Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: MoMo
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Xuyên Không - Xuất Bản] Thái Tử Phi Thăng Chức Kí | Tiên Chanh (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
91#
Đăng lúc 18-6-2013 21:04:54 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 15.3: CONTINUE


Vấn đề mà ông ta nói tôi cũng đã nghĩ đến từ lâu. Theo lý mà nói, nhà họ Hạ là bề tôi thân tín của Tề Thịnh, một trong ba đạo quân chủ lực của Nam Hạ, ngay cả phản loạn ở Vân Tây cũng không dẹp yên được thì thật là vô dụng, khiến người ta vừa bất an vừa bất ngờ.

Dương Dự nói tiếp: “Sau này, Hoàng thượng lại lệnh cho Hạ Bỉnh Tắc lấy quân của Trương Linh ở Tịnh Dương đi trấn thủ biên giới Tây Hồ, nhưng lại phái hai nhà họ Tiết và Mạc tăng quân dọc tuyến Tịnh Dương đến Tân Dã. Thoáng qua thì có vẻ là để ép Trương gia điều động phòng ngự, nhưng thật ra thì bên trong đều có ý tứ sâu xa cả. Nếu thần đoán không sai thì sau khi dẹp loạn Vân Tây, Hoàng thượng cũng sẽ không cho thần quay về Giang Bắc mà sẽ để thần trấn thủ Vân Tây, đổi Hạ gia thành quân chủ lực của phía Bắc”.

Dương Dự nói đến đây, dừng lại lặng lẽ nhìn tôi.

Nghe một tràng về việc điều động binh lực ấy mà đầu óc căng cả ra, tôi lấy tay chấm ít nước trà, vẽ ra tất cả những đặc điểm và hướng điều động binh lực mà Dương Dự vừa nói lên mặt bàn.

Nếu Nhà xí huynh và nhà họ Trương kết thông gia, Tề Thịnh tất sẽ tìm cớ loại trừ Nhà xí huynh, tiện thể cắt đi một cánh tay của nhà họ Trương, còn Dương Dự, sau cuộc chiến Vân Tây thì binh quyền cũng chỉ là trên danh nghĩa. Tất cả điều này đều chứng minh cho một cuộc nội chiến tranh giành quyền lực, đó là cuộc chiến giữa Tề Thịnh với anh em trong nhà, với ngoại thích Trương gia, với Dương Dự…

Nhưng kết quả là thành trì quan trọng của Giang Bắc đã nằm trong tay chiến tướng thân tín của Tề Thịnh, dọc biên cương phía Bắc thì vẫn âm thầm tập hợp lực lượng hùng hậu.

Đột nhiên một ý nghĩ lóe lên trong đầu, tôi thất thanh: “Hoàng thượng muốn đánh Bắc Mạc?”.

Bắc Mạc và Nam Hạ đối đầu từ lâu, hơn năm mươi năm về trước đã có một cuộc chiến ác liệt kéo dài hơn sáu năm, Thành Tổ chính là từ cuộc chiến đó mà lập nên kì tích, một thái tử mồ côi từ trong bụng mẹ đã khôi phục lại địa vị, lập nên một triều đại mới. Mạch soái, phụ thân của Dương Dự, thì trở thành nhân vật huyền thoại của Giang Bắc, đi lên từ một tên lính bộ binh vô danh tiểu tốt, chỉ trong một thời gian ngắn đã trở thành chủ soái thống lĩnh quân Giang Bắc, trải qua sáu mươi năm với vô số trận chiến ác liệt nhưng chưa từng thất bại.

Còn cả ông nội Trương Sinh của Trương thị, ông nội Hạ Ngôn Chiêu của Hạ Bỉnh Tắc, Mạc Hải của nhà họ Mạc, Tiết Vũ của nhà họ Tiết… đều là những chiến tướng khét tiếng vùng Giang Bắc lúc bấy giờ.

Cuộc chiến đó kết thúc bằng thắng lợi của quân Nam Hạ. Thành Tổ vốn muốn thừa thắng truy kích tiêu diệt Bắc Mạc nhưng thống soái quân Giang Bắc lúc đó là Mạch Tuệ không biết tại sao lại bỏ giữa chừng, không thực hiện quân lệnh của Thành Tổ, đưa quân về Thịnh Đô.

Thành Tổ lúc đó vì chuyện này mà phẫn nộ, tống Mạch soái vào thiên lao. Nhưng cặp quân thần đã cùng nhau đi lên này có quá nhiều điều mà người ngoài không hiểu được, cũng không biết vì lý do gì mà cuối cùng Thành Tổ đã không trị tội Mạch soái, lại thả ông ta ra.

Mạch soái cũng là người có khí phách, sau khi được thả liền rời bỏ vinh hoa phú quý nơi Thịnh Đô và vợ con ở trong Mạch phủ, một người một ngựa bỏ đi. Nghe nói sau này Mạch soái từng quay trở lại nhưng bên cạnh đã có người mới, cũng sinh hạ được những người con khác. Mọi người bèn nói, Mạch soái mặc dù là anh hùng nhưng lại vô tình với người vợ cả Từ thị. Từ thị đã cứu Mạch soái trong lúc nguy cấp, khó khăn mới có được đứa con trai lại bị Mạch soái cho người khác làm con thừa tự, cuối cùng chỉ cô đơn một mình trông coi Mạch phủ trống vắng.

Có lẽ vì lý do này mà Thành Tổ quan tâm mẹ con Từ thị nhiều hơn, và cũng nuông chiều Dương Dự nhiều hơn.

Những chuyện này đều đã qua cả nửa thế kỉ rồi, tôi cũng chỉ nghe các cung nữ bàn tán với nhau mà thôi.

Sau cuộc chiến đó, Nam Hạ và Bắc Mạc tuy luôn đối đầu nhau, biên cương thường xuyên xảy ra xung đột, nhưng hai nước cũng chỉ lên án lẫn nhau, hoặc dùng lời lẽ xã giao để thể hiện mình lấy làm tiếc về chuyện đã xảy ra chứ chưa có cuộc chiến quy mô lớn nào.

Không ngờ Tề Thịnh lên ngôi chưa được hai năm lại muốn đánh Bắc Mạc, hơn nữa còn vì chuẩn bị cho cuộc chiến này mà không ngại kích động Vân Tây nổi loạn.

Trương gia, Dương gia, Nhà xí huynh, những gia tộc khác và cả tôi chỉ là quân cờ mà Tề Thịnh đã sắp xếp trên một bàn cờ lớn mà thôi.

Nghe nói Thành Tổ, ông nội của anh ta khi khôi phục ngai vàng cũng tận dụng nổi loạn ở Vân Tây, bây giờ ngẫm lại thì thấy hai ông cháu họ thật giống nhau, ngay cả thủ đoạn cũng chẳng khác, quả không hổ là “giống hệt Thành Tổ”.

Trong mắt Dương Dự lúc này hoàn toàn là sự kính phục, ông ngồi ngay ngắn, chắp tay: “Nương nương suy nghĩ rất nhạy bén, thật là một nữ hào kiệt”.

Nhà xí huynh nhìn tôi, cười khổ: “Khi Hoàng thượng vẫn còn là thái tử đã mất rất nhiều công sức vào quân Giang Bắc, mỗi lần đến đại bản doanh Giang Bắc đều ở lại mấy tháng liền. Bây giờ xem ra Hoàng thượng sớm đã có ý định đánh Bắc Mạc. Càng không nói tới việc mở rộng về phía Bắc là ý nguyện của Thành Tổ”.

Đầu óc tôi hơi rối loạn, những điều này rốt cuộc là ý nguyện của ai tôi không quan tâm, chỉ biết là giờ mình phải nhìn nhận lại con người của Tề Thịnh rồi.

Một người có thể tính toán được một thế cờ lớn từ vài năm trước như thế này, chưa cần nói đến thứ khác, chỉ riêng ý chí kiên định đã khiến người ta cảm thấy khiếp sợ.

Tôi im lặng khá lâu, đột nhiên nhớ ra một chuyện, liền hỏi Dương Dự: “Ta từng nghe Dương Nghiêm nói, nhà họ Dương các người có gia huấn, nếu có kẻ địch bên ngoài thì việc trước mắt là bảo vệ tổ quốc, bảo vệ dân lành. Hoàng thượng đã có ý dùng ông đi dẹp loạn Vân Tây thì tại sao không để ông cầm quân đánh Bắc Mạc?”.

Dẫu sao Dương Dự cũng là truyền nhân của Mạch soái, danh vọng trong quân không thể coi thường, cũng có thể nói là nỗi kinh sợ đối với Bắc Mạc.

Dương Dự nghe hỏi có vẻ hơi bất ngờ, chần chừ một lúc rồi bình tĩnh nói: “Bởi vì thần có một nửa dòng máu của Bắc Mạc nên Hoàng thượng không yên tâm. Đây cũng là nguyên nhân vì sao Hoàng thượng lại điều thần đến Vân Tây để tước binh quyền chứ không phải chỉ đối phó với Điện hạ như vẻ ngoài”.

Tôi hơi há miệng, hoàn toàn bị thông tin này dọa cho ngây người.

Mạch soái và Từ thị đều là người Nam Hạ gốc, thế mà con trưởng Dương Dự lại có một nửa dòng máu Bắc Mạc, điều này giải thích thế nào? Rốt cuộc thì Mạch soái ăn chả hay là Từ thị ăn nem? Chợt nghĩ đến thái độ của Mạch soái với hai mẹ con Từ thị, không lẽ Dương Dự thật sự không phải là cốt nhục của Mạch soái?

Nhà xí huynh ho lên một tiếng, tiếp lời: “Nếu đã hiểu rõ được ý dịnh của Hoàng thượng, vậy bây giờ chúng ta phải làm thế nào?”.

Anh ta nói, mắt nhìn về phía tôi.

Tôi cảm thấy lời anh ta hỏi có ý sâu xa quá, từ “chúng ta” nghĩa là bao gồm cả “ta” trong đó à? Tôi đưa mắt nhìn Nhà xí huynh một lát, nói: “Nếu đã đoán được dụng ý của Hoàng thượng, Điện hạ có thể không lấy Tam cô nương”.

Nhà xí huynh nghe vậy liền lắc đầu: “Nếu Hoàng thượng đã có ý muốn trừ bỏ thần thì có những chuyện không thể nào tránh được. Nếu thần thuận theo ý của Hoàng thượng, lấy Trương tam cô nương, ràng buộc với Trương thượng thư, đến lúc đó Hoàng thượng có thể sẽ nhẹ tay hơn, nếu không…”.

Anh ta không nói tiếp, cười nhạt và lặng lẽ nhìn tôi.

Hang cáo không thể nuôi dưỡng một con cừu, cho dù từ đầu chí cuối anh ta vẫn luôn choàng lên mình tấm da cừu thì anh ta vẫn là loài ăn thịt. Cho nên, tôi không tin Nhà xí huynh vì giữ chữ tín nên mới kiên trì liên minh với tôi, nếu không phải vì Hoàng hậu tôi đây còn tác dụng thì anh ta sớm đã vứt bỏ, trực tiếp đến nói chuyện với Trương gia rồi.

Nếu đã tìm tôi, thì có nghĩa trong kế hoạch của họ, tôi là người không thể thiếu được.

Tôi thừa nhận là mình suy xét sự việc luôn chậm hơn họ, lúc này tốt nhất là “lấy bất biến ứng vạn biến”.

Tôi liếc nhìn Dương Dự đang ngồi ngay ngắn ở bên cạnh, hỏi Nhà xí huynh: “Đầu óc ta ngu ngốc, đoán không được lòng người, Điện hạ có dự định gì thì cứ nói thẳng”.

Nhà xí huynh cười, đáp: “Thần và Dương tướng quân đã bàn bạc với nhau rồi, thấy cách của người là ổn thỏa nhất”.

Cách của tôi? Cách của tôi là giả làm rùa, đơn giản dễ dàng, học cái được ngay.

Tôi tức giận, bật cười: “Nếu đã vậy, mọi người hãy tự ngồi trong cái cũi của mình. Nhớ phải cẩn thận, để người ta nuôi gầy đi thì không sao, đừng để bị nuôi chết là được rồi!”.

Nói xong tôi liền đứng dậy đi ra ngoài.

Dương Dự cuống lên, vội vàng gọi tôi: “Hoàng hậu nương nương…”.

Tôi quay người lại nhìn hai người bọn họ, cười khẩy: “Các ngươi đã đều cảm thấy cách của ta tốt, còn muốn phí công gặp ta làm gì?”.

Dương Dự hơi chau mày nhưng không biết phải nói gì, cứ nhìn tôi rồi lại quay đầu nhìn Nhà xí huynh.

Nhà xí huynh ngồi đó im lặng nhìn tôi trong chốc lát, đột nhiên mở miệng: “Dương tướng quân, mời ngài lánh đi một lát, ta có vài lời muốn nói với Hoàng hậu nương nương”.

Dương Dự gật đầu, nhìn tôi một cái rồi mới đứng dậy sải bước ra ngoài.

Trong phòng chỉ còn lại hai người là tôi và Nhà xí huynh. Anh ta cúi đầu rót thêm trà vào cốc của mình, khẽ hỏi tôi: “Người còn nhớ khi ở Uyển Giang thần đã nói câu gì với người không?”.

Tôi sững ra, ở Uyển Giang anh ta đã nói rất nhiều, còn từng hứa với tôi “bình an khỏe mạnh, đủ ăn đủ mặc”, lúc này đột nhiên hỏi lại, tôi đột nhiên không hiểu anh ta muốn hỏi về câu nào.

Nhà xí huynh ngước mắt lên nhìn tôi, chậm rãi nói: “Thần đã hứa thì sẽ giữ lời”.

Lòng tôi hơi rung động, chợt nhớ đến cảnh tôi ngã xuống nước, anh ta đã đưa tay ôm lấy tôi, sau khi nhìn chăm chăm vào mắt tôi nói ra lời hứa gồm tám chữ kia liền thả mình xuống nước bảo vệ tôi.

Uyển Giang có Khúc Cửu Hiệp, chín khúc gập ghềnh, nước chảy xiết, chỗ nào cũng có đá ngầm, vô cùng nguy hiểm.

Đêm hôm đó, tôi và anh ta đã ôm nhau thật chặt, hai bên dùng cơ thể mình ngăn đá ngầm không va vào người kia, cùng nhau trôi dạt đến nửa đêm mới tìm được đường sống.

Tôi gật đầu, đáp: “Ta còn nhớ”.

Nhà xí huynh nhìn tôi, tiếp tục hỏi: “Vậy bây giờ thần hỏi người, người còn giữ đúng những lời đã nói trong cung Hưng Thánh không?”.

Tôi im lặng, mãi sau mới đáp: “Giữ đúng”.

“Vậy thì được rồi”, Nhà xí huynh thở phào nhẹ nhõm, trên mặt xuất hiện một nụ cười nhạt, nói: “Hồi này Hoàng thượng đối xử tốt với người như vậy, thần thực lòng sợ người bị mê muội”.

Bất giác tôi đưa tay xoa mũi theo bản năng, hơi ngượng ngùng: “Cũng phải, người ta đều nói sự dịu dàng mê hoặc anh hùng, thực ra sự dịu dàng không chỉ có tác dụng với mỗi anh hùng thôi”.

Nhà xí huynh mặt mày tươi tỉnh, mỉm cười.

Tôi quay lại ngồi xuống bên cạnh bàn, quyết định hỏi thẳng: “Các ngươi rốt cuộc có dự định gì? Muốn ta làm gì?”.

Nhà xí huynh vẻ mặt bình tĩnh, im lặng một lúc rồi mới nói: “Binh lực trong tay thần không đủ, lại mang danh nghĩa quân thần với Tề Thịnh, nếu đối đầu trực tiếp thì không được, việc chiêu binh cũng rất khó khăn. Sớm muộn gì cũng đánh Bắc Mạc, với tính cách của Tề Thịnh thì anh ta sẽ thân chinh xuất trận, thần đã sắp xếp ổn thỏa cảm tử quân để khiến anh ta mãi mãi ở lại Giang Bắc. Đến lúc đó Hoàng hậu hãy cầm lấy thánh chỉ, đưa tiểu hoàng đế lên ngôi”.

Tốc độ nói của anh ta hơi chậm nhưng ngữ khí lại rất thoải mái. Rõ ràng đang nói về âm mưa to lớn giết vua tạo phản, thế mà cứ như đang nói: “Hôm nay mọi người leo núi mệt rồi, tối nhớ phải ăn thêm mấy món nữa”; hoặc là: “Ngày mai có vẻ trời sẽ mưa, mọi người đừng quên mặc thêm quần áo” vậy.

Tôi chăm chú lắng nghe, nghiền ngẫm từng câu từng chữ như thể đang nếm thử một món ăn lạ, thế rồi trên tinh thần “ham học hỏi”, tôi đưa ra bốn câu hỏi, khái quát lại là bốn câu “ở đâu?”.

Thứ nhất, khi Tề Thịnh thân chinh đến Bắc Mạc thì anh ở đâu? Còn sống không? Trong tay có còn quyền lực không? Thứ hai, cảm tử quân mà anh nói tới ở đâu? Có thể đảm bảo một khi đã ra tay là giết được Tề Thịnh không? Thứ ba, thánh chỉ trong tay ta lúc đó ở đâu ra? Có hợp pháp không? Thứ tư, cũng là điểm quan trọng nhất trong kế hoạch này, đó chính là tiểu hoàng đế ở đâu?

Nhà xí huynh giải đáp từng câu một: “Chỉ cần thần tạm nhân nhượng vì lợi ích toàn cục, chuyện gì cũng thuận theo ý của Tề Thịnh thì anh ta sẽ không tìm được cớ hạ sát thần. Mà chỉ cần thần còn sống, trong tay nhất định sẽ có người dùng được. Chuyện cảm tử quân không cần người lo, nếu thần đã nói vậy thì tức là đã sắp xếp ổn thỏa. Còn về thánh chỉ, bất kể là lúc còn sống Hoàng thượng có để lại hay không, thì thần cũng sẽ làm cho Hoàng hậu có được một thánh chỉ mà không ai có thể soi mói được. Về điểm cuối cùng, có tiểu hoàng đế để lên ngôi hay không phải trông vào Hoàng hậu”.

Quanh đi quẩn lại hàng triệu vòng, rẽ vô số ngả, cuối cùng vẫn quay về vấn đề Tề Thịnh có thể sinh được con trai không. Mẹ kiếp! Áp lực đè lên vai tôi vẫn thật lớn!

Tôi suy nghĩ một lát rồi cười thăm dò: “Có tiểu hoàng đế hay không còn chưa biết, nếu đã có thể trừ bỏ Tề Thịnh, chi bằng ngươi lên làm hoàng đế?”.

Nhà xí huynh chầm chậm lắc đầu, ánh mắt rất sáng: “Danh bất chính, ngôn bất thuận, thiên hạ tắc loạn. Hơn nữa, lúc đó Dương Dự còn đang bị giam lỏng ở Vân Tây, thần vẫn còn cần Trương gia của người để ổn định tình hình Giang Bắc. Cứ cho là thần lấy Tam cô nương nhà họ Trương, thì một hoàng hậu cũng không có cách nào thỏa mãn được ham muốn của Trương gia, chỉ có cách đưa người lên vị trí thái hậu là ổn nhất”.

Ừm, đây đều là những lời nói thực.

Tôi gật đầu, cúi xuống im lặng một lát rồi chống tay xuống dưới bàn, đứng lên nói: “Được, cứ quyết định như vậy đi!”.

Có lẽ do tôi đáp lại hơi đơn giản, Nhà xí huynh không giấu được vẻ kinh ngạc, nhìn tôi hỏi: “Bây giờ Hoàng thượng đối đãi với người như vậy, thần cứ cho rằng người sẽ phải do dự rất lâu mới có thể trả lời thần”.

Tôi chế giễu: “Điện hạ cũng là đàn ông, chẳng lẽ còn không hiểu đàn ông? Sao đáng tin bằng con trai mình!”.

Nói xong tôi liền đứng dậy đi ra.

Tiểu mỹ nhân Chiêu Dương vẫn đang đợi ở bên ngoài, thấy tôi đi ra chẳng nói chẳng ràng kéo thẳng tôi vào hoa viên. Khi cả hai vừa ngồi trong một thủy đình thì đằng xa đã thấy thị nữ của Chiêu Dương dẫn Tả Ý đến.

Thị nữ đến trước mặt Chiêu Dương bẩm báo: “Bọn nô tì không mang theo quần áo để thay, đành phải xuống núi mua cho vị cô nương này bộ quần áo mới nên mới mất nhiều thời gian như thế, xin quận chúa tha tội”.

Chiêu Dương gật đầu qua loa.

Tôi quan sát kỹ Tả Ý, thấy trên người cô quả nhiên đang khoác bộ quần áo mới tinh, mặc dù chất liệu không phải là tốt nhất nhưng cũng khá chỉnh tề.

Mắt Tả Ý hơi đỏ, cô đưa mắt nhìn tôi như muốn nói mình bị bắt nạt.

Tôi nháy mắt ra hiệu, quay đầu lại tán gẫu với Chiêu Dương vài câu rồi mới đưa Tả Ý đi tìm Tề Thịnh.

Trên đường trở về, Tả Ý đi sát bên tôi nói nhỏ: “Nương nương, có người cố ý đẩy nô tì xuống nước. Khi đưa nô tì đi thay quần áo, nô tì vốn nghĩ chỉ cần tìm đại một cái áo để choàng lên người là được, nhưng bọn họ lại mang cái áo bị ướt của nô tì đi, sau đó để nô tì chờ rất lâu trong phòng mới đem bộ đồ này đến cho nô tì”.

Tôi bước chậm lại, quay đầu nhìn cô, cười: “Tất nhiên là thế, nếu không thì làm sao có đủ thời gian kéo ta đi gặp người khác chứ. Này? Ngươi nói xem chuyện này chúng ta có nên nói với Hoàng thượng không?”.

Tả Ý nghĩ đi nghĩ lại rồi trả lời tôi: “Nô tì cảm thấy nên nói thì hơn”.

Tôi gật đầu: “Ta cũng thấy chuyện này phải nói. Đằng nào cũng khó giấu được, để người tra hỏi chi bằng chủ động nói thì hơn”.

Bàn tay đưa ra đỡ lấy tôi của Tả Ý cứng đờ.

Trước biểu hiện có tật giật mình vô cùng rõ ràng của Tả Ý, tôi chỉ cười cười, đưa tay vỗ vỗ cánh tay cô. Không sao, nha đầu, hai chúng ra tiếp tục đấu với nhau, xem cuối cùng ai có thể thu phục ai.

Bên kia Tề Thịnh đã sớm tống cổ Dương Nghiêm đi, đang ngồi dưới một cái cây lớn cùng sư thầy chủ trì chùa Phúc Duyên đàm kinh luận đạo, thấy tôi đến chỉ lạnh lùng liếc một cái rồi lại quay đầu tiếp tục cùng lão hòa thượng kia nói chuyện.

Mặc dù chỉ tùy tiện liếc qua như vậy, mặc dù nét mặt tên Tề Thịnh chết tiệt vẫn bình thản dịu dàng, nhưng không hiểu sao từ đáy lòng tôi lại chột dạ vô cùng. Tôi cảm thấy có nhiều lúc ánh mắt của Tề Thịnh thoạt nhìn có vẻ thờ ơ nhưng thực ra lại sắc lạnh như dao.

Mẹ kiếp! Tại sao chứ? Rõ ràng là tôi phụng chỉ đi hẹn hò cơ mà!

Trên đường từ Thúy Sơn về Thịnh Đô, tôi ngồi ngay ngắn trong một chiếc xe ngựa sang trọng hoàn toàn mới, tóm tắt cho Tề Thịnh nghe nội dung cuộc hội đàm ba bên giữa tôi, Nhà xí huynh và Dương Dự. Đương nhiên, do sự vắng mặt của đồng chí thư ký hội nghị Tả Ý, nội dung không tránh được thiếu sót, chỉ nói Dương Dự đã nhìn thấu dụng ý ác độc của Tề Thịnh khi điều ông đến Vân Tây. Cả việc Nhà xí huynh chỉ rõ cho tôi thấy sự hòa hợp giữa Hoàng thượng và Hoàng hậu bây giờ là giả dối. Tề Thịnh muốn cùng anh ta tranh giành nhà họ Trương nên mới làm như vậy, khuyên tôi không để những lời đường mật của Tề Thịnh lừa gạt, nếu Tề Thịnh thật lòng với tôi thì sẽ không để Giang thị tiếp tục ở cung Đại Minh nữa, cũng sẽ không làm cho Hoàng hậu tôi đến giờ vẫn chưa có con trai.

Tề Thịnh vẫn cụp mắt xuống ngắm nhìn tràng hạt, mãi đến khi tôi nói xong rồi cũng không có phản ứng gì.

Tôi đoán anh ta không tiện ngắt lời tôi, nghĩ đi nghĩ lại, đang định thêm một câu để tỏ ý “Trả lời xong rồi” thì Tề Thịnh ngước mắt lên nhìn tôi, chậm rãi hỏi: “Dương Dự cũng ở đó?”.

Tôi cân nhắc một lát, quyết định giữ đúng lời nói vừa rồi thì tốt hơn, bèn trả lời: “Lão cửu giới thiệu như vậy. Có điều, khi thiếp ở Thái Hưng tuy cũng đã nhìn thấy hình dáng của Dương Dự từ xa, nhưng người này có thật là ông ta hay không thì thiếp không thể khẳng định được”.

Tề Thịnh nghe xong liền cười mỉa mai, nói: “Nếu Cửu đệ chỉ muốn nói những điều đó thì hôm nay không cần sự lộ diện của Dương Dự”.

Tôi thêm kinh ngạc, Tề Thịnh lúc nãy nhìn như không tập trung, không ngờ mở miệng là đánh trúng tim đen. Quả thực, nếu Nhà xí huynh gặp tôi chỉ vì muốn chia rẽ quan hệ giữa tôi và Tề Thịnh thì chẳng cần phải gọi lão tướng Dương Dự từ Vân Tây xa xôi trở về.

Tôi hơi hối hận, lẽ ra không nên vì lấy lòng Tề Thịnh mà nói ra chuyện Dương Dự trở về Thịnh Đô. Nhưng nếu lúc này không nói ra, sau này để Tề Thịnh biết được sự việc thì e rằng những lời tôi đã nói, bất luận là thật hay giả, anh ta cũng sẽ không tin nữa.

Tôi đưa mắt nhìn Tề Thịnh, nói: “Thiếp đoán là vì Cửu điện hạ muốn thể hiện thành ý với thiếp, đồng thời cũng để thiếp tin tưởng rằng đằng sau Cửu điện hạ còn có sự hỗ trợ đắc lực của Dương Dự, chỉ cần liên minh thành công với Trương gia là có thể xoay chuyển được thế cục”.

Tề Thịnh dựa lưng vào thùng xe, chiếc cằm hơi hếch lên, im lặng nhìn tôi.

Tôi hít một hơi thật sâu, dũng cảm nói tiếp: “Cửu điện hạ còn nói, cái mà anh ta muốn không chỉ là thiên hạ này mà còn cả… thiếp. Cửu điện hạ cũng có thể cho thiếp địa vị Hoàng hậu, những gì chàng cho thiếp, Cửu điện hạ đều có thể cho thiếp nhiều hơn”.

Mắt của Tề Thịnh từ từ nheo lại, sát khí thoáng hiện lên trong đó.

Tôi thầm niệm A di đà Phật, Nhà xí huynh, xin lỗi nhé, lúc này cái cũi mà ngươi đang ngồi có vẻ là càng bé hơn rồi. Nhất định phải rụt đầu rụt cổ thật ngắn lại, tuyệt đối không được để Tề Thịnh có cơ hội vung đao.

Tề Thịnh hỏi tôi: “Thế nàng trả lời thế nào?”.

Tôi chớp chớp mắt: “Thiếp nói chuyện này quá nghiêm trọng, một mình thiếp không quyết định nổi, phải trở về thương lượng với chàng”.

Tề Thịnh hơi sững ra rồi lập tức cười phá lên.

Tôi vẫn quỳ gối bên cạnh, mím môi nhìn anh ta.

Tề Thịnh cười rất lâu rồi bỗng vươn tay ra ôm lấy eo tôi, kéo tôi ngã lên người mình, sau đó lấy tràng hạt trên tay anh ta đeo vào cổ tay tôi, lại dùng cằm cọ lên đỉnh đầu tôi, thì thầm: “Biết rõ những lời nàng nói đều là giả dối, nhưng ta vẫn thích nghe… vẫn thích nghe”.

Tự nhiên, toàn thân tôi cứng đờ.

Tôi đang định nâng người dậy giải thích mấy câu thì lại bị cánh tay của anh ta kéo lại, im lặng một lát, đột nhiên anh ta nói khẽ: “Bồng Bồng, chúng ta sinh con tiếp đi”.

Trong lúc tôi còn đang sững sờ thì Tề Thịnh đã nâng cằm tôi lên, cúi đầu xuống hôn.

Đầu óc choáng váng, bất giác tôi thầm than, Tề Thịnh đúng là người luôn hành động quyết đoán và mạnh mẽ…
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

92#
Đăng lúc 18-6-2013 21:08:11 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 16.1: TÂM TƯ KHÓ NHẬN RA!


Không biết rốt cuộc là Bồ Tát ở chùa Phúc Duyên linh nghiệm, hay là lời vàng ý ngọc của Tề Thịnh hiệu nghiệm, sau khi từ Thúy Sơn trở về, bà dì xuất hiện đều đặn hàng tháng của tôi quả thực không đến viếng thăm nữa.

Thư kí Tả Ý nhớ những chuyện này còn rõ hơn tôi, mỗi ngày đều bấm đốt ngón tay tính toán mấy lần. Đến giữa tháng Bảy, cuối cùng không kiên trì được nữa, bèn kiến nghị với tôi bằng giọng run run: “Nương nương, hay là gọi Tống thái y đến bắt mạch đi, có lẽ đã có tiểu điện hạ rồi đấy ạ!”


Tôi nhìn cô đếm đi đếm lại đã mấy lần, liền gật đầu.

Tả Ý thấy tôi ưng thuận, vội quay người sai Phúc nhi, người nhanh nhẹn nhất chỗ tôi, đến Thái y viện mới Tống thái y.

Tôi còn chưa gặm xong miếng dưa hấu thì Phúc nhi đã đưa Tống thái y đang thở hổn hển chạy vào điện.

Tả Ý mang tới cho tôi một cái gối để đặt tay lên đó.

Mọi người trong phòng căng thẳng nhìn Tống thái y, mong đợi ông ta sẽ nói ra tin mừng kia.

Tống thái y một tay vân về chòm râu, cúi đầu trầm ngâm một lát rồi mới đưa mắt nhìn tôi, nói với vẻ bình thản: “Xin nương nương đổi tay kia”.

Mọi người nín thở, suýt nữa thì ngã cả xuống.

Chỉ duy có tôi là vẫn bình tĩnh, nhanh chóng đổi tay kia.

Tống thái y lại bắt mạch cẩn thận, một lúc lâu sau rồi mới đứng dậy, từ từ quỳ xuống trước tôi: “Chúc mừng nương nương, nương nương có thai rồi ạ”.

Hay rồi, cả cung Hưng Thánh bỗng “ồ” lên. Chưa đến nửa ngày sau thì cả hậu cung cũng “ồ” lên. Hoàng hậu vừa sinh chưa được một năm, giờ đã lại có thai, tình cảm của Hoàng thượng và Hoàng hậu thật thắm thiết biết bao. Ai còn dám nói Hoàng hậu không được sủng ái nữa, không được sủng ái mà ba năm hai lần mang thai sao?

Tề Thịnh biết tin đến thăm tôi, ánh mắt dừng lại trên bụng tôi một lát rồi ghé sát vào tai tôi, hạ giọng trêu: “Đúng là một mảnh đất tốt”.

Tôi khiêm tốn đáp: “Chủ yếu là nhờ có trâu tốt”.

Tề Thịnh trợn tròn mắt, đưa tay ôm lấy eo tôi, vùi đầu vào hõm vai tôi bật cười. Thấy các cung nữ vẫn đang đứng trong điện, tôi dùng cái quạt trong tay gõ nhẹ lên vai Tề Thịnh, nói với vẻ nghiêm túc: “Chú ý hình ảnh”.

Tề Thịnh vẫn ôm tôi thêm một lúc nữa rồi mới buông ra, đỡ tôi ngồi xuống ghế mềm bên cạnh.

Tôi thấy tâm trạng của Tề Thịnh rất tốt, cân nhắc một lát rồi ra hiệu cho đám cung nữ trong điện lui ra, sau đó thương lượng với anh ta: “Thần thiếp mang thai rồi, trước mắt sợ không thể hầu hạ Hoàng thượng được, chi bằng sắp xếp lại thứ tự cho các cung để mọi người đều thoải mái, sau này không lộn xộn nữa”.

Tề Thịnh không nói gì.

Tôi nhìn điệu bộ biết anh ta hẳn không vui vẻ, nhưng vì không muốn để mình trở thành mục tiêu công kích của đám đông, tôi chỉ còn cách liều mạng đẩy anh ta đi chỗ khác. Cho dù không phải phi tần của hậu cung thì chí ít cũng để anh ta ở lại cung Đại Minh trông coi Giang Thị.

Tôi quan sát kỹ sắc mặt của Tề Thịnh, khẽ cắn môi rồi lại nói: “Cổ nhân chẳng phải đã nói, không nhìn những gì bất chính, không nghe những tiếng dâm thanh, không nói những lời kiêu ngạo, như vậy mới có thể dưỡng thai được, cho nên…”.

Tề Thịnh ngắt lời tôi: “Nàng thấy ta chiếm phần bất chính hay là dâm thanh?”.

Tôi không khỏi ngớ người trước câu hỏi của Tề Thịnh, chỉ còn biết cúi đầu ấp a ấp úng.

Tề Thịnh lạnh lùng hừ một tiếng: “Nàng đừng cho rằng ta không biết suy nghĩ của nàng, nhưng việc gì cũng có giới hạn của có, nếu thái quá thì đến cùng sẽ không giải quyết được hậu quả đâu”.

Nói xong Tề Thịnh liền đứng dậy ra về.

Kể từ sau khi Tề Thịnh đăng cơ thì cái cảnh người phủi tay áo bỏ đi trước một lời nói không hợp ý mình đã lâu lắm rồi không thấy nữa. Nhìn dáng vẻ tức giận của Tề Thịnh khuất dần ngoài cửa điện, tự nhiên tôi thấy anh ta thế này đáng yêu hơn, cũng cảm thấy yên tâm hơn.

Theo thông lệ, Tề Thịnh một khi đã nổi giận thì vài ngày sau sẽ không ngó ngàng gì đến tôi. Không ngờ, lần này vừa ra về, ngay chiều hôm đó anh ta đã sai người mang đến cho tôi Tứ thư Ngũ kinh và vài chồng binh thư, sử thư, còn đặc biệt truyền khẩu dụ, để nuôi dạy con từ trong bụng mẹ, tôi nhất định phải đọc những cuốn sách đó, thuộc lòng được thì càng tốt.

Tôi lật Binh thư, nhìn lại Sử thư, A di đà Phật, người đến một câu chuyện trong này còn không đọc được như tôi mà anh ta lại bảo học thuộc! Tề Thịnh ơi là Tề Thịnh, anh muốn gián tiếp giết tôi phải không?

Tiểu nội thị mang sách đến nhìn tôi với vẻ mặt thông cảm, an ủi: “Nương nương không cần lo lắng. Hoàng thượng đưa ra những quyển sách này để nương nương dưỡng thai, nếu như không muốn xem, nương nương bảo người khác đọc cho nghe là được. Tất cả cũng chỉ vì muốn tốt cho tiểu điện hạ thôi ạ”.

Tôi gật đầu, tự mình đọc thì như trúng thuốc mê, để người khác đọc cho nghe thì sẽ như được thưởng thức nhạc khúc cho tâm hồn rồi.

Tiểu nội thị lại chỉ vào hai ma ma vẫn đang cúi đầu đứng ở bên cạnh, nói: “Hoàng thượng còn bảo nô tì đưa Ngô thị và Dương thị đến, nói họ đều là những người đã từng hầu hạ Hoàng hậu nương nương lúc sinh công chúa Vĩ Nguyên, nương nương dùng họ cũng quen thuộc hơn”.

Bị mấy chồng sách đè nén, tinh thần tôi vẫn chưa hồi phục lại nên lúc này nghe nói vậy chỉ gật đầu, nhìn hai người này cũng quen mặt, liền bảo Tả Ý đưa họ đi sắp xếp chỗ ăn ở.

Đêm hôm đó tôi đích thân đến cung Đại Minh tạ tội với Tề Thịnh: “Thần thiếp sai rồi”.

Tề Thịnh đưa mắt nhìn tôi, hỏi: “Thật biết sai rồi chứ?”.

Tôi thành thật gật đầu: “Thực sự biết sai rồi ạ”.

Tề Thịnh lại hỏi: “Sai ở đâu?”.

Với thái độ thành khẩn, tôi đáp: “Chỗ nào cũng sai”.

Tề Thịnh nghe xong khẽ hừ một tiếng lạnh lùng, lại cầm tấu chương lên, cúi đầu xem.

Tôi thấy vậy biết là không ổn, suy nghĩ một lát đổi giọng: “Thần thiếp sai ở chỗ bên cạnh có đại thụ mà không biết dựa vào, lại muốn tự mình vác mấy cây củi với viên đá lừa đi dựng lều che nắng”.

Tề Thịnh lúc này mới cười, bỏ tấu chương xuống, đứng dậy nói: “Đi nào”.

Tôi sững sờ: “Đi đâu ạ?”.

Tề Thịnh kéo tay tôi đi ra ngoài, đầu hơi cúi xuống nhìn tôi, trong mắt có chút khinh thường, trả lời đơn giản nhưng dứt khoát: “Đến cung của nàng!”.

Lúc đó tôi không hiểu, anh ta đến cung của tôi thì cứ việc đến, tại sao trong mắt lại hiện vẻ khinh thường? Nhưng đến khi Tề Thịnh quẳng một tập Sử thư ra trước mặt tôi thì tôi lập tức hiểu ra.

Tề Thịnh đã thay thường phục, dựa vào ghế mềm cạnh cửa sổ với vẻ lười biếng, nói giọng ông lớn: “Đọc một đoạn nghe nào”.

Nụ cười như có như không trên mặt đã tố cáo anh ta. Chẳng cần đoán cũng biết, anh ta đang nhớ đến tình cảnh tôi đọc quyển giới thiệu người nhà họ Trương trước đây.

Hẳn là anh ta lại muốn lôi tôi ra làm trò vui rồi.

Tôi lật tập Sử thư từ đầu đến cuối không có lấy một chữ cái dấu câu nào trước mặt, nói với vẻ rất lạnh lùng: “Thiếp cảm thấy đọc cái này không bằng đi học nữ công gia chánh. Biết đâu lại là con gái cũng nên”.

Tề Thịnh nhướng mày lên cười cười, rút quyển sách khỏi tay tôi, nói: “Cũng được, vậy mời Hoàng hậu thêu hà bao cho trẫm, nhân tiện tu thân dưỡng tính luôn”.

Nhìn anh ta cười tít đến nỗi chẳng thấy tổ quốc đâu, tôi mới chợt hiểu, thì ra cái bẫy đang ở đây chờ tôi.

Tôi lén thương lượng với Tả Ý, nhờ cô bí mật giúp tôi thêu hà bao cho Tề Thịnh.

Tả Ý lúc đầu từ chối vì thêu không đẹp, tôi nghe thấy thế rất vừa lòng, nói: Như vậy càng tốt, ngươi mà tìm một người có tay nghề tinh xảo đến thì dù ta có tin, Tề Thịnh cũng sẽ không tin đâu!

Tả Ý bị tôi dồn ép đến rối cả lên, gạt nước mắt nói: “Nương nương, Hoàng thượng nào thiếu gì hà bao, cái mà ngài muốn là tấm lòng của nương nương. Nếu Hoàng thượng biết hà bao là do nô tì thêu thế nào cũng sẽ trút giận lên nô tì, cái mạng nhỏ của nô tì khó mà giữ được!”.

Thế rồi Tả Ý khóc như mưa, trông thật đáng thương, tôi không muốn lại làm ra chuyện gì ảnh hưởng đến mạng người nên đành thôi.

Nhưng nếu bảo tôi cầm kim lên thêu hà bao thì thà để tôi mò từng chữ một trong mấy tập Sử thư kia còn hơn.

Áp lực tinh thần lớn, chuyện ăn uống của tôi lập tức có vấn đề, thỉnh thoảng lại buồn nôn, món ăn không hợp khẩu vị cũng có thể khiến tôi nôn ra cả mật xanh mật vàng.

Có một lần đúng lúc Tề Thịnh ở bên cạnh, thấy cảnh ấy sắc mặt lập tức thay đổi, vừa giúp tôi vỗ lưng, vừa vội vàng sai người mời thái y.

Tôi súc miệng, nhân cơ hội này giở vờ yếu ớt bám vào tay áo anh ta, hỏi: “Hoàng thượng, có thể đồng ý với thần thiếp một chuyện không?”.

Trước mặt mọi người, Tề Thịnh và tôi cùng phối hợp đóng vở “Đế Hậu tình sâu nghĩa nặng”, anh ta nắm tay tôi thật chặt, giận dữ nói: “Có chuyện gì thì cứ nói, những gì nàng muốn trẫm đã bao giờ không đồng ý sao?”.

Nghe lời này, mặc dù rất muốn lườm anh ta một cái nhưng tôi vẫn nhẫn nại, nói: “Cái hà bao kia có thể không thêu nữa được không?”.

Tề Thịnh sững sờ, dở khóc dở cười gật đầu.

Tống thái y đến rất nhanh, đi cũng nhanh, chỉ căn dặn vài câu: Hoàng hậu bị ốm nghén, nếu như không phải dùng thuốc thì tốt nhất đừng dùng. Hoàng thượng đừng lo lắng, chỉ cần chịu đựng mấy tháng là ổn thôi.

Tề Thịnh thở phào một tiếng, ngoảnh lại bình thản bảo Tả Ý chuẩn bị lại cơm canh cho tôi.

Tôi buồn bực, đây là ốm nghén sao? Tại sao hồi mang thai Uy nhi tôi lại ăn ngon miệng, người béo hơn đến mấy cân?

Kể chuyện này với Lục Ly, Lục Ly quan sát kỹ xung quanh rồi mới nháy mắt ra hiệu nói: “Nương nương khi mang thai lần thứ nhất chẳng phải… lần ấy…cái đó đó sao! Đúng không? Đúng không?”.

Tôi sững sờ, lúc này mới hiểu ý của cô. Lần mang thai trước tôi và cô chỉ lo giả vờ, làm gì còn thời gian để nghĩ tới chuyện nôn hay không nôn.

Lục Ly đã trải qua giai đoạn đầu không ổn định của thai kỳ, cuối cùng cũng được Triệu vương thả ra, việc đầu tiên là tiến cung thăm tôi.

Tôi và Lục Ly lâu ngày không gặp, đương nhiên không thể thiếu cảnh cô lau nước mắt, cảm thán: “Nương nương cuối cùng cũng qua được giai đoạn đầu rồi, chỉ mong lần này là một tiểu hoàng tử”.

Trong đầu tôi luôn ám ảnh câu chuyện của Tam tục sư, vừa nghe nhắc đến việc sinh con trai, con gái liền phát hoảng lên, cũng không tiếp lời Lục Ly, vội quay đầu căn dặn Tả Ý ở bên cạnh: “Ngươi hãy đến cung Đại Minh hỏi xem Hoàng thượng có bận không, bữa trưa có qua dùng cơm không. Nếu người không qua được thì chúng ta giữ Lục Ly lại ăn trưa”.

Tề Thịnh và Lục Ly không ưa nhau, chuyện này mọi người trong cung Hưng Thánh đều biết. Tả Ý cũng không nghĩ nhiều, đáp lại một tiếng rồi quay người đi ra ngoài.

Tôi gọi cô ta lại, dặn: “Linh hoạt một chút, đừng để Hoàng thượng biết Lục Ly đang ở đây”.

Tả Ý chạy một mạch ra ngoài.

Tôi nhìn xung quanh, khẽ hỏi Lục Ly: “Em nghĩ cách tra xem bọn Hoàng thị thế nào mà vẫn chưa có thai. Cũng gần nửa năm rồi, sao không có động tĩnh gì?”.

Lục Ly ngạc nhiên: “Nương nương…”.

Tôi nói khẽ: “Việc sinh được con trai hay con gái chưa thể nói trước được, lỡ ta lại sinh con gái, có người trong số họ sinh được con trai thì cũng coi như là bù đắp”.

Nói thẳng ra, tôi cảm thấy người đông lực lượng lớn, đã có nhiều mảnh đất dùng được như thế, tội gì tôi phải chịu một mình chứ.

Lục Ly chần chừ một lát rồi hỏi: “Nương nương vẫn chưa thật tin tưởng Hoàng thượng?”.

Tôi hỏi lại cô ta: “Em bây giờ có hoàn toàn tin Triệu vương không?”.

Lục Ly nghĩ một lát rồi gật đầu: “Nô tì biết phải làm thế nào rồi”.

Hai chúng tôi lại nói chuyện khác. Lục Ly giới thiệu cho tôi mấy người đáng tin trong cung, bảo tôi có thời gian thì thử đi xem xét, nếu có thể dùng được thì lôi kéo họ về, trong tay có người để dùng vẫn tốt hơn.

Hai chúng tôi đang nói đến đây thì Tả Ý từ cung Đại Minh trở về, bảo Tề Thịnh không có ở đó.

Lục Ly vừa nghe Tề Thịnh không có ở cung Đại Minh lập tức hứng thú bừng bừng, hai mắt sáng lên đề nghị với tôi: “Nương nương, hai chúng ta đến cung Đại Minh đi, xem con tiện nhân Giang thị bây giờ thế nào rồi”.

Nói xong Lục Ly đứng dậy, chống tay vào eo định đi luôn.

May mà thân thể tôi lúc này nhanh hơn cô, liền đưa tay ra kéo lại. Trời, nha đầu này, ngươi tưởng ta không biết ngươi có ý gì à? Chẳng phải ngươi muốn vác cái bụng này đến chọc giận Giang thị sao? Chúng ta có thể bớt làm mấy việc mà những phụ nữ độc ác hay làm được không?

“Thôi đi, em ít nghĩ đến cô ta thôi, không sợ sau này sinh con ra sẽ giống cô ta à?”

Lời nói này có tác dụng hơn bất cứ cái gì, Lục Ly lập tức ỉu xìu, ở lại cùng tôi ăn cơm trưa rồi ngoan ngoãn quay về phủ Triệu vương.

Khi tôi mang thai được ba tháng thì nhà họ Trương tiến cung hỏi thăm. Lần này Trương lão thái thái không đến, người đến là mẹ của Trương thị, bà Phạm thị và đại đường tẩu Bạch thị.

Sắc mặt của Phạm thị còn tệ hơn lần trước, vừa nhìn thấy tôi đã mừng đến phát khóc, vừa lau nước mắt vừa nói: “Từ khi ra khỏi cung lần trước mẹ liền ăn chay niệm Phật cầu xin Bồ Tát phù hộ cho con. Không ngờ lại linh nghiệm thế, con quả nhiên sắp hết khổ rồi”.

Bạch thị là người có tính cách hoạt bát, thấy Phạm thị khóc mỗi lúc một sướt mướt vội đi lên phía trước đưa khăn tay cho bà, khuyên: “Đại bá mẫu đừng khóc nữa, nương nương mang thai là chuyện tốt mà. Người khóc như vậy, chẳng phải sẽ làm nương nương không vui sao”.

Nghe Bạch thị nói vậy, Phạm thị ngừng khóc, lau nước mắt rồi căn dặn tôi mấy việc cần chú ý trong thời kỳ mang thai: “Việc ăn uống nhất định phải chú ý, nhất thiết không được để người khác lợi dụng sơ hở. Còn bên Hoàng thượng, thân thể con bây giờ thế này, tốt nhất là chọn mấy đứa nha hoàn có thể tin tưởng được, dung mạo đẹp một chút…”.

Tôi vừa nghe bà nói một thôi một hồi và có hơi hướng chuyển sang chuyện đấu đá trong cung, bèn vội vàng ngắt lời bà, quay sang hỏi Bạch thị: “Việc chuẩn bị hôn sự của Trà Trà thế nào rồi?”.

Ánh mắt Bạch thị liền sáng lên, đáp: “Lần này đến, lão thái thái còn bảo thần thiếp chuyển lời tới nương nương, việc hôn sự của Tam cô nương, muốn xin ý kiến của nương nương”.

Bạch thị mới chỉ nói một nửa nhưng ý thì đã quá rõ ràng. Hoàng hậu ta đây bỗng nhiên chuyển từ tình trạng suýt bị phế truất thành được Hoàng thượng sủng ái, thế là nhà họ Trương trở nên mâu thuẫn, không biết nên tiếp tục đầu tư vào Sở vương hay là thẳng tay cắt đứt quan hệ luôn?

Phạm thị thì vẫn đang luôn miệng dạy dỗ làm thế nào để nắm được trái tim của Tề Thịnh trong thời kỳ mang thai: “… thời điểm thế này càng không thể vì được sủng ái mà kiêu ngạo. Đàn ông đều ham của lạ, chỉ cần trái tim người ở bên con thì không gì mạnh bằng!”.

Tôi “vâng” một tiếng qua loa, rồi trong lúc Phạm thị dừng lại lấy hơi, nói với Bạch thị: “Lòng vua khó đoán, Tam nha đầu cứ chiếu theo những gì đã quyết định mà làm thôi. Dù sao cũng không phải chuyện xấu”.

Bạch thị là người thông minh, nghe xong liền gật gật đầu, không nói tiếp nữa, chỉ nghe Phạm thị vẫn đang ra sức dạy dỗ, vào lúc thích hợp còn đưa cho Phạm thị cốc trà để thấm giọng.

Phạm thị nói nửa ngày trời, cuối cùng cũng đến đoạn kết, nội dung chính là không có gì ngoài việc bảo tôi phải hiểu rõ một đạo lý: Nếu đã không có cách gì để quản lý được thể xác của người đàn ông thì phải nắm giữ được trái tim của anh ta.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

93#
Đăng lúc 18-6-2013 21:11:44 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 16.2: CONTINUE


Tôi nghe mà đau cả đầu, trong lòng rất cảm khái. Cung đình quả là làm bằng sắt thép, mỹ nữ nhiều như nước nhưng không cách nào mài mòn được. Ở đây, nữ nhân khổ, nam nhân khổ, Hoàng thượng lại càng khổ hơn.

Có lẽ Tề Thịnh cũng cảm thấy mình làm Hoàng thượng quá vất vả nên kể từ sau khi tôi mang thai, anh ta cũng chẳng mấy khi triệu bọn Hoàng thị vào cung nữa. Đợi qua tháng Chín, giai đoạn ốm nghén của tôi kết thúc, anh ta liền thôi luôn việc gọi người, mỗi ngày ngoài lúc đến cung của tôi một lần, thời gian còn lại đều ở cung Đại Minh với Giang thị.

Khi bọn Hoàng thị đến vấn an tôi, trong lời nói khó tránh bộc lộ ý tứ oán trách Tề Thịnh.

Tôi chán nản gõ vào trán họ mà dạy bảo: “Các ngươi cũng không tự kiểm điểm mình đi. Nếu nói về dáng vóc, ai mà chẳng mạnh gấp trăm lần cái người ở cung Đại Minh kia! Không giữ được trái tim Hoàng thượng thì cũng thôi đi, ngay cả thân thể người các ngươi cũng chẳng giữ được, thật phí công ta cả ngày lo lắng thay các ngươi”.

Đám đàn bà này vốn đầy một bụng oán trách, nghe tôi dạy bảo một hồi thì cũng dịu lại. Mọi người nói xem, kỹ năng của bản thân không bằng người khác thì làm gì được?

Đợi họ ra về, Tả Ý bưng bát cháo tổ yến đến cho tôi, nói thầm: “Lần đầu tiên nô tì cảm thấy có Giang thị ở cung Đại Minh là một việc tốt”.

Tôi nghe vậy thì sững sờ, suy nghĩ một lát, cảm thấy lời Tả Ý cũng có phần đúng. Có Giang thị ở cung Đại Minh làm mục tiêu để thu hút hỏa lực của mọi người, quả nhiên giảm bớt đi rất nhiều chuyện cho tôi.

Những ngày sau đó trôi đi êm ả, sang tháng Mười một bụng tôi lại nổi rõ hơn. Uy nhi không những đã đi vững mà còn biết nói những từ đơn giản. Hằng ngày khi Tề Thịnh vừa bước vào cửa điện, nó là người đầu tiên chạy tới ôm lấy hai chân Tề Thịnh, gọi to: “Phụ hoàng”.

Tề Thịnh rất vui, trước tiên là bế Uy nhi lên đi vài vòng trong điện, sau đó hai cha còn cùng đến quan sát cái bụng của tôi.

Bên ngoài băng tuyết đầy trời, trong phòng ấm áp tràn ngập tiếng cười nói vui vẻ, đúng là cảnh tượng phu thê ân ái, cha hiền con hiếu. Đôi lúc khi bị không khí nóng bức trong điện làm hoa mắt, tôi nghĩ đây chính là cảnh tượng “vợ” con hiếu thuận, gia đình yên ấm, nếu có thể mãi mãi như vậy thì cũng tốt.

Ngày mùng Chín tháng Mười hai, Nhà xí huynh chính thức lấy con gái của Trương Linh, tướng phủ thành Tịnh Dương, làm vợ. Nhà họ Trương nắm giữ binh quyền ở biên cương phía Bắc, lại có hai người con gái được gả vào hoàng thất, lúc này có thể nói là quyền khuynh thiên hạ.

Có điều đây chỉ là cách nhìn của người ngoài, phải là người nhà họ Trương thì mới biết được mùi vị trong đó chẳng dễ chịu chút nào.

Tôi, Hoàng hậu Trương thị vẫn là trưởng nữ chính của nhà họ Trương, là người duy nhất trong hậu cung của Tề Thịnh sinh hạ được công chúa, giờ lại đang mang thai, địa vị không nhỏ. Còn Tam cô nương lại là trưởng nữ chi thứ hai của nhà họ Trương, trước mắt trở thành Sở vương phi, mà những người thông minh thì đều biết Sở vương và Hoàng thượng không ưa gì nhau.

Con gái của một gia đình lại được gả cho hai phe cánh đối lập, như vậy, nếu người lãnh đạo Trương gia không đủ thực lực thì sẽ xảy ra chia rẽ nội bộ. Ai mà chẳng có tâm tư? Đứa trẻ dù thế nào cũng là ruột thịt do mình sinh ra.

Mỗi khi nghĩ đến đây, tôi thật khâm phục Tề Thịnh, đồng thời cũng xua tan suy nghĩ “vợ con hiếu thuận, gia đình yên ấm”. Tên nhóc này từ trước đến giờ chưa làm gì vô ích, làm cái gì cũng đều có mục đích cả. Nếu như dựa vào cái cây lớn là anh ta để tránh mưa thì sớm muộn gì cũng sẽ bị sét đánh, chi bằng nghĩ cách tự dựng một cái nhà thì vẫn tốt hơn!

Chiến sự ở Vân Tây rất thuận lợi, trong khoảng thời gian ngắn ngủi hơn nửa năm, Dương Dự đã bình định được Vân Tây. Xem ra mùa xuân sang năm là có thể kết thúc cuộc chiến sự này rồi.

Tình hình trong triều rất tốt, hoàng gia cũng liên tiếp có chuyện vui.

Không khí cưới vợ náo nhiệt của đồng chí “thanh niên lớn tuổi” Sở vương vẫn chưa qua thì trong phủ Triệu vương lại truyền ra tin vui, cô nàng Lục Ly trải qua hai ngày một đêm vất vả, cuối cùng đã sinh cho Triệu vương một bé trai bụ bẫm.

Triệu vương rất phấn khởi, lúc đến báo tin mừng với Thái hoàng thái hậu còn cười ngốc, vừa nói vừa khua chân múa tay: “Nó to thế này này, ôm mà trĩu hết cả tay, khuôn mặt tròn bụ bẫm đến nỗi hai mắt híp cả lại”.

Thái hoàng thái hậu rất vui mừng, cứ nhắc đi nhắc lại: “Lục Ly là một con nha đầu tốt”.

Tôi vừa nghe nói đứa trẻ to như vậy lập tức thấy đồng cảm với Lục Ly, vội bảo Tả Ý mang một bọc lớn thuốc bổ đến thăm sản phụ.

Tả Ý trở về nói sắc mặt sản phụ hồng hào, tinh thần rất tốt, còn bế cả đứa bé lên cho cô xem, nói khẽ: “Đứa trẻ như thế này, có đánh chết Giang thị cũng không sinh được!”.

Nghe nói vậy, tôi biết là mình đã không lo lắng vô ích. Một ngày còn Giang thị, Lục Ly còn chiến đấu, đừng nói là sinh một đứa, mà sinh liền hai đứa, với khí thế như chẻ tre của cô, có lẽ điều đó không chỉ dừng lại ở lời nói thôi đâu.

Nhưng có một điều tôi thực sự không hiểu, đó là tại sao Lục Ly lại thù hận Giang thị đến thế?

Năm nay hoàng gia có hoàng tôn, ăn Tết sẽ rất náo nhiệt đây.

Trong bữa tiệc gia đình Tết Nguyên tiêu, cơ thể tôi đã rất nặng nề, chỉ ngồi một lúc cũng không chịu nổi. Tề Thịnh thấy vậy liền xin cáo từ Thái hoàng thái hậu và Tống thái hậu, đích thân dìu tôi trở về cung Hưng Thánh.

Vì là ngày rằm, trời quang mây tạnh, ánh trăng chiếu rọi khắp nơi, ngay cả đèn lồng cũng không cần dùng tới. Đi được hai bước tôi bỗng làm biếng, thương lượng với Tề Thịnh: “Có thể dùng xe kéo bộ không?”.

Tề Thịnh dùng cánh tay đỡ lưng tôi, cười: “Lười vừa thôi, ma ma Ngô đã căn dặn rồi, nàng phải đi bộ nhiều”.

Chẳng còn cách nào, tôi thở dài, ưỡn cái bụng rồi tiếp tục nặng nề bước từng bước về phía trước. Đi được một lát, tôi quay lại thấy các cung nữ và nội thị đều tụt lại phía sau, tôi liền khẽ hỏi Tề Thịnh: “Bao giờ động đến Sở vương”.

Tề Thịnh nghe vậy, im lặng chốc lát rồi đáp: “Đợi Dương Dự từ Vân Tây trở về”.

Tôi thoáng nghĩ cũng hiểu ý định của Tề Thịnh. Đại tướng Dương Dự như thế, cho dù trong tay không có binh quyền cũng không thể xem thường, để ông ta ở cạnh mình sẽ yên tâm hơn.

Tề Thịnh dừng lại, đột nhiên nói: “Nàng…đừng suy nghĩ lung tung”.

Tôi hờ hững gật đầu, trong lòng thầm than, mắt thấy cơ hội tốt như thế sắp đến, tôi có thể không suy nghĩ nhiều được sao? Ồ? Đúng rồi, cụm từ “cơ hội tốt” có dùng ở đây được không nhỉ?

Tháng Hai, hết thời kỳ ở cữ tròn một tháng, Lục Ly bế đứa bé vào cung vấn an, sau khi rời khỏi chỗ Thái hoàng thái hậu liền đến thẳng cung của tôi. Cô bảo nhũ mẫu bế đứa bé lên cho tôi xem, sau đó nhân lúc Tả Ý đưa nhũ mẫu ra hậu điện cho em bé ăn và bên cạnh tôi chẳng có ai, liền nhẹ nhàng nói với tôi: “Thần thiếp đã cho người điều tra, Hoàng thượng trước đây thực sự có gần gũi với mấy người kia, xong việc cũng chưa từng ban cho ai thuốc tránh thai, nhưng không biết tại sao vẫn không thấy họ có động tĩnh gì”.

Tôi nghe vậy thì trong lòng càng thấy nghi hoặc. Thông thường nếu ngẫu nhiên có mảnh đất không màu mỡ mà chẳng canh tác được gì là chuyện bình thường, nhưng ở đây bao nhiêu đồng ruộng như thế mà đến cây cỏ cũng không mọc thì quả là không bình thường.

Trên mặt Lục Ly tỏ rõ sự thất vọng, cô khẽ nói: “Trước đây nô tì còn cho rằng vì trong lòng Hoàng thượng đã có nương nương, những chỗ khác chỉ làm cho phải phép, không ngờ quả thật đã gần gũi với bọn họ rồi”.

Tôi nghe những lời này thì không nhịn được cười. Tề Thịnh nói thế nào thì cũng là một người đàn ông trẻ tuổi tinh lực đang thịnh, bọn Hoàng thị kia lại đều là những phi tần danh chính ngôn thuận của anh ta, họ vào hậu cung này là để chăm sóc hầu hạ anh ta, dựa vào cái gì mà bắt người ta phải hao mòn chứ.

Điều này thì quả là rất vô nhân đạo!

Lục Ly quan sát sắc mặt tôi, lại đưa ra chủ kiến: “Nương nương, chi bằng chúng ta nhân cơ hội này, lén rót cho Hoàng thị kia một bát hoa hồng, triệt để xóa bỏ hậu họa sau này. Dù sao trước đây họ đã không sinh được, sau này có không sinh được cũng không thể đổ lỗi lên đầu chúng ta”.

Cô nói với vẻ rất bình thản, tôi thì thấy kinh hồn bạt vía. Nếu không phải vì cơ thể nặng nề thì có lẽ đã nhảy dựng lên rồi.

Lục Ly ơi là Lục Ly, cô đã làm mẹ rồi, sao có thể thoải mái làm những chuyện độc ác như thế được?

Tôi vội tiến đến bịt miệng cô lại, nói: “Em thôi đi! Triệt đường con cái của người khác sẽ bị tổn hại âm đức đấy!”.

Tôi vừa dứt lời thì Tề Thịnh đi từ bên ngoài vào.

Lục Ly lập tức sợ hãi đứng lên, cúi đầu xuống hành lễ với Tề Thịnh, run rẩy nói: “Hoàng thượng”.

Tề Thịnh lạnh nhạt liếc Lục Ly, chẳng thèm để ý, hỏi thẳng tôi: “Người đâu hết rồi? Ngay cả người hầu hạ bên cạnh cũng không có sao?”

Đây là lúc bàn bạc cho người khác một bát hoa hồng làm sao có thể để người hầu ở bên cạnh chứ.

Tôi thấy sắc mặt Tề Thịnh không tốt, đành phải giải thích: “Uy nhi khóc ầm lên muốn nhìn em bé, thiếp không chịu được ồn ào nên bảo mọi người đưa hai đứa trẻ ra hậu điện chơi rồi”.

Tề Thịnh nghe vậy chỉ thờ ơ gật đầu.

Lục Ly thận trọng quan sát Tề Thịnh rồi vội quỳ gối hành lễ nói: “Thần thiếp rời phủ đã lâu, cũng đến giờ phải về rồi. Thần thiếp xin cáo từ”, nói xong đến cả con của mình cũng quên, cô cúi đầu men theo góc tường đi ra ngoài.

Tôi dở khóc dở cười, vội gọi lại, nhắc cô nhớ đem đứa bé ở hậu điện về.

Đến khi Lục Ly đem đứa trẻ đi rồi sắc mặt của Tề Thịnh vẫn không tốt lên, tôi bất đắc dĩ nhìn anh ta, khuyên: “Lục Ly cũng chỉ là một cô bé, chàng đường đường là một đấng nam nhi, có cần phải tính toán với cô ấy thế không?”.

Mày kiếm của Tề Thịnh hơi nhíu lại, nhìn tôi hồi lâu rồi hỏi: “Nàng còn nhớ lần say rượu ở Trương gia năm đó không?”.

“Còn nhớ”, tôi gật đầu, đó chẳng phải là lần uống rượu say rồi lên giường với Tề Thịnh sao.

Thấy tôi trả lời tùy tiện, sắc mặt Tề Thịnh càng sầm sì, lại hỏi: “Vậy nàng còn nhớ sau khi say rượu đã nói câu gì không?”

Đã say rượu thì không thể nói ít rồi. Tôi tập trung suy nghĩ một hồi vẫn không sao nhớ ra được câu anh ta muốn hỏi, đành thành khẩn lắc đầu.

Tề Thịnh tối sầm mặt lại, nghiến răng kèn kẹt nói: “Nàng nói… ‘Lục Ly, hay là hai chúng ta… đi ngủ đi’”.

Tôi nghe mà sững sờ, đến khi phản ứng lại thì miệng tôi đã há ra từ lúc nào, không sao khép lại được.

Tề Thịnh mặt mày lạnh lùng đi đến trước mặt tôi, định ôm lấy eo tôi nhưng bụng tôi giờ đã khá to, cả hai tay anh ta cũng không vòng qua được, cuối cùng đành đặt một tay lên eo tôi, tay kia nâng nhẹ cằm tôi lên, lạnh lùng hỏi: “Nàng nói xem, ta chưa giết Lục Ly có phải là đã nương tay với cô ta rồi không?”.

“Nương tay, thực sự là nương tay với cô ta rồi”, tôi ngơ ngác đáp lại, sau đó lại vội vàng giơ tay lên thề: “Hoàng thượng, quan hệ giữa thiếp và Lục Ly rất trong sáng, thân hình của cô ta còn không bằng cả Giang thị, nếu thiếp là đàn ông thì dạng thiếp thích cũng phải là Hoàng thị kia cơ. Chàng đều đã qua đêm với họ, chẳng lẽ lại không biết sự khác biệt đó? Có như thế ngủ mới thoải mái…”.

Gân xanh trên thái dương Tề Thịnh lại nổi lên, tay đang nâng cằm tôi trượt xuống cổ, oán hận nói: “Trương Bồng Bồng, ta thật sự rất muốn bóp chết nàng!”.

Vừa sang tháng Ba, bầu không khí trong cung Hưng Thánh càng ngày càng căng thẳng, lão đại của các cung lại bắt đầu cử bà đỡ đến chỗ tôi, đều rất quen mặt, hóa ra đều là những người mà lần trước khi tôi sinh Uy nhi đã đến phục vụ. Tôi rất vui, trong lòng cảm thấy rất dễ chịu, người quen thì thật dễ làm việc, cái khác tạm thời không nói đến, ít ra tụ tập đánh bài cũng thuận tay, toàn người quen cả mà.

Tề Thịnh lần nảy rất thẳng thắn, bảo người thu dọn đồ dùng trong cung Đại Minh chuyển tới ở luôn trong cung Hưng Thánh.

Tôi không thấy Giang thị đi cùng, không nhịn được, hỏi: “Có cần đưa Giang thị đến hầu hạ chàng không? Dù sao thì cũng dùng quen rồi”.

Tề Thịnh nhìn tôi với vẻ khinh thường: “Bây giờ ta không chấp nhặt với nàng”.

Uy nhi lạch bạch từ hậu điện chạy lại, nhảy thẳng vào lòng Tề Thịnh gọi: “Phụ hoàng!”.

Tề Thịnh bế con bé trên tay mình, vui vẻ hỏi: “Hôm nay con có nghe lời mẫu hậu không?”.

Uy nhi cật lực gật đầu, sau đó ngoảnh lại chỉ vào bụng tôi gọi to: “Em trai, em trai”.

Tề Thịnh càng vui mừng hơn, dụi đầu vào người con gái, cười: “Uy nhi muốn có em trai à?”.

Uy nhi bị anh ta làm cho cười khanh khách, vẫn gật đầu, miệng không ngừng gọi: “Em trai, em trai”.

Tả Ý ở bên cạnh cười trêu chọc: “Lời của con trẻ là đúng nhất, lần này nương nương nhất định sẽ sinh một tiểu điện hạ”.

Thôi đi, đứa bé mới một tuổi rưỡi, biết em trai với em gái là cái gì chắc? Tất cả chẳng phải đều do các người dạy sao?

Tôi bĩu môi vẻ coi thường, tay chống vào eo đứng lên, kéo tay Uy nhi lại và hỏi: “Uy nhi muốn có em gái hay em trai?”.

Uy nhi nói: “Em trai, em trai”.

Tôi đổi lại cách hỏi: “Uy nhi muốn có em trai hay em gái?”.

Uy nhi không do dự trả lời: “Em gái, em gái”.

Tôi nhìn Tề Thịnh vẻ khinh thường: “Đó, thấy chưa? Con nó đâu đã hiểu em trai, em gái là gì, chỉ biết lặp lại hai từ cuối cùng của chàng thôi”.

Tề Thịnh nhìn tôi rồi lại nhìn con gái trong lòng, đột nhiên bật cười thành tiếng, thơm lên má Uy nhi rồi lại bất ngờ ghé đến gần hôn chụt một cái lên mặt tôi, khẽ cười nói: “Là con trai hay con gái đều tốt cả, cũng đâu có gấp, cứ sinh từng đứa từng đứa một”.

Tôi đờ ra, Tả Ý ở bên cạnh thì bật cười một tiếng, sợ tôi nổi cáu liền vội vàng cúi đầu xuống.

Tề Thịnh đưa Uy nhi trên tay cho nhũ mẫu, quay người lại đỡ tôi đến bên giường, hỏi: “Hai ngày nay con còn hay đạp lung tung nữa không”.

Tôi lắc đầu, gần đây cái bụng đã trễ xuống rõ ràng, bé con ở trong bụng cũng yên tĩnh hơn, theo như cách nói của ma ma Ngô thì chỉ khoảng vài ngày nữa là tôi sinh.

Quả nhiên, đêm ngày Mười hai tháng Ba, bụng tôi đột nhiên lên cơn đau.

Tề Thịnh đang ngủ bên cạnh giật mình tỉnh giấc, lo lắng hỏi: “Làm sao thế?”.

Tôi cố gắng chịu đựng cho qua cơn đau rồi mới bình tĩnh đáp: “Có khả năng sắp sinh rồi”.

Tề Thịnh đờ ra, sau đó không còn bình thản được nữa, quên cả việc choàng áo, thoắt một cái đã chui ra khỏi giường, lên tiếng gọi: “Người đâu, người đâu”.

Vừa gọi một cái, cả đoàn người trong nội điện vội vàng kéo đến. Mấy bà đỡ lúc nào cũng trong trạng thái trực chiến, vội vàng tiến lên phía trước khám qua cho tôi, bảo cung nữ đỡ tôi đến phòng sinh. Kết quả là, các cung nữ vừa mới tiến lại gần, còn chưa kịp làm gì thì đã bị Tề Thịnh gạt ra. Anh ta ôm lấy tôi rồi trực tiếp bế tôi vào phòng sinh.

Tôi sợ Tề Thịnh căng thẳng quá mà lỡ tay làm rơi mình, vội vàng sợ hãi ôm chặt lấy cổ anh ta, động viên: “Đừng lo, đừng lo, chưa sinh ngay được đâu. Hơn nữa con nó còn ở trong bụng thiếp, chàng lo lắng cũng chẳng được việc gì”.

Không dè, Tề Thịnh không những không cảm kích, còn giận dữ trừng mắt với tôi.

Phòng sinh đã được chuẩn bị từ lâu rồi, Tề Thịnh vừa đặt tôi xuống giường thì đã bị bà đỡ mời ra ngoài. Trước khi đi anh ta còn nắm chặt lấy tay tôi, nói bằng giọng rất bình tĩnh: “Đừng sợ, ta sẽ luôn ở bên ngoài chờ nàng”.

Câu nói của Tề Thịnh khiến tôi không thể thờ ơ, chỉ có thể nắm lấy tay anh ta, nói: “Có chàng ở bên cạnh, thiếp không sợ gì cả”.

Tề Thịnh nghe được câu nói của tôi, cuối cùng cũng buông tay ra, lòng đầy mãn nguyện đi ra ngoài.

Nói thực lòng, nhìn dáng người khỏe mạnh, rắn chắc của Tề Thịnh khuất dần ngoài cửa điện, trong lòng tôi lại thấy rung động. Có điều còn chưa kịp phân tích rõ ràng thì bụng tôi lại lên cơn đau, thế là tôi chẳng thể tập trung mà cảm nhận đó là cảm giác trái tim rung động hay do quá hoảng sợ nữa.

Cũng may, việc sinh con cũng là trước lạ sau quen, lần này thời gian sinh nở nhanh hơn nhiều so với lần sinh Uy nhi, đến cả số bữa ăn giữa chừng cũng ít hơn lần trước một bữa.

Vào chính ngọ ngày hôm sau, tôi đã suôn sẻ cho ra đời một bé trai nặng ba cân rưỡi, mẹ tròn con vuông.

Bà đỡ bế đứa trẻ ra ngoài cho Tề Thịnh xem, Tề Thịnh vô cùng vui mừng, ban thưởng cho tất cả người làm ở cung Hưng Thánh, ngay cả tiểu nội thị mà Thái hoàng thái hậu phái đến hỏi thăm cũng được mười lạng bạc.

Tôi vẫn đang nằm trên giường, nghe được tin này thì tức giận đến đập tay bồm bộp lên giường. Thằng cha này thật chẳng biết gì, thoáng cái đã vứt đi mấy nghìn lạng bạc trắng, đúng là đồ phá gia chi tử!

Tả Ý đến kéo chăn đắp cho tôi, khẽ khuyên: “Nương nương chợp mắt một chút đi”.

Vật lộn cả nửa ngày, người mệt rã rời nhưng tôi vẫn khăng khăng lắc đầu, nói với cô: “Ngươi bảo người bế đứa bé lại cho ta nhìn”.

Tả Ý vâng lời đi ra ngoài, một lúc sau thì lại là Tề Thịnh bế đứa bé đi vào. Thấy tôi nhìn, miệng Tề Thịnh nở một nụ cười rạng rỡ rồi cẩn thận đặt đứa trẻ vào lòng tôi, khẽ cười: “Nhìn xem, có phải là nó giống ta hơn không? Mọi người đều nói là giống ta cả”.

Bộ dạng rất đắc ý của Tề Thịnh khiến tôi cảm thấy rất không vừa mắt. Chẳng qua chỉ là những lời nịnh hót của đám người hầu, vậy mà anh ta cũng cho là thật.

Khi Tiểu Yến Tử vừa được Càn Long nhận làm con gái, đám người Lệnh phi còn nói Tiểu Yến Tử và Càn Long giống nhau như đúc! Nhưng kết quả thì sao? Tiểu Yến Tử và Càn Long có chút quan hệ huyết thống nào với nhau không? Rõ ràng là không, đã thế lại còn làm mẹ Tiểu Yến Tử phải gánh chịu hư danh.

Tề Thịnh đưa ngón tay ra chạm nhẹ vào má đứa trẻ, đột nhiên nói khẽ: “Tề Hạo, gọi là Tề Hạo”.

Tôi sững người, còn chưa kịp nghĩ xem đó là chữ nào thì Tề Thịnh đã cầm lấy một tay tôi, dùng ngón tay từ từ vẽ chữ “hạo” trên lòng bàn tay.

Tề Thịnh viết rất nhẹ nhàng, động tác giống như tình nhân đang nhẹ nhàng vuốt ve nhau, đầu ngón tay mặc dù quét qua lòng bàn tay tôi nhưng mỗi lần dường như đều quét vào tận đáy lòng, khiến tôi không khỏi rung động. Thế nhưng vẻ mặt Tề Thịnh vẫn rất nghiêm túc, chăm chú viết từng nét từng nét một.

Một hồi lâu sau Tề Thịnh mới viết xong chữ này, ngước mắt nhìn tôi, hỏi: “Được không?”.

Trong lòng bàn tay vẫn còn cảm giác râm ran, tôi đang ngơ ngẩn, nghe Tề Thịnh hỏi vậy mới bừng tỉnh, thầm nghĩ: May mà đứa trẻ này không cần tham gia cuộc thi nào, nếu không, đợi nó viết xong tên thì mọi người đã làm xong hai câu hỏi lựa chọn rồi, đảm bảo đến vòng gửi xe cũng chẳng qua được.

Thấy Tề Thịnh vẫn đang nhìn mình, tôi nói: “Thiếp cứ cho rằng chàng còn phải đi trên con đường có cây tươi tốt đến tối cơ đấy”.

Tề Thịnh hơi nhướng mày, đôi mắt ẩn chứa nụ cười, sáng long lanh: “Nàng cũng biết ý nghĩa của chữ ‘Uy’[1]?”.

[1] Uy: là tả cảnh cây cối tươi tốt, cành lá sum sê rủ xuống

Có gì mới mẻ đâu? Cho dù không biết, chẳng lẽ tôi lại không tra từ điển được sao?

Theo phản xạ tôi hơi bĩu môi, Tề Thịnh lại bật cười, sai nhũ mẫu bế Tề Hạo mới chào đời đi, sau đó cẩn thận đỡ tôi nằm xuống, nói bằng giọng dịu dàng: “Nàng ngủ một giấc đi”.

Tôi lập tức ngoan ngoãn gật đầu nghe theo. Đây cũng giống như làm việc vất vả tăng ca ban đêm, công việc cuối cùng cũng hoàn thành tốt đẹp, dù là vất vả mệt mỏi đến đâu thì cũng đã đợi được đến lúc ông chủ tới hỏi han, giờ là lúc trèo lên giường để ngủ bù rồi.

Tôi ngủ rất say, khi tỉnh dậy đã là ngày hôm sau. Tề Thịnh không ở trong nội điện, nghe nói là bên Vân Tây có sứ thần đến, anh ta không tiện tiếp kiến quan lại nước ngoài ở chỗ tôi nên đã quay về cung Đại Minh.

Tôi đắn đo suy nghĩ, sau đó lấy lý do để thuận tiện cho Tề Thịnh giải quyết việc triều chính, sai người thu dọn đồ đạc của Tề Thịnh đóng gói mang đến cung Đại Minh.

Tả Ý hết lời khuyên tôi: “Nương nương hà tất phải như vậy, người khác đòi ân sủng như thế này còn chẳng được, nương nương cần gì phải đẩy Hoàng thượng đi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

94#
Đăng lúc 18-6-2013 21:14:29 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 16.3: CONTINUE


Trước giọng điệu này của Tả Ý, tôi lại lần nữa phải nghiêm túc giáo dục tư tưởng cho cô, chỉ ra một cách rõ ràng rẳng, tôi là Hoàng hậu, là chủ của hậu cung, nên đầu tiên là không thể phá vỡ phép tắc. Trước khi tôi sinh, Tề Thịnh ở trong cung của tôi cũng là hợp tình hợp lý, còn có thể ỷ vào lý do “Đế Hậu tình sâu nghĩa nặng”, nhưng giờ việc sinh nở đã xong, lại dựa dẫm tiếp thì hơi quá. Trở thành hoàng hậu độc chiếm sủng hạnh của Hoàng thượng thì lại gây phiền phức cho các vị quan ngự sử.

Bất quá cứ việc gì tốt quá cũng hóa dở, tôi phải duy trì khoảng cách như gần như xa, phải kiên định đi trên con đường làm hoàng hậu của mình.

Vả lại, thân là Hoàng hậu, có được sự kính trọng của Hoàng đế thì còn hữu dụng hơn cả sự sủng ái, cũng lâu dài hơn.

Đương nhiên, còn một điều quan trọng nữa mà tôi chưa nói với Tả Ý, đó chính là tôi ở cữ sắp phát điên rồi, nếu như Tề Thịnh còn ở bên cạnh thì hai người thế nào cũng có chuyện lôi thôi với nhau!

Sau khi đồ đạc được chuyển đến cung Đại Minh, Tề Thịnh cũng không có phản ứng gì, rất bình tĩnh sống trong cung Đại Minh, đêm đến còn cho gọi Vương chiêu dung đến hầu hạ.

Sự việc này đã gây ra sự phản ứng rất lớn ở trong cung, thông tin được truyền đi như tốc độ ánh sáng, có lẽ bên kia Vương chiêu dung vừa bước lên long sàng của Tề Thịnh thì thông tin đã truyền đến cung Hưng Thánh bên này rồi.

Tôi luôn cho rằng việc nữ nhân ở hậu cung chỉ đặt tiêu điểm vào phần thân dưới của Tề Thịnh là không thích hợp, cần phải biết rằng thân trên và thân dưới của người đàn ông luôn có mối quan hệ như anh em, rất mật thiết nhưng hoàn toàn không phụ thuộc vào nhau.

Tiếc là chị em phụ nữ từ trước đến nay vẫn không hiểu rõ điều này.

Do vậy, tháng ở cữ của tôi chưa buồn bực, khó chịu gì thì Tả Ý đã tỏ ra sầu muộn lắm rồi.

Tôi thực ra rất hiểu suy nghĩ của cô nhóc này, cô luôn mong được nhìn thấy một truyện cổ tích tình yêu kiểu “dù có ba ngàn giai lệ vây quanh thì ta vẫn chỉ yêu mình nàng” ở tôi và Tề Thịnh, nhằm thỏa mãn giấc mộng màu hồng trong lòng thiếu nữ.

Tả Ý và cả Lục Ly trước đây, cùng rất nhiều cô gái trẻ trong hậu cung đều tràn đầy ảo tưởng. Họ thông minh nhưng lại non nớt, luôn ảo tưởng trên thế gian này có một tình cảm chân thành tha thiết nhất, có một người đàn ông có thể yêu một người con gái như tính mệnh.

Cho dù người con gái ấy không phải là bản thân họ, cho dù họ chỉ là một khán giả trong câu chuyện tình này, thế nhưng họ vẫn rất xúc động. Sau đó, dùng tình cảm ấy nâng đỡ họ vượt lên sự giày vò và hao mòn tuổi xuân cùng máu thịt của đời con gái trong chốn hậu cung.

Nhưng cuộc sống đâu phải truyện cổ tích.

Đang suy nghĩ mông lung như vậy thì tôi đột nhiên nhận thấy mình có vẻ nhàn cư vi bất thiện quá, đến cả hoạt động tâm lý cũng phải miêu tả đầy nghệ thuật như thế. Tôi không kìm được thở dài một tiếng, thầm nghĩ rằng việc sinh con nhiều quả nhiên không có một chút lợi ích nào.

“Không được, không được…”, tôi lẩm bẩm nhắc lại hai lần, trở mình rồi yên tâm ngủ tiếp.

Ngủ đến lúc nửa đêm, đang mơ màng thì tôi cảm thấy có ai đó đang nằm sát lại từ phía sau, sau đó kéo tôi vào lòng, từ từ ôm chặt.

Trong hậu cung, có lẽ chỉ có Hoàng đế mới dám trèo lên giường của Hoàng hậu vào thời điểm này.

Tôi không hề sợ, chỉ hơi ngạc nhiên, mí mắt trĩu xuống, cũng chẳng quay đầu lại, chỉ mơ màng hỏi: “Sao lại đến đây vào lúc này? Vương thị đâu?”.

Tề Thịnh ở đằng sau không trả lời, nhưng lại nhẹ nhàng tì cằm lên vai tôi.

Vẫn trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh, tôi làu bàu không rõ tiếng: “Như vậy là không được, đâu ra cái kiểu ngủ nửa chừng rồi bỏ chạy như thế, mau quay về đi”.

Tề Thịnh im lặng một lúc rồi đột nhiên nói khẽ: “Chẳng ra gì… thật sự chẳng ra gì”.

Cơn buồn ngủ cứ kéo tôi xuống, cũng chẳng nghĩ gì nhiều, buột miệng: “Không ra gì thì đổi người khác, nếu thực sự không được thì lại tuyển thêm mấy người mới…”.

Nói chưa hết câu thì đã cảm thấy cánh tay ôm eo tôi siết chặt như muốn trừng phạt

Động tác ấy của Tề Thịnh gần như đánh bật hẳn cơn buồn ngủ của tôi.

Tôi cảm thấy làm hoàng hậu thật chẳng dễ dàng gì. Ngày thường lao tâm khổ tứ đã đành, vất vả sinh con xong rồi, thế mà ngay cả thời gian nghỉ sinh cũng không được yên. Tôi điều chỉnh cảm xúc của mình, quay đầu lại, trịnh trọng hỏi Tề Thịnh: “Có phải gần đây áp lực lớn quá phải không? Nếu thấy không khỏe thì cho gọi thái y đến khám xem thế nào, cắt vài thang thuốc bổ uống thử xem”.

Giọng Tề Thịnh thể hiện rõ sự tức giận: “Trương Bồng Bồng, nàng không làm ta tức chết không được à?”.

Tôi lập tức thức thời ngậm miệng lại, nhẹ nhàng vỗ vào cánh tay Tề Thịnh, ý nhắc anh ta nới lỏng ra một chút, sau đó tự tìm một vị trí thoải mái hơn trong lòng Tề Thịnh, “Ngủ thôi, thiếp vẫn đang trong tháng ở cữ”.

Tề Thịnh im lặng, chỉ nhẹ nhàng thở dài một tiếng, một lúc lâu sau đột nhiên nói một câu không đầu không đuôi: “Ta muốn động thủ”.

Tôi cố gắng hết sức để mình không cứng người lại, một lúc sau, khi cảm thấy mình có thể hoàn toàn làm chủ được giọng nói rồi mới bình tĩnh đáp: “Làm đi, chỉ cần không phải tội danh mưu phản là được”.

Một khi dính dáng vào mưu phản thì liên lụy đến rất nhiều người, đầu rơi không kể xiết.

Tề Thịnh im lặng hồi lâu, khẽ đáp: “Được rồi”.

Đầu tháng Năm, Dương Dự dẫn quân đánh bại chủ lực của quân phiến loạn Vân Tây, bắt được hơn ba mươi người của Vân Tây gồm Đế vương, các phi tần, thế tử, quận chúa…, đồng thời tịch thu ấn tín, kim bài sắc chỉ, vàng bạc in gia huy, đến lúc này thì Vân Tây đã hoàn toàn thuộc về Nam Hạ. Tin chiến thắng truyền về Thịnh Đô, cả nước vui mừng, Tề Thịnh phong cho Dương Dự là Bình Tây hầu, đồng thời trong chỉ dụ còn ca ngợi Dương Dự có thể sánh với Mạch soái.

Tháng Tám, Dương Dự phụng mệnh hồi kinh, Tề Thịnh ban tặng cho ông ta hàng nghìn mẫu đất phì nhiêu và rất nhiều vàng bạc châu báu, cùng một thôn trang của hoàng gia ở Thúy Sơn. Quyền thế của gia tộc Dương thị ở Thịnh Đô lúc này vì thế trở nên rất lớn, Dương Nghiêm là con út của Dương Dự cũng nhờ nước lên thì thuyền nổi, mặc dù tuổi còn trẻ nhưng cũng được phong Hầu.

Dương Nghiêm ngày càng ngông cuồng, dám ngang nhiên đến cung Hưng Thánh thăm tôi.

Bây giờ tôi đã hoàn toàn trở thành bà nội trợ, đi đến đâu cũng đều ôm Tề Hạo trong lòng, tay thì dắt Tề Uy, thiếu mỗi nước bụng mang thai nữa thôi.

Dương Nghiêm nhìn tôi với vẻ xem thường, châm biếm: “Người còn có thể không có tiền đồ hơn chút nữa được không?”.

Tôi chẳng thèm đáp lại sự khiêu khích của anh ta, đi thẳng đến ngồi dưới bóng mát của cây trong sân, trước tiên bảo nhũ mẫu dẫn Tề Uy đi rồi sai Tả Ý pha trà, sau đó vừa trêu đùa với Tề Hạo đang nằm trong lòng, vừa tùy tiện hỏi Dương Nghiêm: “Sao bỗng dưng lại nhớ đến ta”.

Dương Nghiêm nhướng mày: “Nếu như không đến thì vở kịch lần này làm sao giống thật được? Hoàng thượng sao có thể tin rằng Dương gia nhà thần còn chưa biết tai vạ sắp xảy ra!”.

Dương Nghiêm vốn là người vô tâm, là một thiếu niên lâu lâu lại mắc vài lỗi, ấy thế mà bây giờ lại nói câu nào câu nấy đầy khiêu khích như thế này, tôi cũng không biết nên nói gì, im lặng một lát mới hỏi anh ta: “Dạo này sống thế nào?”.

Dương Nghiêm liếc xéo tôi một cái, nửa cười nửa không: “Chẳng lẽ người không biết hiện tại thần là người đàn ông độc thân được tranh giành nhiều nhất Thịnh Đô sao? Ngưỡng cửa nhà thần đều bị mấy bà mai giẫm hỏng hết rồi”.

Thấy anh ta như vậy, trong lòng tôi không khỏi cảm thấy xót xa. Người ngoài nhìn vào thì thấy náo nhiệt, nhưng sự náo nhiệt đó chỉ là cảnh tượng giả dối mà Tề Thịnh cố tình tạo ra. Rất nhanh thôi, tất cả những điều đó sẽ mau chóng tiêu tan theo cách thảm hại nhất.

Điều tàn khốc nhất là mặc dù Dương gia biết rõ trước mắt là vực sâu vạn trượng nhưng lại không thể không tiếp tục bước tới.

Dương Nghiêm ngẩng đầu lên, ánh mắt trống rỗng nhìn cành lá tươi tốt phía trên, lẩm bẩm hỏi: “Người nói xem làm như vậy có đúng không? Lấy tính mạng của mười mấy người nhà thần để đặt cược cho một giao ước bằng miệng”.

Tôi nghĩ đi nghĩ lại rồi đáp: “Với danh tiếng của Mạch soái, Hoàng thượng sẽ không dám lấy tính mạng của các ngươi đâu. Hơn nữa, đừng quên là còn có ta nữa, làm sao có thể để người nhà các ngươi chết”.

“Người?”, Dương Nghiêm nhếch miệng châm biếm, “Dựa vào việc người đã liên tiếp sinh con cho Tề Thịnh?”.

Tôi trừng mắt nhìn anh ta, chỉ mới sinh có hai đứa thôi, sinh con liên tiếp cái gì chứ?

Dương Nghiêm im lặng một lúc rồi khẽ nói: “Nhiều khi thần thật không thể hiểu được các người, người, Cửu ca và cả cha thần nữa, đặc biệt là Cửu ca và cha thần. Thần không biết vì sao họ lại lấy tính mạng người nhà ra để đánh cược một ván bài nguy hiểm như vậy. Nếu đổi lại là thần thì thà rằng đá ngọc cùng vỡ, liều mạng một phen chứ không thể cứ nhân nhượng vì đại cục thế này mãi được”.

Tôi nhìn vào khuôn mặt trẻ trung mà thẳng thắn của Dương Nghiêm, khẽ thở dài một tiếng: “Thật ra, họ cũng là liều một phen, nhưng theo một cách thức khác mà thôi. Đi vào chỗ chết để tìm đường sống”.

Dương Nghiêm nghe xong thì hừ lạnh một tiếng, nói: “Nếu thần không ra tay trước thì cuối cùng cũng bị người khác ra tay, đi vào chỗ chết để tìm đường sống thì rồi cũng chỉ là chờ chết mà thôi, thà rằng cứ chủ động trước.”

Tả Ý đã bưng trà đến, cung kính để tách trà bên cạnh tay của Dương Nghiêm.

Tôi nhìn Tả Ý, trong đầu tự nhiên nảy ra một ý, liền cười hỏi anh ta: “Ngươi nói bây giờ có nhiều người muốn làm mối cho ngươi phải không?”.

Dương Nghiêm gật đầu: “Rất nhiều”.

Tôi lại hỏi: “Thế đã có ai hợp ý chưa?”.

Dương Nghiêm lắc đầu.

Tôi liền chỉ vào Tả Ý đang đứng bên cạnh, cười hỏi: “Ngươi xem nha đầu bên cạnh ta thế nào?”.

Dương Nghiêm nổi tiếng là mặt dày, nghe vậy ngẩng đầu lên quan sát kỹ Tả Ý một hồi lâu khiến Tả Ý vừa thẹn vừa lúng túng, cố gắng cúi đầu thật thấp xuống đến nỗi cằm gần chạm cả vào ngực.

Dương Nghiêm đánh giá xong, gật đầu vẻ nghiêm chỉnh đáp lại tôi: “Rất được”.

Tả Ý thẹn tới mức tai đỏ rực lên, không kiên trì thêm được nữa, vội vàng quỳ gối về phía tôi rồi bỏ chạy ra ngoài như bị lưu manh đuổi sau lưng.

Dương Nghiêm nhìn theo bóng Tả Ý, khóe miệng nhếch lên lộ rõ vẻ chế nhạo, sau đó ngoảnh đầu nhìn tôi, hỏi: “Người nói xem bây giờ thần có nên lấy vợ không? Đến khi sự việc xảy ra, cũng kéo thêm được một nhà nữa, đông người càng vui mà!”.

Tôi cười: “Được chứ, ngươi thấy ai chướng mắt nhất thì hãy cố mà lấy cho được con gái rượu của người ấy đi”.

Dương Nghiêm cười lạnh: “Vậy thì người mà thần cần lấy nhất là công chúa Vĩ Nguyên của người rồi”.

Công chúa Vĩ Nguyên là phong hiệu của Uy nhi, chỉ nghe cái tên này cũng biết được vị trí của con bé trong lòng Tề Thịnh rồi.

Tôi tự cho mình là một phụ huynh tiến bộ, luôn cho rằng tuổi tác không phải là vấn đề, huống chi tôi còn đổi luôn cả giới tính cơ mà. Nghe anh ta nói vậy cũng chẳng tức giận, chỉ nhún nhún vai, thản nhiên đáp: “Không sao, chỉ cần ngươi kiên trì luyện tập, bảo đảm thể xác và tinh thần khỏe mạnh, đợi hai mươi năm nữa nếu Uy nhi đồng ý lấy ngươi, ta sẽ không cấm cản. Hơn nữa, có câu: ‘Nhạc mẫu xem con rể, càng xem càng ưng’ mà”.

Nói xong, tôi nheo mắt đánh giá Dương Nghiêm từ đầu đến chân một lượt.

Dương Nghiêm nghe xong, khuôn mặt tuấn tú bỗng biến đổi như đèn màu, ban đầu là đỏ rực, sau đó xám lại và cuối cùng là tái nhợt, giận dữ nói: “Người mẹ như ngươi thật hiếm có”.

Tôi cười rồi cao giọng gọi cung nữ đến thay chén trà cho Dương Nghiêm.

Nhân lúc cung nữ còn chưa đến, Dương Nghiêm đứng lên, phủi vạt áo của mình, đe dọa tôi bằng một giọng nói âm trầm: “Người cũng biết thủ đoạn của thần rồi đó, người nói thì phải giữ lấy lời, nếu không thần nhất định không bỏ qua đâu”.

Tôi không thèm ngẩng đầu lên, đỡ Tề Hạo trên đùi, chế giễu: “Thủ đoạn gì? Trèo lên cây hay trèo tường?”.

“Người!”, Dương Nghiêm định nổi cáu nhưng kìm nén được, khom lưng nghiêng người nhìn tôi, trên mặt đã khoác lên nụ cười quen thuộc: “Thần sẽ đem người ra khỏi cung rồi vất xuống Uyển Giang, để người trôi theo sông hàng trăm dặm”.

Tôi nhớ đến tình cảnh bị rơi xuống nước trên sông Uyển Giang lần đó, bất giác rùng mình một cái.

Dương Nghiêm dường như cảm thấy mình cuối cùng cũng đã tìm lại tự tin, cười to hai tiếng rồi nghênh ngang ra về.

Tháng Mười, đang lúc nhà họ Dương danh tiếng nổi như cồn ở Thịnh Đô thì có ngự sử vạch tội Dương Dự là tự cao tự mãn, nuôi dưỡng nô lệ ở trang trại, chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, ức hiếp dân thường, hung ác ngang ngược. Tề Thịnh liên tiếp ra mười mấy đạo chiếu chỉ, chẳng ngờ không những không làm dịu chuyện này xuống mà còn càng khiến các ngự sử phản đối thêm mạnh mẽ.

Ngày Mười một tháng Mười, hai vị ngự sử đầu tiên tố cáo Dương Dự đột nhiên bị giết tại nhà, chuyện này lập tức làm kinh động trong ngoài triều đình. Ngày Mười ba tháng Mười, quan chủ quản Đô Sát viện dẫn theo trên dưới một trăm thuộc hạ kéo đến cung Đại Minh, đồng loạt quỳ gối yêu cầu Tề Thịnh điều tra đến cùng vụ án này.

Trước áp lực của hệ thống quan văn, Tề Thịnh chỉ còn cách ra lệnh cho Đại Lý tự, Hình bộ và Đô Sát viện cùng xem xét vụ án này.

Sau đó thì hay rồi, chẳng những các đầu mối đều chĩa vào hết Bình Tây hầu Dương Dự, cho rằng ông ta là giết người cho hả giận, mà ngay cả những hành vi không hợp pháp của Dương Dự hồi còn trong quân ngũ trước đây như: tham ô lương thực và lương bổng của quân đội, tự tiện bãi miễn và đề bạt thăng quan quân, độc đoán chuyên quyền, … cũng bị lôi ra, tội danh càng lúc càng nhiều. Dựa vào những đầu mối này, người ta đã nhanh chóng lần ra được mối quan hệ qua lại mật thiết giữa Sở vương và con trai út Dương Nghiêm của Dương Dự, tiếp đó, ngay cả nhạc gia của Sở vương là Trương Linh cũng bị liên lụy.

Đại Lý tự, Bộ hình và Đô Sát viện đều không khỏi sửng sốt, đám người này mặc dù không ai nói ra nhưng đều hiểu, nếu theo đến tận cùng thì tiếp theo sẽ đến Thượng thư Bộ hình Trương Phóng. Mà hai con gái của Trương Phóng, một gả cho Hạ gia, một trong hai gia tộc đứng đầu trong quân hiện nay; một được gả cho Hoàng đế đương triều Tề Thịnh.

Trừ khi đám người này muốn nhổ tận gốc Hoàng hậu là tôi, còn nếu không, việc này sẽ phải dừng lại.

Có lẽ, đám ngự sử của Đô Sát viện lúc đầu quỳ gối trước cung Đại Minh cũng không ngờ rằng sự việc lại ra nông nỗi này, một lúc lôi ra ba gia tộc lớn nhất, lại còn đụng chạm đến cả Hoàng hậu là tôi nữa. Được lắm, vừa vặn có thể lập một bàn mạt chược, đến cả Sở vương cũng không có tư cách ngồi chơi, chỉ có thể đứng bên quan sát.

Nghe nói quan chủ quản của Đô Sát viện cuống quýt cả lên, người đứng đầu Đại Lý tự cũng chẳng mạnh mẽ hơn bao nhiêu, tóc trên đầu mỗi ngày rụng cả một búi lớn, cứ đà này chẳng mấy chốc có lẽ sẽ hói nửa đầu mất.

Khi Lục Ly tiến cung nói chuyện này, tuy nét mặt có vẻ nhẹ nhõm nhưng một số hành động vô thức đã cho thấy sự căng thẳng trong lòng cô. Sau đó, có lẽ cảm thấy cứ phải giữ bộ mặt tươi cười ấy rất mệt nên không thèm giả vờ nữa, nóng lòng hỏi tôi: “Nương nương, Hoàng thượng liệu có nhân cơ hội này để triệt để loại bỏ nhà chúng ta không? Nếu như bị khoác cho tội mưu phản, chẳng những người nhà đều chết, mà đến cả nương nương cũng sẽ bị liên lụy”.

Tôi uể oải nằm lên chiếc giường mềm trong tẩm điện, thờ ơ đáp: “Hiện tại Hoàng thượng không muốn phế hậu, sẽ không lôi nhà ta vào tội mưu phản đâu”.

Chỉ cần không phải tội mưu phản, thì vụ trọng án làm rung chuyển trời đất này cuối cùng cũng chỉ là sấm sét to, mưa lại nhỏ mà thôi.

Dương Dự là con trai trưởng của Mạch soái, vì thể diện của Thành Tổ, Tề Thịnh cũng không dám giết con cháu của Mạch soái, nhà họ Dương sẽ không có chuyện gì.

Nhà xí huynh là anh em ruột của Tề Thịnh, là con trai độc nhất của Tống thái hậu, nếu như anh ta cả gan giết chết Nhà xí huynh thì Tống thái hậu sẽ đến Hàm Nguyên điện của cung Đại Minh mà thắt cổ tự vẫn, còn chưa kể trong tay Tống thái hậu vẫn nắm giữ di chiếu của Tiên đế để lại, trong đó nói rằng không cho phép Tề Thịnh sát hại anh em. Tóm lại, Nhà xí huynh cũng không thể chết được.

Vấn đề còn lại là việc nhà họ Trương bị liên lụy theo. Trương gia có Hoàng hậu là tôi, người đã sinh hạ con trưởng cho Tề Thịnh, nếu Tề Thịnh không muốn phế hậu thì anh ta cũng không thể giết nhà họ Trương.

Phân tích như vậy, cảm thấy Tề Thịnh thực ra cũng rất ấm ức. Mất bao nhiêu công như vậy, khó khăn lắm mới tóm được cả lũ những kẻ gây trở ngại, nhưng vì vướng phải mối quan hệ qua lại phức tạp, chồng chéo nhau mà cuối cùng một người cũng không thể giết được.

Có lúc tôi nghĩ, nếu là Tề Thịnh thì mình sẽ làm thế nào.

Có lẽ tôi không có được sự kiên nhẫn như Tề Thịnh, cũng không xem xét, cân nhắc được nhiều như anh ta, mười phần thì có đến tám, chín phần sẽ nghiến răng, quyết tâm giải quyết triệt để đám ong nuôi trong tay áo này. Mặc kệ Mạch soái Mạch soái gì, mặc kệ di chiếu di vật gì, cứ triệt tận gốc rồi tính sau!

Quả nhiên không ngoài dự liệu, vụ án điều tra đến Trương Linh thì dừng lại.

Qua ba lần hội thẩm thì tấu chương được dâng lên Tề Thịnh, tội trạng to nhỏ được liệt ra chi chít, đến cả việc thuộc cấp của Trương Linh cưỡng ép một phụ nữ góa chồng cũng được đề cập đến, chỉ duy nhất hai chữ “phản nghịch” là không thấy xuất hiện.

Vụ án đã điều tra xong, vấn đề còn lại là phán quyết như thế nào?

Dương Dự mặc dù mang tội giết người nhưng ở chiến trường cũng lập không ít công trạng, cuối cùng phán quyết tước bỏ chức tước, toàn gia quyến đến Lĩnh Nam.

Nhà xí huynh thì bị giáng từ Sở vương xuống thành Quận vương, phạt ba năm lương bổng.

Về phần Trương Linh thì đơn giản rồi, trực tiếp khai trừ khỏi quân ngũ, mãi mãi không được phục chức.

Kết quả này mặc dù tệ hơn so với dự liệu của Nhà xí huynh, nhưng cũng không chệch quá xa. Chuyện này được nhắc đi nhắc lại mãi đến tận tháng Ba, “Vụ án Ngự sử bị sát hại” ầm ĩ này mới lắng xuống.

Ngày Mười hai tháng Ba là tròn sinh nhật một tuổi của Tề Hạo.

Do sự liên lụy của “Vụ án Ngự sử bị sát hại” trước đó khá rộng, đại thần trong triều dù có hay không liên quan đều theo vụ việc cả nửa năm trời, bản thân Tề Thịnh dường như cũng cảm thấy ngại nên muốn nhân cơ hội này làm dịu bớt bầu không khí trong triều, liền ra ý muốn tổ chức sinh nhật thật lớn cho trưởng hoàng tử.

Tôi thực sự rất thích không khí náo nhiệt, nhưng vì danh tiếng của hoàng hậu, không thể không ra vẻ hiền lương đến cung Đại Minh khuyên Tề Thịnh phải tiết kiệm, không nên tổ chức sinh nhật linh đình cho Tề Hạo.

Tề Thịnh đang đứng trước thư án tập viết, nghe tôi nói thế liền đưa mắt lên nhìn, hỏi: “Nàng thật sự nghĩ vậy chứ?”.

Tôi luôn tuân theo nguyên tắc: “Chuyện nhỏ phải nói thật, chuyện lớn phải hạn chế nói dối tối đa”, vì vậy liền lắc đầu, đáp: “Thiếp cũng muốn tổ chức náo nhiệt, tốt nhất là nhân dịp này đại xá thiên hạ, như vậy sẽ khiến mọi người đều biết được vị trí của Hạo nhi trong tim chàng”.

Tề Thịnh khẽ bật cười: “Thế thì được rồi”.

Tôi cũng cười theo, chủ động đến bên mài mực giúp Tề Thịnh, nói: “Tất cả là để đỡ mang tiếng thôi. Thiếp đến đây một chuyến cũng chỉ để nói với chàng cho phải phép, chàng nghe thì nghe, không nghe thì thiếp càng vui!”

Tề Thịnh dừng bút, ngẩng đầu nhìn tôi, một lát sau đột nhiên nói: “Ta muốn lập Hạo nhi làm thái tử”.

Tôi rất ngạc nhiên, buột miệng nói: “Đừng, chuyện này để sau hãy tính”.

Tề Thịnh quan sát tôi thật kỹ, hỏi: “Nàng nói thật hay nói dối vậy?”.

Tôi định “dùng tình cảm để chinh phục lòng người” nên nghiêm nghị nói: “Chàng cũng có hơn mười năm làm thái tử rồi, chẳng lẽ còn không biết mùi vị của việc làm thái tử là việc khó thứ hai, hà tất phải để Hạo nhi chịu khổ”.

Tề Thịnh nhướng mày: “Nàng cảm thấy làm thái tử phi còn khó hơn làm thái tử sao?”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

95#
Đăng lúc 18-6-2013 21:16:12 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 16.4: CONTINUE


Tôi cũng đã quen với việc không nắm trọng tâm câu nói của Tề Thịnh, vì thế chẳng thèm để ý, chỉ nói: “Hoàng thượng hiện tại còn trẻ, sức khỏe tốt, sau này nếu có thể tránh xa tửu sắc, chăm tập luyện, ngủ sớm dậy sớm, ít lao tâm thì việc sống đến bốn, năm mươi năm nữa cũng không thành vấn đề”.

Lời này có vẻ còn lọt tai, Tề Thịnh chầm chậm gật đầu.

Tôi lại nói: “Do vậy, nếu bây giờ lập Hạo nhi làm thái tử thì nó sẽ phải làm đến năm bốn mươi, năm mươi tuổi. Chàng xem đã có vị thái từ nào chịu đựng được bốn, năm mươi năm chưa?”.

Tề Thịnh im lặng nhìn tôi, không nói gì.

“Hiện tại nó còn nhỏ, không biết sau này lớn lên sẽ thế nào, liệu có thực sự gánh vác nổi giang sơn này không”, tôi dừng lại, cụp mắt xuống, tiếp tục nói: “Mà Hoàng thượng vẫn còn trẻ, sau này càng ngày càng nhiều con trai hơn, biết đâu sẽ có một đứa còn được chàng yêu thương quý mến hơn Hạo nhi phải làm thế nào?”.

Tề Thịnh vẫn im lặng, tôi đang cúi đầu nên không biết vẻ mặt của anh ta lúc này thế nào, dù vậy tôi vẫn có thể đoán được, nói khẽ: “Trong hoàng thất, việc cha con ghen ghét nhau, anh em tàn sát nhau từ trước đến nay chẳng hiếm, nửa đời trước của thiếp đã chứng kiến nhiều, nửa đời sau không muốn phải nhìn thấy nữa”.

Một lúc lâu sau mới nghe Tề Thịnh khẽ thở dài một tiếng, nói: “Ta biết rồi”.

Quả nhiên, sinh nhật tròn một tuổi của Tề Hạo mặc dù được tổ chức linh đình nhưng hoàn toàn không nhắc gì đến việc lập thái tử. Sau đó mấy ngày tôi lại đến cung Đại Minh thì phát hiện ra một sự việc rất lạ lùng.

Đồng chí Tiểu Giang, người hơn mười mấy tháng qua ngày nào cũng như ngày nào, chịu thương chịu khó, đầy tinh thần trách nhiệm, luôn giữ đúng vị trí công tác của mình đột nhiên không thấy đâu.

Tiểu nội thị đến gần tôi, khom lưng rất tôn kính, khẽ nói: “Là Hoàng thượng sai người đưa đi ạ, nô tài cũng không biết đã đưa Tô cô nương đi đâu”.

Việc này khiến tôi rất ngạc nhiên, tò mò hỏi: “Đang yên đang lành, sao lại phải đưa đi? Còn quay trở lại không?”.

Tiểu nội thị cẩn thận nhìn sắc mặt tôi, nói: “Nô tài cũng không rõ chuyện gì. Hay Hoàng hậu nương nương tự mình hỏi Hoàng thượng vậy?”.

Ta hỏi? Ta có quyền gì mà hỏi? Giang thị lại không phải người thuộc biên chế hậu cung, tiền lương trước nay cũng không nhận từ chỗ ta. Hơn nữa ta phải hỏi thế nào? Hỏi Giang thị lần này là nghỉ phép hay nghỉ hưu non? Có tiền đền bù không? Sau này liệu có còn phải đóng bảo hiểm, lo chỗ ăn chỗ ở cho cô ta không?

Thấy tiểu nội thị bên cạnh vẫn đang nhìn, tôi gật đầu qua loa, đến khi gặp Tề Thịnh thì vờ như không biết gì, cũng chẳng nhắc tới.

Tề Thịnh cũng không đề cập đến chuyện đó, chỉ nói: “Hạo nhi ngày một lớn, không thể để nó lớn lên trong tay đàn bà được. Từ ngày mai trở đi, hằng ngày nàng đều phải mang nó đến đây, ta muốn tự mình dạy bảo nó”.

Cách nghĩ “giáo dục từ nhỏ” của Tề Thịnh là tốt, nhưng cách làm thì lại khiến người ta không dám gật bừa. Đến nhà trẻ cũng chỉ nhận trẻ đủ ba tuổi, thế mà anh lại bảo một đứa bé mới vừa tròn một tuổi hằng ngày phải học cách quản lý nhà nước sao?

Tôi dở khóc dở cười nhưng thấy Tề Thịnh rất nghiêm túc, không giống đang đùa, đành phải gật đầu đồng ý.

Ngày hôm sau, quả nhiên Tề Thịnh phái tiểu nội thị đến cung Hưng Thánh giục tôi. Chẳng còn cách nào khác, tôi đánh dày mặt mà bế Tề Hạo đến cung Đại Minh điểm danh.

Khi Tề Thịnh tiếp kiến triều thần, tôi phải ở sau bình phong bế con nghe. Khi Tề Thịnh phê duyệt tấu sớ, tôi phải bế con ngồi trên giường nhỏ bên cạnh anh ta.

Lúc mới bắt đầu, Tề Hạo chưa quen với môi trường mới, tỏ ra rất trật tự, ngoan ngoãn ngồi trong lòng tôi. Nhưng chưa được hai ngày thì nó không chịu ngồi yên nữa, cứ nhoài người đòi xuống, sau đó chập chững đi ra ngoài bình phong.

Tề Thịnh đang ở ngoài nghe mấy viên quan của Hộ bộ, Lại bộ tấu trình, tôi không dám lên tiếng gọi con, chỉ có thể túm lấy cổ áo của nó mà lôi lại. Không ngờ động vào ổ kiến lửa, Tề Hạo mở to mắt lên nhìn tôi, bộ dạng tủi thân mếu máo, vài giây sau khóc tướng lên.

Tôi dỗ mãi không được, đang lo đến vã mồ hôi, chỉ hận là không thể dùng tay bịt miếng nó lại thì Tề Thịnh từ phía trước bình phòng bước vào, bế nó ra ngoài đặt lên đùi, vừa nhẹ nhàng dỗ dành, vừa thản nhiên bảo Thượng thư Hộ bộ tiếp tục nói.

Tôi ngồi đằng sau bình phong, mọi người bên ngoài phản ứng thế nào tôi không nhìn được, chỉ biết là Thượng thư Hộ bộ trình tấu không còn được trôi chảy như lúc trước.

Về sau cảnh tượng trở thành Tề Thịnh bế con tiếp kiến triều thần ở bên ngoài bình phong, tôi một mình chăm chú lắng nghe ở sau bình phong. Hai lần đầu, triều thần còn ngạc nhiên, về sau thì có vẻ bình tĩnh hơn.

Hơn một tháng trôi qua, tôi không rõ Tề Hạo có mở mang được tí kiến thức nào không, nhưng tôi đã biết hết các sự vụ trong triều rồi. Thỉnh thoảng Tề Thịnh nổi cơn lười, tôi còn đọc tấu chương giúp anh ta. Mặc dù cách ngắt câu không được lưu loát nhưng Tề Thịnh đều có thể hiểu rõ ràng, sau đó nhắm mắt đọc lời phúc đáp cho các bản tấu đó.

Tôi cầm bút lông nguệch ngoạc ghi lại trên giấy, kẹp vào các bản tấu để Tề Thịnh đích thân chép lại lần nữa.

Lần đầu tiên Tề Thịnh nhìn thấy chữ viết của tôi, hồi lâu chẳng nói gì, sau đó chỉ vào các dòng chữ, hỏi với vẻ vô cảm: “Nàng viết cái gì vậy?”.

Nhất thời tôi không biết Tề Thịnh chế giễu chữ viết rời rạc của mình, hay là vì đọc không được kiểu chữ giản thể ấy, suy nghĩ một lúc mới đáp: “Đây gọi là chữ giản thể, là dạng chữ đơn giản hóa các nét của chữ phồn thể mà chàng dùng. Chàng không thấy như thế này đơn giản dễ học hơn sao?”.

Tề Thịnh nhìn kỹ chữ viết của tôi, từ chối cho ý kiến, chỉ nói: “Sau này đừng viết kiểu chữ này, để người khác nhìn thấy thì không ổn đâu”.

Tôi gật đầu đồng ý, nhưng đến lần sau, theo bản năng tôi vẫn viết chữ giản thể.

Sau vài lần như vậy, Tề Thịnh cuối cùng cũng nổi giận, không thèm ngồi ghế mềm nữa mà đứng dậy đến giám sát bên cạnh tôi.

Tôi cầm bút đứng đờ ra đó, mực trên ngòi bút nhỏ giọt rơi hết xuống mà vẫn không viết nổi một chữ.

Tề Thịnh liếc tôi, hỏi: “Sao thế?”

Trán đầy mồ hôi, tôi ấp úng một hồi lâu, xấu hổ trả lời: “Không biết viết”.

Tề Thịnh bối rối: “Không biết viết cái gì?”

Tôi lau mồ hôi, đáp: “Chữ phồn thể, chưa học qua nên không biết viết.”

Tề Thịnh kinh ngạc nhìn tôi: “Lúc nãy không phải nàng biết nên mới đọc được sao?”

Tôi đáp: “Nhìn chữ thấy quen quen nên đọc bừa, tú tài biết chữ cũng chỉ biết một nửa thôi mà!”

Tề Thịnh nhìn tôi, không nói câu nào.

Từ đó trở đi tôi lại có thêm việc để làm: khi Tề Thịnh ngồi phê tấu sớ thì tôi đứng bên cạnh tập viết chữ. Cứ như vậy, phần lớn thời gian trong ngày tôi đều phải ở cung Đại Minh, có lúc Tề Thịnh bận quá, tôi còn phải tăng ca đến tận khuya, sau đó thì ở lại cung Đại Minh luôn cho tiện.

Tôi tính sơ sơ, trước mắt ngoài việc gánh vác trọng trách đại tổng quản hậu cung, tôi còn làm cả công việc của thư ký riêng và trợ lý sinh hoạt, thỉnh thoảng còn phải thị tẩm nữa… Xem ra, tôi cũng là một người đa nhiệm phết đấy chứ.

Càng mệt tôi càng nhớ Giang thị, thấy đồng chí Giang đúng là một thanh niên có lý tưởng, có tham vọng, có khả năng, chịu thương chịu khó. Nếu cô ta vẫn còn ở cung Đại Minh thì Tề Thịnh sẽ không sai bảo tôi như gia súc thế này.

Trong tháng Năm, tấu sớ đến từ Giang Bắc đột nhiên nhiều lên, phần lớn đều là chuyện trong quân. Tôi linh cảm thời điểm Tề Thịnh ra tay với Bắc Mạc đã gần kề.

Một hôm, tôi cùng Tề Thịnh tăng ca đến tận khuya, lại phải cùng anh ta tập thể dục trên giường xong mới nhân cơ hội nói: “Thiếp muốn về cung Hưng Thánh”.

Hơi thở của Tề Thịnh còn ổn định, một lúc sau mới hỏi: “Tại sao?”.

Tôi dùng cái chăn mỏng che ngực, nhổm người lên nhìn Tề Thịnh, đáp: “Bởi vì thiếp là Hoàng hậu, phải cai quản tam cung lục viện, cả ngày ở tiền triều thì làm được cái gì? Hôm qua Hoàng thị và Lý thị chỉ vì hai xấp vải mà cãi nhau, muốn nhờ thiếp dàn xếp lại bị chặn ở ngoài cung Đại Minh không cho vào. Hai người ấy đành phải khóc lóc tìm đến Thái hậu, lúc đó sự việc mới được giải quyết”.

Tề Thịnh nghiêng đầu yên lặng nhìn tôi, tôi cũng không lẩn tránh mà thẳng thắn nhìn lại.

Không bao lâu, tôi không nín được bật cười, đưa tay khẽ đẩy vào người Tề Thịnh, nói: “Luyện tập đấu mắt à, trong màn tối thế này, đến cả mắt cũng chẳng nhìn rõ thì có ra vẻ quyến rũ mấy cũng bằng không thôi”.

Tề Thịnh cũng bật cười rồi cười kéo tôi vào lòng, bộ ngực vạm vỡ của Tề Thịnh cũng rung lên vì cười, phải một lúc sau mới hết. Sau một hồi im lặng mới nghe thấy tiếng anh ta nói: “Ta phải đi đánh Bắc Mạc, đó là di chỉ của Thành Tổ”.

Người tôi bất giác cứng đơ lại, tim cũng đập mạnh hơn hẳn. Để tránh bị Tề Thịnh phát hiện, tôi vội để tay vào ngực anh ta, kéo giãn khoảng cách giữa hai người, hỏi lại bằng giọng khàn đặc: “Chàng muốn thân chinh đi sao?”.

Tề Thịnh không nói gì, chỉ đưa tay đặt lên ngực tôi.

Tim tôi đập như trống dồn nhưng cơ thể thì không dám động đậy dù chỉ là một chút, đành để mặc bàn tay nóng ran thô ráp của Tề Thịnh chạm vào chỗ chỉ cách trái tim tôi một lớp xương thịt.

Trong bóng tối, tôi vẫn lờ mờ nhìn thấy khóe miệng Tề Thịnh dường như khẽ nhếch lên, sau đó anh ta nói bằng giọng chậm rãi: “Đừng sợ, nếu ta không trở về thì nàng đưa Tề Hạo lên làm hoàng đế, vừa vặn hoàn thành ước mơ làm thái hậu của nàng”.

Rõ ràng là giọng điệu đùa cợt nhưng từng chữ đều như sấm rền trong lòng tôi. Tim tôi thật không có chút tiền đồ, đập càng ngày càng nhanh, mỗi dây thần kinh đều căng lên như dây thép rồi rối nùi thành một bó. Bất giác tôi nuốt nước bọt, cân nhắc xem phải nói gì để thể hiện lòng trung thành của mình.

Trong bóng tối, ánh mắt Tề Thịnh như lưỡi kiếm vô hình, dường như có thể trực tiếp xuyên thấu lòng người.

Tôi há miệng một lúc mà vẫn không thốt được câu nào.

Lời nói của Tề Thịnh rõ ràng không phải là ý muốn nhất thời, vậy việc anh ta gọi tôi đến cung Đại Minh giúp đỡ mình giải quyết chính sự là muốn thăm dò hay là đào tạo nghiệp vụ trước khi nhậm chức đây?

Và lúc này, anh ta muốn có đáp án như thế nào?

Cân nhắc một hồi, trái tim cũng đã ổn định trở lại, tôi bình tĩnh hỏi: “Nếu như Lão cửu không phục thì làm thế nào?”.

Tề Thịnh nhẹ nhàng thốt lên một từ: “Giết”.

Ừm, vẫn lời ít ý nhiều như trước nay!

Tôi thán phục nhìn Tề Thịnh, hỏi: “Ý kiến hay! Quả là ý kiến hay! Vấn đề là… giết thế nào?”.

Tề Thịnh lại cười, nhẹ nhàng vuốt ve lưng tôi, đáp: “Ta giúp nàng giết, trước khi chuyển giao quyền trượng cho nàng, ta sẽ thay nàng trừ bỏ hết những cái gai trên đó”.

Tôi ngỡ ngàng nhưng vẫn tươi cười, nhẹ nhàng nói: “Ừ, có điều, chàng đừng giao cho thiếp một cây trượng đã được mài trơn bóng nhé. Như thế đâm người khác cũng không đau đâu”.

Tề Thịnh nghĩ một chút rồi gật đầu: “Được”.

Tôi thấy bất luận anh ta có tin hay không thì cũng phải ra vẻ cho anh ta xem mới được, thế nên tôi vùi đầu vào ngực Tề Thịnh, nghẹn lên nghẹn xuống mấy lần mới hỏi bằng giọng khàn khàn: “Không thể để người khác đi được sao?”.

Tay của Tề Thịnh vuốt dọc theo sống lưng tôi lên tới đầu, sau đó ngón tay quấn quấn nhưng sợi tóc mai bên thái dương, khẽ trả lời: “Không ai thích hợp hơn ta”.

Lời của Tề Thịnh rất thật.

Các tướng soái đời Thành Tổ cơ bản đều đã bị Diêm Vương mời đi ăn uống hoa tửu rồi, chỉ còn sót lại có một vài người thì cũng đều là những ông già bảy, tám mươi tuổi chẳng mong đợi gì được.

Đời thứ hai, Dương Dự là tướng tài lại không thể dùng, Trương Linh thì vừa bị Tề Thịnh lôi xuống ngựa. Còn lại một người của Tiết gia và Mạc gia, tuy mãnh tướng không ít, song đều không thể đảm nhận được vị trí chủ soái.

Đến đời cháu thì đều còn trẻ, phần lớn là hữu dũng vô mưu, thiếu kinh nghiệm trận mạc nên càng không dám dùng.

Tính đi tính lại, chỉ có Tề Thịnh là phù hợp. Từ nhỏ Tề Thịnh đã đọc binh thư, có tư chất thiên bẩm, được Thành Tổ vô cùng yêu mến, còn tự mình dạy dỗ. Lúc rảnh rỗi, hai ông cháu ngoài bàn bạc chiến thuật trên sa bàn ra, còn thường xuyên mang quân lên thảo nguyên Tây Hồ thực chiến khiến dân chúng nơi đó rất căm giận.

Cho đến lúc Tiên đế kế vị thì người dân trên thảo nguyên mới có được cuộc sống yên ổn.

Tiên đế là trí thức, chỉ một lòng phát triển kinh tế văn hóa, vì nể mặt Thành Tổ nên không thể không lập Tề Thịnh làm thái tử nhưng trong lòng lại không xem đứa con giỏi võ này ra gì.

Tề Thịnh cũng tự biết mình, bản thân không được phụ hoàng yêu mến thì dứt khoát không lượn lờ trước mặt để người ngứa mắt, thường xuyên tự xin đi biên cương phía bắc tuần sát. Một năm thì phải đến bảy, tám tháng là sống trong các doanh trại quân đội ở Giang Bắc, vô cùng quen thuộc với Giang Bắc và Bắc Mạc.

Lần này Hoàng thượng là chủ soái thân chinh đến Bắc Mạc, chỉ cần không phạm lỗi như Triệu đại ca Triệu Quát thì sẽ thích hợp hơn bất cứ ai.

Triệu Quát là con trai Triệu Xa, danh tướng thời chiến quốc. Triệu Quát rất thông minh, nói về quân sự thì đến Triệu Xa cũng không thắng được, nhưng lại không có kinh nghiệm trận mạc. Bốn mươi vạn quân nước Triệu do Triệu Quát dẫn đầu bị tiêu diệt trong thời gian ngắn, bản thân Triệu Quát cũng tử trận.

Tôi và Tề Thịnh cứ nằm như vậy một lúc, bầu không khí có chút tịch mịch, đột nhiên Tề Thịnh cười khẽ một tiếng nhẹ nhàng hỏi tôi: “Nàng không nỡ xa ta sao?”.

Câu hỏi này gây khó cho tôi rồi.

Nếu tôi đáp là “không nỡ”, anh ta chắc cũng chẳng tin, nhưng nếu nói “nỡ” thì anh ta lại không vui. Tôi nghĩ đi nghĩ lại, quyết định không trả lời thẳng là tốt nhất.

Tôi ngẩng đầu lên khỏi ngực Tề Thịnh, nửa đùa nửa thật nói: “Hai chúng ta cùng nhau đi đến ngày hôm nay, con cũng đã có hai đứa rồi, nếu nói là không liên quan gì đến nhau thì rõ ràng nói láo. Chàng đề phòng thiếp, thiếp dè chừng chàng, đây là điều rất bình thường. Sự tin tưởng không phải là dựa vào ngôn từ để duy trì, để thời gian trả lời mới chính xác. Chàng muốn thân chinh xuất trận thiếp không cản, thiếp sẽ dốc lòng thay chàng cai quản Thịnh Đô. Chàng trở về, thiếp sẽ tiếp tục làm hoàng hậu của chàng. Nhưng nếu như thực sự chàng không trở về được, thiếp cũng sẽ không nói những lời ‘sống cùng sống, chết dùng chết’ để lừa dối chàng, thiếp chỉ có thể cố gắng hết sức để bảo vệ Uy nhi và Hạo nhi thôi, ngôi vị hoàng đế có thể giữ được thì giữ, không giữ được thì thôi, không gì quan trọng hơn việc tiếp tục sống”.

Tề Thịnh nghe vậy, một hồi lâu sau vẫn im lặng, cuối cùng nói với vẻ dở khóc dở cười. “Nàng chẳng có chút khí phách nào thế?”.

“Khí phách”, tôi cười, cố ý phả hơi thở vào mặt Tề Thịnh: “Nếu thiếp có thứ đó thì đã chết tới cả trăm ngàn lần rồi, sao có thể cùng chàng nằm trên một chiếc giường như lúc này?”.

Lần này Tề Thịnh không cười nữa, chỉ chăm chú nhìn tôi một lúc, sau đó nhẹ nhàng nói: “Cả ngày mệt rồi, ngủ đi”.

Tôi nghe theo, vùi đầu vào ngực anh ta, bụng thầm rủa: Ngủ cái khỉ gì! Nghe tin xong đầu óc tỉnh như sáo luôn rồi, ngủ được mới lạ!

Không lâu sau lại nghe thấy Tề Thịnh hỏi: “Không ngủ được à?”

Tôi im lặng rồi khẽ “ừ” một tiếng.

Tề Thịnh cười: “Ta cũng thế, nếu đã vậy thì đừng ngủ, làm lại lần nữa đi”.

Nói chưa hết câu thì anh ta đã nằm đè lên người tôi.

Lúc đầu tôi chẳng có chút hứng thú nào, nhưng nghĩ lại, nếu anh thực sự bị Nhà xí huynh giữ lại ở Giang Bắc thì có lẽ tôi thành góa bụa mất, đến lúc đó muốn ngủ với đàn ông cũng chẳng dễ dàng gì. Nghĩ vậy tôi cũng trở nên nhiệt tình, hai chúng tôi cứ quấn lấy nhau cho tới khi trời gần sáng mới ngủ thiếp đi.

Tháng Năm, Tề Thịnh quả nhiên tuyên bố muốn tuần sát phương Bắc.

Hoàng đế đi tuần sát vốn là việc lớn, nhưng do Thành Tổ khá coi trọng việc phòng ngự biên cương phía Bắc, cứ hai, ba năm lại đến Giang Bắc một chuyến nên mọi người cũng không coi đây là việc gì trọng đại.

Đến đời Tiên đế, người lại yêu thích cảnh non nước hữu tình của Giang Nam, không thích phong cách quê mùa tua du lịch cưỡi ngựa một tháng tới biên cương phía Bắc. Thế nhưng ông lại không thể tự tiện phá bỏ quy tắc của Thành Tổ, nên sau hai lần nếm trải đắng cay đã linh hoạt thay đổi lại, việc tuần sát biên cương phía Bắc được đổi thành hoàng đế góp tiền, thái tử góp sức.

Khi còn là thái tử, tổng cộng Tề Thịnh đã đến tuần sát phương bắc ba lần, lần cuối cùng đã bị anh em Sở vương âm mưu hãm hại, suýt nữa thì chết trên sông Uyển Giang.

Lúc đó tôi vẫn là Thái tử phi Trương thị, ban ngày còn kéo Dương Nghiêm vượt qua nửa sông Uyển Giang, đến đêm đã lại ôm lấy Sở vương Tề Hàn trôi qua Cửu Khúc Hiệp, làm cho tôi sau này nhìn thấy dòng nước nào chảy cũng sợ.

Đây là lần đầu tiên Tề Thịnh tuần sát phương bắc từ sau khi đăng cơ, thanh thế tất nhiên là lớn hơn nhiều so với lúc làm thái tử. Tuy nhiên, chỉ có một số trọng thần biết lần này, anh ta mượn danh nghĩa đi “tuần sát phương bắc” để “thân chinh xuất trận”, những người còn lại chỉ cho rằng Tề Thịnh đi du ngoạn bằng kinh phí triều đình nên chẳng mấy lưu tâm, thậm chí có ngự sử còn đả kích chuyến đi lần này của Tề Thịnh là hành vi phung phí của công.

Ruồi nhặng tuy không cắn người nhưng lại rất phiền phức!

Tôi đưa cho Tề Thịnh cả chồng tấu sớ, hỏi anh ta: “Không có cách nào để đám người này im miệng được sao?”

Tề Thịnh tiện tay lật giở rồi ném sang một bên, cười: “Họ tự nói tự nghe thôi, nàng lo công việc của mình đi, để ý đến họ làm gì!”

Anh thì thoải mái rồi, đến khi anh phủi mông đi đánh Bắc Mạc rồi, người ở lại Thịnh Đô chịu trận chẳng phải là tôi sao?

Tôi thành khẩn nhìn Tề Thịnh, thương lượng: “Hay là chàng mang luôn đám người này theo, lúc rảnh rỗi còn có vài người để tán chuyện?”

Tề Thịnh hé mắt ra nhìn tôi, nói: “Không được, lần này người đi đã nhiều rồi, còn lại để cho nàng”.

Trong lòng tôi biết rất rõ, việc này chỉ có “không muốn mang theo”, chứ không có “không thể mang theo”, anh còn mang theo được cả Triệu vương và Sở vương cơ mà, còn sợ thêm mấy cỗ xe ngựa cho đám ngự sử đó dùng sao?

Đúng vậy, lần “tuần sát phương bắc” này, Tề Thịnh lệnh cho Triệu vương và Nhà xí huynh cùng ngự giá.

Khi mới nghe được thông tin này, tôi còn sững ra mất hai giây, nhưng rất nhanh đã hiểu được dụng ý của Tề Thịnh. Anh ta không tin tưởng hai huynh đệ này, thà giữ họ bên mình còn yên tâm hơn là để họ ở lại Thịnh Đô.

Trước khi chuẩn bị khởi hành, Nhà xí huynh cuối cùng cũng vượt qua rất nhiều trở ngại để được gặp tôi tại chỗ Tống thái hậu, mang cho tôi tờ thánh chỉ thật hơn cả thật. Đó là di chiếu được viết ra bằng khẩu khí của Tề Thịnh, cũng có thể xem như là chiếu ngự phế ngôi, chiếu thư thể hiện tình cảm dào dạt, tài văn chương nổi bật, câu chữ ngắn gọn chặt chẽ, khái quát “sự thật” về một vị hoàng đế vì không nghe quần thần khuyên can, cứ khăng khăng tiến quân Bắc phạt để cuối cùng vùi thây nơi chiến trường.

Câu này đủ dài chưa? Đọc đã tốn sức chưa? Đừng vội oán giận, cái này so với bản thánh chỉ gốc mà tôi xem thì đã đơn giản hơn nhiều, ít ra thì tôi cũng thêm mấy cái dấu phẩy vào rồi.

Cũng may là dạo trước, dưới áp lực của Tề Thịnh, tôi đã ngụp lặn trong văn ngôn, cũng có thể hiểu đến bảy, tám phần thánh chỉ này.

Phần cuối cùng của thánh chỉ, Tề Thịnh chuyển giao ngôi vị hoàng đế cho trưởng hoàng tử Tề Hạo.

Nhà xí huynh đợi tôi xem xong thì lấy lại bản thánh chỉ, cười nhạt, nói: “Để an toàn, trước tiên cái này cứ cất ở chỗ Thái hậu. Nếu chuyện Giang Bắc không thành, hoàng hậu coi như mình chưa từng nhìn thấy, còn nếu chuyện Giang Bắc thành…”

Anh ta nói đến đây rồi dừng lại, im lặng nhìn tôi.

Tôi bật cười, nói: “Nếu như việc của ngươi thành công rồi, thì ta dùng thánh chỉ này để đưa trưởng hoàng tử lên ngôi, sau đó lệnh cho ngươi và Trương Phóng cùng hỗ trợ việc triều chính. Có điều, ngươi cũng phải chú ý, nếu để Bắc Mạc chiếm thể thượng phong, một khi bọn họ thừa thắng tiến vào thì muốn đuổi ra cũng không dễ dàng đâu”.

Nhà xí huynh gật đầu, trịnh trọng nói: “Thần cũng là con cháu của Thành Tổ, tất nhiên sẽ không để quân Bắc Mạc vượt qua Tĩnh Dương, cũng mong hoàng hậu giữ lời.”

Việc giữ lời, không thể trông cậy vào một câu nói mà còn phải xem hành động nữa. Tôi không nói gì, chỉ khẽ nhếch khóe miệng, sau đó đứng lên đi ra ngoài. Vừa đến cửa thì Nhà xí huynh gọi to ở đằng sau, khi tôi quay đầu nhìn anh ta thì không nói, chỉ im lặng nhìn tôi.

Tôi hỏi: “Còn chuyện gì nữa sao?”

Nhà xí huynh chỉ cười nhạt, khẽ lắc đầu.

Tôi thật sự, thật sự là không thể chịu được cái kiểu nghệ thuật như có như không này, cảm thấy ê hết cả một bên răng, vội vã quay người mang theo hai tiểu mĩ nữ mà Tống thái hậu ban tặng đi về cung Hưng Thánh.

Trong hậu điện, Tả Ý vừa chỉ huy đám cung nữ tắm rửa cho Tề Uy và Tề Hạo xong, trông cô cũng chẳng khác gì trải qua một trận thủy chiến, nước trên tóc vẫn còn đang nhỏ giọt, nghe nói tôi về liền chạy ra nghênh đón, ân cần hỏi: “Nương nương, không có chuyện gì chứ ạ?”

Cô hỏi xong mới nhìn thấy hai tiểu mĩ nhân ở đằng sau tôi, khuôn mặt lộ rõ vẻ kinh ngạc. Tôi giới thiệu sơ qua hai tiểu mĩ nhân với Tả Ý, là những người thân thích xa đến không thể xa hơn của Tống thái hậu, bề ngoài là phái đến để chăm sóc Hoàng thượng và Hoàng hậu, nhưng ý sâu xa bên trong là mong tôi giúp đỡ bố trí công việc để làm sao có thể leo lên được long sàng của Tề Thịnh.

Tả Ý vừa nghe vừa bĩu môi, đợi khi mọi người ra hết mới nói với tôi: “Nô tì cứ nghĩ Thái Hậu mời nương nương qua là có chuyện gì, hóa ra lại là sắp đặt tay chân. Nương nương đừng có khách khí với họ, cứ để họ ở lại cung chăm sóc nương nương, xem họ có sống được đến khi hoàng thượng đi tuần sát phương bắc trở về không”.

Hai tiểu mỹ nữ kia đều mười lăm, mười sáu tuổi, vừa vặn là độ tuổi của những nụ hoa e ấp, khiến người ta nhìn vô cùng thích mắt, tôi quả thật có ý định giữ chúng bên mình, nhưng dù sao cũng là người do Thái hậu phái đến, vẫn phải nói với Tề Thịnh một tiếng mới được.

Tề Thịnh vừa nghe Thái hậu đem tặng hai người họ hàng xa thì mày kiếm lập tức nhíu lại: “Cũng không biết Thái hậu lấy đâu ra lắm họ hàng thân thích thế, vẫn chưa hết cơ à?”.

Tôi nghiêm mặt không nói, nhưng trong lòng thì thầm kêu: Thế thì có gì là lạ đâu! Nếu đang ở thời hiện đại, vòng vèo một hồi thì đến con tinh tinh ở châu Phi cũng có họ hàng với anh luôn ấy chứ. Đây dù sao cũng là mỹ nhân, anh còn không vừa lòng cái nỗi gì!

Tề Thịnh liếc tôi, hỏi: “Là hai mỹ nữ à?”.

Tôi thành thật trả lời: “Quả đúng là mỹ nhân, rất xinh đẹp yêu kiều”.

Tề Thịnh từ tốn gật đầu.

Tôi thăm dò: “Hoàng thượng lần này đi tuần sát có muốn mang họ theo để giải khuây không?”.

Tề Thịnh lắc đầu: “Ta đi đánh giặc, mang đàn bà con gái theo làm gì!”.

Tôi thầm thở phào, miệng lại nở nụ cười: “Cũng phải, mọi người đều nói trong quân doanh không được có đàn bà, nếu không sẽ bị xui xẻo. Vậy cứ để hai người này ở lại trong cung đã”.

Tề Thịnh hoài nghi nhìn tôi, lông mày hơi nhíu lại, suy nghĩ một lát rồi nói: “Thôi được rồi, cứ để ta mang theo họ cho yên tâm”.

Lời của vua thảo nào ai dám bất tuân, tôi ngoan ngoãn đáp lại một tiếng “vâng”, trong lòng thì lại rất khinh thường tính khí lúc nóng lúc lạnh của anh ta.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

96#
Đăng lúc 18-6-2013 21:19:47 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 17.1: BỒNG BỒNG TA THÍCH NÀNG

Ngày mùng Chín tháng Sáu, Tề Thịnh đem người đi tuần sát phương Bắc.

Tôi vừa giúp Tề Thịnh đội mũ giáp, vừa phổ biến kiến thức chống sét: “Khi hành quân dã ngoại, nếu gặp trời dông bão thì đừng có cưỡi ngựa cao to. Chàng đã cao, cái mũ sắt trên đỉnh đầu cũng dài hơn người khác nửa thước, thần sấm thích nhất là thu lượm những người như chàng đó…”.


Tề Thịnh đột nhiên nắm lấy tay tôi, nắm thật chặt, mãi lâu sau mới bình thản hỏi: “Nàng không thể nói mấy câu dễ nghe sao?”.

Muốn dễ nghe? Có chứ, tôi đây có rất nhiều ấy chứ, nhiều đến mức tôi không cần nghĩ cũng nói được một tràng: “Vậy chúc Hoàng thượng thuận buồm xuôi gió, mã đáo thành công, vừa xuất quân đã chiến thắng giòn giã, vạn sự như ý, của ăn của để đầy nhà…”.

“Đủ rồi!”, Tề Thịnh giận dữ ngắt lời, trừng mắt nhìn tôi.

Tôi không nói gì, chỉ đáp lại bằng sự im lặng.

Vẻ bực tức trên khuôn mặt của Tề Thịnh dần dần tan biến, ánh mắt cũng trở nên an tĩnh, không lộ ra một tia cảm xúc nào. Cuối cùng, anh ta không nói gì thêm, chỉ nhìn sâu vào mắt tôi một lúc, dứt khoát quay người rồi sải bước rời đi.

Nhìn bóng Tề Thịnh xa dần, tôi cảm thấy sức lực toàn thân như bị rút hết, chân mềm nhũn, suýt nữa thì khuỵu xuống đất. Ông Phật tôn kính ấy cuối cùng cũng đi rồi!

Tôi không biết tâm trạng của mình lúc này là buồn hay vui, chỉ cảm thấy trống rỗng.

Lục Ly tiễn Triệu vương xong liền tiến cung thăm tôi. Tôi miêu tả cho cô tâm trạng của mình, nhưng vừa nói vừa ra hiệu cả nửa ngày mà cô vẫn cứ mơ mơ hồ hồ, mãi một lúc lâu sau mới đột nhiên vỗ đùi đánh đét một cái: “Nương nương, thần thiếp rõ rồi, thần thiếp đã hiểu ý của người rồi”.

Tôi cảm thấy được an ủi, không ngờ rằng đến bản thân tôi còn không rõ, ấy vậy là Lục Ly lại hiểu được, cô quả là tri kỉ của tôi. Tôi vừa vui mừng vừa ngạc nhiên, hỏi: “Ngươi thật sự hiểu?”.

Lục Ly gật đầu, ngữ khí khẳng định: “ Hiểu ạ. Nói thẳng ra là, người vất vả làm nàng dâu ba mươi năm, cuối cùng cũng được lên chức mẹ chồng rồi. Bây giờ Hoàng thượng không ở đây, trong cung toàn bộ đều nghe theo người, người muốn làm gì thì làm”.

Cái gì thế? Con dâu thì ta đến một đứa cũng chưa nhìn thấy, còn mẹ chồng trên đầu lại có hai người kia kìa.

Lục Ly thấy tôi không phản ứng gì, vừa mở miệng định đoán tiếp thì bị tôi chặn lại, hỏi: “Trước khi đi Triệu vương có dặn gì không?”.

Cô đáp: “Triệu vương bảo thần thiếp chuyển tới nương nương một câu là: Bất luận thế nào thì người mà nương nương có thể dựa dẫm chỉ có Hoàng thượng thôi”.

Tôi suy nghĩ kỹ câu nói của Triệu vương, cảm thấy trong đó ẩn chứa một hàm ý khác.

Lục Ly ở bên cạnh im lặng một lúc rồi đột nhiên khẽ hỏi tôi: “Nương nương, bây giờ chúng ta chỉ có thể chờ đợi thôi sao?”.

Tôi hỏi lại: “Nếu không thì còn có thể làm gì? Bọn họ vừa rời kinh, ai biết được cuối cùng bên nào sẽ thắng. Chúng ta cũng nên để cho mình một đường lui chứ”.

Cô nương à, bây giờ chúng ta không thể hành động thiếu suy nghĩ được. Nhỡ Nhà xí huynh thất thủ, ta lại đã bộc lộ dã tâm thăng chức thì khi Tề Thịnh trở về không thể không tính sổ với ta được. Trước mắt cứ đợi xem thế nào đã, ta đã chịu đựng được mấy năm nay rồi, bây giờ chỉ còn một năm rưỡi nữa thôi mà.

Cuối tháng Sáu, một đoàn buôn hàng trăm người của Nam Hạ bị cướp và sát hại ở bên ngoài thành Tĩnh Dương. Tin này đã truyền về nội thành đúng lúc Hoàng đế Tề Thịnh tuần sát đến Tĩnh Dương, người nổi giận, lập tức lệnh cho hai nghìn quân Tĩnh Dương tiến vào Bắc Mạc, lấy cớ tìm kiếm và giải cứu những người thất lạc trong đoàn buôn, tiến hành trả đũa bằng cách chiếm đất của Bắc Mạc.

Quân Bắc Mạc vội vàng tập hợp binh mã để ngăn chặn, hai bên tranh chấp ác liệt cách phía bắc Tĩnh Dương bảy mươi dặm. Do binh lực chênh lệch, quân Nam Hạ tổn thất nghiêm trọng, chỉ có hơn ba trăm người thoát khỏi vòng vây của quân Bắc Mạc, quay về Tĩnh Dương.

Hành động ấy chẳng khác gì chọc thủng tổ ong vò vè, Tề Thịnh sau khi phẫn nộ quở mắng hành động trơ tráo của Bắc Mạc liền lập tức tuyên bố sẽ thân chinh xuất trận tiến đánh Bắc Mạc. Cửa khẩu Tĩnh Dương vừa mở, bốn mươi vạn đại quân Nam hạ nhanh như chớp tấn công vào Bắc Mạc, mới vài ngày ngắn ngủi đã chiếm được liền mấy thành của Bắc Mạc.

Bắc Mạc lúc đó mới trợn tròn mắt lên. Tranh chấp quy mô nhỏ như thế này thỉnh thoảng vẫn xảy ra, tướng lĩnh hai nước cũng chỉ gọi là anh tát tôi một cái, tôi đấm anh một cú cho hả, chẳng ai xem đó là chuyện nghiêm trọng, lần này Nam Hạ làm sao thế? Tự nhiên lại đánh thốc tới như vậy?

Mà thôi, đừng nói nữa, mau tập trung binh mã chẩn bị đánh đi!

Công báo về đến Thịnh Đô đã là tháng Bảy, tôi xem câu chữ đanh thép trên “Bài hịch đánh giặc”, trong lòng không khỏi khâm phục trình độ vô liêm sỉ của Tề Thịnh.

Lục Ly rốt cuộc cũng chỉ là một cô gái, biết tin phía bắc, thực sự đánh nhau thì không khỏi lo lắng, hỏi tôi: “Nương nương, chúng ta phải làm thế nào? Có cần liên lạc với nhà không?”.

Tề Thịnh không mang theo thượng thư Bộ binh Trương Phóng, mà để ông ta ở lại Thịnh Đô với tôi. Nghĩ tích cực thì Tề Thịnh muốn tôi có người dùng được ở bên, nhưng nghĩ tiêu cực thì có lẽ đây chính là ý đồ của anh ta, cố ý dụ nhà họ Trương gây chuyện để nhân cơ hội thâu tóm quyền lực.

Không thể mắc lừa, tuyệt đối không thể mắc lừa.

Lục Ly vẫn còn đang đợi câu trả lời, tôi nghĩ đi nghĩ lại, lắc đầu nói: “Trong nhà không cần chúng ta quan tâm, ngược lại nơi cần phải lo lắng chính là ở trong cung đây này. Ta phải đến chỗ Thái hoàng thái hậu một chuyến xem người có ý gì không”.

Thái hoàng thái hậu Lâm thị thường ngày giống như vị Bồ Tát chẳng quản sự đời, nhưng người đã có hơn mấy chục năm làm hoàng hậu, thái hậu, thời điểm Tiên đế băng hà người cũng thể hiện rõ sự nhanh nhạy, quyết đoán của mình. Nếu như chỉ coi người là một lão bà mắt mờ tai điếc thì quả là ngu ngốc.

Thái hoàng thái hậu lúc gặp tôi rất vui mừng, kéo tôi lại, vỗ nhẹ vào cánh tay tôi, an ủi: “Hoàng hậu không cần phải bận tâm việc của Hoàng thượng, cứ yên tâm chăm sóc Hạo nhi để Hoàng thượng không phải lo lắng là tốt rồi”.

Người đã nói vậy thì tôi càng kiên quyết không thèm quan tâm gì nữa, hằng ngày ngoài việc dạy chữ cho Uy nhi ra, thời gian còn lại là để ý xem nhũ mẫu trông nom Tề Hạo như thế nào.

Thời tiết chuyển từ nắng nóng sang mát mẻ, tin tức từ phương bắc liên tiếp truyền về, hôm nay là quân tiên phong của Hạ Bỉnh Tắc đánh phá được thị trấn quan trọng của Bắc Mạc, ngày mai báo hành dinh của Tề Thịnh đang di chuyển về phương bắc bao nhiêu dặm, tóm lại đều là những tin tức tốt lành.

Tôi ăn ngon ngủ yên, Lục Ly thì lại tỏ ra rất bồn chồn, lén lút hỏi tôi: “Nương nương, Sở vương định ra tay thật sao?”.

Tôi nghĩ một lúc rồi nhẹ nhàng gật đầu.

Nhà xí huynh nếu như muốn thay đổi đại cục thì chỉ có thể nắm lấy cơ hội lần này mà thôi.

Vừa qua rằm tháng Tám chưa được mấy ngày, bánh trung thu trong cung còn chưa ăn hết, Dương Nghiêm bị Tề Thịnh lưu đày đến Lĩnh Nam đột nhiên nhân lúc đêm tối đã đột nhập vào cung.

Tôi đang ngủ thì bị lay dậy, vừa mở mắt ra đã thấy ngay một bóng người đen sì đứng ở đầu giường. Câu đầu tiên mà người đó nói là: “Không tìm thấy cha thần đâu cả”.

Cũng may mà định lực của tôi tốt nên mới không hoảng sợ hét lên, chỉ ngẩn ra một lúc rồi đáp: “Chỗ ta không có… hay là, ngươi đi tìm ở chỗ khác thử xem?”.

Dương Nghiêm nghiến răng kèn kẹt, giận dữ đẩy tôi vào, chui lên giường tôi ngồi xếp bằng, khẽ nói: “Vừa đến Lĩnh Nam không được bao lâu thì cha thần đã bắt giam thần lại, khó khăn lắm mới thoát được thì phát hiện ra ông ấy và đại ca, nhị ca, tam ca của thần đều không thấy đâu. Hỏi người trong nhà thì chỉ nói là họ đã đi cùng nhau, nhưng không biết đi đâu”.

Tôi nghe mà choáng váng, bốn cha con cùng lúc bỏ đi, lẽ nào cùng nhau đi thăm họ hàng? Nhưng thế thì việc gì phải giam đứa con trai út của mình lại?

Trong đầu chợt xẹt qua một ý nghĩ, tôi hỏi Dương Nghiêm: “Họ đi lúc nào?”.

Dương Nghiêm trả lời: “Nghe nói là đầu tháng Năm, đồ dùng tuỳ thân từ ngày trong quân ngũ trước đây cũng mang theo rồi. Thần bị giam giữ gần ba tháng, mấy ngày trước mới trốn ra được, đêm qua thần đến phủ Cửu ca hỏi thì được biết mấy người họ không tìm Cửu ca”.

Giọng nói của Dương Nghiêm đầy vẻ hoang mang, lo lắng, nói xong thì lặng lẽ nhìn tôi.

Mấy cha con Dương Dự đột nhiên biến mất, nếu là lén lút bỏ trốn thì tuyệt đối sẽ không mang theo đồ dùng trong quân đội để người khác chú ý, đã mang đi rồi thì chứng tỏ không sợ bị nhìn thấy.

Tôi cũng thấy hơi rối, suy nghĩ rất lâu mà không tìm ra đầu mối nào, đành phải nói: “Bọn họ đều là người lớn cả, sẽ không bị người khác lừa gạt đâu. Trước hết ngươi cứ kiên nhẫn ở lại Thịnh Đô chờ vài ngày…”.

Dương Nghiêm tức giận cắt ngang lời tôi: “Người biết bọn họ đề phòng thần như vậy là nói lên điều gì không?”.

Tôi cũng nổi giận, cười nhạt: “Điều đó chứng tỏ họ không chỉ đề phòng ngươi, mà còn đề phòng Cửu ca của ngươi nữa, chứng tỏ ngươi và Cửu ca đều bị lão hồ ly cha ngươi vứt bỏ, chứng tỏ là họ đã sớm chạy về phía Tề Thịnh rồi…”.

Khuôn mặt Dương Nghiêm vừa sửng sốt vừa bực tức.

Tôi lạnh lùng nhìn anh ta, hỏi: “Thế thì sao? Đã đến nước này, ngươi còn có thể làm gì?”.

Dương Nghiêm đờ người ra một lúc, vai dần dần rũ xuống, miệng lẩm bẩm: “Vậy thần nên làm thế nào? Không ngờ đến thần họ cũng lừa”.

Nhìn bộ dạng đau khổ của anh ta, tôi không nén được tiếng thở dài, thò chân ra đẩy đẩy anh ta: “Phủ Sở quận nhất định có người giám sát, ngươi đừng đến đó nữa. Trước tiên hãy đến chỗ Lục Ly, ta sẽ sai người dò la xem thế nào, có thông tin gì sẽ báo ngay”.

Dương Nghiêm vẫn ngồi đờ ra thêm một lúc nữa rồi mới gật đầu, đứng dậy đi về.

Tôi cứ nằm mở mắt thao láo cho đến khi trời sáng, xâu chuỗi sự việc từ đầu đến cuối, cho dù là bản thân không muốn chấp nhận phỏng đoán đó đến mấy, thì tất cả đầu mối đều chỉ ra rằng bây giờ Dương Dự có thể đang ở Giang Bắc, thậm chí còn có thể đã ra trận.

Nhưng tại sao Tề Thịnh lại dám sử dụng Dương Dự – người có nửa huyết thống Bắc Mạc? Tại sao phía Nhà xí huynh không thấy truyền về một chút thông tin nào?

Đang suy nghĩ miên man như vậy thì nghe thấy tiếng Phúc nhi khẽ gọi: “Nương nương tỉnh rồi ạ? Người đã muốn dậy chưa?”.

Tôi nghĩ một lúc, vén màn lên khẽ gọi Phúc nhi lại, căn dặn: “Hôm nay ngươi hãy bí mật ra khỏi cung, bảo Vương phi Sở quận mau vào cung một chuyến”.

Cô bé Phúc nhi đã được tôi đào tạo cẩn thận hơn hai năm, suy nghĩ linh hoạt, ăn nói thận trọng, tay chân nhanh nhẹn, điều quan trọng nhất là bất kể tôi sai làm gì cô đều chỉ “vâng” một tiếng, chẳng bao giờ hỏi “tại sao”.

Nghe tôi nói muốn bí mật truyền tin đến Trương Trà Trà, cô vẫn chỉ dứt khoát đáp một tiếng “vâng”, sau đó điềm nhiên như không gọi cung nữ đang ở ngoài điện vào giúp tôi rửa mặt, chải đầu. Đợi đến khi tôi làm xong công tác vệ sinh thì đã chẳng thấy bóng dáng Phúc nhi đâu nữa.

Chưa đến buổi trưa thì Trương Trà trà lấy cớ thăm đường tỷ để tiến cung.

Tôi không có sức mà kể chi tiết, chỉ bảo cô nhanh chóng đi tìm Trương phóng, hỏi xem Tề Thịnh xuất quân đánh Bắc Mạc lần này có gì bất thường không, chỉ huy các cánh quân có phải đều có danh tính rõ ràng không, có cái tên nào chưa nghe thấy bao giờ không.

Trương Trà Trà thấy tôi cho tìm cô gấp như thế để hỏi những chuyện này thì có vẻ hơi ngạc nhiên, vừa từ tốn uống trà vừa hỏi tôi: “Đại tỷ tỷ, chuyện này rất quan trọng sao?”.

Tôi lo đến líu cả lưỡi, chuyện này vô cùng quan trọng ấy chứ, liên quan tới việc ngươi goá chồng hay ta goá chồng!

“Quan trọng, chuyện này cực kì quan trọng, muội nhất định không được để người khác biết”.

Trương Trà Trà vừa nghe đến đây lập tức đặt cốc trà xuống, quay người định đi.

Tôi vội vàng kéo cô lại, hỏi: “Muội đi đâu?”.

Trương Trà Trà quay đầu lại trả lời tôi: “Muội đi tìm đại bá ạ”.

Tôi bất đắc dĩ thở dài một tiếng, nhét lại cốc trà vào tay cô: “Muội phải ghi nhớ, bất kể là việc gấp như thế nào thì bản thân mình cũng phải bình tĩnh, nếu không nhất định sẽ để lộ sơ hở. Muội vừa đến đã vội vàng ra về, sợ người khác không biết muội đến báo tin sao?”.

Trương Trà Trà chớp chớp đôi mắt to tròn, hỏi tôi: “Vậy phải làm thế nào ạ?”.

Tôi đáp: “Ăn trưa xong rồi hãy đi”.

Tôi sai Tả Ý bế Tề Hạo và Tề Uy vào, sau đó cùng hai đứa bé và Trương Trà Trà ăn cơm rồi mới để cô về.

Kết quả là chưa nhận được câu trả lời của Trương Phóng thì Giang Bắc đã gửi tin báo thắng trận trở về. Nguyên Bình Tây hầu Dương Dự dẫn mười vạn đại quân men theo tuyến Cát Thành – Mậu Thành – Lương Châu tiến vào thảo nguyên Tây Xuyên – Tây Hồ, bí mật thâm nhập Bắc Mạc, sau đó lại vượt qua hàng nghìn dặm trên sa mạc để tấn công sâu vào trung bộ Bắc Mạc, nhân lúc Bắc Mạc chưa chuẩn bị liền chiếm luôn mấy thị trấn quan trọng, đã tiến đến cách Thượng Kinh, kinh đô Bắc Mạc, chưa đầy một trăm về phía nam.

Nghe nói tuyến đường hành quân của Dương Dự chính là là tuyến đường mà năm mươi năm trước Sát tướng Bắc Mạc, Thường Ngọc Thanh, đã đi qua. Chỉ có điều ngày trước ông ta từ bắc xuống nam, ngày nay Dương Dự lại từ nam lên bắc. Phương hướng mặc dù trái ngược nhưng hiệu quả thì chẳng khác nhau là mấy.

Công báo truyền về, toàn bộ triều đình choáng váng.

Tôi cũng ngỡ ngàng, ngồi đờ đẫn cả nửa ngày trên bậc thềm bên ngoài điện, sau đó mới gọi Phúc nhi truyền lời đến Dương Nghiêm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

97#
Đăng lúc 18-6-2013 21:25:07 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 17.2: CONTINE


Đêm ấy, Dương Nghiêm lần mò vào cung. Anh ta có vẻ gầy đi nhiều, dáng người nhìn lại càng cao, toàn bộ con người giống như sợi dây đàn kéo căng, bất cứ lúc nào cũng có thể đứt, ánh mắt sáng quắc nhìn tôi, hỏi: “Hoàng hậu khẳng định cha thần thay Tề Thịnh đem quân đi đánh trận?”.

Trong điện không thắp nến, dựa vào ánh trăng bên ngoài cửa sổ, tôi nhìn đôi mắt sáng như bóng đèn của anh ta, cười: “Dù sao thì trên công báo cũng viết thế. Nghĩ lại thì, ban đầu cha ngươi dẹp loạn ở Vân Tây, là chủ soái toàn quân, người bên cạnh không ít, ông ta làm sao có thể thoát được tai mắt của Tề Thịnh để bí mật vượt hàng nghìn dặm về Thịnh Đô? Chủ soái vừa ra trận đã bỏ chạy, nếu không được Tề Thịnh ngầm ưng thuận thì sao có thể làm được! Bây giờ nghĩ lại thấy chúng ta lúc đó thật ngốc! Trong mắt Tề Thịnh thì ngươi, ta, cả Cửu ca trông có vẻ thông minh của ngươi nữa, đều chẳng khác gì mấy tên hề trong đoàn tạp kỹ”.

Một lúc lâu sau đôi môi mím chặt của Dương Nghiêm mới hơi thả lỏng, hỏi tôi: “Bây giờ phải làm thế nào?”.

Thực ra tôi đã sớm có chủ ý nhưng lại sợ anh ta không dễ dàng nghe theo, bèn giả bộ cúi đầu xuống nghĩ một lúc, rồi bất ngờ vươn tay ra, mạnh mẽ nắm lấy tay anh ta, gọi: “Dương Nghiêm!”.

Dương Nghiêm vui vẻ, vội lên tiếng: “Có cách rồi à?”.

Tôi nhìn anh ta với ánh mắt vô cùng chân thành, tha thiết nói: “Chúng ta… chạy trốn đi”.

Khoé miệng của Dương Nghiêm giật giật, một lúc lâu mới nhếch lên, cười gằn: “Giờ là lúc nào rồi mà người vẫn còn đùa được?”.

Tôi lắc đầu: “Không đùa đâu. Trước mắt Tề Thịnh vừa phải chỉ huy đánh trận vừa phải đề phòng Lão cửu, chẳng còn tâm trạng mà để ý đến hai chúng ta đâu. Chúng ta nhân cơ hội này bỏ trốn! Đem theo Tề Uy và Tề Hạo, như vậy không những ngươi có vợ mà đến cả con cái cũng có luôn, lợi thế còn gì…”.

Dương Nghiêm lùi lại đằng sau một bước, đưa ngón tay chỉ vào mình, giọng lạc hẳn đi, lắp bắp hỏi: “Người người người… muốn lấy thần?”.

Tôi gật đầu: “Hai chúng ta đi chung đường, đương nhiên phải giả làm vợ chồng để tránh gây chú ý. Ngươi yên tâm, ta có tiền, chỉ cần trốn đến một nơi an toàn thì sẽ không phải lo lắng gì về cái ăn cái mặc hằng ngày đâu. Hơn nữa, ta còn là hiền thê, ngay cả một hậu cung lớn như thế này mà vẫn cai quản được, giúp ngươi quản lý khoảng mười tì thiếp chỉ là chuyện nhỏ”.

Dương Nghiêm đột nhiên nổi giận, hất tay tôi ra, nói: “Bậy bạ! Người là hoàng hậu, chỉ cần Tề Thịnh không chết thì người làm sao mà có thể bỏ trốn được! Lại càng đừng nói người còn mang theo một hoàng tử và một công chúa! Nếu thần chỉ mang theo mình người bỏ trốn thì Tề Thịnh có lẽ chỉ giết một mình thần, nhưng nếu thần mang theo cả ba mẹ con người thì Hoàng thượng sẽ giết cả gia tộc nhà thần mất!”.

Nghe anh ta nói vậy, tôi lập tức cảm thấy nhẹ nhõm.

Tôi cứ sợ trong lúc nóng đầu anh ta sẽ đồng ý luôn, may mà anh ta chưa mất trí, vẫn biết chuyện mang theo hoàng hậu bỏ trốn là viển vông.

Tôi giả vờ sửng sốt trước lời quát tháo của anh ta, thẫn thờ nhìn anh ta một lát rồi cụp mắt xuống.

Quả nhiên mấy năm sống với Tề Thịnh không vô ích, kỹ thuật diễn xuất rất điêu luyện, một lúc sau Dương Nghiêm do dự đưa tay về phía tôi, đến giữa chừng thì lại rút về, một lúc sau mới khẽ nói: “Xin lỗi”.

“Ngươi không cần xin lỗi ta”, tôi khẽ đáp, vẻ tươi cười trên khuôn mặt tắt dần.

Kiểu người chỉ qua lớp đào tạo diễn xuất cấp tốc trong mấy ngày như Dương Nghiêm đúng là không được. Anh ta nhìn thấy vẻ mặt tôi thì lại càng áy náy, cứ như thể không mang tôi đi cùng chính là bỏ vợ bỏ con không bằng, vô cùng thận trọng hỏi: “Không còn cách nào khác sao?”.

Tôi hít một hơi thật sâu, lấy lại tinh thần, hỏi Dương Nghiêm: “Ngươi có biết Lão cửu định lúc nào thì ra tay với Tề Thịnh không? Dùng thủ đoạn gì?”.

Dương Nghiêm lắc đầu: “Cửu ca không nói với thần”.

“Cha ngươi cũng không biết sao?”

Dương Nghiêm do dự một lát: “Không biết, chỉ nói là đã sắp xếp cảm tử quân rồi thôi. Thần vốn muốn đích thân giết Hoàng thượng nhưng Cửu ca không đồng ý”.

“Vậy được rồi, bây giờ có hai cách. Cách một, ngươi lập tức đến biên cương phía bắc ngăn không cho Cửu ca của ngươi ra tay, sau đó hai người giả chết mà trốn đi, chạy xa bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu”.

Dương Nghiêm ngắt lời tôi, hỏi: “Thế còn người thì sao?”.

“Ta?”, tôi cười hỏi anh ta: “Ta cũng muốn bỏ trốn, nhưng ngươi chẳng nói là ta chạy không được đó sao?”.

Dương Nghiêm nhìn tôi, hồi lâu sau mới hỏi: “Cách thứ hai là gì?”.

Tôi vui vẻ đáp: “Cách thứ hai là đợi. Nếu Cửu ca của ngươi thắng thì chẳng có gì phải nói. Nếu thất bại thì chúng ta sẽ đợi Tề Thịnh trở về Thịnh Đô. Anh ta đại thắng trở về, lại tự cho là đã phá vỡ được âm mưu của chúng ta, nhất định sẽ vô cùng đắc ý, mười phần thì chắc đến tám, chín phần sẽ lại chỗ ta diễu võ dương oai, đến lúc đó ngươi giết anh ta là được”.

Dương Nghiêm kinh ngạc: “Giết Tề Thịnh ở chỗ người?”.

Tôi hỏi vặn lại: “Tại sao lại không? Tề Thịnh lúc nào cũng tính toán, làm việc gì cũng có kế hoạch rõ ràng, chẳng nhẽ chúng ta lại ngồi im ở đây chờ chết sao?”.

Dương Nghiêm cúi đầu suy nghĩ một lát, nói: “Vậy thì cứ làm theo cách thứ hai đi”.

Vòng cả trăm dặm đường, diễn một màn kịch lâu như thế, tất cả chỉ để nghe được câu này của anh ta, giờ đã nghe được rồi, tảng đá to tướng trong lòng tôi cũng xem như biến mất.

Ngày hôm sau, tôi vừa nói với Lục Ly, cô đã nhảy dựng lên, thất thanh: “Nương nương hồ đồ rồi! Nếu đã định làm thế thì phải để anh ta một mình đến Giang Bắc ra tay, như vậy mới có thể khiến thần không biết quỷ không hay. Còn nếu ra tay trong cung, lỡ việc không thành thì nương nương cũng chẳng còn đường sống”.

Sống trong cung mấy năm, tôi đã đạt được trình độ dù Thái Sơn có đổ sụp trước mắt thì mặt cũng không biến sắc. Lục Ly xúc động như vậy, nhưng tôi cũng chỉ lạnh lùng liếc cô, hỏi: “Ngươi cũng có thể nghĩ đến những điều này, chẳng lẽ Tề Thịnh lại không nghĩ ra sao?”.

Lục Ly sững sờ một lát.

Chính vì mọi người đều cho rằng tốt nhất là giết Tề Thịnh ở Giang Bắc nên ta mới muốn làm ngược lại, đợi Tề Thịnh trở về cung rồi mới ra tay.

Tôi cúi đầu tiếp tục bóc lựu ăn, nhẫn nại khuyên cô: “Bình tĩnh đi, đã đến nước này thì tất cả những gì có thể làm được cũng chỉ là liều đến cùng mà thôi. Ta cá là Tề Thịnh chưa giết ta ngay khi vừa về đâu, lúc đó vừa vặn giúp chúng ta dễ ra tay hơn”.

Lục Ly đứng ngây ra một lát rồi thẫn thờ ngồi xuống, một lúc sau mới hỏi: “Bây giờ chúng ta chỉ có thể chờ đợi thôi sao?”.

Tôi gật đầu: “Ngươi bí mật liên lạc với nhà, bảo họ nắm chặt lấy Thủ vệ quân ở kinh thành, đến lúc Tề Thịnh xảy ra chuyện thì việc ổn định được cục diện ở Thịnh Đô hay không hoàn toàn dựa vào họ”.

Lục Ly lại hỏi tiếp: “Sau đó thì sao?”.

“Sau đó? Cứ đợi đã”, tôi đáp.

Chuyện đã đến nước này cũng chỉ có thể tiếp tục: “lấy bất biến ứng vạn biến” mà thôi.

Lục Ly lo lắng thấp thỏm đi qua đi lại trong điện một hồi vẫn không nghĩ ra cách gì, thở dài một tiếng, sau đó lại khoác lên bộ mặt vui vẻ rạng rỡ như không có chuyện gì mà ra về.

Chiến trận ở phương bắc diễn ra ác liệt, trong triều cũng rất náo nhiệt, duy chỉ có hậu cung là vẫn im như tờ.

Tề Thịnh không ở đây, các phi tần muốn lấy lòng hoàng đế cũng chẳng được, hậu cung vì thế vô cùng yên ổn, mọi người xưng hô chị chị em em, lúc rảnh rỗi lại sang cung của nhau tán chuyện, ít ra bề ngoài thì có vẻ thân thiết gần gũi hơn trước.

Tôi nghĩ, lỡ sau này mình rơi vào tay Tề Thịnh, nếu không chết thì kết cục cũng là cả đời cơm lạnh canh nguội ở chốn lãnh cung tăm tối, vì thế càng phải trân trọng khoảng thời gian tốt đẹp trước mắt. Hằng ngày ngoài việc ăn uống, vui chơi, ngắm mỹ nhân ra, thì thời gian còn lại đều dùng để trêu đùa với Tề Uy và Tề Hạo.

Cứ như vậy đến tháng Mười, hôm đó tôi đang đưa hai con đi dạo trong nhự hoa viên thì cung nữ bên người Thái hoàng thái hậu đột nhiên đến tìm, nói Thái hoàng thái hậu mời tôi nhanh chóng qua chỗ người.

Thái hoàng thái hậu từ lâu đã không quản chuyện trong hậu cung, nếu có chuyện thì nhiều lắm là bảo cung nữ đến nói với tôi, nhưng hôm nay đột nhiên lại gọi tôi gấp như vậy, hẳn là có chuyện lớn rồi.

Tôi cũng lờ mờ đoán được đó là chuyện gì nên cố gắng lấy lại tinh thần, sai cung nữ bên cạnh đưa Tề Uy và Tề Hạo trở về cung Hưng Thánh trước rồi theo cung nữ kia đến chỗ Thái hoàng thái hậu.

Cung nữ đưa tôi tới ngoài điện của Thái hoàng thái hậu rồi khẽ nói: “Thái hoàng thái hậu mời một mình người vào”.

Tôi vô cùng kinh ngạc, khẽ ho một tiếng rồi mới bước vào.

Trong nội điện, Thái hoàng thái hậu đang chống gậy đứng bên cửa sổ, sống lưng hiếm khi thấy thẳng như vậy, nghe thấy tiếng chân tôi bước tới mới chậm rãi quay người lại: “Hoàng hậu đến rồi đấy à?”.

Tuy giọng nói không to nhưng lộ rõ vẻ uy nghiêm khó tả, khác hẳn với thái độ hiền dịu, nhân từ trước đây.

Tôi rùng mình, vội kính cẩn đáp lại một tiếng, thận trọng hỏi người triệu tôi đến có việc gì.

Người chỉ vào án thư bên cạnh: “Đến từ phương bắc, Hoàng hậu tự mình xem đi”.

Tôi cầm mật tấu trên án thư lên xem kỹ, đọc xong nội dung thì hay rồi, mồ hôi sau lưng lập tức tuôn ra.

Mật tấu nói rất sơ lược, cuộc chinh phạt phương bắc ban đầu rất thuận lợi, tin chiến thắng của các cánh quân báo về liên tiếp, nhưng từ sau khi Bắc Mạc qua phút bất ngờ, bắt đầu phản ứng lại, nhanh chóng điều động binh lực toàn quốc để phản công thì chiến sự trở nên căng thẳng. Đúng lúc ấy Tề Thịnh đột nhiên bị ám sát, mặc dù vết thương không sâu nhưng vũ khí lại tẩm chất độc, độc tố rất mạnh, trong quân không có thuốc giải, hiện giờ Tề Thịnh đang nằm tại chỗ.

Nếu như hoàng đế chết ở tiền tuyến thì không những trong quân sẽ loạn mà ngay cả triều đình e cũng không yên.

May mà Tề Thịnh tuy trúng độc nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo, lập tức giấu chuyện bị trúng độc. Một mặt ra lệnh cho đại quân dừng lại đóng quân ở một thị trấn nhỏ của Bắc Mạc để nghỉ ngơi, mặt khác phái người thần tốc mang vũ khí tẩm độc về Thịnh Đô, lệnh cho Thái y viện nghiên cứu điều chế thuốc giải.

Tôi ngẩng đầu lên nhìn Lâm lão thái thái, run rẩy hỏi: “Thái y viện liệu có chế được thuốc giải không?”.

Lão thái thái vẻ mặt cương nghị nhưng giọng nói vẫn không giấu được đau buồn: “Đang nghiên cứu rồi, nhưng cho dù hôm nay có thể điều chế được thuốc giải thì nhanh nhất cũng phải mất hơn mười ngày mới tới được chỗ Hoàng thượng, không biết…”.

Người không nói tiếp được nữa, nhưng tôi đã hiểu, ý là thuốc giải độc cho dù đến được chỗ Tề Thịnh thì cũng chẳng biết anh ta còn mạng mà dùng nó không.

Cảm tử quân của Nhà xí huynh thực sự đã ra tay? Tề Thịnh sẽ chết sao?

Tôi cũng không biết cảm xúc trong lòng mình lúc này là căng thẳng hay kích động, là vui mừng hay chấn động nữa, rõ ràng là có hàng nghìn hàng vạn cảm xúc đang đồng loạt dâng lên nhưng trong lòng lại cảm thấy trống rỗng, chỉ còn biết đứng ngây người ra.

Lão thái thái nhìn vẻ mặt tôi, mắt cũng đỏ hoe, khẽ nói: “Ngoan, con phải kiên trì mới được”.

Môi tôi run run, không sao nói nên lời. Lão thái thái, tôi bây giờ phải kiên trì cái gì, rõ ràng là cần phải vững vàng mới đúng!

Tề Thịnh bây giờ chỉ có hoàng tử duy nhất là Tề Hạo, mặc dù hiện tại vẫn chưa được một tuổi rưỡi, nhưng vẫn là người thừa kế ngai vàng một cách danh chính ngôn thuận, lại có sự hỗ trợ của Trương gia và Nhà xí huynh, nếu như không có gì thay đổi thì ngôi vị hoàng đế này sẽ truyền lại cho nó rồi.

Con trai một khi là Hoàng đế thì người làm mẹ như tôi cũng sẽ lên chức thái hậu. Hơn nữa, còn là vị thái hậu có quyền thế kinh người.

Lưỡi gươm treo lơ lửng trên đầu cuối cùng cũng đã biến mất, tương lai sẽ không còn phải nhìn sắc mặt Tề Thịnh mà sống nữa.

Đây rõ ràng là chuyện vui, tại sao trong lòng tôi lại thấy buồn phiền khó chịu? Hay là tôi nhập vai quá đà rồi?

Vẻ mặt của Lão thái thái vô cùng đau buồn, người bước lên phía trước hai bước, vịn vào tôi, giọng bi thương: “Bồng Bồng, con nhất định không được gục ngã, chỗ Hoàng đế còn cần con”.

Tôi sững người, mơ hồ nhìn Lão thái thái. Chỗ Tề Thịnh còn cần tôi ư?

Lão thái thái chăm chú nhìn tôi: “Thịnh nhi nói muốn con đến chỗ nó”.

Tôi sửng sốt, người ta khó khăn lắm mới ngoi lên được, vừa thoát ra khỏi vai diễn chưa được bao lâu. Mẹ kiếp, không phải chứ? Cho dù Hoàng đế muốn có người tuẫn táng thì cũng phải là các phi tần chứ? Chưa nghe hoàng hậu cũng phải chôn cùng bao giờ.

“Bảo thần thiếp tới đó?”, tôi nghi ngờ hỏi lại.

Lão thái thái trịnh trọng gật đầu, mắt đỏ hoe, nước mắt chực tuôn rơi. Người rút từ trong ngực ra một bức thư đưa cho tôi: “Đây là thư Thịnh nhi gửi cho con”.

Mật tấu vừa nãy là thân tín của Tề Thịnh chấp bút, được coi là công văn nội bộ. Còn bức thư trên tay lúc này chắc là thư riêng rồi.

Cho dù là công văn hay thư riêng, nơi gửi đến đều là chỗ Thái hoàng thái hậu, qua đó có thể thấy Tề Thịnh rất tin tưởng bà nội mình.

Trong thư chỉ viết có tám chữ: Ranh giới sống chết, chỉ mong gặp mặt.

Tôi đã có một thời gian sống ở cung Đại Minh, Tề Thịnh chê chữ tôi viết khó đọc, còn từng nắm tay dạy tôi viết, nét chữ của anh ta tôi rất quen thuộc. Bút tích trên bức thư này mặc dù có vẻ hơi rối và thiếu sức sống, nhưng đúng là bút tích của Tề Thịnh.

Tôi xem thư, bất giác sững sờ.

Lại nghe thấy tiếng nói của Lão thái thái: “Theo lễ nghi thì hoàng hậu không thể xuất cung vào lúc này, lại càng không được đến nơiđang xảy ra loạn lạc, nhưng đây là Thịnh nhi…”, Lão thái thái dừng lại, hít một hơi sâu rồi mới tiếp tục nói: “Có lẽ đây là lần gặp mặt cuối cùng, nếu Hoàng thượng đã có tâm nguyện như vậy thì Hoàng hậu đi đi”.

Tôi sực tỉnh, ngước mắt nhìn Lão thái thái.

Chưa đợi tôi mở miệng, Lão thái thái đã tiếp tục nói: “Hoàng hậu yên tâm, ta sẽ lo cho Uy nhi và Hạo nhi. Chỉ cần bà lão này còn sống ngày nào thì Thịnh Đô sẽ không có ai dám tạo phản đâu”.

Đến giây phút mấu chốt này, nước mắt tôi cuối cùng cũng rơi xuống.

Chết tiệt! Tôi không tin là mình lại có ý nghĩa với Tề Thịnh đến như vậy, cứ làm như trước khi chết mà không gặp được tôi thì anh ta sẽ không nhắm được mắt ấy.

Có rất nhiều điểm đáng ngờ ở đây.

Thứ nhất, nếu Tề Thịnh sớm đã biết âm mưu của Nhà xí huynh qua Dương Dự, vậy thì nhất định đã đề phòng rất nghiêm ngặt, tại sao bây giờ lại bị người ta hành thích?

Thứ hai, cứ xem như Nhà xí huynh may mắn thành công, nhưng Tề Thịnh đâu đã chết ngay, sao còn không định tội Nhà xí huynh? Trên mật tấu thậm chí còn không nhắc đến tên Nhà xí huynh một lần nào?

Trong chuyện này có quá nhiều chỗ không hợp lý.

Đầu tôi không ngừng suy nghĩ, bề ngoài thì giả vờ kiên cường, quệt nước mắt, gật đầu không một chút do dự: “Thần thiếp đi, thần thiếp sẽ lập tức đến Bắc Mạc”.

Lão thái thái nhìn tôi, gật đầu, vẻ mặt có vẻ nhẹ nhõm hơn
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

98#
Đăng lúc 18-6-2013 21:29:23 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 17.3: CONTINUE


Vừa về đến cung Hưng Thánh thì tin tức từ chỗ Tống thái hậu cũng truyền đến, Tề Thịnh đúng là đã bị hành thích, đang trúng độc.

Tận lúc này tôi mới thật sự tin Tề Thịnh bị hành thích. Tiếp đó, tôi bắt đầu suy nghĩ tại sao Thái hoàng thái hậu và Tề Thịnh lại muốn tôi đến Giang Bắc.

Suy nghĩ theo chiều hướng tích cực thì là Tề Thịnh muốn gặp tôi để bàn một số chuyện. Nhưng vượt qua một đoạn đường xa xôi hàng nghìn dặm chỉ để nói vài câu, chuyện này quá sến, cũng không phù hợp với tính cách của Tề Thịnh.

Suy nghĩ theo chiều hướng tiêu cực thì là họ sợ sau này vua còn nhỏ, mẫu hậu nhiếp chính sẽ để ngoại thích lộng quyền, muốn nhân cơ hội này trừ khử Hoàng hậu là tôi.

Càng nghĩ càng thấy “giết mẹ giữ con” mới là mục đích thực sự của họ.

Vì điều này mà Tề Thịnh còn giả vờ viết ra tám chữ lừa tình đó, rõ ràng là muốn làm xáo trộn tâm trí tôi. Nếu tôi không nhận ra dã tâm đằng sau đó thì chẳng biết hai bà cháu nhà này còn muốn gài bẫy tôi như thế nào nữa!

Vậy, rốt cuộc là nên đi hay không đây?

Đi, rất có khả năng là tìm đường chết. Nhưng nếu cứ quyết tâm nhất quyết không đi thì đồng nghĩa với việc tự vạch mặt mình. Chưa nói đến việc lỡ Tề Thịnh không chết thì tôi đương nhiên chẳng còn đường lui, mà hiện tại, phía Thái hoàng thái hậu tôi cũng không dám chắc có thể chống đỡ được, e rằng tôi nhất định phải đi gặp Tề Thịnh rồi.

Lão thái thái này đúng là sắp thành tinh rồi.

Tôi nằm trên giường suy nghĩ cả buổi tối, ngày hôm sau thức dậy, thấy người trong gương vô cùng tiều tuỵ, nét mặt ủ rũ còn hơn cả hoa cúc vàng.

Tả Ý thấy thế thì vô cùng kinh ngạc hoảng sợ hỏi: “Nương nương, người làm sao vậy?”.

Tôi chẳng có tâm trí đâu mà giải thích với cô, chỉ bảo cô đến chỗ Thái hoàng thái hậu hỏi xem thuốc giải đã điều chế ra chưa.

Tả Ý vừa rời khỏi, tôi liền bảo Phúc nhi đến phủ Triệu vương truyền tin cho Lục Ly.

Hai ngày sau, Hoàng hậu đột nhiên bị cảm cúm nằm liệt giường. Sau khi chẩn đoán thái y thông báo bệnh của Hoàng hậu không có gì nghiêm trọng nhưng cần phải tĩnh dưỡng, Hoàng đế vắng mặt, Hoàng hậu lại đột nhiên ngã bệnh, trong cung không khỏi hoang mang lo sợ.

Thời điểm quan trọng, vẫn là đồng chí lão làng đứng lên.

Thái hoàng thái hậu không những tiếp quản toàn bộ sự vụ trong cung mà còn đưa hoàng tử Tề Hạo và công chúa Tề Uy sang chỗ mình để dạy dỗ. Có Lão phật gia tôn kính cai quản, trong cung lập tức ổn định lại. Hoàng hậu nghe lời thái y, ngoan ngoãn nằm trên giường tĩnh dưỡng, cung Hưng Thánh cũng vì thế mà đóng cửa không tiếp khách.

Cùng lúc đó, Trương Bồng Bồng tôi đã cải nam trang, đem theo Tả Ý cùng hơn hai mươi cao thủ, giữa đêm tối rời Thịnh Đô tiến về phương bắc.

Một đường vung roi thúc ngựa, tốc độ rất nhanh, vài ngày sau đã đến sông Uyển Giang. Ở đó có thuyền chờ sẵn, đợi đoàn chúng tôi xuống là lập tức giương buồm tiến thẳng đến bến Giang Bắc.

Qua được sông Uyển Giang, chúng tôi tiếp tục ngày đêm không nghỉ, men theo tuyến đường Thái Hưng, Dự Châu, Tiểu Trạm tiến về phương bắc, dự tính sẽ qua cửa khẩu Tịnh Dương đến thẳng chỗ đóng quân của Tề Thịnh ở thành Bình Ninh của Bắc Mạc.

Khi đi qua cửa khẩu Tịnh Dương đã là ngày Mười bảy tháng Mười, tính từ ngày rời khỏi Thịnh Đô, tôi đã ở trên lưng ngựa tám ngày, đừng nói hai bên đùi bị cọ sát đến trầy thịt chảy máu mà ngay cả tính mạng e cũng đã mất một nửa.

Buổi trưa, sau khi ngồi nghỉ trong rừng, tôi không cách nào leo nổi lên mình ngựa. Tả Ý đứng bên cạnh dùng cả thân người đỡ tôi lên, mếu máo nói: “Nương nương, người hãy nghỉ thêm chút nữa đi”.

Tôi đẩy cô ra, bám vào yên ngựa tiếp tục leo lên, sau khi té ngã một lần nữa thì nghe thấy tiếng đội trưởng đội thân vệ hộ tống nói: “Xin thất lễ, nương nương”, sau đó luồn tay xuống nách tôi, nhẹ nhàng đặt tôi lên ngựa.

Nắm chặt lấy dây cương, tôi ngồi thẳng lên, quay đầu lại nói: “Làm phiền ngươi giúp luôn thị nữ của ta nữa”.

Anh ta không đáp, chỉ lẳng lặng giúp Tả Ý lên ngựa.

Đoàn người lại tiếp tục quất ngựa tiến về phía trước, đi khoảng một trăm dặm nữa mới đến được một trấn nhỏ. Mấy ngày vừa rồi, dù đi qua thành phố và thị trấn thì chúng tôi cũng không ở trọ, nhưng lần này đội trưởng đội thân vệ lại thúc ngựa đến bên cạnh tôi, tôn kính nói khẽ: “Nương nương, chúng ta dừng lại nghỉ ở đây một đêm rồi hẵng đi tiếp. Mọi người đều đã rất mệt mỏi, hơn nữa sau khi qua cửa khẩu thì không tiện đổi ngựa, cũng phải cho lũ ngựa nghỉ ngơi nữa”.

Tôi đưa mắt lướt một vòng thì phát hiện “mọi người” mà anh ta nói chỉ bao gồm hai người: tôi và Tả Ý. Tôi hơi do dự một chút nhưng vẫn ngoan ngoãn gật đầu.

Đêm hôm đó, chúng tôi nghỉ lại khách điếm duy nhất trong thị trấn. Đến nửa đêm thì có một người mặc đồ đen lẻn vào phòng tôi, đánh ngất Tả Ý vừa ngồi dậy định lấy thân ngăn cản, sau đó dùng chăn quấn tôi lại và chạy trốn qua cửa sổ.

Thân vệ gác đêm rất nhanh đã phát hiện ra, huýt sáo một tiếng, lập tức cả đội thân vệ thức giấc. Hắc y nhân cũng không dây dưa với họ, vung kiếm gạt một thân vệ chặn đường, tiếp tục ôm tôi nhảy qua cửa ra ngoài rồi trèo lên lưng con tuấn mã chuẩn bị sẵn, hiên ngang phóng đi.

Đội thân vệ tách ra, người thì đi lấy ngựa ở sau nhà trọ, người thì lao nhanh đến, trực tiếp dùng khinh công đuổi theo.

Tôi thò đầu ra khỏi ngực của hắc y nhân, vừa vùng vẫy vừa hướng về phía sau kêu gào: “Cứu ta với, cứu ta với!”.

Hắc y nhân không bình tĩnh được nữa, kéo chiếc khăn bịt mặt màu đen ra: “Là thần, Dương Nghiêm đây”.

Tôi tức giận, trừng mắt lên: “Phí lời, không phải ngươi thì ta dám kêu chắc!”.

Nói xong lại tiếp tục ra sức đóng vai con gái nhà lành bị người xấu bắt cóc.

Dương Nghiêm dùng một tay ôm chặt lấy tôi, khẽ nói: “Vậy người cẩn thận một chút, đừng có cào vào mặt thần”.

Tôi cứng người lại, tránh khuôn mặt anh ta, chỉ ra vẻ đánh vào ngực và vai anh ta.

Một đôi chân cuối cùng vẫn không thắng được hai đôi chân, chẳng mấy chốc đám người đuổi theo phía sau dần dần khuất dạng. Tôi lập tức nắm chặt lấy cơ hội để lười biếng, đã chẳng nhìn thấy ai đuổi theo nữa thì cần gì phải vẫy vùng, chỉ thỉnh thoảng kêu lên mấy tiếng là được.

Dương Nghiêm cuối cùng cũng không nhẫn nại được, giơ kiếm lên thương lượng: “Nào, chúng ta phối hợp với nhau chút đi. Người giả vờ hét lên một tiếng để thần có cớ đánh ngất người, đỡ phải mất công kêu nữa làm gì”.

Tôi cân nhắc chốc lát rồi thét lên một tiếng, ngay trước khi Dương Nghiêm ra tay lại đột nhiên im bặt.

Dương Nghiêm nhìn tôi: “Xem như người thức thời”.

Dựa vào ánh trăng, tôi thò đầu nhìn ra đằng sau, hỏi: “Bọn họ liệu có đuổi kịp chúng ta không?”.

Dương Nghiêm cười khà khà, đắc ý nói: “Không đâu, thần đã hạ thuốc cho đám ngựa trước rồi”.

Lúc này tôi mới yên tâm, rúc vào tấm chăn quấn trên người, tìm một vị trí thoải mái dựa vào người anh ta, dặn dò: “Ta chợp mắt một lúc, khi nào đến được chỗ an toàn thì gọi ta”.

Nói xong liền lăn ra ngủ như chết.

Khi tỉnh lại thì thấy mình ở bên một khe suối, trời đã sáng hẳn, tôi đưa mắt nhìn cây cối rậm rạp, to lớn xung quanh, có vẻ đang ở sâu trong rừng.

Dương Nghiêm đang ngồi bên đống lửa hơ nóng lương khô, thấy tôi tỉnh dậy liền đến gần, cảm khái: “Người thật tàn nhẫn với bản thân mình, cứ nhất định phải qua khỏi cửa khẩu Tĩnh Dương mới cho thần ra tay. Nếu cứ theo ý thần mà ra tay ngay khi qua sông Uyển Giang thì người đã đỡ phải chịu tội mấy ngày”.

Tôi chẳng để ý đến lời nói của anh ta, chống người đứng dậy đến bên khe suối rửa mặt.

Dương Nghiêm lại đi theo sau, ngồi xổm bên cạnh mà tiếp tục ca cẩm: “Thần nghĩ mãi vẫn không hiểu, Cửu ca cũng đã truyền tin về nói Tề Thịnh bị trúng độc, thế sao người còn nghe lời bà già Lâm thị kia mà đến Bắc Mạc làm gì? Ở lại Thịnh Đô chờ làm thái hậu có tốt hơn không! Người đi như vậy chẳng phải đã dọn chỗ cho Thái hoàng thái hậu sao? Lỡ bà ta nảy ra ý định gì thì người làm sao mà ứng phó kịp”.

Tôi không đồng ý với suy nghĩ đó, Thịnh Đô đã bị Trương Phóng khống chế, Thái hoàng thái hậu có làm gì cũng chẳng thể thay đổi được thế cục, chính chỗ Tề Thịnh mới là quan trọng nhất.

Tôi dùng tay áo lau qua mặt rồi rút từ trong túi ra một cái lọ sứ nhỏ, hỏi anh ta: “Biết đây là cái gì không? “.

Dương Nghiêm cầm lấy quan sát kỹ, còn mở nắp ra ngửi, hỏi: “Thuốc giải?”.

Tôi gật đầu: “Nếu ta không đích thân đi một chuyến, lỡ có người mang lọ thuốc này đến cho Tề Thịnh thì làm thế nào?”.

Nói xong, tôi lấy lại cái lọ sứ trong tay anh ta, dốc miệng đổ xuống đất.

“Ý!?”, Dương Nghiêm vội dùng tay chặn lấy miệng lọ, hết sức kinh ngạc nhìn tôi, hỏi: “Người đã nghĩ kỹ chưa?”.

Nghĩ kỹ chưa?

Tôi nghiêm túc suy nghĩ một lát, cuối cùng vẫn kiên quyết đổ hơn nửa chỗ thuốc giải xuống dòng nước. Những viên thuốc đen nhánh bị nước cuốn đi thật xa, nháy mắt đã không thấy đâu nữa.

Đến giờ phút này thì quan hệ giữa tôi Tề Thịnh đã trở thành anh sống thì tôi chết, chẳng còn tình cảm hay yêu thương gì nữa, dù sao mấy thứ đó cũng đâu thể ăn thay cơm!

Dương Nghiêm im lặng hồi lâu, sau đó mới nói bằng giọng yếu ớt: “Trương Bồng Bồng, người thật độc ác”.

Tâm trạng của tôi bỗng trở nên rất tệ, thẫn thờ nhìn dòng nước, đáp lại, “Đa tạ, quá khen rồi”.

Dương Nghiêm nghẹn họng, mở to mắt nhìn tôi.

Tôi cảm thấy lúc này thực sự không nên đa sầu đa cảm, liền đưa tay đỡ lưng, lê đôi chân bị thương trở về bên đống lửa, cầm lương khô lên ăn.

Dương Nghiêm thở dài, hỏi tôi: “Tiếp sau đây nên làm gì?”.

Tôi lắc đầu: “Trước tiên ngươi mang ta đi trốn vài ngày, đợi phản ứng của đại quân trên Bắc Mạc đã. Nếu đại quân lặng lẽ rút dần về Nam Hạ thì có thể khẳng định Tề Thịnh đã không qua được rồi. Lúc đó chúng ta sẽ liên hệ ngay với người của Trương gia để họ hộ tống ta vào trong quân. Ta sẽ đưa hài cốt Tề Thịnh về Thịnh Đô, đến lúc đó dù là Thái hoàng thái hậu cũng chẳng có cách nào mà gây khó dễ cho ta nữa. Còn nếu như trong quân không có động tĩnh gì hoặc lại tiếp tục đánh lên phương bắc…”.

“Vậy thì làm thế nào?”, Dương Nghiêm hỏi.

Tôi cười: “Điều đó chứng tỏ Tề Thịnh chưa chết, hai chúng ta phải bỏ chạy thôi”.

Lúc này thì Dương Nghiêm chính thức ngây ra, một lúc lâu sau mới đứng dậy, nói: “Sao người không nói sớm!?”.

Miệng còn ngậm nửa miếng bánh, tôi nghiêng đầu hỏi anh ta: “Có vấn đề gì à?”.

Sắc mặt Dương Nghiêm đột nhiên trở nên thiếu tự nhiên, đưa tay gãi đầu, có phần ngượng ngùng nói: “Sớm biết vậy thì thần đã mang thêm ít bạc rồi. Bỏ trốn cũng cần tiền mà, nếu không làm sao có thể trốn xa được!”.

Nghe anh ta nói vậy, miếng bánh trong họng tôi đột nhiên mắc trong họng, thiếu mỗi nước nghẹn chết để đi gặp Diêm Vương nữa thôi.

Dương Nghiêm vội vàng vỗ lưng cho tôi, liên tục hỏi: “Có cần nước không? Có cần nước không? Ở đây không có trà, dùng nước sông có được không?”.

Tôi ho sặc sụa, nước mắt nước mũi đầy mặt, gạt tay anh ta ra rồi ngẩng đầu nhìn lên, oán hận nói: “Làm gì mà ghi hận lâu thế? Ngươi từ trước đến giờ đều là là nữ giả nam đúng không?”.

Dương Nghiêm ngồi xổm đối diện với tôi, nhìn tôi một lát, cuối cùng không nén được mà bật cười to.

Tiếng cười thoải mái lan đi thật xa, thậm chí còn khiến chim chóc gần đỉnh núi cũng giật mình hoảng hốt. Tôi sợ hãi nhào tới bịt miệng anh ta lại, mắng khẽ: “Ngươi muốn chết à? Bị người khác phát hiện ra thì hay rồi!”.

Dương Nghiêm hạ thấp giọng cười mãi một lúc lâu rồi mới dừng lại, đẩy tay tôi ra: “Không sao, thần đã cắt đuôi truy binh xa lắm rồi, không ai có thể bắt được chúng ta đâu”.

Anh ta nói với vẻ vô cùng tự tin, còn tôi thì thấy bán tín bán nghi. Con người Dương Nghiêm trước giờ đều không đáng tin chút nào.

Sáng tinh mơ hôm sau, trời đột nhiên đổ tuyết. Dương Nghiêm vui vẻ nói: “Trận tuyết này thật tốt, vừa vặn có thể xoá sạch dấu vết của chúng ta. Người của Tề Thịnh mà tìm ra chúng ta thì đúng là thần rồi!”.

Lúc này tôi mới thở phào nhẹ nhõm, bèn hỏi Dương Nghiêm có thể tìm được một gia đình thợ săn nào sống ở gần đây để xin một bát canh nóng uống không.

Dương Nghiêm vỗ ngực nói không vấn đề gì, kết quả là dẫn tôi đi lòng vòng trong núi mất mấy ngày mà vẫn chẳng tìm được một bóng người nào cả.

Tôi vô cùng bất đắc dĩ, đành phải từ bỏ hy vọng xa vời là được uống bát canh nóng, bảo Dương Nghiêm đưa tôi ra khỏi núi. Đã cắt đuôi được đám truy binh thì phải nhanh chóng đến Tịnh Dương, thế mới dễ dàng nghe ngóng tin tức của đại quân đang ở phương bắc.

Dương Nghiêm gật đầu, lại khoác lên mình dáng vẻ nghiêm túc dẫn tôi đi hai ngày trong núi, chẳng những không tìm được đường ra mà còn lạc luôn.

Tôi tức giận hỏi: “Không phải là ngươi nói ngươi từ nhỏ lớn lên trong núi sao? Nhắm mắt cũng không đi sai đường cơ mà? Hả?”.

Dương Nghiêm lúng túng, cười khan: “Thần chỉ nói tới núi ở bên ngoài thành Thái Hưng thôi mà!”.

Thái Hưng cách nơi đây cũng phải vài nghìn dặm chứ chả ít! Núi này và núi ở đó giống nhau được à?

Tôi bực đến nỗi phổi cũng đau, sau khi ra sức đá mấy cái vào chân anh ta thì ngồi trên đất thở hổn hển.

Dương Nghiêm phủi tuyết trên người, an ủi tôi: “Lạc đường cũng có cái hay. Chúng ta còn chẳng biết mình đang ở đâu truy binh lại càng không thể biết được”.

Việc đã đến nước này tôi cũng chỉ có thể dối mình dối người mà an ủi bản thân mà thôi. Có điều sự thực đã nhanh chóng chứng minh, Dương Nghiêm không những là người không đáng tin, mà đến cả lời nói cũng chỉ có thể nghe cho vui tai thôi.

Hoàng hôn ngay sau ngày anh ta nói câu này thì lính của Tề Thịnh đã đuổi đến nơi.

Lúc đó tôi đang ngồi dưới gốc cây đếm số lượng bánh thịt trong túi, Dương Nghiêm đang đứng trên ngọn cây nhìn ra xa bỗng nhảy xuống, nét mặt căng thẳng ngồi trước mặt tôi nói khẽ: “Bây giờ thần có ba điều muốn nói với người”.

Thấy thái độ của anh ta nghiêm trọng như thế, tôi không nhìn mấy cái bánh nữa mà dời ánh mắt chăm chú lên mặt anh ta.

“Thứ nhất truy binh đã đuổi đến rồi.”

Tôi giật mình, cái bánh cầm trong tay rơi xuống đất.

“Thứ hai, người dẫn đầu hình như là Tề Thịnh.”

“Bộp” một tiếng, bọc hành lý trên tay kia cũng rơi xuống tuyết.

Dương Nghiêm cúi đầu nhìn xuống, nói với vẻ rất khó khăn: “Thứ ba, thần định sẽ chạy trốn một mình”.

Nghe vậy tôi nhảy dựng lên, lao vào bóp cổ anh ta, chửi: “Dương Nghiêm! Ngươi là đồ chết tiệt!”.

Dương Nghiêm không hề kháng cự, chỉ hạ giọng nói nhanh: “Tề Thịnh lần này đem theo toàn cao thủ, nếu thần mang theo người chắc chắn chạy không thoát. Hơn nữa, nếu Tề Thịnh vô sự thì Cửu ca nhất định đã có chuyện, thần phải đi cứu Cửu ca. Người hãy bỏ tay ra đi, họđã đến chân núi rồi, chẳng mấy chốc sẽ lên tới đây thôi”.

Tính mạng ông đây so với tính mạng Cửu ca nhà ngươi nhỏ nhặt không đáng kể thế cơ à! Tôi càng phẫn nộ hơn. Ngươi đã bất nhân thì đừng trách ta bất nghĩa, chết thì tất cả cùng chết! Tôi nghiến răng, nhảy lên điên cuồng xé áo Dương Nghiêm. Ta không tin Tề Thịnh biết chuyện ngươi cắm sừng anh ta mà còn có thể tha thứ cho cả nhà ngươi!

Dương Nghiêm ngây ra một lát mới giật mình phản ứng lại, vội ghìm tay tôi, bực tức nói: “Người làm gì thế?”.

Tôi cười lạnh, cúi đầu cắn mạnh vào cổ anh ta.

Người anh ta cứng lại nhưng không đẩy tôi ra.

“Thần đã cố gắng hết sức rồi”, anh ta hít sâu một hơi, nói tiếp: “Bọn họ đã sắp đuổi đến nơi, thần đã đi vòng vèo bốn ngày đường mà vẫn không cắt đuôi được, giờ họ đã bao vây chúng ta rồi, thần thực sự không có cách nào cả”.

Tôi từ từ nhả ra, đứng dậy nhìn anh ta.

Yết hầu anh ta chuyển động, nói một cách khó khăn: “Thần thực sự muốn mang người bỏ trốn nhưng thần không làm được. Tề Thịnh đã đích thân đi tìm người, chứng tỏ anh ta rất coi trọng người, chỉ cần người một mực nói là bị thần ép buộc thì dù Tề Thịnh có bắt người về cũng không làm hại đến tính mạng của người đâu. Cửu ca lúc này chẳng biết sống chết thế nào, thần phải đi tìm huynh ấy”.

Dương Nghiêm giơ cao cánh tay, tôi chỉ cảm thấy gáy đau dữ dội, trước mắt tối sầm lại rồi không còn biết gì nữa.

Khi tỉnh lại tôi thấy mình đang nằm trên một cái giường hành quân thấp nhỏ trong lều, cách đó không xa, mấy ngọn nến thấp phóng to bóng Tề Thịnh lên tấm vải bạt, có phần hơi mờ ảo.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

99#
Đăng lúc 18-6-2013 21:31:22 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 17.4: CONTINUE


Tôi nhìn về phía anh ta, cân nhắc xem tính mạng và tự tôn cái nào quan trọng hơn, sau đó bật cười, phát hiện ra rằng, chuyện này đối với tôi không thể xem là một vấn đề, bởi vì sự lựa chọn của tôi mỗi lần đều là tính mạng.

Tề Thịnh nghe thấy tiếng động, ngẩng đầu lên điềm tĩnh nhìn tôi.

Tôi cũng lặng lẽ nhìn trả lại, mặc dù vẻ mặt vẫn bình thản như thường, nhưng ruột gan bên trong thì rối rắm sắp kết thành một bó hoa mẫu đơn luôn rồi.

Rốt cuộc tôi nên bổ nhào vào ngực Tề Thịnh khóc lóc một trận, cảm ơn ông trời vì đã để anh ta sống, hay là đau khổ căm phẫn chỉ vào anh ta mà chửi mắng một trận, rõ ràng anh không sao, vậy mà còn bảo ta vượt nhìn dặm xa xôi tới Bắc Mạc, anh chơi ta sao?

Hay là cứ thẳng thắn đóng vai lưu manh. Đúng vậy, ông đây đúng là muốn lật đổ anh, tự mình lên ngôi thái hậu. Anh thích làm gì thì làm, dù sao ông cũng chẳng sợ gì nữa rồi.

Hai chúng tôi cứ nhìn nhau như vậy hồi lâu, cuối cùng Tề Thịnh thở dài một tiếng rồi hỏi trước: “Tại sao hai chúng ta lại đến nước này?”.

Vừa nghe xong câu này, tôi lập tức hiểu ngay, Tề Thịnh đã biết mọi chuyện rồi.

Nếu đã vậy, việc tôi cố tình đóng kịch, ngoài tự biến mình trở thành một thằng hề ra thì chẳng còn tác dụng gì.

Tề Thịnh tiếp tục nói: “Ta đã nói với bản thân mình, chỉ cần nàng vì ta mà đến đây thì ta sẽ bỏ qua hết những chuyện nàng đã làm trước đó…”.

Tôi thực sự không thể nghe tiếp được nữa, ngồi bật dậy, lấy cái gối đập vào Tề Thịnh, chửi: “Tề Thịnh, anh còn mặt mũi để nói những lời này cơ à! Lại còn bỏ qua hết những chuyện ta đã làm! Ta thèm vào! Chẳng qua là anh thế nào thì tôi thế ấy mà thôi! Rõ ràng ngay từ đầu anh đã biết những tính toán của ta rồi, anh ngủ với ta, bảo ta sinh hạ Tề Hạo, bảo ta đến cung Đại Minh học chính sự, đó chẳng phải là để nuôi dưỡng dã tâm của ta sao? Con đường đó đều là do anh đã định sẵn, anh dùng quyền thế từng bước ép ta đi đến kết cục ngày hôm nay, anh còn giả vờ si tình làm gì?”.

Tề Thịnh điềm tĩnh nhìn tôi, một lúc lâu sau mới chua chát nói: “Mỗi lần ta đều cho nàng cơ hội lựa chọn, nhưng từ trước tới giờ nàng chưa bao giờ nghĩ đến việc tin tưởng ta”.

Tôi tức giận đến bật cười: “Anh đã làm gì để ta có thể tin tưởng? Lúc nào anh cũng tính toán, cũng đề phòng ta, tại sao ta phải toàn tâm toàn ý với anh cơ chứ?”.

“Trương Bồng Bồng, nàng hãy sờ tay lên ngực mà tự hỏi xem, có đúng là ta đối với nàng chỉ có tính toán và đề phòng hay không?!”, vẻ mặt Tề Thịnh vô cùng giận dữ, giọng nói hơi run lên, con ngươi đen nhánh sâu thẳm dưới ánh nến thoáng hiện lên những vằn đỏ.

Trái tim tôi như có góc nào đó sụp xuống, nỗi chua chát trào lên mạnh mẽ.

Tề Thịnh ngồi thẳng người, mở to mắt nhìn tôi, hỏi dồn: “Trương Bồng Bồng, nàng nói cho ta biết, cuối cùng thì nàng có trái tim không?”.

Sự chua chát trong lòng dần dần dâng trào khiến mắt nhòa đi, tôi quay đầu, mím chặt môi nhất định không nói.

Tề Thịnh đứng phắt dậy tiến lên mấy bước đến trước giường xoay người tôi lại, nắm lấy tay và ấn vào ngực tôi rồi lên giọng hỏi: “Nàng nói cho ta biết, rốt cuộc cái gì đang đập ở đây? Nàng làm sao lại có thể giây trước còn cùng ta quỳ trước Phật cầu tự, giây sau đã lại cùng người khác bàn bạc tìm cách giết ta? Ta tự lừa dối bản thân mình, tự nói với mình rằng trước đây đã nợ nàng, là ta khiến trái tim nàng đóng băng, ta phải từ từ làm ấm lại trái tim đó… Thậm chí ta còn dùng cả con cái để níu kéo nàng, nhưng nàng thì sao? Trương Bồng Bồng, nàng đã làm gì?”.

Tôi nhìn chăm chú vào Tề Thịnh, chậm rãi đáp: “Thiếp chỉ làm những việc giúp mình có thể sống bình an mà thôi, thay vì oán trách thiếp vì sao không tin chàng, sao chàng không thử nghĩ xem tại sao thiếp lại luôn như vậy”.

Rất lâu sau đó Tề Thịnh mới buông tay, cười mệt mỏi rồi quay người bước ra khỏi lều.

Tôi thẫn thờ ngồi trên giường, đột nhiên cảm thấy rất lạnh, cảm giác lạnh lẽo bắt nguồn từ đáy lòng rồi dần dần lan ra khắp cơ thể, đến cả hàm răng cũng không ngừng va vào nhau lập cập.

Tôi cùng thảm lông quấn chặt mình lại, nằm xuống giường, tự nhắc nhở bản thân: “Đừng mắc lừa, chẳng qua là một vở kịch khác của Tề Thịnh mà thôi, chỉ được đứng ngoài xem chứ nhất định không được tham gia vào, nếu không chết cũng không có đất chôn đâu”.

Đêm ấy Tề Thịnh không vào lại căn lều này nữa. Ngày hôm sau, khi nhổ trại chuẩn bị xuất phát cũng là một thân vệ lạ mặt đến chăm sóc tôi, ánh mắt Tề Thịnh chỉ lướt qua chỗ tôi hai lần, hoàn toàn không nói câu nào.

Đoàn người men theo dãy núi đi về phía bắc, sau khi ra khỏi núi không lâu thì hợp với một đoàn khác. Tả Ý có mặt trong đoàn người kia, vừa nhìn thấy tôi đã vội lau nước mắt.

Tôi nhìn cô, khuyên: “Đừng khóc nữa, trời lạnh thế này, khóc nẻ cả da mặt thì sao lấy được chồng. Ngươi cũng nên bảo Tề Thịnh sắp xếp cho một vai khác đi, cả ngày chỉ diễn mỗi cảnh khóc lóc, ta nhìn cũng phát chán rồi”.

Tả Ý há to miệng, ngẩn ra nhìn tôi, không thốt được câu nào.

Tôi khẽ cười, dùng roi quất nhẹ vào mông ngựa tiến về phía trước.

Những người này hình như là đội thân vệ của Tề Thịnh, khoảng một trăm người, ai nấy đều rất dũng mãnh, rõ ràng không phải là người thường. Tôi bỏ hẳn ý định chạy trốn, ngoan ngoãn đi theo đoàn người tiến về phương bắc. Đi chưa được hai ngày thì từ xa đã nhìn thấy một thành trì, trên tường thành còn tung bay lá cờ của Nam Hạ.

Tôi chớp chớp mắt, lúc này mới nhìn rõ hai chữ “Bình Ninh” được khắc trên cửa thành, không khỏi ngạc nhiên. Hoá ra đây chính là trấn nhỏ mà Nam Hạ tạm thời đóng quân nghỉ ngơi sau khi Tề Thịnh bị “ám sát”.

Đoàn người còn chưa tới nơi thì cửa thành đã mở rộng, khoảng hơn chục kị binh từ trong thành ra nghênh đón, vây quanh Tề Thịnh rồi cùng tiến vào trong thành. Tả Ý lúc này mới từ đằng sau đi lên, kính cẩn nói: “Nương nương, vào thành thôi”.

Tôi hít một hơi thật sâu, theo đoàn người vào trong thành.

Thành Bình Ninh trước đây là một thị trấn quân sự quan trọng của Bắc Mạc, Tề Thịnh sau khi chiếm được cũng thấy đây là một địa điểm tốt, liền quyết định biến Bình Ninh thành trạm trung chuyển lương thực.

Tề Thịnh vừa vào thành đã triệu tập tướng lĩnh mở hội nghị tác chiến, tôi thì được đưa thẳng đến phủ tướng quân. Sau gần nửa tháng sống giữa rừng núi hoang vu, cuối cùng tôi đã có thể trở về với cuộc sống có phòng, có giường, có nồi bát muôi thìa, có nhà xí, có chậu tắm… Khi ngâm mình trong thùng, nước nóng bốc hơi nghi ngút, tôi cảm thấy cuộc sống thế này cũng coi như mãn nguyện rồi.

Mặc dù phạm vi sinh hoạt bị hạn chế, nhưng cũng có có thể tự do hoạt động trong viện, thậm chí còn được phép đứng ở cửa ngắm nhìn bên ngoài.

Nhưng cuộc sống thoải mái chưa được mấy ngày thì tôi phát hiện ra tình hình trong thành dường như đang căng thẳng. Không phải vì tôi quá nhạy cảm mà vì binh sĩ tuần sát bên ngoài viện đột nhiên tăng lên, hơn nữa tất cả đều mặc áo giáp. Loại áo giáp này nhẹ nhất cũng đến mấy cân, không phải tình thế bắt buộc thì chẳng ai tự nguyện mặc nó lên người đi qua đi lại cả.

Tôi bảo Tả Ý nghe ngóng xem rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Cô ra ngoài đi một vòng rồi quay về báo cáo với tôi, không biết từ đâu xuất hiện một nhánh quân Bắc Mạc, đang bao vây thành Bình Ninh rồi.

Tả Ý căng thẳng hỏi: “Có phải sắp đánh nhau không?”.

Nhìn xem vấn đề cô ta hỏi mới mẻ chưa kìa! Tề Thịnh dẫn hơn mười vạn quân đến địa bàn của người ta, không phải muốn giao chiến thì chẳng lẽ đến đây để tán dóc à?

“Đánh nhau! Đương nhiên là đánh nhau rồi! Hơn nữa là đánh nhau to ấy chứ”, tôi đáp lại.

Chuyện này không cần phải nói cũng biết, Bình Ninh là hành dinh của quân Nam Hạ trên đất Bắc Mạc, lại có Hoàng đế ở đây, binh mã nhất định không ít, vậy mà Bắc Mạc lại dám bao vây thành này, chắc chắn họ đã chuẩn bị rất kỹ càng rồi.

Có thể thấy, một cuộc giao chiến ác liệt là điều không thể tránh khỏi.

Như để chứng minh lời nói của tôi, chiều hôm đó ngoài thành vang lên tiếng la hét, to đến mức ngồi trong phòng cũng nghe thấy rất rõ. Tả Ý đang múc cháo cho tôi sợ tới phát run, làm rơi cả bát cháo vào trong nồi.

Tôi bất lực nhìn cô, than: “Tả Ý, ta vẫn luôn cho rằng ngươi rất dũng cảm. Thử nói xem, đến làm gián điệp hai mang ngươi cũng không ngán, dù thế nào thì cũng cần trí dũng song toàn chứ!”.

Tả Ý lúng túng nhìn tôi, sắc mặt biến từ đỏ sang trắng rồi lại từ trắng sang đỏ, một lúc lâu sau mới lắp bắp giải thích: “Nương nương, nô tì cũng chỉ là thân bất do kỉ mà thôi, với lại… với lại, nô tì một lòng trung thành tuyệt đối với nương nương”.

Làm hoàng hậu đã lâu, những lời thế này tôi đã nghe quen đến mức hoàn toàn chẳng có cảm giác gì với nó nữa rồi. Thực ra trung thành không quan trọng, quan trọng là làm được việc hay không! Ví dụ như Tả Ý, tôi biết rõ cô chỉ thực sự trung thành với Tề Thịnh, nhưng hiện tại tôi đâu còn ai thân tín bên người, vì vậy đành phải dùng cô thôi.

Tôi nhìn vào bát cháo trong tay cô, nói với vẻ thương lượng: “Trước tiên chúng ta cứ ăn no đã rồi hãy nói đến chuyện trung thành hay không, nhé?”.

Tả Ý mím môi, bắt đầu tập trung hầu hạ tôi.

Mấy hôm sau, bên ngoài tiếp tục giao chiến. Tôi vẫn bị nhốt trong cái viện nhỏ, cả ngày ăn ngon ngủ yên, còn sắc mặt Tả Ý thì mỗi ngày một căng thẳng. Đến ngày thứ sáu, tôi ăn cơm trưa xong, lau miệng định lên giường chợp mắt một lát thì Tả Ý đi theo sau lo lắng hỏi: “Bên ngoài giao chiến quyết liệt như vậy, nương nương không sợ hãi chút sao?”.

Tôi quay người lại nhìn cô ta, ngạc nhiên hỏi: “Cũng có ai bảo ngươi trèo lên tường thành đâu, ngươi sợ cái gì chứ? Hơn nữa, chúng ta đang thủ thành, trong thành lương thực binh mã đều đủ, có ở đây hơn một năm cũng không thành vấn đề”.

Tả Ý bật khóc: “Nương nương, trong thành vốn không có nhiều binh mã như vậy đâu. Nghe nói hôm qua bức tường thành nhỏ ở ngoài cổng thành phía bắc đã bị công phá một lần rồi, là Hạ tướng quân mang người đến đánh đuổi bọn Tác-ta thì mới giữ được cổng thành đấy.”

Tôi nghe xong thì sững sờ, chiều hôm qua ở phía bắc quả có tiếng ồn khá lớn, lúc đó tôi cứ cho rằng bữa trưa của quân Bắc Mạc ngon lành, ăn no thừa hơi…

Tả Ý thấy tôi không phản ứng gì lại cho rằng tôi không tin, vội vàng nói thêm: “Là thật đó, nô tì nghe nói quân Tác-ta tấn công rất mãnh liệt, binh lính thủ thành thương vong vô số, ngay cả quân nhu cũng phải lên tường thành rồi”.

Tại sao trấn thủ có một cái thành mà lại chật vật đến thế? Chẳng lẽ đại quân viễn chinh không ở đây? Vậy tại sao Tề Thịnh còn muốn vào thành Bình Ninh làm gì?

Tôi còn đang suy nghĩ thì trong sân vang lên tiếng bước chân dồn dập, thoáng cái đã đến hành lang, có người kính cẩn hỏi: “Xin hỏi Hoàng hậu nương nương có trong phòng không?”.

Câu hỏi này thật chẳng có tí trình độ nào cả! Tề Thịnh còn không cho phép tôi ra khỏi cửa viện này, tôi không ở trong phòng thì ở trên nóc phòng chắc?

Tôi nhìn Tả Ý, ra hiệu cho cô ra mở cửa.

Bên ngoài là mấy tướng sĩ võ trang hạng nặng, người đi đầu mặc áo giáp chỉnh tề nhưng phía trên áo có dấu vết của đao kiếm, một vài chỗ còn dính cả máu. Anh ta cúi đầu xuống, chắp tay hành lễ với tôi, nói: “Bỉ chức phụng mệnh Hoàng thượng đến bảo vệ nương nương, để an toàn, xin nương nương thay trang phục ạ”.

Nói xong, thân vệ đằng sau tiến lên trước, giao cho Tả Ý một bộ quân phục và nhuyễn giáp.

Tôi nghe giọng người kia quen quen liền quan sát kỹ anh ta, thăm dò: “Ngươi họ gì?”.

Lúc này anh ta mới lúng túng ngước nhìn tôi, đáp: “Bỉ chức Lý Hoằng, nương nương trước đây đã gặp rồi ạ”.

Anh ta vừa ngẩng mặt lên tôi liền nhận ra ngay. Đúng là trước đây đã gặp, chẳng phải chính là Lý thị vệ năm đó đã bức tôi nhảy xuống sông Uyển Giang đó sao?

Tôi cười mấy tiếng, nói: “Đâu chỉ đã gặp qua, chúng ta còn quen biết nhau nữa ấy chứ! Thế nào? Lần này ngươi lại định đưa ta đi đâu?”.

Lý Hoằng có vẻ xấu hổ, nghĩ một lát rồi khom người, quỳ một chân trước mặt tôi: “Nương nương, lần đó bỉ chức cũng chỉ là phụng lệnh hành sự mà thôi, mong nương nương lượng thứ. Trước mắt tình hình chiến sự ác liệt, Hoàng thượng lệnh cho bỉ chức bảo vệ nương nương, vạn nhất thành thất thủ phải đưa nương nương an toàn ra khỏi thành. Xin nương nương nhanh chóng thay đồ”.

Tôi lạnh nhạt hỏi: “Tề Thịnh ở đâu?”.

Lý Hoằng chần chừ một lát rồi đáp: “Hoàng thượng ở cửa thành phía bắc”.

Tôi nghe xong liền nhấc chân bước ra ngoài, Lý Hoằng vội vàng dang tay ra cản, nói: “Nương nương không thể đi được”.

“Không thể đi được?”, tôi cười nhạt một tiếng, dùng chân đạp vào người Lý Hoằng một cái, nhân lúc mọi người đang sững sờ liền rút lấy thanh kiếm đeo bên hông của một thân vệ, quát: “Ai dám cản ta?”.

Nói xong liền cầm kiếm xông ra ngoài. Ở ngoài sân vốn có khá nhiều thân vệ, nhưng không ai ngờ tôi sẽ liều lĩnh như vậy, nhất thời đều ngây ra.

Lý Hoằng ở đằng sau vội hét lên: “Ngăn người lại!”.

Một thân vệ đưa tay ra cản nhưng lại không dám chạm vào tôi, chỉ dang tay ra chặn ngang phía trước. Thấy tình hình như vậy, trong lòng tôi đã xác định, càng không chút kiêng nể xông lên phía trước cứ có tên thân vệ nào dám đưa tay ra chặn, tôi lập tức đưa thanh kiếm lên cổ mình, uy hiếp: “Ngươi dám chạm vào ta xem!”.

Tên thân vệ kia sợ quá vội thu ngay tay lại, lùi về sau mấy bước.

Một đường ra đến cửa viện không gặp trở ngại gì, tôi đang tăng tốc chạy ra ngoài thì nghe tiếng Tả Ý thét lên ở phía sau: “Nương nương, nương nương!”.

Tôi điên tiết, quay người lại hỏi: “Sao? Ngươi cũng muốn cản ta?”.

Tả Ý liều chết ôm lấy thắt lưng của Lý Hoằng, trông hệt như quả cân đằng sau anh ta, mặt mũi đỏ bừng nhưng vẫn cố gắng thò đầu ra, hét to: “Sai rồi, sai rồi, nương nương đi ngược hướng rồi”.

Mặt mũi tôi đỏ bừng lên, vội quay người chạy theo hướng ngược lại.

Thủ vệ trong phủ rất ít, người rảnh rỗi trong thành lại càng ít, hơn nữa tôi lại mặc nam trang vì vậy rất thuận lợi chạy đến cổng thành phía bắc.

Chiến sự ác liệt hơn tôi tưởng nhiều, thương binh không ngừng được chuyển từ trên tường thành xuống, rồi sau đó lại liên tiếp bổ sung thêm người mới lên. Do vừa rồi chạy nhanh quá, mới chỉ leo lên được nửa đường lên tường thành thì tôi đã không còn sức mà bước tiếp, đành đứng lại đưa tay ôm bụng thở dốc. Trong lúc hỗn loạn, có một tướng lĩnh bị thương, khắp người toàn máu được ba tên lính khiêng xuống, lúc đi qua chỗ tôi thì khựng lại, ngạc nhiên kêu lên: “Hoàng hậu nương nương?”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

100#
Đăng lúc 18-6-2013 21:33:50 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 17.5: CONTINUE


Tôi nhìn kỹ khuôn mặt loang lổ đầy máu kia, lúc này mới nhận ra anh ta: “Hạ Bỉnh Tắc?”.

Hạ Bỉnh Tắc đẩy tên lính đang đỡ mình ra, chạy hai bước về phía tôi, gấp gáp hỏi: “Tại sao người lại đến đây? Lý Hoằng đâu? Anh ta chết ở đâu rồi?”.

Tôi tiến lên trước nắm lấy cổ áo anh ta, hỏi: “Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì? Đại quân trong thành đâu?”.

Hạ Bỉnh Tắc tuy há miệng nhưng không nói lời nào.

“Nói đi! Tại sao lại thành ra thế này? Tề Thịnh lại chơi trò gì nữa hả?”, tôi tức giận hỏi.

Hạ Bỉnh Tắc đáp: “Hoàng thượng bí mật chia quân ra, chỉ để lại thành ba vạn ngự lâm quân, còn lại đều được Triệu vương đưa đi chi viện cho tướng quân Dương Dự cả rồi. Không biết tại sao bọn Tác-ta lại biết được chuyện này, vứt bỏ kinh đô của mình mà sống chết đánh nơi này”.

Tôi nghe đến ngây người. Mẹ kiếp! Có đánh chết tôi cũng không ngờ Tề Thịnh lại dám lấy tính mạng bản thân mình ra đặt cược như thế, điều động phần lớn binh lực đi đánh hang ổ của đối phương, chỉ giữ lại có ba vạn binh mã bảo vệ mình.

Hỏi sao Bắc Mạc lại không sống chết đánh nơi đây cơ chứ? Ngươi tấn công kinh đô của ta, ta cũng phải tiêu diệt tên hoàng đế thân chinh xuất binh của các ngươi, một hoàng đế đổi một hoàng đế, không hề lỗ! Ta mà là người Bắc Mạc thì ta cũng phải sống chết đánh thành Bình Ninh.

Tôi còn chưa lấy lại sức thì Lý Hoằng đã đuổi đến nơi.

Hạ Bỉnh Tắc quay người, thét lên với Lý Hoằng: “Không phải là Hoàng thượng bảo ngươi đem người ra cửa phía nam sao? Sao ngươi lại để người đến đây?”.

Lý Hoằng không đáp, cũng không giải thích gì, chỉ tiến lên vài bước nắm lấy cánh tay tôi, nói: “Nương nương thứ tội, bỉ chức thất lễ rồi”.

Nói xong thì tay còn lại để ra sau đầu gối tôi, chẳng kỵ huý gì, bế bổng tôi lên rồi quay người nhanh chóng rời đi.

Tôi lấy lại tinh thần, kêu to: “Buông ta ra!”.

Lý Hoằng làm như không nghe thấy.

Thấy anh ta như thế, tôi quyết định dùng cách khác, đổi giọng ôn tồn, cố gắng giảng giải cho anh ta: “Quân Bắc Mạc không bao vây cổng nam nên Tề Thịnh mới bảo ngươi đưa ta ra đó phải không? Nhưng thế có nghĩa gì? Ngươi dù sao cũng là một người lính, chắc hẳn phải nghe đến nguyên tắc ‘bao vây vẫn phải để cho địch một đường lui’ rồi chứ? Bọn họ để lại cửa nam chính là muốn chúng ta chạy trốn! Ra khỏi đây thì còn bao xa nữa mới đến được cửa khẩu Tĩnh Dương? Cũng phải đến gần hai nghìn dặm, đúng không? Ngươi nghĩ bọn chúng sẽ để chúng ta chạy trốn một cách thuận lợi sao?”.

Lý Hoằng hơi khựng lại nhưng vẫn nói: “Có bỉ chức ở đây, nhất định có thể đưa nương nương về Tĩnh Dương an toàn”.

Đối với loại người mềm cứng không được, mỡ muối không vào này, tôi cũng đành bất lực.

Lý Hoằng bế tôi rảo bước xuống khỏi tường thành rồi rẽ trục đường chính ra cửa thành. Một đội binh sĩ từ phía đối diện chạy lại chen qua chúng tôi, hình như là được điều động từ nơi khác đến hỗ trợ. Ánh mắt của tôi dõi theo họ, vô tình nhìn thấy hình bóng đó trên cổng thành.

Dáng người cao thẳng, oai hùng, dây tua rua trên mũ sắt đỏ thắm hiên ngang đón gió, tà áo khoác màu đen bị gió thổi tung, lộ rõ thân hình mặc áo giáp vàng toả sáng lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời, trông chẳng khác gì thần tướng thiên đình giữa cảnh hỗn loạn.

Ánh mắt của anh ta xuyên qua đám đông hỗn loạn dừng lại trên người tôi, điềm tĩnh nhưng rất xa xăm.

Tôi sững người, nhìn anh ta không rời mắt.

Khoé miệng anh ta khẽ nhếch lên, nét cười lãnh đạm thoáng qua, dùng khẩu hình nói với tôi: “Hãy tiếp tục sống”.

Sau đó liền không chút do dự quay người đi.

Tôi hít một hơi thật sâu, kề thanh kiếm vẫn cầm trong tay lên cổ Lý Hoằng, nói dứt khoát ngắn gọn: “Quay lại”.

Có lẽ Lý Hoằng đinh ninh tôi không dám ra tay nên cũng chẳng quan tâm gì tới tôi, tiếp tục bước nhanh.

Tôi dùng sức cứa vào cổ anh ta khiến máu chảy ra: “Đây là động mạch chính, chỉ cần cắt đứt thì thần tiên cũng không cứu nổi ngươi. Quay lại! Đừng ép ta giết người”.

Lý Hoằng cũng là người biết thời biết thế, nghe tôi nói vậy thì hơi cứng người lại rồi lập tức quay người chạy lên tường thành.

Trên tường thành, Tề Thịnh tay đặt lên đốc kiếm, bình tĩnh chỉ huy cuộc chiến thủ thành, đến khi quay đầu lại thấy tôi ở bên cạnh thì không thể bình tĩnh được nữa, mặt tối sầm, hỏi: “Sao nàng còn quay lại? Lý Hoằng đâu?”.

Lý Hoằng vội cúi đầu tiến lên trước, đáp: “Có bỉ chức”.

Tề Thịnh sững người, động tác tiếp theo là giơ chân đạp Lý Hoằng.

Tôi lấy tay che mắt, bụng thầm nghĩ, đến lúc này còn cố lên tiếng trả lời, tên ngốc này rõ ràng là muốn ăn đạp mà.

Tề Thịnh đạp Lý Hoằng xong, quay người lại, lạnh lùng hỏi tôi: “Nàng có đi không?”.

Tôi kiên quyết lắc đầu: “Không đi, chàng là người gian trá, xảo quyệt nhất, chỉ có ở lại bên chàng mới an toàn”.

Tề Thịnh tức đến không nói nên lời, nghiến răng nghiến lợi trừng mắt với tôi một hồi lâu, lúc này mới quay đầu lại hỏi Lý Hoằng vẫn đang quỳ gối dưới đất: “Áo giáp đâu? Áo giáp của Hoàng hậu đâu?”.

Lý Hoằng nhất thời ngây ra, lúc ở trong viện anh ta đã đưa áo giáp cho Tả Ý, sau đó tôi rút kiếm xông ra, anh ta chỉ lo đuổi theo tôi, còn tâm trí đâu mà quan tâm tới áo giáp nữa.

Tên thị vệ bên cạnh anh ta lại khá lanh lợi, thấy tình hình như thế liền cởi nhuyễn giáp của mình ra, hai tay dâng lên Tề Thịnh.

Tề Thịnh lạnh lùng “hừ” một tiếng, cầm lấy rồi trực tiếp choàng lên người tôi.

Ở thời khắc sống còn, tôi cũng chẳng khách khí làm gì, vừa buộc dây áo giáp vừa quay đầu lại nói với tên thị vệ kia: “Cám ơn nhiều, tiểu huynh đệ!”.

Khuôn mặt của thị vệ kia thoắt đỏ bừng, bối rối không nói nên lời.

Tôi liếc anh ta, không chút khách sáo, nói: “Này? Cho mượn luôn chiếc mũ sắt đi”.

Tên thị vệ sững ra rồi vội bỏ mũ sắt xuống, mới đưa được nửa chừng thì Tề Thịnh đã cầm lấy rồi đội lên đầu tôi, lạnh lùng dặn: “Nàng ở đằng sau, nếu xảy ra chuyện gì thì phải nghe theo sự sắp xếp của Lý Hoằng”.

Tôi gật đầu, đưa mắt lên nhìn anh ta, trịnh trọng nói: “Tề Thịnh, hai chúng ta phải sống, dù thành có bị công phá thì cũng vẫn phải cố gắng sống tiếp. Uy nhi và Hạo nhi vẫn đang ở Thịnh Đô chờ chúng ta, vì hai con, chàng và thiếp đều phải sống”.

Tề Thịnh đang cài mũ cho tôi, nghe những lời này động tác hơi khựng lại, lát sau mới gật đầu trả lời: “Được”.

Chiếc mũ sắt hơi to khiến tôi cảm thấy rất không thoải mái.

Để khích lệ tinh thần binh sĩ, cờ rồng của Tề Thịnh được dựng lên rất cao, không những người trên thành nhìn thấy rõ mà phe Bắc Mạc  ở dưới thành cũng thấy vô cùng rõ ràng, vì thế nên lại càng quyết tâm tấn công mạnh mẽ hơn.

Những tiếng la hét ở ngoài thành như sắp rung chuyển trời đất khiến tôi không khỏi kinh hãi, nhịn không được thầm trách Tề Thịnh: “Tề Thịnh ơi là Tề Thịnh, chàng bảo ta phải nói chàng thế nào bây giờ, chàng tính toán cho lắm vào để giờ thì đến tính mạng bản thân cũng sắp mất luôn rồi! Có tên trộm nào to gan như chàng không? Bên mình chỉ có ba vạn người mà dám vờ như hai mươi vạn người, chàng tưởng người khác đều ngu ngốc hết đấy à? Lại còn đưa thiếp vào thành Bình Ninh này nữa chứ, giờ thì hay rồi, có đủ cả hoàng đế, hoàng hậu, nếu thất thủ thì chẳng phải bọn chúng vớ bẫm sao…”.

Tề Thịnh đột nhiên cúi đầu xuống, dùng môi chặn những lời tiếp theo của tôi.

Môi Tề Thịnh hơi khô nhưng hơi thở thì cũng xem như thơm tho, lưỡi vẫn linh hoạt, cảm giác rất tuyệt, có điều, chỗ những sợi râu lởm chởm trên cằm chạm vào có hơi rát…

Dừng! Ý nghĩ hình như chạy loạn rồi thì phải?

Tôi bỗng sực tỉnh, vội đẩy người Tề Thịnh ra, đưa mắt liếc xung quanh, thấy Lý Hoằng và mấy tên thị vệ mặt mũi đều đỏ bừng, không khỏi có chút xấu hổ, khẽ mắng Tề Thịnh: “Chàng bị làm sao thế?”.

Tề Thịnh lại khẽ cười, một tiếng cũng chẳng giải thích gì với tôi, chỉ quay đầu dặn Lý Hoằng: “Bảo vệ nương nương cẩn thận”.

Nói xong thì chẳng quan tâm gì tới tôi nữa.

Vì Tề Thịnh ở cửa thành phía bắc nên quân Bắc Mạc cũng tập trung binh lực tấn công quyết liệt ở bên này. Chiến sự kéo dài từ buổi chiều cho đến lúc mặt trời lặn, ngày mùa đông vốn ngắn, chỉ loáng một cái trời đã tối đen, quân Bắc Mạc cuối cùng cũng phải ra hiệu thu binh về.

Tôi vẫn núp sau khiên bảo vệ quan sát chiến sự, thấy quân Bắc Mạc rút lui như thuỷ triều mới thở phào một cái, bước ra ngoài. Trên tường thành là một đống lộn xộn, có điều quân thủ thành tuy thương vong nghiêm trọng, nhưng vì Hoàng đế luôn sát cánh cùng họ nên tinh thần binh sĩ vẫn rất cao.

Hạ Bỉnh Tắc chỉ băng bó qua quýt một vài dải băng, không biết là đã trở lại từ khi nào, lúc này đang chỉ huy quân lính nhân lúc chiến sự tạm dừng tập trung lực lượng tu bổ tường thành, bố trí cảnh giới, cứu chữa cho những người bị thương.

Tề Thịnh đến chỗ anh ta nói vài câu rồi quay sang chỗ tôi, cũng không nói gì, chỉ lôi tôi men theo con đường chính xuống khỏi cổng thành.

Thấy hành động của Tề Thịnh, tôi thấy có lẽ anh ta đang hiểu lầm chuyện gì, lưỡng lự một lát, cuối cùng vẫn không nén được bèn kéo tay anh ta, nhỏ nhẹ giải thích: “Tề Thịnh, thiếp nghĩ có một số chuyện chàng có thể đã hiểu lầm rồi”.

Tề Thịnh chân vẫn bước đi, miệng chỉ “ừ” một tiếng.

Tôi vốn định giải thích cho anh ta về hành động ngày hôm nay của mình, nhưng vừa mở miệng ra nói: “Thiếp…” thì Tề Thịnh đã lạnh lùng cắt ngang: “Ta mệt rồi, rất mệt”, sau đó quay đầu nhìn tôi, ánh mắt dịu dàng nhưng mệt mỏi, “Cũng rất đói rồi, chuyện giữa chúng ta đợi sau này hãy nói, được không?”.

Tôi nhìn Tề Thịnh, gật đầu, không nói tiếp nữa.

Đêm hôm đó Tề Thịnh không rời khỏi tường thành. Tôi đi theo anh ta tuần sát tất cả các cửa thành một lần, sau đó quấn trong chiếc áo choàng của anh ta, trốn vào lầu canh gác ngay trên cổng thành phía bắc. Đang định chợp mắt thì Tả Ý tìm đến, còn mang cho tôi một bộ chăn gối.

Tôi cảm động suýt khóc, trong giây lát mọi nỗi oán thù đều tan biến, còn liên tiếp khen ngợi Tả Ý là một cô gái tốt, sau đó nhanh nhẹn cởi áo giáp chui vào trong chăn, đầu vừa đặt lên gối đã ngủ luôn.

Ngủ đến nửa đêm thì bên cạnh có thêm một người.

Tôi mơ mơ màng màng, theo bản năng dịch người sang một bên nhường chỗ cho người ấy, khẽ hỏi: “Không có vấn đề gì chứ?”.

Tiếp đó liền nghe thấy tiếng “ừ” rất khẽ của Tề Thịnh, sau đó anh ta đưa tay kéo tôi vào ngực mình, ôm thật chặt, thì thầm: “Ngủ đi, ngày mai còn một trận đánh ác liệt hơn”.

Tôi thực sự rất mệt mỏi nên lập tức nghe lời, ngoan ngoãn chìm vào giấc ngủ.

Chiến sự ngày hôm sau quả nhiên càng ác liệt hơn, chỉ trong một buổi sáng mà quân Bắc Mạc đã phát động ba đợt tấn công. Đến khi Tề Thịnh thân chinh cầm cung đứng ở lỗ châu mai thì mới đẩy lùi được sự tấn công của quân Bắc Mạc.

Qua buổi trưa, sau đợt tấn công cuối cùng của quân Bắc Mạc dưới tường thành bỗng nhiên yên tĩnh đến lạ kỳ. Quân Bắc Mạc rút lui có trật tự, sau đó một chiếc xe lớn được đẩy chầm chậm từ sau trận địa của quân Bắc Mạc lên phía trước.

Thấy dưới thành đột nhiên yên tĩnh, tôi lấy làm lạ liền từ đằng sau Tề Thịnh đi ra, vừa nhìn xuống thì thấy trên chiếc xe kia dựng một cái khung bằng gỗ hình chữ thập, một người bị trói chặt vào đó. Người bị trói tóc tai rũ rượi, thân hình nhỏ nhắn yếu ớt, hình như là một cô gái.

Tôi không dám tin vào mắt mình, ra sức dụi mắt, chỉ vào người con gái mặc đồ trắng trên khung gỗ kia, lắp bắp hỏi Tề Thịnh: “Kia là là… là Giang thị?”.

Vẻ mặt Tề Thịnh vẫn điềm tĩnh, không lộ ra chút cảm xúc nào, chỉ gật đầu: “Hình như thế”.

Giang thị sao cũng ra chiến trướng? Cô ta sao lại ở trong tay quân Bắc Mạc? Sao còn rơi vào tình cảnh này cơ chứ? Miệng tôi cứ mở rồi lại khép mấy lần, cuối cùng chỉ có thể buột ra được một câu: “Cô ta… sao lại vẫn mặc đồ trắng thế?”.

Mặt nạ điềm tĩnh của Tề Thịnh cuối cùng cũng có vết nứt, hơi giật giật, đáp: “Ta cũng không biết”.

Từ trận địa của quân Bắc Mạc xuất hiện một toán kỵ binh, tạo thành một vòng tròn xung quanh cỗ xe của Giang thị, sau đó một viên tướng lĩnh trong đó dùng roi ngựa trong tay chỉ vào Giang thị, hướng về chỗ Tề Thịnh cao giọng hỏi: “Tên hoàng đế Nam man[1] kia, chắc ngươi biết người con gái này chứ?”.

[1] Nam man: Là cách các dân tộc phương bắc Trung Quốc cổ gọi dân tộc thiểu số phía nam với ý khinh miệt.

Trên tường thành không có tiếng trả lời.

Tên tướng lĩnh kia cười ha hả rồi lại nói: “Hoàng hậu của ngươi xa xôi nghìn dặm đến tìm, nếu ngươi không dám thừa nhận, ta sẽ thưởng cô ta cho thuộc hạ!”.

Vừa nghe thấy những lời này, không chỉ quân lính thủ thành mà đến tôi cũng không khỏi sửng sốt.

Tề Thịnh cười lạnh nhạt một tiếng rồi cao giọng trả lời: “Không biết các ngươi tìm được cô gái kia từ đâu mà dám nói là hoàng hậu của ta, thật là buồn cười”.

Tên tướng lĩnh kia sững ra một lúc rồi quay ngựa về bên cạnh cỗ xe, vươn người nâng cằm Giang thị lên cho Tề Thịnh nhìn, cười nói: “Chính cô ta nói cô ta là hoàng hậu của ngươi, đối với những sự việc trong cung của ngươi đều nắm rất rõ. Ngươi hãy nhìn kỹ xem, đừng sợ mất thể diện mà không thừa nhận tình nghĩa vợ chồng kết tóc xe tơ. Nếu cô ta thực sự là hoàng hậu của ngươi thì ta sẽ tặng lại nguyên vẹn cho ngươi, nếu cô ta bịa chuyện thì ta sẽ đem cô ta sung làm kỹ nữ trong quân”.

Mặc dù không biết có phải Giang thị tự giả mạo hoàng hậu không nhưng phe Bắc Mạc thì chẳng có ý gì tốt rồi. Bất kể là Tề Thịnh trả lời thế nào thì đây cũng là chuyện vô cùng nhục nhã.

Tề Thịnh mím môi không nói gì, tay lại đưa về phía Lý Hoằng. Lý Hoằng chần chừ một lát rồi dâng cho anh ta một cái cung.

Giang thị ở dưới thành vẫn im lặng, đến giờ phút này vẫn không mở miệng nói một câu, chỉ im lặng ngẩng đầu nhìn Tề Thịnh.

Tề Thịnh giương cung, ngắm thẳng về phía dưới tường thành trước mặt, rõ ràng muốn bắn chết Giang thị.

Tôi vô cùng lo lắng, vội đưa nắm lấy tay Tề Thịnh, khẽ lắc đầu: “Làm vậy không ổn, chúng sẽ cho là chúng ta chột dạ. Hơn nữa bắn chết một cô gái yếu ớt cũng sẽ làm tổn hại đến tinh thần của binh sĩ”.

Tề Thịnh quay đầu lại nhìn tôi vẻ dò hỏi.

Tôi hít một hơi thật sâu, sau đó dùng sức trèo lên lỗ châu mai, rướn người lên thật cao, lớn tiếng mắng chửi: “Đồ vô liêm sỉ không biết xấu hổ, nói xằng nói xiên! Hoàng hậu ta rõ ràng đang ở đây, thế mà ngươi còn dám tìm người mạo danh ư, đúng là đồ đê tiện!”.

Nói xong, tôi liền cởi mũ sắt, nhanh chóng tháo dây buộc để mái tóc đen rũ xuống. Giọng nói này, đầu tóc này, dáng người này, ai mà không nhận ra tôi là nữ thì đúng là có mắt như mù.

Sự chú ý của mọi người đều tập trung vào tôi, toàn bộ chiến trường im phăng phắc.

Tôi tự hỏi họ không tin tôi là nữ, hay không tin tôi là Hoàng hậu Trương Bồng Bồng? Nếu không tin tôi là nữ thì tôi sẽ cởi bỏ áo giáp đứng lên lỗ châu mai, nhân tiện bảo họ mở to mắt mà thưởng thức dáng vẻ yêu kiều của Trương thị. Tuy hiện tại tôi mặc đồ khá dày nhưng chỗ nào cần nhô vẫn nhô, chỗ nào cần thon vẫn thon.

Nghĩ vậy, tay tôi liền sờ móc áo giáp, không ngờ vừa mới động đậy thì Tề Thịnh, như hiểu rõ suy nghĩ của tôi, đã lấy tay che lại rồi thuận đà kéo tôi vào lòng mình, hạ giọng quát: “Đừng làm liều!”.

Tướng lĩnh Bắc Mạc ở dưới thành cũng bất ngờ, còn thúc ngựa tiến lên phía trước vài bước rồi ngẩng mặt lên nhìn tôi, sau đó lại nhìn Tề Thịnh hỏi: “Tên hoàng đế Nam man kia, không phải là ngươi sợ mất mặt nên tìm một thị nữ giả làm hoàng hậu đấy chứ?”.

Tề Thịnh lấy tay ôm eo tôi, không trả lời.

Nhưng tôi thì không ngại cãi nhau với người khác, lập tức lớn tiếng “hừ” một cái, nói: “Hãy mở to mắt chó của các ngươi ra mà nhìn cho rõ xem bản cung rốt cuộc có phải là hoàng hậu của Đại Hạ không. Trong triều ai chẳng biết Hoàng đế chỉ sủng ái một mình bản cung đây, hai đứa con duy nhất đều do bản cung sinh thành. Ngươi hãy quay đầu lại mà nhìn kỹ cái người trong tay các ngươi, bộ dáng yếu ớt kia liệu có thể sinh được hai đứa con trong ba năm không? Cũng chỉ có loại đầu óc nhét đầy cỏ dại như bọn Tác-ta các ngươi mới tin cô ta là Hoàng hậu! Lại còn trói một cô gái yếu ớt như thế đặt ở giữa chiến tuyến hai bên, ái chà chà, da mặt của các ngươi quả không mỏng chút nào! Lúc trước ta cứ thắc mắc mãi vì sao tường thành Bình Ninh của các ngươi lại dày như vậy, hoá ra nó được xây dựng nên từ da mặt của các ngươi!”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách