Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 7081|Trả lời: 32
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại] Khổng Tước Rừng Sâu | Thái Trí Hằng [Hoàn]

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Đăng lúc 18-7-2012 23:54:42 | Chỉ xem của tác giả Trả lời thưởng |Xem thứ tự |Chế độ đọc
KHỔNG TƯỚC RỪNG SÂU



Tác giả: Thái Trí Hằng

Dịch: Wasabee

Số chương:

Tình trạng: Đã hoàn thành

Nguồn: http://www.e-thuvien.com/forums/showthread.php?t=50664

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
 Tác giả| Đăng lúc 19-7-2012 23:58:30 | Chỉ xem của tác giả

Lời tác giả



Mùa xuân năm 1986, tôi dọn vào một căn phòng có hai cửa sổ, ở suốt ba học kỳ cuối cùng của năm cấp 3.

Căn phòng ở tầng năm, hai cửa sổ một quay về phía nam, một quay về phía tây.
Cửa sổ quay về phía nam nhìn ra trường trung học nữ bên cạnh, đó là hoạt động giải trí lớn nhất của tôi.
Thỉnh thoảng các bạn nữ vô tình ngước lên nhìn thấy tôi đang dựa vào cửa sổ, sẽ lén lút nói thầm với nhau.
Có lẽ là nói mấy lời kiểu như cái thằng cha vớ vẩn kia lại đang nhìn trộm bọn mình, chắc chắn là cái đồ biến thái bla bla.
Khi đó tôi chẳng hề thấy xấu hổ, ngược lại còn đắc ý cười hi hi, còn giơ ngón tay hình chữ V với họ.
Tuổi trẻ quả nhiên thật tốt.

Cửa sổ bên phía tây, là hướng biển, cũng là hướng quê nhà.
Tuy vốn không nhìn thấy biển, nhưng trong lòng có biển, mắt sẽ tự nhiên nhìn thấy biển.
Đối với tôi khi đó còn chưa tròn mười bảy tuổi mà nói, vẫn còn có một sự quyến luyến mạnh mẽ với quê hương.
Vì thế khi nhớ nhà, tôi sẽ đứng ở cửa sổ phía tây, nhìn về phía xa.
Sau này nhà không nhìn thấy nữa, tôi bèn đóng cánh cửa này lại, không mở ra nữa.
Nhưng đó lại là một câu chuyện khác rồi.

Mang danh một nhà văn, tôi sợ nhất là bị hỏi những câu kiểu như cảm hứng tới từ đâu.
Tôi không thể nào nói ra những câu hoa mỹ như cảm hứng đến từ lúm đồng tiền tươi rói trên khuôn mặt mỹ miều của người thiếu nữ thanh xuân; hay là đến từ bà lão tóc bạc dù đã cúi đầu cũng không thể giấu đi vết đồi mồi của năm tháng vân vân.
Chỉ có thể nói ra một cái đáp án vớ vẩn là cảm hứng của tôi đến từ cảm nhận của bản thân với cuộc sống.

Bởi vì sau khi dọn vào căn phòng đó, tôi đã quen với việc tiếp xúc với chính bản thân mình, trong cuộc sống không có hình bóng của người khác.
Tôi bắt đầu dùng trái tim để cảm nhận mỗi sự việc, sự vật, con người trong cuộc sống.
Mười mấy năm nay, mỗi khi cuộc sống khiến tôi có suy nghĩ muốn bắt đầu lại từ đầu, trong lòng tôi sẽ thử quay về căn phòng đó, tìm lại cái “từ đầu” kia.
Về một ý nghĩa nào đó, đó là khởi điểm cho cuộc sống của tôi.

Có lẽ tôi thuộc loại người không lớn được, nói cách khác là căn bản không tài nào trưởng thành.
Bởi vì nguyên trạng của cuộc sống tôi, mười chín năm trước trong căn phòng đó, đã được đắp nặn hoàn chỉnh.
Sau này hoặc giả có thể sửa chữa, nhưng hình dáng sẽ không thay đổi bao nhiêu.

Trong quá trình sáng tác của tôi, ý nghĩ “bắt đầu lại từ đầu” tổng cộng có hai lần.
Lần đầu là nửa năm sau khi viết xong “Lần đầu thân mật”.
Bởi vì khi viết “Lần đầu thân mật”, tôi không ngừng đọc được những nhận xét của người khác đối với tôi.
Nhưng tôi hoặc tác phẩm của tôi trong lời người khác, đối với tôi là hoàn toàn xa lạ.
Tôi bắt đầu cảm thấy hoảng loạn, không biết phải làm sao.
Vì sợ lạc đường, nên lựa chọn đứng yên tại chỗ.

Cho đến khi tôi quay về căn phòng đó, tìm lại được một bản thân mình chưa từng thay đổi.
Cũng phảng phất ngửi thấy mùi vị hồng trà lạc thần quen thuộc, đó là mùi vị duy nhất trong cuộc sống khi đó.
Bây giờ mùi vị của cuộc sống, hoặc là chính bản thân cuộc sống, căn bản không thể giống như trước được nữa.
Chỉ còn lại bản thân mình là không thay đổi.

Vì thế tôi dùng những dòng chữ rất đơn giản, viết nên “Hồng trà lạc thần.”
Lần thứ hai - cũng chính là lần này – ý nghĩ muốn bắt đầu lại từ đầu, là một tháng trước khi cất bút viết “Khổng tước rừng sâu.”
Nguyên nhân rất đơn giản: Tôi mệt rồi.
Đứa trẻ ham chơi đến mấy mệt rồi cũng sẽ muốn về nhà, vì thế tôi muốn quay lại căn phòng đó.

“Khổng tước rừng sâu” thực ra tên là “Khổng tước”, bản thảo trong máy tính của tôi luôn đặt cái tên này.
Lúc đầu khi mới viết từng lấy tạm cái tên là: “Trắc nghiệm tâm lý”, để có thể tiếp tục viết tiếp.
Nhưng viết được năm trăm chữ, dùng dằng năm ngày trời, vẫn tuyên bố bỏ cuộc.
Tôi không thể dùng cái tên tạm thời để tự lừa gạt chính mình, cho dù là để bất đắc dĩ hoàn thành tác phẩm.
Tôi đương nhiên không phải ám chỉ bản thân mình là một người chính trực, tuy rằng đây là sự thật.
Cuối cùng tôi nghĩ tới: Khổng tước, cảm giác đúng rồi, có thể tiếp tục đặt bút.

Mới viết được một vạn chữ, đọc báo trên máy bay biết được có một bộ phim cũng tên là Khổng tước.
Xuống máy bay vào nhà hàng ăn cơm, trên bàn có một tờ quảng cáo: Xưởng rượu Trí Lợi Khổng tước ra mắt loại rượu mới!
Hôm sau đi vào Thuỷ Cung, trong hơn một chục loài cá đang quan sát, chỉ vào một loại hỏi ông chủ:
“Đây là cá gì?”
“Cá khổng tước.” Ông chủ đáp.

Tôi ý thức được cái tên Khổng tước có lẽ rất dễ trùng tên với các tác phẩm sáng tạo khác, lên mạng tìm một hồi, kết quả phát hiện ra một tiểu thuyết trùng tên đã xuất bản từ lâu.

Đó là nỗi hận thứ hai của người viết văn.
(Nỗi hận thứ nhất là một cảm hứng tuyệt vời khó khăn lắm mới tự động tìm đến cửa, vì thế vô cùng phấn khích đi du lịch Hàn Quốc chơi lại bị tai nạn giao thông mất đi trí nhớ. Bên Hàn Quốc tai nạn giao thông nhiều, các bạn không thấy trong phim Hàn Quốc toàn là tình tiết gặp tai nạn giao thông mất trí nhớ sao?)

Tôi có một cảm giác tang thương kỳ lạ, bèn dừng bút, một lần dừng là dừng cả tháng trời.
Vì tôn trọng người khác cũng là để tránh phiền phức, tôi thử đổi tên khác.
Đáng tiếc cái ý tưởng khổng tước này đã sớm ăn sâu trong đầu, tôi không thể cũng không muốn thay đổi, thà rằng từ bỏ cho xong.
Nhưng tiểu thuyết một khi đã viết, chết cũng phải hoàn thành, đó là tâm niệm của tôi.
Tôi đương nhiên không phải đang ám chỉ mình là một người chung thuỷ kiên trinh, tuy đây cũng vẫn là sự thật.

Cứng đầu hoàn tất cuốn Khổng tước mười vạn chữ, trước khi xuất bản thêm hai chữ “rừng sâu” vào đằng sau.
Tôi chẳng giỏi đặt tên truyện, thậm chí thường vì chuyện đặt tên mà xẩy ra sự cố.

“Lần đầu thân mật” nghe giống tiểu thuyết sắc tình, bị quy vào loại giáo dục giới tính.
Cục cảnh sát Đài Bắc có lần tịch thu được một đống văn hoá phẩm đồi truỵ, trong đó có cả quyển sách này.
“Cà phê Ireland” giới thiệu cách pha chế cà phê, bị quy vào dòng sách liên quan đến cà phê, thực phẩm.
Tên quán cà phê trong truyện, thậm chí cũng trùng với một quán cà phê nào đó, địa điểm cũng gần nhau.
“Cây tầm gửi” giống cuốn bách khoa toàn thư về thực vật, còn vì sự tranh cãi giữa hai chữ “tầm gửi”, có người đề nghị tôi đi học tiếng Hán cho giỏi rồi hẵng viết tiểu thuyết.
“Hoa hồng đêm” nghe lại giống hồi ký của một cô gái quán bar.

Bởi vì là tiểu thuyết tôi viết, vì thế đương nhiên sẽ bị coi là tiểu thuyết tình yêu.
Thậm chí tôi đã từng hoài nghi nếu sau này có ngày tôi viết một bộ tiểu thuyết về người ngoài hành tinh đổ bộ địa cầu, chỉ cần trong đó có tình tiết người ngoài hành tinh yêu một sinh vật địa cầu, vậy nó cũng sẽ bị coi là tiểu thuyết tình yêu.
Cho dù như vậy, trong cuốn tiểu thuyết sẽ bị xếp vào loại tiểu thuyết tình yêu này, ở một mức độ nào đó lại là phản tình yêu.

Tình yêu đối với tất cả mọi người đều rất quan trọng, nhưng chưa chắc đã là quan trọng nhất.
Trong cuốn tiểu thuyết này không ngừng nhắc tới bài trắc nghiệm tâm lý kia, chỉ là để chứng tỏ mỗi người đều có quan điểm giá trị hoặc sự lựa chọn của riêng mình.
Đi trước thời đại năm năm gọi là tiên tri, sẽ được tôn sùng và kính trọng;
Nhưng đi trước thời đại năm mươi năm sẽ bị coi là yêu quái, bị hết thảy mọi người đòi mạng.

Quan điểm về giá trị là hàm số của thời đại, nói theo cách nói khoa học, gọi là unsteady.
Có lúc sự đúng hay sai của cái này, ở một thời đại khác hoặc một địa điểm khác, sẽ có những sự đánh giá khác nhau.
Thông thường viết lời tựa thường hay viết một chút cảm nghĩ hoặc là những gì liên quan đến nội dung câu chuyện, hình như tôi hơi lạc đề rồi.
Có người bạn từng nói, lời tựa tôi viết rất giống tiểu thuyết.
“Vậy tiểu thuyết tôi viết thì sao?” Tôi hỏi đầy mong đợi.
“Rất dài dòng.” Cậu ấy trả lời, vẻ mặt không nhẫn nại.
Tôi tin rằng cuốn tiểu thuyết này tuyệt đối không dài dòng, bởi vì nó là cuốn tiểu thuyết mạng trong tưởng tượng của tôi.

“Tiểu thuyết mạng” là một loại hình rất kỳ quặc, đặc điểm lớn nhất của nó chính là:
Người không viết tiểu thuyết trên mạng thường có thể quả quyết nói cho bạn biết rất rõ ràng rằng nó là cái gì, còn những người viết tiểu thuyết trên mạng thì mãi không thể hiểu mà chỉ có thể hàm hồ nói cho bạn biết nó là cái gì.
Tất cả mọi người đều tập trung vào từ “mạng”, mà quên đi rằng nó còn là “tiểu thuyết”.
Vì thế có phải được đăng trên mạng không, đã trở thành tiêu chí duy nhất để phân biệt tiểu thuyết mạng.

Ấn tượng mà tiểu thuyết trên mạng đem đến cho mọi người là ngắn gọn và cợt nhả, tuy lấy việc có đăng trên mạng không làm tiêu chí phân biệt, nhưng trên thước đo của thực tế có một vạch ngăn rất rõ rệt, tiểu thuyết mạng vĩnh viễn ở phía bên trái của vạch ngăn này.
Vạch ngăn đó tên là giá trị văn học, hay độ sâu của văn học.
Vì thế tiểu thuyết mạng không có định nghĩa chính xác, chỉ có ấn tượng xác định rõ rệt.
Có giống với ấn tượng mà khổng tước đem lại cho mọi người không?

Nếu bạn là khổng tước, bạn không cần phải lao tâm khổ tứ cố gắng thay đổi ấn tượng sẵn có của người khác về việc bạn là người ham hư vinh;
Bạn chỉ cần xoè đuôi, thể hiện bản thân mình tuyệt đẹp nhất ở mức có thể.

Tôi rất thích câu nói của thầy giáo ở cuối cuốn tiểu thuyết này:
“Người khác không thể phán xét em, trắc nghiệm tâm lý cũng không thể, chỉ có em mới có thể làm được điều đó.”

Chúng ta luôn tìm đủ mọi cách để trở thành một người nào đó, rất ít khi nghĩ tới phải làm thế nào để hoàn thiện chính mình.
Tôi rất may mắn vì bản thân không và cũng sẽ không muốn trở thành người khác, bởi vì từ mười chín năm trước trong căn phòng đó, tôi đã tìm thấy bản thân mình.

Chuyện còn lại, chỉ là làm thế nào để hoàn thiện chính mình mà thôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
 Tác giả| Đăng lúc 19-7-2012 23:56:50 | Chỉ xem của tác giả
(63)

Liên tiếp hai ngày liền, tôi không gặp Lý San Lam.
Tôi không lo lắng mấy về việc cô ấy sẽ biến mất tăm, bởi vì cún con vẫn ở nhà.

Quyết định về quê một chuyến, tiện thể mang một ít hành lý về luôn.
Ở quê ba ngày, ngoài việc gặp lại bạn bè ôn chuyện cũ, cũng xử lý rất nhiều việc vặt.
Mấy việc vặt này đều liên quan đến việc xuất ngoại.
Ngày thứ tư, tôi ngồi tàu hoả về Đài Nam.
Trên đường từ ga Đài Nam về nhà, phải đi qua Đại học Thành Công, tôi tâm huyết dâng trào bèn đi vào trong trường.
Bước đi trong vườn trường, đi mãi đi mãi, đi tới bên ngoài phòng học môn “Tâm lý học tính cách” trước kia.
Liễu Vỹ Đình chọn dê, Lưu Vỹ Đình chọn hổ, Vinh An chọn chó, cậu bạn khoa Cơ khí chọn trâu, Thi Tường Ích và tôi chọn khổng tước, đều đã từng học trong căn phòng này.
Giơ tay nhẩm đến, rời khỏi nơi này đã được tám năm rồi.

“Các bạn ở trong rừng sâu nuôi vài con vật: ngựa, trâu, dê, hổ và khổng tước. Nếu có một ngày bạn bắt buộc phải rời khỏi khu rừng, nhưng lại chỉ có thể mang theo một con vật, bạn sẽ mang theo con vật nào?”
Trong phòng học bỗng vang lên tiếng nói quen thuộc của thầy giáo, tôi sững sờ, dừng bước chân lại.
Chẳng bao lâu sau trong phòng học vang lên một trận ầm ĩ, cảnh tượng tám năm trước đột nhiên hiện ra trước mắt.
“Bạn nào chọn ngựa mời giơ tay.”
Lại nghe thấy từ “chọn ngựa”, tôi cười buồn, rời đi.

Tôi ngồi xuống bệ lan can bằng bê tông ở toà nhà bên cạnh, hồi tưởng lại những tháng ngày đã qua.
Vỹ Đình đã cưới chồng, Lưu Vỹ Đình và tôi năm nay lấy bằng tiến sĩ, Vinh An giờ đang ở Nghị Lan;
Còn về Thi Tường Ích, tuy mong cho sự nghiệp của cậu ta thất bại, nhưng nghe nói cậu ta lại mới mở thêm hai lò luyện thi.
Đang xúc động bùi ngùi, thấy trước mặt có một người đàn ông trung niên tầm hơn 50 tuổi đi tới.
“Em chào thầy.” Tôi đứng dậy.

Thầy giáo đẩy gọng kính trên sống mũi, mỉm cười nói: “Em từng học môn của tôi à?”
“Dạ.” Tôi gật đầu.
“Em ở trong rừng sâu nuôi vài con vật: ngựa, trâu, dê, hổ và khổng tước. Nếu có một ngày em bắt buộc phải rời khỏi khu rừng, nhưng lại chỉ có thể mang theo một con vật, em sẽ mang theo con vật nào?”
“Thưa thầy.” Tôi đáp, “Em chọn khổng tước.”
Ông thầy ngắm nghía tôi, trong ánh mắt ngập vẻ hiếu kỳ.
Tuy biết câu hỏi tiếp theo có lẽ hơi vô lễ, nhưng cuối cùng vẫn lấy can đảm hỏi:
“Thầy, bài trắc nghiệm này có chính xác không ạ?”

Thầy giáo thuận tay đặt tập giáo trình lên bệ lan can bằng bê tông, sau đó nói:
“Roger Brown đã từng nói một chuyện.”
“Ông ấy là ai?”
“Ông ấy có thể coi là một nhà tâm lý học nổi tiếng, trên lớp tôi thường hay nhắc tới ông ấy.”
“Em xin lỗi.” Tôi hơi đỏ mặt, “Em không phải là một sinh viên chăm chỉ.”
“Không sao.” Thầy giáo cười cười.

“Đại ý của câu chuyện này là: Các nhà tâm lý học thường vô cùng sung sướng vì có thể dùng những lý luận kiểu máy móc để giải thích diễn biến tâm lý phức tạp của con người.”
Nói đến đây thầy giáo ngừng lại một lúc, sau đó lại nói thêm như sợ tôi không hiểu:
“Diễn biến tâm lý của con người thực ra chính là quá trình tâm lý dồi dào trí tuệ, năng lực và tính co giãn.”
“Dạ.” Tôi gật đầu, tỏ ý đã hiểu.

“Nhưng có lúc vào giây phút cuối cùng, lý luận kiểu máy móc này lại chứng tỏ là không những hoàn toàn không thể giải thích được diễn biến tâm lý của con người, mà còn đột nhiên phát sinh những hiện tượng không thể dự đoán.”
Khi nói những lời này, trên mặt thầy giáo luôn nở một nụ cười ôn hoà.
Tôi không nói gì, âm thầm suy ngẫm những lời của thầy.

“Quay lại với câu hỏi bài trắc nghiệm có chính xác không của em. Đoán thử xem, tôi chọn con gì?”
“Em không biết đoán ạ.”
“Cứ đoán xem. Đoán sai tôi không phải là người.” Thầy giáo cười.
“Chẳng lẽ thầy cũng chọn khổng tước?”
“Không sai.” Thầy giáo gật đầu, “Bởi vì trong năm con vật này, chỉ có khổng tước là có hai chân. Tôi cảm thấy có lẽ nó bị các con vật khác cô lập không có bạn bè, vì thế tôi chọn khổng tước. Là một thầy giáo, sẽ luôn đặc biệt quan tâm đến những học sinh có vẻ cô đơn ngồi trong góc lớp.”
“Vậy thầy có giống…” Tôi có chút khó nói, “Giống người chọn khổng tước không ạ?”
Nghe xong ông thầy cười ha ha, cười xong ông nói:
“Tôi bỏ công việc lương cao ở Đài Bắc, chạy đến Đài Nam dạy lũ sinh viên không chăm chỉ bọn em. Em nói xem?”
Thì ra thầy giáo, Lý San Lam, Martini tiên sinh, Thi Tường Ích, tôi, thậm chí là cả Kim Cát Mạch, tuy đều chọn khổng tước, nhưng mỗi người đều có những lý do khác nhau.
Trong số đó có người là người chọn khổng tước chính hiệu, có người lại hoàn toàn không giống.

(64)

“Sao em lại chọn khổng tước?” Thầy giáo hỏi.
“Em…”
”Không sao.” Thầy nói, “Lý do kỳ quặc đến mấy tôi cũng có thể chấp nhận.”
Suy nghĩ của tôi quay về thời điểm khi lần đầu tiên nghe thấy bài trắc nghiệm tâm lý này tám năm về trước, sau đó nói:
“Bởi vì ánh mắt của khổng tước.”
“Ánh mắt?”

“Tất cả các con vật chắc chắn đều muốn cùng em rời khỏi khu rừng. Nhưng khổng tước cao ngạo như vậy, tuyệt đối không chịu cầu xin, vì thế ánh mắt của nó có lẽ sẽ mang theo bi thương, thậm chí khi em phải lựa chọn, nó sẽ trốn ra xa. Nhưng nếu em không chọn khổng tước, nó nhất định sẽ không sống nổi.”
“Không sống nổi?”
“Lúc nhỏ các bạn thường bắt chim sẻ về nuôi, nhưng chim sẻ bị nhốt rồi, sẽ không ăn không uống, thậm chí sẽ cắn lưỡi mà chết. Em cảm thấy khổng tước giống như chim sẻ, chỉ cần em ra khỏi khu rừng, nó nhất định sẽ không muốn sống nữa.”

“Còn nhớ tôi đã từng nói bài trắc nghiệm này có rất nhiều cách hỏi không?” Thầy giáo rút khăn tay ra lau kính, “Bây giờ tôi hỏi em theo một cách khác.”
“Thầy cứ hỏi ạ.”
“Nếu khu rừng xảy ra hoả hoạn, em chỉ có thể mang theo một con vật chạy trốn, em sẽ mang theo con vật nào?”
“Khổng tước.” Tôi đáp.
“Tại sao?”
“Khổng tước chạy chậm nhất lại bay không giỏi, nếu không mang nó theo, nó sẽ chết cháy mất.”
“Nếu khu rừng bị lũ lụt, em chỉ có thể mang theo một con vật, em sẽ mang theo con vật nào?”
“Vẫn là khổng tước.”
“Tại sao?”
“Khổng tước không biết bơi, chắc chắn sẽ chết đuối.”
“Vậy nói theo cách lý luận máy móc của bài trắc nghiệm tâm lý này, em quả thực là người chọn khổng tước.” Thầy giáo nhẹ gật đầu, “Nói thêm cho tôi biết lý do em chọn khổng tước.”

“Trong lòng khổng tước rất rõ, nó không thể sống trong bão lửa hay lụt lội, nhưng lại không chịu cầu cứu. Nó chỉ đứng từ xa, lẳng lặng nhìn em, ánh mắt ngập tràn bi thương, hơn nữa còn cố gắng đè nén sự bi thương trong mắt để tránh bị em phát hiện. Em không biết mình muốn đem theo con vật nào ra khỏi khu rừng nhất, chỉ biết là nếu không đem theo khổng tước, nó nhất định sẽ chết. Em…”
Còn chưa nói xong, tôi bỗng cảm thấy vô cùng bi thương, cổ họng tắc nghẹn.
Bởi vì tôi đã đem ánh mắt của chim khổng tước hoà vào làm một với ánh mắt của Lý San Lam.
Tôi hắng giọng, rồi mới hỏi: “Thưa thầy, em thật sự là người chọn khổng tước sao?”

“Diễn biến tâm lý của con người là mềm, hơn nữa còn có tính đàn hồi, lý luận một cách máy móc rất khó ước đoán, cũng sẽ gặp phải sai lầm.” Ánh mắt thầy giáo trở nên rất hiền từ, vỗ vai tôi nói:
“Con trai à, con phải nhớ: Người khác không thể phán xét con, trắc nghiệm tâm lý cũng vậy; chỉ có bản thân con mới làm được điều đó.”
Nói xong, thầy cầm tập giáo trình trên bệ bê tông lên, mỉm cười với tôi rồi đi mất.

Tôi đứng tại chỗ suy nghĩ rất lâu, khi sực tỉnh lại, mới chầm chậm đi tới chỗ cây đa.
Ngồi dưới gốc cây chẳng bao lâu, nghe thấy phía sau vang lên giọng nói của một cô gái:
“Bài trắc nghiệm tâm lý trên lớp vừa rồi sao không thấy anh giơ tay, rốt cuộc anh chọn con gì?”
Quay qua nhìn, một đôi nam nữ trông có vẻ là người yêu đang ngồi bên một gốc cây khác.
“Anh chẳng chọn gì.” Cậu con trai trả lời.
“Tại sao?”
“Chỉ cần anh chọn một con là sẽ không công bằng với bốn con kia, vì thế anh không muốn chọn.”
“Không được! Anh nhất định phải chọn một con, dù anh không muốn đi nữa.”
“Hả?”
“Đừng tưởng rằng anh không chọn con nào là tỏ ra trọng tình cảm, bởi vì chọn một con, chỉ không công bằng với bốn con còn lại; nhưng nếu không chọn, sẽ không công bằng với cả năm con vật.” Giọng cô gái rất kiên định, “vì thế nhất định phải chọn, và đem con vật mình chọn ra khỏi khu rừng, bất kể là con gì.”
Cậu con trai ngây người ra, không trả lời.

Tôi cũng sững sờ.
Nếu như trong năm con vật đó không có khổng tước, có lẽ tôi cũng giống cậu con trai đó, dứt khoát không chọn gì;
Nhưng tôi đã lựa chọn rồi, tôi chọn khổng tước.
Mặc kệ trong bài trắc nghiệm tâm lý đó khổng tước có phải đại diện cho tiền bạc và hư vinh hay không, hay là nước Mỹ, bây giờ tôi chỉ biết Lý San Lam là khổng tước, khổng tước chính là Lý San Lam.
Tôi có thể đem theo khổng tước rời khỏi khu rừng, đó là quyền lợi của tôi, cũng là quyền lợi của khổng tước.

Vội vã đứng dậy, ba chân bốn cẳng chạy về nhà.
Vừa bước vào cửa, còn chưa kịp lấy hơi, đã xông thẳng vào phòng của Lý San Lam.
Tôi xúc động tới quên cả phép lịch sự và lời thề đã hứa, thò tay vặn nắm đấm cửa, cửa không khoá.
Chỉ liếc nhìn một cái, hai chân bỗng hoá đá, sững sờ rất lâu rất lâu.
Đợi sau khi hai chân có thể cử động, tôi quay ra ngoài sân, từ từ ngồi xuống bậc cầu thang.

Tôi biết rõ Lý San Lam đã đi rồi, là một đi không trở lại.
Vì cún con biến mất rồi.

(65)

Bác chủ nhà nói, một ngày trước khi tôi đáp xe lửa về Đài Nam, Lý San Lam đã dọn đi.
Không nói là đi đâu, cũng không lưu lại lời nhắn nào.
Tôi hy vọng mang theo khổng tước rời khỏi khu rừng, nhưng khổng tước kiêu ngạo lại lựa chọn tránh ra xa, không để tôi phải khó xử.

Tôi đóng gói chỗ đồ còn lại, không định để lại thứ gì.
Chỉ còn lại trên tường, cái áo khoác màu xanh lam Lý San Lam tặng tôi.
Tôi cầm cái áo khoác, phát hiện ra mảng tường phía sau nó có mấy dòng chữ màu đỏ.

“Em sẽ kiêu ngạo ở lại trong rừng, hoặc là đi tới một khu rừng khác.
Mặc dù em không thể nào xoè đuôi, nhưng anh thì có.
Chúc anh xoè đuôi.
Lý San Lam.”

Tôi đã từng nói với cô ấy, nếu gặp được người mình thật sự thích, tôi sẽ viết thư tình.
Vì thế tôi viết một bức thư tình, người nhận là Lý San Lam.
Không ký tên là Kha Tử Long nữa, mà dùng tên thật Thái Trí Uyên.
Dán bức thư này lên trên tường, cùng với những hàng chữ màu đen, màu xanh, màu đỏ.

Trước khi đi, tiện thể giúp bác chủ nhà tìm khách thuê phòng mới.
Chỉ mất một ngày đã tìm được khách thuê mới, là một anh thanh niên tầm 30 tuổi.
Anh ta vừa bước vào căn phòng ở tầng trên, liền bị cánh cửa sổ sát đất thu hút.
Ngắm nghía cánh cửa sổ sát đất hồi lâu, anh ta mới nói:
“Cái cửa sổ sát đất này giống như một miệng núi lửa ngàn năm chưa có người lai vãng, yên lặng trầm sâu, long lanh trong suốt. Tuy nó không biết nói, nhưng tôi cảm thấy nó đang dệt nên muôn ngàn từ ngữ, âm thầm kể lại một câu chuyện. Tuyệt quá! Nhất định tôi phải ở nơi này.”

Anh ta càng nói càng hưng phấn, nói xong quay lại nhìn vẻ mặt đầy nghi hoặc của tôi, xấu hổ cười nói:
“Tôi viết văn, là nhà văn hạng ba.”
Tôi bình thản cười, không nói gì.
“Ồ?” Anh ta chăm chú nhìn bức tường cạnh giường, “Sao trên tường lại có một bức thư?”
Anh ta quay sang nhìn tôi, ánh mắt kiếm tìm lời giải đáp.

Tôi nhìn anh ta một lúc, hỏi bài trắc nghiệm đó:
“Ở trong rừng sâu anh nuôi vài con vật: ngựa, trâu, dê, hổ và khổng tước. Nếu có một ngày anh bắt buộc phải rời khỏi khu rừng, nhưng lại chỉ có thể mang theo một con vật, anh sẽ mang theo con vật nào?”

Anh ta nghĩ rất lâu, trả lời: “Vậy tôi không rời khỏi rừng nữa.”
Tôi sững lại, lại hỏi: “Nếu khu rừng xảy ra hoả hoạn, hoặc là bị lũ lụt thì sao?”
“Tôi vẫn sẽ không rời khỏi khu rừng.” Anh ta nói.
“Tại sao?”

“Mấy con vật đó đều do tôi nuôi, cho dù tôi có thích hay không. Trên thế giới này, chúng tôi sở hữu lẫn nhau, cũng chỉ có nhau. Tôi không có quyền, cũng không muốn quyết định con nào được sống, con nào nên chết đi. Điều duy nhất có thể làm, là ở lại với bọn chúng, cho đến ngày tận thế.”
Vẻ mặt anh ta rất nghiêm túc, nhưng một lát sau lại cười mà nói: “Có phải cách suy nghĩ của tôi rất kỳ cục không?”
“Không.” Tôi cũng cười.

Có lẽ cũng giống như Martini tiên sinh, cảm thấy anh ta và tôi có duyên với nhau nên kể cho tôi nghe câu chuyện của anh ta, tôi cũng cảm thấy anh chàng nhà văn trẻ này có duyên với tôi.
“Có muốn nghe câu chuyện về lá thư kia không?” Tôi chỉ lên trên tường.
“Cầu còn không được.” Anh ta nói.
Tôi mời anh ta ngồi, sau đó kể cho anh ta nghe câu chuyện của tôi.
Mặc dù anh ta nghe một cách rất hứng thú, nhưng từ đầu đến cuối đều không xen vào.

“Hai năm sau, anh sẽ về Đài Loan chứ?” Nghe xong, anh ta hỏi.
“Cho dù tổng thống Bush có quỳ xuống cầu xin tôi, thậm chí ôm chân tôi, tôi vẫn sẽ trở về.”
“Là vì Lý San Lam sao?”
“Phải.” Tôi gật đầu.

“Có phải bởi vì cô ấy đã trở thành tảng đá bên phải của anh?”
“Không chỉ là như vậy.”
“Hả?”
“Lý do tôi chọn khổng tước là bởi vì nếu như không chọn khổng tước, nó sẽ không sống nữa. Nhưng tôi cũng là một con khổng tước, nếu Lý San Lam không chọn tôi, tôi cũng không sống nổi.”

Anh ta trầm ngâm hồi lâu rồi mới mở miệng nói:
“Tôi tin Lý San Lam nhất định sẽ quay trở lại nơi này.”
“Tại sao?”
“Bởi vì cô ấy biết anh cũng sẽ quay lại đây.”
Tôi cười, cảm thấy anh chàng nhà văn hạng ba này có một cảm giác thân thiết khó tả.

“Nếu cô ấy trở lại, tôi sẽ giúp anh giao lá thư này.” Anh ta chỉ lên tường.
“Cảm ơn.” Tôi như trút được gánh nặng trong lòng.
Đưa chìa khoá cho anh ta xong, tôi bắt tay anh ta, quay người bỏ đi.
Là kiểu bỏ đi mà trong lòng rất rõ nhất định sẽ có ngày trở lại.

Cuối cùng phải rời khỏi khu rừng rậm Đài Loan rồi.
Mặc cho Vinh An kêu khóc nửa ngày, tôi vẫn kiên quyết không cho cậu ấy đến sân bay tiễn tôi.
Tôi không mang theo con vật nào, chỉ có bản thân mình đồng hành.

Trời sắp sáng rồi, đêm lúc này là đen nhất.
Một mình tôi ngồi trong sảnh chờ rộng lớn của sân bay vắng lặng, âm thầm chờ xoè đuôi.


THE END
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

31#
 Tác giả| Đăng lúc 19-7-2012 23:55:21 | Chỉ xem của tác giả
(62)

Tôi chưa định nói cho Lý San Lam biết, thậm chí cảm thấy không nói cho cô biết cũng chẳng sao.
Cô ấy như không phát hiện ra sự thay đổi của tôi, cách thức chúng tôi tiếp xúc với nhau vẫn như cũ.
Tối hôm bắt đầu đóng gói hành lý, sàn nhà lại vọng ra hai tiếng “tung tung”, tôi đặt đồ xuống, đi xuống lầu.
“Đây là gì thế?” Vào phòng cô ấy, tôi chỉ đống đồ đang bày trên đất.
“Đồ thủ công thêu tay.” Cô ấy đáp, “Bây giờ rất thịnh hành ở Đài Bắc.”
“Ồ.”
Tôi khom người, chọn lấy hai cái cho vào tay ngắm nghía.

“Anh thấy thế nào?” Cô ấy khoanh chân ngồi xuống, “Tôi hỏi ý kiến của mấy người, người thì bảo đẹp quá, nhưng cũng có người bảo xấu.”
“Ý kiến của tôi là tổng hợp của hai ý kiến này.”
“Nghĩa là sao?”
“Là xấu quá.”
“Ê.”

Tôi đứng dậy, cười nói: “Định đến Đài Bắc bán mấy thứ này à?”
“Ừm.” Cô ấy gật đầu.
“Vậy chúc cô kinh doanh phát đạt.”
Cô ấy ngẩng đầu nhìn tôi, như cảm thấy lời tôi nói có gì đó khó tin.
Tôi không nói gì nhiều, chơi với cún con một lúc rồi trèo lên phòng.

Tôi khuỵ gối trái xuống, vừa mới nhét một đống sách vào thùng chuẩn bị dán băng keo, cô ấy đột nhiên xuất hiện ở cửa, nói: “Quên không bảo với anh, tôi đã tìm thấy công việc…”
Nhưng cô ấy nói được một nửa đã dừng lại.
Tôi cũng dừng động tác lại, lặng lẽ nhìn cô ấy.
“Anh đang làm gì vậy?” Một lát sau, cuối cùng cô ấy cũng mở miệng hỏi.

“Tôi phải đi Mỹ.” Vừa nói, tôi vừa cắt băng dính, phát ra tiếng kêu lẹt xẹt.
Chúng tôi đồng thời bị âm thanh chói tai này làm cho chấn động, vì thế giống như người bị điểm huyệt, tuy vẫn nhìn nhau, nhưng không cách nào cử động.
Tôi như có thể nghe thấy tiếng tích tắc của đồng hồ treo tường và tiếng thình thịch của trái tim mình.

Một lúc lâu sau, cô ấy giải huyệt trước, thở hắt một hơi rồi nói:
“Anh có thích nước Mỹ không?”
“Không thích.”
“Vậy tại sao lại phải đi Mỹ?”
“Bởi vì sẽ có ích cho tương lai của tôi.”
Miếng băng keo kéo dài đến miệng hộp, cái thùng cuối cùng cũng khép miệng lại.

“Đến Mỹ rồi, nhớ hỏi thăm Clinton hộ tôi.”
“Tổng thống Mỹ không còn là Clinton từ lâu rồi, bây giờ là Bush.”
“Sao nghe giống cái tên ông Bush gì mà hồi xưa đánh chiến tranh vùng vịnh thế?”
“Ông ta là con trai của ông Bush kia, Bush là họ, không phải là tên.”
“Nước Mỹ là xí nghiệp nhà họ mở à, sao cả bố cả con đều làm tổng thống thế?”
“Tôi không biết. Nhưng ông Bush bây giờ cũng đánh chiến tranh vùng vịnh.”
“Hai bố con đều không biết xấu hổ giống nhau.”
“Đúng thế.”

Cô ấy đi vào phòng, nhìn khắp bốn xung quanh, hờ hững nói:
“Người không biết xấu hổ như thế làm tổng thống, anh còn qua Mỹ làm gì?”
Tôi không trả lời được, chỉ đành cười khổ.
Cô ấy đi nửa vòng quanh căn phòng, cuối cùng dừng chân lại, quay lưng lại với tôi.
Chiếc thùng giấy cao tới nửa người chắn giữa hai chúng tôi, như một chướng ngại vật.

“Chúng ta quen nhau bao lâu rồi?” Cô ấy không quay lại.
“Hơn hai năm rồi.” Tôi nghĩ một lát, trả lời.
“Anh thấy con người tôi thế nào?”
“Cho dù người khác cho nhìn nhận cô như thế nào đi chăng nữa, nhưng tôi cảm thấy cô rất được.”
“Không thể nào.” Cô ấy lắc đầu, “Chắc chắn anh cảm thấy tôi rất tồi tệ, nếu không anh đã chẳng ngay đến chuyện lớn như đi Mỹ cũng không muốn nói với tôi.”
“Không phải vậy đâu. Tôi chỉ là…” tôi lúng búng, “Chỉ là…”

“Chỉ là làm sao?” Cô ấy vẫn không quay đầu lại.
“Bỏ đi.” Tôi nói, “cũng chẳng có gì.”
“Rốt cuộc anh có nói hay không?”
“Tôi không biết là có nên nói hay không, cũng không biết phải nói thế nào.”
“Đừng lèm bèm nữa, đừng có quên, anh là người chọn khổng tước đấy.”
Nghe thấy cái từ khổng tước này, tim tôi như bị kim đâm một cái.

“Đúng, anh là người chọn khổng tước.” Nhìn bóng lưng cô ấy hồi lâu, cuối cùng tôi cũng mở miệng, “Vì thế mặc dù anh thích em, nhưng anh vẫn phải đi Mỹ.”
Vốn cho rằng nên ở trong rừng sâu tĩnh mịch, khi ánh dương xuyên qua những tán cây rậm rạp để rớt những đốm nắng lên người, tôi mới đột nhiên xoè đuôi, còn cô ấy sẽ sững sờ trước tấm thân mỹ lệ của tôi;
Không ngờ lại nói tôi thích cô ấy trong tình cảnh này, trong bầu không khí này.

Cô ấy chậm rãi quay người về phía tôi, trên mặt không lộ cảm xúc gì, bình thản nói:
“Trước khi anh đi Mỹ, tôi muốn nói vài lời cổ vũ anh.”
Tôi gật đầu, dỏng tai lắng nghe.
“Anh là đồ đàn ông vô dụng!”
Tôi giật mình, ruột gan xém chút nữa chui thẳng từ miệng ra ngoài.


“Người ta cố gắng phấn đấu, thường là vì bị coi thường, bị sỉ nhục hay bị bắt nạt.” Cô ấy mỉm cười, “Ví dụ nổi danh nhất trong lịch sử là nỗi nhục luồn trôn của Hàn Tín [15], còn có Ngũ Tử Tư [16], Trương Nghị [17] cũng thế.”
“Cho nên?”
“Cho nên bây giờ tôi phải cổ vũ theo cách của Hàn Tín, khích lệ anh tiến lên phía trước.”
“Có thể không dùng cách của Hàn Tín được không? Giống như Vương Bảo Xuyến sống trong hang lạnh khích lệ Tiết Bình Quý [18] cũng được vậy.”
“Không được. Tôi nhất định phải dùng cách của Hàn Tín.” Cô ấy nói, “Nghe cho kỹ đây.”
“Anh chỉ biết học, chả biết làm gì, cuối cùng đều vô tích sự.”
“Anh đạo đức giả, ích kỷ, hoàn toàn không để ý đến cảm nhận của người khác, chỉ nghĩ tới bản thân mình.”
“Anh vô giá, nói cách khác, chính là không có giá trị gì.”
“Anh không hiểu người khác, không biết cho đi, chỉ biết đòi hỏi, vì thế bạn gái anh mới không thèm anh nữa.”
“Anh đừng tự cho rằng mình khao khát tình yêu, thực ra căn bản anh không cần tình yêu, anh chỉ muốn sở hữu mọi thứ, thoả mãn hư vinh. Sở hữu mới làm cho anh vui vẻ, nhưng yêu thì không!”
“Anh lười biếng, không có chí tiến thủ, cũng giống như tứ đại phát minh  của Trung Quốc [19], anh lấy thứ dùng để đi biển đem ra xem bói, có thể chế tạo tên lửa anh lại chỉ biết đem ra xì khói.”
“Anh tưởng đi Mỹ là có thể thăng quan tiến chức sao? Không, chắc chắn anh sẽ lưu lạc đầu đường xó chợ, chìa bàn tay da vàng của anh ra cầu xin sự thương hại của người da trắng.”

15: Hàn Tín: Người nước Sở, khi còn trẻ ở ngoài chợ bị lão hàng thịt làm nhục, bắt chui qua háng, mọi người đều cho ông là người hèn hạ. Sau ông bỏ Sở theo Hán, được Lưu Bang trọng dụng, trở thành danh tướng.
16 Ngũ Tử Tư: đại phu nước Ngô, được vua Ngô là Hạp Lư tin dùng. Sau khi Hạp Lư qua đời, Phù Sai lên ngôi vì nghe lời gian thần nên không nghe lời can gián của Ngũ Tử Tư, còn ban cái chết cho ông.
17 Trương Nghị: thuyết khách nổi tiếng thời Đông Chu Liệt Quốc.
18 Tiết Bình Quý-Vương Bảo Xuyến: Vương Bảo Xuyến là tiểu thư nhà giàu có, ném tú cầu kén chồng trúng vào người cùng đinh là Tiết Bình Quý. Nàng bất chấp sự ngăn cản của cha, gả cho Bình Quý nên bị đuổi khỏi nhà, hai vợ chồng vào hang sinh sống. Tiết Bình Quý đi lính bị người của cha Bảo Xuyến hãm hại, đuổi sang quân Tây Lương, nhờ cơ duyên nên được công chúa Tây Lương lấy làm phò mã, giữ lại Tây Lương 18 năm. 18 năm sau Tiết Bình Quý về lại được Trung Nguyên, gặp lại Vương Bảo Xuyến vẫn sống trong hang lạnh chờ chồng.
19 Tứ đại phát minh của Trung Hoa cổ: La bàn, thuốc súng, nghề làm giấy và nghề in




Dù không biết dụng ý của cô ấy khi nói những lời này, có thể là kiếm cớ bùng phát, có thể là giận cá chém thớt, cũng có thể là thật lòng muốn tôi bắt chước Hàn Tín, tôi đều không để tâm.
Tôi chỉ hơi cúi thấp đầu, mặc cho những từ ngữ ấy giống như những con muỗi chui vào trong tai, nhưng trái tim tôi giống như xe bọc thép, không chịu một chút ảnh hưởng nào.

“Anh chỉ là…” Cô ấy hơi kích động, hơi thở có phần gấp gáp, vuốt ngực xong, hét lớn:
“Anh chỉ là một con khổng tước ham hư vinh!”


Ngực cuối cùng bị trúng một chưởng nặng nề, tôi cảm thấy mình bị thương rồi, ngẩng đầu lên nhìn cô ấy.
Mặt cô ấy đỏ bừng, đứng ngây ra một lúc, sực tỉnh chạy xuống lầu.

Trong khoảnh khắc cô ấy quay người chạy, hình như tôi nhìn thấy em gái cô ấy.
San Lam và Lệ Hạ cuối cùng cũng ở cạnh nhau, trở thành nước mắt đầm đìa.

Từ từ đứng dậy, hai chân vì khuỵ gối lâu quá trở nên tê buốt, xoa nắn một hồi rồi chán chường ngồi lên chiếc thùng giấy.
Muốn nói gì đó với chính mình, nhưng đến mở miệng cũng khó khăn.
Cảm thấy mình hệt như chiếc thùng giấy bị dán kín miệng, thậm chí cả tim cũng bị dán kín.
Sau đó tôi nghe thấy sàn nhà vọng lên một tiếng “tung”.
Mấy giây sau, lại một tiếng “tung” nữa.
Tôi cố gắng ổn định tâm trạng, tâm trạng ổn rồi bèn đứng dậy, định xuống nhà tìm cô ấy.

Một tiếng “tung” nữa lại đột ngột vang lên.
Tổng cộng là ba tiếng, tim tôi đập thình thịch, toàn thân căng thẳng, hai chân nhũn ra lại ngồi phịch xuống.
Trong đầu hiện lên bài hát khi cô ấy lần đầu đến nơi này: Knock three times.
Gõ ba tiếng nghĩa là nàng yêu chàng.
Tôi như quay về thời điểm đó, nghe thấy tiếng hát của cô ấy:

Oh my darling knock three times on the ceiling if you want me……

Lời bài hát cứ chạy loạn trong đầu, đến chỗ nào cũng gợi dậy những ký ức của hai năm chung sống.
Tiếng hát chấm dứt, tôi bắt đầu chính thức đối diện với sự lựa chọn giữa nước Mỹ và Lý San Lam.
Tôi không giống với Tiểu Vân, khi đối diện với sự lựa chọn này chỉ cảm thấy đau khổ và bất an.
Mà nguyên nhân đau khổ trong lòng tôi rất rõ, tôi đến cùng vẫn sẽ chọn nước Mỹ.
Đáng ghét, tại sao tôi lại là người chọn khổng tước chứ?
Nếu tôi chọn dê thì tốt biết bao?

Tôi bỗng nhiên kích động, xé toạc băng dính trên chiếc thùng giấy như trút mối căm hờn.
Chiếc thùng phát ra tiếng kêu xoèn xoẹt chói tai, giấy chỗ miệng thùng cũng bị rách mất một chút.
Giơ chân đá phăng chiếc thùng chắn lối tôi đi, nhưng nó quá nặng, ngược lại lại khiến chân bị thương.
Mặc kệ đau đớn, tôi vừa nhảy lò cò, vừa chạy xuống nhà.

Mới chạy được một nửa cầu thang, thấy cô ấy đã mở cánh cổng sắt.
Cô ấy quay đầu lại nhìn tôi, ánh đèn mờ mịt quá, tôi không nhìn được cảm xúc trên mặt cô ấy.
Sau đó cô ấy quay đầu lại, lách qua cửa, đóng cổng lại.
Chiếc cổng sắt phát ra tiếng kẽo kẹt nặng nề của kim loại, vang mãi không dứt.

Tôi chỉ thấy một bóng dáng màu xanh lam mất hút trong màn đêm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

30#
 Tác giả| Đăng lúc 19-7-2012 23:49:09 | Chỉ xem của tác giả
(59)

“Có phải mổ không?” Cô ấy hỏi.
“Không biết.” Tôi lắc đầu.
“Nếu phải mổ thì cứ mổ đi, nhưng lúc khâu vết mổ nhớ bảo bác sĩ khâu đẹp vào một chút.”
“Có cần tiện thể bảo bác sĩ khâu luôn một con khổng tước trên bụng cô?”
“Được thế là tốt nhất.” Cô ấy nói.

Chúng tôi lại tán phét một lúc, tinh thần Lý San Lam không còn ủ ê như lúc mới vào bệnh viện nữa.
Giường bên trái là một ông lão bị xuất huyết dạ dày, vừa nôn ra gần nửa chậu máu;
giường bên phải là một cô bé mặt bị thuỷ tinh cứa vào, vừa khóc vừa kêu đau.
So ra, chúng tôi vẫn may mắn chán, nhưng cũng không khỏi ngậm ngùi trước nỗi đau của người khác.
Liếc thấy vị bác sĩ vừa rồi đang vẫy tay với tôi, tôi lập tức đi tới chỗ anh ta.

“Cột này là chỉ số bạch cầu.”
Anh ta chỉ vào một con số, tôi cúi xuống đọc, hơn 19600.
“Chỉ số bình thường là từ 4000-10000.” Anh ta nói, “nếu lên gần 20000, bệnh nhân có thể bị hôn mê. Nhưng nhìn hai người nói chuyện như vậy, cô ấy hình như rất bình thường. Điều này…”
Anh ta nghĩ một lúc, quyết định lấy máu thêm một lần nữa, rồi nói với tôi:
“Nếu tình trạng cô ấy không ổn định, báo ngay cho tôi biết.”

Bác sĩ lấy máu xong, lại treo một tấm biển nền đỏ chữ đen khác, bên trên viết: Cấm uống.
Anh ta đi rồi, tôi cẩn thận quan sát thần sắc cô ấy, xác định là rất tỉnh táo cũng rất bình thường.
Nhưng bỗng nhớ ra cô ấy là một con khổng tước kiêu ngạo, cô ấy sẽ không vì không muốn tỏ ra yếu ớt mà cố gắng kiên cường chứ?
“Mật mã thẻ rút tiền của cô là bao nhiêu?” Ngẫm nghĩ một lúc, tôi hỏi.
“Hỏi làm gì?” Cô ấy nói.
“Chỉ muốn biết thôi.”
“Đừng có ngốc, chết tôi cũng không nói đâu.”
Tôi thở phào. Xem ra ý thức của cô nàng vẫn vô cùng tỉnh táo.

“Anh có biết tại sao tôi lại chọn khổng tước không?”
“Hả?” Tôi ngạc nhiên vì cô ấy đột nhiên lại hỏi thế, lập tức lắc đầu nói: “Không biết.”
“Nghe nói thợ săn thích lợi dụng trời mưa để bắt khổng tước, bởi vì nước mưa sẽ làm cho bộ lông đuôi của khổng tước bị ướt và nặng, khổng tước sợ nếu bay trong mưa sẽ làm hỏng lông vũ, nên cho dù thợ săn có đến gần đến thế nào, nó cũng tuyệt đối không cử động, chọn cách thúc thủ chịu trói, mặc cho người ta xâu xé.”
“Là vậy sao?” Tôi hiếu kỳ, “Mặc dù không bay được, nhưng vẫn có thể chạy mà?”

“Khổng tước rất nâng niu bộ lông xinh đẹp của nó, nhất là lông đuôi, bình thường nó ít bay chính bởi vì không muốn làm bị thương hay làm hỏng bộ lông. Dưới họng súng của thợ săn, khổng tước không bay, cũng không chạy. Bởi vì khi hoảng hốt bỏ chạy, lông đuôi nhất định sẽ bị kéo lê trong bùn lầy. Vì thế khổng tước thà đứng yên chờ chết, cũng không muốn chạy trốn, sợ thương tổn tấm thân hoa lệ.”
Khi cô ấy nói điều này, mắt cứ ngước nhìn trần nhà, không hề nhìn tôi.

“Mọi người đều nói khổng tước ham hố hư vinh, vì sắc đẹp đến tính mạng cũng chẳng màng, có thể nói là vì cái nhỏ mà đánh mất cái lớn. Nhưng nếu như khổng tước không thể xoè đuôi, không thể có được tấm thân hoa lệ, vậy thì sống còn có ý nghĩa gì nữa?”
Đang suy nghĩ xem nên đáp lời cô ấy thế nào, cô ấy lại tự lẩm bẩm nói tiếp:
“Tất cả động vật đều cho rằng sinh mạng là quan trọng nhất, nhưng khổng tước không giống thế, nó cho rằng tín ngưỡng còn quan trọng hơn sinh mạng. Cho dù cận kề với cái chết, nó vẫn bảo vệ tín ngưỡng của mình.”
Tôi chăm chú nhìn cô ấy, phát hiện thấy tinh thần cô ấy rất bình tĩnh, ngữ khí cũng rất bình lặng.

“Người ta đem khổng tước thêu dệt thành giáo án tiêu cực, dạy trẻ con không được bắt chước sự kiêu ngạo và hư vinh của khổng tước. Khổng tước không có bạn, cũng không có ai hiểu nó, nó rõ ràng có một tín ngưỡng cao quý, mọi người lại chỉ biết nói nó cao ngạo, hư vinh, chắc chắn nó rất cô đơn.”
Nói đến đây, cô ấy ngừng lại một lúc, nhẹ thở dài một hơi, nói tiếp:
“Khổng tước cô đơn như vậy, tôi đương nhiên là chọn nó.”

Cuối cùng tôi đã biết lý do Lý San Lam chọn khổng tước.
Trước đây rất ghét định kiến của mọi người đối với người chọn khổng tước, không ngờ bản thân mình cũng có định kiến với khổng tước.
Nhưng bây giờ định kiến cũng được, không định kiến cũng xong, đều không sao cả.
Tôi và cô ấy đều là người chọn khổng tước, mặc dù lý do lựa chọn không giống nhau, nhưng đều vì chọn khổng tước mà bị xem là ham hư vinh.

Cô ấy không nói gì nữa, chỉ nhìn lên trần nhà, cứ như trần nhà là một dải biển xanh thẳm vậy.
Sau đó cô ấy quay sang tôi. Hai chúng tôi bốn mắt nhìn nhau, không nói gì.
Rất lâu sau, cô ấy bỗng mở miệng: “5169.”
“Hả?”
“5169, mật mã thẻ rút tiền của tôi.”
Cô ấy nói xong, chỉ vào tôi mỉm cười.

Tôi bỗng sực hiểu, cảm thấy ý thức của cô ấy có lẽ đã bắt đầu mê man.
Vội quay người lại đâm ngay vào cột truyền dịch cạnh giường, cái cột lắc lư hai cái tôi mới dựng nó lên được.

Sau đó cuống cuồng chạy đi tìm vị bác sĩ kia.

(60)

Bác sĩ vội đến tiêm cho Lý San Lam hai mũi, lại đổi một bình dịch truyền khác.
Vì phẫu thuật là một chuyện lớn, hơn nữa tôi cũng không biết phải liên lạc với gia đình Lý San Lam như thế nào, vì thế anh ta vẫn đề nghị theo dõi thêm, vạn bất đắc dĩ mới làm phẫu thuật.
Cũng may tình trạng cô ấy dần ổn định, chỉ số bạch cầu cũng bắt đầu giảm xuống.
Khi cô ấy cuối cùng cũng hết đau mà thiếp đi, đã là bốn giờ sáng.

Tôi về nhà ngủ một giấc, sáng hôm sau lại tới phòng cấp cứu của bệnh viện.
Hình như cô ấy ngủ rất ngon, vẻ mặt rất an nhàn.
Tôi ra ngoài mua một tờ báo, tìm một cái ghế, ngồi cạnh giường đọc báo.
Đọc xong báo, cô ấy vẫn chưa tỉnh, lúc này mới phát giác bụng hơi đói, bèn ra ngoài mua đồ ăn sáng.

Khi quay về, cô ấy vừa tỉnh lại.
“Đỡ hơn chưa?” Tôi hỏi.
“Đỡ nhiều rồi.” Cô ấy nói.
Tôi thở hắt một hơi dài, rồi cười cười.
“Quấy quả anh cả đêm, thật là ngại quá.” Cô ấy nói.
“Không đâu.” Tôi nói.

Lý San Lam nằm trong phòng cấp cứu theo dõi ba đêm liền, tôi cũng ở bên cô ấy ba đêm.
Giường bên cạnh không ngừng đổi bệnh nhân, đa số chỉ ở có một đêm.
Bởi vì bệnh nhẹ, điều trị hay băng bó xong liền về nhà nghỉ ngơi; bệnh nặng thì nhập viện luôn.
Rất ít khi có người ở liền ba đêm giống cô ấy.
Tấm biển cấm ăn cấm uống vẫn cứ treo ở đó, cô ấy vì không ăn không uống gì mà môi khô nứt nẻ.

Trong khoảng thời gian này, tôi vẫn luôn đỡ cô ấy đi vào nhà vệ sinh.
Nhưng cách cửa nhà vệ sinh mười bước, cô ấy sẽ kiên quyết bắt tôi dừng lại để cô ấy tự đi.
Tôi càng biết rõ cô ấy chẳng có bạn bè gì, bởi vì ngoài tôi ra, không có ai đến thăm cô ấy.

Làm xong thủ tục xuất viện, tôi đưa cô ấy về nhà. Vừa vào cửa cô ấy nói: “Đúng là quay về cố hương.”
Tôi để cô ấy nghỉ ngơi trước, sau đó ra ngoài mua ít gạo và đồ hộp, về nấu một nồi cháo.
Tay trái cô ấy cầm bát hơi run run, đến tay phải cầm đũa cũng không vững.
“Chỉ là một bữa cháo mà thôi, không cần phải cảm động, cũng không cần phải kích động.”
“Đồ ngốc.” Cô ấy nói, “Ba ngày rồi tôi không ăn cơm, hết sạch sức lực rồi.”

Một tuần liền, tôi vẫn luôn để tâm, buổi tối đi ngủ không đóng cửa, ngủ cũng không yên, chỉ sợ cô ấy lại xảy ra chuyện.
Một tuần trôi qua, thấy mọi thứ đều đã bình thường, mới yên tâm.
Sau đó tôi gọi điện thoại cho Vinh An, bảo cậu ấy tôi đã xác định thích Lý San Lam.
Ở đầu kia điện thoại cậu ấy vừa hò vừa hét, điệu bộ rất phấn khích.

Chuyện xác định thích Lý San Lam này, khiến mấy ngày sau tôi không được tự nhiên khi đối diện với cô ấy.
Tôi giống như một con khổng tước kiêu ngạo, để che giấu sự mất tự nhiên này, đành vờ như không có việc gì.
Hoặc có lẽ tôi nên học cách làm thế nào để xoè đuôi và phô ra sự xán lạn của bản thân, thu hút ánh mắt cô ấy.
Dù gì tôi và cô ấy đều là người chọn khổng tước, một khi tôi có thể tự do thoải mái xoè đuôi trước mặt cô ấy, cô ấy chắc sẽ hiểu được.

Mấy ngày trước khi bảo vệ luận văn tốt nghiệp, để thả lỏng tâm trạng căng thẳng, tôi một mình đi tới Yum.
Rất lâu rồi không gặp Tiểu Vân, muốn tán gẫu với cô nàng.
Vào trong quán vừa ngồi vào chỗ cũ, lại thấy một gương mặt quen thuộc.
Vỹ Đình cũng ở đó.

Duyên phận là một thứ vô cùng kỳ quái, nó có thể thúc đẩy sự nảy sinh một đoạn tình cảm, nhưng nếu tình cảm không còn, có nhiều duyên phận đến đâu cũng chỉ tạo nên thêm bấy nhiêu khó xử mà thôi.
Tôi rất khó xử, Vỹ Đình có lẽ cũng khó xử, đến Tiểu Vân trên mặt cũng viết hai chữ khó xử.

“Thưa anh, xin hỏi anh uống gì?” Tiểu Vân phá vỡ sự im lặng, nói giọng rất khách sáo.
Đầu tiên tôi hoang mang, rồi chợt hiểu ra, thì ra cô nhóc này cố tình giả vờ xa lạ để tránh khó xử.
“Ê, đừng giả vờ nữa, anh với em rất thân mà.” Tôi nói, “Như cũ, cà phê em pha.”
Tiểu Vân bất đắc dĩ cười trừ, quay đi pha cà phê.

Trước khi cà phê pha xong, tôi và Vỹ Đình đều không nói gì.
Tiểu Vân pha cà phê xong bưng ra trước mặt tôi, tôi mới hỏi Vỹ Đình: “Sao em lại ở đây?”
Vỹ Đình ngần ngừ một lúc, đáp: “Em sắp kết hôn, đến mời Tiểu Vân dự tiệc.”
“Đúng là chuyện tốt.” Tôi nói.
“Đâu có ai nói là chuyện xấu đâu.” Tiểu Vân nói.
“Đúng vậy.” Vỹ Đình nói.
Ba người chúng tôi lại trầm ngâm.
Cuối cùng Vỹ Đình nói: “Em cũng rất hoan nghênh anh đến tham dự lễ cưới.”
“Rõ ràng em biết là anh sẽ không đi, sao còn cố moi tiền mừng của anh?” Tôi cười cười nói: “Nhưng anh vẫn sẽ chúc phúc cho em.”
“Anh quả nhiên là người chọn khổng tước.” Vỹ Đình nói.
Mặt tôi hơi biến sắc.

Vỹ Đình thấy phản ứng của tôi, bèn nói: “Xin lỗi.”
“Sao lại xin lỗi?” Tôi nói.
“Em biết anh không thích người khác nói mình là người chọn khổng tước.”
“Không.” Tôi lắc đầu, “Anh rất may mắn vì đã chọn khổng tước.”
Vỹ Đình và Tiểu Vân đưa mắt nhìn nhau, cảm thấy bất ngờ.

Tôi uống cạn chỗ cà phê trong ly, đứng dậy nói với Vỹ Đình: “Chúc mừng em trước.”
“Cảm ơn.” Cô ấy cười.
“Anh ấy chọn con vật gì?” Tôi hỏi.
“Anh ấy cũng chọn dê.”
“Đúng là nhất đại cuộn lại.”

“Nhất đại?” Cô ấy thắc mắc, “cuộn lại?”
“Chữ nhất và chữ đại hợp lại thành chữ thiên là trời[14], chính là hợp tác thành trời. Cuộn lại là từ dùng để chỉ cách đọc ngược lại trong giải câu đố, cho nên nghĩa là ông trời tác hợp.”
“Cảm ơn.” Cô ấy hiểu ra, bèn mỉm cười.
Tôi cố để cho mình bước khỏi Yum một cách ung dung, nhưng lại quên trả tiền cà phê.

[14]  Chữ Nhất (一) và chữ Đại (大) trong tiếng Trung kết hợp với nhau thành chữ Thiên (天)


Về đến nhà, vừa mới bước qua cánh cổng sắt, thấy Lý San Lam đang đứng trong sân.
“Sao về sớm thế?”
“Sao về sớm thế?”
Hai chúng tôi đồng thanh cất tiếng hỏi.
“Tối nay không đến phòng nghiên cứu, một mình đến Yum chơi, kết quả là gặp ngay bạn gái cũ đang đi phát thiệp hồng, vì thế về trước.” Tôi trả lời trước. “Nói xong rồi.”

“Anh không có phản ứng gì sao?”
“Nếu tôi chọn ngựa, có lẽ sẽ lập tức tung vó chạy, vì sợ cô ấy giày vò tôi; nếu tôi chọn trâu, có lẽ sẽ nói dăm ba câu xã giao, vì sợ chồng cô ấy sau này lại làm ăn với tôi; nếu tôi chọn hổ, có lẽ sẽ hắt nước vào mặt cô ấy, sau đó vênh mặt bỏ đi; nếu tôi chọn dê, có lẽ tôi sẽ gào lên trong lễ cưới của cô ấy: Đừng lấy hắn! Anh mới là tình yêu đích thực của đời em!”

“Nhưng anh chọn khổng tước mà.”
“Vì thế tôi tao nhã đứng dậy, nói một câu đố có khí chất để chúc phúc. Lúc đi về, đến tiền cà phê cũng không trả.”
“Quả đúng là người chọn khổng tước.” Cô ấy cười nói, “Coi như không làm mất thể diện của khổng tước.”

“Đến lượt cô.” Tôi nói, “Giờ này lẽ ra cô phải ở Búp bê Trung Quốc chứ?”
“Tôi không làm ở đó nữa rồi, vì tôi sợ sẽ trở thành gái nhảy.” Cô ấy đáp.
“Tại sao?” Tôi ngạc nhiên.
“Hình như bọn họ kiếm tiền rất dễ, sự cám dỗ này với tôi càng lúc càng lớn. Tôi sợ có ngày không cưỡng lại được, tôi sẽ không còn là Lý San Lam mà anh biết nữa.”
“Nghỉ làm từ bao giờ?”
“Ngày thứ ba sau khi ra viện.”

“Đúng rồi.” Cô ấy lại nói, “Công việc ở siêu thị tôi cũng thôi rồi.”
“Tại sao?” Tôi càng sửng sốt.
“Ưu điểm lớn nhất khi làm ở siêu thị đó là thường có đồ ăn quá hạn mang về miễn phí. Nếu sau này tôi không ăn đồ quá hạn nữa, vậy cũng không cần đến đó làm việc rồi.”
“Cuối cùng cô cũng chịu nghe lời tôi rồi.”
“Nếu còn không nghe theo, tôi sẽ không còn là Lý San Lam mà anh quen biết nữa rồi.”
Tôi cười, giảm đi thêm một vướng mắc trong lòng.

“Công việc ở siêu thị nghỉ lúc nào?”
“Cũng là ngày thứ ba sau khi tôi ra viện.”
“Còn có chuyển biến gì xảy ra vào ngày thứ ba sau khi cô ra viện mà tôi không biết không?”
“Có.”
“Chuyển biến gì?”
“Tôi cảm thấy quen với một người chọn khổng tước thật là tốt.”
Nói xong, cô ấy cười.

“Thực ra ngày thứ ba sau khi cô ra viện, tôi cũng có một chuyển biến.”
“Chuyển biến gì thế?”
“Tôi rất vui vì mình đã chọn khổng tước.”
“Dù bị coi là ham hư vinh cũng không sao?”
“Đúng vậy.” Tôi nói, “Không sao hết.”

Mặc dù không có thợ săn cầm súng đứng trước mặt, nhưng hai con khổng tước chúng tôi lại dường như bất động.
Tôi cố gắng thử xoè đuôi, cô ấy như đang đợi tôi xoè đuôi.

(61)

Hôm bảo vệ luận văn, tôi thắt chiếc cà vạt mà Martini tiên sinh tặng.
Không có ý nghĩa gì đặc biệt, chỉ cảm thấy nó sẽ đem lại may mắn mà thôi.
Vấn đáp quả nhiên rất thuận lợi, luận văn không có vấn đề gì.
Đại khái chỉnh sửa thêm một tháng nữa, là có thể lấy bằng.

Buổi bảo vệ vừa kết thúc, tôi đưa Lý San Lam đến Yum tìm Tiểu Vân ăn mừng.
Tiểu Vân mời khách, tôi và Lý San Lam mỗi người uống hai ly rượu.
Tuy bọn họ gặp nhau lần đầu, nhưng hình như rất hợp nhau, ba người bọn tôi tán gẫu suốt buổi tối.
Trước khi về, Tiểu Vân ám muội bảo tôi: “Chúc mừng anh nhé.”
Không biết ý của cô nàng là chúc mừng tôi tốt nghiệp? Hay là chúc mừng tôi tìm được Lý San Lam?

Mấy ngày trước khi hoàn thành bản hiệu đính luận văn, thầy giáo hướng dẫn cho tôi biết một tin.
Đại học Berkeley ở California, Mỹ có một cơ hội làm nghiên cứu, vừa vặn có liên quan đến đề tài luận văn của tôi, chỉ cần tôi có hứng thú, thầy có thể viết thư giới thiệu tôi.
Đây là một cơ hội rất tốt, không những có thể bồi dưỡng thêm, lại còn có tiền; quan trọng nhất là, sau này về Đài Loan, cũng coi như là đã từng ăn bơ sữa của chủ nghĩa tư bản, nên việc làm một giáo viên hay tìm một công việc khác cũng sẽ dễ dàng hơn nhiều.

“Phải đi bao lâu?” Tiểu Vân nghe tôi kể xong, hỏi.
“Hai năm.” Tôi đáp.
“Sau đó thì sao?”
“Có thể về Đài Loan, cũng có thể phát hiện ra môi trường làm việc bên đó tốt, ở lại Mỹ luôn cũng chưa biết chừng.”
“Anh muốn ở là ở được sao?”
“Nhân tài ưu tú như anh, chưa biết chừng tổng thống Mỹ đích thân đến nài nỉ anh ở lại.”
“Anh tưởng bở quá đấy.” Tiểu Vân bật cười.

Cười xong, Tiểu Vân nói: “Trong lúc anh tưởng bở, có nghĩ tới Lý San Lam hay không?”
Tôi sững người lại, rồi lắc đầu nói: “Cố gắng không nghĩ tới.”
“Tại sao lại không nghĩ?”
“Nghĩ rồi thì thế nào? Đưa cô ấy cùng đi Mỹ sao? Bảo cô ấy ở Đài Loan đợi anh hai năm sao?  Đó đều không phải là ý hay. Hơn nữa anh cũng không biết cô ấy có thích anh hay không, nghĩ những điều đó xa vời quá.”
Tôi nghịch nghịch ngón tay, cảm thấy bất an.

“Lúc đầu anh học tiến sĩ, là vì muốn sau này làm việc trong giới học thuật sao?”
Tiểu Vân hỏi xong, kéo một cái ghế đến quầy bar ngồi xuống, đối diện với tôi.
“Không phải.” Tôi lắc đầu, “Khi đó chỉ cảm thấy trường học là một khu rừng rậm an toàn, muốn tiếp tục ở trong đó học mà thôi.”
“Nhưng cuối cùng anh cũng phải ra khỏi rừng chứ, đúng không?”
“Đúng vậy.”

“Anh thật sự muốn đi Mỹ sao?”
“Đây không phải vấn đề muốn hay không muốn.” Tôi nói, “Đi du học dù sao cũng không giống, việc đó giống như là dát lên người một lớp vàng vậy.”
“Nếu Lý San Lam cũng rất thích anh, nhưng cô ấy lại muốn anh ở lại Đài Loan, anh sẽ lựa chọn thế nào?”
“Anh…” Nghĩ thật lâu, tôi cắn răng nói: “Anh vẫn cứ đi!”
Tiểu Vân không nói gì nữa.

Chúng tôi im lặng thật lâu, Tiểu Vân mới chầm chậm nói: “Anh về rồi, có lẽ nơi này cũng chẳng còn nữa.”
“Hả?” Tôi giật bắn mình, “Ý gì đây?”
”Em mệt rồi.” Cô ấy cười thản nhiên, “Muốn nghỉ một trận, hoặc là đổi nơi sống.”
“Quán này phải làm sao?”
“Em giao cho Tiểu Lan.”
“Cứ từ bỏ như vậy thì tiếc quá?” Tôi vô thức nhìn ra xung quanh, “Nơi này…”
“Hì, em là người chọn ngựa, sống vui vẻ thoải mái là quan trọng nhất.”

Tôi không nói lên lời.
Tiểu Vân không hề do dự hay đau lòng không nỡ, ngược lại rất thoải mái.
Dường như với cô ấy, đó chỉ là một câu hỏi lựa chọn đơn giản mà thôi.
Cô ấy chọn điều quan trọng nhất, mọi thứ khác đều cười xoà cho qua.

Tôi bỗng phát hiện vừa rồi mình cũng đã trả lời một câu hỏi lựa chọn, tôi chọn nước Mỹ, bỏ lại Lý San Lam.
Hơn nữa nguyên nhân tôi chọn nước Mỹ lại không phải là vì tôi muốn đi, mà là những thứ đằng sau nó, sau này có thể đem lại danh và lợi, và hư vinh.
Đây chính là ý nghĩa tượng trưng của chim khổng tước trong bài trắc nghiệm tâm lý kia.
Trước đây tưởng rằng mình là người chọn khổng tước mà lại không giống với người chọn khổng tước, vì thế tự cho mình là thanh cao, cho rằng mình bị hiểu lầm nên oan ức, tự cảm thấy mình vô duyên vô cớ gánh thêm tội trạng của khổng tước; nhưng không ngờ đó thực ra là vì tôi mãi vẫn chưa đến lúc phải lựa chọn mà thôi.
Một khi liên quan đến tiền đồ, liên quan đến trên người có dát một lớp vàng hay không, những thứ khác đều vứt sang một bên.

Thì ra trong tiềm thức của tôi, hoàn toàn là bản chất chọn khổng tước.
Nghĩ tới đây, tôi cảm thấy máu huyết trong người mình đông lại, toàn thân lạnh toát.

Sau khi hiểu rõ mình quả đúng là người chọn khổng tước, nghĩ tới sự bài trừ với bài trắc nghiệm tâm lý kia suốt mấy năm qua, không khỏi cảm thấy nực cười, cũng cảm thấy bi ai.
Nếu tôi đã không thể thay đổi bản chất của mình, hơn nữa cũng đã lựa chọn rồi, vậy thì cứ thành thật đối diện đi.
Tôi vừa làm thủ tục tốt nghiệp ra khỏi trường, vừa làm thủ tục xuất ngoại.

Bình luận

meo
Vừa đọc vừa tư duy luôn thể ^^  Đăng lúc 20-7-2012 12:19 AM
meo
Công nhận, mình cũng bị ấn tượng quả tính chiều cao bằng tang ấy 8->, nói chung đọc truyện bác Thái thì tha hồ gặp các hàm toán học với cả logic học  Đăng lúc 20-7-2012 12:19 AM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

29#
 Tác giả| Đăng lúc 19-7-2012 23:47:04 | Chỉ xem của tác giả
(57)

Trên đường về nhà, Vinh An mấy lần định nói rồi lại thôi, với cậu ấy điều này thật không bình thường.
Cho đến khi bước vào phòng tôi, cậu ấy cuối cùng không nhịn được hỏi: “Cậu thích Lý San Lam thật sao?”
“Điều này rất quan trọng sao?” Tôi nói.

“Nhưng tính khí cô ta không được tốt.”
“Điều này rất quan trọng sao?”
“Học vấn và hoàn cảnh sống của các cậu khác biệt rất lớn.”
“Điều này rất quan trọng sao?”
“Chẳng phải cậu ghét nhất là người chọn khổng tước sao? Nhưng cô ta rõ ràng là người chọn khổng tước.”
“Điều này…”
Tôi không nói tiếp.
Tôi quả thực không thích người chọn khổng tước, cũng ghét chính bản thân mình chọn khổng tước.
Tuy mọi người (trừ Lý San Lam ra) đều nói tôi không giống người chọn khổng tước, nhưng Lý San Lam lại cực giống với người chọn khổng tước.
Nói vậy, nếu tôi thích cô ấy, há chẳng phải là mâu thuẫn sao?

“Cậu ở trong rừng nuôi vài con vật: ngựa, trâu, dê, hổ và khổng tước. Nếu có một ngày cậu bắt buộc phải rời khỏi khu rừng, nhưng lại chỉ có thể mang theo một con vật, cậu sẽ mang theo con vật nào?”
Vinh An đột nhiên hỏi bài trắc nghiệm tâm lý này, tôi rất kinh ngạc.
“Cậu có biết tại sao tớ chọn chó không?” Cậu ấy hỏi.
“Không biết.” Tôi lắc đầu.
“Chó có lẽ tượng trưng cho tình bạn.” Cậu ấy nói, “Người phát minh ra bài trắc nghiệm tâm lý này, nhất định không nghĩ rằng trên thế giới này sẽ có người cảm thấy tình bạn mới là thứ quan trọng nhất.”
Tôi nhìn cậu ấy, không biết phải nói gì.

“Cậu có còn nhớ chuyện phải đổi phòng ngủ hồi năm thứ hai đại học không?”
“Ừ.” Tôi gật đầu.
“Khi đó mọi người đều nói tớ hay gây họa, hay mang lại xui xẻo, thậm chí nói tớ hành vi kỳ dị, không giống người bình thường, ví dụ như việc tớ cho chim đi dạo.” Nói tới đây, cậu ấy cười cười rồi nói tiếp:
“Vì thế không có ai chịu ở chung phòng với tớ cả.”
“Chuyện này tớ nhớ.”

“Chỉ có cậu chịu thu nhận tớ.” Cậu ấy nói, “Cậu hỏi tớ: Khi ngủ có ngáy không? Tớ trả lời: Không ngáy. Sau đó cậu nói: Phòng này chỉ có một quy định: nếu như có người ngáy lúc ngủ, người kia có thể dùng chân đá đít hắn.”
Tôi nhớ lại chuyện xưa, trên mặt không khỏi nở nụ cười.
“Từ khi chúng ta ở cùng nhau, cậu đã là người bạn tốt nhất quan trọng nhất trên đời này của tớ, nếu như sau này tớ và cậu cùng thích một cô gái, chắc chắn tớ sẽ nhường cho cậu, cũng sẽ giúp cậu.”
“Không cần cậu nhường.” Tôi cười, “Tốt nhất là cậu cũng đừng giúp.”

“Chuyện Lưu Vỹ Đình tớ rất tự trách, là tớ hại cậu, khiến cậu cả đời áy náy với cô ấy. Tớ đã thề trừ phi cậu tìm thấy người mình thật lòng yêu thương, nếu không cả đời này tớ cũng sẽ không có bạn gái.”
“Cậu yên tâm đi, bây giờ cô ấy có bạn trai rồi, tớ sẽ không cảm thấy áy náy nữa.”
Cậu ấy gật đầu, tiếp tục nói:
“Vốn tưởng rằng cậu ở bên Liễu Vỹ Đình sẽ hạnh phúc vui vẻ, không ngờ hai người lại chia tay.”
“Nói chuyện này làm gì?” Tôi nói, “Đã qua rồi mà.”

“Tớ cảm thấy cậu được hạnh phúc vui vẻ là điều quan trọng nhất, vì thế cho dù trong bài trắc nghiệm kia có chó hay không, tớ vẫn nhất định phải chọn chó.” Vinh An đột nhiên cất cao giọng, tay nắm chặt, nói lớn:
“Tớ nhất định phải chọn chó! Bởi vì tình bạn mới là thứ quan trọng nhất trên đời này!”

Trong đầu chợt hiện lên hình ảnh Vinh An rụt rè đứng ở cửa phòng ngủ hỏi, cậu ấy có thể dọn vào đây được không.
Tôi nhớ rất rõ ánh mắt cậu ấy khi đó.
Không sai, cũng chính bởi vì ánh mắt của cậu ấy, nên tôi quyết định ở cùng phòng với cậu ấy.
Cho dù khi đó các bạn trên lớp nếu không phải là khuyên bảo tôi, thì cũng là cười cợt tôi.

“Cậu thật sự thích Lý San Lam sao?”
“Có lẽ vậy, còn chưa chắc chắn lắm.” Tôi nói, “Có lẽ đợi sau khi làm rõ lý do cô ấy chọn khổng tước, sẽ có thể xác định.”
“Nếu cậu xác định rồi, nhất định phải nói với tớ.”
“Ừ.” Tôi gật đầu, “Nhất định.”
Vinh An rất vui vẻ, lại cười ngô nghê suốt.

“Nói cho cậu một bí mật nhé.” Cậu ấy nói.
“Bí mật gì?” Tôi hỏi.
“Thực ra lúc ngủ cậu rất hay ngáy.”
“Thật sao?” Tôi sửng sốt.
“Ừ.” Cậu ấy gật đầu, “Nhưng tớ chưa từng đá đít cậu.”
“Cũng may cậu chọn chó.” Tôi nói.
Sau đó chúng tôi cùng phá lên cười.

Ở bên Vinh An bao nhiêu năm nay, tôi rất rõ cái kiểu hay nói sai, hay gây hoạ của cậu ấy.
Nhưng tôi càng hiểu rõ hơn sự chất phác, sự lương thiện đáng yêu, và sự thành thực của cậu ấy đối với tôi.
Cậu ấy đưa tôi tới Yum, thường xuyên đến Đài Nam thăm tôi, cũng là hy vọng tôi có thể vui vẻ.
Còn nhớ có lần cậu ấy hỏi tôi: “Có muốn nhìn thấy hình dáng của hạnh phúc không?”
“Muốn chứ. Nhưng làm sao mà nhìn?”
Cậu ấy lập tức cởi quần, để lộ ra cái “que sinh mệnh” của cậu ấy, đắc ý nói:
“Tớ dùng bút mực xanh vẽ chim thành màu xanh, thế là biến thành chim xanh, chim xanh chính là biểu tượng của hạnh phúc. Bây giờ cậu nhìn thấy chim xanh rồi, chúc mừng cậu. Cậu đã tìm thấy hạnh phúc rồi!”

Tôi có thể vì như vậy mà bị lên lẹo mắt, không khỏi căm hận nói:
“Cần quái gì phải dùng bút xanh? Tớ đá vài cước là nó bầm xanh vào, cũng sẽ biến thành chim xanh.”
“Nói cũng phải.” Cậu ấy nói.
Tôi khều cái quần trên đất lên, vứt vào mặt cậu ta, hét lên: “Mau mặc vào cho tôi!”

Nhớ tới những hành động không đầu không cuối của Vinh An trước đây, tuy khi đó luôn cảm thấy tức giận hoặc dở khóc dở cười, nhưng bây giờ nghĩ lại, trong lòng lại thấy ấm áp.
Vinh An là người chọn chó, cho dù cậu ấy có là con chó ghẻ đi chăng nữa, cậu ấy vẫn là con chó trung thành nhất.
Là con chó chỉ thuộc về tôi.

Một tháng sau, Vinh An lại từ Bính Đông chuyển công tác đến Nghị Lan.
Nghị Lan và Đài Nam, một ở phía Đông Bắc Đài Loan, một lại ở phía Tây Nam.
Hai chúng tôi đều rất rõ, cơ hội gặp nhau không còn nhiều.
Trước khi cậu ấy đi Nghị Lan, còn đặc biệt đến tìm tôi, kéo tôi ra thận trọng nói với Lý San Lam: “Phiền cô chăm sóc cậu ấy nhé, trăm sự nhờ cô!”
Lý San Lam cảm thấy kỳ lạ, còn lườm cậu ấy một cái.

“Cậu nhất định phải nhớ, tớ là người chọn chó.” Trước khi lên xe, Vinh An nói với tôi:
“Cho dù cậu thay đổi thế nào, người khác nhìn cậu ra sao, tớ vẫn là người bạn trung thành nhất của cậu.”
Xe vừa chuyển bánh, cậu ấy lập tức hạ cửa kính xe, thò đầu ra nói lớn:
“Cho dù trời có sập xuống, tớ vẫn là người bạn trung thành nhất của cậu. Phải nhớ đấy!”

Tiễn Vinh An đi xong, tôi vào sân, Lý San Lam đang trêu đùa cún con.
“Có chó làm bạn thật tốt.” Cô ấy nói.
“Đúng vậy.” Tôi nói

Tôi bắt đầu hoài niệm tiếng cười sảng khoái tối hôm đó.

(58)

Vinh An đi rồi, tôi lại phải bận rộn với luận văn tốt nghiệp. Số lần tới Yum càng giảm hẳn đi.

Cún con mỗi ngày một lớn, trông rất khỏe mạnh đáng yêu, mỗi khi nghe thấy tiếng mở cổng sắt, liền chạy tới bên chân tôi vừa sủa vừa nhảy.
Chỉ cần ôm nó lên, nhìn thấy cái tinh hoàn only one của nó, tôi lập tức nhớ tới Vinh An.
Đúng là sự liên tưởng kỳ cục.

Mùa đông đến rồi, Lý San Lam không còn để cún con nằm ngoài sân nữa, đưa nó vào trong phòng.
Khi cô ấy đi Đài Bắc, sẽ giao nó cho tôi, tôi cũng sẽ để cho nó ở trong căn phòng tầng trên.
Nó rất ngoan, khi tôi ngồi vào bàn học, nó sẽ yên lặng ngồi bên chân tôi.
Khi tôi ra bến xe đón cô ấy từ Đài Bắc trở về, cô ấy vừa vào cửa sẽ chạy thẳng lên phòng tôi ôm nó xuống dưới.
Nhưng khi tôi về phòng, luôn nhìn thấy một món quà nhỏ cô ấy đặt trên bàn.

Phòng nghiên cứu quá lạnh, vì thế dù tôi bận rộn đến mấy, cũng đều về nhà để ngủ.
Có hôm gió mùa, lại lất phất mưa, tôi lạnh không chịu nổi, vội vàng về sớm.
Ngồi vào bàn viết, loáng thoáng nghe thấy “tung” một tiếng.
Nghe giống như tiếng Lý San Lam gõ lên trần nhà gọi tôi, nhưng nhẹ lắm, hơn nữa cũng không chỉ có một cái chứ.
Tôi dỏng tai nghe ngóng, qua hơn 20 giây, lại có một tiếng “tung” nữa.
Tuy tiếng động đã lớn hơn một chút, nhưng vẫn là quá nhẹ.
Nếu đúng là cô ấy gọi tôi, tại sau hai tiếng này lại cách quãng nhau như vậy?
Đặt bút xuống, chần chừ một phút, cuối cùng quyết định đi xuống nhà xem thử.
Cửa phòng Lý San Lam mở hé, ánh sáng màu trắng hắt qua khe cửa, tôi bèn đẩy cửa bước vào.
Cô ấy nằm trên sàn nhà, người cuộn lại, tôi sửng sốt: “Cô làm sao vậy?”
“Tôi…” Cô ấy nói rất vất vả, “Tôi đau bụng.”
“Có phải ăn phải đồ ăn hư không?”
“Tôi cũng không biết.”
“Đau lắm sao?”
“Ừ.” Lông mày cô ấy nhíu lại, chầm chậm gật đầu.

Nhìn đồng hồ, đã sắp 12 giờ, bệnh viện đều đóng cửa rồi, chỉ còn phòng cấp cứu là mở cửa thôi.
Quãng đường đi ra đầu ngõ gọi taxi đối với cô ấy quá là xa, hơn nữa giờ này cũng chẳng dễ gọi xe.
Tôi vội chạy lên phòng lấy chiếc áo khoác dầy nhất cho cô ấy mặc, rồi giúp cô ấy mặc áo mưa của tôi vào.
Nổ máy xe, để cô ấy ngồi sau ôm chặt eo tôi, hai tay đan vào nhau.
Tôi lái xe bằng một tay, tay kia nắm chặt lấy hai tay cô ấy, chỉ sợ cô ấy không cẩn thận ngã xuống đường.
Xuyên qua làn mưa ấm, cẩn thận rẽ quẹo, tôi mất bảy phút để đến được phòng cấp cứu.

Người ở phòng cấp cứu rất đông, động tác của mọi người chia thành hai cực trái ngược hẳn nhau:
Bác sĩ và y tá động tác cực kỳ tốc độ; bệnh nhân và người nhà dìu bệnh nhân động tác cực kỳ chậm chạp.
Trước khi đi lấy số, tôi hỏi cô ấy đau ở chỗ nào? Tay cô ấy ấn vào bụng dưới.
“Đau bụng hả?” Cô y tá ở cửa lấy số hỏi, “Có phải vùng bụng dưới bên phải không?”
“Không phải.” Tôi đáp.
“Nếu đau vùng bụng dưới bên phải, thì là viêm ruột thừa.” Cô ta nói.

Sau khi đo huyết áp và nhiệt độ, y tá bảo chúng tôi ngồi đó đợi.
Tôi ngồi không yên, đứng dậy đọc trình tự xử lý cấp cứu viết trên tường.
Xếp đầu tiên có lẽ là xuất huyết hay bị sốc gì gì đó, các loại đau bụng xếp tít ở tận chân trời xa xôi.
Đến chảy máu răng cũng xếp phía trước đau bụng.
Quay đầu nhìn Lý San Lam vẫn đang nằm vật trên ghế, hai mắt nhắm nghiền, lông mày và nét mặt đều tỏ vẻ đau đớn.
Bỗng kích động muốn xông đến tát cho cô ấy một cái, để răng cô ấy chảy máu, rút ngắn thời gian chờ đợi.
Trong mười phút chờ đợi dài dằng dặc đó, tôi đứng lên ngồi xuống cả thảy hơn 20 lần.

“Đau bụng à?” một bác gái trông có vẻ là người nhà bệnh nhân ngồi cạnh tôi hỏi: “Có phải đau vùng bụng dưới bên phải không?”
“Không ạ.” Tôi nhịn, miễn cưỡng trả lời.
“Nếu đau vùng bụng dưới bên phải, thì là viêm ruột thừa.” Bác ấy lại nói.
Bây giờ là sao đây?
Chẳng lẽ đau bụng nhất định phải là viêm ruột thừa, đau đít nhất định phải là bị trĩ sao?

Tôi không tài nào đợi được nữa, đợi nữa tôi sẽ phát điên lên mất.
Liếc thấy trong góc lối đi có một cái giường cáng, tôi dìu Lý San Lam ra đó, để cô ấy nằm lên trên.
Tôi đẩy chiếc giường vào trong, mới đi được bảy tám bước, một nam bác sĩ trẻ tuổi đã đi tới.
“Đau bụng à?” Anh ta nhìn Lý San Lam đang nằm trên giường.
“Vâng.” Tôi gật đầu.
“Có phải đau vụng bụng dưới bên phải không?” Anh ta nói, “Nếu đau vùng bụng dưới bên phải…”
“Không phải là viêm ruột thừa.” Tôi lỗ mãng ngắt lời anh ta.

Anh ta giật mình, đần mặt ra nhìn tôi. Tôi nhận thấy mình quá bốc đồng, cũng rất thất lễ, bèn nói:
“Xin lỗi.”
“Không sao.” Anh ta lại cười cười, “Tôi có thể hiểu được tâm trạng của anh.”
Anh ta đeo ống nghe cúi người kiểm tra sơ qua Lý San Lam, cân nhắc một hồi, tháo ống nghe xuống nói:
“Nhìn điệu bộ đau của cô ấy rất giống với viêm ruột thừa, nhưng nếu đã không phải là viêm ruột thừa, ờ…”
Anh ta gọi một cô y tá đến, đưa Lý San Lam vào phòng cấp cứu theo dõi.
Lấy một ít máu, truyền dịch, treo một cái biển nền đỏ chữ đen trên giường bệnh: Cấm ăn.
“Cô ấy bị làm sao vậy?” Tôi hỏi.
“Theo dõi trước đã.” Anh ta nói, “Còn phải xem kết quả thử máu.”

Bác sĩ đi rồi, tôi đứng bên giường bệnh nói với cô ấy:
“Đã bảo cô đừng có ăn mấy cái đồ quá hạn, cô lại không nghe.”
“Bây giờ anh cứ phải nói những lời này à?” Cô ấy mở mắt nói.
“Đây là cơ hội giáo dục.” Tôi nói.
Cô ấy hứ một tiếng, nhắm mắt lại.

Một lát sau cô ấy lại mở mắt ra, nói: “Người anh ướt hết rồi.”
“Không sao, một lát là khô.” Tôi nói.
“Sao lâu như vậy anh mới xuống dưới phòng tôi?”
“Cô gõ trần nhà nhẹ quá, cách quãng lại lâu, tôi còn tưởng mình nghe nhầm.”
“Anh mà xuống muộn mấy phút nữa, e là tôi chết mất.”
“Nói linh tinh.” Tôi nhìn đồng hồ, “Đã hơn nửa tiếng rồi, cô vẫn còn sống sờ sờ ra đó còn gì.”
“Đây là thái độ nói chuyện với người bệnh sao?”
Tôi cười, nhìn xung quanh, mấy chục cái giường đều có bệnh nhân.

“Còn đau lắm không?” Tôi hỏi.
“Đỡ hơn một chút rồi, nhưng vẫn rất đau. Bác sĩ bảo sao?”
“Bác sĩ bảo cô rất đẹp.”
“Đúng.” Cô ấy thản nhiên cười, “Đây mới là thái độ nói chuyện với bệnh nhân.”
Tôi nhẹ nhõm thả lỏng tâm trạng, lúc này mới cảm giác được nước mưa và mồ hôi đang dính bết trên người.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

28#
 Tác giả| Đăng lúc 19-7-2012 23:45:59 | Chỉ xem của tác giả
(54)

Buổi tối ngày lễ tình nhân đáng bị nguyền rủa đó, tôi đến phòng nghiên cứu làm việc, tận đến bốn giờ sáng mới về nhà.
Tắm rửa xong, chuẩn bị ngủ một giấc thật thoải mái.
Mơ thấy hội đình chiêng trống rộn ràng, người múa sư tử dí sát cái đầu sư tử vào tôi, giật mình tỉnh giấc.
Bên ngoài vang lên tiếng gõ cửa, xuống giường ra mở, quả nhiên là Lý San Lam.
“Xuống ăn cơm đi.” Cô ấy nói.
“Bây giờ?” Nhìn đồng hồ, không khỏi thất thanh, “Bây giờ đã sắp năm giờ rồi? Muốn ăn tối? Ăn đêm? Hay là ăn sáng?”
“Đừng có khóc.” Cô nàng cười cười, “Xuống dưới đi.”

Cô ấy bày trong phòng một mâm cơm thịnh soạn, còn có một chai rượu vang còn một phần ba.
Cô ấy rót rượu vào ly, vừa vặn đầy hai ly rượu.
“Khách hàng uống thừa.” Cô ấy chỉ vào chai rượu rỗng trong tay.
Tôi nhìn một bàn đầy thức ăn, kinh ngạc không nói được lời nào.
“Thực ra đồ ăn chiều hôm qua đã chuẩn bị xong hết rồi.” Cô ấy nói.
“Vậy tại sao bây giờ mới nấu?”
“Hôm qua là lễ tình nhân mà, nếu hôm qua nấu cho anh ăn, anh hiểu nhầm thì sao?”
Tôi đành cười khổ.

“Ăn đi.” Cô ấy nói.
“Tôi còn chưa đói.” Tôi nói.
Cô ấy đưa tôi một cái chổi.
“Gì đây?”
“Sân bẩn rồi, cầm chổi đi quét sân, quét xong là đói ngay.”
Tôi lườm cô ấy, ngồi xuống chuẩn bị ăn cơm.

“Đoán thử xem.” Cô nàng nói, “Ở đây chỉ có một món không bị quá hạn thôi, anh đoán là món nào?”
“Cần gì phải đoán.” Tôi nói, “Đương nhiên chỉ có rượu là không quá hạn.”
“Anh thông minh lắm.” Cô nàng cười toe.
“Cô cứ ăn như thế này sớm muộn gì cũng có chuyện.”
“Đừng nói chuyện xui xẻo, con người phải tiến về phía trước, không sợ gian khổ.”
Mỗi lần nhắc cô ấy chuyện này, cô ấy đều không để tâm, tôi không nói nhiều nữa, bắt đầu ăn cơm.

Tôi kể với cô ấy chuyện đi gặp Lưu Vỹ Đình, tiện thể cảm ơn cô ấy đã chỉ điểm và cổ vũ.
“Người chọn khổng tước và người chọn hổ quả nhiên không giống nhau.” Nghe xong, cô nàng nói.
“Không giống nhau chỗ nào?”
“Cô ấy bị tổn thương, bèn nhốt mình trên núi cao lạnh lẽo, nếu đổi lại là tôi, sẽ càng đứng cho thẳng, ngẩng đầu cho cao, dũng cảm kiêu ngạo đi vào đám đông.”
Tôi nhìn cô ấy, tin rằng cô ấy thật sẽ làm như thế.

“Nhất định là anh rất hối hận vì đã đốt mất lá thư đó.” Cô ấy nói.
“Tại sao phải hối hận?”
“Bức thư đó chính là vật chứng cho thời tuổi trẻ xốc nổi và bồng bột của anh.”
“Bỏ đi.” Tôi nói, “Đã đốt mất rồi mà.”
Cô ấy đứng dậy lấy một tờ giấy trắng, rồi lấy một cái bút đặt vào tay phải của tôi.
“Bây giờ tôi nói gì, anh lập tức dùng bút ghi lại.” Cô ấy nói.

Tôi băn khoăn nhìn cô ấy, chỉ thấy cô nàng nhắm mắt trầm ngâm, một lát sau mới mở mắt ra nói:
“Nếu Đại học Thành Công là một vườn hoa, thì em chính là đoá hoa ngát hương nhất, hấp dẫn nhất…”
Nghe tới câu thứ hai mới giật mình nghĩ ra đây là đoạn đầu của bức thư tình kia, tay phải đập bàn hét lớn: “Ê!”
“Đừng ồn.” Cô nàng nói, “Tôi đang cố nhớ lại đây.”
“Đủ rồi đấy.”
“Tôi cố giúp anh khôi phục lại bức thư đó, sao anh chẳng biết đường cảm tạ nhỉ?”
“Cô…” Tôi thấy mặt mình nóng bừng.

“Đừng giận nữa, ăn cơm tiếp thôi.” Cô nàng cười toe toét.
Tôi lườm cô nàng một cái, lại cầm bát đũa lên.
“Viết thư tình là một hành vi cao sang, sau này anh còn viết nữa không?”
“Nếu gặp được người mình thật sự thích, tôi sẽ viết.”
“Nhỡ may người ta lại trả lại cho anh, anh nhớ đừng đốt đi đó.”
“Cô trù ẻo tôi vừa thôi.”
Cúi đầu và hai miếng cơm, ngẩng đầu lên đúng lúc bắt gặp ánh mắt cô ấy, hai chúng tôi cùng bật cười, như đang cùng nghĩ tới điều gì.

Hai hôm sau Vinh An đến tìm tôi, chúng tôi lại đến Yum tìm Tiểu Vân.
Tôi nói cuối cùng tôi đã trèo lên tảng đá bên phải rồi, hai người họ rất vui, nhất là Vinh An.
Cậu ấy uống thêm mấy ly, vừa hát vừa náo loạn, cuối cùng là tôi dìu cậu ấy về.
Bỗng dưng nhớ tới Martini tiên sinh, nếu anh ta ở đây, chắc chắn cũng sẽ rất vui.
Có những người chỉ tiếp xúc vài lần đã có thể giao cả trái tim; có những người dù ở bên nhau hàng ngày nhưng vẫn phải đề phòng mọi mặt.
Martini tiên sinh thuộc về nhóm thứ nhất.

Thỉnh thoảng tôi sẽ đến tìm Lưu Vỹ Đình nói chuyện, luôn cảm thấy nói chuyện với cô ấy xong cả người sẽ tràn đầy sức sống.
Lại thêm cùng là nghiên cứu sinh lớp tiến sĩ, cùng chung áp lực tốt nghiệp, hai bên đều thấu hiểu nhau.
Sau này tôi có bài luận văn gửi đăng trên tập san cần phân tích biến lượng, tôi nhờ cô ấy giúp, cô ấy nhận lời rất sảng khoái, ba ngày sau chuyển kết quả cho tôi, giúp tôi thuận lợi hoàn thành bài luận văn đó.

Thời tiết lại nóng lên, đã tròn bảy năm, kể từ cái liếc mắt cuối cùng của Lưu Vỹ Đình.
Vốn đã hẹn cô ấy năm giờ chiều gặp nhau dưới gốc cây kia, tôi muốn mời cô ấy ăn cơm, coi như hậu tạ.
Nhưng ba giờ rưỡi tôi lại phải đến phòng giáo vụ làm chút thủ tục, làm xong cũng mới bốn giờ, vì thế đi tới gần gốc cây đó, tiện thể đợi cô ấy luôn.
Từ xa nhìn thấy Lưu Vỹ Đình đang đi dạo với một chàng trai, trông thần thái cô ấy rất thoải mái, cười nói tự nhiên.
Tuy giữa hai người không có động tác gì thân mật, nhưng cảm giác thân mật vẫn có thể cảm nhận được.

Mùa xuân của Lưu Vỹ Đình đến rồi, tôi rất mừng cho cô ấy, trong lòng không hề có cảm giác gì khác.
Tôi quyết định bỏ hẹn, cũng quyết định không tìm cô ấy nói chuyện nữa, để tránh làm phiền.
Trước tiên rời khỏi trường đi mua sáu bông hồng, rồi lại về phòng học gần đó lấy một viên phấn.
Dùng phấn vẽ một con khổng tước đang xoè đuôi lên thân cây (nhưng trông lại giống con gà trống đang te tái chạy), sau đó đặt hoa hồng dưới gốc cây.

Ý nghĩa của sáu đoá hồng là: Chúc em mọi việc thuận lợi.
Tôi nghĩ Lưu Vỹ Đình sẽ hiểu.

(55)

Sắp lên tiến sĩ năm thứ sáu rồi, nếu không có gì thay đổi, cuối năm nay hoặc đầu năm sau là tốt nghiệp.
Nhưng tốt nghiệp xong thì phải làm gì?
Vấn đề này bắt đầu quấy nhiễu tôi.

Tôi 30 tuổi rồi, 30 tuổi mới tham gia vào giới công chức, đã là quá già.
Xem ra chỉ có cách tìm một cơ quan nghiên cứu nào đó làm một nghiên cứu viên, hoặc tìm một trường học nào đó làm giảng viên mới là đúng sách.
Chỉ tiếc là trong xã hội Trung Quốc, có quan hệ thì không vấn đề gì, không có quan hệ thì sẽ có vấn đề, tự hỏi người không có quan hệ lại cũng chẳng quá xuất sắc như tôi, e là đến làm một giảng viên be bé cũng khó khăn.
Vinh An và Tiểu Vân đều khuyên tôi đừng suy nghĩ nhiều, tốt nghiệp xong hãy tính.
Lý San Lam lại nói: “Anh có thể hợp tác với tôi.”

“Làm gì?” Tôi hỏi.
“Bán hàng.” Cô ấy nói.
“Hả?”
“Anh rất có năng khiếu, chúng ta hợp tác nhất định kiếm ra tiền.”
Tôi quyết định nghe theo ý kiến của Vinh An và Tiểu Vân, tốt nghiệp rồi tính sau.

Thời gian tôi ở trong phòng nghiên cứu dài ra, sau mua luôn một chiếc ghế nằm đặt trong phòng nghiên cứu, mệt thì nằm trên đó ngủ, kỷ lục nhất là đã từng ở trong phòng nghiên cứu ba đêm liền.
Lúc Vinh An đến tìm tôi, chúng tôi vẫn đi Yum tán gẫu với Tiểu Vân, đã thành thói quen rồi.
Với Lý San Lam thì vẫn vậy, thường chở cô ấy ra bến xe, cũng thường đến bến xe đón cô ấy về.
Thường cùng nhau nghiên cứu xem bán những đồ mua rẻ như thế nào cho đắt, mà đồ ăn quá hạn cũng chẳng ăn ít đi.

Tiết trời đã vào thu, tôi đặt thêm một chiếc chăn mỏng trên chiếc ghế trong phòng nghiên cứu.
Sau hai đêm liên tiếp ngủ trong phòng nghiên cứu, đêm thứ ba quyết định về nhà tắm nước nóng.
Vừa tắm xong, đang định thay bộ quần áo rồi đến phòng nghiên cứu tiếp, bỗng nghe dưới sàn nhà vọng lên hai tiếng tung tung.
Đi xuống phòng Lý San Lam, thấy trên bàn bày một chiếc bánh gato nhỏ.
“Sinh nhật ai thế?” Tôi hỏi.
“Tôi.” Hai mắt cô ấy nhìn chằm chằm vào cái bánh trên bàn.

Tôi ngây ra nhìn cô ấy, cảm thấy trông cô ấy hơi kỳ quặc.
“Sao nào?” Cô ấy ngẩng đầu lên lườm tôi, “Tôi không được tổ chức sinh nhật à?”
“Đương nhiên là được.” Tôi vội vã nói, “Bánh gato này…”
“Mất tiền mua đấy.” Cô ấy nói.
Tôi hơi ngạc nhiên, lại nhìn cô ấy một cái, nói: “Cô có phải là Lý San Lam mà tôi quen không?”
“Ê.” Cô nàng trừng mắt nhìn tôi.
Hình như tâm trạng cô ấy không tốt, tôi không nói tiếp nữa.

Trên bàn bày một chai rượu vang còn không đến một nửa, bên cạnh có một ly rượu.
“Chai rượu này lại là khách hàng uống thừa à?”
“Không.” Cô ấy nói, “Hôm nay là sinh nhật tôi, quán tặng.”
“Sao chỉ còn một nửa?”
“Tôi uống rồi.”
“Á?” Tôi giật mình, “Một mình cô uống rượu?”
“Không được sao?”

Cô ấy lại rót một ly rượu, vừa mới nâng ly lên, tôi nói: “Đừng uống nữa.”
“Tôi không thể chúc mình sinh nhật vui vẻ sao?” Cô ấy nói.
“Chúc mừng sinh nhật có rất nhiều cách, không nhất định phải uống rượu.”
“Sinh nhật tôi lại chỉ còn chính mình chúc mừng, lẽ nào không đáng để uống rượu hay sao?”
Nói xong, cô ấy nâng ly lên uống một hơi. Tôi nghĩ một lát, nói:
“Cô uống từ từ, tôi tặng cô thứ này.”

Tôi chạy lên trên phòng, lật bàn lật tủ tìm lọ nước hoa kia, tôi biết đây là nhãn hiệu cô ấy yêu thích nhất.
Xuống nhà đưa lọ nước hoa cho cô ấy, cô ấy tỏ vẻ rất kinh ngạc và mừng rỡ.
“Đây là anh đặc biệt mua về sao?” Cô ấy nói.
Tôi xấu hổ cười cười, rồi kể cho cô ấy nghe vì Thi Tường Ích nợ tôi hai nghìn tệ mãi không trả, vì thế mấy người chúng tôi chỉnh cậu ta, bắt cậu ta quẹt thẻ ở trung tâm thương mại, không ngờ lại mua đúng loại nước hoa mà cô ấy thích nhất.

Đốm sáng trong mắt cô ấy vụt tắt, nói:
“Đến gạt con gái anh cũng không biết, thảo nào bạn gái cũ của anh không thèm anh.”
“Ê.” Tôi nói, “Đừng tưởng là uống say rồi thì có thể nói lung tung.”
“Tôi không có say, hơn nữa tôi cũng không nói lung tung.” Cô ấy bỗng nhiên kích động, “Đến nói đây là anh cố tình mua tặng tôi để làm cho tôi vui anh cũng không làm được, làm gì có cô gái nào thích anh!”
“Đủ rồi đấy.” Tôi hơi tức giận.

“Không đủ không đủ, tôi phải nói.” Cô ấy đứng thẳng người lên nói to: “Năm nay tôi đã 30 tuổi rồi, tôi không biết tương lai có mặt mũi như thế nào? Không biết hiện tại đang ở đâu? Không biết quá khứ đang làm gì? Nhìn thấy lá thu rơi không còn thấy thi vị nữa, chỉ thấy thương cảm, chứng tỏ tôi già rồi. Nhưng tôi vẫn thui thủi một mình, không ai yêu tôi, không biết yêu ai. Tôi…”
Giọng cô ấy gấp gáp, nói chuyện thở hổn hển. Cô ấy thở xong, hét lớn:
“Thậm chí tôi còn không có chó!”

“Chó?” Tôi hoang mang.
“Đúng. Tôi không có chó.”
“Chó quan trọng lắm sao?”
“Tôi mặc kệ. Không có chó tức là tôi rất đáng thương.”
Tuy cô ấy 30 rồi, nhưng bây giờ lôgic lúc nói chuyện lại hệt như một đứa trẻ ba tuổi vậy.

“Ừm.” Tôi gật đầu, “Đúng là rất đáng thương.”
“Anh không cần thương hại tôi.”
“Được. Tôi không thương hại cô.”
Cô ấy e hèm một tiếng, hơi thở từ từ trở lại bình thường, tinh thần cũng không còn kích động nữa.
“Tôi đã 30 tuổi rồi, anh có biết không?” Cô ấy nói.
“Bây giờ thì biết rồi.”
“Tôi chẳng có bạn bè gì cả, mọi người đều nói tôi mê tiền ham hư vinh.”
“Không đến nỗi chứ.” Tôi nói, “Ít nhất tôi không cảm thấy cô mê tiền ham hư vinh.”
“Vậy sao?” Cô ấy nói, “Anh dám thề không?”
“Không dám.” Tôi lắc đầu.
“Anh…” Cô ấy lại bắt đầu kích động.
“Đùa thôi.” Tôi vội vàng nặn ra một nụ cười.

“Tôi không có mục tiêu, không có phương hướng, những ngày đã qua như một mảng trống rỗng, không lưu lại gì hết, những thứ mất đi quá nhiều, trong tay chẳng còn lại gì, tôi thật sự sống quá bết bát.”
Cô ấy nói xong nhìn sang tôi, tôi cảm thấy như đã từng nhìn thấy ánh mắt này.
Đó là trong tiết “Tâm lý học tính cách”, khi thầy giáo nói đến bài trắc nghiệm tâm lý kia, trong lòng tôi nhìn thấy, ánh mắt của chim khổng tước.
Lúc đầu chính là vì ánh mắt này của chim khổng tước, tôi mới chọn khổng tước.

“Cô hy vọng được sống ba ngày như người giàu có, chứng tỏ cô có lý tưởng; cô biết phải cố gắng kiếm tiền mới làm được điều đó, chứng tỏ cô có phương hướng; có thể tiết kiệm thì một đồng cô cũng không tiêu, chứng tỏ cô có nguyên tắc; đồ ăn quá hạn cô có thể ăn vào bụng rất tự nhiên, chứng tỏ cô rất độ lượng…”
“Độ lượng?” Cô ấy ngắt lời tôi, “Đó gọi là không sợ chết chứ.”
“Nói như vậy cũng được.” Tôi cười cười.
Mặt cô ấy hơi nhúc nhích như muốn cười, nhưng lại nhịn.

“Cô gọi tôi xuống, chỉ muốn nói là cô sống rất bết bát sao?”
“Chai rượu này một mình tôi uống hết thì phí quá, gọi anh xuống còn có thể bán cho anh 50 tệ một ly.”
“50 tệ một ly thì rẻ quá, lương tâm tôi sẽ bất an. Vậy đi, 80 tệ một ly được chứ.”
“Anh vui là được.”
“Vậy bánh gato bán thế nào?”
“Anh vớ vẩn vừa thôi.”
Cô ấy trừng mắt nhìn tôi.

Cô ấy rót rượu, rồi cắt một lát bánh gato đưa tôi, nói: “Sinh nhật tôi, chiêu đãi miễn phí.”
“Sinh nhật vui vẻ.” Tôi nói.
“Sinh nhật gái già có gì vui mà nói.”
“Vậy trả nước hoa cho tôi.”
“Làm gì?”
“Để tôi tặng cho gái già vui vẻ.”
“Làm gì có cái kiểu tặng cho người ta rồi còn đòi lại.”
Cô ấy cầm lọ nước hoa lên ngắm nghía, nét mặt căng cứng đã giãn ra.

Tôi không để cô ấy uống rượu nữa, tự mình uống hết chỗ rượu còn lại.
Uống xong, ăn hết ba lát bánh, tôi đứng dậy nói:
“Bây giờ đến lượt tôi.”
“Hả?” Cô ấy ngờ vực.
“Tôi 30 tuổi rồi, vẫn còn thui thủi một mình, không có ai yêu tôi, không biết yêu ai. Tôi…”
“Ê!” Cô ấy kéo mạnh tay áo tôi, hết sức nhớn nhác, “Sao bắt chước tôi?”
“Tôi uống say rồi, biết làm sao được.”
“Anh…”

“Sinh nhật vui vẻ.” Tôi cười nói.
Cô ấy nhìn tôi một lúc, cuối cùng không nhịn được bật cười.

(56)

Đêm hôm đó vốn định đi đến phòng nghiên cứu, nhưng rượu vào khiến tôi nằm trên giường ngủ thẳng cẳng.
Việc đầu tiên sau khi tỉnh lại, là ra ngoài tìm tiệm bán thú cưng.
Không ngờ một con chó thuần chủng be bé cũng phải tiền vạn.
Không khỏi cảm thán sinh không gặp thời, lại sinh vào đúng cái thời giá chó đắt hơn giá người.
Tôi hỏi rất nhiều đàn em xem có ai có chó mà không muốn nuôi không?
Qua mấy hôm, có một cậu em nói con chó nhà hàng xóm của bạn của mẹ của bạn gái cậu ta mới sinh chó con.
Tôi chạy đi thăm dò vận may, rất may mắn ôm được một con chó đực màu trắng trong ổ chó con về nhà.
Nó khoảng một tháng tuổi, vừa dứt sữa, bố là chó lông dài, mẹ là chó lông ngắn, nó giống bố nó.

Tôi ôm con chó đưa cho Lý San Lam, mặt cô ấy tỏ vẻ không dám tin.
“Đây là chó thật sao?”
Cô ấy lấy tay vuốt ve con cún con, con cún quay đầu lại liếm liếm ngón tay cô ấy. Cô ấy kêu lên đầy phấn khích:
“Là thật nè.”
“Cho cô ôm đấy.” Tôi nói.
Cô ấy dè dặt cẩn thận đón lấy con cún, dí sát mặt vào người nó, mặt đầy vẻ sung sướng.

Lý San Lam nuôi con cún trong sân, lúc cô ấy ngủ thì ôm nó vào trong phòng.
Cô ấy mang từ siêu thị về một bịch to thức ăn khô cho chó và hai hộp thức ăn chuẩn bị cho nó ăn.
“Mấy thứ này là quá hạn hả?” Tôi hỏi.
“Đùa gì thế.” Cô ấy còn hơi ra giọng trách mắng, “Nó làm sao ăn được đồ quá hạn?”
“Ê.” Tôi chỉ vào mũi mình, “Vậy tôi thì sao?”
“Anh lại đi so đo với con cún, chẳng có chí khí gì cả.”

Tôi há hốc mồm, không nói lên lời.
Cún con rất hoạt bát, vài ngày sau đã nhận biết tôi và Lý San Lam.
Vinh An lần đầu tiên nhìn thấy nó cũng rất phấn khích, ôm nó lên đùa nghịch một hồi, bỗng nhiêu kêu to:
“Á!”
“Sao thế?” Tôi giật mình.
“Cậu xem!” Vinh An đưa bụng con cún về phía tôi, “Nó chỉ có một viên tinh hoàn.”
Tôi xém chút té nhào, Lý San Lam lại lao như tên bắn giật con cún từ tay Vinh An về, đi thẳng về phòng.

“Sao vậy?” Vinh An hoang mang, “Mình nói gì sai sao?”
Tôi trợn mắt nhìn cậu ấy, không thèm trả lời.
“Hay là tinh hoàn không tính bằng viên, phải tính là hạt?” Vinh An lẩm bẩm, “Thế nên phải nói là một hạt tinh hoàn mới đúng?”
Tôi không muốn nghe cậu ta nói nhảm, kéo cậu ta tới Yum.

Tiểu Vân nghe nói tôi đem một con cún về cho Lý San Lam nuôi, hiếu kỳ hỏi đông hỏi tây.
Nhưng cô nàng không hiếu kỳ về hình dáng con cún hay nuôi nó như thế nào, cô nàng hiếu kỳ về động cơ của tôi.
“Anh nghĩ có lẽ cô ấy rất thích chó, vì thế tìm cách kiếm về một con, chỉ đơn giản thế thôi.”
Tôi trả lời sự truy hỏi của Tiểu Vân.
Tiểu Vân nhìn tôi một cái đầy ẩn ý, không hỏi thêm nữa.

“Động cơ của anh rất kỳ quặc sao?” Một lát sau, tôi hỏi.
“Không.” Cô nàng nói.
“Nhưng sao ánh mắt em nhìn anh kỳ lạ thế.”
“Có sao?” Cô nàng chớp chớp mắt mấy cái, “Kỳ lạ sao?”
“Kỳ quặc lắm.” Tôi nói.

Tiểu Vân không đáp, quay người đun cà phê. Đun xong bê lên cho tôi, khom người sát về phía tôi, nói: “Anh thích cô ấy hả?”
Câu hỏi này làm tôi giật nảy mình, tôi không biết phải phản ứng thế nào, chỉ ngây ra nhìn cô ấy.

Lúc quyết định đem con cún nhỏ về cho Lý San Lam, không hề có ý nghĩ vì thích cô ấy nên muốn làm vui lòng cô ấy, động cơ chân chính chỉ đơn giản là vì cô ấy có ánh mắt của chim khổng tước.
Tuy tôi chưa từng nhìn thấy chim khổng tước thật, nhưng khi thầy giáo hỏi bài trắc nghiệm tâm lý kia, trong lòng hiện lên ánh mắt chim khổng tước, lại giống hệt như ánh mắt Lý San Lam tối hôm sinh nhật đó.

“Ừ.”
Tôi nghĩ thật lâu, rồi chậm rãi gật đầu.
Lần này đến phiên Tiểu Vân và Vinh An giật mình.
Tiểu Vân kinh ngạc về sự thừa nhận thẳng thắn của tôi; còn Vinh An kinh ngạc vì tôi thích Lý San Lam.
Ba người chúng tôi cùng trầm mặc thật lâu.

“Sao anh lại thích cô ấy?” Tiểu Vân là người phá tan sự trầm mặc.
“Cô ấy giống như là cần đến anh, điều này khiến cho anh có cảm giác được cần đến.” Tôi nói.
“Cảm giác được cần đến?” Tiểu Vân hoang mang, “Đó đâu phải là yêu.”
“Cũng có lẽ.” Tôi nhún vai, nâng ly cà phê lên uống một ngụm, nói tiếp:
“Dù sao anh cũng không phải là người chọn dê, sẽ không để ý người mình thích có phải là tình yêu chân chính hay không.”
Tiểu Vân không hỏi thêm, chỉ cười thản nhiên.

“Em thấy sao? Vì lý do này mà thích một người, có phải kỳ quặc lắm không?” Tôi hỏi.
“Anh có cách nghĩ của riêng mình là tốt rồi, em thấy thế nào không quan trọng.” Tiểu Vân cũng nhún vai, “Anh quên rồi sao, em cũng không phải là người chọn dê.”
“Vậy em sẽ vì lý do như thế nào mà thích một người?”
“Em là người chọn ngựa, không khéo sẽ vì một anh chàng chạy thật nhanh mà thích anh ta cũng không chừng.” Cô ấy nói xong bật cười, tôi cũng cười theo. Chỉ còn mình Vinh An mặt vẫn đầy dấu hỏi.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
 Tác giả| Đăng lúc 19-7-2012 23:44:57 | Chỉ xem của tác giả
(52)

Vinh An nói Lưu Vỹ Đình hiện giờ lại quay về Đại học Thành Công học tiến sĩ, muốn tìm cô ấy rất dễ.
Nhẩm tính thời gian, tôi và cô ấy đã hơn sáu năm không gặp.
Tôi lấy hết dũng khí, điều chỉnh tâm trạng, bước vào khoa của cô ấy.
Hỏi một sinh viên: Phòng nghiên cứu của lớp tiến sĩ ở tầng mấy?
Cậu ta lại hỏi tôi muốn tìm ai?
Khi tôi nói tên Lưu Vỹ Đình, vẻ mặt cậu ta rất kỳ quái, sau đó nói đùa:
“Anh lên tầng ba, thấy phòng nghiên cứu nào âm u lạnh lẽo nhất, thì chính là nó.”

Tôi trèo lên tầng ba, nhìn thấy một hành lang dài hun hút, hai bên đều là phòng học.
Mặc dù là buổi chiều, nhưng hành lang không bật đèn, ánh sáng mờ mịt, như không thấy đầu ra.
Trên cửa treo biển tên, tôi không cần phải dùng tâm cảm nhận nhiệt độ của mỗi căn phòng, dùng mắt tìm là thấy.
Gian thứ tám bên trái, biển tên trên cửa ghi: Lưu Vỹ Đình.

Cậu sinh viên kia nói không sai, phòng nghiên cứu của cô ấy có một cảm giác lạnh khó tả.
Giống như là chưa từng có người đặt chân tới, trong phòng chưa từng có độ ấm, tôi nghĩ tới căn nhà gỗ trong rừng sâu nguyên thuỷ.
Nếu như tôi là Sherlock Holmes, tôi sẽ dựa theo phương pháp khoa học để đo vết lõm trên cửa, dấu chân ở cửa, sau đó kết luận là dường như chưa từng có người gõ cửa và ở cửa chỉ có dấu chân của cô ấy mà thôi.
Tôi thậm chí hoài nghi khi mọi người đi ngang qua phòng cô ấy, đều sẽ chọn đi đường vòng.

Hít sâu một hơi, gõ cửa hai cái.
Qua ba giây mà dài như một phút, bên trong có tiếng nói: “Mời vào.”
Tôi vặn tay nắm cửa để mở cửa bước vào. Đến tay nắm cửa cũng lạnh một cách kỳ lạ.
Sau đó tim tôi đập nhanh hơn, vì tôi nhìn thấy Lưu Vỹ Đình.

Mắt cô ấy dán vào màn hình máy tính, hai tay gõ bàn phím, phát ra những âm thanh khô khốc.
Hai giây sau, cô ấy quay đầu lại, sau khi nhìn thấy tôi, liền ngừng gõ bàn phím.
Tôi và cô ấy chỉ cách nhau ba mét, nhưng lại giống như cách nhau ba năm ánh sáng.
Thực sự quá yên tĩnh, tôi như có thể nghe được tiếng trái tim mình đang đập.
Mười giây sau, cô ấy lại quay đầu nhìn vào màn hình; lại qua nửa phút sau, bàn phím tiếp tục phát ra tiếng lách cách.
“Có chuyện gì không?” Bàn phím lách cách được một phút, cô ấy cuối cùng cũng mở miệng.

“Anh…”
Vừa mới lên tiếng, mới biết giọng nói đã khản đặc, hắng giọng rồi, vẫn không thể nào nói tiếp.
“Nếu như anh muốn nói xin lỗi, vậy xin mời về cho. Tôi đã nghe đủ lắm rồi.”
Cô ấy ngắt lời tôi, ngữ khí không cao không thấp.
Nghe cô ấy nói vậy, tôi càng căng thẳng, những lời định nói lại nuốt vào trong bụng.
“Đi ra nhớ khép cửa.” Cô ấy nói, “Còn nữa, sau này đừng tới nữa.”

“Mấy năm nay, chỉ cần nghĩ tới em anh đều rất áy náy, thậm chí cảm thấy đau lòng…”
Cuối cùng tôi lại mở miệng. Nhưng còn chưa nói xong, đã nghe thấy cô ấy lạnh lùng nói:
“Anh chỉ thấy khó chịu thôi, không phải là đau lòng. Lòng anh đã chịu tổn thương sao? Bị người mình thích lừa gạt hay phản bội mới gọi là đau lòng, nhưng anh đâu có. Vì thế đừng có sỉ nhục hai chữ đau lòng này.”
Những lời này ùa đến, khiến tôi càng không có chỗ dung thân.

“Anh biết em rất đau lòng, vì thế anh nhất định phải gặp lại em, để nói với em vài lời.”
“Chẳng có gì để nói cả.” Giọng cô ấy vẫn lạnh lùng như cũ.
“Xin em hãy nghe anh nói vài lời từ đáy lòng, được không?”
Cô ấy nhìn bộ dạng tôi, do dự một lúc, thở dài nói:
“Thôi, anh về đi. Lòng tự trọng của tôi chẳng còn sót lại bao nhiêu, hãy để tôi giữ lại một chút.”
Nói xong, cô ấy đứng lên, quay lưng lại phía tôi.

Tôi không tài nào trèo lên được tảng đá bên phải rồi, nhưng nếu bây giờ bỏ cuộc, nó sẽ càng ngày càng cao càng ngày càng khó trèo.
Bỗng nhớ tới lời Lý San Lam nói hôm tôi đốt lá thư tình. Tôi dùng nốt chút sức lực cuối cùng, nói:
“Anh biết bây giờ nói là không đúng lúc, có thể cũng chẳng còn quan trọng, nhưng nếu như có thể quay lại sáu năm về trước, trở về giờ tan lớp của buổi học cuối cùng đó, trở về khoảnh khắc đuổi theo em dưới gốc cây ngoài phòng học đó, anh sẽ không chỉ nói xin lỗi, anh sẽ nói: Anh thích em.”
Mặc dù cô ấy quay lưng lại phía tôi, nhưng từ bờ vai và bóng lưng cô ấy, tôi có thể nhìn thấy cô ấy giống như bị kim châm.

“Bức thư tình đó đúng là bị gửi nhầm, lúc đầu quả thực anh cũng tính là đâm lao thì phải theo lao. Nhưng sau này, anh thật sự thích con người em, chỉ đơn thuần là thích thôi, không hề nghĩ tới chuyện sau này. Có lẽ sau khi thích em rồi anh vẫn bị những cô gái khác thu hút, hoặc cảm thấy người khác mới thật sự là tình yêu chân chính, nhưng dưới gốc cây của buổi chiều trước khi anh tốt nghiệp đại học, tại khoảnh khắc đó, anh thích em.”

Tôi nói một mạch, như đã dùng hết sức lực, cảm thấy cả người mình mềm nhũn.
Cô ấy chầm chậm quay lại nhìn tôi, rất lâu sau mới nói:
“Anh thật sự đã làm tổn thương tôi, anh có biết không?”
Tôi gật đầu, im lặng.
“Tôi biết anh không có ác ý, gửi nhầm thư chỉ là do hiểu lầm, nhưng khi đó tôi thật lòng với anh. Anh không chỉ làm tổn thương lòng tự trọng của tôi, mà cũng đả kích lòng tự tin của tôi. Suốt mấy năm nay, tôi không đến gần người đàn ông nào, cũng không cho bọn họ đến gần tôi, tôi thậm chí còn không cười. Tôi không tài nào thoát ra khỏi bóng đen đó, tôi cần ánh sáng, nhưng lại sợ nhìn thấy ánh sáng.”
Giọng cô ấy rất ôn hoà, không còn lạnh lẽo như trước nữa.

Tôi biết nói xin lỗi quá nhiều cũng vô dụng, hơn nữa tôi cũng đã nói quá nhiều rồi.
Cô ấy nói xong những lời này, trầm mặc một lúc, lại nói:
“Để chúng ta quay lại thời điểm mà anh nói, tôi dừng xe đạp lại, anh chạy tới.”
Nói đến đây, cô ấy bỗng dưng hơi kích động, cố ổn định tâm trạng, nói tiếp:
“Xin anh nói cho tôi biết, anh của khi đó, có thật lòng thích tôi không?”
“Ừ. Anh của khi đó, thật lòng thích em.”

Cô ấy nhìn tôi, ánh mắt không còn lạnh lẽo, vì chất lỏng ấm áp đã từ từ dâng lên khoé mắt.
Sau đó cô ấy nghẹn ngào nói:
“Chúng ta đi thôi.”

Nghe thấy câu nói cô ấy thường nói trước kia, tôi cũng cảm thấy kích động, tầm mắt bắt đầu mơ hồ.

(53)

Nghe nói trong nước mắt có kim loại mạnh Mangan, vì thế khóc xong sẽ thấy nhẹ nhõm.
Sau khi tôi rơi lệ trong phòng nghiên cứu của Lưu Vỹ Đình, cảm thấy người nhẹ đi không ít.

Rời khỏi phòng nghiên cứu của cô ấy, đi ra bên ngoài, chúng tôi đi tản bộ trong vườn trường.
Ánh nắng đầu xuân rất ấm áp, cô ấy lại híp mắt lại, tôi biết chắc lâu lắm rồi cô ấy không phơi nắng.
Chúng tôi lần lượt nói về những gì xảy ra trong hơn sáu năm nay, cô ấy rất ngạc nhiên khi biết tôi và Liễu Vỹ Đình trở thành người yêu, nhưng lại không ngạc nhiên khi biết chúng tôi chia tay.

“Chị Vỹ Đình và anh không hợp nhau.” Cô ấy nói, “Tuy anh không giống người chọn khổng tước, nhưng chị ấy lại là người chọn dê chính hiệu.”
“Có liên quan sao?” Tôi hỏi.
“Nhu cầu yêu và được yêu của chị ấy rất mãnh liệt, nhưng anh không giống thế.” Cô ấy nói, “Hai người ở bên nhau lâu rồi, anh sẽ cảm thấy nghẹt thở, nhưng chị ấy lại thấy không đủ.”
Tôi trầm tư, cảm thấy lời cô ấy cũng có lý.

Tôi và Lưu Vỹ Đình đều biết, sau này không thể ở bên nhau.
Khoảnh khắc kia trôi qua, cuộc sống của chúng tôi đã tách ra, không hợp lại được nữa.
Tuy bây giờ chúng tôi sánh vai bước đi bên nhau, ôn chuyện cũ, nhưng nói là ôn lại chuyện cũ, chi bằng nói là điều trị, điều trị vết thương do tảng đá bên phải đè nén trong lòng mỗi người.

Đi mãi đi mãi, lại đi tới gốc cây thứ ba cách giảng đường 100 mét về phía trái.
Trước đây luôn đứng dưới gốc cây này đợi Lưu Vỹ Đình, cái liếc mắt cuối cùng của cô ấy cũng là ở dưới gốc cây này.
“Chẳng phải mỗi người đều có cơ hội thứ hai sao, chúng ta coi như là may mắn rồi.” Cô ấy nói.
“May mắn?”
“Không phải trải qua nửa đời sau trong ân hận và đau thương, lại có cơ hội đối diện lần thứ hai, lẽ nào còn không may mắn?”
Tôi nhìn gốc cây cạnh mình, không ngờ còn có thể một lần nữa đứng ở nơi này cùng với Lưu Vỹ Đình, bèn gật đầu nói:
“Đúng là may mắn.”

Sắc trời dần tối, chúng tôi đã chuẩn bị tâm lý chia ly.
“Anh là người chọn khổng tước, chúc anh xoè đuôi.” Cô ấy nói.
“Em là người chọn hổ, chúc em…” Tôi nghĩ một lát, “Chúc em ăn thật no.”
Cô ấy bỗng bật cười, cuối cùng cũng thấy được nụ cười của cô ấy, tôi cũng cười rất vui vẻ.

Rời khỏi trường, tôi cảm thấy nhẹ nhõm không gì sánh được.
Trước đây khi ở bên Lưu Vỹ Đình, bởi vì áp lực của bức thư tình, khó tránh khỏi có phần không thoải mái.
Bây giờ đã nói rõ ràng hết ra rồi, lúc nói chuyện càng cảm nhận được sự thuần khiết của Lưu Vỹ Đình.
Cảm giác áy náy vướng víu suốt hơn sáu năm cuối cùng đã được quét sạch, tôi cảm thấy hai chân mình như đang bước đi trên không.
Vừa vào cửa, không khỏi nhắm hai mắt lại, giơ cao hai tay ngả người về phía sau, trong lòng hét lớn: Cuối cùng cũng có thể yêu được rồi!
Tôi cảm thấy toàn thân tràn trề năng lượng tình yêu.

“Gì đây? Chết đuối đang cầu cứu à?”
Lý San Lam đang đứng trong sân, băn khoăn nhìn tôi.
Tôi mở choàng hai mắt, kêu hehe hai tiếng, coi như trả lời.
“Có phải nhặt được tiền không?” Cô ấy hỏi.
“Sao cô cứ mở mồm là nhắc đến tiền thế.”
“Tôi là người chọn khổng tước mà, anh có thể trông mong tôi nói những lời có khí chất sao?”
Tôi mặc kệ cô nàng, trèo cầu thang lên phòng.

“Ê.” Cô nàng đứng dưới hét lên, “Ngày mai giúp tôi một việc nhé.”
“Việc gì?” Tôi dựa vào lan can nhìn xuống.
“Ngày mai là lễ tình nhân 14 tháng 2, tôi muốn đi bán hoa…”
“Không có cửa đâu.” Tôi ngắt lời cô ấy.
“Như vậy đi, lãi chia hai tám thế nào?”
“Vấn đề không phải là tiền.” Tôi nói.
“Chẳng lẽ anh lại muốn chia bảy ba?” Cô ấy nói, “Vậy thì quá đáng.”

Tôi bó tay, lắc đầu nói: “Tôi không quen bán hoa giống lần trước.”
“Tôi cũng đâu có quen, nhưng vì kiếm tiền nên chẳng còn cách nào khác.” Cô ấy nói, “Nếu không thì sáu bốn vậy, nhiều nữa là sứt mẻ tình cảm đấy.”
Nhìn ánh mắt nài nỉ của cô nàng, tôi đành nói: “Được rồi, tôi giúp cô.”
“Tôi biết ngay con người anh là tốt nhất mà!” Cô nàng cười toe toét.

Hôm sau trước khi ra ngoài bán hoa, tôi vẫn còn hơi lưỡng lự, Lý San Lam đưa cho tôi một cái kính râm sẫm màu.
“Gì đây?” Tôi nói, “Có nắng lắm đâu.”
“Đeo nó vào, người ta sẽ khó nhận ra anh.” Cô nàng nói.
“Tôi phong độ ngời ngời thế này, cho dù che mắt đi người ta vẫn có thể nhận ra tôi.”
“Vậy sao?” Cô nàng cười cười, lại đưa cho tôi một cái batoong.
“Lại gì nữa đây?”
“Anh đóng giả người mù luôn đi.”
“Cô đúng là vớ vẩn.” Tôi lườm một cái, đem kính và gậy trả lại hết cho cô nàng.

Lần này việc bán hoa còn tốt hơn, bán sạch sẽ không còn một bông.
Tuy tôi vẫn lén lén lút lút, nhưng vẫn bị hai cậu em nhận ra.
Bán hoa xong, Lý San Lam đếm tiền đưa cho tôi.
“Không cần đâu.” Tôi xua tay.
“Anh…” Cô nàng muốn nói lại thôi.
“Có phải cô định nói: Tôi không giống người chọn khổng tước không?”
“Không.” Cô nàng nói, “Anh quả thực giống người chọn khổng tước.”
“Vậy cô định nói gì?”

“Anh không cần tiền, có phải là muốn tôi lấy thân báo đáp?”
“Linh tinh!” Tôi mắng một câu, cảm thấy hai má nóng rực.
Cô ấy lại cười rất rạng rỡ, trông còn hơi giảo hoạt.
“Tôi biết rồi. Có phải từ đầu cô đã biết là tôi không cần tiền của cô?”
“Đúng thế.” Cô nàng cười nói, “Nếu anh muốn tiền, tôi chẳng thèm nhờ anh giúp.”

Tôi mếu máo cười khổ, không ngờ mình lại bị cô nàng nhìn thấu đến thế.

Bình luận

meo
Mà mình giới thiệu cho bạn mình: 1 nam 1 nữ; nữ thì kêu khó hiểu, nam lại thích mới chết chứ :))  Đăng lúc 19-7-2012 11:51 PM
meo
Uh, mình cũng kết vì thế đấy, hết vi phân, tích phân, đạo hàm rồi sin, cos, tang ... hồi phổ thông mình học A,B đâm ra mê cái giọng văn đậm chất dân tự nhiên ấy   Đăng lúc 19-7-2012 11:49 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
 Tác giả| Đăng lúc 19-7-2012 23:43:48 | Chỉ xem của tác giả
(49)

“Bởi vì tôi họ Khổng.” Martini tiên sinh nói, “Chim khổng tước khiến tôi cảm giác giống như loài chim của nhà họ Khổng, vì thế chọn nó.”
“Chỉ vậy thôi?” Tiểu Vân nói.
“Ừ.” Anh ta gật đầu.
Tiểu Vân và tôi đưa mắt nhìn nhau, thật không dám tin lại có cái lý do chọn khổng tước như vậy.
“Trắc nghiệm tâm lý nếu muốn chính xác thì phải dựa vào phản ứng đầu tiên, không thể suy nghĩ nhiều.” Anh ta cười bình thản.

Khách khứa trong quán không hề có xu hướng giảm đi, xem ra mọi người đều muốn chơi hết mình.
Tiểu Vân đi giúp Tiểu Lan, trong lúc nghe kể chuyện, Tiểu Lan đã bận tít mù rồi.
Tôi bỗng nhớ tới những hàng chữ trên tường, bèn nói với anh ta trên tường phòng tôi cũng có chữ, là chữ màu đen.
“Trước đây tôi ở trong ngõ đường Đông Ninh, là một căn nhà cổ, có hai tầng.” Anh ta nói.
Tôi gật mạnh đầu.
“Ở đó có sân, trong sân có cầu thang đi lên tầng trên, trong phòng có một cái cửa sổ rất to.”
Lần này tôi không gật đầu nữa, chỉ trợn tròn mắt.

Anh ta nhìn phản ứng của tôi, nói: “Hôm nào tôi về đó thăm lại bức tường, có được không?”
“Lúc nào cũng đón chào.” Tôi nói.
“Tôi phải đi rồi.” Anh ta đứng dậy, “Cảm ơn anh đã nghe tôi nói chuyện, tôi cảm thấy dường như suốt mấy năm nay tôi chưa từng mở miệng vậy.”
“Đừng khách sáo.” Tôi nói.
Anh ta đi rồi, tôi bắt đầu cảm thấy trong quán rất ồn, ngồi thêm không lâu cũng ra về.

Khoảng ba giờ sáng về đến phòng, lại nhìn những hàng chữ trên tường thêm một lượt.
Nằm trên giường nghĩ về chuyện giữa anh ta và cô gái ấy, thiếp đi lúc nào không biết.
Trong lúc mơ màng bị tiếng gõ cửa làm tỉnh giấc, mở cửa ra, là Lý San Lam.
“Hoá ra anh đang ngủ, thảo nào gõ trần nhà mà anh không phản ứng gì.” Giọng cô ấy có phần ai oán, “Đã bảo anh đừng đi ngủ sớm mà.”
“Bây giờ là bốn giờ sáng,” tôi nhìn đồng hồ, nói to: “còn nói là sớm sao?”
“Đừng tức giận thế.” Cô ấy lại cười cười, “Đi nướng thịt đi.”

Trong sân đã để sẵn hai chiếc ghế đẩu và vỉ nướng thịt, cô ấy lại lôi ra mấy túi thịt và một lọ sốt nướng thịt.
Tôi tiện tay cầm một túi thịt lên xem hạn, than thở: “Quả nhiên là hết hạn.”
“Mới hết hạn có mấy tiếng thôi.” Cô ấy nói.
Lại nhìn lọ sốt nướng thịt, kêu thất thanh: “Có nhầm không vậy? Đến nước sốt cũng hết hạn!”
“Thời hạn bảo quản là ba năm, mới quá hạn có ba ngày thôi, có đến mức phải ngạc nhiên đến thế không?”
Tôi khóc dở mếu dở.

“Tiếc là không có than hoa hết hạn.” Cô ấy nói.
“Than hoa làm gì có hạn.” Tôi nói, “Không có than hoa thì nướng làm sao?”
“Đi mua.”
“Bây giờ đi đâu mua?”
“Siêu thị chỗ tôi làm mở cửa 24/24, có thể mua.”
“Cô không biết tiện đường mua về à?”
“Mua than hoa không cần tiền à?”
Tôi trợn trừng mắt nhìn cô ta.

“Đừng nhìn tôi như thế.” Cô ấy nhún vai, “Tôi đã cống hiến thịt và nước sốt rồi mà.”
“Ý của cô là?”
“Than hoa đương nhiên là anh đi mua.”
“Được.” Tôi nổ máy, “Cô được lắm.”
Tôi phóng xe tới siêu thị mua một bịch than hoa, chỉ mất có mấy chục tệ.

“Có mấy chục tệ.” Vừa vào sân, tôi nâng bịch than lên, “Cô cũng không nỡ mua.”
“Chính vì rẻ, mới cảm thấy là để anh đi mua cũng không sao.” Cô ấy nói.
“Nếu rất đắt thì sao?”
“Vậy thì càng nên để anh đi mua.” Cô ấy cười.
“Cô…”
“Mau nướng thôi.” Cô ấy nói, “Càng dùng dằng thịt càng quá hạn lâu, ăn vào bụng càng nguy hiểm.”

Tôi nhặt vài hòn đá xếp thành hình vuông, đặt than vào trong rồi châm lửa, xếp vỉ nướng lên trên.
“Cô đón đêm Giáng sinh như thế nào?” Tôi rải mấy miếng thịt, bắt đầu nướng.
“Đi làm.” Cô ấy đáp, “Nửa đầu đêm ở siêu thị, nửa sau ở Búp bê Trung Quốc.”
”Không đi chơi à?” Tôi hỏi.
“Bây giờ đang chơi đây.” Cô ấy cười cười, “Chỉ cần trời chưa sáng, thì vẫn coi là đêm Giáng sinh.”
Tôi nhìn đồng hồ, chỉ còn một tiếng rưỡi nữa là trời sáng.

“Còn anh?” Cô ấy hỏi, “Anh đón Giáng sinh thế nào?”
Tôi nghĩ một lúc, đem chuyện ở Yum kể hết cho cô ấy.
Sau khi mỗi người ăn hết ba miếng thịt nướng, tôi mới kể xong.
“Vì thế tiết mục đêm Giáng sinh năm nay là nghe kể chuyện.” Tôi nói.
Cô ấy không nói gì, lấy đũa tre khều nhẹ đống than hoa, chìm vào trầm tư.

“Cô gái đó chắc là đã quên cuộc hẹn sáu năm từ lâu rồi.” Một lát sau, cô ấy nói.
“Tôi cũng đoán thế.” Tôi nói, “Anh ta ngốc nghếch chờ đợi một người không yêu mình, thật đáng thương.”
“Không.” Cô ấy lắc đầu, “Có lẽ cô gái yêu anh ta, chỉ là cô ta cảm thấy có những thứ quan trọng hơn tình yêu mà thôi.”
“Cô thực tế quá đấy.” Tôi nói.

“Thực tế?” Cô ấy tỏ vẻ không đồng tình, “Vì tình yêu mà từ bỏ một cuộc sống tốt hơn, so với vì cuộc sống tốt hơn mà từ bỏ tình yêu, ai cao thượng hơn ai?”
Tôi ngây người, không đáp.

(50)

“Hai loại người này chỉ khác nhau ở thứ mà họ coi trọng thôi, chẳng có ai là tốt hay xấu. Nhưng vì tình yêu thường được người ta thần thánh hoá lên, vì thế những người chọn tình yêu cũng được thần thánh hoá theo.” Cô ấy lấy ba miếng thịt đã nướng chín gắp hai miếng vào đĩa tôi, một miếng gắp cho mình. Tiếp đó nói: “Công tâm mà nói, trong năm con vật trong bài trắc nghiệm tâm lý đó, mỗi người đều có sự lựa chọn khác nhau. Lẽ nào chỉ vì người chọn dê lựa chọn tình yêu, chúng ta liền cho rằng tình cảm của người chọn dê là cao quý nhất?”

Tôi nghĩ cô ấy nói không sai, có lẽ chỉ là sự lựa chọn khác nhau mà thôi.
Người hy sinh tất cả vì tình yêu sẽ được ca tụng; nhưng vì tất cả mà hy sinh tình yêu, ở một mức độ nào đó, có lẽ sẽ bị chỉ trích.

Chúng tôi kết thúc chủ đề này, quay sang tán gẫu. Khi thịt đã nướng xong hết, than đang rực hồng.
“Anh mua nhiều than quá.” Cô ấy nói.
“Ít thịt thì có.” Tôi nói.
“Không được cãi lại.”
“Dạ vâng.”
Cô ấy cười cười, nhìn trời rồi nói: “Trời sắp sáng rồi.”

“Tốt.” Cô ấy đứng dậy, “Đêm Giáng sinh kết thúc rồi.”
“Đợi đã.”
Tôi chạy lên phòng, lấy 17 bông hồng trên bàn đưa cho cô ấy, nói: “Giáng sinh vui vẻ.”
“Sao lại tặng hoa cho tôi?”
“Cô đã nói rồi, đêm Giáng sinh con gái không có hoa sẽ rất đáng thương.”

Cô ấy cúi đầu đếm hoa, rồi ngẩng lên nói: “Tôi biết tại sao bạn gái cũ của anh không thèm anh nữa rồi.”
“Ê.” Tôi lườm cô ấy.
“Trong này có 17 bông hồng, anh có biết 17 bông hồng có ý nghĩa gì không?”
“Không biết.”
“Trong ngôn ngữ của hoa hồng, 17 bông nghĩa là: gặp rồi lại tan.”
“Á?” Tôi há hốc mồm.

“Như vậy đi, tôi lấy 10 bông, anh lấy 7 bông.” Nói xong, cô ấy đưa tôi 7 bông hồng.
“Ý nghĩa của 10 bông là: Em thật hoàn mỹ. 7 bông là: Chúc anh may mắn. Tôi hoàn mỹ, anh may mắn, có thể nói là cả làng đều vui.”
“Tôi muốn hoàn mỹ.”
“Đừng có ngốc.” Cô ấy cười nói, “Giáng sinh vui vẻ.”
Chúng tôi dọn dẹp sân xướng xong, trời đã mờ sáng.

Hôm sau đến phòng nghiên cứu, mọi người đều đang bàn tán những điều tâm đắc trong đêm Giáng sinh.
Khi mọi người hỏi tôi đón Giáng sinh như thế nào, tôi đều trả lời:
“Nướng thịt.”

Một tuần sau, Martini tiên sinh đột nhiên đến thăm.
Tôi để anh ta vào phòng, rồi một mình đi xuống dưới, đứng đợi trong sân.
Khoảng nửa tiếng sau anh ta mới đi xuống.
Vẻ mặt anh ta hết sức thoải mái, những thớ thịt trên mặt không còn cứng ngắc nữa, bắt đầu có những đường cong tròn trịa.
“Cảm ơn anh.” Anh ta nói.
Tôi cười, không nói gì.

“Vừa rồi tôi lại viết lên tường.” Anh ta nói.
“Anh viết gì thế?” Vừa dứt lời tôi thấy thất lễ, vội vã nói: “Xin lỗi.”
“Không sao.” Anh ta cười, “Dù sao anh cũng sẽ đọc mà, đúng không?”
Tôi gật đầu, hơi xấu hổ.
“Tao phải bắt đầu đi về phía trái rồi.” Anh ta nói, “Đây là lời nhắn cuối cùng của tôi.”

Chúng tôi đồng thời trầm mặc, tôi liếc thấy anh ta vẫn đang thắt cà vạt.
Hoa văn trên cà vạt lần trước tôi đã nhìn thấy rồi, bức danh hoạ “Thiếu nữ ở Avignon” của Picasso.
Anh ta bỗng tháo cà vạt xuống, nói: “Tặng cho anh.”
“Quý trọng quá, tôi không thể nhận.” Tôi nói.
“Đúng là hơi đắt, nhưng không hề “trọng” Anh ta cười, “Cứ coi như quà kỷ niệm đi.”
Tôi đành nói cảm ơn, sau đó nhận lấy.

“Tôi đã trèo lên tảng đá bên phải rồi.” Anh ta nói, “Còn anh?”
Tôi sững sờ, đúng lúc Lý San Lam đẩy cửa bước vào.
Cô ấy nhìn thấy tôi và anh ta đứng trong sân, hơi ngạc nhiên.
Tôi vội giới thiệu với cô ấy: “Đây là Martini tiên sinh mà tôi đã nhắc tới…”
“Martini?” Anh ta cười, “Tên thú vị thật, nhưng tôi họ Khổng, không phải họ Mã.”
“Cô ấy là…” Tôi chỉ vào Lý San Lam, nghĩ một lúc rồi nói: “Một người chọn khổng tước nữa.”

“Hôm nay đúng là đẹp ngày, ba con khổng tước ở chung một chỗ.” Anh ta nói, “Mong rằng sau này sẽ có ngày chúng ta đều có thể xoè đuôi.”
“Tôi là công cái, không xoè đuôi được.” Cô ấy nói.
Ba chúng tôi cùng phá lên cười.

Tôi nghĩ trước đây Martini tiên sinh nhất định là một người rất cởi mở, chẳng qua sự chờ đợi suốt bao năm, đã làm cho những đường nét trên mặt anh ta vừa thẳng vừa cứng ngắc.
Hôm nay anh ta đã trèo lên được tảng đá phía bên phải, lại lấy lại được sự cởi mở trước đây.
Nếu nói theo góc độ này, anh ta hiện giờ, đang xoè đuôi.
“Tôi đi đây.” Martini tiên sinh vẫy vẫy tay, nói đầy ẩn ý: “Tạm biệt.”

Từ đó tôi không gặp anh ta nữa.


(51)

Martini tiên sinh vừa đi khỏi, Lý San Lam lập tức nói: “Tôi đi xem chữ trên tường được không?”
Tôi nghĩ một lúc, gật đầu.
Cô ấy chạy ngay lên tầng trên.

“Ê!” Tôi bỗng nhớ ra trên tường còn có chữ của tôi nữa, “Chỉ được xem chữ màu đen thôi.”
“Tại sao?” Cô ấy dừng lại giữa cầu thang, ngoái đầu hỏi.
“Chữ màu xanh là tôi viết.”
“Biết rồi.” Cô ấy vừa chạy vừa nói.

Tôi đứng ở trong sân rõ lâu, cảm thấy chân hơi tê, bèn đi lên tầng trên.
Lúc tôi đi tới cạnh lan can, cô ấy vừa vặn từ trong phòng tôi bước ra.
“Những gì anh ta viết thật khiến người ta có cảm xúc. So ra, những gì anh viết lại…”
Cô ấy bỗng bịt miệng, không nói tiếp nữa.

“Đã bảo cô đừng đọc những chữ màu xanh mà.” Tôi lườm cô ấy.
“Xin lỗi.” Cô ấy nói, “Tôi mù màu.”
“Cô…”
“Tôi đi làm đây!” Cô ấy chạy vèo xuống nhà.

Hai ngày sau Vinh An nghỉ phép, tôi và cậu ấy lại đến Yum.
Khi cậu ấy biết câu chuyện Martini tiên sinh kể đêm Giáng sinh, bèn nói:
“Không công bằng! Tại sao tớ không được nghe?”
“Nghe được thì làm sao?” Tôi nói, “Cậu không có tuệ căn, chuyện cảm động đến mấy cũng vô dụng với cậu thôi.”
“Ít nhất tớ có thể nói vài lời an ủi anh ta.” Vinh An nói.
“Anh định nói gì?” Tiểu Vân hỏi.

“Anh sẽ nói cô gái kia sau khi rời bỏ anh ta, cuộc đời rất long đong, trải bao cay đắng, phiêu bạt khắp nơi, cuối cùng lưu lạc hồng trần.” Vinh An nói, “Như vậy anh ta có thể thấy khá hơn một chút.”
Tôi và Tiểu Vân thiếu chút nữa toát mồ hôi lạnh.
“May mà cậu không có mặt.” Tôi nói.

Sau đó tôi kể chuyện Martini tiên sinh đến tìm tôi và tặng tôi cà vạt.
Tôi không nhắc tới dòng chữ trên tường, vì không muốn để Vinh An và Tiểu Vân cũng biết những dòng chữ của tôi.
“Cuối cùng anh ta nói những gì?” Tiểu Vân hỏi.
“Anh ta nói anh ta đã trèo lên tảng đá bên phải rồi. Sau đó hỏi tôi đã trèo lên chưa?”
“Cậu trả lời thế nào?”
Tôi cười khổ, lắc đầu nói: “Tớ không biết phải trả lời thế nào.”

Từ khi biết Lưu Vỹ Đình là tảng đá bên phải của tôi, đến dũng khí trèo lên tôi cũng không có, chỉ đứng dưới chân núi ngước nhìn lên.
Hoặc giả tôi nên giống như Martini tiên sinh trèo lên đỉnh núi, dù có mất bao nhiêu sức lực và thời gian.

Hai tuần sau Vinh An lại đến tìm tôi, nói với tôi một chuyện.
“Tớ tra được Lưu Vỹ Đình đang ở đâu rồi.” Cậu ta nói.
Tôi không biết phải phản ứng bằng tâm trạng nào, chỉ trầm ngâm không nói.
“Lần này tớ hết sức cẩn thận, tuyệt đối không sai đâu.” Rất lâu sau, cậu ấy nói.
Tôi vẫn trầm ngâm không nói.
“Vốn muốn đi tìm cô ấy trước, nhưng sau nghĩ lại tớ toàn nói sai làm hỏng chuyện, lần này bất luận thế nào tuyệt đối không thể hại cậu nữa.”  Hình như cậu ấy rất xấu hổ.

Vinh An dùng chữ “tuyệt đối” những hai lần, quen cậu ấy lâu như vậy, rất hiếm thấy.
Vẻ mặt cậu ấy tỏ ra áy náy và bất an, hơi giống với hung thủ giết người khi đối diện với gia đình người bị hại.
Tôi biết Vinh An tự trách bản thân về chuyện Lưu Vỹ Đình, nhưng không ngờ mức độ tự trách lại nặng nề như vậy.
“Sao cậu tra ra được?” Tôi thở dài, hỏi.
“Dùng phần mềm tìm kiếm trên mạng.” Cậu ấy nói.
Tôi bật cười, không ngờ lại đơn giản như vậy.
Cậu ấy chẳng phải nhân viên cục tình báo hay sở điều tra, vốn sẽ chẳng có phương pháp thần thông quảng đại nào khác.

Vinh An đi rồi, tôi do dự không biết có nên đi tìm Lưu Vỹ Đình không?
Nếu tìm thấy cô ấy, nên nói gì? Làm gì?
Liệu có chữa lợn lành thành lợn què hay không?
Do dự suốt ba ngày, vẫn là chần chừ do dự.
Ngày thứ tư bỗng nghĩ ra có lẽ có thể hỏi thử ý kiến của Lý San Lam.

“Ra ngoài à?” Tôi cố ý đứng trong sân đợi cô ấy mấy phút trước khi cô ấy tới siêu thị làm.
“Ừ.” Cô ấy gật đầu, rồi đi ra.
“Về rồi à.” Tôi tính đúng tầm cô ấy đi làm về, đứng sẵn trong sân đợi cô ấy.
“Ừ.” Cô ấy vẫn gật đầu, đi vào phòng.
“Lại ra ngoài à.” Lần này cô ấy đến Búp bê Trung Quốc làm việc.
“Ừ.” Cô ấy nói.
“Lại về rồi à.” Năm tiếng sau, tôi nói.
Cô ấy không đáp, chỉ trợn tròn mắt nhìn tôi từ trên xuống dưới từ dưới lên trên, sau đó đi vào phòng.

Tôi rất ảo não bản thân đến dũng khí mở miệng nhờ tư vấn cũng không có, ngồi phịch xuống cầu thang.
“Ê.” Cô ấy đột nhiên mở cửa phòng, “Rốt cuộc anh định nói gì?”
Tôi đứng dậy, mặt hơi đỏ lên.
“Cứ nói đi.” Cô ấy cười, “Nhưng mượn tiền thì miễn bàn.”
Tôi đành đem chuyện có nên đi tìm Lưu Vỹ Đình không nói cho cô ấy.

“Anh nhất định phải đi tìm Lưu Vỹ Đình.” Lý San Lam nói. “Không chỉ vì bản thân anh, mà cũng vì người bạn tên Vinh An của anh, và vì cả bản thân Lưu Vỹ Đình nữa.”
“Tại sao?”
“Nói theo ví dụ về tảng đá bên phải, Lưu Vỹ Đình là tảng đá bên phải của anh, nhưng anh cũng có thể là tảng đá bên phải của cô ấy, mà chuyện của hai người lại là tảng đá phía bên phải của Vinh An.”

Tôi như tỉnh mộng, quyết định đi tìm Lưu Vỹ Đình.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
 Tác giả| Đăng lúc 19-7-2012 23:42:47 | Chỉ xem của tác giả
(47)

Hai tuần sau, Lý San Lam cho tôi một cái áo khoác màu xanh da trời.
Trên cổ tay áo bên trái đính một cái mác, bên trên in chữ Vanpano và Made in Italy.
“Cô còn lừa đảo hơn cả tôi.” Tôi chỉ mẩu giấy in số $4680 phía trên mác áo.
“Tiễn Phật phải tiễn đến tận Tây Thiên chứ.” Cô ấy chớp mắt, trông hơi gian tà.

Lại thêm một tháng nữa, khí hậu Đài Nam cuối cùng cũng cần đến áo khoác.
Tôi mặc chiếc khoác màu xanh này, thấy  rất dễ chịu, cũng rất đẹp, vì thế cứ mặc nó mãi.
Vì thế nó gần như đã trở thành đồng phục của tôi trong mùa đông này.

Mùa đông này ngoài việc bán áo khoác, Lý San Lam còn bán đủ các loại trang phục và phụ kiện như quần, áo len, ví da…
Thậm chí là cả những thứ kỳ quái như mũ may mắn gì gì đó.
“Mũ may mắn?”
“Trên tivi mấy ông thầy bói chẳng phải hay nói đeo gì gì đó trên người có thể gặp may sao?”
Cô ấy đưa tôi một cái mũ, “Đây chính là cái mũ có thể mang tới may mắn.”
“Cô cho rằng linh dương đội cái này lên là có thể không bị sư tử tóm được à?” Tôi đội cái mũ lên.
“Không thích thì thôi.” Cô ấy giật cái mũ trên đầu tôi xuống.

Tôi vẫn chở cô ấy đến bến xe để đi Đài Bắc. Lúc về Đài Nam cô ấy cũng sẽ gọi điện cho tôi ra đón.
Ngoài làm phục vụ ở Búp bê Trung Quốc, bán hàng ở Đài Bắc, làm việc ở siêu thị ra, thỉnh thoảng cô ấy còn có công việc làm thêm khác, ví dụ như làm người mẫu cho quầy mỹ phẩm ở trung tâm thương mại.
Công việc này chính là thò cái mặt ra, để người khác tô tô vẽ vẽ trên mặt mình để thể hiện hiệu quả của mỹ phẩm.
Một tuần trước lễ Giáng sinh, cô ấy còn đóng giả ông già Noel ở một trung tâm thương mại.
“Cô đóng ông già Noel?” Tôi nói, “Quá gầy.”
“Người ta cần là cần một ông già Noel duyên dáng.” Cô ấy nói.

Ngày 24 tháng 12, ở trong phòng nghiên cứu có thể cảm nhận được rõ rệt tâm trạng phấp phỏng của mọi sinh viên.
Bởi vì tối hôm đó là đêm Giáng sinh. Đối với kẻ đã từng có người yêu nhưng lại quay về cuộc sống độc thân như tôi mà nói, tuyệt đối căm hận cái ngày “mỗi lần gặp dịp càng thêm nhớ người” này.
Chịu không nổi mọi người xung quanh cứ mãi bàn tán tối nay đi đâu, làm gì, tôi về thẳng nhà.

Vừa mới bước vào sân đã thấy trên mặt đất bày ba sọt hoa hồng to.
Đang tò mò thì nghe thấy Lý San Lam nói: “Anh về thật đúng lúc.”
“Có chuyện gì không?” Tôi nói, “Còn nữa, sao nhiều hoa hồng thế này?”
“Tôi định ra gần Đại học Thành Công bán hoa hồng, giúp tôi nhé.”
“Không được, ở gần trường Thành Công tôi quen nhiều người lắm, nếu bị bắt gặp thì ngại lắm.”

“Có gì mà ngại?” Cô ấy nói, “Tối nay là đêm Giáng sinh, rất nhiều anh chàng cần mua hoa, chúng ta bán hoa là đang làm công đức đấy.”
“Công đức?”
“Một bông hồng bình thường bán 10 tệ, bây giờ ít nhất phải tăng gấp ba, nhưng tôi chỉ bán 20 tệ. Anh nghĩ xem, mấy anh chàng muốn mua hoa chắc chắn sẽ cảm động đến rơi lệ.”

Tôi vẫn còn đang do dự, cô ấy lại nói: “Nể tình tôi hay mang đồ ở siêu thị về cho anh, giúp tôi bán hoa đi mà.”
“Mấy thứ đồ đó đều quá hạn.” Tôi nói.
“Thịt quá hạn thì không phải là thịt à? Chẳng lẽ thịt lợn quá hạn lại biến thành táo?”
“Này…”
“Không giúp thì thôi.” Nói xong cô ấy khom người xuống ôm một sọt hoa hồng.
Cái sọt tre đó cao tới nửa người, cô ấy ôm hơi vất vả, tôi bèn nói: “Được rồi, tôi giúp cô.”

Cô ấy chọn cổng trường làm nơi bán, tôi thầm kêu không hay rồi, đó quả thực là nơi nhiều người qua lại nhất.
Hàng bán rất tốt, cô ấy bận rộn đếm hoa, gói hoa, tính tiền, tôi thì ngoài việc giúp cô ấy đếm hoa ra, tay phải cứ cố tình vô ý che mắt, không muốn người ta nhìn rõ mặt tôi.
Bảo vệ trường đi tới, tuy đoán là đến để đuổi bọn tôi đi, nhưng trong lòng lại thấy may mắn.
“Tôi muốn mua năm bông.” Bảo vệ nói.
“Được.” Cô ấy đáp.
Tôi thầm thở dài.

“Anh?”
Nghe tiếng gọi tôi quay lại, là cậu em lớp thạc sĩ, trông vẻ mặt cậu ta như nhìn thấy khỉ ở Bắc Cực.
“…” tôi há hốc miệng, như con cá nằm ngáp trên bờ.
“Nếu đã là người quen, giảm 20%.” Cô ấy nói.
“Tốt quá, để em đi gọi các bạn khác đến mua.”
Cậu em cầm hoa đi mất.
Tôi đờ ra mấy giây, mới hét với lên đằng sau cậu ta: “Đừng nhé!”

“Thoải mái đi.” Cô ấy nói, “Bán hoa có gì đáng xấu hổ đâu?”
Tôi không trả lời được, chỉ cảm thấy rất không quen xuất đầu lộ diện như thế này.
Nuốt nước bọt, lẩm bẩm: “Con trai mua hoa nhiều thật.”
“Đương nhiên rồi.” Cô ấy nói, “Anh tưởng là những người con trai khác giống anh hết đấy, viết chữ hoa hồng nhung trên bìa là xong sao? Con gái cần hoa tươi, hoa biết tàn cơ.”
“Ê, đừng nhắc tới chuyện này nữa.”

“Nhưng anh có thể nghĩ ra cách này để tiết kiệm tiền mua hoa, không hổ là người chọn khổng tước.”
Nghe cô ấy nói vậy, tôi lại giật cả mình.
Từ lúc chọn chim khổng tước, chưa có ai bảo tôi giống người chọn khổng tước, cô ấy là người đầu tiên.
Người khác đều cho rằng tôi là khổng tước, chỉ không giống mà thôi. Liễu Vỹ Đình cũng vậy.
Tôi nhìn hai sọt hoa hồng rỗng và một sọt chỉ còn lại chưa đến một phần tư, nói:
“May mà sắp bán hết rồi.”
“Vẫn còn ba sọt.” Cô ấy nói.
“Gì cơ?” Tôi thất thanh.
“Bán tốt quá, tôi vội gọi thêm ba sọt nữa, không ngờ vẫn còn hàng. May thật đấy.”
“Cô…”

Lúc sáu sọt hoa đã bán được hòm hòm, trời đã nhá nhem. Nhìn đồng hồ, đã sắp sáu giờ.

Vừa bước vào nhà, cô ấy đã nói: “Anh cũng nên mua vài bông hoa tặng tôi đi.”
“Tại sao?”
“Đêm Giáng sinh con gái mà không được tặng hoa rất tội nghiệp mà.”
Tôi nhìn cô ấy, nói: “Tôi muốn đi ngủ, không muốn đi mua hoa.”
“Không phải ra ngoài mua” Cô ấy nói, “Ở đây vẫn còn thừa mấy bông, bán cho anh 10 tệ một bông thôi.”
“Cô…”

“Đùa thôi.” Cô ấy bỗng cười rõ tươi, “Tôi không đến nỗi như thế đâu.”
Tôi thở phào một hơi, lườm cô ấy.
“Mấy bông hoa này, anh mang đi tặng cho người mình thích đi.”
Cô ấy bó hoa thành một bó đưa cho tôi, tôi đếm được 17 bông.
“Tối đừng ngủ sớm quá.” Cô ấy nói.
“Hả?”
“Tóm lại là đừng ngủ sớm quá, còn có tiết mục.” Cô ấy nổ máy xe, “Tôi đi trước đây.”

Tôi quay về phòng, đặt 17 bông hồng lên bàn, ngả lưng ngủ luôn.
Đứng suốt mấy tiếng đồng hồ bên ngoài, thân thể mỏi nhừ, tôi ngủ rất sâu.
Nhưng mới ngủ được nửa chừng đã bị chuông cửa đánh thức, mơ màng xuống nhà mở cửa thấy mười mấy đứa học sinh.
“Bọn em đến báo tin vui!” Bọn chúng nói.
Nói xong chúng nó hát, tôi càng nghe mí mắt càng nặng trĩu, cơ hồ không phân biệt được Halleluja với A di đà phật.
“Đêm Giáng sinh sẽ xuất hiện kỳ tích!” Hát xong, một thằng bé nước ngoài tóc vàng nói.
Tiếng Trung của nó không lưu loát lắm, “kỳ tích” tôi lại nghe thành “lích chích”, không khỏi giật mình.

Lại quay về ngủ, lúc tỉnh lại đã gần 12 giờ.
Ngoài cửa sổ thoáng vọng tới tiếng ca giáng sinh, càng rõ thêm sự yên tĩnh trong phòng.
Tuy đêm bình an coi sự tĩnh lặng và bình an là hạnh phúc, nhưng sự tĩnh mịnh lúc này lại khiến tôi không thở nổi.
Ngồi trên giường đần ra một lúc, quyết định đi tìm một nơi náo nhiệt.
Giây phút này của ngày này, nơi có khả năng có âm thanh mà tôi biết, chỉ có Yum.


(48)

Vừa vào Yum, quả đúng như dự đoán, trong quán đầy những khách, cũng may bên quầy bar còn một chỗ trống.
“Merry Christmas.”
Vừa ngồi xuống, tai phải đã nghe thấy câu này. Quay đầu nhìn, là Martini tiên sinh.
“Merry Christmas.” Tôi cũng nói.
Tối nay anh ta lại thắt cà vạt như thường lệ, hoạ tiết là một bức tranh.
Lần này tôi nhận ra rồi, là bức danh hoạ của Picasso: Thiếu nữ ở Avignon.

Tiểu Vân vô cùng bận rộn, lúc bê cà phê ra cho tôi chỉ nói Giáng sinh vui vẻ, lại đi làm việc tiếp.
Trong quán rất náo nhiệt, không khí hồ hởi phấn khởi. Mọi người đều cao giọng cười nói, hoặc là sảng khoái nâng ly.
Tôi và Martini tiên sinh giống như chim cánh cụt Nam cực sợ lạnh, khi các con cánh cụt khác đang nô đùa trong băng tuyết, chỉ có hai con cánh cụt chúng tôi rúc vào trong góc tránh rét.
Là cánh cụt Nam cực mà lại sợ lạnh, tôi cảm thấy thật buồn cười, mà cũng hơi buồn thảm.

“Có rỗi không?” Martini tiên sinh nói.
“Hả?”
“Tôi muốn nói chuyện.” Anh ta nói.
“Có rỗi.” Tôi đáp.
“Chuyện rất dài.”
“Tôi có cả một đêm.”

”Lúc học đại học, tôi có một cô bạn gái.”
Đó là câu mở đầu của Martini tiên sinh.
Sau đó anh ta nói vài chuyện liên quan đến cô bạn gái đó, và dáng vẻ của cô ta.
Anh ta là người rất ít nói, nhưng lúc kể về cô ấy, lại tẩn mẩn, thậm chí hơi dông dài.
Tôi yên lặng lắng nghe, không hề ngắt lời. Thực ra trọng tâm của đoạn kể lể này chỉ có:
Cô gái lớn hơn anh ta hai tuổi, quen nhau trong một lần giao lưu, cô ấy là người con gái tốt nhất trên đời, chàng yêu nàng, là loại tình yêu bất chấp sinh tử.

“Thi đỗ nghiên cứu sinh, tôi rất phấn khởi, vội chạy ngay đi báo cho cô ấy.” Anh ta uống một ngụm rượu, “Nhưng cô ấy nói rất lạnh nhạt: Tôi phải học nghiên cứu sinh hai năm, đi lính hai năm, ra ngoài xã hội rồi ít nhất phải phấn đấu hai năm nữa mới có thể có chút kinh tế.”
“Cô ấy nói thế để làm gì?” Tôi xen vào câu đầu tiên.
“Ý là nói: đến khi chúng tôi có thể chính thức ở bên nhau, ít nhất phải đợi thêm sáu năm nữa.”
“Vậy thì sao?”
“Cô ấy 25 tuổi, sáu năm sau đã hơn 30, không còn trẻ nữa.”


“Tôi nói tôi sẽ cố gắng kiếm tiền, không học nghiên cứu sinh cũng được. Cô ấy lại cứ lắc đầu.”
Anh ta châm một điếu thuốc, rít một hơi rồi nói: “Sau đó cô ấy nói một bài trắc nghiệm tâm lý.”
“Bài trắc nghiệm như thế nào?”
”Ở trong rừng anh nuôi mấy con vật: ngựa, trâu, dê, hổ và khổng tước. Nếu có một ngày anh phải rời khỏi khu rừng, mà chỉ có thể mang theo một con vật, anh sẽ mang theo con vật nào?”
Tôi giật mình, không trả lời.

“Anh cũng chơi rồi đúng không?” Anh ta nhìn tôi gật đầu, nói tiếp: “Cô ấy chọn trâu.”
“Trâu?”
“Cô ấy hy vọng ổn định, cuộc sống mới có trọng lượng, không giống cuộc sống trên cung trăng. Mà chỉ khi nửa kia của cô ấy đủ điều kiện kinh tế, có nền tảng sự nghiệp, cô ấy mới thấy ổn định được.”
“Điều này anh làm được chứ.”
“Nhưng ít nhất phải mất sáu năm. Chẳng phải sao?”
Anh ta dập thuốc, lặng lẽ nhìn chiếc ly rỗng trước mặt.

“Sau đó thì sao?” Tôi hỏi.
“Cô ấy nói chúng tôi chia tay trước đi, đợi sáu năm sau tôi có sự nghiệp rồi, nếu có duyên thì sẽ gặp lại.”
“Đã đến sáu năm chưa?”
“Năm ngoái là năm thứ sáu.”
“Vậy cô ấy đâu?”
“Chúng tôi hẹn nhau ở cổng trường đêm Giáng sinh.” Anh ta lắc đầu, “Nhưng cô ấy không đến.”
“Cô ấy…” Tôi không nói tiếp được. Nếu cô ấy đã không đến, vậy thì anh ta cũng không gặp được cô ấy.

“Anh đã bao giờ nghĩ tới, có lẽ cô gái đó chẳng hề đủ yêu anh.”
Tiểu Vân đột nhiên xuất hiện, hỏi một câu. Tôi giật mình.
“Không sao. Chỉ cần tôi đủ yêu cô ấy là đủ.” Martini tiên sinh trả lời.
“Bây giờ bận như vậy, cô...” tôi nói với Tiểu Vân.
“Tiểu Lan đối phó được.” cô nàng cười cười, “Nghe chuyện quan trọng hơn.”
Tiểu Vân bưng một ly rượu đến trước mặt anh ta, nói: “Ly Dry Martini này, tôi mời anh.”
“Cảm ơn.” Anh ta gật đầu.

“Có lẽ cái hẹn sáu năm chỉ là cái cớ để chia tay.” Tiểu Vân nói.
Trên mặt Martini tiên sinh thoáng một vẻ âm u, bình thản nói: “Tôi không muốn nghĩ như vậy.”
“Xin lỗi.” Tiểu Vân như không nhẫn tâm, “Tôi không có ý gì khác.”
“Không sao.” Anh ta nói, “Mấy năm nay, tôi không lúc nào không nhớ tới cô ấy. Hai năm đầu, cũng chính là lúc tôi học nghiên cứu sinh là khó chịu đựng nhất, khi đó tôi thường viết chữ lên tường.”
Nghe anh ta nói vậy, tôi liên tưởng tới bức tường đầy chữ trong căn phòng kia.

“Hai năm đi lính, tôi đã nghĩ rất nhiều, có lẽ vì trông tôi không đủ ổn định, nên cô ấy không thấy có tương lai. Nói ra chắc mọi người không tin, trước đây tôi rất lôi thôi, quần bò bị thủng vẫn mặc chẳng ngại gì, dạo phố xem phim đều đi dép lê.”
Martini tiên sinh nâng ly dry martini lên, uống một ngụm, nói tiếp: “Sau khi xuất ngũ, tôi cố thay đổi bản thân, lúc nào cũng đeo cà vạt, đi làm hay nghỉ phép đều thế.”
“Thực ra cũng không cần phải như vậy.” Tiểu Vân nói.

“Cà vạt tượng trưng cho sự nghiệp của người đàn ông, chỉ có cà vạt phù hợp mới có thể tôn lên thân phận địa vị của đàn ông.”
“Có cách nói này sao?” Tôi tò mò.
“Đó là cô ấy nói.” Anh ta đáp.
Tôi nhìn Tiểu Vân, Tiểu Vân cũng nhìn tôi, chúng tôi đều cảm thấy cách nói này không khách quan.
“Đi làm được vài năm, tôi thăng tiến rất nhanh, thu nhập cũng được coi là cao, nhưng vẫn không quen đeo cà vạt. Kiếp trước của người phương Tây nhất định là ma treo cổ, vì thế mới giữ cái thói quen thít cổ này.”

Nói xong, anh ta gượng gạo cười rồi nói: “Hay thật. Sau khi cô ấy bỏ đi, tôi cảm thấy cả con người tôi đã chết, không ngờ tôi vẫn còn có khiếu hài hước.”
Tôi và Tiểu Vân cũng cười.
“Chỉ cần tôi không giải tỏa được nỗi đau lòng khi nhớ cô ấy, tôi sẽ đến đây.” Anh ta thở dài, “Cô ấy là tảng đá phía bên phải tôi, nếu không được gặp lại cô ấy, tôi chỉ có thể ở nguyên chỗ cũ chờ đợi và nhung nhớ.”
“Nhưng nếu cô ấy đã thất hẹn, cớ gì anh…”
Anh ta lắc đầu, coi như ngắt lời tôi, nói: “Tôi thường ảo tưởng cô ấy nhất định đang nấp trong bóng tối âm thầm quan sát tôi, chỉ cần tôi quen với việc đeo cà vạt rồi, cô ấy sẽ biết là tôi đã có nền tảng sự nghiệp, sẽ tới gặp tôi.”

“Cà vạt hôm nay anh thắt, rất hợp với anh.” Tôi nói.
“Vậy sao?” Anh ta cúi đầu nhìn.
“Hơn nữa trước đây anh đều sờ nút thắt và đuôi cà vạt, hôm nay thì một lần cũng không.”
“Thật sao?” Anh ta tròn mắt.
Tiểu Vân nhìn tôi, hơi băn khoăn trước phản ứng của anh ta.
“Có lẽ tôi đã quen với việc thắt cà vạt rồi.” Anh ta nặng nề thở dài, sau đó uống hết chỗ rượu còn lại.

“Lẽ ra ngay từ đầu tôi phải nghĩ tới, cô ấy chọn gặp mặt trong ngày giáng sinh là có ý nghĩa đặc biệt.”
“Ý nghĩa đặc biệt gì?” Tôi hỏi.
“Đêm giáng sinh sẽ có kỳ tích. Có lẽ cô ấy đang ám chỉ: Chúng tôi muốn tương phùng, phải cần đến kỳ tích.”
Tôi và Tiểu Vân đều không nói gì, sợ sẽ nói điều gì không thích hợp, quá tàn nhẫn đối với anh ấy.

“Năm ngoái và năm nay kỳ tích đều không xuất hiện, sau này có lẽ sẽ không xuất hiện nữa. Thực ra trong lòng tôi rất rõ được ở bên cô ấy là một loại tham vọng không tưởng, tôi chỉ muốn gặp lại cô ấy một lần mà thôi.”
Nói xong, anh ta trầm mặc.

Ba người chúng tôi trầm mặc rất lâu, tôi quyết định phá vỡ sự im lặng, bèn nói:
”Anh ở trong rừng nuôi mấy con vật: ngựa, trâu, dê, hổ và khổng tước. Nếu có một ngày anh phải rời khỏi khu rừng, nhưng chỉ có thể mang theo một con vật, anh sẽ mang theo con vật nào?”
“Đoán thử xem.” Anh ta nói.
“Chắc chắn anh chọn dê.” Tôi nói, “Chỉ có người chọn dê mới cố chấp trong tình yêu như thế.”
“Đoán sai rồi.”
“Vậy anh chọn con nào?” Tiểu Vân hỏi.
“Tôi chọn khổng tước.” Anh ta nói.

“Tại sao?”
Vì quá kinh ngạc, tôi bỗng thốt lên, trong quán có bốn người đồng thời quay đầu về phía bọn tôi.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách