Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Tác giả: love_milk_tea9
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

Lịch sử Việt Nam

 Đóng [Lấy địa chỉ]
191#
Đăng lúc 14-8-2013 13:41:56 | Chỉ xem của tác giả
Đặng Xuân Khu (Trường Chinh)


Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) (tên thật: Đặng Xuân Khu; 1907 - 88)
Trường Chinh (tên thật: Đặng Xuân Khu; 1907 - 88), nhà hoạt động xuất sắc của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, nhà lí luận, nhà báo lớn Việt Nam. Quê: làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Học Trường Cao đẳng Thương mại Hà Nội. Tham gia đấu tranh đòi thực dân Pháp ân xá Phan Bội Châu (1925), lãnh đạo bãi khoá truy điệu Phan Châu Trinh (1926). Gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1927). Vận động thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng (1929), uỷ viên Ban Tuyên truyền Cổ động Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (1930). Bị thực dân Pháp bắt, kết án 12 năm tù cầm cố, đày đi Sơn La (1930). Được trả tự do, về hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp ở Hà Nội (1936 - 39). Uỷ viên Xứ uỷ Bắc Kỳ, phụ trách tuyên truyền, báo chí, chủ bút báo "Giải phóng" (1940). Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, bí thư lâm thời của Đảng (11.1940). Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương (5.1941), trưởng ban Tuyên huấn, chủ bút báo "Cờ giải phóng" và "Tạp chí cộng sản". Năm 1943, bị thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt. Chủ trì Hội nghị thường vụ Trung ương (mở rộng), ra Chỉ thị "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" (3.1945). Dự Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào, phụ trách Uỷ ban Khởi nghĩa Toàn quốc. Uỷ viên Uỷ ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam (8.1945). Uỷ viên Bộ Chính trị các khoá II - V. Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2.1951 - 10.1956 và 7.1986 - 12.1986). Phó thủ tướng Chính phủ kiêm chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Nhà nước (1958). Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (1960 - 81). Giám đốc Trường Nguyễn Ái Quốc (1961 - 66). Trưởng ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng, trưởng ban Lí luận của Trung ương, chủ tịch Uỷ ban Dự thảo Hiến pháp của Quốc hội (1976). Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Hội đồng Quốc phòng nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1981 - 87). Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, phó trưởng ban Soạn thảo Cương lĩnh và Chiến lược Kinh tế kiêm trưởng ban Soạn thảo Cương lĩnh của Đảng (12.1986 - 8.1988). Đại biểu Quốc hội các khoá II - VII.

Các tác phẩm chủ yếu: "Đề cương văn hoá Việt Nam", "Cách mạng tháng Tám", "Kháng chiến nhất định thắng lợi", "Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam", "Bàn về cách mạng Việt Nam", "Thực hiện cải cách ruộng đất", "Phương châm chiến lược của Đảng ta", "Nắm vững mối quan hệ giữa chiến tranh và cách mạng ở Việt Nam để hoàn thành sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước", "Cách mạng dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa", vv. Huân chương Sao vàng và nhiều huân chương cao quý khác.

Cuộc đời hoạt động của Trường Chinh gắn liền với quá trình cách mạng Việt Nam từ những năm 20 đến những năm 80 thế kỉ 20. Trường Chinh là một trong những người lãnh đạo xuất sắc, mẫu mực, góp phần rất quan trọng vào sự lãnh đạo của Đảng, đưa cách mạng đến thắng lợi.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... id=32&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

192#
Đăng lúc 14-8-2013 13:45:48 | Chỉ xem của tác giả
Đặng Xuân Thiều (1909-1965)


Sinh ở làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, Nam Định, con một chiến sĩ phong trào Văn thân. Mất năm 1965 tại Hà Nội. Dù không sinh ra trên đất Hải Phòng nhưng Đặng Xuân Thiều đã dành cả một đời trai trẻ, nhiệt huyết để sống chiến đấu, tổ chức và xây dựng cách mạng Hải Phòng những năm ba mươi nửa đầu thế kỷ. Trong sự nghiệp cách mạng của mình người chiến sĩ ấy đồng thời cũng là một thi sĩ.

Ông đã đi vào phong trào vô sản hóa để vận động công nhân giác ngộ trong hãng đóng tàu Sôva, nhà máy Quảng Sinh Long, nhà máy Carông, hãng buôn Sáp-phăng-giông. Ngày 28/7/1929, Hội nghị đại biểu Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ họp lần thứ I tại Hà Nội, ông là một trong 3 đại biểu của Công hội đỏ Hải Phòng dự họp. Ông cũng là người từng viết cho báo Đồng lòng, Tranh đấu và các tờ báo của công đoàn và Đảng bộ Hải Phòng lưu hành bí mật thời đó. Năm 1978, Nhà xuất bản Văn học đã cho ra mắt tập thơ Đặng Xuân Thiều gồm 68 bài, trong đó có 65 bài viết trước cách mạng. Trong Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 35 của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, thơ ông được tuyển chọn 29 bài, trong đó hơn một nửa Đặng Xuân Thiều viết ở Hải Phòng những năm 1928-1945.

Thơ Đặng Xuân Thiều trước hết là thơ của người thanh niên yêu nước giác ngộ về sứ mệnh cao cả của giai cấp công nhân trước vận mệnh của dân tộc và sự nghiệp cách mạng xã hội. Hàng loạt các bài thơ như: Trả lời cha, Người thợ, Sốt ruột, Thất nghiệp, Xóm Lạc Viên, Thăm xóm chài ở Đồ Sơn, Bãi công ở Hải Phòng, Vô sản diễn ca... Ông viết trong thời gian đi vô sản hóa ở Hải Phòng. Và ông đã viết 'Vô sản diễn ca' (dài 400 câu) để truyền bá tư tưởng Lênin và kêu gọi cách mạng vô sản, đã được lưu truyền suốt Trung - Nam - Bắc. Giữa năm 1930, địch điên cuồng đánh phá các cơ sở cách mạng ở Hải Phòng; gần nửa số đảng viên và nhiều quần chúng cách mạng bị bắt. Nhà lao Hải Phòng giam đến gần 100 tù chính trị. Trước tình hình ấy, tháng 9/1930 Tỉnh ủy lập Ủy ban tranh đấu gồm 5 ủy viên do Tỉnh ủy viên Đặng Xuân Thiều phụ trách. Theo chủ trương của Tỉnh ủy, ủy ban đã tổ chức rải truyền đơn khắp thành phố trong ngày 5 và 7/9/1930 kêu gọi nhân dân biểu tình, chống khủng bố, bắt bớ. Ngày 7/9/1930 thực sự là ngày biểu dương lực lượng, là đỉnh cao của phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân, học sinh và các giới lao động khác ở Hải Phòng trong năm 1930 dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Năm 1931 Đặng Xuân Thiều bị đầy ra Côn Đảo. Năm 1936 ông được tha về, tiếp tục hoạt động. Cuối năm 1939 lại bị bắt kết án tù chung thân, lần lượt bị giam ở Hỏa Lò, Bắc Mê, Nghĩa Lộ, Bá Vân. Ở trong các nhà tù ông tham gia các hoạt động chống chế độ hà khắc, tổ chức huấn luyện, làm thơ ca theo chủ trương của chi ủy nhà tù. Sau khởi nghĩa, trong kháng chiến chống Pháp, ông công tác trong ngành tư tưởng, văn hóa. Sau hòa bình chuyển về Bộ Văn hóa, rồi làm Giám đốc Bảo tàng cách mạng Việt Nam.

Đặng Xuân Thiều có mảng thơ viết trong nhà tù đế quốc (17 bài). Ông bị địch bắt đi bắt lại và vượt ngục nhiều lần. Những bài như: Bất chợt, Đêm ngục, Nghiêm Thượng Biền, Vè tướng chuột... được viết trong nhà giam của Sở mật thám và nhà tù Hải Phòng. Bài thơ trữ tình 'Hỡi cô đồng chí nhỏ' của ông dài hơn 100 câu phảng phất như 'Tỳ bà hành' lời thơ xúc động, mượt mà... miêu tả một cô gái Hải Phòng mồ côi được ông giác ngộ trở thành người cộng sản. Ngoài ra, ông còn có mảng thơ viết giữa những đợt đi tù về. Mảng thơ này (33 bài) gồm những bài đặc sắc về nghệ thuật như: Cố hương, Chiều Bạch Đằng, Tổ quốc khúc hát Bạch Đằng, Em gái mù, Ngẫm nghĩ, Tiễn đưa... Ngay tên của những bài thơ này đã gợi ít nhiều về một hiện thực Hải Phòng trước cách mạng. Đọc thơ Xuân Thiều ta có cảm tưởng không chỉ là hứng thú chính trị, hứng thú tranh đấu, mà còn thực sự hứng thú thẩm mỹ, hứng thú sáng tạo chi phối ngôn từ.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... id=24&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

193#
Đăng lúc 14-8-2013 13:48:16 | Chỉ xem của tác giả
Đào Duy Từ (Nhâm Thân 1572 – Giáp Tuất 1634)


Danh thần thời chúa Nguyễn lập nghiệp mở mang bờ cõi về phía Nam, quê làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phường Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.

Ông thông kinh sử, tinh thâm lí số và binh thư đồ trận. Nhưng vì thân phụ ông là Đào Tá Hán xuất thân là quản giáp trong nghề ca hát mà luật lệ thì nghiêm cấm không cho con nhà xướng ca ra thi cử, nên ông không tiến thân được. Bất đắc chí ông bỏ Đông Kinh (Hà Nội) lần vào miền Nam, định theo phò chúa Nguyễn.

Trong lúc bơ vơ nơi phủ Hoài Nhơn (nay là phủ Bồng Sơn) tỉnh Bình Định, ông tạm khuất thân ở ẩn, chăn trâu cho nhà giàu Chúc Trịnh Long ở thôn Tòng Châu.

Tăm tiếng ông dần dần được sĩ phu biết đến, Khán lí Trần Đức Hòa ở Qui nhơn mến tài, gả con gái cho ông và tiến cử lên chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên.

Được chúa Sãi trọng dụng phong là Nội tán, ông tận tụy giúp chúa Nguyễn về quân sự, chính trị và văn hóa, đương đầu với chúa Trịnh đến thắng lợi.

Năm Canh Ngọ 1630, ông xướng xuất việc đắp lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình.

Qua năm sau (Tân vị 1631), ông lại đắp thêm một lũy nữa từ cửa bể Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu (ở Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình), cao một trượng, dài hơn 200 trượng (tục gọi là lũy Thầy. Đến đời Thiệu Trị mang tên là "Định Bắc trường thành")

Năm Giáp Tuất 1634, ngày 17-10 ông mất thọ 62 tuổi, được phong tặng hàm Tán trị dực vận công thần, Kim tử vinh lộc đại phu, Đại lí tự khanh, tước Lộc Khê Hầu. Đến triều Minh Mạng, truy phong tước Hoằng Quốc Công.

Đào Duy Từ còn để lại một bộ binh thư: Hổ trướng khu cơ và hai khúc ngâm: Ngọa Long cương văn, Tư Dung văn.

Người sau khen ngợi ông:

Kim Thành thiết lũy sơn hà tráng

Nghĩa sĩ trung thần sự nghiệp lưu.

Dịch:

Thành đồng lũy sắt non sông vững

Tớ nghĩa tôi trung sự nghiệp còn.

Và:

Bốt tàm danh sĩ hi Gia Cát

Dịch:

Lộc Khê sánh được tài Gia Cát /

Tùng Thiện Vương ca ngợi:

Nhất tự hải sơn Sư lũy tráng,

Lộc Khê di liệt đáo, kim trường.

Dịch

Từ có lũy Thầy non bể vững

Lộc Khê công nghiệp để lâu dài.

Khúc ngâm Ngọa long cương dài 136 câu lục bát, từ lâu nay đã được phổ biến rộng trong lịch sử văn học.

Ông là một trong những danh sĩ nổi tiếng nhất của nước ta vào thời cận đại.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... d=415&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

194#
Đăng lúc 14-8-2013 13:50:39 | Chỉ xem của tác giả
Đinh Bộ Lĩnh (Ất Dậu 925 – Kĩ Mão 979)


tổ nhà Đinh, ông vốn họ Đinh, tên Hoàng, Bộ Lĩnh là tước quan của sứ quân Trần Lâm phong cho, quê ở động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình), con quan Thứ sử Châu Hoan (Nghệ An) về đời Dương Diên Nghệ là Đinh Công Trứ.

Cha mất sớm, ông theo mẹ là Đàm thị về quê, nương thân với chú ruột là Đinh Dự, ở chăn trâu. Thường nhóm họp bạn bè lấy lau làm cờ, lập trận đánh nhau, ông tỏ ra có tài chỉ huy. Kết bạn rất thân với Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ và Trịnh Tú. Bị người chú ghét đuổi đi, ông sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Lâm ở Bố hải Khẩu. Ít lâu, được Trần Lâm mến tài gả con cho, ông càng vững bước trên đường sự nghiệp. Không bao lâu, Trần Lâm mất, ông đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt, hùng cứ một phương, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.

Năm Ất Sửu 965 Nam Tấn vương Xương Văn mất, con là Xương Xí nối nghiệp, quá suy yếu phải về đóng giữ đất Bình Kiều (thuộc Hưng Yên). Ông thừa thế hưng binh đánh lớn, chỉ trong một năm dẹp yên được các sứ quân. Được xưng tụng là Vạn Thắng vương. Năm Mậu Thìn 968 ông lên ngôi vua, tôn hiệu là Đại Thắng Minh, đặt hiệu nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Năm Canh ngọ 970, bắt đầu đặt hiệu năm là Thái Bình. Ông truyền cho đúc tiền đồng là tiền tệ xưa nhất ở nước ta, gọi là tiền đồng “Thái Bình”. Ông có công lớn trong việc thống nhất đất nước nhưng về chính trị trong nước lại có phần thiên về sử dụng hình phạt nghiêm khắc. Năm Quí Dậu 973 ông sai con là Nam Việt vương Liễn sang cống nhà Tống, được nhà Tống phong ông làm Giao Chỉ Quận vương.

Đến năm Kỉ Mão 979, ông và con lớn là Đinh Liễn bị tên hầu cận là Đỗ Thích ám sát chết. Ở ngôi 12 năm (968-979), thọ 56 tuổi, táng ở núi Mã Yên, xã Trường An thượng, huyện Gia Liễn, tỉnh Ninh Bình, đền thờ ông cũng xây dựng gần đấy.

Con thứ của ông là Đinh Tuệ nối ngôi, chỉ non một năm thì bị Lê Hoàn lật đổ, cơ nghiệp nhà Đinh dứt.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... d=417&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

195#
Đăng lúc 14-8-2013 13:52:36 | Chỉ xem của tác giả
Đinh Công Tráng (Nhâm Dần 1842 – Đinh Hợi 1887)


Chiến sĩ Cần Vương kháng Pháp, quê làng Tráng Xá, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam lừng danh với chiến lũy Ba Đình.

Ông hùng cứ nơi chiến khu Ba Đình, chống nhau với Pháp suốt ba năm. Hai tướng Metzinger và Doddo đến đánh đều bị quân ông đẩy lui. Đến đầu năm 1887, đại tá Brissand thống lãnh 76 sĩ quan và 3.500 quân tinh nhuệ, đánh luôn mấy ngày và tổn thất nặng nề mới phá được.

Thành Ba Đình do ông đóng giữ rộng 400 thước, dài 1.200 thước, bao bọc ba làng Mậu Tịnh, Mĩ Khê, Thượng Thọ, chống giữ từ tháng 4-1885 đến 20-1-1887.

Thành vỡ, ông chạy về Nghệ An và bị bắn chết trong đêm 5-10-1887 tại làng Trung Yên, trên bờ sông Cả.

Tướng Pháp Mason nhận định về Đinh Công Tráng: “Người có trật tự, trọng kỷ luật, cương trực, hay nghiêm trị những thủ hạ quấy nhiễu dân; có chí nhẫn nại, biết mình, biết người, không bao giờ hành binh cẩu thả, giỏi lập trận thế”.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... d=418&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

196#
Đăng lúc 14-8-2013 13:59:02 | Chỉ xem của tác giả
Đinh Liễn (? - Kỉ Mão 979)


Thuở trẻ ông theo cha phù tá sứ quân Trần Minh Công tức Trần Lãm ở Bố Hải khẩu. Chẳng bao lâu, Trần Lãm mất, thân phụ ông thay nắm binh quyền rút về hùng cứ ở Hoa Lư.

Năm Tân Hợi 951, anh em Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập, và Nam Tấn vương Xương Văn cử binh đánh Hoa Lư, thân phụ ông liệu thế còn yếu đưa ông làm con tin nhà Ngô để khỏi bị bức bách. Một thời gian ông được thả ra.

Sau, nhà Ngô suy vi, cha con ông dẹp tan các sứ quân, dứt luôn nhà Ngô. Năm Mậu Thìn 968, thân phụ ông lên ngôi, phong ông làm Nam Việt vương rồi ông vâng mạng cưới con gái sứ quân Ngô Nhật Khánh làm vợ.

Năm Nhâm thân 972, ông đi triều cống nhà Tống Trung Quốc, Tống Thái tổ phong thân phụ ông làm Giao Chỉ Quận vương, ông làm Tỉnh Hải quan tiết độ sứ An Nam đô hộ.

Năm Ất Hợi 975, nhà Tống lại phong ông làm Giao Chỉ quận vương. Từ ấy, khi sai sứ sang Tống đều lấy ông làm chủ.

Bấy giờ ngôi Thái tử đáng lẽ phải về ông, nhưng vua Đinh lại cho con út là Hạng Lang làm Thái tử. Ông tức giận sai người giết chết Hạng Lang gây nên mối loạn trong nhà.

Năm Kỉ Mão 979, ông và vua Đinh đều bị tên hầu cận là Đỗ Thích ám hại.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... d=419&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

197#
Đăng lúc 14-8-2013 14:00:32 | Chỉ xem của tác giả
Đinh Tiên Hoàng (Ất Dậu 925 – Kĩ Mão 979)


Đinh Bộ Lĩnh (Ất Dậu 925 – Kĩ Mão 979).

tổ nhà Đinh, ông vốn họ Đinh, tên Hoàng, Bộ Lĩnh là tước quan của sứ quân Trần Lâm phong cho, quê ở động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay là huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình), con quan Thứ sử Châu Hoan (Nghệ An) về đời Dương Diên Nghệ là Đinh Công Trứ.

Cha mất sớm, ông theo mẹ là Đàm thị về quê, nương thân với chú ruột là Đinh Dự, ở chăn trâu. Thường nhóm họp bạn bè lấy lau làm cờ, lập trận đánh nhau, ông tỏ ra có tài chỉ huy. Kết bạn rất thân với Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ và Trịnh Tú. Bị người chú ghét đuổi đi, ông sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Lâm ở Bố hải Khẩu. Ít lâu, được Trần Lâm mến tài gả con cho, ông càng vững bước trên đường sự nghiệp. Không bao lâu, Trần Lâm mất, ông đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt, hùng cứ một phương, chống nhà Ngô và các sứ quân khác.

Năm Ất Sửu 965 Nam Tấn vương Xương Văn mất, con là Xương Xí nối nghiệp, quá suy yếu phải về đóng giữ đất Bình Kiều (thuộc Hưng Yên). Ông thừa thế hưng binh đánh lớn, chỉ trong một năm dẹp yên được các sứ quân. Được xưng tụng là Vạn Thắng vương. Năm Mậu Thìn 968 ông lên ngôi vua, tôn hiệu là Đại Thắng Minh, đặt hiệu nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Năm Canh ngọ 970, bắt đầu đặt hiệu năm là Thái Bình. Ông truyền cho đúc tiền đồng là tiền tệ xưa nhất ở nước ta, gọi là tiền đồng “Thái Bình”. Ông có công lớn trong việc thống nhất đất nước nhưng về chính trị trong nước lại có phần thiên về sử dụng hình phạt nghiêm khắc. Năm Quí Dậu 973 ông sai con là Nam Việt vương Liễn sang cống nhà Tống, được nhà Tống phong ông làm Giao Chỉ Quận vương.

Đến năm Kỉ Mão 979, ông và con lớn là Đinh Liễn bị tên hầu cận là Đỗ Thích ám sát chết. Ở ngôi 12 năm (968-979), thọ 56 tuổi, táng ở núi Mã Yên, xã Trường An thượng, huyện Gia Liễn, tỉnh Ninh Bình, đền thờ ông cũng xây dựng gần đấy.

Con thứ của ông là Đinh Tuệ nối ngôi, chỉ non một năm thì bị Lê Hoàn lật đổ, cơ nghiệp nhà Đinh dứt.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... =1746&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

198#
Đăng lúc 14-8-2013 14:02:13 | Chỉ xem của tác giả
Đinh Trọng Vĩnh (? - 1935)


Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Kênh, Nam Định. Khi phong trào Xô Viết bị đàn áp khủng bố dữ dội, Đảng điều động Nguyễn Đức Cảnh tăng cường cho Xứ ủy Trung Kỳ, rút Bí thư tỉnh ủy Hải Phòng Phạm Văn Ngọ (tức Xương) bổ sung vào xứ ủy Bắc Kỳ và điều Đinh Trọng Vĩnh ra thay, giữ chức vụ Bí thư từ tháng 10 đến tháng 12/1930.

Ngay khi nhận nhiệm vụ, Đinh Trọng Vĩnh đã cùng các đồng chí trong Ban Chấp hành tỉnh bộ triển khai Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp lần thứ I với các nhiệm vụ duy trì phong trào đấu tranh của công nhân ở các thành phố lớn Nam Định, Hải Phòng, Vinh, Sài Gòn, tập trung sức đấu tranh chống khủng bố trắng, chống chính sách hợp lý hóa tư bổn, chống sưu thuế, địa tô, chống chính sách lừa dối 'cải cách', chống 'hội đồng hòa giải lao động, tư bổn'...

Tỉnh ủy cũng thành lập Ban tuyên truyền xung phong cho Ủy ban tranh đấu, chỉ đạo đợt tuyên truyền toàn thành từ 9/12/1930, tiêu biểu là cuộc diễn thuyết kết hợp phát tán truyền đơn ở cổng xưởng Carông trước cửa Hội đồng đề hình, gần nhà lao... thu hút đông đảo nhân dân. Tỉnh ủy chỉ đạo công nhân Cảng Hải Phòng làm hỏng chân vịt tầu Cờlôtdơ Sáp đang chuẩn bị chở toàn quyền Patskiê (Pasquier) đồng thời rải truyền đơn ngay cổng Cảng và một số phố chính ngày 1/12/1930 khiến hắn phải về Hà Nội. Vì say sưa với kết quả hoạt động và không giữ đúng nguyên tắc bí mật nên các ủy viên tuyên truyền xung phong bị địch vây bắt cả, cuối tháng 12/1930 Phạm Gia một cán bộ được Đinh Trọng Vĩnh điều ra Cẩm Phả, bị bắt. Do không chịu được đòn tra tấn, Phạm Gia, đã dẫn mật thám về cơ quan của tỉnh bộ Hải Phòng đặt ở đường Đình Đông mà Gia tưởng cơ quan đã chuyển đi nơi khác. Hôm ấy Đinh Trọng Vĩnh và hai cán bộ của cơ quan tỉnh bộ bị bắt là Phạm Thị Hân (tức Giới) và một người nữa chưa rõ tên.

Mật thám biết Đinh Trọng Vĩnh là một cán bộ cộng sản nguy hiểm nên đã tra tấn, dụ dỗ nhưng không khai thác được gì. Hội đồng đề hình kết án chung thân phát lưu, đày ra Côn Đảo. Do chế độ nhà tù hà khắc và hậu quả của những trận đòn thù, Đinh Trọng Vĩnh đã mắc lao phổi nặng và qua đời ở phòng biệt giam II năm 1935.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... id=25&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

199#
Đăng lúc 14-8-2013 14:03:27 | Chỉ xem của tác giả
Đỗ Mười (sinh 1917)


Đỗ Mười (sinh 1917), nhà hoạt động chính trị Việt Nam. Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (1991 - 97). Quê: xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Hoạt động trong phong trào dân chủ từ 1936; gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương (1939); bị Pháp bắt (1941) và kết án 10 năm tù, giam ở Hoả Lò, Hà Nội. Vượt ngục tháng 3.1945, tham gia lãnh đạo giành chính quyền ở Hà Đông (8.1945). Từ 1946 đến 1955, lần lượt giữ các chức vụ: bí thư Tỉnh uỷ Hà Đông, bí thư Tỉnh uỷ Hà Nam, bí thư Tỉnh uỷ kiêm chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến - Hành chính Nam Định, khu uỷ viên Khu III kiêm bí thư Tỉnh uỷ Ninh Bình và phụ trách tỉnh Hoà Bình, phó bí thư Liên khu uỷ kiêm phó chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến - Hành chính Liên khu III, chính uỷ Bộ Tư lệnh Liên khu III, bí thư Khu uỷ kiêm chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến - Hành chính và chính uỷ Bộ Tư lệnh khu Tả Ngạn Sông Hồng, phụ trách chỉ đạo tiếp quản Khu "tập kết 300 ngày", bí thư Thành uỷ kiêm chủ tịch Uỷ ban Quân chính Hải Phòng. Uỷ viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng từ 1955, uỷ viên chính thức năm 1960. Từ 1956 đến 1991, thứ trưởng Bộ Thương nghiệp, bộ trưởng Bộ Nội thương, chủ nhiệm Uỷ ban Vật giá Nhà nước, phó thủ tướng kiêm chủ nhiệm Uỷ ban Kiến thiết Cơ bản Nhà nước, chủ tịch Hội đồng Chi viện Tiền tuyến Trung ương, trưởng Phái đoàn Thanh tra Chính phủ, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Bộ Xây dựng, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (nay là thủ tướng Chính phủ) (1988 - 1991); đại biểu Quốc hội các khoá II, IV - IX. Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khoá III - VII; uỷ viên Bộ Chính trị các khoá IV - VII. Tại Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) được bầu làm tổng bí thư.

Tác phẩm: "Báo chí văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới" (1989), "Cuộc sống khẳng định phát triển đường lối mới" (1989), "Tiếp tục đổi mới ổn định vững chắc tình hình tạo thế phát triển mạnh hơn" (1991), "Xây dựng nhà nước của nhân dân, thành tựu, kinh nghiệm đổi mới" (1991), "Về con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" (1992), "Sửa đổi Hiến pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới" (1992), "Tuổi trẻ Việt Nam" (1993), "Phát huy vai trò của Quốc hội, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân" (1992), "Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội", tập 1 (1992), tập 2 (1993), tập 3 (1994), tập 4 (1995), "Thể hiện khát vọng của nhân dân về chân - thiện - mĩ" (1993), "Về xây dựng Đảng" (1994), "Đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ then chốt trong giai đoạn mới" (1994), "Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước" (1995).

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... id=29&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

200#
Đăng lúc 14-8-2013 14:04:53 | Chỉ xem của tác giả
Đỗ Nhuận (1922 - 1991)


Sinh ngày 10/12/1922, quê ở thôn Hoạch Trạch xã Thái Học huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương. Đỗ Nhuận sống thời niên thiếu tại Hải Phòng. Ông là học sinh trường Bonnal.

Cảm hứng âm nhạc của Đỗ Nhuận bắt đầu từ quê hương và gia đình. Quê ông vốn có truyền thống hát chèo. Ngay từ năm 14 tuổi ông đã học âm nhạc dân tộc và biết chơi Sáo Trúc, Tiêu, Đàn Nguyệt, Đàn Tứ, Đàn Bầu. Những năm đi học ở Hải Phòng, ông sinh hoạt trong Hướng đạo sinh, trong các buổi sinh hoạt thường hát những bài hát Pháp và châu Âu. Tiếp đó không khí âm nhạc cải cách bắt đầu ảnh hưởng đến Đỗ Nhuận, ông học đàn Ghi ta, Bănggiô, Viôlông và ký âm pháp. Về ảnh hưởng và tiếp thu âm nhạc châu Âu và Pháp, riêng đối với các nhạc sĩ có tinh thần yêu nước, không thể không kể đến những ca khúc cách mạng của Pháp như Macxâye và Quốc tế ca.

Khác với phần đông các nhạc sĩ có khuynh hướng lãng mạn, Đỗ Nhuận giống Lưu Hữu Phước, vào âm nhạc bằng những bài ca yêu nước. Năm 1939 Đỗ Nhuận viết ca khúc đầu tiên khi mới ở tuổi 17: Trưng Vương, nhằm ngày kỷ niệm Hai Bà Trưng ở Hải Dương. Trong những năm 1940-1941, Đỗ Nhuận dồn sức hoàn thành ca cảnh Nguyễn Trãi - Phi Khanh (gồm 3 ca khúc Chim than, Lời cha già, Đường lên ải Bắc). Chính những ca khúc này và một số hoạt động yêu nước trong thời gian ở Hải Phòng và một số nơi khác Đỗ Nhuận đã bị thực dân Pháp bắt đi đày ở Sơn La năm 1943. Tuy nhiên, sự cầm tù ấy càng làm Đỗ Nhuận gắn bó với cách mạng hơn. Chỉ một năm trong tù một loạt ca khúc đã ra đời: Chiều tù, Côn Đảo, Hận Sơn La, Tiếng gọi tù nhân (lời Đào Duy Từ), Viếng mồ tử sĩ. Ra tù, cảm hứng về rừng núi, về chiến khu và cách mạng đã giúp Đỗ Nhuận hoàn thành các ca khúc hừng hực khí thế tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám: Du kích ca (1944), Nhớ chiến khu (1945). Sau cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp gây hấn ở Nam Kỳ, Đỗ Nhuận có ngay ca khúc Tiếng súng Nam bộ, Tiếng hát đầu quân và Đoàn lữ nhạc.

Trong kháng chống Pháp, Đỗ Nhuận đã viết nhiều tác phẩm gây ấn tượng mạnh mẽ, thúc giục cả dân tộc vững bước trong cuộc kháng chiến trường kỳ. Bên cạnh Áo mùa đông đằm thắm trữ tình là Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1951) trang trọng; bên cạnh Sóng cả không ngã tay chèo chân chất mộc mạc là Du kích sông Thao (1949) cuồn cuộn hoành tráng. Đặc biệt là bộ sử thi âm thanh về trận Điện Biên Phủ lịch sử: Hành quân xa (1953), Trên đồi Him Lam (1954), Chiến thắng Điện Biên (1954). Sau hòa bình lập lại, Đỗ Nhuận trở thành Tổng thư ký đầu tiên của Hội nhạc sĩ Việt Nam và giữ chức vụ này trong hai khóa I và II (1957 - 1983). Đỗ Nhuận là nhạc sĩ duy nhất của thế hệ sau này được đi tu nghiệp đại học tại nhạc viện Tchaikovsky, Liên Xô, từ 1960-1963. Và ông là nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên viết Ô-pê-ra (Opéra) với Cô Sao (1965), Người tạc tượng (1971). Ông còn viết nhiều tác phẩm khí nhạc, trong đó có Vũ khúc Tây Nguyên cho Viôlông và dàn nhạc đã trở thành một tác phẩm có giá trị kinh điển.

Tác phẩm của ông trong những năm 60,70 Thế kỷ 20: Em là thợ quét vôi, Tôi thích thể thao (bài hát toàn chữ T), Việt Nam quê hương tôi, Đường bốn mùa xuân, Người chiến thắng là anh (viết cùng thầy Phêrê-V.Fére), Giặc đến nhà ta đánh, Vui mở đường, Trống hội tòng quân, Trai anh hùng gái đảm đang, Hát mừng các cụ dân quân, Trông cây lại nhớ đến người (cải biên hò ví dặm), Bài ca cách mạng tiến quân... Âm nhạc của Đỗ Nhuận giàu bản sắc dân tộc, phong phú về chất liệu, ngôn ngữ biểu hiện giản dị, mộc mạc trữ tình, đằm thắm, hóm hỉnh. Nhạc sĩ đã được nhận nhiều huân chương cao quý, đặc biệt là Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt I truy tặng, 1996).

Ông mất ngày 18/5/1991 tại Hà Nội.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... id=30&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách