Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Tác giả: love_milk_tea9
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

Lịch sử Việt Nam

 Đóng [Lấy địa chỉ]
161#
 Tác giả| Đăng lúc 13-8-2013 12:23:08 | Chỉ xem của tác giả
479 - 505: Nhà Tề đô hộ

Lý Trường Nhân chết, Thúc Hiến, em họ Lý Trường Nhân lên thay anh trong coi việc ở Giao Châu.

Lý Trường Nhân chết, Thúc Hiến, em họ Lý Trường Nhân lên thay anh trong coi việc ở Giao Châu. Vì hiệu lệnh của mình chưa được thi hành, Lý Thúc Hiến sai sứ sang nhà Tống xin làm Thứ sử. Nhà Tống dùng Thái thú Nam Hải là Thẩm Hoán làm Thứ sử Giao Châu và cho Lý Thúc Hiến làm Ninh viễn tướng quân Tư Mã, giữ chức Thái thú hai quận Tân Xương và Vũ Bình. Thúc Hiến sau khi được dân chúng phục tùng liền đem quân giữ nơi hiểm yếu, không để cho Thẩm Hoán sang nhậm chức; Thẩm Hoán phải lưu lại Uất Lâm rồi chết ở đấy.

Lúc này ở Trung Quốc, nhà Tề (479 - 502) đã đánh đổ nhà Tống và phong ngay Thúc Hiến làm Thứ sử Giao Châu, để vỗ về đất miền Nam cho được yên ổn.

Tuy nhận chức Thứ sử Giao Châu của nhà Tề, nhưng Lý Thúc Hiến không cống lễ gì cả.

Đến năm 485, nhà Tề cử Lưu Khải sang làm Thứ sử Giao Châu, điều động quân các quận Nam Khang, Lư Lăng và Thủy Hưng sang đánh. Lý Thúc Hiến đầu hàng. Đến đây thời kỳ tự trị của anh em họ Lý cũng chấm dứt. Nhà Tề tiếp tục đô hộ nước ta.

Nguồn: Thư viện Trung tâm sưu tầm và tập hợp

Nguồn: http://www.lichsuvietnam.vn/home ... d=628&Itemid=33
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

162#
 Tác giả| Đăng lúc 13-8-2013 12:36:36 | Chỉ xem của tác giả
505 - 543: Nhà Lương đô hộ

Năm 502, ở Trung Quốc diễn ra sự loạn lạc, gọi là thời Nam - Bắc triều, kéo dài gần hai thế kỷ, từ 420 đến 589.

Năm 502, ở Trung Quốc diễn ra sự loạn lạc, gọi là thời Nam - Bắc triều, kéo dài gần hai thế kỷ, từ 420 đến 589. Bắc triều gồm: Bắc Ngụy, Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu và Tùy; Nam triều gồm các triều Tống, Nam Tề, Nam Lương, Hậu Lương và Trần.

Năm 502, ở Nam triều, Tiêu Diễn diệt nhà Tề, lập nhà Lương (502 - 557) và chuẩn bị dành lấy Giao Châu.

Đến năm 505, Lý Khải được Tề Minh Đế cử sang thay Phục Đăng Chi làm Thứ sử Giao Châu. Khải thấy nhà Lương mới được nhà Tề truyền ngôi vua cho, bèn giữ Giao Châu, chống lại nhà Lương. Viên Trưởng sử của Lý Khải là Lý Tắc giết chết Lý Khải rồi dâng Giao châu cho nhà Lương. Nhà Lương cho Lý Tắc làm Thứ sử Giao Châu. Từ đây nước ta bị nhà Lương đô hộ.

Nguồn: Thư viện Trung tâm sưu tầm và tập hợp

Nguồn: http://www.lichsuvietnam.vn/home ... d=629&Itemid=33
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

163#
 Tác giả| Đăng lúc 13-8-2013 12:40:41 | Chỉ xem của tác giả
542 (Nhâm Tuất): Khởi nghĩa Lý Bí (Lý Bôn) thắng lợi

Đầu năm 542, Lý Bí, hào trưởng người Việt, văn võ toàn tài đã cùng với Tinh Thiều nhân lòng oán hận của nhân dân Việt, kết nối với hào kiệt các châu thuộc miền đất nước ta đồng thời nổi dậy chống Lương.

Đầu năm 542, Lý Bí, hào trưởng người Việt, văn võ toàn tài đã cùng với Tinh Thiều nhân lòng oán hận của nhân dân Việt, kết nối với hào kiệt các châu thuộc miền đất nước ta đồng thời nổi dậy chống Lương. Thủ lĩnh Chu Diên là Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục, phục tài đức Lý Bí đã đem quân theo trước tiên; lại có Phạm Tu, một viên tướng tài của Lý Bí có mặt từ đầu cuộc khởi nghĩa. Thứ sử Giao Châu của nhà Lương là Tiêu Tư Khiếp sợ, không dám chống cự, chạy về Việt Châu (Bắc Hợp Phố và Quảng Châu). Nổi dậy từ tháng 1 năm 542, không quá ba tháng, nghĩa quân đã chiếm được châu thành Long Biên (Bắc Ninh Củ).

Tháng 4 năm 542, vua Lương sai Thứ sử Việt Châu là Trần Hầu, Thứ sử La Châu là Ninh Cự, Thứ sử An Châu là Lý Trí, Thứ sử Ái Châu là Nguyễn Hán, từ hai phía Bắc, Nam Giao Châu cùng tiến đánh Lý Bí. Cuộc phản kích này của giặc Lương hoàn toàn thất bại.

Nguồn: Đỗ Đức Hùng, Nguyễn Đức Nhuệ, Trần Thị Vinh, Trương Thị Yến 2001, Việt Nam những sự kiện lịch sử (từ khởi thủy đến 1858), Hà Nội, Giáo Dục, Tr. 33.

Nguồn: http://www.lichsuvietnam.vn/home ... d=630&Itemid=33
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

164#
 Tác giả| Đăng lúc 13-8-2013 21:10:54 | Chỉ xem của tác giả
543 (Quý Hợi): Khởi nghĩa Lý Bí (Lý Bôn) thắng lợi

Đầu năm 543, nhà Lương lại sai các tướng Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đem quân sang hòng đánh chiếm lại Giao Châu.

Đầu năm 543, nhà Lương lại sai các tướng Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đem quân sang hòng đánh chiếm lại Giao Châu. Quân Lương mới đến Hợp Phố đã bị quân ta chặn đánh cho đại bại. Quân giặc 10 phần chết 7, 8 phần, số sống sót đều tan vỡ cả, tướng sĩ ngăn cấm cũng không được. Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng phải dẫn tàn binh quay về Quảng Châu. Thấy binh lính bị thiệt hại quá nhiều, Lương Vũ Đế xuống chiếu bắt cả hai tên tướng cầm đầu bị tội chết ở Quảng Châu.

Tháng 5 năm 543, Lý Bí cử tướng Phạm Tu mang quân vào phương Nam đánh tan quân Champa ở Cửu Đức. Vua Champa phải chạy trốn về nước. Biên viễn phía nam cũng tạm yên.

Nguồn: Đỗ Đức Hùng, Nguyễn Đức Nhuệ, Trần Thị Vinh, Trương Thị Yến 2001, Việt Nam những sự kiện lịch sử (từ khởi thủy đến 1858), Hà Nội, Giáo Dục, Tr. 33.

Nguồn: http://www.lichsuvietnam.vn/home ... d=631&Itemid=33
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

165#
 Tác giả| Đăng lúc 13-8-2013 21:18:25 | Chỉ xem của tác giả
544: Thành lập nước Vạn Xuân, nhà nước độc lập tự chủ thời tiền Lý

Tháng giêng năm Giáp tý (tức tháng 2 năm 544), Lý Bí tuyên bố dựng nước độc lập, với Quốc hiệu Vạn Xuân, tự xưng là Nam Việt Đế, đóng đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay).

Thiên Đức năm thứ nhất

Tháng giêng năm Giáp tý (tức tháng 2 năm 544), Lý Bí tuyên bố dựng nước độc lập, với Quốc hiệu Vạn Xuân, tự xưng là Nam Việt Đế, đóng đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay). Triều đình của Lý Nam Đế tuy mới thành lập nhưng đã có đủ hai ban văn, võ. Ban văn do Tinh Thiều đứng đầu; Ban võ do Phạm Tu đứng đầu. Lão tướng Triệu Túc làm Thái phó. Con Triệu Túc là Triệu Quang Phục làm Đại tướng. Lý Bí cho dựng điện Vạn Xuân để làm nơi triều hội, dựng chùa Khai Quốc ở bên bờ sông Hồng, phía Yên Phụ ngày nay.

Cuối năm 544, triều đình nhà Lương cho Lan Khâm làm tướng, Âu Dương Nguy làm phó tướng đem quân sang đánh chiếm Giao Châu. Nhưng Lan Kham đưa quân vượt Ngũ Lĩnh thì chết. Đoàn quân xâm lược này phải quay trở lại.

Nguồn: Đỗ Đức Hùng, Nguyễn Đức Nhuệ, Trần Thị Vinh, Trương Thị Yến 2001, Việt Nam những sự kiện lịch sử (từ khởi thủy đến 1858), Hà Nội, Giáo Dục, Tr. 33 - 34.

Nguồn: http://www.lichsuvietnam.vn/home ... d=632&Itemid=33
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

166#
 Tác giả| Đăng lúc 13-8-2013 21:34:30 | Chỉ xem của tác giả
545 (Ất Sửu): Nhà Lương chiếm lại Giao Châu, Lý Nam Đế về giữ thành Gia Ninh miền đồi núi Tru

Nhà Lương vẫn cố ý đánh chiếm cho bằng được Giao Châu, nên tháng 6 năm Ất Sửu (545) chúng lại sai Dương Phiêu làm Thứ sử Giao Châu đem quân sang sâm lược.


Thiên Đức năm thứ hai

Nhà Lương vẫn cố ý đánh chiếm cho bằng được Giao Châu, nên tháng 6 năm Ất Sửu (545) chúng lại sai Dương Phiêu làm Thứ sử Giao Châu đem quân sang sâm lược. Trần Bá Tiên làm tướng tiên phong dẫn quân đi trước, xuất phát từ Phiên Ngung, bằng đường thủy nhanh chóng tiến vào Giao Châu, theo sông Lục Đầu bất ngờ đánh thành Long Biên, thủ phủ đô hộ cũ của quân xâm lược. Dương Phiêu kéo đại quân xâm lược theo đường bộ, đánh chiếm Việt Châu (tức Hợp Phố) rồi tiến vào Giao Chỉ, tức miền Bắc Bộ ngày nay.

Lý Nam Đế đưa 3 vạn quân ra chặn giặc ở phía dưới sông Lục Đầu, nhưng không được, phải lui về cửa sông Tô Lịch. Tại đây, dựa vào thành đất, lũy tre gỗ mới dựng không mấy kiên cố, quân đội Lý Nam Đế đã chiến đấu rất anh dũng , nhưng không cản được địch. Lão tướng Phạm Tu tử trận vào ngày 20 tháng 7 năm Ất Sửu (8 - 545). Lý Nam Đế buộc phải lui binh ngược sông Hồng, về giữ thành Gia Ninh trên miền đồi núi trung du ngã ba sông Trung Hà - Việt Trì.

Nguồn: Đỗ Đức Hùng, Nguyễn Đức Nhuệ, Trần Thị Vinh, Trương Thị Yến 2001, Việt Nam những sự kiện lịch sử (từ khởi thủy đến 1858), Hà Nội, Giáo Dục, Tr. 34.

Nguồn: http://www.lichsuvietnam.vn/home ... d=633&Itemid=33
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

167#
Đăng lúc 13-8-2013 22:01:29 | Chỉ xem của tác giả
Cao Bá Đạt (Kỉ Tị 1809-Giáp Dần 1854)


Cao Bá Đạt (Kỉ Tị 1809-Giáp Dần 1854)

Danh thần triều Nguyễn. Anh sinh đôi với Cao Bá Quát, thân phụ Cao Bá Nhạ, quê làng Phú Thị huyện Gia Lâm, xứ Kinh Bắc tức tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Quyết Chiến, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội).

Năm Giáp Ngọ 1834, ông đỗ cử nhân, làm tri huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, thanh liêm mẫn cán được dân chúng kính mến.

Sau khi Cao Bá Quát phù Lê Duy Cự khởi nghĩa chống nhà Nguyễn (Giáp dần 1854) ở Mĩ Lương rồi bị giết, ông đang ngồi chức Tri huyện cũng bị bắt giải về kinh. Dọc đường, ông làm một tờ trần tình hình rồi dùng dao đâm cổ tự vẫn. Con ông là Cao Bá Nhạ trốn thoát, nhưng 8 năm sau bị người tố cáo mà thọ hại luôn.

Nguyễn Văn Siêu có đôi câu đối truy điệu anh em ông rất thâm trầm:

“Ta tai! Quán cổ tài danh nan đệ nan huynh, bất thế ngẫu sinh hoàn ngẫu tử.

Dĩ hĩ! Đáo đầu sự thế, khả liên khả ố, hổn trần lưu xú diệc lu phương”.

Bản dịnh:

“Thương thay! Tài diệu tót vời, khó anh khó em, một cặp cùng sinh lại cùng thác. /

Thôi nhỉ! Sự cơ đến vậy, đáng thương đáng ghét, nghìn năm ghi xấu cũng ghi thơm”.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... d=407&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

168#
Đăng lúc 13-8-2013 22:05:30 | Chỉ xem của tác giả

Cao Bá Quát (Kỉ Tị 1809 – Giáp Dần 1854)


Danh sĩ thời Tự Đức, tự Chu Thần, hiệu Cúc Đường, biệt hiệu Mẫn Hiên, quê làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Quyết Chiến, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội).

Ông là em sinh đôi với Cao Bá Đạt, nổi tiếng văn chương đương thời, tổ xa đời là Cao Bá Hiên làm đến Thượng thư bộ Binh đời hậu Lê, cha là Cao Cửu Chiếu, cũng là bậc tài danh đương thời.

Năm Tân Mão 1831, ông 22 tuổi, đậu Á nguyên trường thi Hà Nội. Nhưng thi Hội 2 phen đều bị đánh hỏng, ông buồn không thi cử nữa, ngao du non nước. Năm Tân Sửu 1841, quan đầu tỉnh Bắc Ninh để cử ông với triều đình, ông được triệu vào kinh sung chức Hành tẩu bộ Lễ. Ít lâu, được cử chấm thi ở trường Hương Thừa Thiên, ông và bạn đồng sự là Phan Nhạ dùng khói đèn chữa một ít quyển văn hay mà phạm húy, toan cứu vớt người tài. Việc bị phát giác. Giám sát trường thi là Hồ Trọng Tuấn đàn hặc, ông bị kết vào tội chết. Nhưng vua Thiệu Trị giảm tội cho ông, chỉ cách chức và phát phối vào Đà Nẵng.

Gặp khi có sứ bộ Đào Trí Phú sang Tân Gia Ba công cán, ông được tha cho rời khỏi phối sở, theo sứ bộ đi lập công chuộc tội. Xong việc trở về, ông được phục chức cũ, rồi thăng làm chủ sự.

Năm giáp dần 1854, ông phải đổi lên Sơn Tây, làm Giáo thọ ở phủ Quốc Oai. Ông buồn chán, phẩn chí bỏ quan theo làm quân sư cho Lê Duy Cự chống lại triều đình. Việc khởi nghĩa ở Mĩ Lương thất bại, ông bị bắt rồi bị hành quyết cùng với hai con là Cao Bá Phùng và Cao Bá Phong năm ông 45 tuổi. Anh ông là Bá Đạt cũng bị liên lụy.

Ông còn để lại cho đời bộ sách Chu Thần thi tập. Thơ văn ông dù bằng chữ Hán hoặc quốc âm đều hay và có giá trị nghệ thuật. Những bài ca trù của ông rất xuất sắc. Đặc biệt bài phú Tài tử đa cùng, chỉ riêng một bài này thôi cũng đủ nêu cao tên tuổi ông đối với văn học nước nhà.

Khi ông mất mới 45 tuổi, bạn ông là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu có bài thơ truy điệu ông rất thâm trầm:

Duy biên thư sử, bích thiên cầm,

Nhất mộng du du, nhất hảo âm.

Sơn hải di tang hà sứ ẩn

Hương quan li hận thử hồi thâm!

Văn chương hữu mạng tương chung thủy

Thanh khí đồng bi tự cổ câm (kim)

Ngô đạo vị kham phân hiển hối,

Âu y kì nãi sĩ lưu tâm

Bản dịch:

Đàn còn bên vách, sách bên màn

Một giấc nghìn thu bặt tiếng vang.

Điên đảo non sông nhòa lối cũ, /

âm thầm đất nước ngấm bi thương.

Duyên văn đã kết đây cùng đó,

Nghĩa cũ dù ai nhớ chẳng buồn! /

Đạo học tỏ mờ chưa dễ biết

Cửa người khép nép mãi sao đương.

Tác phẩm của ông sau này được sưu tầm và khắc in là Cao Chu Thần thi văn tập. Có giá trị văn chương, học thuật cao của lịch sử văn học cận đại Việt Nam.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... d=408&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

169#
Đăng lúc 13-8-2013 22:07:38 | Chỉ xem của tác giả
Cao Thắng (1864-1893)


Cao Thắng quê ở thôn Yên Đức, xã Tuần Lễ, tổng Yên Ấp, huyện Hương Sơn (nay là xã Sơn Lễ huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh). Năm Giáp Tuất (1874 ) khi mới 10 tuổi Cao Thắng đã đi theo đội Lựu làm liên lạc cho nghĩa quân Cờ Vàng, sau khi đội Lựu chết Cao Thắng lẩn trốn may được giáo thụ Phan Đình Thuật (anh ruột Phan Đình Phùng) đưa về nuôi. Năm 1881 khi ông Thuật mất Cao Thắng mới trở về Tuần Lễ làm ruộng, năm Giáp Thân (1884) Cao Thắng bị vu cáo là thủ phạm giết vợ Quản Loan nên bị bắt và giam tại thành Hà Tĩnh đến khi Lê Ninh đánh thành năm 1885 mới được giải thoát. Về nhà ông cùng em ruột là Cao Nữu chiêu tập dân đinh khởi nghĩa rồi gia nhập nghĩa quân Phan Đình Phùng, được cụ Phan hết sức tin cẩn giao cho chức Quản Cơ, mặc dù mới 21 tuổi nhưng Cao Thắng tỏ ra là một tướng tài được quân sĩ tin phục. Năm 1887 Phan Đình Phùng ra Bắc để liên kết các lực lượng chống Pháp, ông được trao quyền chỉ huy nghĩa quân. Ông đã cho xây dựng một hệ thống đồn luỹ hình thành một thế trận liên hoàn dựa lưng vào dãy Thiên Nhẫn và Giăng Màn. Những căn cứ này tạo thành một hình cánh cung vây kín ba mặt Bắc, Tây, Nam sẵn sàng ứng cứu cho nhau một cách mau lẹ nếu một trong các đồn luỹ bị tấn công, vừa có đường rút sang Lào lại có thể tiến thẳng về đồng bằng để khi cần mở rộng địa bàn sang cả Nghệ An vào tận Quảng Bình xuống vùng Đức Thọ, Thạch Hà, Can Lộc về tỉnh thành Hà Tĩnh. Giặc Pháp tiến vào đây chỉ có một con đường độc đạo là quốc lộ 8, cũng chính vì thế những căn cứ này đã có thể giữ vững được cho đến ngày cuối cùng của cuộc khởi nghĩa (1896).

Cao Thắng không những là một nhà chỉ huy quân sự đầy mưu lược, nhà chỉ đạo tổ chức thực tiễn tài giỏi mà còn là một người sáng tạo. Nhận thức được vấn đề vũ khí có tác dụng rất lớn trong chiến tranh, vấn đề đặt ra đối với Cao Thắng là bằng mọi cách phải chế tạo được súng như của Tây. Từ đó ông cho tập trung thợ rèn Trung Lương, Vân Chàng, thợ mộc Xa Lang về Trường Sim mở lò rèn đúc súng theo kiểu 1874 của Pháp, chẳng bao lâu những kho vũ khí lớn như Khe Rèn, đồn Cây Khế ở Đại Hàm đã chứa hàng trăm khẩu súng kiểu 1874 cùng rất nhiều đạn dược, súng bắn rất hiệu nghiệm và chỉ có nhược điểm là bắn không xa bằng súng Pháp do ruột gà ngắn và không có rãnh bên trong. Đại uý Pháp Goselin từng dự vào cuộc chinh phạt ở Nghệ Tĩnh đã viết trong cuốn “Nước Nam”: “ Tôi có đem nhiều khẩu súng đó về Pháp nó giống đủ mọi vẻ như súng của các xưởng binh khí nước ta chế tạo, đến nổi tôi đưa cho các quan pháo thủ xem các ông cũng phải sửng sốt lạ lùng”.

Nhờ tài năng tổ chức chỉ huy biết coi trọng cả hai mặt quân sự và chính trị của Cao Thắng nên vùng căn cứ địa Hương Khê, Hương Sơn được củng cố vững mạnh, từ đó làm bàn đạp để mở rộng địa bàn hoạt động phá thế bao vây của địch. Sau khi ở Bắc về cụ Phan, linh hồn của cuộc khởi nghĩa và Cao Thắng, rường cột của cuộc khởi nghĩa đã mở rộng vùng kháng chiến và phát triển lực lượng với 15 quân thứ và Cao Thắng được phong làm Chưởng vệ tức Tổng chỉ huy nghĩa quân. Dưới quyền chỉ huy của Cao Thắng trong những năm 1889 – 1892 nghĩa quân căn bản giữ vững và phát triển được lực lượng liên tục tấn công địch ở Thanh Chương, Anh Sơn (Nghệ An) khắp nơi ở Hà Tĩnh và các cuộc càn quét của địch đều bị bẻ gãy. Nhưng đến đầu năm 1893 sau khi đánh dẹp xong các cuộc khởi nghĩa ở Bắc Kỳ, quân Pháp tập trung lực lượng khép vòng vây dồn nghĩa quân Hương Khê lên vùng rừng núi. Một mặt chúng cắt đứt các đường tiếp tế lương thực mặt khác dùng kế ly gián dụ hàng, vòng vây của địch ngày càng khép chặt, để phá thế bao vây Cao Thắng đề nghị với Phan Đình Phùng một kế hoạch táo bạo là đánh thẳng vào tỉnh thành Nghệ An đầu não chỉ huy của địch khai thông con đường ra Bắc. Tuy nhiên trong một trận đánh ở Thanh Chương ( Nghệ An) vị tướng tài trẻ tuổi đã hy sinh lúc 29 tuổi giũa lúc tài năng đang chín muồi đó là một tổn thất vô cùng to lớn của nghĩa quân Hương Khê và phong trào chống Pháp ở Trung Kỳ, cụ Phan như mất cánh tay phải đắc lực của mình.

Cao Thắng người con ưu tú của quê hương đã hiến trọn cuộc đời trẻ tuổi vì sự nghiệp của dân tộc, đó là một vị tướng trẻ tuổi, nhà chỉ huy và tổ chức quân sự tài giỏi, một “ kỹ sư quân giới” một nhà sáng chế thông minh sáng tạo. Thân thế và sự nghiệp của Cao Thắng mãi mãi chói ngời trong trang sử anh hùng của dân tộc chống Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... ;id=8&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

170#
Đăng lúc 13-8-2013 22:09:00 | Chỉ xem của tác giả
Cao Xuân Huy (Canh tí 1900 – Quí hợi 1983)


Giáo sư chuyên về lịch sử tư tưởng triết học phương Đông, sinh ngày 28-5-1900 tại làng Cao Xá, xã Thịnh Mĩ, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An, mất ngày 22-10-1983.

Xuất thân trong một gia đình Nho học, ông nội (Cao Xuân Dục) thân phụ (Cao Xuân Tiếu), từng làm Thượng thư và Tổng tài Quốc sử quán triều Nguyễn, gia đình ông có một thư viện lớn nhất trong tòan quốc. Thời niên thiếu đã từng được thân phụ kì vọng vào việc đạt đại khoa để theo đuổi “nghiệp nhà”. Nhưng bấy giờ đã là những năm đầu của chiến tranh thế giới lần thứ nhất và phong trào yêu nước lên cao, nên đối với ông con đường khoa cử không trở thành mộng tưởng của những người có tâm hồn tha thiết yêu nước nữa.

Năm 1925, tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội. Từ năm 1926, đến 1945 ông đi dạy học ở Sài Gòn, Huế, nghiên cứu triết học.

Sau Cách mạng tháng Tám ông làm hiệu trưởng trường Trung học Nguyễn Xuân Ôn ở Nghệ An. Từ năm 1949 – 1959 ông phụ trách giảng dạy triết học cổ đại phương Đông trong các trường ở vùng kháng chiến và các trường đại học ở Hà Nội.

Năm 1958 ông được phong chức giáo sư, rồi trưởng ban Hán học, Trưởng ban Văn học cổ đại Việt Nam, rồi làm giáo sư chính lớp Đại học Hán Nôm tại Hà Nội. Sau đó tiếp tục dạy các lớp chuyên tu sau Đại học, đã đào tạo được một thế hệ trẻ có khã năng nghiên cứu Cổ học nước nhà.

http://www.lichsuvietnam.vn/home ... ;id=9&Itemid=34
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách