốn kháng chỉ sao? Hay là muốn dấy binh tạo phản?”



Đường Thiệu Nghĩa bị Vệ Hưng hỏi thì nghẹn lời, anh ta từ nhỏ đã chịu sự giáo dục về một tinh thần trung quân ái quốc, hai tội danh lớn như vậy không khác gì sấm nổ bên tai, khiến anh ta không thể nói nên lời.



Vệ Hưng thấy Đường Thiệu Nghĩa không cách nào chống đỡ, lại nói tiếp: “Trong triều muốn nghị hòa cũng có đạo lý của họ, thủy quân của Chu Chí Nhẫn đã luyện thành, hùng cứ ở Thái Hưng, đối với Giang Nam khác nào hổ rình mồi, việc bình định Vân Tây vẫn chưa có kết quả, trong triều thật sự không có cách nào dụng binh từ hai mặt, Giang Bắc tuy có đại quân của chúng ta, nhưng chúng ta đang chịu cảnh bao vây và bị cô lập từ bốn phía, thật khó có thể tạo nên sự chuyển biến lớn. Ta thấy triều đình nghị hòa chẳng qua là kế sách thích ứng tạm thời mà thôi, thừa dịp quân ta vừa đánh bại hai lộ quân, trước mắt cứ tạm thời bảo tồn thực lực, đợi sau khi bình định Vân Tây xong sẽ bàn bạc kỹ hơn!”



Vệ Hưng nói xong, lại nhìn về phía A Mạch vẫn đang cúi đầu trầm mặc, hỏi: “Mạch tướng quân, ngươi thấy thế nào?”



A Mạch lập tức dấu đi cảm xúc trong mắt, ngẩng đầu đáp: “Đại tướng quân nói có lý, tình huống hiện giờ của quân ta quả thật không nên tiếp tục cùng thát tử đối kháng trực diện, nếu như có thể vào Thái Hưng nghỉ ngơi hồi phục, thật ra đối với quân ta chỉ có lợi chứ không có hại!”



Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy thì vô cùng sửng sốt, còn Vệ Hưng thì mừng rỡ, khen A Mạch đôi câu, lại quay đầu nhìn về phía Đường Thiệu Nghĩa, hỏi: “Ý Đường tướng quân thế nào?”



Đường Thiệu Nghĩa nhẫn nhịn, hướng về phía Vệ Hưng ôm quyền nói: “Mạt tướng tuân theo sự sắp sếp của đại tướng quân!”



Vệ Hưng cười cười, hạ lệnh đại quân sau khi tạm thời nghỉ ngơi hồi phục, liền xuất phát tiến về Thái Hưng.



Đường Thiệu Nghĩa từ chỗ của Vệ Hưng đi ra, sắc mặt vẫn không tốt, cũng không để ý tới A Mạch, chỉ bước nhanh ở phía trước. A Mạch đuổi theo mấy bước tiến lên ngăn Đường Thiệu Nghĩa lại, kéo anh ta đến một chỗ không có người, lúc này mới thử hỏi: “Đại ca, chẳng lẽ ngươi muốn tạo phản?”



Đường Thiệu Nghĩa nghe xong cả giận: “A Mạch, tại sao ngươi cũng hỏi như thế?”



A Mạch trong lòng hơi thất vọng, trên mặt cũng không biểu lộ ra, chỉ khuyên nhủ: “Huynh không muốn tạo phản, thánh chỉ cũng đã đến, huynh còn muốn như thế nào nữa? Chẳng lẽ kháng chỉ sao? Nhưng đó lại là tội danh chu di cửu tộc.”



Đường Thiệu Nghĩa nghiêm nghị nói: “Diệt trừ thát tử, khôi phục lại non sông là bổn phận của ta, tận trung báo quốc đâu lý nào lại sợ chết!”



A Mạch lại nói: “Không chịu tuân theo quân lệnh đó chính là kháng chỉ, vì thế cũng vẫn tạo mối nghi là có mầm phản loạn, về sau nếu có đuổi thát tử ra khỏi cửa khẩu Tĩnh Dương thì cũng sẽ bị tru di cửu tộc. Huynh có thể không sợ chết, nhưng thân nhân gia quyến đại tướng quân đều ở Thịnh Đô, huynh muốn anh ta phải làm thế nào?”



Đường Thiệu Nghĩa biết A Mạch nói có lý, nhưng trong lòng vẫn tức giận, dùng chân đá một cước vào góc tường, không cam lòng nói: “Nghị hòa như vậy thật khiến cho người ta phải uất nghẹn!”



A Mạch lo nghĩ, hỏi Đường Thiệu Nghĩa: “Đại ca, nếu triều đình đem vùng Giang Bắc giao cho thát tử, thì huynh tính thế nào?”



Đường Thiệu Nghĩa không nghĩ đến vấn đề này, lập tức có chút kinh ngạc, hỏi lại A Mạch: “Triều đình đâu thể nào đem Giang Bắc giao cho thát tử? Nếu như vậy, thì quân Giang Bắc của chúng ta phải làm sao bây giờ?”



A Mạch lạnh nhạt đáp: “Nếu như tặng thật, có lẽ sẽ điều quân Giang Bắc về phía nam.” Nàng đưa mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa, tiếp tục hỏi: “Đại ca, huynh sẽ tính thế nào? Có theo quân đi về phía nam không?”



Đường Thiệu Nghĩa không rõ A Mạch vì sao phải kiên trì hỏi vấn đề này, chỉ yên lặng nhìn A Mạch, kiên định đáp: “Nếu triều đình thật sự muốn nhượng lại vùng Giang Bắc cho thát tử, ta liền từ quan không làm nữa, ở lại Giang Bắc chiêu tập tráng sĩ có chí khí phất cờ khởi nghĩa, diệt trừ thát tử!”



Nghe anh ta trả lời như vậy, trong lòng A Mạch hơi có chút an ủi, trên mặt không khỏi khẽ mỉm cười, Đường Thiệu Nghĩa nhất thời nhìn đến thất thần, chờ đến khi A Mạch gọi một hồi anh ta mới hồi phục lại tinh thần, lập tức thẹn thùng, vội dời tầm mắt đi, có chút bối rối hỏi A Mạch: “Ngươi thì sao? A Mạch, ngươi sẽ làm thế nào?”



A Mạch lại nhướn mày, cười nói: “Ta khó khăn lắm mới làm được tới chức quan này, đâu thể dễ dàng từ bỏ như vậy!”



Nhiệt tình đầy ắp của Đường Thiệu Nghĩa không khác gì bị A Mạch hắt cho một bát nước lạnh, trong lòng chỉ cảm thấy vô cùng lạnh lẽo, cố gắng mỉm cười, nói: “Mỗi người một chí hướng.”



A Mạch thấy thần sắc trên mặt Đường Thiệu Nghĩa thay đổi, biết trong lòng anh ta đang thất vọng đến cực điểm, cũng không nói toạc ra, chỉ cười nói: “Được rồi, đại ca, đừng vội nghĩ về chuyện sau này sẽ như thế nào nữa, cứ chờ đến khi quay trở lại Thái Hưng xem tình hình thế nào đã rồi nói sau.”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

106#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:03:51 | Chỉ xem của tác giả
Chương 97

DẠ YẾN




Trung tuần tháng năm, tiết trời đã vào hạ, cuối cùng quân Giang Bắc cũng đã đến ngoại thành Thái Hưng. Bắc Mạc vì muốn thể hiện thành ý nghị hòa, nên đã cho Chu Chí Nhẫn lãnh binh lui về phía bắc một trăm dặm, để quân Giang Bắc vào thành Thái Hưng. Nhưng Vệ Hưng lại chưa vội vàng đưa đại quân vào thành, mà làm theo đề nghị của A Mạch, hạ lệnh cho đại quân đóng quân ở phía tây thành Thái Hưng, đồng thời lưu những tướng lĩnh tâm phúc đóng ở trong doanh trại, chỉ dẫn theo vài vị tướng lĩnh cao cấp cùng vài thuộc hạ văn chức tiến vào Thái Hưng.



Thành Thái Hưng, là thành lớn nhất vùng Giang Bắc của Nam Hạ, từ năm Thịnh Nguyên thứ hai đến nay đã bị Bắc Mạc vây khốn gần hai năm! Trong thành vốn dự trữ sung túc nên không hề xuất hiện thảm kịch người ăn thịt người, nhưng dân chúng trong thành cũng đã sớm quen với việc nhìn cửa thành đóng chặt mà lo lắng đề phòng từng ngày. Nay cửa thành đột nhiên được mở ra, lập tức mọi người đều có chút ngây ngốc, đợi đến khi thấy đoàn quân tiến vào là quân Nam Hạ, dân chúng tưởng rằng chiến trận bấy lâu nay cuối cùng đã giành được thắng lợi, vui sướng không kìm nén được mà hoan hô ầm lên, lại có người lấy pháo ra đốt thả bên đường, nào ngờ khi âm thanh tiếng pháo vẫn còn nổ giòn bên tai, lại thấy người Bắc Mạc cũng tiến vào cửa thành…



Lần này, dân chúng Thái Hưng đúng là trợn tròn mắt mà nhìn.



Nghị hòa vốn là hai bên đều phải phái sứ thần đến cùng bàn bạc, năm Thịnh Nguyên thứ hai, Nam Hạ và Bắc Mạc đã từng cùng nghị hòa một lần, nên lần này hai sứ đoàn vừa thấy mặt nhau, hắc hắc! Quả thật đều là chỗ quen biết cũ! Thế nên, ngay cả màn giới thiệu cũng miễn, cả hai phái đoàn liền ngồi luôn vào bàn đàm phán!



Trọng tâm nghị hòa lần này, đơn giản là thông qua đàm phán mà đem tình hình tiến thủ trên chiến trường ra đặt lên bàn cân, tuy rằng mồm mép đôi bên không ngừng đùa bỡn với nhau, nhưng dựa vào thực lực sau lưng, những gì ở trên chiến trường không chiếm được thì trên bàn đàm phán, theo thông lệ cũng không thể chiếm được. Hiện giờ tại vùng Giang Bắc, ngoại trừ thành Thái Hưng đang trong trạng thái bấp bênh, còn lại hầu như đã rơi vào tay người Bắc Mạc, vậy thì thử nói xem chữ “Hòa” này nên đàm pháp như thế nào?



Sứ đoàn nghị hòa của Nam Hạ chịu áp lực rất lớn! Trước khi lâm trận, hoàng đế đã có mật chỉ rằng: Không được để mất đất, tiền cống hàng năm không ngại nhiều hay ít, có tăng tới trăm vạn cũng không tiếc. Lời này nói trắng ra chính là, chỉ cần không cắt đất, còn bồi thường bao nhiêu tiền ta cũng không quan tâm! Nhưng vấn đề ở chỗ, người ta chẳng những muốn ngươi nhất định phải bồi thường tiền, mà còn muốn ngươi đem nửa vùng Giang Bắc cũng phải nhượng lại cho anh ta! Mục tiêu của hai bên quá khác xa nhau, thật đúng là không có cách nào để đàm phán!



Cao Cát xoa tay bối rối, ái chà chà, đây chẳng phải là muốn lấy mạng của hắn ta sao! Chẳng có cách nào, chỉ có thể đem tình huống trước mắt mà hồi tấu lên triều đình vậy. Đợi nửa tháng sau, trong triều cuối cùng cũng có hồi âm, nói rằng có thể giao Dự Châu cho Bắc Mạc, nhưng Thái Hưng thì quyết không thể. Cao Cát được triều đình tin tưởng, lại tiếp tục cùng sứ thần Bắc Mạc biện luận, nhưng sứ thần Bắc Mạc là Trương Vương lại mồm miệng xảo quyệt, thế nào cũng kiên trì đòi Nam Hạ phải nộp cống. Cao Cát bất đắc dĩ đành phải lần nữa hồi tấu lên triều đình.



Lần này hồi âm của triều đình lại mất rất nhiều thời gian, chư tướng chỉ biết trong triều cùng thát tử nghị hòa, lại không biết việc nghị hòa diễn ra như thế nào. A Mạch hộ tống Vệ Hưng ở trong thủ phủ thành Thái Hưng, song rất ít khi nhàn rỗi, mỗi ngày đều luyện võ trong sân, đồng thời cũng ở cùng với các tướng lãnh khác vừa đến thành Thái Hưng. Chư tướng trong quân Giang Bắc được nghe chuyện A Mạch lập kì công, cứu quân Giang Bắc từ thoát khỏi nguy nan, hiện nay lại thấy nàng không hề cậy công mà kiêu ngạo, ngôn từ cử chỉ vô cùng bình dị gần gũi, vì thế càng trở nên kính trọng.



Người Nam Hạ tự xưng là đất nước của lễ nghi, luôn dùng lễ để đối đãi với người ngoài, nên đối với sứ đoàn Bắc Mạc cùng tướng lãnh hộ vệ lại càng tương kính như tân. Nhưng quân Giang Bắc và Bắc Mạc giao chiến đã lâu, mọi người trong quân đối với thát tử có nhiều nỗi phẫn hận, mỗi lần ở trong thành Thái Hưng nhìn thấy thát tử đều khó tránh khỏi tức giận, nhất thời nóng nảy không kiềm chế được liền rút đao xông vào, mặc dù Vệ Hưng ban nghiêm lệnh ngăn cấm, nhưng trong thành, tướng sĩ hai bên lại vẫn thường xuyên xảy ra xô xát.



Vệ Hưng vài lần định giết người lập uy, nhưng vì A Mạch ở bên cạnh ra sức khuyên can mới bảo vệ được tính mạng của mấy tướng lãnh kia. A Mạch khuyên Vệ Hưng: “Đại tướng quân giữa chừng tiếp nhận quân Giang Bắc, tướng lãnh trong quân vốn coi trọng Đường tướng quân hơn đại tướng quân, đại tướng quân không nghĩ cách làm thế nào thu phục lòng người, trái lại lại muốn làm ác nhân. Giết chết vài người cũng không tính là gì, nhưng vì thế mà làm tổn hại đến quân tâm, về sau đại tướng quân sao có thể lĩnh quân được nữa?”



Vệ Hưng nghe A Mạch nói thẳng băng như thế, nhất thời trố mắt, nỗi tức giận trong lòng cũng tiêu tan đi quá nửa, chỉ phạt mấy tướng lãnh này mấy chục quân côn rồi thôi, từ đó về sau đối với A Mạch càng nể trọng hơn, đối đãi với nàng như tâm phúc của mình.



Tháng sáu, thời tiết càng lúc càng nóng, A Mạch lại càng ít khi ra ngoài, mỗi ngày đều ngồi lỳ trong phòng đọc sách, ngay cả đến thăm Đường Thiệu Nghĩa cũng rất ít đi. Một ngày nọ, trong lúc A Mạch đang lười biếng nằm trên ghế dài đọc sách, Trương Sĩ Cường từ bên ngoài đi nhanh vào, chưa nói gì mà trước hết uống cạn một chén nước lạnh, lúc này mới nhỏ giọng nói: “Đại nhân, có hồi âm của Từ tiên sinh.”



A Mạch vục dậy, nói: “Lấy ra đây!”



Trương Sĩ Cường cẩn thận lấy phong thư từ trong người ra đưa cho A Mạch. Thư vẫn còn phong kín, A Mạch mở ra, thấy cũng chỉ có tám chữ: Phi binh bất cường, phi thương bất phú1). A Mạch nhất thời không nói gì, trong lòng thầm mắng lão thất phu Từ Tĩnh, tất nhiên là nàng biết nếu có sự tương trợ của Thương Dịch Chi, quân Giang Bắc sẽ dễ như trở bàn tay, nhưng giờ nàng biết đi tìm Thương Dịch Chi ở đâu!



A Mạch thấp giọng mắng Từ Tĩnh mấy lần, ngẩng đầu lên thấy Trương Sĩ Cường đang dùng vẻ mặt khẩn trương nhìn mình, không khỏi cười cười, lấy thư giao cho anh ta đem đốt. Trương Sĩ Cường cẩn thận tiêu hủy lá thư, quay lại nhìn A Mạch, thấp giọng hỏi: “Đại nhân, làm sao bây giờ?”



A Mạch muốn làm gì bây giờ? Nàng trầm ngâm một lát, đột nhiên ngẩng đầu nói với Trương Sĩ Cường: “Nhị Đản, lần này e là ngươi phải tự mình đi Thịnh Đô một chuyến rồi.”



Trương Sỹ Cường khẽ giật mình, nhưng cũng không hỏi vì sao, chỉ hỏi: “Khi nào thì đi?”



A Mạch nói: “Đợi ta nghĩ ra một lý do quang minh chính đại đã.”



Ai ngờ không cần A Mạch phải nghĩ ra lý do quang minh chính đại nào cho Trương Nhị Đản đi Thịnh Đô thì Thương Dịch Chi đã tự mình từ Thịnh Đô đến Thái Hưng. Khi A Mạch biết được tin tức này từ Vệ Hưng, không khỏi có chút kinh ngạc, phái nhân vật cao nhất của phe chủ chiến đến nghị hòa, chữ “Hòa” này có thể bàn được sao? Chẳng qua là mặc kệ “Hòa” như thế nào đi chăng nữa, chỉ nói riêng chuyện Thương Dịch Chi sẽ đến Thái Hưng, A Mạch cũng đã vừa mừng vừa sợ, trong lòng lại thầm mắng lão thất phu Từ Tĩnh quả nhiên có chút bàng môn tả đạo(2).



Ngày mười chín tháng sáu, Vĩnh xương hầu Thương Dịch Chi tới Thái Hưng, tiếp nhận nhiệm vụ của Cao Cát, cùng Bắc Mạc tiến hành đàm phán. Cao Cát đúng là kinh hỉ vạn phần, bàn giao cho Thương Dịch Chi xong, liền đóng gói đồ đạc hồi kinh báo cáo công tác.



Đêm đến, thủ thành Thái Hưng là Vạn Lương đặt tiệc rượu tẩy trần cho Thương Dịch Chi ở tửu lâu bậc nhất trong thành, mời Vệ Hưng và các tướng lĩnh cùng tham dự.



Trong bữa yến tiệc, Thương Dịch Chi không mặc quan phục, đầu đội kim quan, thân mặc màu áo bào trắng, bên hông đeo ngọc bội, mặt như mĩ ngọc, mắt sáng như sao, cử chỉ phong lưu. A Mạch đã thấy qua dáng vẻ này của anh ta, nên cũng chẳng lấy gì làm lạ, nhưng Đường Thiệu Nghĩa và chư tướng trong quân Giang Bắc lại chỉ nhớ  rõ Thương nguyên soái tuấn nhan lạnh lùng trong một thân nhung trang, giờ chợt nhìn thấy một Thương Dịch Chi dáng vẻ phong lưu như thế, nhất thời đều có chút ngây ngốc, sau đó không hẹn mà cùng nhìn về phía A Mạch âm thầm so sánh, phát hiện ra Thương Dịch Chi hiện giờ so với A Mạch vốn nổi tiếng là tiểu bạch kiểm trong quân Giang Bắc còn trắng hơn đôi phần.



Thương Dịch Chi trước cùng Vệ Hưng hàn huyên vài câu, sau lại quay đầu nhìn về phía chư tướng, khẽ cười nói: “Chư vị, lâu rồi không gặp.”



Chư tướng lúc này mới phục hồi tinh thần, nhất tề hướng về phía Thương Dịch Chi làm lễ chào hỏi. Đợi mọi người chào xong, lại chiếu theo thân phận và địa vị mà ngồi xuống, tiệc rượu lúc này mới bắt đầu. Thái Hưng chính là tòa thành lớn nhất vùng Giang Bắc, sự phồn hoa tất nhiên những nơi khác không thể sánh bằng, thành Thái Hưng mặc dù bị bao vây hai năm, nhưng trong thành, rượu ngon và thức ăn ngon vẫn như trước không hề thiếu, khiến cho chư tướng quân Giang Bắc từ núi Ô Lan đến đây được một phen đại khai nhãn giới.



Thành thủ Vạn Lương lại nghe nói Thương Dịch Chi phong lưu thành tiếng, nên cố ý mời ca cơ đến tiếp khách, không chỉ Thương Dịch Chi, mà bên cạnh Vệ Hưng cũng có mỹ nhân bồi rượu, ngay cả A Mạch và các tướng quân Giang Bắc mỗi người cũng có một mỹ nhân.



A Mạch vốn tạm thời nhận chức hữu phó tướng quân Giang Bắc của Lý Trạch, cùng Đường Thiệu Nghĩa ngồi chung một bàn tiệc, thấy dáng ngồi của anh ta thẳng đơ nghiêm chỉnh không khỏi cười thầm, mượn lúc uống rượu thấp giọng nói: “Đại ca, đây chỉ là một bữa yến tiệc, huynh cứ thả lỏng bản thân mà thoải mái một chút đi.”



Đường Thiệu Nghĩa nghe vậy khẽ gật đầu, song thân hình vẫn bất động như cũ. A Mạch thấy vậy thì cười bất đắc dĩ, không nói thêm nữa, chỉ cùng mọi người uống rượu.



Rượu uống chưa tới tầm, nhưng mọi người đã không còn câu thúc giống như lúc ban đầu, có người bắt đầu trêu ghẹo ca cơ bên cạnh. Trên bàn tiệc của  Đường Thiệu Nghĩa và A Mạch, ca cơ thấy cả hai người đều là nam tử tuổi trẻ tuấn lãng, ngôn ngữ cử chỉ có nhiều phần khiêu khích, A Mạch chỉ khẽ cười không quan tâm, nhưng Đường Thiệu Nghĩa ngồi bên cạnh thì lại vừa thẹn vừa quẫn.



Ca cơ kia mượn cớ mời rượu mà dựa sát vào người Đường Thiệu Nghĩa, hù Đường Thiệu Nghĩa phải tránh vội sang một bên, vì thế lập tức ngã vào người A Mạch. A Mạch lúc đó trong tay vốn đang cầm chén rượu, nghiêng tai lắng nghe Thương Dịch Chi và Vệ Hưng nói chuyện, lại bị Đường Thiệu Nghĩa va vào suýt nữa thì làm đổ, không khỏi quay lại có chút ngạc nhiên nhìn Đường Thiệu Nghĩa. Đường Thiệu Nghĩa lại hiểu lầm ý của A Mạch, tưởng nàng nghĩ anh ta không làm chủ nổi bản thân, nhất thời cảm thấy vô cùng xấu hổ, trong cơn tức giận liền đẩy mạnh ca cơ ra, đứng bật dậy khỏi bàn tiệc.



Mọi người thấy Đường Thiệu Nghĩa đẩy ngã ca cơ rồi đột nhiên đứng dậy đều ngẩn ra, nhất tề đều nhìn về phía anh ta. Vạn Lương đưa mắt nhìn ca cơ vẫn nằm úp sấp trên chiếu, bất động thanh sắc hỏi: “Đường tướng quân có gì không vừa lòng sao?”



Đường Thiệu Nghĩa mặt mũi đỏ bừng, nghẹn ngào nói không ra lời. A Mạch vội đưa tay kéo Đường Thiệu Nghĩa ngồi xuống, cười nói với Vạn Lương: “Vạn đại nhân không biết đấy thôi, Đường tướng quân da mặt mặc dù rất đen nhưng lại rất mỏng, bình thường khi có cô nương nào nhìn một chút đều không dám ngẩng mặt lên nhìn, hôm nay lại có mỹ nhân muốn ngồi vào lòng anh ta, anh ta nhất thời đâu thể tiêu hóa nổi? Vốn cũng muốn ôm ấp mỹ nhân, nhưng nhất thời kích động, gấp đến độ lập tức đứng bật dậy.”



A Mạch nói rất khôi hài, khiến Đường Thiệu Nghĩa đỏ thẫm mặt, mọi người sửng sốt rồi cùng bật cười ha hả.



Còn Đường Thiệu Nghĩa cả người không được tự nhiên, ca cơ bên cạnh giờ thành thành thật thật ở một bên phụng rượu, không hề dám khiêu khích nữa, nhưng trong đầu Đường Thiệu Nghĩa lại luôn không khống chế được mà nghĩ về cảm giác khi đụng chạm vào người A Mạch, càng nghĩ càng cảm thấy trên mặt nóng bừng, khuôn mặt ngăm đen càng lúc càng đỏ gay gắt.



Thương Dịch Chi thu hết trạng thái quẫn bách của Đường Thiệu Nghĩa vào trong mắt, khẽ cười, quay đầu thấp giọng nói với Vạn Lương câu gì đó, Vạn Lương khẽ sửng sốt giật mình, vô cùng kinh ngạc nhìn Đường Thiệu Nghĩa.



A Mạch biết điều mà Thương Dịch Chi và Vạn Lương nói tất nhiên là liên quan đến Đường Thiệu Nghĩa, không khỏi giương mắt nhìn Thương Dịch Chi, đúng lúc chạm vào tầm mắt của anh ta, A Mạch đón nhận ánh mắt của Thương Dịch Chi chỉ thản nhiên cười cười. Nhưng Thương Dịch Chi thì lại khẽ run lên, sau đó dấu diếm đưa tầm mắt đi nơi khác.



————————-



Chú thích:

1- Phi binh bất cường, phi thương bất phú: Không có quân đội không thể mạnh, không có giao thương buôn bán không thể giàu. Ở đây Từ Tĩnh chơi chữ, “phi thương bất phú” hiểu theo nghĩa bóng là không có Thương Dịch Chi thì quân Giang Bắc không thể phát triển thuận lợi.

2- Bàng môn tả đạo

Bàng: Bên cạnh. Môn: Cửa. Tả: Trái lẽ, không chánh. Ðạo: Tôn giáo.

Bàng môn là cửa hông, không phải cửa chánh. Tả đạo là tôn giáo sai trái. Bàng môn Tả đạo là chỉ chung các tôn giáo, học thuyết dẫn dắt con người vào đường tà vạy quanh co, có xu hướng trục lợi cầu danh, không đạt được kết quả chơn chánh.

Bàng môn Tả đạo do Quỉ Vương lập ra, để kình chống và giành giựt nhơn sanh đối với các Chánh đạo do các Ðấng Phật, Tiên mở ra hay do Ðức Chí Tôn mở ra.

Với trí xét đoán phàm phu, chúng ta khó phân biệt đâu là Chánh đạo, đâu là Tả đạo Bàng môn, vì Tả đạo được Quỉ Vương phủ lên một lớp nước sơn hoa mỹ tinh vi; chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều bị chúng mạo danh, lại còn dùng nhiều hình thức huyền diệu hơn cả chánh đạo, để mê hoặc nhơn sanh.

Ở đây, ý A Mạch muốn ám chỉ việc Từ Tĩnh cố tình giả thần lộng quỷ, sử dụng cách nói bóng nói gió để truyền đạt một việc mà ai cũng biết rồi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

107#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:05:52 | Chỉ xem của tác giả
Chương 98

THỔ LỘ TÂM CAN




Đợi cho bữa tiệc chấm dứt, Vạn Lương và Vệ Hưng đưa Thương Dịch Chi trở về, các chư tướng còn lại tự mình trở về thành phủ. A Mạch lên ngựa, cùng Đường Thiệu Nghĩa và Lâm Mẫn Thận sóng hàng ngang mà đi. Đường Thiệu Nghĩa vẫn không dám nói chuyện cùng A Mạch, nhìn chằm chằm về phía trước không chớp mắt, Lâm Mẫn Thận thấy anh ta vẫn trầm mặc, không khỏi nhìn chăm chú, đột nhiên cười nói: “Đường tướng quân, mặt ngươi sao vẫn đỏ thế?”



Lời vừa nói ra, khiến tất cả mọi người đi cùng đều nhìn Đường Thiệu Nghĩa, Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch cũng nhìn về phía mình, trong lòng lại có chút bối rối, vội vàng giải thích: “Uống nhiều rượu quá nên bốc lên mặt.”



Chức quan của Đường Thiệu Nghĩa tuy rằng cao hơn so với mọi người, nhưng bình thường anh ta đối đãi với người khác luôn khoan dung nhân hậu, hơn nữa hán tử trong quân vốn toàn là người ngay thẳng, cho nên mọi người không ai có thái độ e dè với anh ta, nghe anh ta giải thích như thế thì có kẻ lại càng ra sức trêu chọc: “E là chẳng phải say rượu mà là say người thôi!”



Mọi người nghe vậy không khỏi nhớ tới biểu hiện quẫn bách của Đường Thiệu Nghĩa trên bàn tiệc, lại cười ầm lên. Đường Thiệu Nghĩa thận trọng đưa mắt liếc nhìn A Mạch, thấy nàng cũng cười vui hớn hở theo mọi người, không những không cảm thấy buồn phiền mà ngược lại trong lòng lại như có dư vị ngọt ngào dâng lên, vì thế cũng ngây ngô cười theo. Lâm Mẫn Thận thấy thế, khẽ mím khóe môi, ghé sát vào tai Đường Thiệu Nghĩa thấp giọng cười nói: “Đường huynh, đừng nói là ngươi chưa bao giờ chạm tay vào mỹ nhân nào nhé? Hay là để tiểu đệ đưa Đường huynh đi khai giới, thế nào?”



Đường Thiệu Nghĩa nghe xong sửng sốt, lập tức lạnh mặt mà nói: “Lâm tham quân, thỉnh tự trọng!”



Lâm Mẫn Thận nghe xong chẳng thấy giận tí nào, chỉ làm như vô tình quét mắt nhìn thoáng qua A Mạch, khẽ nở một nụ cười, rồi quay đi nói chuyện với người bên cạnh.



Mọi người lại đi tiếp, khi đi ngang qua một tửu lâu phồn hoa khác trong thành, đúng lúc có mấy thị vệ Bắc Mạc đi ra, A Mạch nhìn vài lần, thấp giọng nói: “Thành Thái Hưng của chúng ta tốt như vậy lại để cho lũ thát tử đi ra đi vào như chỗ không người, thật đáng giận!” Một viên tướng bên cạnh nàng vốn nhìn thát tử không lọt mắt, nghe vậy lại càng bốc hỏa, không nhịn được liền quay đầu hướng về phía tửu lâu nhổ một bãi nước bọt, cao giọng mắng: “Con mẹ nó, đúng thật là xui xẻo, đi đường cũng gặp phải dã quỷ!”



Lời vừa nói ra, mấy tên thị vệ Bắc Mạc giận dữ quay lại nhìn đám người A Mạch, tay cầm loan đao sáng loáng sắc nhọn, chư tướng của A Mạch cũng không yếu thế, đều rút kiếm đối ứng. Chính vào lúc hai bên đang giương cung bạt kiếm, thì trong tửu lâu có một vị công tử trẻ tuổi mặc trang phục Bắc Mạc đi ra, thấy tình hình như vậy ôn tồn hỏi: “Có chuyện gì vậy?”



Một gã thị vệ phía trước vội vàng quay lại cung kính đáp: “Công tử, là do nam nhân kia kiếm chuyện.”



Công tử trẻ tuổi kia nghe thấy vậy liền ngẩng đầu nhìn qua hướng đó, khi tầm mắt rơi trên ngươi A Mạch thân thể lập tức cứng đờ lại, một lát sau mới lại tiếp tục nhìn tiếp về phía sau. Trong khoảnh khắc thoáng dừng lại đó, Lâm Mẫn Thận và Đường Thiệu Nghĩa đang đứng cạnh A Mạch cùng đã phát hiện ra, không tự chủ được cũng đưa mắt nhìn A Mạch, chỉ thấy nàng bình tĩnh ngồi trên lưng ngựa, không hề biến sắc. Đến khi quay lại nhìn vị công tử trẻ tuổi kia, thấy anh ta cũng đã là thu hồi tầm mắt.



Công tử trẻ tuổi kia thản nhiên nói với thị vệ Bắc Mạc: “Đi thôi.”



Nghe anh ta nói như vậy, mấy thị vệ Bắc Mạc mặc dù không cam tâm, nhưng cũng rất nghe lời mà thu đao lại. Có thị vệ đã dắt ngựa đến, vị công tử trẻ tuổi xoay người lên ngựa, mang theo vài tên thị vệ đi lướt qua đám người A Mạch. Mọi người thấy bọn họ cứ như vậy mà đi, nhất thời đều có chút trố mắt, tướng quân Lĩnh Kỳ, vốn cũng nổi danh trong quân Giang Bắc ngạc nhiên nói: “Ái chà! Lũ thát tử này hôm nay làm sao vậy nhỉ? Tưởng rằng sẽ đánh nhau với chúng một trận cơ đấy, thế nào lại bỏ đi rồi!”



Mấy người cười ầm lên, Đường Thiệu Nghĩa lại giáo huấn: “Chớ có sinh sự nữa, lúc về khó tránh khỏi đại tướng quân trách phạt!”



Mọi người vẫn biết Vệ Hưng đã ban nghiêm lệnh cấm tướng sĩ trong quân xô sát với thát tử, vài lần muốn giết người lập uy, may mà có A Mạch khuyên can mới giữ được tánh mạng, hiện nghe Đường Thiệu Nghĩa nói thế đều thu lại không ít khí thế, nhưng hán tử lỗ mãng kia vẫn kêu lên: “Trách phạt thì trách phạt, cùng lắm thì lại nhận mấy chục quân côn! Vệ đại tướng quân từ Thịnh Đô đến, làm sao biết được quân Giang Bắc chúng ta cùng với thát tử có mối huyết hải thâm cừu, ông ta có thể cùng thát tử xưng huynh gọi đệ, nhưng ta thì cũng không thể!”



A Mạch vốn vẫn trầm mặc, nghe xong lời này đột nhiên mở miệng nói: “Lão Mạc, nhà ngươi cả ngày chỉ biết gây chuyện thị phi, nếu ngươi gặp rắc rối một lần nữa, ta cũng không đảm bảo sẽ giữ được cái đầu của ngươi đâu!”



Lão Mạc nghe xong thì xoa đầu hắc hắc cười gượng hai tiếng, rồi không dám tiếp tục càu nhàu nữa.



Khi mọi người trở lại thành thủ thì đã là nửa đêm, có binh sĩ đến dắt ngựa đi, mọi người cũng đều tự tản đi nghỉ ngơi. A Mạch từ biệt Đường Thiệu Nghĩa và mọi người, một mình đi một hướng, đi một mạch đến chỗ không người mới đột nhiên lấy tay chống lên bức tường, thân thể không kiềm chế nổi mà bắt đầu run lên.



Trần Khởi, Trần Khởi, không thể ngờ được anh ta sẽ xuất hiện ở nơi này! A Mạch hít sâu mấy hơi, cố gắng áp chế cảm xúc xuống, nhất thời cố không suy nghĩ nhiều, chỉ bước nhanh về chỗ ở của mình. Trương Sĩ Cường thấy nàng sắc mặt tái nhợt không khỏi có chút lạ, hỏi: “Đại nhân, xảy ra chuyện gì?”



A Mạch lắc đầu, yên lặng ngồi đến hơn nữa ngày, mới đột nhiên hỏi Trương Sĩ Cường: “Điều tra rõ chưa?”



Trương Sĩ Cường gật đầu, đem thứ gì đó đã chuẩn bị tốt đưa cho A Mạch, có chút chần chờ hỏi: “Đại nhân, như vậy có được không? Không bằng để ban ngày hãy đi.”



A Mạch lật xem quần áo và giày mũ mà Trương Sĩ Cường chuẩn bị cho nàng, nói: “Ban ngày tránh sao được tai mắt của nhiều người, nếu ta đi nhất định sẽ khiến Vệ Hưng biết.”



Trương Sĩ Cường vẫn có chút do dự: “Nhưng nếu để người khác phát hiện thì phải làm sao?”



A Mạch nghĩ nghĩ, đáp: “Trước không cần nghĩ nhiều như thế, cứ tùy cơ ứng biến.”



Thấy A Mạch vẫn kiên trì như vậy, Trương Sĩ Cường bất đắc dĩ đành phải đem các con đường bên trong thành phủ cùng quy luật tuần tra của thị vệ trên các tuyến đường đều nhất nhất nói với nàng, lại sợ A Mạch không nhớ rõ, nhịn không được muốn nhắc lại một lần nữa. A Mạch mỉm cười, nói: “Ngươi chỉ cần không nhớ lầm, ta cũng sẽ không nhớ lầm, không cần phải nói lại nữa.”



Trương Sĩ Cường ngượng ngùng cười cười, đứng dậy vội vàng đi ra, đứng ngoài cửa đợi một lát, một lát sau, A Mạch trong trang phục áo xám, mũ quả dưa của người hầu đi ra, đến sát bên cạnh anh ta thấp giọng nói: “Ngươi về phòng đi, nếu có người gõ cửa cũng không được mở, chỉ nói ta ngủ say rồi, có việc gì ngày mai nói sau.”



Trương Sĩ Cường gật đầu, chờ đến khi thân ảnh của A Mạch không chút động tĩnh biến mất trong bóng đêm, lúc này mới nhẹ nhàng đóng cửa lại.



Thành phủ mặc dù bảo vệ rất nghiêm, nhưng A Mạch ở trong phủ đã nhiều ngày, hơn nữa lại biết rõ quy luật tuần tra trên các tuyến đường của thị vệ nên dọc đường đi không gặp phải nguy hiểm gì, thuận lợi ra khỏi khuôn viên của thành thủ. Vừa ra khỏi thành thủ, A Mạch liền đi rất nhanh, không bao lâu sau đã đến nơi ở của Thương Dịch Chi.



Lần này Thương Dịch Chi đến Thái Hưng với thân phận sứ thần nghị hòa, vốn nên ở tại thành phủ của Vạn Lương, nhưng trưởng công chúa vốn có phủ đệ ở Thái Hưng, hơn nữa Vệ Hưng và chư tướng quân Giang Bắc đều ở bên trong thành phủ, Thương Dịch Chi vì tránh hiềm nghi, liền đến ở trong phủ đệ của mình.



A Mạch cân nhắc vài lần, cuối cùng quyết định từ bỏ ý định trèo qua tường, đi ra cửa sau cầu kiến Quý Thuận. Đã quá nửa đêm, ở cửa sau lại có người cầu kiến đại quản gia từ Thịnh Đô đến, chuyện này nhìn thế nào cũng thấy có chút quái dị, nhưng người giữ cửa kia lại không chút kinh ngạc, ngay cả hỏi cũng không hỏi một câu, chỉ cúi đầu mời A Mạch vào, sau đó đưa A Mạch đến gặp Thương Dịch Chi.



Thương Dịch Chi đã là thay áo bào, trên người chỉ mặc một tấm áo đơn màu trắng, có chút lười nhác dựa trên giường La Hán(1) đọc sách.



A Mạch trịnh trọng cúi xuống hành quân lễ, cung kính nói: “Nguyên soái.”



Thương Dịch Chi buông quyển sách trên tay xuống rồi ngẩng đầu lên nhìn, ngừng một lát lúc này mới nhẹ giọng nói: “Đứng lên! Ngồi đi!”



Anh ta tuy nói vậy, song A Mạch nào dám ngồi, chỉ thành thật đứng một bên, không đợi Thương Dịch Chi hỏi liền đem tình hình quân vụ của quân Giang Bắc trong một năm qua bẩm báo với Thương Dịch Chi. A Mạch chưa bẩm báo xong, Thương Dịch Chi đã đột nhiên lên tiếng hỏi: “A Mạch, ngươi tìm ta là muốn nói việc này sao?”



A Mạch đờ người ra, nàng tìm anh ta quả thật không phải vì chuyện này, hơn nữa những việc này sợ là không cần nàng nói, Thương Dịch Chi đã sớm biết cả rồi. Chỉ có điều, trước khi nói chuyện đại sự thì dù sao cũng phải đem mấy việc nhỏ nhặt khác ra làm bước đệm thì mới tốt.



A Mạch đang không biết nên trả lời như thế nào, Thương Dịch Chi lại khẽ cười, khích lệ nàng: “Ngươi làm tốt lắm.”



A Mạch thật không có thói quen nhìn Thương Dịch Chi dùng vẻ mặt ôn hoà như vậy nói chuyện với mình, tiểu Hầu gia phong lưu tiêu sái như vậy làm sao khiến người ta nhìn thuận mắt như vị nguyên soái mặt lạnh như tiền trong núi Ô Lan kia được. A Mạch lo nghĩ, rồi ngẩng đầu lên nhìn thẳng Thương Dịch Chi, hỏi: “Trong triều thật muốn cùng thát tử nghị hòa sao?”



Thương Dịch Chi yên lặng nhìn A Mạch, dần dần thu lại vẻ tươi cười trên mặt, gật đầu nói: “Không sai.”



“Như vậy sao được!” A Mạch nóng nảy nói: “Bây giờ mà nghị hòa, chẳng phải đem bao công sức của chúng ta từ trước đến nay ra làm trò cười sao? Cho dù phải nghị hòa, cũng phải chờ chúng ta đánh đuổi thát tử ra khỏi cửa khẩu Tĩnh Dương rồi mới có thể bàn đến chứ!”



Thương Dịch Chi bình tĩnh đợi A Mạch nói xong, mới thản nhiên nói: “Nói một chút tình hình trong triều cho ngươi nghe, hiện giờ thực sự không đủ thực lực để tác chiến từ hai phía, nên chỉ có thể nghị hòa với thát tử, tạm thời dập tắt một mối họa.”



A Mạch vội la lên: “Thát tử đâu phải là đồ ngốc, sao lại không biết! Nguyên soái! Ngài không phải…”



“Ta sớm không còn là nguyên soái quân Giang Bắc nữa rồi!” Thương Dịch Chi đột nhiên lạnh giọng cắt ngang lời A Mạch, nói: “Ta giờ là đại sứ nghị hòa của Nam Hạ, Vĩnh Xương hầu Thương Dịch Chi.”



A Mạch nhất thời trố mắt, ngơ ngác nhìn Thương Dịch Chi, một lúc lâu sau, mới chậm rãi thu hồi tầm mắt, cúi đầu nhẹ giọng hỏi: “Quân Giang Bắc thì thế nào?”



“Vượt sông rút về phía Nam, điều động đi bình định Vân Tây.” Thương Dịch Chi đáp.



A Mạch đột nhiên ngẩng đầu, trong mắt tràn ngập nỗi khiếp sợ: “Chẳng lẽ thật sự sẽ đem toàn bộ vùng Giang Bắc giao cho thát tử sao?”



Thương Dịch Chi cười tự giễu, nói: “Bằng không thì tại sao thát tử đang chiếm ưu thế khắp nơi lại đồng ý nghị hòa? Không phải như vậy, sao lại để cho ta tới đây làm đại sứ nghị hòa? Tất nhiên là để tìm người làm cái chuyện bị bêu danh thiên cổ rồi.”



Từ nay về sau, cái mà mọi người nhớ đến không phải là nguyên soái quân Giang Bắc Thương Dịch Chi, người cầm quân đánh thát tử Bắc Mạc, mà là kẻ ký kết hiệp ước bán nước nhục nhã Thương Dịch Chi. Dùng chuyện bị bêu danh thiên cổ để đổi lấy sự yên tâm của Tề Cảnh, dùng nửa giang sơn để đánh cược cho một lần phản kích của anh ta… Từ nay về sau sau, Thịnh Đô sẽ không còn người nào nghi kỵ anh ta nữa.



A Mạch vẫn kinh ngạc nhìn Thương Dịch Chi, Thương Dịch Chi quay đi tránh tầm mắt của A Mạch, một lát sau khi nhìn lại, ánh mắt đã trở nên bình tĩnh. A Mạch không nói gì, Thương Dịch Chi cũng chỉ nở nụ cười, nói: “A Mạch, ngươi còn có rất nhiều điều chưa hiểu.”



A Mạch đang muốn tiếp tục giả ngu, lại nghe Thương Dịch Chi thản nhiên nói: “Nếu muốn cùng người khác thổ lộ tâm can, chi bằng giãi bày toàn bộ tâm can của mình ra trước. Ngươi sẽ làm như thế nào, có đổi lấy tâm tư của người khác hay không?”



A Mạch chần chờ một lát, cuối cùng quỳ hai gối xuống, cúi thấp người trước mặt Thương Dịch Chi, trầm giọng nói: “A Mạch nguyện lĩnh quân Giang Bắc ở lại Giang Bắc, thay nguyên soái giành lại nửa giang sơn này!”



Hồi lâu vẫn không thấy Thương Dịch Chi trả lời, trên trán A Mạch cũng toát mồ hôi, chờ đến khi nóng ruột thì nghe thấy Thương Dịch Chi chậm rãi hỏi: “Ai?”



A Mạch dứt khoát nói: “Mạch Tuệ nguyện lĩnh quân Giang Bắc ở lại Giang Bắc, thay nguyên soái giành lại nửa giang sơn này!”



Thương Dịch Chi từng bước ép sát: “Mạch Tuệ là ai? Nguyên soái là ai?”



A Mạch cắn chặt hàm răng, hơn nửa ngày mới chậm rãi thả lỏng, cuối cùng lớn tiếng đáp: “Mạch Tuệ, con gái Tĩnh quốc công Hàn Hoài Thành, nguyện lĩnh quân Giang Bắc ở lại Giang Bắc, thay chủ thượng ta là Thương Dịch Chi giành lại nửa giang sơn này!”



Lời nói biến mất ở trong không khí, tiếp đó là một sự yên tĩnh đến dọa người. A Mạch quỳ trên mặt đất, im lặng chờ đợi Thương Dịch Chi. Không biết qua bao lâu, mới nghe thấy Thương Dịch Chi nhẹ giọng nói: “A Mạch, ngươi ngẩng đầu lên.”



A Mạch theo lời ngẩng đầu lên, yên lặng nhìn về phía Thương Dịch Chi.



Ánh mắt Thương Dịch Chi quan sát rất lâu trên khuôn mặt của A Mạch, cuối cùng dừng lại ở mắt nàng.



“Tên ta là Tề Hoán.” Thương Dịch Chi đột nhiên nói.



A Mạch không khỏi ngạc nhiên.



Thương Dịch Chi nhìn A Mạch chằm chằm, nói thật rõ ràng: “Con trai Vũ đế thái tử Tề Hiển, Tề Hoán.”



Những lời chấn động này khiến đầu óc A Mạch trở nên trống rỗng, chỉ ngây ngốc nhìn Thương Dịch Chi.



Khóe miệng Thương Dịch Chi khẽ hiện lên ba phần ý cười, chậm rãi nói: “A Mạch, ngươi nhớ kỹ, ta có thể đưa ngươi lên thì cũng có thể hạ ngươi xuống.”



Ngữ điệu Thương Dịch Chi mềm mại nhẹ nhàng, nhưng A Mạch nghe lại thấy cả người phát lạnh mà rùng mình, lại phủ phục xuống, cẩn thận nói: “A Mạch nhớ kỹ.”



——————–



Chú thích:

1-    Giường La Hán:

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

108#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:06:57 | Chỉ xem của tác giả
Chương 99

HỨA HẸN




Theo cửa sau ra khỏi phủ của Thương Dịch Chi, A Mạch một mình đứng trong ngõ nhỏ hồi lâu mới khẽ buông ra tiếng thở dài. Bầu trời đêm nay dát đầy ánh sáng của trăng sao, ánh trăng dọi xuống in bóng nàng gấp khúc ở góc tường. A Mạch cười tự giễu bản thân, xoay người khẽ vỗ lên đầu gối phủi bụi đất, vỗ đến nửa ngày cũng chẳng thấy có chút bụi nào rơi ra, nhưng nàng lại vẫn bướng bỉnh vỗ tiếp, cho đến khi đầu gối phát run lên, tảng đá trong lòng dần dần được buông xuống, lúc này mới ngừng tay lại.



Bên ngã tư đường, người canh phu(1) gõ lên ba tiếng “Tùng… tùng… tùng…”, A Mạch không dám chậm trễ nữa, tránh canh phu, bước nhanh về thành phủ. Đợi đến khi đi đến bức tường bên ngoài thành phủ, lại tìm đi ra chỗ để vào bên trong, cẩn thận tránh đường đi của thị vệ tuần tra ban đêm, thận trọng trở về tiểu viện của mình. Đến khi qua cửa viện, A Mạch mới buông lỏng bản thân, xoay người nhấc chân về phòng, lại đột nhiên dừng chân đứng bất động.



Trong bóng tối của tường viện, Lâm Mẫn Thận thấy A Mạch thông minh như thế, cũng khẽ nở nụ cười, đem mũi kiếm ở trước người A Mạch thu về phía sau nửa tấc, thấp giọng cười nói: “Mạch tướng quân quả nhiên là kẻ rất thức thời.”



A Mạch trầm mặc một chút, đột nhiên hỏi: “Ngươi đã làm gì thị vệ trong phòng của ta?”



Lâm Mẫn Thận cười hỏi ngược lại: “Nếu đã giết rồi thì ngươi định làm gì?”



A Mạch đưa mắt nhìn Lâm Mẫn Thận, thản nhiên đáp: “Giết ngươi.”



Lâm Mẫn Thận nghe vậy khẽ giật mình, sau một lúc lâu đột nhiên mỉm cười, nói: “A Mạch, ta thật sự rất thích tính cách của ngươi, đợi xong việc ở đây, ngươi đi cùng ta được không?”



A Mạch lạnh lùng nhìn anh ta không nói gì, Lâm Mẫn Thận cảm thấy không chút thú vị, liền thu lại ý cười trên mặt, nói: “Mạch tướng quân, đêm khuya còn đi đâu thế?”



A Mạch không đáp, cũng hỏi: “Lâm tham quân không tiếp tục hóa trang mà diễn tuồng tiếp à? Hay hiện tại ngươi đã hết kiên nhẫn rồi.”



Lâm Mẫn Thận đem mũi kiếm chậm rãi nâng lên tới yết hầu của A Mạch, lạnh lùng hỏi: “Ngươi thật không sợ chết sao?”



A Mạch cười khẩy, đáp: “Sao lại không sợ? Chỉ có điều… biết chắc rằng ngươi chẳng có lý do gì để giết ta.”



Lâm Mẫn Thận lắc đầu, nói: “Nếu tối nay ngươi không đi ra ngoài, có lẽ ta sẽ lưu lại cho ngươi một mạng, nhưng vì ngươi đi, nên ta không thể lưu ngươi lại được nữa.”



Trong lòng A Mạch vừa động, từ lúc ở Thịnh Đô, nàng đã đoán mối quan hệ giữa Lâm tể tướng và Thương gia không phải là nước lửa bất dung giống như bên ngoài đồn đại, hiện nghe Lâm Mẫn Thận nói vậy, thâm tâm càng thêm chắc chắc, vì thế liền cố ý hỏi thử: “Nếu ngươi giết ta, thì phải giải thích với anh ta như thế nào?”



“Anh ta?” Lâm Mẫn Thận ngừng lại, rồi nói tiếp: “A Mạch, ngươi thật sự rất thông minh, nhưng ngươi cũng không biết Lâm gia ta và anh ta có quan hệ gì, Lâm gia ta đặt cược vào anh ta nhiều lắm, nên không chấp nhận dù chỉ là nửa điểm sơ xuất, mà hiện giờ trừ ngươi ra, anh ta sẽ không hành xử tùy tiện với Lâm gia, nhưng nếu để chậm trễ e rằng sẽ phát sinh chuyện không hay.”



A Mạch nghĩ ngợi một chút rồi nói: “Ta vẫn không hiểu, vì sao các ngươi nhất định phải giết ta.”



Lâm Mẫn Thận nhìn A Mạch, thấy nàng không giống như đang giả bộ, nhíu mày hỏi: “Ngươi không biết nguyên nhân thật sao?”



A Mạch cười nói: “Nếu chúng ta cùng bảo vệ một người, thì phải nhận nhau là đồng chí mới đúng, ta cùng với Lâm gia các ngươi cũng không có khúc mắc gì, tại sao lại khiến các ngươi ngứa mắt?”



Lâm Mẫn Thận yên lặng nhìn A Mạch, đột nhiên thở dài, đáp: “Nếu anh ta thành công, Tắc Nhu sẽ trở thành hoàng hậu.”



A Mạch nghe anh ta nhắc đến Tắc Nhu, không khỏi nhớ đến người con gái ôn nhu nhàn nhã ở Thúy Sơn, lập tức liền nói: “Tắc Nhu tiểu thư dĩ nhiên rất thích hợp để làm hoàng hậu.”



Lâm Mẫn Thận vô cùng sửng sốt.



A Mạch là người thông minh, sao lại không biết anh ta đang nghĩ gì, thản nhiên cười, nói: “Nếu là vì chuyện này, các ngươi không cần phải giết ta, A Mạch ta chỉ là một bông lúa mạch thô ráp trên đồng ruộng, so với Tắc Nhu tiểu thư khác biệt rất lớn. A Mạch không có chí này, nếu không đã chẳng quay về Giang Bắc.”



Lâm Mẫn Thận nghe vậy thì thâm tâm có chút dao động, nhưng vẫn chưa thu lại thanh kiếm trên tay.



A Mạch vươn hai ngón tay kẹp lấy mũi kiếm, chậm rãi đẩy ra khỏi yết hầu của mình, lại hỏi: “Lần này đến Thái Hưng nghị hòa là ý của Lâm tể tướng?”



Lâm Mẫn Thận trong lòng cảm thấy khó hiểu, không khỏi hỏi: “Sao lại nói như thế?”



A Mạch cười nói: “Nếu bắt buộc phải nghị hòa, tất sẽ phải tiêu giảm quân Giang Bắc, một việc phản quốc đến bậc này tất nhiên phải tìm một người cực kỳ tín nhiệm để làm, vì thế liền xuất hiện “bao cỏ” Lâm công tử đi theo quân Giang Bắc diễn một vở tuồng, sau đó là thất bại của Vệ Hưng, đại quân Giang Bắc khó nhọc xây dựng trong hai năm chỉ trong chốc lát liền bị hủy hoại.”



Lâm Mẫn Thận lại nói: “Ngươi nói sai rồi, nếu quân Giang Bắc người đông thế mạnh khiến Bắc Mạc phải e ngại thì chẳng phải là càng có lợi cho nghị hòa sao?”



A Mạch hỏi ngược lại: “Nếu quân Giang Bắc người đông thế mạnh, các đại thần thuộc phe chủ chiến trong triều liệu có cam tâm tình nguyện mà nghị hòa không? Chỉ khi nào quân Giang Bắc đại bại thì mới cắt đứt mọi hy vọng của bọn họ, lúc này mới có thể thúc đẩy việc nghị hòa được.”



Lâm Mẫn Thận mỉm cười, thấp giọng nói: “A Mạch, ngươi quả thực rất thông minh, chẳng qua ngươi vẫn đoán sai một chút, nghị hòa không phải ý của gia phụ, mà là… ý của Trưởng công chúa.”



A Mạch nghe vậy thì sững sờ, Lâm Mẫn Thận lại thấp giọng hỏi nói: “Có phải ngươi đang nghĩ, phải chăng anh ta cũng đã biết chuyện này rồi hay không?”



A Mạch bị Lâm Mẫn Thận đoán trúng tâm tư, cũng không nguyện ý thừa nhận, chỉ lạnh lùng đáp: “Sai rồi, ta chỉ đang nghĩ, dùng tính mạng mấy vạn tướng sĩ đổi lấy chuyện nghị hòa nhục nhã, làm mất chủ quyền đất nước, chẳng lẽ đầu óc của Trưởng công chúa đã bị heo ăn rồi sao?”



Lâm Mẫn Thận nghe vậy thì lộ vẻ buồn bã, sau một lúc lâu mới nói: “A Mạch, ngươi chưa từng phải tranh đoạt vị trí đó, cho nên ngươi không thể hiểu, mặc dù Vệ Hưng đã thay anh ta làm đại tướng quân Giang Bắc, nhưng Hoàng Thượng vẫn úy kị uy tín của anh ta ở trong quân Giang Bắc, cho nên, một ngày chưa diệt trừ được quân Giang Bắc, sự đề phòng và nghi kỵ của Hoàng Thượng đối với anh ta cũng không hề giảm đi.”



A Mạch cười lạnh không nói.



Lâm Mẫn Thận lại nhìn A Mạch, thấp giọng nói: “Kỳ thật ta rất trân trọng tài năng của ngươi, thật sự không đành lòng giết ngươi, nếu ngươi đồng ý rời đi, không tiếp tục gặp anh ta nữa, ta liền thả ngươi đi.”



A Mạch cười nhạo một tiếng, nói: “Ta là người nổi tiếng nói mà không giữ lời, vậy mà ngươi cũng dám tin ta sao.”



Lâm Mẫn Thận không nói, chỉ yên lặng nhìn A Mạch.



A Mạch nhìn thẳng vào mắt anh ta một lát, đột nhiên nhếch môi cười mỉa mai, làm như không thấy mũi kiếm đang chĩa thẳng vào mình, nhấc chân đi vào phòng. Lâm Mẫn Thận hơi giật mình, lập tức cũng cười, rồi cầm theo kiếm đuổi theo, hỏi: “Sao ngươi biết ta sẽ không giết ngươi?”



A Mạch hừ lạnh một tiếng, đáp: “Muốn giết thì đã sớm giết rồi, cần gì phải nói nhiều lời vô nghĩa với ta như vậy!” Nàng nhìn quanh phòng tìm Trương Sĩ Cường, Lâm Mẫn Thận thấy nàng đi đến màn trướng, liền nhắc: “Ở dưới gầm giường.” A Mạch ngẩn ra, lập tức ngồi xổm, cúi người nhìn xuống dưới gầm giường, quả nhiên thấy trong bóng tối có bóng dáng một người đang nằm đó, vội vàng đưa tay kéo ra.



Lâm Mẫn Thận theo sau nàng, lại hỏi tiếp: “Nếu ta là người thiện tâm, chẳng lẽ ngươi là quỷ hồ đồ sao?”



A Mạch cố sức lôi Trương Sĩ Cường bị trói như bánh chưng từ dưới gầm giường ra, tức giận nói: “Vậy thì cứ làm quỷ hồ đồ đi, hồ đồ hay không hồ đồ thì đã sao!”



Trương Sĩ Cường thần trí vẫn tỉnh táo, nhưng miệng lại bị bịt kín, không cách nào thốt được nên lời, chỉ trừng lớn hai mắt căm tức nhìn Lâm Mẫn Thận. Lâm Mẫn Thận cũng cười, nói: “Ngươi chớ trừng mắt nhìn ta, ta không đánh ngươi bất tỉnh đã là hạ thủ lưu tình với người nhà của tướng quân rồi.”



A Mạch thấy Trương Sĩ Cường bị trói rất chặt, liền rút đao cắt đứt dây trói. Trương Sĩ Cường rút được hai tay ra, một tay giật mảnh vải trong miệng, tức giận nói: “Anh ta dùng kế lừa ta!”



Thì ra khi A Mạch đi rồi, Trương Sĩ Cường cũng không dám ngủ, chỉ tắt đèn canh giữ ở trong phòng, ai ngờ chỉ một lúc sau đã có người đến. Để thuận tiện hành động, A Mạch đã dặn anh ta đừng đóng cửa viện, vì vậy Lâm Mẫn Thận đi vào cũng rất dễ dàng, vượt qua sân mà đến thẳng phòng ngủ. Trương Sĩ Cường nhớ rõ lời A Mạch dặn, nên nói A Mạch uống say đã đi ngủ rồi, bất kể có chuyện gì cũng chờ đến ngày mai rồi hãy nói. Ngoài phòng, Lâm Mẫn Thận cũng không dây dưa, chỉ thân thiết hỏi han vài câu liền đi. Trương Sĩ Cường vừa trấn định lại, chợt nghe Lâm Mẫn Thận gấp giọng kêu lên “Mạch tướng quân! Sao lại thế này? Sao toàn thân lại đầy máu thế?” Trương Sĩ Cường như không thở nổi, liền vội vàng mở cửa phòng, đợi đến lúc đó thì không còn kịp nữa.



Lâm Mẫn Thận thấy Trương Sĩ Cường giận dữ, lại càng cười đắc ý, chỉ rung đùi nói: “Binh bất yếm trá, chiêu này học được từ tướng quân nhà ngươi đấy.”



A Mạch không để ý đến hai người đang đấu võ mồm, chỉ lạnh mặt hỏi Lâm Mẫn Thận: “Lâm tham quân giữa đêm khuya đến thăm, lại vũ đao lộng kiếm, chẳng lẽ chỉ vì muốn cùng thị vệ của ta khua môi múa mép?”



Lâm Mẫn Thận cười nói: “Không bằng ngươi nói chuyện với ta nhiều hơn một chút đi?”



A Mạch tức giận đến không nói nên lời, không buồn để ý đến anh ta nữa, nhìn ra bên ngoài thấy trời đã bắt đầu sáng, liền quay lại sai Trương Sĩ Cường đi lấy nước rửa mặt. Lâm Mẫn Thận chờ Trương Sĩ Cường đi, lúc này lại chau mày nói: “A Mạch, ta chỉ cần ngươi hứa một câu, rằng mặc kệ sau này như thế nào, ngươi cũng không được ở lại bên cạnh anh ta.”



A Mạch suy nghĩ, trong lòng đột nhiên thông suốt, quay lại nhìn Lâm Mẫn Thận: “Ngươi tối nay đến đây đe dọa ta, là làm trái với ý của Lâm tể tướng?”



Lâm Mẫn Thận nghe A Mạch đột nhiên hỏi câu này, thấy có chút ngoài ý muốn, liền hỏi: “Sao ngươi biết?”



A Mạch cười, chế giễu: “Đường đường là Lâm tể tướng tinh quái như hồ ly trên núi, sao lại không biết hiện giờ giết ta sẽ gây mầm tai họa cho Lâm gia, sao lại còn muốn quanh co bắt ta phải hứa hẹn, e là cũng chỉ có Lâm công tử tuổi trẻ đa tình mới nhàn nhã như vậy”



A Mạch đem Lâm tể tướng so sánh với hồ ly tinh, thuận tiện chiếm chút tiện nghi. Nhưng Lâm Mẫn Thận nghe xong cũng không bực mình mà hào phóng thừa nhận: “Tắc Nhu là muội tử duy nhất của ta, từ nhỏ đã nhu thuận, muội ấy vì thế sự mà đã phải trả giá quá nhiều, ta không thể để muội ấy bị tổn thương thêm nữa.”



A Mạch mỉm cười, vui vẻ nói: “Huynh muội các ngươi tình nghĩa thật sâu nặng, chẳng qua đến một ngày nào đó nếu anh ta thật sự có thể ngồi lên được vị trí kia, sợ là muội tử của ngươi còn phải đối mặt với ba ngàn người đẹp, chẳng lẽ người làm ca ca như ngươi nhất định phải đi giết hết cả đám ấy sao?”



Lâm Mẫn Thận cũng không cười, đứng đắn nói: “Ngươi cùng bọn họ không giống nhau.”



A Mạch cười nhạo một tiếng, cố ý hỏi: “Ta sao lại không giống? Cũng tham phú quý, cũng sợ sinh tử, nếu anh ta thực sự có thể thành bậc cửu ngũ chí tôn, dùng quyền thế ép ta, ta có thể làm gì được?”



Lâm Mẫn Thận lẳng lặng nhìn A Mạch một lúc lâu, sau đó đáp: “Anh ta sẽ không ép ngươi, ngươi cũng sẽ không để cho anh ta ép!”



Lời này vừa nói ra, A Mạch cũng trầm mặc, nhất thời không biết nên trả lời anh ta như thế nào. Đúng lúc hai người đang im lặng nhìn nhau thì Trương Sĩ Cường đã bưng nước từ bên ngoài vội vã bước vào, đưa mắt lo lắng nhìn Lâm Mẫn Thận chằm chằm, rồi nói với A Mạch: “Đại nhân, nước đây.”



A Mạch gật đầu, cân nhắc một chút rồi quay lại nói với Lâm Mẫn Thận: “Ta hiện giờ nhận lời với ngươi, sau này cũng sẽ không đoạt chồng của người khác, đáp ứng ngươi như vậy, ngươi đã vừa lòng chưa?”



Lâm Mẫn Thận cười sang sảng, nói: “Vừa lòng, vừa lòng, tất nhiên là vừa lòng.”



A Mạch vất vả cả một đêm, trên người đã đầy mồ hôi dấp dính, thật không muốn sẽ cùng Lâm Mẫn Thận tiếp tục dây dưa, lập tức tiễn khách: “Mời Lâm tham quân quay về thôi, trời sắp sáng rồi, để người khác nhìn thấy không hay.”



Lâm Mẫn Thận biết A Mạch sốt ruột muốn tắm rửa thay quần áo, lại nhận được lời hứa hẹn của A Mạch, vốn dĩ đã rất vừa lòng, nên cũng không tranh luận tiếp với nàng, đứng dậy đi ra ngoài, trong lúc vô tình nhìn thấy Trương Sĩ Cường vẫn trợn mắt nhìn anh ta, lại cố ý dừng lại ở cửa, cười nhẹ hỏi A Mạch: “Không biết người trong mộng của Mạch tướng quân như thế nào?”



A Mạch lúc này hận không thể một cước đá bay Lâm Mẫn Thận lắm điều này ra ngoài, lại e ngại vũ lực của anh ta nên không dám, liền thuận miệng bịa chuyện nói: “Tất nhiên là giống như Lâm tham quân rồi, Lâm tham quân phong lưu, trẻ tuổi, mĩ mạo, đa tình, một thân hương khí ngạt ngào đón gió tỏa đi trăm dặm, chỉ một lần gặp mặt tại Thúy Sơn mà Mạch mỗ lập tức đã bị khuynh đảo.”



Lâm Mẫn Thận sao không biết A Mạch cố ý chế nhạo anh ta, cũng không muốn bóc trần, chỉ ra vẻ kinh ngạc, thất thanh kêu lên: “Khó mà thực hiện được, Lâm mỗ đã hứa với nương tử của mình là bất kể bên ngoài có hái hoa ngắt cỏ trăm phương, thì cũng chỉ được phép cưới một mình nàng ấy, sợ là phải cô phụ lại tấm thâm tình của Mạch tướng quân.”



Thấy bộ dáng của anh ta như thế, Trương Sĩ Cường càng trở nên tức giận, chỉ hận không thể hắt cả chậu nước vào mặt anh ta cho hả giận. A Mạch lại đáp: “Một khi đã như vậy, từ nay về sau Lâm tham quân nên tránh xa Mạch mỗ một chút, tốt nhất chớ lọt vào tầm mắt của Mạch mỗ, nếu không sẽ khiến Mạch mỗ thương tâm.” Nói xong, không đợi Lâm Mẫn Thận tiếp lời, đẩy thẳng anh ta ra khỏi phòng, thuận tay đóng cửa lại.



A Mạch quay lại, thấy Trương Sĩ Cường vô cùng giận dữ, nhìn nàng nói: “Thằng nhãi này khinh người quá đáng, đại nhân làm thế quá dễ dàng cho anh ta rồi!”



A Mạch cười cười, chưa tiếp lời, lại nghe Lâm Mẫn Thận gõ nhẹ cửa phòng, thấp giọng cười nói: “Đúng rồi, Mạch tướng quân, có chuyện này quên nói cho ngươi biết, đêm qua khi ta đến đây có gặp Đường tướng quân ngồi ngoài cửa viện của ngươi, xem tình hình này dường như trong lòng có điều khó xử, đến khi trời sáng e là sẽ lại đến đây tìm Mạch tướng quân để thương lượng.”

—————————-

Chú thích:

1- Canh phu: người phu đánh trống báo sang canh giờ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

109#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:08:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 100

MUA SẮM




A Mạch nghe vậy thì sững sờ, ngoài phòng, Lâm Mẫn Thận cười khẽ hai tiếng, rồi bỏ đi.



Dùng xong bữa điểm tâm, Đường Thiệu Nghĩa quả thực tìm đến, rụt rè đề nghị A Mạch cùng ra ngoài đi mua vài thứ với mình. Vốn nghe Lâm Mẫn Thận nói Đường Thiệu Nghĩa đêm qua từng ngồi rất lâu ngoài cửa viện nên trong lòng A Mạch khó tránh khỏi có chút ngờ vực vô căn cứ, liền cười nói: “Đại ca muốn mua gì? Sao phải tự mình đi mua vậy?”



Đường Thiệu Nghĩa mím môi, không chịu nói tỉ mỉ, chỉ bảo: “Nghe nói hôm nay khu chợ phía tây thành Thái Hưng mở phiên họp rất lớn, thứ gì cũng có, ta cũng muốn dạo qua đó xem thử, nếu ngươi không bận việc gì thì đi theo giúp ta một chuyến.”



Đường Thiệu Nghĩa đã nói đến nước này, A Mạch cũng không tiện từ chối tiếp, đành dặn dò Trương Sĩ Cường đôi câu, rồi cùng Đường Thiệu Nghĩa ra khỏi thành phủ đi về khu tây thị(1). Thành Thái Hưng khác với Thịnh Đô, bởi ở đây rất chú trọng phát triển phường hội buôn bán, trong đó khu chợ ở phía Tây là phát triển phồn vinh nhất, được gọi là “Kim thị”(2), thương nhân tụ hợp, cửa hàng san sát, hàng hóa rực rỡ muôn màu, Thái Hưng vốn là cửa ngõ huyết mạch của giao thông đường thủy ở phương bắc, giao lưu buôn bán với các nơi rất nhộn nhịp, hàng hóa quý hiếm bốn phương đều được bày bán ở đây, bởi vậy trước khi thành Thái Hưng bị vây, tây thị Thái Hưng chính là chợ lớn nhất vùng Giang Bắc. Về sau khi thành Thái Hưng bị quân Bắc Mạc vây khốn, hàng hóa trong thành đều bị quân quản, cửa hàng cửa hiệu trong thành vì thế mà trở nên tiêu điều đi rất nhiều, nhưng từ tháng năm, khi hai nước bắt đầu nghị hòa, quân Bắc Mạc mặc dù vẫn trú tại bên ngoài thành Thái Hưng, nhưng cửa thành Thái Hưng đã rộng mở, vì thế nên tây thị lại tấp nập trở lại.



Hôm nay lại đúng là ngày tây thị mở phiên chợ lớn. A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa đều không mang theo thị vệ, hai người không nhanh không chậm đi về phía tây thị. Dọc theo đường đi, Đường Thiệu Nghĩa vài lần mở miệng muốn nói gì đó nhưng rồi đều nghẹn lại, A Mạch thấy vậy, sợ anh ta sẽ nói ra điều gì khiến mình phải ngượng ngùng, lại thấy tây thị đã ở trước mắt, liền mở miệng hỏi trước: “Đại ca, huynh muốn mua gì?”



Tâm tư Đường Thiệu Nghĩa đâu ở nơi này, chỉ tùy ý đáp: “Lâu nay vẫn nghe nói tây thị của Thái Hưng rất phồn hoa, nên muốn mua vài thứ gửi về nhà.”



A Mạch nhớ Đường Thiệu Nghĩa từng nói anh ta một mình rời nhà tòng quân, ở nhà vẫn có song thân tựa cửa mỏi mắt ngóng trông, hiện giờ anh ta đã là kỵ lang tướng quân, tất nhiên là nên sớm có hồi âm về nhà, liền thản nhiên cười nói: “Cũng nên như thế, ta cùng đại ca kết nghĩa, cũng nên có chút quà tặng để biểu đạt tâm ý.”



Đường Thiệu Nghĩa thấy khóe môi A Mạch mặc dù cười, nhưng trong mắt lại hiện lên nét bi thương, chợt nhớ ra cha mẹ A Mạch đều đã mất chỉ còn lại một mình nàng lẻ loi, sợ khiến nàng đau buồn, vội vàng ngắt lời: “Trước không nói chuyện đó vội, ngươi có muốn mua gì không? Hôm nay cứ chọn thoải mái, đại ca bỏ tiền.”



A Mạch sao lại không biết tâm ý của Đường Thiệu Nghĩa, chính nàng cũng không nguyện đắm chìm trong thương cảm, lập tức vỗ tay cười nói: “Đại ca rất hào phóng, nếu đã như vậy, ta nhất định phải kiếm chút tiền của huynh rồi, dù sao trong triều cũng vừa cấp bạc cho quân Giang Bắc chúng ta, đại ca lại được ban thưởng nhiều, khi sống không phân phát bớt thì chết cũng chẳng mang đi được.”



Đường Thiệu Nghĩa cười cười, chỉ nói: “Được, ngươi thích cái gì thì cứ chọn, đại ca đài thọ hết.”



Hai người vừa cười vừa nói đi vào tây thị, quả nhiên thấy sự phồn hoa ở đây nơi khác không thể so được, ngoại trừ trang phục, cháo, bánh, thuốc chữa bệnh là những nhu yếu phẩm hàng ngày, còn có rất nhiều cửa hàng bán đồ trang sức, kho hàng, tửu quán, hai người nhất thời đều hoa mắt, đi theo đám đông vừa đi vừa nhìn ngắm, không hề để ý đến thời gian.



Đường Thiệu Nghĩa trước khi tòng quân chỉ là một tiểu tử sinh ra lớn lên ở vùng nông thôn, sau khi tòng quân chỉ giữ một chức vụ nhỏ ở thành Hán Bảo, sau lại theo quân Giang Bắc di chuyển khắp các chiến trường, chưa từng đến một nơi phồn hoa nào như thế, nhất thời cũng không biết nên mua gì gửi về nhà, thấy cái gì mới mẻ cũng đều phải hỏi A Mạch một câu là có cần mua hay không, A Mạch khi thì lắc đầu khi thì gật đầu, chỉ huy Đường Thiệu Nghĩa mua đông mua tây, một lát sau hai người đã mua được rất nhiều thứ. Văn phòng tứ bảo cho Đường phụ, gấm vóc cho Đường mẫu, thậm chí ngay cả son phấn cho tiểu muội Đường gia, A Mạch cũng chọn giúp anh ta.



A Mạch từ năm mười lăm tuổi đã bắt đầu cải trang lưu lạc khắp nơi, về sau lại tòng quân, cuộc sống gắn với lưỡi đao dính máu, nhưng dù sao cũng là một thiếu nữ, cho dù tâm trí thâm trầm, tính tình giảo hoạt đến đâu thì tận sâu trong con người nàng vẫn không thể áp chế được thiên tính nữ nhi của mình, một khi đi dạo phố mua sắm, khó tránh khỏi sẽ lộ ra một chút phẩm chất của con gái, phía sau lại có người đi theo để trả tiền, chỉ hận không thể đem hết hàng hóa của các cửa hàng đó mua về hết.



Hai người đủng đỉnh đi, lúc tới cửa hàng trang sức, Đường Thiệu Nghĩa thấy đồ trang sức nơi này rất đa dạng, phát ra ánh kim lấp lánh, nhất thời hoa mắt, theo thói quen quay đầu hỏi A Mạch, A Mạch cúi đầu ngưng thần nhìn kỹ, chọn mấy món đồ được thợ thủ công chế tác tinh xảo đưa cho Đường Thiệu Nghĩa, dặn dò loại trang sức nào nên đưa cho người nào.



Vị chưởng quầy đứng bên cạnh liền lên tiếng tán thưởng nói: “Vị quân gia này thật tinh mắt.”



Đường Thiệu Nghĩa nhìn về phía A Mạch, trong ánh mắt càng hiện lên vẻ bội phục cùng tán thưởng, A Mạch đột nhiên nhớ lại thân phận hiện tại, liền cảm thấy có chút không được tự nhiên, lấy tay che miệng ho nhẹ hai tiếng, quay đầu lại nhìn hàng hóa bày trong quầy, tầm mắt khi nhìn đến một đôi hoa tai trong góc quầy thì chợt sững người lại. Đôi hoa tai này không phải đồ đẹp đẽ quý giá, chỉ dùng bạc và bảo thạch chế tạo thành, chẳng qua quý ở sự tinh xảo.



Trí nhớ A Mạch bỗng chốc như nước thủy triều ào ạt tràn về… Khi đó, nàng vẫn còn nhỏ, vô cùng thích một đôi khuyên tai, khó khăn lắm phụ thân mới mua về cho nàng một đôi, nhưng về nhà mẫu thân lại không đồng ý cho nàng xỏ lỗ tai, về sau cứ bị nàng cuốn lấy, đành phải hứa rằng đợi cho đến khi nàng mười lăm tuổi, đến tuổi cập kê thì sẽ cho nàng xỏ lỗ tai, về sau, khi cuối cùng tuổi cập kê của nàng cũng đến, thì nàng lại chẳng bao giờ có cơ hội để xỏ lỗ tai nữa, mà đôi khuyên tai kia chẳng biết cũng đã lưu lạc phương nào…



Đường Thiệu Nghĩa trả tiền xong, xoay người thấy A Mạch đang nhìn đôi khuyên tai đến ngẩn người, anh ta hết nhìn đôi khuyên tai lại nhìn A Mạch, thấy nàng vẫn chăm chú, tưởng rằng nàng thích nó, liền hỏi: “Ngươi muốn mua cái này sao?”



A Mạch chợt bừng tỉnh, liên tục lắc đầu: “Không, không cần, đi thôi.”



Nói xong, không chờ Đường Thiệu Nghĩa, một mình xoay người bước nhanh ra khỏi cửa hàng. Đường Thiệu Nghĩa thấy lạ, vội vàng mang theo hàng hóa bước nhanh đuổi theo A Mạch, đưa mắt nhìn sang thấy đôi mắt A Mạch có chút đỏ lên, dường như vừa mới khóc. Đường Thiệu Nghĩa bất giác trố mắt, anh ta quen A Mạch đã lâu, rất hiếm khi thấy nàng như vậy, giờ thấy dáng vẻ của nàng như thế này, bất chợt chân tay bỗng trở nên luống cuống, chỉ ngây ngốc nhìn.



A Mạch lấy tay che miệng hít một hơi thật sâu, nén nỗi thương cảm xuống, quay đầu nhìn Đường Thiệu Nghĩa cười nói: “Vừa rồi gió lớn quá làm cay mắt, không việc gì đâu, đại ca.”



Đường Thiệu Nghĩa mặc dù không phải người tinh tế, nhưng cũng không phải đồ ngốc, chẳng cần nghĩ nhiều cũng đoán được duyên cớ tất ở đôi khuyên tai kia, lập tức giữ chặt A Mạch, trầm giọng hỏi: “Có chuyện gì với đôi khuyên tai kia vậy?”



A Mạch cười cười, đáp: “Trước kia, mẫu thân ta… cũng có một đôi tương tự, nhất thời nhìn đến bất chợt lại nhớ lại, đại ca chớ cười ta.”



Đường Thiệu Nghĩa yên lặng xem A Mạch, ôn nhu nói: “Tiểu tử ngốc, ta có thể cười ngươi cái gì!”



A Mạch lại là nhếch miệng muốn cười, nhưng khóe môi hình như có ngàn cân níu lại, không sao cười nổi.



Đường Thiệu Nghĩa thấy dáng vẻ nàng như thế, liền dùng vai huých nàng một cái, cười nói: “Được rồi, đi tìm hiệu may giúp ta mua y phục, xong rồi ta mời ngươi uống rượu.”



A Mạch ngạc nhiên nói: “Đại ca ở trong quân lúc nào cũng mặc quân phục, mua y phục làm gì?”



Đường Thiệu Nghĩa trầm mặc, một lúc lâu sau mới nhẹ giọng nói: “A Mạch, hôm nay ta tìm ngươi chính là muốn nói việc này, ta muốn rời khỏi quân Giang Bắc.”



A Mạch ngẩn ra, lập tức cười cười, thấp giọng hỏi: “Đại ca không theo quân Giang Bắc vượt sông sao?”



Đường Thiệu Nghĩa lắc đầu, ánh mắt ánh lên vẻ kiên nghị, đáp: “Đại trượng phu sao có thể nhẫn nhục sống tạm bợ, ngồi xem đồng bào mình bị dị tộc giết hại, trong triều ký hòa ước vứt bỏ Giang Bắc không để ý đến dân chúng, ta cũng không thể tham chút quân công mà ngồi đợi ban lộc, ta sẽ ở lại Giang Bắc, chiêu tập những tráng sĩ có cùng chí khí phất cờ khởi nghĩa, tiêu diệt thát tử.”



A Mạch nghe xong trong lòng mừng rỡ, nhưng không để lộ ra trên mặt, chỉ nhìn phải nhìn trái, ghé sát tai Đường Thiệu Nghĩa cố ý hỏi: “Đại ca, không phải là huynh muốn… tạo phản đấy chứ?”



Đường Thiệu Nghĩa kinh ngạc nhìn A Mạch, lúc này mới nghiêm sắc mặt mà giáo huấn: “A Mạch, nhưng lời như thế này về sau ngàn vạn lần không được nhắc lại, đại trượng phu sống trong trời đất, tế thế an dân(3), trung quân đền nợ nước, mới xứng là đấng nam nhi. Ngươi và ta đều là người quân nhân thì phải vì nước, càng không thể này sinh dị tâm này.”



Trong lòng A Mạch không cho là đúng, nhưng ngoài miệng vẫn nói: “Đại ca nói phải, A Mạch chỉ là thuận miệng hỏi vậy thôi, đại ca sao lại cho là thật?”



Đường Thiệu Nghĩa nhìn A Mạch, thấy nàng cười hì hì, không biết phải nói cái gì nữa. A Mạch dắt anh ta tiếp tục thong thả đi về phía trước, trong lòng Đường Thiệu Nghĩa vẫn còn có điều muốn nói mà lại không biết nên mở miệng như thế nào, đợi đến khi đến trước hiệu may, A Mạch kéo anh ta đi chọn quần áo, anh ta cuối cùng không nhịn được liền hỏi: “A Mạch, về sau ngươi có dự tính gì không?”



A Mạch cười, tùy ý đáp: “Tiếp tục làm quan a.”



Đường Thiệu Nghĩa há miệng thở dốc, những lời còn chưa nói ra không sao thoát ra được khỏi miệng, do dự nửa ngày cuối cùng hóa thành trận cười thoải mái, mỗi người mỗi chí hướng, có thể đồng hành cùng nhau hai năm đã là duyên phận, như vậy cũng đủ rồi.



A Mạch liếc nhìn Đường Thiệu Nghĩa, cũng không nói tiếp chuyện quân vụ nữa, chỉ lôi kéo Đường Thiệu Nghĩa chọn lựa hiệu may, trong câu chuyện phiếm nàng như thể vô tình nhắc tới phía tây Thanh Châu có núi Vân Vụ, trên núi có sơn phỉ, nếu có thể thu phục được bọn họ, thật ra lại có thể hình thành nên một lực lượng chống lại thát tử. Đường Thiệu Nghĩa nghe xong im lặng không nói gì, khi từ trong phòng thử đồ đi ra lại đột nhiên nói: “Ta sẽ thử xem sao, biết đâu lại thành công.”



A Mạch chỉ cười không nói gì, rung đùi đắc ý nhìn trái nhìn phải Đường Thiệu Nghĩa cao thấp đánh giá một phen, cười nói: “Vừa vặn lắm.”



Đường Thiệu Nghĩa nghe xong không nói gì, yên lặng xoay người đi vào phòng thay lại quân phục.



Hai người mua quần áo xong thì đã đến buổi trưa, Đường Thiệu Nghĩa vốn đáp ứng mời A Mạch uống rượu, lập tức liền đưa nàng đi tìm tửu quán, cuối cùng cũng tìm được một quán rượu sạch sẽ, rộng rãi, thoáng mát, hai người lên lầu hai, ngồi ở bàn gần cửa sổ, những thứ đã mua được bày hết quá nửa bàn. A Mạch cảm thấy vô cùng thỏa mãn, Đường Thiệu Nghĩa cũng chỉ biết lắc đầu, chỉ than nhiều đồ thế này sao mang về nổi.



Lúc đang chờ đồ ăn, Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên đứng lên nói: “Hắn ta tính tiền không đúng!”



A Mạch ngẩn ra, quay đầu hỏi: “Ai?”



Đường Thiệu Nghĩa nghĩ nghĩ, đáp: “Chính là chưởng quầy tiệm bán đồ trang sức, hắn ta tính nhiều hơn số tiền chúng ta phải trả rồi.”



A Mạch không khỏi nhíu mày, lúc đó mua nhiều thứ quá, nàng cũng không để ý, hiện nghe Đường Thiệu Nghĩa nói vậy, liền lấy hết đồ trang sức đã mua bày lên trên bàn, nói: “Để ta tính lại xem hết bao nhiêu.”



Đường Thiệu Nghĩa ngăn nàng lại, nói: “Ngươi không cần phải tính đâu, nhất định là sai rồi, ngươi ở đây chờ ta, ta đi rồi sẽ quay trở lại.” Nói xong không đợi A Mạch trả lời liền huỳnh huỵch đi xuống lầu, A Mạch ở phía sau kêu lên: “Đừng khách khí với hắn ta, nhớ đùa giỡn ngoan độc một chút.”



Đường Thiệu Nghĩa lên tiếng “Được”, người cũng là xuống đến dưới lầu.



A Mạch một mình ngồi đợi trong quán, Đường Thiệu Nghĩa lâu không trở lại, A Mạch cảm thấy buồn chán liền nhìn ra ngoài cửa sổ, chợt thấy trong đám đông nhốn nháo trên đường có một người đang đi tới, dáng cao to, khuôn mặt anh tuấn, một thân áo chẽn, lưng rộng vai thẳng, nhìn thật chói mắt giữa đám đông. A Mạch khẽ giật mình,  cân nhắc một lát rồi đứng dậy, bước nhanh xuống dưới lầu, vừa vặn chặn được người nọ trước cửa tửu quán.



————————

Chú thích:

1-    Tây thị: khu chợ phía Tây

2-     Kim thị: chợ Vàng

3-    Tế thế an dân: giúp đời giúp dân, hay có thể hiểu là giúp dân giúp nước.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

110#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2012 12:11:18 | Chỉ xem của tác giả
Chương 101

SÁT KHÍ




Người nọ khẽ giật mình, A Mạch đã đưa tay ra trước mặt anh ta nói: “Lấy ra đây.”



Thường Ngọc Thanh yên lặng nhìn A Mạch rồi xoay người bước đi. Trong lòng A Mạch thấy lạ, liền bước nhanh hai bước chặn Thường Ngọc Thanh lại, nói: “Ta đã giữ lời thả ngươi rồi, ngươi phải đem chủy thủ trả lại cho ta.”



Thường Ngọc Thanh lạnh lùng nhìn A Mạch, chỉ thấy nàng một thân quân phục Nam Hạ cao gầy, mày cao mắt sáng, anh khí hiển hiện, hai má so với lần gặp trước đầy lên không ít, hiển nhiên hai tháng vừa rồi đã đầy đặn lên nhiều. Không biết vì sao trong lòng anh ta đột nhiên lại dâng lên một cảm giác buồn bã, nhưng trên mặt lại nở nụ cười, hỏi: “Chủy thủ nào? Ngươi giữ lời hứa gì với ta?”



Lời này vừa nói ra, A Mạch không khỏi giật mình, lập tức nhíu mày, lạnh giọng hỏi: “Ngươi có ý gì?”



Thường Ngọc Thanh thoải mái cười, hỏi lại: “Mạch tướng quân, ngươi cũng có ý gì?”



A Mạch chưa từng nghĩ rằng Thường Ngọc Thanh sẽ vô lại như thế, nhất thời cũng không biết phải phản ứng như thế nào, chỉ gay gắt nhìn Thường Ngọc Thanh chằm chằm, môi mím chặt, im lặng không nói.



Thường Ngọc Thanh cũng nhìn nàng một lúc lâu, khẽ mỉm cười rồi bước qua A Mạch. A Mạch đâu thể để anh ta cứ thế mà rời đi như vậy, song lại sợ giữa phố xá sầm uất, nếu để người khác nhận ra thân phận của hai người tất rước lấy phiền toái lớn, vì vậy khi thấy Thường Ngọc Thanh bỏ đi cũng không dám tiếp tục ngăn cản, chỉ len lén đi theo phía sau, đến khi Thường Ngọc Thanh đi vào một ngõ nhỏ vắng lặng, lúc này A Mạch mới dám lên tiếng gọi anh ta, nhưng cũng không dám kêu tên mà chỉ gọi: “Ngươi đứng lại!”



Thường Ngọc Thanh tất nhiên biết A Mạch luôn luôn đi theo sau mình, nghe nàng quát lớn như vậy cũng không chịu dừng lại, mà lại càng bước nhanh hơn. A Mạch thấy anh ta như thế, cũng chạy theo, vội vàng nắm lấy bả vai của Thường Ngọc Thanh.



Thường Ngọc Thanh dừng lại, nghiêng đầu liếc mắt nhìn bàn tay nàng đang đặt trên vai mình, nhếch miệng mỉm cười, quay đầu hỏi A Mạch: “Ngươi muốn động thủ với ta?”



Tất nhiên A Mạch biết nàng không phải là đối thủ của Thường Ngọc Thanh, nhưng giờ phút này lại không nghĩ nhiều như vậy, chỉ tức giận nói: “Đó là di vật của cha ta, ngươi phải trả lại cho ta!”



Thường Ngọc Thanh quay người lại, cười hỏi: “À, là vật mà ngươi từng sử dụng khi ở Thúy Sơn phải không?”



A Mạch không biết Thường Ngọc Thanh vì sao lại diễn trò như thế, liền buông tay ra, nhíu mày nhìn anh ta.



Thường Ngọc Thanh nheo mắt, cười nói với A Mạch: “Ta nhớ khi ấy ngươi từng nói rằng thanh chủy thủ đó đối với ngươi rất quan trọng, trừ phi ngươi chết đi thì mới để cho người khác lấy nó từ trên người của ngươi. Hiện tại ta thấy Mạch tướng quân đang rất khỏe mạnh, thanh chủy thủ kia sao lại để cho người khác cầm đi vậy? Không biết lời Mạch tướng quân nói câu nào mới là thật, câu nào là giả đây?”



Trong lòng A Mạch kỳ thật đã tức giận đến cực điểm, nhưng vẫn cố gắng kiềm chế lửa giận hỏi Thường Ngọc Thanh: “Ngươi rốt cuộc muốn thế nào?”



Thường Ngọc Thanh nhìn A Mạch, chỉ cười lắc lắc đầu, đáp: “Không muốn thế nào cả, chỉ muốn nói Mạch tướng quân tìm ta đòi chủy thủ chính là tìm sai người rồi, ta chẳng có chủy thủ hay di vật gì của lệnh tôn hết.”



Trong mắt A Mạch dường như đã có thể phun ra lửa, ngữ khí lại càng thêm lạnh lẽo, chỉ nói: “Ta không muốn nói những lời vô nghĩa với ngươi, ngươi trả chủy thủ cho ta, ta thả ngươi rời đi.”



Thường Ngọc Thanh cũng lạnh lùng cười nhạo một tiếng hỏi: “Mạch Tuệ, ngươi dựa vào cái gì mà nói như vậy? Ngươi cho là chỉ bằng bản lĩnh của ngươi, là có thể giữ được ta lại hay sao? Hay là…” Thường Ngọc Thanh ngừng lại, cố ý ái muội ghé sát vào tai A Mạch thấp giọng chế giễu: “Ngươi cho là chỉ cần ta nói có ý với ngươi, thì sẽ lao thẳng đến ôm ngươi vào lòng, không dám làm tổn thương ngươi?”



Lời còn chưa dứt, A Mạch đã nghiến răng rút đao chém Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh nghiêng người tránh khỏi, còn chưa kịp rút loan đao bên hông ra thì lưỡi đao của A Mạch đã lại lao tới, Thường Ngọc Thanh hừ lạnh một tiếng, không buồn rút đao, chỉ nghiêng phải nghiêng trái tránh né đao của A Mạch.



Bộ đao pháp này của A Mạch là do Trương Sinh truyền thụ, thân thể và đao hòa quyện làm một, đao chuyển động theo người, biến hóa đa dạng, chính là một bộ đao pháp tấn công liên hoàn. A Mạch lại luyện đến mức thành thục, thanh đao trong tay càng đánh càng nhanh hơn, chiêu trước chiêu sau đều nhằm vào những chỗ yếu hại trên người Thường Ngọc Thanh.



Thường Ngọc Thanh không ngờ đao pháp của A Mạch lại thuần thục đến thế, anh ta vốn đã mất tiên cơ, sau lại ỷ mạnh không chịu rút đao, chỉ lùi về phía sau tránh né nên không khỏi rơi vào tình thế thập phần nguy hiểm. Lúc này anh ta không thể không rút loan đao ra, nhưng A Mạch đâu để cho anh ta có cơ hội, một đao đã bức anh ta đến sát tường, ngay sau đó đã kề đao sát vào cổ anh ta.



A Mạch lạnh giọng quát: “Đưa chủy thủ cho ta!”



Thường Ngọc Thanh cúi đầu yên lặng nhìn thanh trường đao một lúc lâu, chợt nở nụ cười, ngẩng đầu nói với A Mạch: “Chủy thủ không ở trên người ta.”



A Mạch ép hỏi: “Ở đâu?”



Thường Ngọc Thanh cười nói: “Hình dáng thanh chủy thủ kia của ngươi rất khác lạ, Thôi Diễn thấy thích, nói là muốn đem đi phỏng chế một chiếc khác, ta liền cho hắn ta mượn rồi.”



A Mạch ngẩn ra, lại hỏi: “Thôi Diễn hiện giờ ở đâu?”



Thường Ngọc Thanh sảng khoái đáp: “Vẫn đang ở chỗ thợ rèn, anh ta hẹn ta đến đó lấy chủy thủ, chưa thấy ta đến chắc chắn sẽ chưa rời đi.”



A Mạch nhìn Thường Ngọc Thanh chằm chằm, trầm mặc không nói, trong lòng thầm nghĩ không biết lời anh ta nói là thật hay giả.



Thường Ngọc Thanh nhìn vào mắt A Mạch, thấy ánh mắt nàng hắc bạch phân minh, thuần khiết linh động, trong lòng đột nhiên mềm nhũn, nhịn không được nói: “Ngươi có tin ta không? Nếu như ngươi tin ta, ngươi liền về trước đi, ta sẽ cho người đem chủy thủ đến trả cho ngươi.”



A Mạch cười lạnh một tiếng, nói vặn lại: “Không ngờ những lời lừa gạt trẻ con như thế mà Thường tướng quân cũng nói ra được.”



Thường Ngọc Thanh khẽ cười, nhắm mắt dựa vào bức tường sau lưng, thản nhiên nói: “Ngươi đã không chịu tin, vậy thì ngươi nói phải làm sao bây giờ.”



Trong lòng A Mạch nhất thời cũng thấy khó xử, nếu đợi Thường Ngọc Thanh tự mình đem chủy thủ đến trả thì nàng tất nhiên không thể yên tâm, mà nếu cứ như vậy đi theo Thường Ngọc Thanh tìm Thôi Diễn, để người khác nhìn thấy lại gây nên chuyện đa đoan. A Mạch trầm ngâm một lát, nói: “Giờ ngươi kêu Thôi Diễn đem chủy thủ đến đây trả cho ta.”



Thường Ngọc Thanh mở mắt ra, sảng khoái đáp: “Được!”



A Mạch nghe anh ta trả lời sảng khoái như thế, trong lòng ngược lại có chút sinh nghi, ngưng thần nhìn Thường Ngọc Thanh. Thường Ngọc Thanh thận trọng đưa mắt liếc nhìn thanh đao vẫn đặt trên cổ mình, lại giương mắt nhìn A Mạch, nói: “Ngươi thu đao lại thì ta mới thuận tiện đi đến đó được.”



A Mạch không nói, ngược lại, bàn tay lại nắm càng chặt đao hơn.



Thường Ngọc Thanh cười nhạo nói: “Mạch Tuệ, nếu ta muốn đi, ngươi chỉ trông vào một thanh đao sẽ không ngăn được ta đâu.”



A Mạch biết anh ta nói thật, anh ta thành danh đã lâu, chút công phu ấy của nàng trong mắt anh ta chẳng qua cũng chỉ nhìn cho đẹp mắt, vừa rồi nếu không phải anh ta sơ ý, có lẽ cũng không khống chế được anh ta. Nghĩ vậy, A Mạch liền thu đao lại, hỏi Thường Ngọc Thanh: “Ta gọi người truyền tin cho Thôi Diễn, anh ta hiện giờ đang chờ ngươi ở xưởng rèn nào?”



Thường Ngọc Thanh đáp: “Là xưởng rèn tốt nhất ở đây, hình như gọi là Nghiêm Ký thì phải.”



A Mạch vẫn nhìn vào mắt anh ta, thấy anh ta không có vẻ như nói dối, liền nói “Thật có lỗi”, rồi thanh trường đao trong tay lật lên, cắt một góc áo bào của anh ta, sau đó để Thường Ngọc Thanh một mình đứng trong ngõ nhỏ, rồi tự mình ra ngoài tìm một đứa bé đang chơi bên đường, cho nó vài món đồ chơi(1), rồi kêu đứa nhỏ mang theo góc áo đến xưởng rèn tìm một nam tử trên cổ có thắt một chiếc khăn đen, nói với anh ta chủ nhân của góc áo này đang chờ anh ta ở đây. Đứa trẻ kia thấy chỉ cần cầm góc áo chạy đi một lát liền có đồ chơi, liền vui vẻ nhận lời chạy đi.



A Mạch xoay người trở lại con hẻm nhỏ, Thường Ngọc Thanh vẫn yên lặng đứng dựa lưng vào góc tường, nghe thấy tiếng bước chân của nàng liền quay đầu nhìn lại, hỏi: “A Mạch, vì sao ngươi phải bán mạng cho Nam Hạ như thế?”



A Mạch đứng bên cạnh anh ta, khẽ mím môi, trầm mặc một lát rồi mới đáp: “Vì ta bắt buộc phải làm thế!”



Thường Ngọc Thanh chỉ cười, cũng không hỏi A Mạch vì sao lại bắt buộc phải làm thế, chỉ dựa lại vào tường không nói.



Xưởng rèn kia ở cách đây không xa, một lúc sau liền nghe thấy có tiếng bước chân dồn dập chạy đến, A Mạch lập tức cảnh tỉnh, cũng không nói gì, chỉ nhẹ nhàng đưa đao đặt lại trên vai Thường Ngọc Thanh, giương mắt nhìn về phía người đang chạy tới.



Người mới tới đúng là Thôi Diễn, tuy mặc một thân thường phục, nhưng trên cổ vẫn buộc một chiếc khăn đen, che vết sẹo trên đó lại. Lúc này anh ta nhìn thấy A Mạch thì vô cùng sửng sốt, đảo mắt lại nhìn thấy A Mạch đang kề đao lên cổ Thường Ngọc Thanh, trong mắt liền hiện rõ sự hoảng hốt, nhìn Thường Ngọc Thanh kêu lên: “Đại ca!”



A Mạch ép đao xuống, nhìn Thôi Diễn hỏii: “Chủy thủ đâu?”



Trên mặt Thôi Diễn hiện ra một tia khó hiểu, há miệng đang định hỏi chủy thủ nào thì Thường Ngọc Thanh lại đột nhiên lên tiếng: “Chính là thanh chủy thù mà ngày ấy ở Nhạn Sơn ngươi đã từng nhìn thấy đấy, ngươi còn không đem trả lại cho Mạch tướng quân đi.”



Ngày ấy trên Nhạn Sơn, đúng là Thôi Diễn đã từng thấy Thường Ngọc Thanh cầm thanh chủy thủ trong tay, chẳng qua là anh ta cũng tận mắt thấy Thường Ngọc Thanh ném thanh chủy thủ kia vào trong núi, hiện giờ sao lại hướng về phía mình để đòi? Thôi Diễn mặc dù là kẻ lỗ mãng nhưng cũng không phải là đồ ngốc, giờ nghe Thường Ngọc Thanh nói như vậy liền thuận miệng đáp: “Để ta trả lại cho nàng ta.” Nói xong đưa tay vào ngực lấy ra một vật gì đó nhanh chóng ném về phía A Mạch, trong miệng kêu lên: “Nhận lấy này!”



Vật nọ bay vèo đến trước mặt A Mạch, A Mạch theo bản năng đưa tay tiếp lấy, đúng lúc phân tâm đó thì Thôi Diễn lao nhanh về phía trước, loan đao trong tay đồng thời cũng chém tới. A Mạch rùng mình, vội vàng vung đao lên đỡ, hai lưỡi đao chạm vào nhau phát ra một tiếng “keng” chát chúa, tia lửa theo đó bắn ra, A Mạch phải lui lại phía sau mấy bước mới đứng vững được, chỉ cảm thấy cổ tay chấn động đến nỗi run lên, suýt nữa thì đánh rơi cả trường đao.



Chỉ một chiêu đó, Thôi Diễn đã cứu được Thường Ngọc Thanh từ dưới lưỡi đao của A Mạch thoát ra. A Mạch cũng không phản kích, chỉ liếc nhanh vật mà Thôi Diễn vừa ném cho mình, thấy đó không phải là thanh chủy thủ của mình, lập tức lạnh giọng hỏi Thường Ngọc Thanh: “Chủy thủ của ta đâu?”



Thường Ngọc Thanh cụp mắt xuống không đáp, Thôi Diễn lại khàn khàn nói: “Ngươi làm như vật đó của ngươi đó bảo bối không bằng nên người khác lúc nào cũng phải mang theo bên người chắc, ta nói cho ngươi biết, đại ca đã ném nó lâu rồi!”



A Mạch không để ý tới lời lẽ kích bác của Thôi Diễn, chỉ trừng trừng nhìn thẳng vào Thường Ngọc Thanh, truy vấn tiếp: “Chủy thủ của ta đâu?”



Thường Ngọc Thanh cuối cùng cũng ngước mắt lên nhìn A Mạch, không nhanh không chậm đáp: “Ném rồi.”



Trên khuôn mặt của A Mạch vẫn giữ vẻ bình tĩnh, nhưng chuôi đao trong tay đã bị nắm chặt đến phát run, lạnh giọng hỏi: “Ném chỗ nào?”



Thường Ngọc Thanh khóe môi khẽ nhếch lên, hiện ra một nét cười khinh mạn: “Trên núi Nhạn Sơn.”



A Mạch yên lặng nhìn Thường Ngọc Thanh một lát, ánh mắt lạnh lẽo như băng, trên mặt cũng chậm rãi mỉm cười.



Thôi Diễn ở một bên thấy hai người bọn họ bỗng dưng nhìn nhau mỉm cười, không khỏi ngẩn ra, trong lòng càng sợ Thường Ngọc Thanh lại bị A Mạch mê hoặc, vội vàng hướng về phía A Mạch kêu lên: “Ít nói nhảm thôi, để lại mạng cho ta!” Nói xong loan đao trong tay liền vung lên, lao thẳng về phía A Mạch.



Thôi Diễn trời sinh thần lực, nên A Mạch không dám cùng anh ta trực tiếp đối kháng, trường đao trong tay hoặc đâm hoặc gạt, chứ không dám đón đỡ trực diện, chỉ trông vào sự linh hoạt của bản thân để tránh, chân cũng không lộ dấu vết lẳng lặng lùi về phía sau. Con hẻm nhỏ vắng vẻ này chính là phía sau của một cửa tiệm, ít người qua lại, nhưng hai đường vào ngõ đều hướng ra đầu phố, chỉ cần lui ra đến chỗ đông người qua lại trên đường thì Thôi Diễn không thể tiếp tục giao chiến với nàng được nữa.



Thôi Diễn thấy A Mạch chỉ thủ chứ không công, cũng đoán được vài phần tính toán trong lòng nàng, làm sao có thể thả cho nàng đi như vậy, vậy nên lại càng ra chiêu nhanh hơn, đao trước đao sau nối tiếp nhau bổ tới, tất cả đều hướng vào những chỗ yếu hại trên ngườu A Mạch, lộ rõ ý định nhất quyết muốn lấy bằng được tính mạng của nàng.



A Mạch vài lần rơi vào tình thế cực kỳ nguy hiểm, trong lòng thầm nói xong rồi, mình đúng là nhất thời ngu xuẩn nên mới phải chết như thế này, khóe mắt lại thoáng thấy Thường Ngọc Thanh chỉ một mực yên lặng đứng dựa lưng vào tường, trong lòng đột nhiên vừa động, một bên tiếp tục duy trì sự chống đỡ với Thôi Diễn, một bên hướng về phía Thường Ngọc Thanh hô lớn: “Thường Ngọc Thanh, nếu ngươi muốn giết ta thì tự mình ra tay đi, sao phải mượn tay người khác!”



Thường Ngọc Thanh vẫn như trước không hề phản ứng, A Mạch ngửa người né một đao của Thôi Diễn, lưỡi đao đưa ngược ra sau lưng, nhân đó xoay ngược người lại, lao thẳng về phía Thường Ngọc Thanh. Nếu như nhất định phải chết, vậy thì liều mạng đánh bạc một phen mà dắt nhau cùng xuống tuyền đài đi!



Thôi Diễn vốn định giải quyết A Mạch chỉ trong vài chiêu, không ngờ đao pháp của A Mạch lại thuần thục đến thế, hơn nữa thân hình nàng lại vô cùng linh hoạt, trong chốc lát đúng là không thể khống chế được nàng, lại thấy A Mạch tránh về phía Thường Ngọc Thanh, trong lòng càng gấp, vội vàng vung đao nhằm thẳng vào yết hầu của A Mạch, nhưng đao mới tới nửa đường, thì A Mạch đã đã đưa tay nắm được cánh tay của Thường Ngọc Thanh, kéo anh ta lên trước thành vật cản. Loan đao của Thôi Diễn vừa xuất ra, vội vàng thu lại, trong lúc cấp bách thiếu chút nữa thì tự làm mình bị thương, đang phồng mồm định mắng A Mạch là đồ vô sỉ, chợt thấy A Mạch biến sắc, nhoáng một cái, cả người lẫn đao không ngờ lại lao về phía anh ta.



Thôi Diễn nhất thời sợ A Mạch dùng kế, theo bản năng lắc mình tránh đi, thân hình A Mạch lao thẳng đến vách tường mới ngừng lại được, khi quay lại, một tay cầm đao che ở trước người, tay khác giữ chặt bên xườn, mím chặt môi yên lặng nhìn Thường Ngọc Thanh.



Không biết thanh loan đao trong tay Thường Ngọc Thanh xuất hiện từ khi nào, trên lưỡi dao dính máu, cùng với máu trên vết thương của A Mạch tí tách nhỏ xuống  đỏ tươi.



Máu từ trong vết thương của A Mạch chảy ra, rơi trên mặt đất, rất nhanh đọng thành một vũng nhỏ.



———————-



Chú thích:



1- Nguyên văn là “đẩu tử”, mẹ Cún đã tra từ điển nhưng vẫn không hiểu từ này nghĩa là gì, đoán là một loại bánh kẹo hoặc đồ chơi gì đó mà A Mạch hứa cho đứa trẻ nếu nó mang giúp mảnh áo bào của Thường Ngọc Thanh đi tìm và đưa cho Thôi Diễn. Nếu bạn nào biết từ này nghĩa là gì thì comment góp ý cho mẹ Cún nhé.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách