Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: sweetdream_20_6
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Xuyên Không - Xuất Bản] Đức Phật Và Nàng | Chương Xuân Di (Tập 1&Tập 2) (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
31#
 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 12:59:00 | Chỉ xem của tác giả
Chương 28 - Trở lại Subash



Một đêm trắng trằn trọc với những suy nghĩ rối bời, đầu óc quay cuồng. Trái tim không thôi thổn thức khi nghĩ đến Ra­ji­va đang ở rất gần, nhưng lại quặn thắt khi nghĩ đến vẻ mặt lạnh lùng của cậu ấy. Tờ mờ sáng, tôi uể oải ra khỏi giường, không biết đã đi đi lại lại trong phòng bao nhiêu lần. Sau cùng, vẫn không kìm chế được, mặc cho đôi tay đẩy tung cánh cửa và đôi chân lao vun vút đến phòng cậu ấy.

Đã gần bốn giờ ba mươi phút, chắc Ra­ji­va thức giấc rồi, vì năm giờ là giờ tụng kinh buổi sáng. Cậu ấy sẽ tụng kinh ở đâu? Chắc là sẽ đến chùa Tsi­oli, vì chùa Cakra ở cách đây rất xa. Không biết Ra­ji­va sẽ nghĩ gì khi nhìn thấy một cô nàng si tình, mới sớm tinh mơ đã chạy đến trước cửa phòng cậu ấy. Quả thật là tôi chưa bao giờ thức giấc vào giờ này.

Tôi tần ngần trước cửa phòng Ra­ji­va, tim đập loạn nhịp, bàn tay vô cớ run rẩy, trời đất ơi, sao tôi lại căng thẳng thế này?

Cửa phòng đột ngột mở toang, tôi giật mình lùi lại, đầu va vào cột nhà, đau điếng.

- Cô Ngải Tình dậy sớm quá!

Tôi quên cả đau, ngạc nhiên nhìn cô gái bước ra từ phòng Ra­ji­va. Đó là người lo công việc dọn dẹp trong phủ quốc sư, cô gái đang cầm trên tay một thùng rác. Vậy còn Ra­ji­va, cậu ấy đâu? Tôi sốt ruột, kiễng chân ngó vào trong phòng.

- Cậu cả đi từ sớm rồi, cậu bảo phải quay về chùa Cakra.

Đi sớm vậy ư? Không một lời từ biệt ư? Một nỗi thất vọng ngập tràn, trùm lên cả vết thương do va đập khi nãy.

- Khoan đã!

Thoáng thấy trong thùng rác có một bộ đồ, tôi sững sờ giây lát, vội vàng kêu cô gái dừng lại.

Đó là một chiếc áo ngắn, chít eo màu xanh nhạt, một sợi dây lưng cùng màu và còn…một chiếc mặt nạ sư tử và một bộ tóc giả màu nâu nhạt nữa. Khoảnh khắc ấy, tôi như hóa đá!

- Cậu cả bảo đem vứt đi. Tôi thấy tiếc quá, toàn đồ tốt cả!...

Lời than thở của cô gái chỉ càng khiến tôi thêm đau lòng…

Pusyse­da mở cửa và thấy tôi đang ngồi trên hành lang cạnh cửa phòng mình. Cậu ta ngạc nhiên, nhìn trời ngó đất, rồi nhìn tôi, sau đó nở nụ cười rạng rỡ.

- Ngải Tình, sao chị không vào phòng? Chị có thể vào phòng tôi bất cứ lúc nào mà…

- Pusyse­da, hôm nay tôi sẽ đến chùa Cakra.

Tôi vội ngắt lời Pusyse­da, vì không muốn nghe những lời đường mật tiếp theo nữa.

- Được! Tôi biết chị thích vẽ mấy thứ vô vị đó, tôi sẽ đưa chị đi. Nhưng mà…

Cậu ta gãi đầu gãi tai, có vẻ rất khó xử.

- Chị gắng chờ thêm mười ngày nữa được không? Bắt đầu từ hôm nay đến phiên tôi gác trong cung, mười ngày nữa mới được nghỉ.

- Không cần đâu, cậu cứ làm việc của mình đi. Tôi sẽ tự thuê xe ngựa đến đó.

- Ngải Tình, đừng cố chấp như thế, nghe lời tôi đi mà, chỉ mười ngày thôi…

- Pusyse­da! Cậu không cần đi cùng tôi. Tôi không phải cô gái yếu đuối, lúc nào cũng cần có người đi theo bảo vệ. Tôi có kế hoạch của riêng mình, vả lại tôi chỉ đi vài ngày rồi sẽ quay về.

Tôi đã hứa với cậu ta trong vòng mười ngày sẽ quay lại. Cậu ta nói, chờ hết phiên gác, sẽ đưa tôi đi thăm thú thêm núi Thiên Sơn nổi tiếng. Hồi đi khảo sát ở Kucha, tôi từng nghe, cách phố huyện Kucha chừng bảy mươi cây số, có hẻm núi lớn Kizilya thuộc dãy Thiên Sơn. Cảnh sắc tráng lệ, khắp nơi là nham thạch màu nâu đỏ, tạo tác vô cùng kì ảo, nghe nói có thể sánh ngang với vẻ đẹp của hẻm núi Col­orado ở Mỹ, nhưng quy mô nhỏ hơn mà thôi. Năm 1999, một lão nông người Uyghur đi hái cây thuốc trên vách núi cheo leo đã tình cờ phát hiện ra một hang động được xây dựng thời thịnh Đường, người ta đặt tên cho hang động này là Aay. Động đá này rất nhỏ, chỉ sâu năm mét, nhưng ba mặt tường đều lưu lại dấu vết của các bức bích họa, rất khác so với những bức bích họa trong các động đá khác ở Khâu Từ. Trên những bức bích họa này xuất hiện chữ Hán, điều này chứng minh sức ảnh hưởng sâu rộng của văn hóa Hán thời thịnh Đường đối với Khâu Từ. Và vì vậy, động đá này có giá trị nghiên cứu rất lớn. Nhưng khi ấy tôi không đủ thời gi­an đến đây tham quan. Còn bây giờ, tôi vượt thời gi­an trở về thời cổ đại để làm việc chứ không phải ngao du sơn thủy, các bức bích họa có sức hút với tôi lớn hơn nhiều phong cảnh núi sông, huống hồ lúc này động đá đó còn chưa được xây dựng, nên tôi chẳng mặn mà gì với lời rủ rê của Pusyse­da. Nhưng cậu ta cứ giữ chặt tay tôi không chịu buông, tôi đành ậm ừ nhận lời cho qua chuyện.

Cuối cùng cũng đã được lên đường. Pusyse­da bảo sẽ bố trí người trong phủ đánh xe ngựa đưa tôi đi, nhưng vì không muốn ai biết tôi đến sống trong gia tư của Ra­ji­va ở Sub­ash, nên tôi kiên quyết từ chối, nói rằng tôi sẽ tự mình thuê xe đi.

Không thuyết phục được tôi, Pusyse­da đành bỏ cuộc. Gã lãng tử này hôm nay rất nhiều lời, nằng nặc đòi giúp tôi tìm xe, rồi còn dặn dò đủ thứ trên đời. Cứ như đây là lần đầu tiên tôi đi xa không bằng! Vậy nên, khi bên tai không còn vang lên giọng nói lải nhải, dông dài của Pusyse­da nữa, tôi thúc phu xe chạy nhanh hết mức có thể. Tâm tư của tôi đã không lưu lại nơi này nữa, nó đã bay đến căn nhà nhỏ yên tĩnh cách đây bốn mươi dặm rồi!

Lễ hội Sumuzhe kết thúc, theo kế hoạch tôi phải lên đường đi Trường An. Nhưng tôi luôn thấy day dứt, nếu ra đi như vậy, tôi sẽ phải ân hận cả đời. Tôi muốn gặp cậu ấy, không cần phải nói gì cả, chỉ nhìn thôi cũng đủ.

Cảm giác được trở về căn nhà nhỏ ở Sub­ash vô cùng gần gũi, ấm áp, Mava­su đon đả chào đón tôi.

- Những ngày cô Ngải Tình không ở đây, cậu cả hàng đêm đều tới đọc sách đến khuya mới về chùa.

Lòng tôi bỗng nhiên thấy ấm lại, trò chuyện với Mava­su hồi lâu, rồi nhờ ông đến chùa thông báo với Ra­ji­va rằng tôi đã trở về. Sau đó thì công việc duy nhất của tôi là hồi hộp chờ đợi Mava­su mang theo tin nhắn từ chùa về. Thông tin rất ngắn gọn, Ra­ji­va chỉ ậm ừ một tiếng rồi lại tiếp tục công việc. Lẽ nào, đó là câu trả lời của cậu ấy? Vậy, tối nay, cậu ấy có về đây không?

Nỗi băn khoăn dày vò tâm can tôi đến tận khi cánh cổng mở rộng.

Tôi lao ra ngoài sân, nhìn thấy chiếc áo cà sa màu nâu sòng chưa bao giờ vương bụi trần ấy, nhìn thấy đôi mắt như hai vực nước sâu hun hút ấy và bóng dáng cao gầy, lẻ loi muôn đời ấy, nhịp đập trái tim tôi, phải chăng mọi người trên thế giới này đều có thể nghe thấy rõ?

Cậu ấy ngẩng lên nhìn tôi, vẻ mặt bình thản, khóe môi lướt qua một nét cười lạnh nhạt. Rồi đột nhiên, nét cười ấy biến mất, vẻ mặt Ra­ji­va trở nên hỗn loạn, bước chân gấp gáp hướng về phía tôi. Tôi chưa kịp phản ứng gì, thì một cánh tay đã đỡ lấy đầu tôi, tay kia nâng nhẹ cằm, hướng khuôn mặt tôi lên đối diện với cậu ấy. Vẻ ngạc nhiên của gương mặt tôi in trong đôi mắt màu xám nhạt đang sát kề.

- Ra­ji­va…

Tôi xỉu mất! Cậu ấy, cậu ấy muốn hôn tôi ư? Cảnh tượng lãng mạn trong mơ lẽ nào sắp diễn ra trong hiện thực? Tôi khẽ hé môi, mắt nhắm lại.

- Đừng nói gì cả!

Hơi thở của cậu ấy lướt trên má tôi, giọng nói ấm áp và êm như nhung khiến tôi run rẩy. Khuôn mặt tôi tiếp xúc với một thứ gì đó, ồ, sao không phải trên môi mà… mà lại là… trên mũi?

Tôi mở mắt, thấy Ra­ji­va đang chăm chú ngắm nghía trên gương mặt mình, ánh mắt lo lắng. Một mảnh khăn được phủ trên mũi tôi. Cậu ấy, cậu ấy không hề hôn tôi. Thế mà, tôi, tôi… tôi cứ ngỡ…

- Đừng cúi đầu!

Giọng cậu ấy gấp gáp, sau đó một cánh tay ôm lấy vai tôi, bàn chân tôi dường như không chạm đất, trôi theo Ra­ji­va vào trong phòng. Vòng tay cậu ấy khác hẳn vòng tay Pusyse­da, nhẹ nhàng, ấm áp, khiến tôi cứ muốn dựa vào như thế, dựa đến trăm năm.

- Hay là ngày mai đến gặp thầy thuốc nhé.

Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì với tôi? Kéo mảnh khăn phủ trên mũi xuống, tôi sững người! Một vệt máu sẫm đỏ loang rộng. Trời đất, tôi đã chảy máu cam khi vừa mới gặp lại cậu ấy ư? Trời ơi, chảy máu cam là trạng thái khi người ta bất mãn với điều gì đó kia mà! Nhưng, khi nãy tôi đâu có nghĩ ngợi hay lo lắng gì. Lẽ nào tôi vì quá ư thương nhớ cậu ấy?

Máu vẫn tiếp tục chảy, Ra­ji­va kê tay để đầu tôi ngửa lên, giọng nhẹ nhàng:

- Yên nào, một lát sẽ hết.

Chiếc khăn lại được phủ lên, Ra­ji­va đỡ tôi ngồi trên chiếc giường thấp.

Tôi ước gì mũi mình tiếp tục chảy máu, để cậu ấy cứ mãi ôm tôi vào lòng như thế. Nhưng, những giây phút đẹp đẽ luôn qua nhanh, lúc máu ngừng chảy, tôi chỉ muốn gõ mạnh vào mũi mình một cái.

Ra­ji­va quan sát thấy tôi không chảy máu nữa, thận trọng kéo chiếc khăn xuống, thu vào trong lòng. Má tôi nóng bừng:

- Cái khăn đó đầy vết máu, để tôi giặt sạch rồi trả lại cho cậu.

Cậu ấy không đáp, lẳng lặng đứng lên, đến bên chiếc tủ đứng, lấy ra một chiếc khăn mới, đưa cho tôi. Tôi ngẩn ngơ, không biết tôi đã để khăn mùi xoa ở đó từ khi nào nhỉ?

- Cô chẳng bao giờ chịu dùng khăn, toàn lau miệng bằng tay, không tốt chút nào.

Vẫn là giọng nói ấm áp ấy, nhưng ánh mắt không nhìn lên.

- Trong tủ này đều là khăn mới, đừng quên nhé…

Hạnh phúc sưởi ấm tôi! Ra­ji­va, cậu vẫn có tình cảm với tôi, đúng không?

Tôi cắn môi, không để nụ cười tiết lộ niềm vui của mình, chớp mắt nhìn cậu ấy:

- Ra­ji­va, tôi vẫn chưa vẽ xong chùa Cakra…

Cậu ấy thoáng ngạc nhiên, mỉm cười:

- Cô có thể đến bất cứ lúc nào.

Chúng tôi ngồi nhìn nhau, tôi không biết phải nói lời gì tiếp theo. Sau đó thì tôi bật cười. Không biết vì sao, nhưng tôi thấy niềm vui ngập tràn trong lòng, không cười lên, tôi cảm thấy có lỗi với bản thân. Thấy tôi hồn nhiên tươi cười, Ra­ji­va mím chặt môi, nhưng hình như không nén nổi, vành môi cứ mở rộng dần, uốn cong lên và nụ cười ngày một rạng rỡ.

Chúng tôi cười ngất, quên hết e dè, ngại ngùng. Nhưng tất nhiên, tiếng cười của tôi hoan hỉ, vang dội hơn cả.

Đột nhiên, Ra­ji­va ôm chầm lấy tôi. Nụ cười mắc kẹt trên gương mặt, tôi không biết phải biểu hiện cảm xúc của mình lúc này như thế nào.

Cậu ấy không nói năng, chỉ nhẹ nhàng ôm tôi trong vòng tay. Tôi tựa vào khuôn ngực xương xương của cậu ấy, mê mải lắng nghe tiếng trái tim cậu ấy gõ nhịp bên tai. Một lúc sau, hơi thở của cậu ấy đột nhiên trở nên gấp gáp, phả vào cổ tôi.

- Ra­ji­va…

Tôi khẽ gọi cậu ấy, trong lòng không rõ đang chờ đợi hay đang run rẩy.

Ra­ji­va đột ngột đẩy tôi ra, sắc mặt tái nhợt, khuôn ngực vẫn phập phồng run động, bước chân cuống quít lao ra khỏi căn phòng.

- Ra­ji­va…

Tôi chạy theo, nhưng trong lúc gấp vội, đã không cẩn thận để khuỷu tay phải đập mạnh vào khung cửa. Cơn đau buốt thấu tận tim gan, tôi kêu lên thảm thiết.

- Sao vậy?

Ra­ji­va dừng bước giữa sân, vội vã quay lại, dìu tôi vào phòng.

Dưới ánh đèn, cậu ấy nhẹ nhàng vén tay áo tôi lên, vết thương cũ hiển hiện. Không biết vì sao, đã gần hai tháng rồi mà cánh tay tôi vẫn chưa lành hẳn. Tất nhiên, một phần cũng do tôi bất cẩn, hàng ngày lúc đi tắm cứ để mặc nước ngấm vào chỗ đau, khi vết thương mới ăn da non, ngứa ngáy khó chịu, tôi lại ra sức gãi. Không có Ra­ji­va ở bên bôi thuốc cho tôi, hàng ngày lại thường xuyên phải vẽ bằng tay phải, tôi cắn răng chịu đau. Cộng thêm một ngày dầm mình trong lễ hội té nước, vết toác khó khăn lắm mới đóng lại thành vảy, đã lại bong ra. Cú va đập khi nãy làm tổn thương vùng nghiêm trọng nhất khiến vết thương ngày càng mở rộng, sưng tấy, chảy máu, ướt đẫm một mảng tay áo.

- Sao lại bất cẩn như vậy?

Ra­ji­va ngẩng lên nhìn tôi, vừa thương vừa trách.

- Không chăm sóc cẩn thận nên vết thương mãi không lành lại. Hôm qua, lẽ ra không nên nghịch nước.

Tôi tủm tỉm cười. Không nghịch nước thì làm sao biết được cậu ấy đã cải trang đến tìm tôi? Nhưng, cậu ấy muốn giấu thì tôi sẽ vờ như không biết.

Ra­ji­va bôi thuốc cho tôi, buốt xót đến chảy nước mắt. Cậu ấy thở dài, bảo tôi cố chịu, miệng kề sát vết thương của tôi khe khẽ thổi, vẻ mặt chuyên tâm, sự chăm chút chu đáo ấy khiến tôi quên cả đau, tôi mải mê ngắm nhìn Ra­ji­va. Dưới ánh đèn, vầng trán cao rộng, khuôn mặt đẹp như tạc tượng, hàng lông mày dài thanh tú khe khẽ rung động, nước da bánh mật lung linh dưới ánh sáng vàng vọt, hắt lên những gam màu quyến rũ, tuyệt đẹp.

Ra­ji­va nhẹ nhàng băng bó cho tôi, sau đó lại nhẹ nhàng kéo tay áo tôi xuống. Hai mươi tư năm trong đời, đây là lần đầu tiên tôi cảm nhận được niềm hạnh phúc vô bờ của người con gái khi được một người đàn ông chăm sóc, yêu thương. Nếu Ra­ji­va không ngẩng đầu lên và đỏ mặt, hẳn tôi sẽ còn tiếp tục đắm đuối ngắm nhìn cậu ấy mãi mãi.

Ra­ji­va quay đầu đi, hồi lâu mới lên tiếng nhắc nhở tôi tránh tiếp xúc với nước. Sau đó, lại rơi vào trạng thái trầm ngâm.

- Khi nãy…

Cậu ấy đứng lên, không nhìn tôi, tần ngần buông tiếng.

- Ra­ji­va đã mạo phạm…

- Ra­ji­va…

Tôi muốn nói nhưng không đủ sức thốt lên lời nào. Tôi có thể nói gì bây giờ? Nói rằng tôi không những không trách cậu ấy mà ngược lại, tôi mong chờ điều đó ư? Hay nói với cậu ấy rằng tôi rất tham lam, tôi mong đợi nhiều hơn một cái ôm của cậu ấy ư?

- Muộn rồi, tôi phải về!

Ra­ji­va đã lấy lại ngữ điệu điềm tĩnh thường ngày, bước chân vừa đến cửa, bỗng ngừng lại:

- Ngày mai, cô có thể đến chùa bất cứ lúc nào.

Tôi lười biếng nằm dài trên giường, ngóng theo bóng dáng cao gầy ấy dần khuất xa. Rốt cuộc, cậu ấy vẫn không thể vượt qua những chướng ngại trong lòng. Vòng tay khi nãy đẹp như một giấc mộng không có thực. Hay là, tôi vẫn đang mơ, giấc mơ tuyệt đẹp...


P/s: Sắp có nụ hôn đầu tiên sao

Bình luận

Đọc ĐPVN lúc nào cũng thấy kích động í ấy ơi :))  Đăng lúc 7-8-2013 09:45 PM
cái p/s rất có tính kích động :))  Đăng lúc 7-8-2013 09:18 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 13:07:16 | Chỉ xem của tác giả
Chương 29 - Sự phẫn nộ của Pusyseda




Tôi ngắt từng cánh hoa, đi, không đi, đi, không đi, cánh hoa cuối cùng: Không đi. Bỏ qua, bỏ qua, không tính, không tính, tôi ngắt một bông hoa khác, lần này kết quả khả quan hơn: Đi! Tốt rồi, đó là ý trời, nào thì đi!

Tôi đã quyết định có đến chùa Cakra vẽ tranh hay không bằng cách như thế đó. Vừa tới nơi, mắt tôi như thiết bị dò tự động, quét qua các góc cạnh để tìm kiếm bóng dáng ấy, tìm thấy rồi, hai má tự nhiên nóng bừng, lại cắm cúi làm việc. Cánh tay băng bó co duỗi khó khăn, chỉ vẽ được một lát là phải nghỉ. Đang vẽ vẽ xóa xóa thì một chú tiểu xuất hiện với cốc nước và một mảnh giấy, trên đó là những chứ Hán rất đẹp: “Vết thương chưa lành, đừng nên vẽ nữa”.  Niềm vui như ngọn lửa sưởi ấm cõi lòng tôi. Tôi ngẩng lên, Ra­ji­va đang trò chuyện với sư phụ Band­hud­da­ta trên đại điện, ánh mắt ơ hờ khẽ lướt về phía tôi, thấy tôi cầm mảnh giấy trên tay, cậu ấy lại bình thản tiếp tục câu chuyện.

Tôi không còn tâm trí để vẽ tiếp, kỷ niệm ngày đầu Ra­ji­va đưa tôi đến tham quan ngôi chùa này ùa về, tôi muốn dạo quanh một vòng. Vừa bước đi vừa nhớ lại biểu cảm và những lời cậu ấy nói khi đó, bất giác mỉm cười. Những hồi ức ngọt ngào đủ để tôi nhâm nhi hết một ngày dài.

Tôi chỉ trở về căn nhà nhỏ khi Ra­ji­va kết thúc giờ tụng kinh chiều muộn. Buổi tối cậu ấy sẽ tới, vì cánh tay tôi vẫn cần được chăm sóc. Tôi có nên nghĩ cách làm cho vết thương ấy phục hồi chậm lại một chút không? Vì như thế, tôi sẽ khỏi phải ủ dột khi nghĩ đến ngày tháng li biệt sắp tới. Mặc dù tôi biết rằng trước sau gì cũng phải ra đi, nhưng có thể chậm ngày nào tôi sẽ biết ơn ngày đó. Sếp ơi, xin thầy đừng trách em, khi trái tim phụ nữ đã rung động thì lí trí đâu còn chỗ trú chân.

Vừa về đến cổng đã thấy một cỗ xe ngựa, tôi chớp mắt nhìn cho kĩ, phù hiệu gắn trên cỗ xe rất quen. Ai đó xuất hiện từ phía sau xe, dáng người cao lớn, gương mặt khôi ngô tuấn tú, mặc một bộ quân phục màu đen, viền vàng lấp lánh, eo thắt một chiếc đai thêu kim tuyến, sau lưng dắt một thanh kiếm dài. Đàn ông mặc quân phục tỏa ra sức hấp dẫn thật kì lạ, có thể đánh bại bất cứ đối thủ cùng giới nào. Nhưng khuôn mặt này có điều gì đó rất lạ.

- Pusyse­da?

Tôi kinh ngạc kêu lên.

- Sao cậu lại đến đây?

Pusyse­da lạnh lùng nhìn tôi, hồi lâu mới cất tiếng:

- Đến đón chị về phủ.

Giọng nói lạnh như băng khiến tôi rùng mình.

- Tôi đã hẹn mười ngày sẽ về mà.

Tôi bước lại gần, quan sát kỹ khuôn mặt ấy.

- Xảy ra chuyện gì vậy?

- Cha tôi muốn gặp chị.

Pusyse­da quay mặt đi, né tránh.

- Cha tôi… từ lúc biết tin của mẹ, đã không ngừng thổ huyết…

Tôi hoảng hốt:

- Ra­ji­va có biết không? Cậu đã đến chùa chưa? Đi nào, chúng ta phải thông báo ngay cho cậu ấy.

Tôi kéo tay Pusyse­da nhưng cậu ta không hề động đậy, ánh mắt chăm chăm nhìn bàn tay tôi, một tiếng cười nhạt bật ra:

- Cần gì phải đến chùa, tối nào anh ta chẳng về đây.

- Cậu…

Tôi sững người, cậu ta biết rồi ư!

- Mava­su đã nói hết với tôi. Thì ra chị đã trở về được ba tháng rồi và ba tháng ấy chị luôn ở bên Ra­ji­va.

Pusyse­da đột ngột kéo tôi sát lại, cánh tay cứng như thép bóp chặt vết thương của tôi, tiếng kêu đau đớn của tôi không khiến cậu ta bận tâm. Cậu ta ép sát tôi vào ngực mình, đổ người lên khuôn mặt tôi, sắc diện u ám, nghiến răng gầm gào:

- Anh ta giấu chị ở đây, định bụng học theo Hán Vũ Đế “lầu son giấu người đẹp” chứ gì? Một vị cao tăng đại đức như anh ta mà cũng chẳng thể kháng cự được sức quyến rũ của đàn bà! Thật nực cười, thế mà tôi vẫn nghĩ chị chưa bao giờ đụng đàn ông. Không ngờ, từ lâu đã bị kẻ đạo đức giả ấy chiếm đoạt rồi!

- Pusyse­da, cậu không được ăn nói xằng bậy!

Tôi nổi cơn thịnh nộ, định dùng cánh tay còn lại cho cậu ta một cái tát, nhưng đã bị giữ chặt, tay tôi như muốn lìa ra. Càng ra sức vùng thoát, cơn đau buốt, nhức nhối càng dữ dội. Nước mắt trào ra, tôi kêu gào:

- Buông tôi ra! Cậu không được phép lăng mạ Ra­ji­va! Chúng tôi hoàn toàn trong sạch…

- Trong sạch ư?

Pusyse­da cướp lời tôi, ánh mắt dữ dằn, khuôn mặt như biến dạng.

- Được thôi, bây giờ chúng ta sẽ lên giường, hãy chứng minh cho tôi thấy chị vẫn là một trinh nữ.

Cậu ta lôi tôi đi về hướng căn phòng, cánh tay phải thoát khỏi gọng kìm, tôi bám chặt lấy cột chống hiên nhà, kiên quyết không thả ra. Giây phút ấy tôi vô cùng khiếp sợ, vì xưa nay chưa từng thấy Pusyse­da dữ tợn như vậy. Cậu ta mà làm tới, tôi chẳng thể chống cự nổi.

- Buông ra! Vì sao tôi phải chứng minh bằng cách đó? Cậu không đủ tư cách ép buộc tôi!

Cánh tay phải của tôi như sắp gãy, vết thương nhức buốt khiến tôi không còn sức để bám vào cột nhà nữa. Nhưng nếu tôi đầu hàng, thật không dám tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo! Cậu ta như đã mất hết lí trí. Tôi vừa khóc vừa kêu gào thảm thiết:

- Pusyse­da, cậu điên rồi. Lẽ nào cậu muốn tôi phải căm ghét cậu?

Vợ chồng Mava­su đều chạy ra, kinh hãi đứng bên, hết lời khuyên nhủ Pusyse­da. Pusyse­da thấy tôi nhất quyết không chịu buông cây cột, liền quay người, túm chặt hai tay tôi, cơ thể cường tráng áp sát lên thân thể tôi.

- Tư cách hả?

Pusyse­da nhếch môi cười, một tay nắm chặt hai tay tôi, một tay thô bạo túm cằm tôi, đẩy gương mặt lên đối diện với đôi mắt của cậu ta.

- Tôi điên dại bám lấy chị bao nhiêu ngày qua. Không biết là chị quá ư xuẩn ngốc hay quá ư thông minh nữa? Với anh ta thì được, với tôi thì không ư? Mở miệng ra là trong trắng, cao thượng, sách vở, nào là cuốn hút nào là yêu thương nào là gắn bó, thế nhưng chị đã không ngại “ra tay” quyến rũ cả hòa thượng nức danh Tây vực. Giờ còn giả bộ trong trắng, thuần khiết ư?

- Sao cậu dám xỉ nhục tôi? Tôi hoàn toàn trong sạch, tôi không trác táng như cậu, lúc nào cũng chỉ muốn lên giường với phụ nữ. Mối quan hệ giữa tôi và Ra­ji­va, một kẻ thô thiển như cậu không bao giờ có thể hiểu được.

Tôi gào lên trong nước mắt, cánh tay bị thương như sắp rời bỏ thân thể, tôi đau đớn tê dại.

Pusyse­da toan lên tiếng, bỗng dừng lại, ánh mắt lạnh lùng lướt qua cánh cổng, khóe môi thoáng qua một tia cười gi­an manh, bất chợt nghiêng đầu về phía tôi. Trong hỗn loạn đau đớn và sợ hãi, một vật thể mềm ướt trùm lên môi tôi, đầu óc tôi trống rỗng…

Pusyse­da gan lỳ o bế, đòi tách đôi môi đang cố mím chặt của tôi ra, đầu lưỡi đưa đẩy hít hà trên môi tôi, tìm đường xông tới. Tôi dặn lòng phải khép môi thật chặt, nhưng một cơn đau nhói ở môi dưới khiến tôi rụng rời, cậu ta cả gan cắn tôi! Phản xạ tự nhiên của tôi là lập tức hé miệng, Pusyse­da đột nhập, đầu lưỡi ẩm ướt của cậu ta quần đảo trong miệng tôi, tìm kiếm, săn đuổi đầu lưỡi tôi đang trở nên bất lực đến tội nghiệp.

- Cậu cả!

Tiếng Mava­su. Tôi rùng mình, trời ơi, Ra­ji­va đến rồi! Cậu ấy đã nhìn thấy! Tôi vắt kiệt sức tàn, cố gắng vùng thoát, nhưng vô ích. Trong cơn quẫn bách, tôi cắn Pusyse­da, cậu ta kêu lên một tiếng, nhả tôi ra, một tay ôm lấy miệng, tay kia vẫn giữ chặt hai tay tôi. Chùm tia vằn vện tức tối trong mắt nhạt dần, nụ cười khó hiểu trồi trên khuôn mặt, ánh mắt thách thức, khiêu khích hướng ra ngoài sân.

Tôi quay đầu, nhìn thấy Ra­ji­va đang đứng như trời trồng giữa sân, sắc mặt tái nhợt. Pusyse­da gào lên một câu tiếng Phạn, toàn thân Ra­ji­va rung động, sắc mặt càng trở nên thảm hại.

- Buông tôi ra!

Tôi nổi trận lôi đình, trong đời mình, chưa bao giờ tôi phải chịu sự lăng mạ thế này, tôi không thể nhẫn nhịn được nữa:

- Pusyse­da, đến bao giờ cậu mới chịu lớn hả? Cha cậu đang hấp hối trên giường bệnh, vậy mà cậu vẫn còn tâm trạng giở trò ở đây à?

Khuôn mặt Pusyse­da đột nhiên biến sắc, dần buông cánh tay đang khóa chặt lấy tôi. Ra­ji­va sải bước đến trước mặt cậu ta, giật tay Pusyse­da ra khỏi người tôi, đứng chắn ngang giữa chúng tôi, giọng nói thảng thốt:

- Cha sao rồi?

Quầng mắt Pusyse­da đỏ hoe, cúi thấp đầu, vẻ mặt đau khổ:

- Thầy thuốc bảo… rất nguy kịch…

Ra­ji­va chắn trước mặt tôi, không nhìn thấy vẻ mặt, chỉ thấy tấm lưng của cậu ấy đang rung động. Pusyse­da đột nhiên xông tới, túm lấy cổ áo Ra­ji­va, cất lời chì chiết:

- Tất cả là tại anh! Anh thừa biết cha đang yếu, vì sao vẫn báo tin mẹ mất?

Ra­ji­va im lặng, tôi thấy bất bình.

- Pusyse­da, thôi đi!

Tôi chạy đến bên họ, ra sức gỡ cánh tay Pusyse­da đang khóa chặt Ra­ji­va.

- Bây giờ là lúc tranh cãi chuyện này hay sao? Việc cần kíp trước mắt là phải nhanh chóng về phủ.

Tôi ngừng lại, nhìn hai anh em họ, tâm trạng nặng nề.

- Tôi không muốn hai người hao phí thời gi­an vào cuộc tranh chấp vô nghĩa này, để rồi ngày sau phải ân hận…

Họ như bừng tỉnh sau cơn mê, Pusyse­da buông tay. Tôi nhẹ nhàng đến bên Ra­ji­va:

- Ra­ji­va, cậu có cần chuẩn bị gì không?

Ra­ji­va rầu rĩ lắc đầu, tôi hạ lệnh:

- Vậy thì chúng ta sẽ khởi hành ngay, chừng nửa đêm là tới nơi.

- Chờ đã!

Ra­ji­va bước nhanh vào phòng. Lúc trở ra, cậu ấy cầm trên tay một túi đồ nhỏ.

- Đi thôi!

Ba chúng tôi yên lặng trên xe. Pusyse­da muốn ngồi cạnh tôi, nhưng tôi bỏ sang ngồi phía đối diện. Ra­ji­va lên sau, quan sát một lát, rồi lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh em trai.

Cỗ xe lăn bánh, Ra­ji­va mở gói đồ, tôi lặng người. Bên trong có thuốc bôi ngoài da, rượu thuốc và vải sạch.Lúc này tôi mới nhớ đến cánh tay nóng rát của mình, vết máu loang lổ tay áo. Tôi gắng gượng dùng tay trái đỡ lấy tay phải, cơn đau buốt ập đến, khiến tôi kêu bật thành tiếng.

- Ngải Tình, tay chị sao vậy?

Từ lúc lên xe, Pusyse­da ngượng ngập không dám nhìn tôi, nhưng khi nghe tiếng tôi kêu, cậu ta đột nhiên nắm chặt cánh tay tôi, định vén tay áo lên kiểm tra. Tôi không muốn cậu ta chạm vào người mình thêm nữa, cố sức rút tay ra, nhưng càng ra sức, vết thương càng nhức buốt tưởng như không thở nổi, tôi rên rỉ.

- Khi nãy tôi đã không phải, tôi cũng không biết mình làm sao nữa, tôi không nên xử sự như vậy.

Tôi kêu đau, cậu ta liền buông tay. Không gi­an trên xe quá ư chật hẹp, Pusyse­da gần như quỳ trước mặt tôi, ánh mắt nhìn tôi vừa xót xa vừa ân hận.

- Cho tôi xem vết thương của chị được không?

Tôi thờ ơ không đáp, tự mình vén cao tay áo, hai anh em họ đồng thanh thốt lên một tiếng kêu nhỏ. Máu đã thấm đẫm lớp vải quấn bên ngoài. Trời ơi, nếu cứ tiếp tục thế này, cánh tay tôi hỏng mất!

Tôi cắn răng, tháo lớp vải quấn, Pusyse­da muốn giúp, tôi vung tay né tránh, cánh tay đập vào thành xe, cơn thống khổ đẩy nước mắt tuôn lã chã. Một cánh tay gầy guộc nhẹ nhàng vươn ra, đỡ lấy tay tôi. Không một lời, cậu ấy chỉ lặng lẽ, chậm rãi, thận trọng gỡ lớp vải bọc trên vết thương của tôi, Tôi thư thái tận hưởng sự chăm sóc dịu dàng ấy, tâm trạng trở nên nhẹ nhõm hơn, nỗi đau thuyên giảm.

Lớp vải cũ được gỡ xuống, Pusyse­da hốt hoảng. Vết thương há miệng rất rộng, nhiễm trùng nghiêm trọng, vệt máu sẫm đỏ. Ra­ji­va cầm chai rượu thuốc trên tay, tôi cắn răng quay đầu không nhìn. Cơn đau đớn, buốt xót làm tê tái tim gan, mình mẩy, dù đã gắng sức kìm chế, tiếng kêu thê thảm vẫn rung lên trong cuống họng. Tôi nắm chặt tay trái, móng tay như cắm sâu vào da thịt. Một bàn tay giá lạnh ôm lấy cánh tay tôi, tôi gắng gượng nhìn lên, bắt gặp nỗi hoảng sợ trên gương mặt Pusyse­da.

- Ngải Tình, chị bị thương khi nào vậy? Sao tôi không hề hay biết?

Tôi không đáp, mắt nhắm chặt, ngã lưng vào thành xe. Rượu thuốc lành lạnh liếm trên vết thương, giúp tôi hạ nhiệt cơn bỏng rát. Bàn tay Ra­ji­va nhẹ nhàng phủ từng lớp vải mới lên cánh tay tôi, từ lúc bắt đầu cho tới khi kết thúc, cậu ấy hoàn toàn thinh lặng.

Trời sẫm tối, khí lạnh thổi vào trong xe, tôi co người lại. Pusyse­da vẫn chưa ngớt lời xin lỗi, bất giác tôi cảm thấy mỏi mệt vô hạn, không phải nỗi nhọc mệt thể xác mà là tinh thần.

Sự điên cuồng của Pusyse­da ngày hôm nay khiến tôi nhận ra, không biết từ khi nào cậu ta đã có ý với tôi. Nhưng tôi không thể đáp lại tình cảm của cậu ta, tôi không thể đáp lại tình cảm của cả hai anh em họ…

- Pusyse­da…

Nếu tôi không ngắt lời, chắc là cậu ta sẽ xin lỗi cả đêm.

- Tôi tha thứ cho cậu…

Bóng đêm bao phủ, không nhìn rõ gương mặt cậu ta, nhưng trong giọng nói đã lộ rõ niềm vui. Tôi điềm nhiên:

- Về thăm cha cậu, nếu ông không có gì đáng ngại, vài ngày nữa tôi sẽ theo đội thương nhân đến thành phố Taqian của Ban Siêu, sau đó sẽ đi Trường An.

- Chị…

Tay trái tôi bị nắm chặt, giọng Pusyse­da hốt hoảng:

- Chị vẫn muốn ra đi ư?

- Tôi có kế hoạch của riêng mình, không thể ở lại Khâu Từ.

Tôi muốn bứt tay ra, nhưng cậu ta ngoan cố kìm chặt. Tôi gắng dùng sức, cậu ta mới nhả tay.

- Ngải Tình…

- Pusyse­da, tôi rất mệt…

- Ngải Tình, chị mệt thì dựa vào vai tôi mà ngủ.

- Pusyse­da, xin cậu, ít nhất là hôm nay, đừng đụng vào tôi nữa…

Tiếng vó ngựa lạc lõng vang trên đường. Tôi không nhìn rõ gương mặt Ra­ji­va, từ lúc lên xe đến giờ, cậu ấy không hề lên tiếng, kể cả lúc băng bó cho tôi. Như vậy cũng tốt, nhìn thấy, nghe thấy có khi lại khiến tôi động lòng. Ba chúng tôi im lặng hòa mình vào bóng đêm…
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 13:40:42 | Chỉ xem của tác giả
Chương 30 - Nỗi mất mát



Bước chân vào phòng Ku­marayana, không gi­an nồng nồng hơi thuốc. Chúng tôi trở về phủ quốc sư đã hơn mười ngày, bệnh tình của Ku­marayana không hề thuyên giảm. Mỗi ngày ông đều thổ huyết, hôn mê bất tỉnh nhiều lần. Pusyse­da túc trực bên cha cả ngày lẫn đêm, cậu ta gầy rộc đi trông thấy. Ra­ji­va cũng ngày ngày cận kề bên giường cha, chăm sóc ông và tụng kinh cho ông. Hai anh em họ bận bịu tới mức không còn tâm trí để ý đến tôi nữa, điều đó khiến tôi thấy thoải mái hơn. Tôi không thể ra đi lúc này, tôi phải góp sức giúp họ chăm sóc Ku­marayana.

- Quốc sư…

Tôi ghé sát bên giường Ku­marayana, ông héo hon, tàn tạ đến thương tâm, trên người ông, dường như chỉ còn đôi mắt màu xám nhạt là nơi duy nhất toát ra sự sống.

- Cô Ngải Tình đến đấy à?

Ông khẽ gật đầu, gượng dậy, tôi vội vàng đến bên, chèn gối tựa sau lưng ông, bàn tay chạm phải thân hình da bọc xương của ông, trong lòng bỗng dâng lên nỗi chua xót!

- Cô Ngải Tình hẳn là rất bất ngờ khi ta muốn trò chuyện riêng với cô, đúng không?

- Vâng, một chút ạ.

Tôi thành thật thừa nhận. Không hiểu sao, tôi luôn có cảm giác ông giống như là “sếp” của tôi vậy. Mặc dù tôi luôn gọi thầy hướng dẫn của mình là sếp, nhưng thầy luôn là người mà tôi kính trọng nhất. Tôi mỉm cười.

- Quốc sư cho gọi Ngải Tình, hẳn là có chuyện muốn nói.

- Cô Ngải Tình không giống những cô gái bình thường khác, mười năm trước ta đã nhận ra điều này.

Tôi lặng yên không đáp.

- Ta tự biết không còn sống được bao lâu nữa, lòng ta vốn đã chán ngán cõi trần, đi sớm ngày nào sẽ bớt phiền hà cho người thân ngày ấy.

Sống mũi tôi cay cay, tôi muốn nói điều gì đó thật lạc quan để an ủi ông, nhưng ánh mắt tinh anh của ông đã ngắt lời tôi:

- Nhưng người ta ai cũng vậy, đến lúc nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa hết những mối bận tâm, với ta là hai đứa con này…

Trực giác mách bảo với tôi rằng, chủ đề lần này của ông chắc chắn có liên quan đến anh em họ, nên tôi yên lặng chờ đợi.

- Cô Ngải Tình là người kì lạ, liệu cô có thể tiết lộ cho kẻ sắp rời xa thế gi­an này được biết, hai đứa con trai của ta ngày sau sẽ ra sao không?

Tôi kinh ngạc, ngước lên đôi mắt sáng như thấu tỏ tâm can người đối diện. Lẽ nào ông ta đã đoán ra lai lịch của tôi? Nhưng, vì sao ông biết được?

- Mười năm qua dung mạo của cô không hề thay đổi, năm xưa cô lại đột ngột biến mất. Ta tin rằng, cô nhất định biết được những chuyện mà người bình thường không thể biết.

Tôi không được phép tiết lộ lịch sử, nhưng tôi có nên cứng nhắc giữ nguyên tắc đó với một người sắp qua đời? Thấy tôi do dự, ông tiếp tục:

- Xin cô hãy tin ta, ta không tiết lộ thiên cơ đâu.

Sau khi suy xét kĩ lưỡng, tôi quyết định tiết lộ một vài thông tin quan trọng, vì tôi không đành lòng giấu ông.

- Thưa quốc sư, Ra­ji­va ngày sau sẽ lưu danh sử sách.

Tôi ngập ngừng giây lát:

- Còn về Pusyse­da, xin quốc sư yên tâm, Ngải Tình hứa sẽ bảo vệ cậu ấy.

Lịch sử không ghi chép bất cứ điều gì về Pusyse­da, có lẽ cậu ta sẽ sống cuộc đời bình yên giống như những người bình thường khác. Và tôi quyết định sẽ chủ động nhắc nhở cậu ta khi cần thiết, để cậu ta không rơi vào thảm kịch sẽ xảy ra mười một năm sau. Tôi cũng chỉ có thể giúp cậu ta chừng đó.

- Thành tựu mà Ra­ji­va có được là về lĩnh vực Phật học?

Tôi gật đầu.

- Ra­ji­va có sức ảnh hưởng rất lớn đến quá trình truyền bá đạo Phật vào Trung Nguyên.

Ku­marayana trầm ngâm suy tư, một lúc lâu sau ông mới lên tiếng:

- Người làm cha làm mẹ, ai cũng mong con cái thành đạt, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là sự bình an.

Cơn ho ào đến, tôi vội vã tới bên giúp ông giữ nhịp thở đều đặn. Ông lấy hơi, tiếp tục câu chuyện:

- Tôi không thấy lo nhiều về Pusyse­da. Nó là người dám làm dám chịu, tính cách phóng khoáng, tuổi trẻ nông nổi có chút phản kháng cũng không sao, rồi thời gi­an qua đi, nó sẽ trưởng thành và chín chắn hơn. Người khiến tôi lo lắng hơn cả là Ra­ji­va…

Trống ngực đập thình thịch, tôi ngạc nhiên nhìn ông. Từ khi đổ bệnh, Ku­marayana chưa bao giờ trò chuyện nhiều đến thế. Gương mặt ông lúc này ửng lên sắc đỏ dị thường, ông nói trong tiếng ho khan:

- Nó quá thông minh và từ nhỏ đến lớn chưa từng nếm trải cực khổ. Trong lòng suy nghĩ rất nhiều, nhưng không bao giờ tâm sự với ai. Tính cách ấy sẽ khiến cuộc đời nó trở nên bất hạnh.

Tôi nhớ từng đọc một bài báo viết về một nhóm các nhà khoa học nghiên cứu, lai tạo ra giống chuột đột biến gen thông minh hơn rất nhiều loài chuột thông thường. Và người ta hào hứng kháo nhau rằng, nếu áp dụng phương pháp gây đột biến gen đó lên cơ thể người thì con người sẽ trở nên thông minh hơn, tài giỏi hơn rất nhiều. Nhưng không lâu sau, người ta lấy làm vui mừng vì đã không vội vàng biến giấc mơ ấy thành hiện thực. Bởi vì nghiên cứu cho thấy, tuy rằng loài chuột đột biến gen trở nên thông minh hơn, nhưng chúng cũng phải trả một cái giá rất đắt. Bộ gen mới trong cơ thể “chuột thông minh” có tác dụng kích thích thần kinh, giúp chúng phát triển trí nhớ và trí tuệ, nhưng đồng thời cũng khiến chúng trở nên mẫn cảm hơn với nỗi đau và sự tổn thương.

Thế nên, quá ư thông minh không hẳn đã tốt. Khi bi kịch xảy đến, người thông minh sẽ cảm thấy vô cùng tồi tệ và không thể chấp nhận hiện thực, thậm chí không thể chịu đựng nổi. Người bình thường có thể xem nhẹ hoặc bỏ qua để tiếp tục sống, nhưng họ thì không. Họ dễ trở nên mất phương hướng và hóa điên dại và cuộc đời họ vì thế sẽ chỉ toàn thảm kịch. Đó là bi kịch của những người thông minh. Ra­ji­va cũng khó tránh khỏi vận mệnh này.

- Tuy không rõ cô Ngải Tình từ đâu tới, nhưng cô nói Ra­ji­va thành công trong lĩnh vực Phật học, ta tin là cô đúng.

- Quốc sư, xin hãy nghỉ ngơi một lát.

Tôi mang nước tới cho ông. Ông thở dài, mệt nhọc cất tiếng:

- Không nói, e là không còn thời gi­an nữa.

Ku­marayana đột nhiên hướng ánh nhìn nghiêm khắc về phía tôi:

- Cô Ngải Tình đã biết trước Ra­ji­va sẽ dâng hiến trọn đời nơi cửa Phật, vì sao vẫn để nó nảy sinh tình cảm với cô? Như thế, có tàn nhẫn quá không? Phải chăng, Phật tổ cử cô tới đây để thử thách nó?

Bàn tay tôi run bắn, cốc nước rơi xuống, vỡ choang. Tôi hốt hoảng thu dọn, trong lúc cuống quít, mảnh vỡ lẹm một đường vào tay, vết cứa ấy đánh thức tôi. Vậy là ông đã biết từ lâu. Cũng phải thôi, Mava­su là người nô bộc trung thành đã theo ông từ Ấn Độ đến Khâu Từ. Tôi sống trong căn nhà nhỏ của Ra­ji­va ba tháng trời, làm sao giấu ông được.

- Quốc sư…

Ông thở dài, vẻ mặt mỏi mệt, buồn khổ.

- Ta là người từng trải, từng bị nỗi khổ vì yêu dày vò. Năm xưa hoàn tục, ta đã chịu rất nhiều lời phỉ báng, chỉ trích. Cứ ngỡ, một chữ tình có thể hóa giải tất cả, đền bù tất cả. Nào ngờ, người ta yêu thương lại là người có trái tim sắt đá, một lòng theo đuổi lí tưởng, khiến cả hai đứa con phải chịu khổ cùng ta.

Ông dứt cơn thở gấp, ngừng lại nghỉ ngơi, rồi mới tiếp tục.

- Ta biết cô cũng có tình cảm với Ra­ji­va. Nhưng nó đã một lòng hướng Phật, ngày sau lại có được thành tựu như vậy, nó không thể dành chỗ cho tình yêu trong tim mình được.

Ông nhắm mắt, vẻ mệt mỏi cùng cực, khóe môi run run:

- Xin cô Ngải Tình đừng giẫm lên vết xe đổ của ta…

Tôi thẫn thờ bước ra khỏi căn phòng của Ku­marayana, cảm thấy mình như đang trôi đi, thân thể hoàn toàn trống rỗng, hoàn toàn kiệt sức. Pusyse­da đang đi đi lại lại trước cửa phòng, thấy tôi, vội vã bước tới truy hỏi:

- Cha đã nói gì với chị?

- Không có gì?

Tôi khẽ lẩm bẩm, thấy cậu ta ý chừng vẫn muốn hỏi tiếp, tôi rầu rĩ lắc đầu:

- Pusyse­da, tôi rất mệt, muốn nghỉ một lát.

Trên đường về phòng, tôi gặp Ra­ji­va đang mang thuốc vào cho cha, ánh mắt nhìn tôi đăm đắm, đầy vẻ lo lắng và xót xa. Nước mắt cứ muốn trào ra, tôi vội cúi đầu để cậu ấy không thấy được, lẳng lặng rảo bước về phòng.

Ngày nào cũng vậy, khi màn đêm tĩnh mịch buông xuống, Ra­ji­va lại ngồi trong phòng tụng kinh. Đã thành thói quen, tôi tắt đèn, giấu mình trong bóng tối. Ánh đèn leo lét bên phòng đối diện hắt lên khung cửa sổ một bóng hình cô độc. Bóng người dường như bất động, chỉ có âm thanh tụng niệm lầm rầm vang vọng trong không gi­an tĩnh lặng. Ra­ji­va, nếu chúng ta không bị ngăn cách bởi 1650 năm thời gi­an, nếu cậu không phải mang thân phận người tu hành, suốt đời chẳng thể thay đổi ấy, có lẽ tôi sẽ có đủ nghị lực để thổ lộ tình cảm với cậu. Tôi tin rằng cậu cũng có tình cảm với tôi, không biết khi ấy, cậu có bằng lòng không? Nhưng, vì sao cuộc đời lắm nỗi trái ngang như vậy? Hai chúng ta, rốt cuộc cũng vẫn chỉ là hai đường song song tình cờ gi­ao nhau. Khi trở lại vị trí của mình, chúng ta vẫn chẳng thể rũ bỏ những chướng ngại trong lòng mỗi người. Tôi yêu cậu, bởi vậy, tôi quyết định, sẽ từ bỏ…

Bệnh tình của Ku­marayana ngày một trầm trọng. Đức vua, hoàng hậu và hoàng thân quốc thích Khâu Từ thường xuyên tới thăm ông. Tôi đã nhìn thấy Bạch Chấn, em trai út của Bạch Thuần, người mà mười một năm sau đã được Lữ Quang đưa lên ngôi vua Khâu Từ. Tôi cũng đã nhìn thấy công chúa Ak­saya­mati, lúc này vẫn còn là một cô bé gái chừng tám, chín tuổi. Cảm xúc của tôi lúc nhìn thấy cô bé thật khó diễn tả. Ak­saya­mati là người mà mười một năm sau sẽ trở thành vợ Ra­ji­va. Lúc trước, khi đọc tới đoạn sử này, tuy có cảm thông với Ra­ji­va, nhưng cảm xúc chính của tôi là câu chuyện này thật ly kỳ, thú vị, tôi hào hứng mang nó đi kể cho mọi người nghe. Giờ đây, khi tôi đã trở thành một phần trong cuộc sống của cậu ấy, đoạn sử ngắn ngủi kia trở nên vô nghĩa, yêu Ra­ji­va, tôi nhận ra mình không thể chịu đựng được việc sau này cậu ấy có mối quan hệ như thế với người phụ nữ khác. Nghe thấy giọng nói ngọt ngào của Ak­saya­mati khi gọi Ra­ji­va và nhìn thấy cậu ấy tươi cười với cô bé, tôi nổi cơn ghen tuông, bất chấp đối tượng chịu trận chỉ là một cô bé con. Nhưng khi cơn thịnh nộ sắp bộc phát, thì những lời nói của Ku­marayana lại văng vẳng bên tai, lạnh buốt tựa băng giá, thấm vào lòng tôi, dập tắt mọi ngọn lửa điên cuồng trong tôi. Phải rồi, tôi đã hứa với Ku­marayana sẽ nhanh chóng rời khỏi đây. Vậy thì tôi lấy tư cách gì để ghen tị với số mệnh đã được an bài của Ra­ji­va?

Những loại thuốc quý giá nhất cũng chỉ có thể kéo dài sự sống của Ku­marayana được hơn chục ngày, ông như ngọn đèn trước gió. Đêm đó, hai anh em họ túc trực bên giường cha, tôi nép mình vào một góc khuất, giọng nói ngắt quãng của Ku­marayana xen trong hơi thở khó khăn, đủ biết ông đã gắng gượng chừng nào.

- Pusyse­da, đừng ghét bỏ mẹ con… bà ấy… lúc nào cũng yêu con!

Ánh mắt tinh anh của ông giờ phút này đã trở nên mơ hồ, chỉ có thanh quản vẫn phập phồng lên xuống, khó khăn lắm mới nghe rõ lời ông:

- Không biết… có thể… đoàn tụ với bà ấy… trên cõi cực lạc… hay không?

Gương mặt héo hon chỉ còn da bọc xương thoáng hiện một nét cười khổ sở:

- Chắc là không được rồi… Bà ấy đã chứng tam quả… cắt đứt mọi tơ tình nhân thế… trong khi ta vẫn đắm chìm trong bể khổ tương tư…

Pusyse­da nắm chặt tay cha, khóc cạn cả nước mắt. Ra­ji­va vẫn thinh lặng nhìn cha, vẻ mặt thê lương. Ku­marayana mấp máy môi:

- Lần đầu gặp bà ấy, con tim ta đã lạc nhịp…

Ánh mắt ông chợt bừng sáng, như thể ông vừa nhìn thấy ai đó.

- Bà ấy rất đẹp, lại thông minh, lanh lợi, dễ thương… Ji­va, đừng đi… bọn trẻ còn nhỏ lắm…

Ku­marayana đột nhiên đưa tay về phía trước, ông đã hoàn toàn đắm chìm trong kí ức. Tôi nhìn thấy nét dịu dàng, yêu thương chưa từng thấy trong đôi mắt ông, như thể, người ông ngày đêm mong nhớ đang hiển hiện trước mắt ông vậy.

- Ji­va, chờ ta…

Ku­marayana chới với vươn ra phía trước, Pusyse­da ôm chầm lấy cha. Cánh tay Ku­marayana buông thỏng, ông đổ người vào vòng tay Pusyse­da. Pusyse­da gọi cha trong cơn tuyệt vọng, nhưng ông không đáp lại. Ra­ji­va vẫn thinh lặng đứng đó, không một biểu cảm đặc biệt nào trên nét mặt, đột nhiên cậu quỳ sụp xuống, tiếng tụng niệm vang lên. Hai anh em họ thể hiện những tâm trạng hoàn toàn không ăn khớp với nhau.

- Thôi đi! Ngoài tụng kinh ra, anh còn biết làm gì nữa?

Pusyse­da đặt cha xuống giường, quay người lại gằn hắt anh trai, giọng nói đầy vẻ thô bạo.

- Cả ngày chỉ biết tụng kinh thì ích gì chứ? Tụng kinh có làm cha sống lại không?

Cậu ta chỉ tay vào Ra­ji­va, điệu bộ chì chiết dữ dằn:

- Anh chỉ biết trốn chạy trong kinh văn, Phật tổ của anh, ngoài việc vẽ ra cái thế giới vô nghĩa sau khi chết, còn có thể làm được việc gì nữa?

- Pusyse­da, không được lăng mạ anh trai cậu!

Tôi bước đến, kéo tay Pusyse­da. Cậu ta không còn tỉnh táo nữa, cậu ta muốn trút nỗi đau mất cha lên anh trai mình.

Cậu ta quay lại nhìn tôi, ánh mắt vằn lên những tia đỏ, khuôn ngực rung động mãnh liệt:

- Trong lòng mẹ chỉ có anh ta là người con duy nhất. Cha cũng vậy, lúc nào cũng thương nhớ anh ta, tự hào về anh ta, mặc dù anh ta chưa một ngày tận hiếu với cha.

Cậu ta hất tay tôi ra, sức mạnh cuồng bạo khiến tôi chao đảo:

- Cả chị nữa, trong lòng chị cũng chỉ có mình anh ta. Anh ta được tất cả mọi người yêu thương, nhưng hãy xem xem, anh ta đã mang lại cho những người yêu thương mình được những gì nào? Cha qua đời mà anh ta cũng không thèm nhỏ một giọt nước mắt! Anh ta là đồ quái vật máu lạnh!

- Đủ rồi! Cậu có biết là cậu ấy còn đau khổ hơn cả cậu không? Cậu có thể gào thét để giải tỏa, muốn khóc là khóc, thích nhiếc móc là nhiếc móc, nhưng còn cậu ấy…

Ra­ji­va vẫn nhắm nghiền mắt, lầm rầm tụng kinh, nước mắt tuôn trào.

- Cậu ấy không phải không biết đau đớn là gì, mà vì cậu ấy đau khổ tới mức không rơi nổi nước mắt…

- Ngải Tình…

Cậu ấy bất chợt lên tiếng, giọng nói như lạc đi.

- Pusyse­da nói không sai, tôi là người xuất gia, người xuất gia vốn dĩ không thể có tình cảm thế tục…

- Ra­ji­va…

Cậu ấy đứng lên, bước ra ngoài cửa.

- Tôi vào cung thông báo cho đức vua…

Tôi định đuổi theo nhưng đã bị Pusyse­da giữ lại. Tôi đẩy cậu ta ra bằng hết sức lực mà tôi có. Tôi không biết Ra­ji­va sẽ làm gì, nhưng tôi phải đi theo, để bảo vệ cậu ấy.

Cậu ấy đi rất vội, không rẽ về hướng hoàng cung mà ra khỏi thành. Lính gác cổng thành thấy cậu ấy thì lập tức cho qua, đến lượt tôi, tôi phải đưa cho họ toàn bộ số tiền có trên người, họ mới đồng ý để tôi đi.

Cậu ấy bước đi lang thang, vô định, bước chân gấp vội trong đêm, xiêu vẹo, loạng choạng. Điểm đến sau cùng là bờ sông Tongchang. Cậu ấy gào khóc thảm thiết với mặt nước lặng như tờ. Đêm khuya tịch mịch, ngoại thành xa vắng, tiếng khóc của cậu ấy khuấy động không gi­an.

Tôi lặng lẽ đứng nhìn từ xa. Ra­ji­va, cậu không phải không có tình cảm, chỉ là cậu không thể khóc trước mặt người khác. Một người giàu cảm xúc và giàu yêu thương như cậu, vì sao lại sùng bái thứ tôn giáo buộc người ta phải đoạn tuyệt với mọi cảm xúc của con người?

Tôi đã rất muốn đến bên an ủi cậu ấy, nhưng những lời nói của Ku­marayana cứ văng vẳng bên tai. Ra­ji­va, tôi không muốn sự xuất hiện của mình khiến cậu rối bời, tôi chỉ có thể lặng lẽ ở bên cạnh cậu như thế này thôi.

Chợt nhớ đến những ca khúc của Tề Dự, bài hát khiến tôi cảm động nhất của cô là “Nước mắt lạc đà”.  Lúc trước, tôi cảm động vì câu chuyện tình đẹp mà buồn trong tiểu thuyết cùng tên của Tam Mao. Còn bây giờ, trong đêm sâu cô quạnh, con người mà ngay cả khóc cũng không được khóc ấy khiến tôi không khỏi cảm khái mà nhớ đến ca khúc này, nỗi buồn ngập tràn trong tôi. Con tim trốn chạy, tìm nơi trú ẩn nhưng vô ích, đành ở đó, nhẫn nhịn chống chịu với cơn đau.

“Em mang theo hạnh phúc rượt đuổi nỗi đau. Ra đi có lẽ là cách duy nhất để yêu anh.

Chỉ biết trao đi, em đã không học cách nhận lại. Lãng quên, có lẽ là lời chúc phúc thành tâm nhất ta dành cho nhau.

Đôi mắt ấy dịu dàng từ thuở khai sinh, nhưng ngay cả khóc than cũng chịu sự nguyền rủa, không có nước mắt, làm sao chảy ra cho vơi cạn nỗi cô đơn?

Gió cát mịt mùng, mắt em nhạt nhòa, bước đi xô lệch trong đêm tối. Lạc lối trong sa mạc, trái tim là vì sao Bắc cực, cần mẫn, kiệm lời.

Gió cát mịt mùng, hoang ảo tiếng gọi tình yêu, muốn nhớ lại cũng nhọc nhằn. Hai ta, chẳng dám yêu, không dám hận, để mặc gió cát vô tình cuốn đi dấu chân”.

Trái tim tôi hát lên lời ca này, nước mắt chan hòa, gió đêm thổi tới, tâm can càng thêm giá lạnh. Ra­ji­va, sức ảnh hưởng của cậu mới lớn làm sao, ngay cả hát tôi cũng không dám cất lời, ngay cả khóc cũng không dám khóc thành tiếng. Ra­ji­va, đêm nay cậu không cô đơn, tôi luôn ở bên cạnh cậu, cùng khóc với cậu. Hãy để nước mắt của hai mươi tư năm tuổi đời trong tôi được một lần vì cậu mà khóc cạn. Sau này, chúng ta đừng khóc nữa, hãy để gió cát vô tình cuốn đi dấu chân hai ta từng lưu lại trên sa mạc cuộc đời này.

Tờ mờ sáng cậu ấy mới lặng lẽ quay về với vẻ mệt mỏi, rã rời, tưởng như hồn bay phách lạc. Đêm lạnh như băng, khi tôi đứng lên để đi theo cậu ấy, toàn thân dường như không còn một chút hơi ấm nào.

Mùa hạ qua đi, mùa thu lặng lẽ kéo về.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

34#
 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 13:46:23 | Chỉ xem của tác giả
Chương 31 - Tôi phải ra đi



Một chiếc bàn gỗ được dưng bên bờ sông TongChang, thân thể Ku­marayana được bọc kín trong những lần vải trắng. Tục lệ an táng của người Khâu Từ là an táng, nhưng vì Ku­marayana là người Ấn Độ, nên ông sẽ được hoả táng theo phong tục của Ấn Độ.

Bạch Thuần cùng các thành viên của hoàng thất, các vương công đại thần xếp thành một hàng dài, tất cả đều mặc y phục màu trắng. Cạnh khung gỗ đặt thi thể Ku­marayana là các nhà sư, do Ra­ji­va dẫn đầu, sư phụ của cậu – Bun­da­hat­ta cũng đến dự, họ ngồi xếp bằng trên sông và cùng tụng niệm.

Pusyse­da vận đồ tang màu trắng, vấn khăng tang, tay cầm đuốc, mắt đỏ hoe, thâm quầng, nét mặt đau thương. Theo phong tục thì con trưởng là người cầm đuốc, nhưng vì Ra­ji­va đã xuất gia, cậu không còn thân phận phàm tục nên việc này được gi­ao cho con út.

Bạch Thuần ra hiệu cho Pusyse­da, cậu đến bên chiếc bàn gỗ, châm lửa lên lớp cỏ khô phủ xung quanh khung đỡ. Chỉ một lát, ngọn lửa bùng cháy nuốt trọn Ku­marayana.

Tiếng kêu khóc thương tâm hoà lẫn tiếng tụng kinh trầm buồn, tạo nên một khung cảnh vừa trang nghiêm vừa thê lương.

Pusyse­da quỳ xuống, hai tay chống đất, đầu cuối thấp, hai vai rung động. Tôi nhìn sang Ra­ji­va, cậu ấy như quên cả tụng niệm, đôi mắt thẫn thờ nhìn người cha đang tan biến dần trong đống lửa, nỗi đau đớn tột độ hiện trên nét mặt khiến tôi không đủ can đảm nhìn cậu ấy. Trong cuốn “Trung Luận” của Bồ Tát Long Thụ mà Ra­ji­va sẽ dịch sang tiếng Hán có đoạn: “Con người, từ nhân quả kiếp trước nên sinh ra trong kiếp này, vì có sinh nên có già cỗi và chết đi, từ già cỗi và chết đi nên sinh ra buồn sầu, đau khổ. Mọi muộn phiền của con người đều từ đó mà ra. Nên biết rằng, sinh tử được tạo ra bởi nghiệp chướng của những kẻ u mê ngu muội”. Vòng luân hồi sinh lão bệnh tử là nghiệp chướng, là nỗi khổ của đời người. Bởi vậy, kẻ sáng suốt phải biết cách “diệt trừ sự mê muội, để diệt trừ nghiệp chướng” Nhưng nếu Ra­ji­va có thể diệt trừ được sự mê muội, thì vì sao đêm đó, cậu ấy lại khóc cha thê thảm đến như vậy?

Tôi lặng nhìn ngọn lửa đó, thầm cầu nguyện: Quốc sư, cầu mong ông sẽ gặp được người mà trọn đời ông thương nhớ. Nỗi lòng của ông, Phật Tổ sẽ thấu hiểu, vì Ngài cũng từng trải qua nổi khổ tương tư dày vò, nhất định Ngài sẽ giúp hai người được đoàn tụ. Cầu chúc hai người hạnh phúc nơi cục lạc…

Nghi lễ an táng kéo dài hơn một giờ. Khi tàn lửa cuối cùng lịm tắt, Pusyse­da cùng người nhà thu lượm hài cốt của cha, rắc xuống sông TongChang. Trái tim tôi như thắt lại khi thấy Pusyse­da ôm bình tro và kêu khóc thống thiết.

Trở về phủ quốc sư, tôi không nói với Pusyse­da về ý định ra đi của mình, vì lúc này cậu đang quá đỗi đau buồn, tôi không nỡ nêu ra chuyện đó. Ra­ji­va không ở lại phủ, mà cùng sư phụ Band­hu­dat­ta trở về chùa Cakra. Trước lúc ra đi, cậu ấy lặng nhìn tôi hồi lâu, tôi không hiểu ánh mắt phức tạp ấy muốn truyền đạt điều gì, thực ra thì tôi cũng không muốn tìm hiểu, vì tôi đã quá mệt mỏi…

Tôi ngồi trong sân nhìn ngắm bầu trời. Trước kia tôi thường băn khoăn, bầu trời 1650 năm về trước chắc hẳn là trong lành và thoáng đãng hơn bầu trời thế kỷ XXI, nhưng cứ ngắm mãi bầu trời ấy có gì thú vị đâu chứ? Bây giờ tôi mới hiểu, không phải bầu trời không có thứ gì đáng để ngắm, mà vì khi trong lòng chất đầy tâm sự, ngắm nhìn bầu trời cao xa vời vợi kia sẽ cảm thấy dễ chịu hơn là ngồi thu mình một chỗ.

- Ngải Tình!

Quay lại đã thấy Pusyse­da đứng trên bậc thềm, cậu ta vẫn mặc áo tang, đôi mắt trũng sâu, khuôn mặt hốc hác, râu ria lúng phúng quanh cằm. Cậu ta trở nên trầm tĩnh hơn trước, chín chắn hơn trước rất nhiều. Người xưa nói không sai, đàn ông trưởng thành hơn vào ngày đưa tang cha.

Hai chúng tôi đã nhiều ngày không trò chuyện với nhau. Pusyse­da bước xuống bậc thềm, đến bên cạnh tôi. Không cười đùa cợt nhã như trước kia, cậu ta chỉ cuối đầu nhìn tôi. Kể từ sau khi trở về phủ quốc sư, cậu ta luôn tỏ ra giữ ý với tôi.

- Ngải Tình, hôm đó...

Cậu ta ngập ngừng, tôi băn khoăn, hôm đó là hôm nào?

- Ý tôi là hôm ở Sub­ash ấy…

Nhớ rồi! Tôi khẽ lắc đầu:

- Chuyện qua lâu rồi, cậu nhắc lại làm gì!

- Tôi chưa bao giờ thô bạo với phụ nữ, nhưng không hiểu sao, với chị, tôi lại không kiềm chế nổi.

- Pusyse­da, nếu cậu vẫn muốn xin lỗi, thì câu trả lời là, tôi đã tha thứ cho cậu từ lâu lắm rồi.

- Vậy còn… chỗ đó…

Cậu ta chỉ tay vào môi tôi, gương mặt ửng đỏ:

- Nghe nói phụ nữ người Hán rất coi trọng tiết hạnh.

Tôi giật mình! Thì ra cậu ta muốn nói đến cái hôn đó. Tôi cười:

- Cái đó… không sao. Cứ xem như bị chó cắn đi…

Thật tình tôi chẳng còn nhớ gì về chuyện đó nữa. Với tôi, đó không phải là một nụ hôn, mà chỉ là một vật thể nào đó áp lên môi tôi mà thôi.

- Chị… mắng tôi là chó ư?

Cậu ta tức giận, nhào đến bên tôi.

- Cẩn thận kẻo bị chó cắn lần nữa đấy!

Tôi né sang một bên, Pusyse­da không rượt đuổi tôi như trước nữa, chỉ đứng đó và cười. Nụ cười hiếm hoi sau gần 2 tháng. Pusyse­da khi cười mới giống con người thật của cậu ấy!

Nhưng nụ cười không kéo được bao lâu đã tắt lịm, đưa mắt nhìn xung quanh, giọng cậu ta trở nên thê thiết:

- Cha ra đi, căn nhà trở nên trống trải lạ thường, quạnh quẽ lạ thường.

Rồi quay lại nhìn tôi ánh mắt dịu dàng, ấm áp.

- May có chị ở đây, khiến tôi thấy vui hơn một chút.

Pusyse­da đưa tay ra định chạm vào má tôi, tôi giật mình lùi lại. Cậu ta hụt hẫng, rụt tay lại.

- Ngải Tình, sau cái đó đó, tôi mới biết mình đã trách oan chị.

Tôi sững người, không hiểu.

Pusyse­da mỉm cười:

- Phản ứng khi đó của chị chắc chắn là của một cô gái trinh nguyên, Pusyse­da nhận ra điều này dựa trên kinh nghiệm dày dặn của mình về phụ nữ.

- Cậu…

Tôi giậm chân.

- Sao cậu cứ nghĩ mãi về chuyện đó thế? Tôi có phải cô gái trinh nguyên hay không thì liên quan gì đến cậu?

- Chị gạt tôi nói rằng chị vừa trở về, đến tận hôm đó tôi mới phát hiện ra chị đã sống cùng anh ta ba tháng rồi. Trai đơn gái chiếc ở cạnh nhau ba tháng trời, dù có là bậc cao tăng đi nữa, anh ta rốt cuộc vẫn là một người đàn ông. Tôi không tin giữa hai người không có chuyện gì. Tôi luôn cảm thấy mình kém cỏi so với anh ta, cha mẹ yêu chiều anh ta, đức vua tôn kính anh ta, người đời sùng bái anh ta. Còn tôi thì sao, tôi chẳng có gì cả. Mọi người chỉ biết tôi là em trai của đại pháp sư Ku­mara­ji­va, có ai biết đến tôi tên là gì, có ai thèm quan tâm tôi đã làm được gì đâu. Chờ đợi mãi mới gặp được cô gái mà tôi thích thì lại bị anh ta cướp mất. Nên, tôi không cam tâm. Chờ mãi chị không về, nên tôi đoán chắc chị đã đến chùa tìm anh ta. Tôi như hoá điên, nên mới hành xử thô bạo như vậy với chị.

Cậu ta cúi đầu, như hồi tưởng lại điều gì, tủm tỉm cười nhìn tôi:

- Nhưng sau khi hôn chị, tôi đã bình tâm trở lại. Tôi thấy mừng, vì chỉ môi chạm môi mà chị đã phản ứng dữ dội như vậy, chắc chắn không thể có gì với anh ta được. tôi vẫn còn cơ hội. Vì dù sao anh ta không thể thành thân, nhưng tôi thì có thể.

Tôi bực mình.

- Cậu thật trẻ con! Chỉ vì đố kị với Ra­ji­va mà cậu biến tôi thành thứ đồ để tranh giành với cậu ấy? Tôi thật không hiểu nổi, làm một người bình thường có gì không tốt? Người thông minh có những phiền não của riêng họ, tiếng tăm càng lừng lẫy, cuộc sống càng mệt mỏi. Cậu muốn trở thành một người bình thường vui vẻ hay trở thành một vĩ nhân bất hạnh?

- Vậy là…

Cậy ta nhìn tôi chăm chú, ánh mắt ắp đầy sự trông đợi.

- Chị muốn chồng mình là một người bình thường ư?

Sao cậu ta lại hỏi vậy? Trống ngực đập thình thịch, một lúc lâu tôi mới lấy lại được ngữ điệu bình thản.

- Pusyse­da, tôi đã liên hệ với đội thương nhân. Năm ngày nữa sẽ xuất phát, họ sẽ cùng tôi đến thành cổ Taqian, sau đó sẽ đi Trường An.

Tôi đã phải trả thêm một khoản tiền để đội thương gia đó nhận lời cùng tôi đến thành cổ Taqian.

- Chị…

Gương mặt Pusyse­da biến sắc, cậu ấy chụp lấy vai tôi.

- Chị vẫn muốn ra đi ư?

- Tôi không có lí do gì để ở lại đây cả.

- Hãy lấy tôi, chị sẽ có lí do để ở lại.

Vậy là đã rõ ý tứ cậu ấy.

- Pusyse­da…

- Chị đừng để bụng việc trước đây tôi qua lại với nhiều phụ nữ, tôi xin thề, từ nay tôi sẽ một lòng một dạ với chị, tôi sẽ chỉ có mình chị mà thôi.

- Pusyse­da…

- Đừng nói với tôi về tuổi tác, vài năm nữa tôi sẽ già hơn chị. Cũng đừng nói với tôi chị không thuộc về nơi này. Trên trời hay Trường An, không có tôi ở đó, chị tìm đâu được niềm vui? Tôi chỉ muốn nghe một câu trả lời: đồng ý hay không đồng ý?

Chưa từng thấy cậu ta nghiêm túc như thế bao giờ. Nếu không phải trái tim tôi từ lâu đã thuộc về người khác, hẳn là tôi sẽ chẳng thể cự tuyệt những lời thổ lộ ấy.

- Pusyse­da, tôi không đồng ý.

Tôi gỡ bàn tay Pusyse­da đang nắm chặt vai mình, bình thản đối diện cậu ta.

- Lý do duy nhất là: tôi không yêu cậu.

Pusyse­da thoáng chao đảo, nụ cười chán nản hiện trên khoé môi.

- Ngải Tình, chính chị đã dạy cho tôi biết thế nào là yêu. Nhưng khi tôi biết yêu một người, chị lại nói với tôi rằng, chị chưa bao giờ yêu tôi.

- Tôi xin lỗi…

- Đừng nói lời xin lỗi với tôi!

Pusyse­da đột ngột quay lại, túm lấy tay tôi!

- Chị yêu anh ta phải không?

- Tôi…

Tôi không thể thừa nhận, tôi phải giữ gìn danh tiếng cho cậu ấy…

- Đừng giấu nữa! Thời gi­an về đây ngày nào anh ta cũng chăm sóc vết thương cho chị và còn ánh mắt anh ta khi nhìn chị nữa. Chị tưởng tôi không biết chắc?

Pusyse­da kéo tôi lại gần, ánh mắt sắc lẹm dò thám gương mặt tôi.

- Chị thừa biết anh ta chẳng thể cưới chị mà vẫn yêu hay sao?

- Pusyse­da, tôi cũng mong người tôi yêu là cậu. Nếu là một thời điểm khác, ở một nơi khác, chắc hẳn tôi đã yêu cậu. Ở bên cậu tôi thấy rất vui vẻ, cậu mang lại tiếng cười và khiến tôi quên hết nỗi cô đơn, buồn chán.

Tôi không thể tiếp tục phủ nhận. Thật ra thừa nhận hay không có gì khác nhau đâu, cũng đâu thay đổi được gì.

- Nhưng, tình yêu vốn mù quáng, tôi không biết tại sao mình lại yêu cậu ấy. Dù biết sẽ không có kết cục gì, nhưng tôi vẫn chẳng thể kìm chế bản thân. Vậy nên, tôi đã quyết định ra đi.

Pusyse­da buông tôi ra, cất giọng cười lạnh lùng, biểu cảm trên gương mặt phức tạp đến nổi tôi không sao hiểu được.

- Vậy là tôi vẫn chậm hơn anh ta một bước…Một năm qua tôi đã chán ngấy trò chơi tình ái với đám phụ nữ nhạt nhẽo, tôi không có tình cảm thực sự với họ nên những mối quan hệ đó diễn ra chóng vánh, khi giây phút nồng nản qua nhanh, nỗi cô đơn lại trở về, xâm chiếm tâm hồn tôi. Từ lúc ấy, tôi bắt đầu mong chờ ngày chị trở về. Tiên nữ của tôi từng nói rằng, nếu tôi học thuộc lòng “Kinh Thi”, nàng sẽ quay lại. Chị nghĩ rằng mười năm trước tôi đã bắt đầu học thuộc “Kinh Thi” ư? Không đâu, mới từ năm ngoái thôi, tôi muốn thử xem lời chị nói có thật hay không. Kết quả, sau khi tôi học thuộc cả cuốn “Kinh Thi” ấy, chị đã trở về. Chị không hề thay đổi, vẫn nụ cười ngây ngô, gương mặt thuần khiết của mười năm về trước. Trước kia, cha sốt ruột giục giã tôi thành thân, tôi luôn cao giọng tuyên bố sẽ chỉ kết hôn với cô gái độc nhất vô nhị tự xưa đến nay. Khi đó chỉ vì muốn thể hiện với cha, nên tôi mới thốt ra nhưng lời to tát ấy. Nhưng từ lúc gặp lại chị, tôi đột nhiên nhận ra chị chính là cô gái có một không hai ấy. Vì vậy, tôi muốn giữ chị ở bên mình, tôi muốn được ngắm nhìn tôi mắt trong sáng của chị mãi mãi. Tôi nghĩ lần này tôi đã nhanh hơn anh ta một bước. Nào ngờ cuối cùng vẫn bị anh ta cướp mất chị.

Tôi không phải không mảy may xúc động, nhưng những lời nói của Pusyse­da khiến tôi lo lắng nhiều hơn.

- Pusyse­da, mười năm trước, tôi chỉ sống cùng cậu vẻn vẹn ba tháng và khi đó cậu mới 10 tuổi. Sau mười năm, e rằng hình dáng tôi thế nào cậu cũng chẳng nhớ nổi, nói chị đến chuyện ngày đêm nhung nhớ?

- Tôi nhớ chứ…

Cậu ta đưa tay ra định chạm vào má tôi, nhưng tôi đã kịp lùi lại. Cậu ta không tiến đến, chỉ đứng đó, tưởng tượng ra khuôn mặt tôi trong không gi­an.

- Một năm qua, hình bóng chị luôn hiện lên trong tim tôi, ngày một rõ ràng, sống động. Bởi vậy, khi chị xuất hiện trên phố với bộ dạng ngây ngô đó, tôi đã lập tức nhận ra.

Tôi thở dài, không thể tiếp tục tình trạng này nữa. Tuy rằng không biết vì sao cậu ta đột nhiên nảy sinh tình cảm với tôi, nhưng tôi cũng không muốn tìm hiểu. Chuyện đã như vậy, có tìm hiểu thêm nữa cũng đâu có nghĩa lý gì. Tôi đưa mắt nhìn những cành nho trụi lá trong sân, thở dài.

- Pusyse­da, ngày mai tôi sẽ đến chùa Cakra.

- Để gặp anh ta?

- Đúng vậy, nhưng là để chào từ biệt, đừng lo, sẽ không xảy ra bất cứ chuyện gì giữa chúng tôi đâu.

Tôi cười cay đắng.

- Tôi và Ra­ji­va đều rất tự trọng…

Tôi tháo chuỗi ngọc hình sư tử xuống, đưa cho Pusyse­da.

- Hãy tặng cho người con gái sau này cậu yêu.

Cậu ta lặng lẽ nhìn viên ngọc, không đón lấy, cũng không trả lời, một lúc sau mới lên tiếng

- Nó vốn là của chị mà!

Cậu ta bắt chước tôi ngó lên trời. Ánh chiều tà đổ bóng lên thân người cao lớn ấy, sáng lạn, rực rỡ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

35#
 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 13:51:50 | Chỉ xem của tác giả
Chương 32 - Làm sao sống được mà không yêu


Mava­su đã rất kinh ngạc khi mở cổng và thấy tôi. Sau lễ tang Ku­marayana ông đã theo Ra­ji­va quay lại Sub­ash. Người nô bộc rất mực trung thành này đã chăm sóc cha con Ra­ji­va và cả tôi nữa, hết mực ân cần tận tuỵ. Tôi mỉm cười với ông, nói rằng tôi tới để từ biệt và nhờ ông tới chùa thông báo với Ra­ji­va.

Mava­su quay về cùng với Ra­ji­va. Bây giờ còn chưa đến giờ tụng kinh buổi chiều, vậy là cậu ấy lại trốn việc rồi!

Khi Ra­ji­va bước chân qua cánh cổng, cậu ấy bị vấp vào bậc cửa, lúc đó tôi đang đứng ngoài cửa phòng nên đã thấy cả. Một bậc cao tăng đại đức, mọi cử chỉ thường ngày vốn rất từ tốn nho nhã vậy mà cũng có lúc vấp chân vào bậc cửa suýt ngã, tôi bật cười.

Thấy tôi cười cậu ấy có vẻ hốt hoảng, dừng bước trấn tĩnh, chỉ một lát đã lấy lại được phong thái ung dung đĩnh đạc thường thấy, chậm rãi tiến về phía tôi.

- Vì sao không chờ kết thúc buổi tụng kinh buổi tối hãy về?

Cậu ấy sững người, gương mặt ửng đỏ, lặng yên không đáp, ánh mắt trôi về phía xa xôi.

- Ra­ji­va, cậu là trụ trì của một ngôi chùa lớn, cậu không thể tuỳ ý vi phạm giới luật như khi còn nhỏ được.

Tôi nghiêm mặt, nói với cậu ấy bằng giọng điệu lên lớp của cô giáo năm xưa.

- Cậu về chùa đi, hết giờ tụng kinh buổi tối hãy quay lại.

Ngừng một lát, tôi nói tiếp:

- Tôi có chuyện muốn nói.

- Chuyện ra đi ư?

Tôi hơi ngạc nhiên, rồi thì gật đầu. Cậu ấy thông minh tuyệt đỉnh như vậy lẽ nào không đoán ra được.

- Nếu vậy, buổi tối Ra­ji­va sẽ quay lại.

Giọng nói điềm tĩnh, không mảy may xao động. Cậu ấy khẽ cúi người, xoay lưng bước đi. Nhưng khi đi qua bậc cửa, không hiểu sao lại bị vấp một lần nữa. Nhưng lần này, tôi chẳng cười nổi.

Mùa thu, màn đêm buông xuống nhanh hơn. Mặt trời vừa khuất núi, gió đã se se lạnh trong không gi­an, sương đêm buốt giá. Tôi ngồi bên cửa sổ, ánh mắt đổ dồn về phía cánh cổng, Ra­ji­va xuất hiện, tôi chăm chú quan sát bước chân của cậu ấy. Tốt rồi, lần này không bị vấp nữa.

Cậu ấy bước vào phòng, vừa thấy tôi bèn cất giọng trầm ấm:

- Trời về khuya lạnh lắm, cô mặc thêm áo vào cho ấm.

Mũi tôi cay cay, nước mắt chỉ trực trào ra. Tôi hít một hơi dài che đi thanh âm đang nghẹn ngào nơi cổ họng:

- Đúng vậy, tôi cảm lạnh mất…

- Cô không biết quý trọng sức khoẻ gì cả, ngày mai tôi sẽ mời thấy thuốc đến khám xem sao.

Ánh mắt Ra­ji­va di chuyển đến cánh tay bị thương của tôi.

- Mấy ngày nay vẫn bôi thuốc đều đặn chứ?

Hơn một tháng ở phủ quốc sư, Ra­ji­va không tự mình đến băng bó cho tôi nhưng hằng ngày vẫn có một a hoàn đến giúp tôi. Và dù bận bịu chăm sóc cha, cậu ấy vẫn ngày ngày đều đặn đến thăm tôi và dặn dò tôi không được động vào vết thương khi đã ăn da non. Sự chăm sóc ân cần kéo dài đến tận khi cậu ấy rời phủ.

- Không cần đâu!

Ra­ji­va đừng chăm chút tôi như vậy, tôi không dám nhận. Tôi cắn chặt môi, cố gắng giữ cho giọng nói của mình thật bình thản.

- Ngày mai tôi sẽ trở về thành Khâu Từ. Tôi đã liên hệ được với đội thương nhân, chúng tôi sẽ nhanh chóng lên đường đi Trường An.

Cậu ấy không lên tiếng, ánh mắt lại trôi xa, một lúc lâu mới quay lại nhìn tôi, chậm rãi nói:

- Cô vẫn muốn đến thăm thành cổ Taqian kia mà! Ra­ji­va vừa quyết định tới Yark­land học đạo, trên đường sẽ đi ngang qua đó…

- Ra­ji­va!

Tôi ngắt lời cậu ấy, chỉ muốn ngay lập tức đẩy những ẩn ức dồn nén, chất đầy trong lòng ra bên ngoài.

- Cậu vẫn không hiểu sao? Tôi ra đi vì không muốn tiếp tục ở bên cậu nữa.

Ánh mắt Ra­ji­va đột ngột tối sầm, hàng mi dài rũ xuống, một tiếng cười chua chát bật lên:

- Ra là vậy

Cậu ấy nghiêng đầu, hít một hơi thật sâu, khe khẽ cất tiếng:

- Vậy thì để Pusyse­da chăm sóc cho cô. Cậu ấy tuy nóng nảy nhưng thật lòng với cô...

- Ra­ji­va!

Tôi không kềm chế nổi nữa, cậu ấy thông minh như vậy, nhưng vì sao đến giờ vẫn không hiểu ra?

- Thế nghĩa là sao? Nhường tôi cho em trai cậu ư? Bởi vì Pusyse­da có thể danh chính ngôn thuận ở bên cạnh tôi ư? Ra­ji­va, tôi không cần ai chăm sóc cả, tôi...

- Ngải Tình..

Ra­ji­va đột nhiên ngẩng lên, ánh nhìn sắc lẹm bừng lên trong đôi mắt màu xám nhạt long lanh ấy.

- Phải thế nào mới chịu ở lại?

Tôi mở miệng nhưng không thốt được nên lời, nước mắt lăn dài trên má.

- Tôi...

Lại mở miệng, nhưng vẫn chưa thể bật ra một câu nói hoàn chỉnh.

- Tôi...

Tôi quay đi. Tôi không muốn cậu ấy thấy tôi khóc, nhưng không hiểu sao tôi không kềm chế nổi. Tôi làm sao kềm chế nổi.

- Ngải Tình...

Giọng nói khẽ khàng, nhẹ như hơi thở, cánh tay dài gầy guộc vươn đến với tôi. Tôi nhắm mắt lại. Ngã mình vào vòng tay đang run rẩy của Ra­ji­va.

Khoảnh khắc chạm vào khuôn ngực của cậu ấy, một tiếng nói mơ hồ, bồng bềnh trôi trên đỉnh đầu tôi:

- Mười năm chờ đợi chẳng lẽ chỉ đổi được vài tháng ngắn ngủi bên nhau?

Tôi không khống chế nổi mình, đã bật khóc thảm thiết. Ra­ji­va, Ra­ji­va, vì sao người tôi yêu lại là cậu? Vì sao chúng ta yêu nhau lại không thể ở bên nhau? Vì sao khi ấy tôi lại đồng ý tham gia vào dự án vượt thời gi­an ngu ngốc này?

Trong vòng tay cậu ấy, tôi đã khóc triền miên, khóc nhiều đến nghiêng ngả cả đất trời, khóc ướt đẫm vai áo của người ấy. Hơi ấm của Ra­ji­va qua làn vải mỏng ấy khiến má tôi bỏng rát. Ước gì vòng tay ấm áp này là nơi tôi có thể nương tựa vào bất cứ khi nào.

- Ngải Tình...

Cậu ấy khẽ đẩy tôi ra, nhìn sâu vào mắt tôi. Hai hàng lệ đổ dài trên gương mặt hao gầy, đọng lại thành những giọt trĩu nặng nơi chiếc cằm nhọn, lún phún sắc xanh, rồi nhỏ xuống chiếc áo cà sa màu nâu sòng. Nước mắt vỡ òa, thấm trên làn vải mỏng, tạo thành hình những bông hoa nhỏ sẫm màu.

- Đây là lần đầu tiên trong đời Ra­ji­va khóc. Lần đầu khóc vì mẹ, nhờ có cô mà tôi biết được lúc đau khổ có ai đó ở bên cạnh thật dễ chịu biết bao. Lần thứ hai vào buổi tối ngày cha mất, một mình Ra­ji­va lặng lẽ chạy ra ngoại thành để khóc. Khi ấy tôi đã mong có cô ở bên cạnh biết nhường nào.

- Tôi ở đó...

Tôi đã khóc không thành tiếng, ngước nhìn cậu ấy bằng đôi mắt ướt nhòe.

- Tôi đã đến đó, đến rất gần cậu và chờ đợi đến tận bình minh ngày hôm sau khi cậu quay về.

Ra­ji­va siết tôi trong vòng tay thật chặt, không giống như trước đó. Cánh tay cậu ấy ngày một mạnh mẽ hơn, như muốn hòa tan tôi trong lồng ngực cậu ấy vậy. Vòng tay cuồng nhiệt khiến tôi chới với. Tôi vòng tay ôm lấy bờ vai gầy guộc của cậu ấy. Ra­ji­va khẽ rùng mình, đột nhiên đẩy tôi ra.

- Ngải Tình, Ra­ji­va chưa bao giờ thấy vui vẻ như trong ba tháng qua. Cứ nghĩ đến thời khắc cuối ngày được trở về gặp cô, tôi ngày ngày mong chờ giờ tụng kinh buổi tối.

- Ra­ji­va...

Tôi như mê đi trong ánh mắt đám đuối của cậu ấy.

- Tôi cũng vậy, ngày nào cũng mong ngóng cậu trở về...

- Tôi muốn...

Ra­ji­va ngập ngừng. Ánh mắt khóa chặt đôi mắt tôi. Mỗi tiếng thốt ra như có sức nặng nghìn cân.

- Ra­ji­va từ lâu đã muốn...

Tôi nhìn Ra­ji­va, chớp mắt, hít một hơi thật sâu, chờ đợi. Cậu ấy ngập ngừng rất lâu, cứ khẽ mở miệng lại mím chặt môi lại, không sao cất nổi dù một tiếng.

- Ra­ji­va...

Tôi khẽ gọi, mắt nhìn sâu vào hai vực nước hun hút của cậu ấy.

- Cậu muốn nói gì?

- Muốn... hôn... nàng, được không?

Cậu ấy nói ra rồi, tuy giọng còn run run nhưng mỗi chữ thốt ra là cả một nỗ lực dời non lấp bể. Gương mặt bừng bừng như thiêu đốt, đôi mắt như hai vực nước trong suốt, sâu hun hút ấy gắn chặt lấy tôi, như chờ đợi. Trái tim tôi lại chịu thử thách, nước mắt tuôn trào. Ôi người đàn ông này mới thuần khiết làm sao, đến bây giờ vẫn còn hỏi tôi có được hay không.

- Không được.

Tôi cố gắng hít một hơi thật sâu, nhẹ nhàng đáp lại.

- Chàng không thể phá giới.

Ra­ji­va giật mình, cánh tay khi nãy vẫn siết chặt hai vai tôi khẽ buông và quay mặt đi. Một nỗi thất vọng, buồn tủi đày đọa gương mặt chàng.

Đó là sắc diện luôn khiến trái tim tôi quặn thắt.

- Nhưng, em có thể hôn chàng...

Tôi kiễng chân, vòng tay lên níu lấy chiếc cổ thiên nga của chàng, khẽ đặt môi lên bờ môi mỏng manh của chàng. Từ khoảng cách gần trong gang tấc ấy, đôi mắt to của chàng trùm lên tôi tựa hai vực nước sâu vô tận hút tôi vào bên trong. Hàng lông mày dài thanh tú khẽ rung động, đẹp như thần tiên. Môi chàng rất mềm. Khoảnh khắc chạm vào đôi môi ấy như có một luồng điện lan tỏa khắp cơ thể tôi.

Ra­ji­va khẽ rùng mình, đôi mắt vẫn mở to, đáy mắt hắt lên một tia kinh ngạc, tiếp theo đó là niềm vui rạng rỡ. Tôi nhắm mắt lại, cảm nhận sự ngọt ngào của đôi môi chàng bằng trái tim. Thì ra nụ hôn tuyệt vời đến như vậy! Trước đó, với Pusyse­da không thể gọi là hôn. Đây mới là nụ hôn thực sự của tôi. Nụ hôn mà suốt đời tôi sẽ không thể nào quên.

Ra­ji­va chỉ đứng yên lặng, để mặc tôi gắn môi mình lên làn môi mềm mượt của chàng. Khi tôi đánh liều dùng đầu lưỡi liếm nhẹ trên bờ môi vẫn đang mím chặt của chàng, Ra­ji­va kinh ngạc, khẽ kêu lên một tiếng, đôi môi hé mở. Chỉ nửa giây đắn đo, đầu lưỡi tôi nhẹ nhàng vân du vào bên trong, chạm vào đầu lưỡi ngọt và ấm của chàng. Chàng vẫn đứng yên, không động đậy, nhưng hơi thở bỗng trở nên gấp gáp. Lúc chạm phải đầu lưỡi tôi, chàng đột ngột ôm chặt lấy eo tôi, đầu cuối thấp, thân người đổ về phía trước, chủ động đẩy cao đầu lưỡi cuốn lấy tôi. Chúng tôi mê man đuổi bắt nhau, cuốn lấy nhau, quấn quít bên nhau. Trời sập thì đã sao, đất lở thì đã sao?! Giữa đất trời này, chỉ có tôi và chàng, người đàn ông và người phụ nữ...

Lúc tách nhau ra, hai chúng tôi cùng thở hổn hển, nhìn vào mắt nhau và cười...

- Chàng nhớ nhé, chàng bị em ép buộc, em chính là người dụ dỗ chàng phá giới, vì vậy, em sẽ gánh chịu mọi tội lỗi. Chàng không có tội gì cả. Dù phải sa xuống bất cứ tầng địa ngục nào, Ngải Tình cũng không sợ...

- Ngải Tình...

Một tay chàng giữ chặt eo tôi, một tay khẽ đặt lên má tôi, chàng dịu dàng vuốt ve gương mặt tôi. Bàn tay với những ngón dài, thon gầy ấy chạm đến đâu là làm cho gương mặt tôi bừng sáng đến đó.

- Ra­ji­va đã phá giới từ lâu rồi...

Chàng khẽ cất tiếng, cọ trán chàng vào trán tôi.

- Ghen tị với em trai, phạm phải giới luật đố kỵ. Luôn mơ tưởng đến nàng, phạm phải giới luật tư dâm. Ở bên nàng lại khao khát được chạm vào nàng, phạm phải giới luật khát khao dục vọng. Ngải Tình, mười năm trước, mười năm qua, Ra­ji­va đã luôn phá giới.

Chàng xoay người tôi lại, để mắt tôi nhìn vào mắt chàng. Vẻ dịu dàng trong đôi mắt ấy khiến tôi như mềm đi.

- Bởi vậy, ta mới đáng bị đẩy xuống địa ngục, chứ không phải nàng...

- Ra­ji­va...

Tôi áp mình vào ngực chàng.

- Chàng không có tội gì cả. Chính em đã quyến rũ chàng. Em giống như yêu nữ từng quyến rủ Phật tổ năm xưa. Khi chàng tỉnh cơn mơ, em sẽ tan theo mây khói.

Ngón tay chàng đặt trên miệng tôi, ngăn tôi nói tiếp. Tôi ngước nhìn đôi mắt long lanh, tinh khôi như hồ nước thu. Giọng chàng êm như lụa, thoảng bên tai:

- Không đâu, nàng không như vậy...

Chàng nhìn tôi, ngập ngừng, do dự, đắn đo.

- Nàng…

Hít một hơi thật sâu giọng chàng nhẹ bẫng như làn gió.

- Nàng… có muốn Ra­ji­va hoàn tục không?

- Không!

Tôi hoảng sợ, rời khỏi vòng tay chàng. Hiện thực nghiệt ngã đã ùa về.

- Chàng không thể!

- Ra­ji­va, sau này chàng sẽ có được những thành tựu lớn lao, chàng sẽ đến Trung Nguyên truyền bá Đạo Phật và giúp cho đạo Phật ở Trung nguyên phát triển rực rỡ.

Tôi đăm đăm nhìn chàng, giọng nói không biết từ lúc nào trở nên quá đỗi bi ai:

- Bởi vậy, chàng không thể hoàn tục. Nếu chàng làm vậy, em không thể tưởng tượng nổi hậu quả sẽ ra sao, em sẽ hoá điên mất! Và cả đời này em sẽ không thể tha thứ cho mình. Ra­ji­va, số mệnh của chàng đã được định đoạt, không thể nào thay đổi…

Tôi nghẹn ngào, tôi biết vận mệnh của chàng, tôi không thể thay đổi vận mệnh đó, vậy còn vận mệnh của tôi thì sao? Lẽ ra, tôi sẽ không bao giờ chạm được vào chàng, nhưng dự án vượt thời gi­an này đã thay đổi số mệnh của tôi. Ai mà biết được rồi số mệnh của tôi sẽ đi về đâu…

Chàng thở dài, kéo tôi vào lòng.

- Ngải Tình, Phật tổ đã cử nàng đến bên ta phải không? Nàng là tiên nữ, nên nàng biết tương lai của ta phải không?

- Ra­ji­va, em không biết phải giải thích như thế nào với chàng về sự xuất hiện của em, nhưng những gì em nói đều là sự thật. Hãy hứa với em, cả đời này chàng sẽ không hoàn tục. Xin đừng quên lý tưởng lớn lao của chàng: Hãy đưa Đạo Phật đến Trung nguyên để cứu rỗi biết bao con người đang đắm chìm trong bể khổ.

Chảng xiết chặt tôi hơn, khuôn ngực phập phồng, hồi lâu mới cất lời:

- Được, ta hứa với nàng, nàng muốn ta đến Trung nguyên truyền bá đạo Phật, ta nhất định sẽ đi.

Chàng ngập ngừng, lấy giọng, câu hỏi xen trong nỗi ngẹn ngào trôi đến bên tai tôi:

- Nhưng, nàng vẫn phải ra đi ư?

- Ra­ji­va, chàng từng nói, mọi thứ đều không tồn tại kia mà! Em chỉ là một ảo ảnh, em không tồn tại thực sự, em sẽ nhanh chóng biến mất. Sau này, chỉ cần chàng cố gắng, chàng nhất định sẽ quên được em…

- Chúng sinh trong cõi phàm trần ai nấy đều bị ràng buộc bởi thế giới vật chất và tinh thần mà chẳng thể thanh thản.

Chàng nhẹ nhàng buông tôi ra, xoay lưng, hướng ánh mắt ra ngoài cửa sổ, ngọn đèn dầu buổi chiều muộn không che nổi nét cô đơn trong đáy mắt.

Ra­ji­va đắm chìm trong cõi trần ai, biết bao điều ràng buộc, làm sao có thể an nhiên tự tại?

Mọi ân oán đời này

Đều vô thường chóng phai

Cõi thế nhiều khổ não

Đời người như sương mai

Vì yêu nên sợ hãi

Vì yêu nên ưu phiền

Kẻ nào lià chữ “ái”

Tâm mới được an nhiên.

Tôi khẽ nhẩm đọc những câu thơ trong tiểu thuyết “Phi hồ ngoại truyện” mà Viên Tử Y đọc cho Hồ Phỉ nghe trước khi ra đi, đây cũng chính là những câu kệ trong kinh văn Phật giáo (cuốn “Phật thuyết diệu sắc vương nhân duyên kinh”).

Từng câu từng chữ lúc này như cứa vào tim gan tôi.

- Ra­ji­va, lìa xa ái tình, sẽ không còn ưu sầu khổ não nữa…

- Nếu nói quên là sẽ quên được thì đâu còn là “vì yêu nên sợ hãi, vì yêu nên ưu phiền” nữa.

Ra­ji­va khép mắt, giọt nước mắt sau cùng nhỏ xuống.

- Ý trời không thể trái. Nếu đã vậy ta trả nàng về cõi trời…

Đêm đó, không sao chợp mắt được, chúng tôi nương tựa vào nhau, truyền hơi ấm cho nhau. Trời trở sáng sẽ là thời khắc li biệt, giá như thời khắc ấy đừng bao giờ đến.

- Ra­ji­va…

- Ừm…

- Đến giờ tụng kinh buổi sáng rồi…

- Hết một đêm rồi ư? Sao thời gi­an trôi nhanh đến vậy?

- Hôm nay sự phụ lên đường về Jab­ul, ta phải đi tiễn người, sau đó sẽ tới Yarkand. Các tăng sỹ ở đó đã nhiều lần mời ta đến thuyết giảng về giáo lý Đại Thừa…

- Ừm…

- Vì vậy, ta không thể tiễn nàng…

- Ừm…

- Ngải Tình, liệu ta có được gặp lại nàng không…?

- Em không biết.

- Ngải Tình, hôm nay ta đã hôn nàng, vì vậy, tội nghiệt của chúng ta là như nhau. Ra­ji­va thân là bậc tăng nhân, thờ Phật, nhưng đã phá giới, ta đáng bị đày xuống địa ngục đại tiêu nhiệt…

- Vâng, vậy em sẽ tới đó tìm chàng…

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

36#
 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 14:06:17 | Chỉ xem của tác giả
Tôi quay đi. Tôi không muốn cậu ấy thấy tôi khóc, nhưng không hiểu sao tôi không kềm chế nổi. Tôi làm sao kềm chế nổi.

- Ngải Tình...

Giọng nói khẽ khàng, nhẹ như hơi thở, cánh tay dài gầy guộc vươn đến với tôi. Tôi nhắm mắt lại. Ngã mình vào vòng tay đang run rẩy của Ra­ji­va.

Khoảnh khắc chạm vào khuôn ngực của cậu ấy, một tiếng nói mơ hồ, bồng bềnh trôi trên đỉnh đầu tôi:

- Mười năm chờ đợi chẳng lẽ chỉ đổi được vài tháng ngắn ngủi bên nhau?


Haizzz mỗi lần đọc đến đoạn này là khóc theo luôn, mỗi 1 câu 1 chữ của Rajiva nghe mà xót xa tê tái cả tâm hồn
- 10 năm đợi chờ chẳng lẽ chỉ đổi đc vài tháng ngắn ngủi bên nhau ?
Mấy ai biết để đợi đc 10 năm này Rajiva đã đấu tranh đến thế nào giữa tín ngưỡng, lý tưởng và hình bóng của Ngải Tình

- Ra­ji­va từ lâu đã muốn...
Tôi nhìn Ra­ji­va, chớp mắt, hít một hơi thật sâu, chờ đợi. Cậu ấy ngập ngừng rất lâu, cứ khẽ mở miệng lại mím chặt môi lại, không sao cất nổi dù một tiếng.

- Ra­ji­va...

Tôi khẽ gọi, mắt nhìn sâu vào hai vực nước hun hút của cậu ấy.

- Cậu muốn nói gì?

- Muốn... hôn... nàng, được không?


1 nụ hôn mà đắn đo đến thế ?

- Ra­ji­va đã phá giới từ lâu rồi...

Chàng khẽ cất tiếng, cọ trán chàng vào trán tôi.

- Ghen tị với em trai, phạm phải giới luật đố kỵ. Luôn mơ tưởng đến nàng, phạm phải giới luật tư dâm. Ở bên nàng lại khao khát được chạm vào nàng, phạm phải giới luật khát khao dục vọng. Ngải Tình, mười năm trước, mười năm qua, Ra­ji­va đã luôn phá giới.


10 năm trước 10 năm qua Rajiva đã luôn phá giới
Đắng lòng thật, cứ thế 10 năm rồi lại 10 năm tình phải sâu bnh mới có thể chờ đợi ???
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

37#
 Tác giả| Đăng lúc 11-4-2013 11:27:52 | Chỉ xem của tác giả
Chương 33 - Ai nợ Ai



Tỉnh dậy, thấy Pusyse­da đang ngồi trước mặt, ánh mắt đăm chiêu, chăm chú quan sát gương mặt tôi. Tôi lẳng lặng đứng lên. Hôm nay là ngày cuối của tôi ở Khâu Từ, sắp xếp đồ đạc xong xuôi, nhét chặt hai chiếc balô North­face, lát nữa tôi sẽ đến điểm hẹn để gia nhập đoàn thương nhân.

Khoác áo lên người, tôi đưa tay xuống dưới gối, không thấy gì cả. Kéo gối ra, cũng không thấy. Nhìn quanh xem có rơi đâu đó không, vẫn không thấy. Đâu rồi nhỉ?

- Đừng tìm nữa.

Giọng nói đượm vẻ mệt mỏi của Pusyse­da cất lên:

- Tôi giấu đi rồi.

- Cậu…

Tôi nổi giận:

- Sao cậu làm vậy? Trả lại cho tôi.

- Không có cái vòng bự tướng ấy, chị sẽ không bay được lên trời.

- Cậu!

Việc đó mà cậu ta cũng nghĩ ra, thật liều lĩnh!

- Trả chiếc đồng hồ, à không, trả chiếc vòng lại cho tôi. Nếu cậu bất cẩn ấn vào nút đó, hậu quả khôn lường.

- Hậu quả ư?

Cậu ta cười mỉa, thái độ bất cần.

- Hậu quả là tôi sẽ bay lên trời ư?

- Không.

Không có áo chống tia phóng xạ, cậu ta chẳng thể bay đi đâu.

- Khi đó sẽ có một luồng ánh sáng cực mạnh, nếu bị chiếu vào, chỉ vài ngày sau, thân thể cậu sẽ tan rữa, cạn máu mà chết.

Tôi tưởng tượng ra hậu quả khủng khiếp ấy để doạ cậu ta.

- Được thôi, tôi sẽ không động vào bất cứ thứ gì. Nhưng, cái vòng đó, tôi sẽ giữ.

Pusyse­da tỏ ra không biết sợ hãi là gì, thản nhiên đứng lên, cười với tôi.

- Nếu chị cho rằng vào phòng tôi có thể tìm thấy chiếc vòng thì xin mời tự nhiên!

- Pusyse­da, cậu muốn gì?

Tôi mệt mỏi tựa vào thành giường, sao cậu ta cứ gây chuyện vào lúc tâm tư tôi rối bời thế này?

- Muốn gì chị còn không hiểu hay sao?

Cậu ta sáp lại gần tôi, đấy mắt vằn lên những tia đỏ.

- Tôi biết bây giờ chị vẫn chưa yêu tôi, nên tôi phải tận dụng thời gi­an.

Tôi cắn môi, nghiêng đầu đi, không muốn nhìn cậu ấy.

- Vô ích thôi.

- Cứ mặc tôi!

Cậu ta đột nhiên nổi đoá, cáu gắt:

- Dậy mau, đến giờ phải đi rồi!

- Đi đâu?

- Thành cổ Taqian. Tôi và các anh em sẽ đưa chị đến đó.

Tôi gần như bị cậu ta nhấc lên xe. Không muốn nhưng tôi không lại được với sức mạnh của cậu ta, chỉ đành ngậm đắng nuốt cay ngồi yên trong xe. Pusyse­da cùng bốn người bạn trong đội cấm vệ quân hộ tống tôi ra khỏi thành Khâu Từ.

Cỗ xe lắc lư, tôi thẫn thở, cảm giác có thứ gì đó đang dồn tụ trong lòng, muốn đẩy ra không đẩy được, muốn nuốt vào không nuốt được. Sáng sớm hôm qua, tôi đứng nép vào một góc tường cách cổng chùa không xa, lén dõi theo cậu ấy. Rất nhiều người đã đến tiễn Bun­da­hat­ta, người dân trong thành Sub­ash cũng kéo đến rất đông, cả biển người nhấp nhô, chen chúc, kín hết khoảng không gi­an trước cổng chùa. Tôi không thấy Ra­ji­va đâu cả. Mải đến khi cậu ấy lên lưng lạc đà, tôi mới vội đưa tay xoa nhẹ chiếc cổ đã tê dại vì mỏi của mình và dặn lòng không được chớp mắt. Cách nhau cả biển người mênh mông, nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận được nổi cô đơn trong mắt cậu ấy. Lúc Ra­ji­va đưa tay lên, để lộ chuỗi hạt bằng gỗ đàn hương đã sờn bạc, tôi bất giác nắm chặt vành khăn lụa Ata­la choàng trên cổ. Lục lạc vang lên lanh canh, Ra­ji­va dõi mắt kiếm tìm, nhưng vô vọng, cậu ấy cúi đầu, xoay người bước đi. Đoàn người dằng dặc nối nhau với những chiếc áo cà sa màu nâu sòng chầm chậm trôi xa, rồi mất hút ở một khúc quanh nơi hẻm núi Thiên Sơn heo hút. Tôi không nén nổi nước mắt.

Xe ngựa lắc lư, nghiêng ngả. Tôi mê man, đắm chìm trong từng khoảnh khắc của hồi ức, cho đến khi Pusyse­da thông báo đoàn xe phải dừng lại để dựng trại. Tôi phớt lờ sự tức giận trào lên trong sóng mắt Pusyse­da, ăn uống qua loa, rồi nhanh chóng rút về lán trại của mình.

Cậu ta bướng bỉnh đi theo, tôi lẳng lặng xoay lưng lại, nằm xuống ngủ, xem cậu ta như không khí. Pusyse­da thở dài, buồn bã, bước ra.

Chúng tôi đến Ta­ian lúc chiều muộn ngày hôm sau, hoàng hôn đổ dài trên những bức tường loang lổ. Chứng kiến khung cảnh tiêu điều ấy, nỗi buồn như thuỷ triều dâng lên xâm chiếm. Tôi chưa bao giờ cảm thấy chán nản với công việc như lúc này. Đột nhiên băn khoăn, liệu việc tiến hành khảo sát, đo đạt, xác định vị trí của một thành trì đã hoang tàn sau gần hai nghìn năm bể bãi nương dâu có thực sự ý nghĩa hay không? Con người luôn vội vã tiến về phía trước, mọi thứ trong thế kỷ XXI thay đổi chỉ trong tích tắc, liệu ai có đủ kiên nhẫn dừng bước để chiêm nghiệm những thứ đã thuộc về quá khứ?

Ra­ji­va cũng vậy, ngoài những nhà nghiên cứu về Phật giáo và lịch sử, thử hỏi có bao nhiêu người biết đến sự tồn tại của cậu ấy? Hoạt hình Nhật Bản đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của giới trẻ, nhưng thử hỏi có bao nhiêu bạn trẻ biết rằng, các nhân vật quen thuộc với tên gọi thường khiến chúng ta níu lưỡi khi đọc như:

Asura, Drag­on, Yak­sha, Gand­har­va, Garu­da, Kin­na­va, … đều là thành quả dịch thuật của Ra­ji­va?

Tôi uể oải lôi đồ nghề ra, mặc lòng có thích hay không, lúc này tôi phải làm một việc gì đó mới được. Nếu không, đầu óc tôi sẽ nổ tung vì những suy nghĩ chất ngất, hỗn độn mất! Lúc đầu tôi một mực từ chối sự giúp đỡ của Pusyse­da, nhưng cậu ta nằng nặc giằng lấy thước cuộn nên tôi đành để mặc cho cậu ta giúp.

Buổi tối, chúng tôi dựng trại trên nền đất cũ hoang tàn, đổ nát của thành phố cổ. Ngồi bên đống lửa gặm bánh nướng Khâu Từ trệu trạo nhai, nuốt từng miếng, tôi nhanh chóng “bỏ cuộc”, đưa mắt về phía toà thành hoang phế trong đêm u tịch. Không biết giờ này cậu ấy đang ở đâu? Có đang ngồi trước đống lửa và bận lòng về “ai đó” như tôi không? Còn nhớ lần đầu tiên gặp Ra­ji­va, cũng vào một đêm tháng 10 giữa sa mạc mênh mông hoang vu. Khi ấy cậu vẫn là một thiếu niên, đôi mắt long lanh, chăm chú nhìn tôi đầy vẻ hiếu kỳ.

- Chị đang nghĩ gì thế?

Một cốc nước được đẩy đến trước mặt tôi, ánh lửa bập bùng trong mắt Pusyse­da, cậu ta giống Ra­ji­va quá!

Tôi đón lấy cốc nước, áp tay vào sưởi ấm.

- Nơi đây từng là Đô hộ phủ của Ban Siêu tại Tây Vực, 16 năm chinh chiến của cha con Ban Siêu đã làm thay đổi lịch sử Tây vực và cả lịch sử Khâu Từ.

Pusyse­da ngồi xuống bên cạnh tôi, hướng mắt vào đống lửa.

- Kể cho tôi nghe về ông ấy đi.

- Tôi rất ngưỡng mộ Ban Siêu. Cha ông là Ban Bưu, anh trai là Ban Cố, em gái là Ban Chiêu, họ đều là những nhà sử học và nhà văn nổi tiếng thời Hán. Bản thân ông lúc đầu cũng theo nghiệp văn chương nhưng sau đó đã bỏ bút để cầm gươm.

Tôi nhấp một ngụm nước, hồi tưởng lại gia đoạn lịch sử hào hùng ấy.

- Hán Vũ Đế hạ lệnh cho Trương Khiên “khai thông” Tây vực, thi hành chính sách kết gi­ao hoà hảo, chỉ cần các tiểu quốc Tây vực thuận theo nhà Hán, không những không phải cống nạp, mà còn được Hán triều ban thưởng và cấp cho các kỹ thuật tiên tiến của Trung Nguyên. Thái độ cầu hoà này khác hẳn với chính sách xâm chiếm tàn bạo của quân Hung Nô đối với Tây vực. Bởi vậy, trong một thời gi­an dài, Tây vực đã hoàn toàn quy thuận triều Hán, khiến quân Hung Nô vô cùng tức tối. Nhưng đến cuối đời Hán, Vương Mãng soán ngôi, thiên hạ đại loạn, quân Hung Nô được dịp ngóc đầu dậy, khống chế toàn bộ Tây vực. Đến khi Minh Đế, con trai của Quang Vũ Đế lên ngôi mới phải Đậu Cố điều binh tấn công quân Hung Nô ở phía Bắc. Từ đó, lịch sử đã viết những trang hào hùng về cuộc đời người anh hùng Ban Siêu.

Thành quách tiêu điều ủ mình trong gió thu se sắt là chứng tích của những tháng năm huy hoàng ấy. Ban Siêu cùng với đội quân 36 người của mình đã chiến đấu và tiêu diệt 130 tên địch, từ chiến thắng đó, người đời mới có câu ngạn ngữ “không vào hang cọp làm sao bắt được cọp con”. Khi Hán Chương Đế quyết định từ bỏ tây vực và hạ chiếu triệu hồi Ban Siêu về Trung Nguyên, ông đã kháng chỉ và cùng các tộc người Tây vực kiên trì trấn giữ Salaq suốt năm năm trời. Số binh lính người Hán dưới quyền chỉ huy của ông không nhiều, nhưng ông đã thuần phục được các tiểu quốc Tây vực bằng nhân cách và tài trí của mình.

Sau rất nhiều nỗ lực của cha con Ban Siêu, Khâu Từ đã quy thuận nhà Hán. Vương triều nhà Bạch do Ban Siêu dưng lên đã cai quản Khâu Từ gần tám trăm năm. Nhưng đến thời kì này, Khâu Từ không còn nghe theo hiệu lệnh của Trung Nguyên nữa, nên mới dấy lên cơn binh biến, để rồi mười một năm sau, Ra­ji­va sẽ phải đối diện với bước ngoặt lớn trong cuộc đời.

Trái tim như vỡ ra, rỉ máu, cảnh sắc trước mắt như cũng nhuốm một màu sẫm đỏ. Tôi nhắm mắt lại.

- Sao chị không kể tiếp?

- Cậu là người khâu Từ kia mà, sao lại không hay biết về gi­ai đoạn lịch sử này?

Mở mắt ra, sắc đỏ biến mất, chỉ thấy đôi mắt Pusyse­da long lanh, dò xét. Tôi cười buồn.

- Tôi không sao, không cần nghĩ cách làm thay đổi tâm trạng của tôi đâu.

Cậy ấy mỉm cười, rồi yên lặng.

- Quan hệ giữa cậu và Bạch Chấn thế nào?

Cậu ta nheo mày.

- Vẫn ổn, sao chị hỏi chuyện này?

Tôi do dự nhưng rồi vẫn quyết định nói ra:

- Cậu đừng làm quân nhân nữa, được không?

Pusyse­da tỏ ra kinh ngạc, nhìn tôi đầy nghi hoặc.

- Có thể cậu cho rằng lời nói của tôi là hàm hồ, nhưng hãy tin tôi, những gì tôi nói đều là sự thật.

Tôi nhìn thẳng vào mắt cậu ta, chậm rãi buông từng tiếng:

- Ngày sau, Khâu Từ sẽ trải qua biến cố rất lớn, gia nhập quân đội sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Hãy kết thân với Bạch Chấn, người đó rất có thể sẽ là chỗ dựa của cậu trong tương lai.

Pusyse­da dường như quá đỗi kinh ngạc, trầm ngâm hồi lâu. Lúc sau mới nhếch môi cười rất khó khăn:

- Không ngờ, chị cũng đã tiết lộ cho tôi biết trước tương lai của mình.

Chưa hết ngạc nhiên, bàn tay tôi đã bị cậu ta nắm chặt, giọng nói dịu dàng đến bất ngờ.

- Ở lại bên tôi, cùng tôi vượt qua gi­ai đoạn khó khăn mà chị vừa nói, được không?

Cậu ta đặt tay tôi vào lòng mình.

- Chị là tiên nữ giàu lòng từ bi, chắc sẽ không để mặc tôi chịu khổ, đúng không?

Tôi gượng gạo vùng thoát, chạm phải vết thương, không chịu nổi tôi kêu đau Pusyse­da lập tức buông tay.

Cậu ta thở dài, vẻ đau buồn gợn trong đáy mắt, quay lại với ngọn lửa bập bùng.

- Ngải Tình, nếu tôi xuất gia, liệu chị có thích tôi không?

- Cậu!

Tôi giật mình:

- Cậu nói bậy cái gì thế!

Cậu ta cười vang:

- Đùa chị thôi. Tôi mà xuất gia, sẽ có không biết bao nhiêu cô nàng khóc sưng mắt lên mất! Rồi tôi lại phải phá giới để dỗ dành họ thôi! Người như tôi, chẳng thể thành Phật được.

Tôi bật cười:

- Pusyse­da, rốt cuộc cậu thích tôi ở điểm nào?

- Không biết. Chị có xinh lắm đâu, ngực lại nhỏ, không biết tôi thích chị ở điểm gì cơ chứ?

Cậu ta nhìn tôi, nụ cười vụt tắt, nhẹ nhàng cất giọng:

- Ngải Tình, chị rất thuần khiết.

Đôi mắt màu xám nhạt từ tốn chiêm ngưỡng khuôn mặt tôi.

- Đôi mắt thuần khiết, nụ cười thuần khiết, tâm hồn thuần khiết. Ở bên chị, tôi thấy mình cũng trở nên thuần khiết, không muốn nghĩ đến những chuyện bậy bạ nữa.

Cậu ta nhắm mắt lại, lúc mở ra nhìn tôi, ánh mắt buồn xa xăm.

- Ngải Tình, chị nhất định phải về trời ư, không thể lưu lại nhân gi­an ư?

Tôi đứng lên.

- Khuya rồi, đi nghỉ thôi.

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi lên đường quay về. Tôi vốn chẳng có hứng để làm việc, lại cũng không muốn ở cùng Pusyse­da, nên đã đề nghị về sớm. Nhất định phải lấy lại được chiếc đồng hồ vượt thời gi­an. Tôi đã ở Khâu Từ gần nửa năm, nếu không gấp rút lên đường, có khi vừa đặt chân tới kinh đô Trường An, thời hạn một năm đã hết, chưa gặp được Phù Kiên đã phải quay về thế kỷ XXI cũng nên.

Chúng tôi phải dựng trại qua đêm trên đường, lẽ ra chỉ tối hôm sau là có thể về đến thành Khâu Từ. Nào ngờ, trưa hôm đó khi chúng tôi đang nghỉ ngơi trong rừng dương thì đã xảy ra một biến cố lớn.

Khi ấy chúng tôi vừa nghỉ ngơi xong, đang chuẩn bị lên đường. Vừa bước vào xe, tôi bỗng nghe thấy những tiếng động lạ. Khẽ thò đầu ra ngoài thì một vật thể lạ đột ngột bay vút tới, cắm phật vào cửa xe, tôi lập tức nhận ra đó là một mũi tên. Tiếng Pusyse­da gào lên:

- Ngải Tình, vào xe, ngồi yên trong đó!

Vừa ngồi xuống, cỗ xe bỗng nghiêng về phía sau, bên ngoài, tiếng ngựa hí lên thảm thiết, cỗ xe lao đi như bay. Xe ngựa rung lắc dữ dội khiến tôi ngã lên ngã xuống đau điếng, tôi cố sức bò ra cửa xe. Vất vả lắm mới kéo nổi rèm cửa, tôi thấy một mũi tên cắm trên lưng ngựa còn phu xe thì đã mất tăm mất dạng từ bao giờ. Bốn bề là sa mạc hoang vắng, không thấy Pusyse­da. Tôi chao đảo, choáng váng, buồn nôn nhưng vẫn gắng gượng lết đến bên cánh cửa, cắn răng, co người nhảy xuống. Không biết tôi đã lăn trên mặt đất bao nhiêu vòng, chỉ thấy cánh tay bị thương truyền đến cơn tê buốt, rụng rời.

Sau đó, đầu tôi va phải một vật gì đó rất lạnh, trời đất tối sầm và tôi không thấy gì nữa cả.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

38#
 Tác giả| Đăng lúc 11-4-2013 11:34:49 | Chỉ xem của tác giả
Chương 34: Cách biệt phương trời




Mọi thứ trước mắt dần trở nên rõ ràng hơn, đôi mắt màu xám nhạt đang nhìn tôi đầy vẻ lo âu, chớp mắt, tôi nhận ra Pusyse­da.

- Ơn trời, chị tỉnh lại rồi!

Cậu ta muốn ôm tôi, nhưng cánh tay chạm phải vết thương của tôi, cơn đau dội về, mồ hôi đầm đìa trên trán tôi.

- Xin lỗi, tôi vụng về, thô lỗ quá!

Cậu ta vội buông tay tôi, chăm chú quan sát vết thương của tôi.

- Đừng lo, tôi nhất định sẽ chữa khỏi cho chị.

Đưa mắt nhìn quanh, vậy là tôi đã trở về căn phòng của mình ở phủ quốc sư. Cánh tay được phủ kín bởi không biết bao nhiêu lớp vải quấn, vết thương sưng lên thật đáng sợ.

Tôi hỏi Pusyse­da đã xảy ra chuyện gì qua làn hơi yếu ớt của mình. Thì ra là một vụ cướp bóc thường gặp ở vùng này. Đám cướp thấy đoàn chúng tôi, tính cả phu xe cũng chỉ vỏn vẹn sáu người đàn ông, nên đã tấn công trực diện. Nhưng Pusyse­da và bốn người bạn của cậu ta lại là những binh lính được đào tạo bài bản, một người có thể hạ gục bốn tên, đám cướp biết không thể làm bậy, đã bỏ chạy. Bọn họ không hề hấn gì cả, chỉ có tôi là kém may mắn nhất, đầu đập vào phiến đá, ngất đi, nhưng đó chưa phải là điều khiến tôi lo sợ, đáng ngại nhất là vết thương chưa lành, nay lại chịu thêm chấn thương nghiêm trọng. Các khớp xương ở khu vực nhạy cảm vốn đã rất khó liền, bây giờ lại càng nguy hiểm hơn.

Pusyse­da nổi trận lôi đình muốn trị tội tên phu xe nhát gan bỏ trốn, nhưng tôi đã ngăn lại. Dù sao đó là bản năng tự bảo vệ để có thể tiếp tục sinh tồn mà thôi.

Ngự y trong cung đã đến, khi cánh tay được vén lên, tôi rụng rời. Nếu không phải là một phần thân thể mình, chắc chắn tôi sẽ cười phá lên và bảo rằng, cánh tay trông như chân giò ninh nhừ ấy! Vết thương đã bị vi khuẩn tấn công, rất có thể sẽ bị hoại tử. Trời ơi, sao lại như thế được! Vết thương này đã bám theo tôi gần nửa năm, tôi vẫn tích cực chữa trị kia mà, vì sao khả năng phục hồi lại kém như vậy?

- Ngải Tình, đừng sợ!

Pusyse­da nắm chặt cánh tay còn lại của tôi, cậu ta dường như còn sợ hãi hơn cả tôi.

- Chờ nhé, tôi sẽ vào cung tìm loại thuốc tốt nhất cho chị.

Pusyse­da vội vã rời phủ cùng ngự y, tôi nằm trên giường suy nghĩ mông lung. Rốt cuộc là vì sao? Lẽ nào, vì tôi sử dụng cỗ máy vượt thời gi­an quá nhiều lần, nên đã bị nhiễm phóng xạ? Cánh tay tôi, liệu có tàn phế?

Càng nghĩ càng sợ hãi, không chịu nổi nữa, tôi bèn ngồi dậy. Tôi nói với cô người rằng tôi muốn một mình yên tĩnh, sau đó tôi cắn răng chịu đau, lê bước đến phòng Pusyse­da. Chắc chắn cậu ta đã cất giấu chiếc đồng hồ ở một nơi nào đó rất kín đáo. Tôi gõ nhẹ vách tường, rồi lật tìm trong tủ sách. Chỉ dùng được một bên tay nên động tác rất chậm. Trong lòng bồn chồn, lo lắng, không biết khi nào cậu ta sẽ về?

Tôi bám vào thành giường, quỳ xuống, thò tay vào gầm giường tìm kiếm. Hình như tay tôi chạm phải một vật gì đó, tôi mừng rỡ, kéo ra ngoài. Đó là một chiếc hộp gỗ hình chữ nhật rất bình thường, chỉ rộng bằng tờ giấy A8. Tôi cuống quít mở hộp và toàn thân như hóa đá.

Chỉ vài ba nét phác họa nhưng đã tái hiện được hình ảnh một cô gái với nụ cười rạng rỡ, sống động, trang phục giản dị, gương mặt tươi tắn, người đó chính là tôi! Bức họa được vẽ bằng giấy nháp và bút chì của tôi.

Trang tiếp theo là một bức vẽ bán thân của tôi, đôi mắt trong sáng, lí lắc, nụ cười ngây ngô đậu trên khóe môi. Tiếp theo nữa là bức vẽ tôi cưỡi trên lưng lạc đà, vẻ mặt khổ sở vì ngồi không vững, suýt nữa thì ngã nhào xuống đất. Tiếp theo là bức vẽ tôi ngủ gục trên bàn, mái tóc dài xõa xuống, che khuất nửa khuôn mặt. Một bức vẻ mô tả động tác nghiêng đầu, há miệng kỳ quặc của tôi, hình như lúc tôi hát. Có cả bức vẽ khi tôi trầm ngâm, chăm chú đọc sách…

- Cảm động lắm hả?

Tôi giật bắn, chiếc hộp rơi xuống nền nhà, tập giấy vương vãi.

Pusyse­da ngồi xuống, lượm nhặt từng tờ, xếp gọn lại, nở nụ cười khó hiểu.

- Nếu tôi nói với chị đó là những bức tranh do tôi vẽ, chị sẽ yêu tôi chứ?

- Tôi…

Nước mắt lăn dài trên má.

- Pusyse­da…

Cậu ta lật mở từng trang, ánh mắt đổ dồn vào những bức vẽ, điệu cười buồn bã.

- Vẽ rất có hồn phải không?

Những bức về sau không đẹp lắm, nét vẽ thô lậu, xuất hiện nhiều dấu vết của sự tẩy xóa. Thần thái của tôi không sống động như những bức vẽ trước. Pusyse­da lật đến những trang cuối cùng, người trong hình không phải tôi. Đó là những bức chân dung Ra­ji­va do chính tôi vẽ. Nụ cười ấm áp, một bên vai để trần, thân hình gầy gò. Hình vẽ khá giống, có điều, chưa lột tả được hết thần thái của cậu ấy.

- Tôi cũng mong đây là những bức tranh do tôi vẽ.

Cậu ta vẫn không rời mắt khỏi những bức họa, bàn tay run run.

- Như thế, sẽ khiến chị cảm động. Ngải Tình, lúc gặp chị tôi mới mười tuổi và chúng ta chỉ sống cùng nhau vẻn vẹn ba tháng. Khi trưởng thành, tôi chỉ nhớ mình từng gặp tiên nữ, nhưng dung mạo của cô tiên nữ đó thế nào, tôi không nhớ nữa. Trong ký ức của tôi, chỉ vương vấn lại những bài hát của chị, tiếng cười lảnh lót của chị lúc chơi đùa với tôi trong sân nhà và hơi ấm của chị mà thôi. Chắc chị đã đoán được những bức họa này do ai vẽ? Cô gái trong tranh có đôi mắt thuần khiết, trong sáng mà tôi không thấy được từ những người phụ nữ bên cạnh tôi những năm qua. Đôi mắt ấy đã đánh thức ký ức về chị trong tôi. Trong phút chốc những kỷ niệm thuở nhỏ hiện ra thật sống động. Chị dạy tôi trò oẳn tù tì, chị cùng tôi đóng kịch tướng quân và kẻ cướp, chị cùng tôi đắp người tuyết, chị dạy tôi học Hán ngữ cổ đại, chị vừa vỗ lưng vừa hát ru tôi ngủ. Mọi thứ đều mới mẻ như mới hôm qua. Từ lúc đó, tôi luôn mong mỏi được gặp lại chị.

- Tôi đã lấy trộm những bức vẽ này. Anh ta không dám đòi lại, nhưng tôi biết anh ta đã đến đây lục tìm rất nhiều lần. Một năm qua, tôi vẫn thường lật mở, ngắm nghía những bức vẽ này và sau đó thì rất tức giận. Vì sao anh ta vẽ được chân dung chị sống động, có hồn đến thế, khiến cho tôi mỗi lần nhìn ngắm lại khao khát được gặp chị. Anh ta chưa bao giờ nổi tiếng về tài vẽ tranh, điều đó chứng tỏ anh ta đã phác họa hình ảnh chị trong trái tim mình hàng ngàn hàng vạn lần, mới có thể vẽ được những bức chân dung tài hoa đến thế!

Tôi run rẩy đưa tay ra, muốn lấy lại những bức hình, Pusyse­da do dự giây lát, rồi trả cho tôi. Tôi chậm rãi lật mở từng trang, những nét vẽ từ gượng gạo, thô kệch đến bay bổng tinh tế và cuối cùng là sống động, hài hòa. Phải chăng vì thế mà cậu ta từng thú nhận: mười năm trước, mười năm qua vẫn luôn vi phạm giới luật. Không biết từ khi nào, tôi đã bước vào trái tim cậu ấy, đến tận nơi sâu thẳm nhất.

Tôi không khóc nổi, vết nứt trong trái tim ngày một khoét rộng ra, cảm giác như tôi đã hoàn toàn mất nó.

- Ngải Tình!

Pusyse­da ôm chặt lấy hai vai tôi, sợ hãi kêu lên.

- Chị sao vậy?

Tôi làm sao? Một giọt màu đỏ rơi xuống, thấm nhòe trên nụ cười ngây ngô của tôi. Một giọt khác che khuất ánh mắt sáng long lanh của tôi.

Một cánh tay vươn đến, cuống quít chặn trước mũi tôi, ngón tay dính đầy những giọt đỏ tươi. Tôi gắng gượng ngẩng đầu nhìn lên, bắt gặp vẻ mặt hoảng sợ của Pusyse­da. Tôi muốn nói rằng tôi không sao, nhưng vừa định mở miệng, dòng máu đỏ đã trào ra, nở bung như những bông hoa nhỏ, sắc đỏ vương lên những bức tranh chân dung của tôi. Cơ thể tôi ngày càng mệt mỏi, rã rời, đầu óc quay cuồng hỗn loạn, trong khoảnh khắc, mọi thứ bỗng trở nên tịch lặng.

Tôi gắng mở mắt, đây là căn phòng của tôi, Pusyse­da ngồi bên cạnh, hai mắt thâm quầng. Thấy tôi tỉnh lại, cậu ta cuống quýt hỏi han đủ thứ.

Tôi ra hiệu muốn uống nước, Pusyse­da vội mang đến một cốc nước nóng. Hơi ấm của nước lan tỏa khắp cơ thể, tôi đã lấy lại được một chút cảm giác. Tôi lặng nhìn cậu ta, không muốn nói năng gì, cũng không đủ sức để cất lời.

- Ngải Tình, đừng nhìn tôi như vậy!

Cậu ta nghiêng đầu tránh đi, giọng nói nghẹn ngào:

- Kể từ lúc chị ngắm nhìn những bức vẽ đó, tôi biết mình đã thua. Thực ra, tôi chưa bao giờ thắng. Chị luôn thuộc về anh ta, mười năm trước đã như vậy rồi.

Cậu ta hít một hơi rất sâu, gắng giữ cho hơi thở ở trạng thái bình thường.

- Anh ấy sắp về rồi. Tôi đã cử người đi thông báo.

Tôi kinh ngạc bật dậy, nhưng cơn đau khiến tôi đổ xuống. Pusyse­da vội lao đến giữ chặt lấy tôi, ánh mắt đau khổ xen lẫn lo âu nhìn tôi, giọng nói đầy xúc động:

- Khi nào Ra­ji­va về đây, tôi sẽ xin với đức vua cho phép anh ấy hoàn tục. Nếu anh ấy không đồng ý, tôi sẽ dần cho một trận.

- Không được!

Tôi thốt lên trong hơi thở cực nhọc.

- Vì sao?

Cậu ấy kề sát mặt tôi, nỗi bi ai hiển hiện trên nét mặt.

- Hai người yêu thương nhau kia mà? Vì sao phải đày đọa bản thân như vậy? Nếu thật lòng yêu chị, anh ấy nên từ bỏ thân phận tăng sĩ của mình.

Nước mắt lăn dài trên má.

- Pusyse­da, không kịp nữa rồi…

Vết thương lâu lành, hai lần chảy máu cam và một lần thổ huyết, tôi biết sức khỏe của mình đã chịu tổn thương khá nghiêm trọng qua những lần vượt thời gi­an, mặc dù không biết đã mắc bệnh gì, nhưng tôi hiểu rằng mình không thể tiếp tục ở lại, tôi phải nhanh chóng quay về. Tôi nghĩ vết thương của tôi không chỉ đơn giản là cánh tay sắp gãy kia. Tôi cay đắng nhận ra rằng, thay đổi lịch sử thì phải trả giá.

- Hãy trả lại tôi chiếc vòng đó…

Tôi thốt lên từng tiếng khó khăn

- …Nếu cậu không muốn tôi chết…

- Ngải Tình!

Cậu ta ôm chầm lấy tôi, nghẹn ngào:

- Là lỗi của tôi, tôi đã ép chị ở lại, mà quên rằng, tiên nữ không thuộc về nơi này…

Pusyse­da nhẹ nhàng ngả đầu tôi xuống gối, những giọt đau thương đọng trên khóe mắt, vành môi run run.

- Tôi trả chị về trời.

Khâu Từ vốn ít mưa, mùa thu lại càng khô nẻ. Nhưng vào ngày cuối cùng tôi ở đây, cơn mưa giăng giăng ngoài cửa sổ, bầu trời u ám, lạnh lẽo và thê lương như tâm trạng của tôi lúc này. Pusyse­da cho mọi người trong phủ nghỉ làm một ngày, để không ai bị choáng váng trước sự biến mất kỳ lạ của tôi. Sức khỏe yếu ớt, nên chỉ với một bên tay trái, tôi không thể tự mặc áo chống phóng xạ, Pusyse­da đón lấy chiếc áo, giúp tôi.

Nếu không bị ốm, chắc chắn khuôn mặt tôi đã đỏ gay đỏ gắt. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi để một người con trai mặc áo cho mình và người đó lại áp sát thân mình vào người tôi thế này. Tôi tựa vào khuôn ngực vạm vỡ của Pusyse­da, hai má nóng bừng, vừa hướng dẫn cậu ta kéo những chốt khóa phức tạp. Tuy hơi vụng về nhưng cậu ta rất tập trung, thận trọng và tỉ mỉ, vừa thao tác vừa không ngừng hỏi tôi, có đau không.

Khuôn mặt cậu ấy cũng ửng đỏ, nhưng đôi mắt ắp đầy nỗi buồn thương vô hạn, khiến tôi không dám nhìn. Cánh tay bị thương của tôi sưng tấy nghiêm trọng, không sao đút vừa tay áo, mồ hôi ướt đầm vầng trán. Cậu ta lập tức dừng lại, nâng cánh tay của tôi lên ngắm nghía với vẻ xót xa. Tôi ra hiệu cho cậu ta tiếp tục. Pusyse­da cắn răng, dường như phải tốn sức lắm để có thể luồn tay áo qua cánh tay tôi. Khi lớp vải cọ vào vết thương, tôi như muốn ngất đi vì nhức buốt.

- Tôi chưa bao giờ mất nhiều thời gi­an để mặc quần áo như thế này.

Tôi nén cơn đau, mỉm cười với cậu ta.

Pusyse­da có chút ngạc nhiên, miễn cưỡng nở một nụ cười méo mó.

- Đây cũng là lần đầu tiên tôi giúp phụ nữ mặc quần áo.

Ánh mắt cậu ta dừng lại nơi miếng ngọc hình sư tử trên cổ tay tôi, với tay chạm khẽ:

- Hứa với tôi, chị sẽ luôn đeo nó bên mình, để thỉnh thoảng còn nhớ đến tôi.

Tôi gật đầu, cảm giác như sắp nghẹt thở trong bầu không khí ngậm ngùi này, tôi gắng sức diễn một nụ cười ngô nghê “thương hiệu” Ngải Tình.

- Pusyse­da, tiết lộ cho cậu biết “định luật ba không” mà các bạn nam trường tôi khi theo đuổi các bạn nữ luôn ghi nhớ.

Pusyse­da quả nhiên rất tò mò.

- “Định luật ba không” ư?

Tôi cười.

- Bụt chùa nhà không thiêng. Chia tay rồi là không vương vấn. Con gái không phải lá mùa thu.

Cậu ta lẩm nhẩm đọc đi đọc lại, điệu bộ rất mắc cười, sau đó quay ra chọc tôi:

- Cho chị thêm một cơ hội cuối cùng, đừng để đến khi đám phụ nữ xinh đẹp vây lấy tôi mới lại hối hận.

Tôi cười vang, mặc cho cánh tay bị thương truyền đến cơn nhức nhối. Đã rất lâu rồi mới lại được thấy Pusyse­da vui vẻ như vậy.

Cậu ta giúp tôi khoác bộ Hán phục ra bên ngoài lớp áo chống phóng xạ, rồi xách hai chiếc ba lô North­face đến trước mặt tôi.

- Tôi không muốn chị vác theo hai cái ba lô khổng lồ này. Chị yếu như vậy…

- Không sao, cậu cứ đeo lên vai giúp tôi.

Pusyse­da nhẹ nhàng ôm lấy tôi, cử chỉ dịu dàng khác hẳn thường ngày.

Rất lâu không thấy cậu ấy buông ra, tôi đành chủ động lên tiếng:

- Tôi đi đây!

Pusyse­da ngoảnh đầu đi, khẽ hỏi:

- Không chờ anh ấy về sao? Chắc là sắp đến nơi rồi.

Tôi lắc đầu. Còn nhớ, buổi tối ở Sub­ash, Ra­ji­va từng hỏi tôi có muốn cậu ấy hoàn tục không. Giả dụ tôi bất chấp lịch sử, khiến cho dịch giả Phật học lừng danh Ku­mara­ji­va biến mất, rồi cậu ấy sẽ ra sao? Cậu ấy có lí tưởng vĩ đại, có nhân sinh quan của riêng mình. Nếu phải xa rời nơi cậu ấy đã gắn bó từ thuở nhỏ để đến thế giới hiện đại làm một người bình thường, liệu cậu ấy có thể chấp nhận được không, có thể thích ứng được không?

Kết thúc truyện cổ tích luôn là hoàng tử và công chúa sống bên nhau hạnh phúc. Nhưng cuộc sống chung ấy sẽ ra sao? Những lo toan thường nhật sẽ bào mòn nỗi háo hức ban đầu của cậu ấy. Cậu ấy sẽ trở nên hụt hẫng, hoang mang, mất đi phương hướng trong cuộc sống. Tình yêu dù có đẹp đẽ đến đâu cũng không thể bù đắp những dày vò về tinh thần khi lý tưởng bị đánh cắp. Bởi vậy, tôi không thể nhẫn tâm ép buộc cậu ấy phải lựa chọn.

Tôi là người rất thực tế, tôi trở về để giữ mạng sống. Nếu nhất định phải ra đi và không muốn cậu ấy phải khó xử, chi bằng không gặp, gặp nhau chỉ thêm đau lòng! Hơn nữa, gặp cậu ấy, tôi không dám đảm bảo sẽ vẫn giữ vững được lập trường của mình. Lặng lẽ ra đi, đối với cả hai chúng tôi, có lẽ là cách từ biệt tốt nhất…

- Khi nào chị trở lại?

- Tôi không biết.

Tôi gượng cười, đúng là tôi không biết. Sau khi quay về, tôi không biết mình có mắc bệnh gì không. Tôi không biết nhóm nghiên cứu có tiếp tục để tôi vượt thời gi­an lần nữa không. Nếu tiếp tục vượt, tôi không biết có quay lại không gi­an và thời gi­an này không. Có quá nhiều điều tôi chưa thể biết, nhiều chuyện sẽ xảy ra ngẫu nhiên, nếu tính theo phương pháp xác suất, thì cơ hội là bằng không. Vậy nên, có lẽ chúng tôi không còn cơ hội gặp lại nữa…

- Nếu ta không gặp gỡ

Ta đã chẳng yêu nhau.

Nếu ta không thấu hiểu

Ta đã chẳng thương nhau… [22]

Tôi lẩm nhẩm những câu thơ của Tsangyang Gy­at­so, vị Đạt Lai đời thứ sáu của Tây Tạng, nỗi bi thương, phút chốc như khiến tôi già đi mấy chục tuổi. Tôi đã lưu lại nơi này cả tâm hồn mình! Thứ tôi mang theo chỉ là một cơ thể suy nhược, không trái tim… mà thôi…

- Ngải Tình…

Pusyse­da xiết chặt lấy tôi thêm một lần nữa, cúi đầu hôn nhẹ lên trán tôi. Nụ hôn của cậu ấy nóng ran, chất chứa nỗi lòng sinh ly tử biệt. Rất lâu mới nhẹ nhàng thả tôi ra, giúp tôi đội mũ chống phóng xạ lên đầu, kéo khóa lại, chậm chạp bước ra ngoài, nhưng đến cửa vẫn lưu luyến quay lại nhìn tôi.

- Pusyse­da!

Tôi hét to khi cánh cửa đóng lại,

- Hãy sống thật hạnh phúc! Hãy tìm một người phụ nữ thật lòng yêu cậu!

- Tôi hứa…

Giọng nói nghẹn ngào của cậu ta lướt qua khe cửa.

- Khi trở lại, chị sẽ được thấy tôi sống vui vẻ như thế nào…

Tôi bật công tắc, đèn tín hiệu nhấp nháy, đồng hồ bắt đầu đếm ngược. Tôi đưa mắt nhìn lại căn phòng một lần nữa, những chữ viết siêu vẹo của Pusyse­da trên tường, những bức tranh Ra­ji­va vẽ chân dung tôi, Pusyse­da đã hứa sẽ trả lại cho cậu ấy. Thế giới này sẽ biến mất trong vòng chưa đầy một phút nữa. Ra đi, mong là tôi có thể quên tất cả…

Giây phút vút bay lên không trung, hình như tôi nghe thấy tiếng gọi xé lòng của ai đó, là ai? Ai gọi tên tôi thương tâm nhường vậy? Sao tôi không thể thấy…


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

39#
 Tác giả| Đăng lúc 11-4-2013 11:40:14 | Chỉ xem của tác giả
Chương 35 - Pusyseda ngoại truyện 1


Có lẽ phần lớn mọi người đều không nhớ được nhiều chuyện diễn ra khi mình bốn tuổi. Tôi thì khác, con số ấy đã hằn lên trong kí ức của tôi một đường ranh giới rất rõ rệt. Vì trước bốn tuổi, gia đình tôi có mẹ và anh trai, sau bốn tuổi, gia đình chỉ còn lại tôi và cha.

Còn nhớ hôm ấy, anh trai không chơi đùa với tôi như mọi ngày mà dắt tay tôi, nín thở nép vào một góc, ngó vào căn phòng của cha mẹ. Hồi đó, cứ có thắc mắc gì tôi lại đem ra hỏi anh trai. Trong mắt tôi, anh ấy là người biết mọi thứ, có thể trả lời mọi câu hỏi. Anh trai nói với tôi rằng, mẹ đã nhịn ăn nhịn uống sáu ngày rồi, vì mẹ muốn đi tu.

Đi tu nghĩa là sao?

Đi tu nghĩa là mẹ muốn dọn đi khỏi nhà.

Thừa lúc anh trai lơ đễnh, tôi chạy vào phòng cha mẹ, tôi muốn cầu xin mẹ đừng đi. Nhưng tôi không thấy mẹ đâu, chỉ có cha đang ngồi khóc với một nắm tóc dài màu hung trên tay. Thấy tôi, cha vội vã giấu nắm tóc ra sau lưng, cuống cuồng lau nước mắt và kêu anh trai đưa tôi ra ngoài.

Tôi hỏi anh, vì sao đi tu lại phải cắt bỏ mái tóc đẹp như vậy?

Anh tôi bảo, đi tu thì không cần bất cứ thứ gì nữa cả.

Mẹ đã dọn đi thật và không mang theo gì hết. Lúc ra khỏi nhà, mẹ được người ta khiêng trên kiệu, mẹ dựa vào thành ghế, sắc mặt rất kém, mái tóc bồng bềnh ngày nào không còn nữa. Đột nhiên tôi thấy sợ, tôi cảm thấy mẹ tôi thật xa lạ. Mấy ngày sau, cha dẫn tôi và anh trai đến chùa thăm mẹ. Tôi đã quen với hình ảnh mẹ trong những bộ trang phục đẹp đẽ, hôm đó nhìn mẹ mặc áo cà sa, hình ảnh đẹp đẽ trong tôi bỗng nhiên biến mất.

Kể từ hôm đó, cứ cách năm ba ngày cha lại đưa tôi và anh trai đến chùa. Mẹ đã thay đổi hoàn toàn, trước kia mỗi khi cha chạm vào người mẹ, mẹ sẽ cười duyên dáng, nhưng bây giờ, hễ cha định chạm vào người mẹ là mẹ né tránh, rồi mẹ chắp tay lại hành lễ với cha (mãi về sau tôi mới hiểu nghi lễ đó nghĩa là gì). Còn tôi, tôi khao khát được mẹ ôm vào lòng, nhưng mẹ chần chừ, do dự. Những lúc như thế, cha lại ôm chầm lấy tôi, những giọt nước mắt tôi không bao giờ muốn thấy lại lăn dài trên gò má cha. Lớn lên tôi mới biết, như thế gọi là đau khổ. Và kể từ đó, tôi không đòi mẹ ôm nữa.

Lần nào đến chùa, ba cha con cũng ở lại cả ngày liền, ngồi nghe những người mặc bộ trang phục giống hệt mẹ và cũng không có tóc như mẹ lầm rầm đọc những câu gì đó tôi không hiểu được. Cha muốn tôi ngồi yên, nhưng tôi cảm thấy bứt rứt, khó chịu nên lăn ra ngủ lúc nào không biết. Nhưng anh trai tôi thì khác. Anh ấy lắng nghe rất chăm chú, sau đó đọc lại cho một cụ già những gì anh ấy nghe được. Cụ già hình như rất mến anh ấy, rì rầm trò chuyện rất lâu với cha mẹ tôi. Thế rồi, anh tôi nói rằng anh ấy cũng muốn đi tu.

Anh trai cũng dọn ra khỏi nhà ư? Vậy ai sẽ chơi đùa với tôi?

Tôi gào khóc ầm ĩ nhưng vẫn không ngăn được anh tôi ra đi. Tôi và cha đành bất lực đứng nhìn anh ấy khoác lên người bộ quần áo giống hệt mẹ, quỳ dưới đất, để cụ già đó cạo từng lọn tóc màu đồng dài đến ngang vai của anh ấy. Cha nắm tay tôi rất chặt khiến tôi muốn kêu đau, nhưng nhìn ánh mắt rầu rĩ, buồn thảm của cha, không hiểu sao, tôi lại nén được cơn đau ấy.

Anh em tôi chơi trò đuổi bắt trên mảnh sân nhỏ trong chùa. Anh trai bịt mắt lại, quờ quạng tìm tôi, tôi nhảy bên nọ nhảy bên kia né tránh. Đã rất lâu rồi tôi mới lại được chơi vui như thế. Anh trai túm được một người, hớn hở reo lên: bắt được rồi! Chưa kịp thông báo với anh ấy không phải là tôi, thì anh ấy đã phát hiện ra. Người đó là sư phụ Phật Đồ Thiệt Di của anh trai tôi, một cao tăng trong chùa Tsio – li. Thấy sư phụ, khuôn mặt anh trai tôi biến sắc, anh ấy cúi đầu lắng nghe ông cụ giảng giải về sự tĩnh tâm tọa thiền gì đó. Hôm ấy là lần cuối cùng anh trai chơi đùa cùng tôi.

Kể từ đó, mỗi lần đến chùa, tôi lại thấy mẹ và anh trai cầm những cuốn sách rất dày trên tay, họ chỉ khẽ hé môi cười với cha con tôi. Không ai ôm tôi vào lòng, cũng không ai chơi với tôi cả, tôi bắt đầu thấy ghét khi phải đến chùa. Nhưng cha vẫn muốn đi, được thôi, tôi sẽ vờ như mình cũng muốn đi. Từ năm bốn tuổi tôi đã biết cách đóng kịch để cha vui lòng.

Khi tôi lên sáu, mọi nơi trong thành Khâu Từ, người ta không ngớt lời bàn tán, khen ngợi anh trai tôi vì anh ấy đọc thuộc được rất nhiều kinh văn Phật giáo. Mẹ nói với cha, không thể để anh trai tôi bị vây bọc trong những lời ca tụng ấy, mẹ nói sẽ đưa anh đi học đạo ở nơi xa. Tôi không nhớ tên địa danh, chỉ biết đó là một nơi rất xa xôi và phải mấy năm sau họ mới quay về. Cha dắt tay tôi đi tiễn, nỗi buồn u ám lại hiện lên trong mắt cha. Tôi nghĩ, hẳn là cha rất muốn tôi khóc tiễn họ, nên tôi đã khóc. Nhưng trong lòng thì tôi rất lấy làm hân hoan vì từ nay sẽ không phải đến ngôi chùa đó nữa.

Không đến chùa, cha như mất đi điểm bám víu, ông thường ôm tôi vào lòng, ngồi rất lâu trong sân nhà, ngước mắt nhìn trời. Sau đó, ông hào hứng kể cho tôi nghe giờ này họ đang ở đâu, làm gì. Suốt bốn năm, ngày nào cha cũng nói với tôi về việc anh trai được mọi người khâm phục như thế nào, anh ấy đã nhận một vị cao tăng làm thầy và anh ấy đã được khen ngợi, tán thưởng ra sao. Người anh trai ngày càng trở nên mờ mịt trong kí ức của tôi hình như đã trở thành nhân vật nổi tiếng.

Năm tôi lên mười thì họ trở về. Đức vua (tức cậu ruột tôi) đã đích thân đi đón họ. Nghe nói, anh trai đã giành chiến thắng trong một cuộc luận chiến quan trọng ở Wen­su và không ai không biết đến danh tiếng của anh ấy, người ta nói về anh ấy ở mọi nơi mọi lúc. Lẽ ra tôi phải lấy làm tự hào chứ nhỉ? Tôi có người anh ưu tú như vậy kia mà? Nhưng khi ai nấy đều chỉ vào tôi thì thào: “Em trai của thần đồng Ku­mara­ji­va kìa”, tôi lại cảm thấy khó chịu vô cùng. Tôi là Pusyse­da, nhớ lấy, tôi không chỉ là em trai của Ku­mara­ji­va, tôi còn là tôi, Pusyse­da!

Tại buổi lễ nghênh đón long trọng, tôi đã gặp lại mẹ và anh trai sau bốn năm xa cách. Thực tình thì đối với tôi, họ thậm chí không thân thuộc bằng những người hầu trong phủ, nhưng vì muốn cha vui lòng, tôi vẫn nhào vào lòng mẹ. Bốn năm trời thiếu vắng vòng tay mẹ, nhưng lần đoàn tụ đó không hề khiến tôi vui vẻ. Mẹ vẫn lạnh lùng như ngày nào. Tôi ngả đầu vào lòng mẹ, tự hỏi không biết phải ôm đến bao giờ nữa? Đúng lúc đó thì một đôi mắt sáng long lanh chĩa về phía tôi, đôi mắt ấy trong vắt như nền trời Khâu Từ.

Chỉ nhìn thoáng qua cũng biết chị ấy không phải người Khâu Từ, dáng vóc nhỏ bé, thanh thoát. Tôi đã từng gặp những người tóc đen, da vàng như chị ấy trong thành Khâu Từ, cha tôi bảo họ là người Hán, họ đến từ một nơi rất xa xôi, vượt qua những sa mạc mênh mông và phải mất một năm dài mới tới được đây.

Tôi quan sát chị ấy, chị ấy cũng nhìn ngó, rồi cười với tôi. Nụ cười đó rất đẹp, vành môi khẽ uốn lên, hiện rõ má lúm đồng tiền xinh xắn. Nhưng không hiểu sao, tôi cảm thấy nụ cười ấy rất ngây ngô, thuần khiết một cách ngây ngô, giống hệt đôi mắt của chị ấy. Sau đó, chị ấy chu mỏ, làm mặt ngoáo ộp chọc ghẹo tôi. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy người này rất thú vị.

Chị ấy quả rất thú vị, không giống bất cứ ai tôi từng gặp. Kể từ lúc chị ấy vào sống trong phủ, ngày nào tôi cũng chờ mong hết giờ học bài trong cung để được về nhà. Trước đó thì ngày nào tôi cũng mải mê chơi đùa, luyện võ với các anh chị em họ trong cung, chẳng thiết về. Tôi thích chọc ghẹo khiến chị nổi giận. Chị ấy nói tiếng Tochari trọ trẹ, làm tôi mắc cười, mỗi lần bị tôi cười nhạo, chế giễu, chị ấy lại nổi trận lôi đình, trợn mắt, cau mày, mím môi, khác hẳn vẻ tiểu thư đỏng đảnh, giả tạo của các cô gái trong cung.

Chị ấy có một cái túi rất lớn, bên trong chứa rất nhiều thứ kỳ lạ. Chị ấy vẽ rất nhiều tranh bằng chiếc bút và tờ giấy có thể xóa đi vẽ lại nhiều lần, có điều chị ấy vẽ không đẹp. Chị ấy từng bắt tôi ngồi yên trên ghế rất lâu để chị vẽ, nhưng bức vẽ rất xấu, chẳng giống tôi tẹo nào. Chị ấy còn thường xuyên nhét đủ mọi thứ vào chiếc túi đó, thậm chí cả một mảnh giấy rách, cũng nâng niu như đồ vật quý hiếm, rồi cẩn trọng đút vào túi. Thế nên, tôi thường xuyên lượm lặt những thứ linh tinh, nói dối rằng đó là những vật dụng mà đức vua, mẹ tôi hoặc anh trai tôi từng sử dụng, lúc đó, mắt chị ấy sáng lên, lập tức dùng bút và giấy để trao đổi với tôi. Điều khiến tôi kinh ngạc là, cái túi đó như thùng không đáy, có thể nhét tất cả mọi thứ vào bên trong.

Chị ấy dạy anh trai tôi tiếng Hán, cha tôi muốn tôi học theo. Trước đó, cha đã từng mời một giáo viên người Hán về dạy tôi, nhưng người đó bị tôi chọc giận mà bỏ đi. Chị ấy thì khác, chị ấy không bắt tôi đọc bài cả ngày như người kia. Học bài mà thú vị như chơi đùa vậy! Chị ấy dạy tôi trò “oẳn tù tì ra cái gì ra cái này”, tôi mà thua sẽ phải học thuộc một chương trong sách “Luận ngữ”, viết một trang chữ Hán. Nếu chị mà thua, thì hôm sau sẽ phải đóng vai quân lính dưới trướng của tôi. Hàng ngày, cứ đến lúc chúng tôi chơi vui vẻ nhất thì anh trai tôi lại xuất hiện, sau đó tất cả chúng tôi đều yên lặng. Anh trai tôi có thể trò chuyện với chị ấy bằng tiếng Hán, có thể bàn luận với chị ấy về những đạo lý to tát, tôi không hiểu nổi. vì thế tôi rất giận, tôi thầm nhủ nhất định sẽ học thật tốt, để sau này có thể chơi đùa với chị ấy bằng ngôn ngữ của chị ấy.

Lúc vào cung học bài, mấy người anh họ cứ chỉ trỏ vào tôi, cười cợt mỉa mai. Thì ra, họ để ý thấy tôi thường xuyên bỏ về rất sớm, nên đã theo dõi tôi và bắt gặp chị ấy trong phủ quốc sư. Họ trêu chọc tôi, nói rằng chị ấy là bà cô già của tôi.

- Thì đã sao? Tôi cứ thích như thế đấy! Mấy cô công chúa chảnh chọe, đỏng đảnh, suốt ngày giả bộ khóc mếu thì có gì hay ho?

- Chị ta là mẹ của cậu à?

Hoàng tử thứ tư nhảy loi choi trước mặt tôi.

- Mẹ cậu đi tu không cần cậu nữa, nên cậu cưới một bà cô già về làm vợ chứ gì?

Tôi lao vào đấu đá với bọn họ một hồi, họ lớn tuổi hơn tôi, tôi đánh không lại, kết quả là tôi bị lãnh những vết bầm tím trên trán.

Về đến nhà, chị ấy cuống cuồng băng bó cho tôi. Tôi muốn nói với chị ấy, tôi là nam nhi, vết thương cỏn con này có đáng gì, nhưng lời vừa ra đến miệng đã lại trôi ngay vào. Vì tôi rất thích bàn tay chị ấy xoa vuốt trên mặt mình, cảm giác mềm mại, âm ấm. Đột nhiên, tôi muốn thử xem vòng tay của chị có ấm áp như thế không, nên đã sà vào lòng chị ấy, giả vờ gào khóc. Chị ấy rất dễ mắc lừa, vội ôm lấy tôi, vỗ về tôi. Chị ấy quả nhiên rất ấm áp, rất mềm mại, ngay cả giọng nói lướt trên đầu tôi cũng ấm áp như vậy. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy sung sướng khi được ai đó ôm vào lòng. Khi đó, chỉ muốn được chị ấy ôm như thế mãi, đừng ai đến quấy rầy, nhất là anh trai tôi.

Cha có việc phải đi Gu­mo, mấy ngày liền không về. Tôi mừng lắm, giả vờ sợ hãi, đòi chui vào trong chăn ngủ cùng chị. Chị vỗ nhẹ lưng tôi, hát cho tôi nghe các bài hát thiếu nhi của người Hán. Tôi tủm tỉm cười, người ta có còn là trẻ con nữa đâu mà phải ru ngủ? Nhưng giọng hát của chị ấy trong trẻo, êm ái, ấm áp tựa mảnh chăn bông đã được hong khô dưới nắng vào mùa đông. Tôi chìm dần vào giấc ngủ say sưa trong hơi ấm ngọt ngào ấy. Trước lúc mê đi, tôi đã thầm nhủ, sau này người mà tôi lấy làm vợ nhất định phải có được hơi ấm đó.

Kể từ hôm ấy, tôi đã có thêm lí do để quấn chị: tôi muốn chị hát cho tôi nghe những bài hát không giống nhau. Chị rất cưng chiều tôi, liên tục thay đổi bài hát, hát đến khi tôi đã thiếp đi mới dừng lại. Tôi phát hiện ra, khi tôi ngủ say, chị sẽ nhẹ nhàng kéo chăn cho tôi, còn quệt tay vào mũi tôi, khe khẽ trách móc tôi bằng tiếng Hán. Điều đó thật thú vị, nên tôi thường xuyên vờ ngủ say. Nhưng, tối hôm đó, trò đùa của tôi đã bị anh trai lật tẩy. Sau khi phụng phịu ra khỏi phòng chị ấy, tôi đã nấp vào một góc tường, chị đang hát cho anh trai tôi nghe, chọc anh ấy cười vang, điều mà tôi chưa từng thấy trước đây. Tôi rất giận. Vì sao chị lại hát cho anh ấy nghe. Chị chỉ được hát cho mình tôi nghe thôi chứ!

Ngày hôm sau, tôi lại càng bực mình hơn, khi hết giờ học, tôi lao như bay về nhà mà không thấy chị đâu. Người trong phủ nói chị đi tham quan thành Khâu Từ cùng anh trai tôi. Sao lại như vậy? Nếu chị muốn thăm quan, tôi cũng có thể đưa chị đi kia mà? Anh ấy giành mất mẹ của tôi, bây giờ lại muốn tranh cả chị với tôi ư? Tôi trút giận lên con chó vàng canh phủ và ngồi lì một chỗ ngóng chị về.

Trước giờ cơm buổi tối chị mới về đến nhà. Lẽ ra tôi muốn phơi bày nỗi tức giận của mình, nhưng chị đã kéo tôi chơi trò đuổi bắt, chị chọc tôi cười, khiến cục tức trong tôi tan biến như mây khói. Dường như chỉ khi vui đùa cùng chị, tôi mới được khóc được cười thoải mái, không mệt mỏi như khi tôi phải giả vờ khóc, cười để lấy lòng cha.

Một hôm, chị nhìn chiếc đồng hồ kỳ quặc trên tay mình, rồi đột ngột thốt lên:

- Ngày mai là năm mới!

Rồi chị bảo muốn đón tết của người Hán, hôm sau sẽ tặng quà cho tôi và anh trai. Chị tặng anh ấy chuỗi tràng hạt bằng gỗ đàn hương, còn tặng cho tôi bức tranh vẽ một con vật kì dị, không giống mèo cũng chẳng giống chó và cả cái tên của nó cũng rất lạ: Do­rae­mon. Chị nói con vật kỳ lạ này có một chiếc túi thần kỳ, nó có thể lôi từ trong túi ra bất cứ thứ gì nó muốn. Tôi không thích món quà đó lắm, tôi có phải trẻ con nữa đâu mà chị tặng tôi thứ đồ dành cho con nít vậy? Nhưng vì là bức tranh do chính tay chị vẽ, nên tôi đành nhận vậy!

Tôi biết tin chị sắp ra đi, chị sẽ đến Trường An trên hành trình kéo dài một năm trời. Nhưng tôi không muốn vậy, tôi phải nghĩ ra cách gì để giữ chị ở lại.

Tôi nghĩ đến chiếc vòng tay kỳ lạ của chị. Chiếc vòng đó biết động đậy, tôi từng nhìn thấy. Nhưng lần đó, chị đã nghiêm mặt cảnh cáo tôi không được động vào bất cứ thứ gì trên chiếc vòng ấy. Chị đeo nó cả ngày, đi ngủ cũng nhét xuống dưới gối, chỉ khi đi tắm chị mới tháo ra để một chỗ. Càng ngày tôi càng cảm thấy chiếc vòng đó có điều gì rất kỳ lạ. Thế là, hôm đó, nhân lúc chị đi tắm, tôi đã lẻn vào phòng chị, kiểm tra đồ vật kì quái ấy.

Không biết tôi đã chạm vào đâu mà chiếc vòng đột nhiên phát ra thứ ánh sáng màu xanh và những tiếng tích tắc lạ lùng. Khi tôi chưa hết kinh ngạc thì chị đã bước vào phòng. Không muốn bị chị mắng vì tôi đã lẻn vào lấy trộm chiếc vòng, tôi vội vàng thanh minh:

- Ngải Tình, chiếc vòng này thú vị quá, biết kêu tích tắc tích tắc, chị cho em nhé?

Nhiều năm sau tôi vẫn nhớ như in cảnh tượng hôm ấy. Tôi thường tự hỏi, nếu tôi không bày trò lấy trộm chiếc vòng đó, mọi thứ liệu có khác đi? Sau khi chị biến mất trong chùm sáng kỳ quái, tôi đã đi tìm chị khắp nơi, một tháng sau mới chịu bỏ cuộc. Trên đời này có thần thánh thật ư? Chị là tiên nữ thật ư? Tôi không tin Phật, điều duy nhất tôi tin là tôi đã gặp tiên nữ năm lên mười. Chỉ có tiên nữ mới xinh đẹp, thông minh, đáng yêu như vậy, mới khác biệt như vậy.

Tôi đã không truyền đạt lại cho anh trai lời dặn dò của chị, chị nói anh phải đến Trường An truyền bá đạo Phật. Chị nói anh sẽ trở thành một con người vĩ đại. Vậy còn tôi thì sao? Chị là tiên nữ, vì sao không cho tôi biết tương lai của tôi? Tôi bực mình khi thấy anh trai đi đi lại lại trong phòng chị như kiếm tìm điều gì. Tôi bực mình khi anh ấy bao bọc rất cẩn thận những bức vẽ chị lưu lại. Tôi bực mình khi anh ấy dặn dò người hầu giữ nguyên trạng căn phòng của chị và thường xuyên dọn dẹp sạch sẽ. tôi càng bực mình hơn khi anh ấy luôn nghĩ ra cần phải làm gì trước tôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

40#
 Tác giả| Đăng lúc 11-4-2013 11:43:51 | Chỉ xem của tác giả
Chương 36 - Pusyseda ngoại truyện 2



Càng trưởng thành, càng có nhiều chuyện khiến tôi phiền lòng. Căn nhà trống trải khiến tôi buồn chán, vì cha thường xuyên đến chùa, nói rằng muốn dự pháp hội, nhưng kỳ thực là đến thăm hai người đó. Tiếng tăm của anh trai tôi ngày càng vang xa, anh ấy đi khắp nơi truyền bá giáo lý Đại Thừa, tham gia không biết bao nhiêu cuộc luận chiến, cố gắng thuyết phục mọi người tin theo giáo phái Đại Thừa bằng triết lý “có có không không” gì đó. Đại Thừa, Tiểu Thừa gì chứ, tôi chẳng tin. Nhưng vì muốn cha vui, tôi vẫn thường thắp nhang trên điện thờ trong nhà và cùng cha đến chùa thăm họ, nếu gặp dịp nhà chùa tổ chức pháp hội, tôi cũng kiên nhẫn ngồi nghe cùng cha đến cuối buổi.

Những chuyện xảy ra năm mười tuổi, tuy vẫn nhớ nhưng vì chỉ vẻn vẹn vài tháng nên tôi đã quên đi rất nhanh. Nhưng khi nghe các hoàng tử kể chuyện chơi bời bên ngoài cung, họ nói đã “thử” đủ mọi loại phụ nữ, chỉ chưa biết “mùi vị” của tiên nữ thế nào thôi, những lúc như thế, tim tôi lại vô cớ đập rất nhanh. Tôi từng gặp tiên nữ, nhưng tiên nữ không lưu lại quá lâu dưới trần gi­an, làm sao đám người thô thiển kia gặp được nàng chứ! Nhưng tôi, dù cố gắng thế nào cũng không nhớ nổi tiên nữ trông ra sao. Chỉ có vòng tay ấm áp và giọng hát êm ái của nàng vẫn xuất hiện trong giấc mơ của tôi, những lúc như thế, tôi không muốn tỉnh giấc chút nào.

Mười lăm, mười sáu tuổi tôi bắt đầu đua theo đám vương tôn công tử kia gây ra bao chuyện thị phi. Hài hước nhất là một lần tôi cùng hoàng tử thứ tư đi cướp dâu. Chiều muộn hôm đó, sau khi đã quá chén, chúng tôi gặp một đám rước dâu trên đường. Hoàng tử đột nhiên nảy ra ý định cướp cô dâu, liền kéo tôi trà trộn vào đám cưới gia đình nọ. Khi trời bắt đầu sẩm tối, hoàng tử la lên: Có trộm! Khách khứa tới dự hôn lễ ồ ạt kéo ra ngoài. Theo sự phân công của hoàng tử, tôi lẻn vào buồng tân hôn cắp cô dâu đi. Cô gái đó ban đầu rất sợ hãi, nhưng vừa nhìn thấy tôi đã lặng thinh không gào tiếng nào. Thì ra vì thế hoàng tử mới sai tôi đi làm cái việc chẳng đàng hoàng chút nào này!

Trời tối đen như mực, trong lúc gấp vội lại không thấy đường, tôi bị sa vào bãi lầy đầy gai nhọn, không sao nhấc nổi chân. Hoàng tử vội đến cứu nguy, nhưng chưa lôi được tôi ra khỏi bãi lầy thì đám người nhà cô dâu đã kéo đến. Điều tôi không ngờ là hoàng tử đột nhiên trở mặt, gào to: Trộm ở đây này! Tôi hoảng hốt, cố sức bật ra khỏi bãi lầy, bỏ lại cô dâu, hai chúng tôi tháo chạy tán loạn.

Cứ ngỡ mọi chuyện sẽ kết thúc ở đấy, nào ngờ mấy ngày sau, một vài người xuất hiện ở nhà tôi, kéo theo một cô gái khóc lóc nức nở, họ nổi giận đùng đùng, gào thét đòi gặp tôi. Thì ra cô dâu hôm đó không muốn lấy chồng nữa, nằng nặc đòi đi tìm tôi, cô ta thậm chí đã theo dõi và biết được nơi tôi ở. Gương mặt cha biến sắc khi nghe lời phân trần của cô gái, tôi có giải thích thế nào cũng vô ích. Tranh cãi hồi lâu, cha phải trả một khoản tiền, đám người kia mới chịu ra về. Cô gái đó về sau vẫn tiếp tục đi theo tôi. Không chịu nổi, tôi đã mắng nhiếc cô ta một trận thậm tệ, cuối cùng cũng được yên thân. Nhưng chuyện này đã nhanh chóng bị đồn ra ngoài, mọi người trong thành Khâu Từ không ai không biết là con trai út của quốc sư là một tên phóng đãng. Hoàng tử ẩn mình một chỗ vờ không hay biết, ý rằng muốn tôi gánh chịu mọi hậu quả. Anh ta là hoàng tử, nếu để đức vua biết, sẽ phải chịu hình phạt nặng nề.

Tôi mặc kệ! Là tên phóng đãng thì đã sao! Nhưng tôi thấy khinh bỉ loại người như hoàng tử, nên kể từ đó đã tuyệt gi­ao với anh ta.

Sinh nhật lần thứ mười bảy của tôi vào đúng ngày anh trai thọ đại giới. Mặc dù danh tiếng của anh trai tôi đã lan xa khắp vùng Tây Vực, nhưng anh ấy vẫn phải tuân thủ quy định, đến năm hai mươi tuổi mới được thọ đại giới, từ một Sa di, trở thành một Tỷ Khâu thực sự. Đức vua đặc biệt ưu ái anh ấy như thể lo rằng các tiểu quốc xung quanh không biết Ku­mara­ji­va là quốc bảo của Khâu Từ vậy!

Tôi thả bộ trong chùa, vẫn chưa tới giờ làm lễ, tôi chưa muốn vào trong điện, trước đây tôi vốn không thích tham dự những nghi lễ kiểu này.

Anh trai đi qua, thấy tôi bèn dừng lại. Hôm nay anh ấy mặc chiếc áo cà sa mới, khí chất toát lên vẻ thanh tao, thoát tục. Nhưng trên tay anh ấy đeo gì thế kia? Bao nhiêu năm rồi anh ấy vẫn không chịu tháo bỏ nó.

Tôi cười mỉa, gào lên:

- Bạc cả màu rồi, còn đeo làm gì?

Anh ấy không đáp, lẳng lặng rủ tay áo che đi, vẻ mặt vẫn bình thản như thường ngày:

- Hôm nay là sinh nhật tuổi mười bảy của em.

Anh ấy cười với tôi, sau đó như chợt nhớ ra điều gì đó, vội vàng nói với tôi bằng tiếng Hán:

- Chúc mừng sinh nhật!

Tôi sững người. Không phải vì anh ấy nhớ ngày sinh nhật của tôi, mà vì câu chúc mừng sinh nhật bằng tiếng Hán trong khoảnh khắc đã đưa tôi trở về với những kỉ niệm xa xưa. Có một cô gái với nụ cười trong trẻo đã dạy tôi gi­ai điệu dễ thương, dễ thuộc của một bài hát mà cô ấy bảo phải hát vào ngày sinh nhật. Như thế nào nhỉ? Tôi vừa lục lọi trong kí ức, vừa đưa mắt nhìn theo bước chân anh ấy tiến vào nơi thọ giới.

Buổi sáng thọ giới, buổi chiều anh trai tôi lại tiếp tục thuyết giảng kinh văn Đại Thừa cho hoàng thân quốc thích và đám quý tộc Khâu Từ nghe. Tôi không đủ kiên nhẫn, liền vờ mắc tiểu, một mình lẻn đến căn phòng dành cho khách khứa nghỉ ngơi. Bài hát đó, như thế nào nhỉ? Ký ức đôi lúc giống như: rõ ràng ta nhìn thấy cánh diều bay lơ lửng ở nơi cách ta không xa, nhưng ta không sao tìm được đầu sợi dây nối với cánh diều ấy.

Cửa phòng đột nhiên bật mở, tôi giật mình khi thấy người vừa bước vào. Đó là công chúa người Khoái Hồ, thê thiếp mới của đức vua. Không biết đức vua toan tính điều gì mà liên minh với người Khoái Hồ ở mãi vùng Is­syk- Kyl phía tây xa xôi. Cô công chúa này chính là một trong những điều kiện của gi­ao kèo kết thân. Cô ta còn cao lớn hơn cả phụ nữ Khâu Từ, tôi đứng bên cũng chỉ cao hơn cô ta nửa đầu.Mắt xanh, tóc vàng, trông cũng không đến nỗi nào. Có điều kể từ khi vào cung, cô ta không được lòng các phi tần Khâu Từ vì tính cách đáo để, ghê gớm của mình.

Cô ta nói tiếng Khâu Từ không được lưu loát cho lắm, khiến tôi nhớ đến nhiều năm trước cũng từng gặp một cô gái như thế. Nhưng cô ta lại liếc mắt đong đưa, khiến tôi chột dạ. Trong phòng chỉ có hai chúng tôi, không muốn gặp phiền phức, tôi xin phép ra ngoài.

Nhưng cô ta đã kéo tay tôi lại, áp sát thân mình vào người tôi, tôi đã lùi bước đến tận cùng, lưng chạm vào vách tường. Cô ta nói bằng giọng lơ lớ rằng đã đem lòng yêu mến tôi từ lâu.

Tôi lúng túng, khuôn mặt nóng bừng. Lúc trước, cô ta từng nhiều lần liếc mắt đưa tình, đong đưa trước mặt tôi, nhưng tôi chẳng thèm để ý. Tôi không thích, cũng không dám. Nhưng hôm nay, có lẽ cô ta nghĩ rằng cơ hội đã đến.

Cô ta đưa đẩy bộ ngực vĩ đại của mình trên cánh tay tôi, khuôn mặt trắng nõn nà, gò má lốm đốm tàn nhan sáp lại gần tôi. Trong khoảnh khắc, tôi như bị mê hoặc bởi cảm giác đê mê, êm ái của sự tiếp xúc da thịt.

Cô ta tiếp tục kể lể về chuyện đã phải lòng tôi ngay lần gặp đầu tiên như thế nào. Rồi khuyên tôi đừng lo lắng về thân phận của hai người, vì cô ta hứa sẽ không nói ra. Sau đó cô ta đã nói một câu mà tôi vô cùng chán ghét:

- Chàng là lãng tử nức tiếng, không ngại cướp cả vợ người ta, em tin chàng không phải kẻ nhát gan!

Lại là chuyện đó! Tôi bị mang tiếng xấu là kẻ phóng đãng, dù chưa từng làm chuyện phóng đãng bao giờ. Thậm chí, ngay cả khi cùng các vương tôn công tử đến kỹ viện vui chơi, tôi cũng chưa bao giờ nảy sinh ham muốn động vào đám con gái đáng ghét ấy. Cô gái của tôi phải là một cô gái thuần khiết như bầu trời xanh, tuy nàng chưa xuất hiện, nhưng tôi sẵn sàng chờ đợi...

Lợi dụng lúc tôi phân tâm, cô ta càng tiến sát hơn, cặp môi đỏ chót chừng muốn đỗ xuống, nhưng tôi đã kịp nghiêng đầu, dấu ấn của cô ta đậu lại trên sườn má bên phải. Bỗng nhiên tôi cảm thấy buồn nôn, liền đẩy cô ta ra. Cô ta loạng choạng, đổ người xuống chiếc bàn gỗ thấp, hình như phần eo va đập rất mạnh vào cạnh bàn, vẻ mặt trở nên dữ tợn.

Có tiếng bước chân vang lên ngoài cửa, một đám người đang sắp bước vào đây. Tôi hoảng hốt, vội chạy đến đỡ cô ta dậy, nhưng ánh mắt thù hằn dữ dằn của cô ta khiến tôi sợ hãi.

Bên ngoài là đức vua, cậu út Bạch Chấn, cha tôi và mấy người họ hàng khác. Người phụ nữ đó sà vào lòng đức vua, kêu gào thảm thiết, buộc tội tôi giở trò trăng hoa.

Một trận khẩu chiến xảy ra và tôi, tất nhiên, là người thua cuộc. Không ai tin tôi cả. Vết son trên má là bằng chứng trực tiếp, tiếng xấu trong quá khứ là bằng chứng gián tiếp. Đức vua vô cùng tức giận, nhưng vì nể mặt cha nên đã không hạ lệnh trừng phạt tôi ngay lúc đó. Những người còn lại, kẻ lắc đầu người thở dài, nhìn cha tôi ngao ngán. Kể từ lúc xảy ra chuyện, sắc mặt cha đã tái nhợt đi. Tôi chẳng thèm quan tâm người khác nghĩ gì, kể cả người đó có là đức vua đi nữa, nhưng tôi không thể chịu nổi khi thấy cha đau lòng.

Bởi vậy, sau khi về phủ, tôi đã giải thích để cha hiểu và hỏi ông:

- Cha tin con chứ?

Cha nói tin tôi, nhưng vẻ u buồn vẫn hiển hiện trong mắt khi cha nhìn tôi.

- Pusyse­da, giá như con có thể noi gương anh con, luôn biết giữ mình, thì đâu đến nỗi ngoài cha con ra, không ai chịu tin lời con cả.

Tôi mở miệng định thanh minh, nhưng không thốt lên lời. Vậy là cha luôn cảm thấy thất vọng về tôi!

Người hầu vào thông báo mẹ đã về, cha vô cùng mừng rỡ. Tôi theo cha ra đón mẹ vào phòng khách. Mẹ có vẻ rất tức giận, vừa vào nhà đã hỏi chuyện xảy ra hôm nay. Tôi kiên nhẫn (mặc dù không vui chút nào) giải thích lại lần nữa với bà.

Bà trách móc tôi:

- Hôm nay là ngày anh con thọ đại giới, vậy mà con lại gây ra chuyện động trời như thế!

Mẹ thậm chí không nói có tin lời tôi hay không, bà chỉ nghĩ đến anh trai. Hôm nay là ngày anh trai thọ đại giới, vậy còn tôi? Liệu mẹ còn nhớ hôm nay là sinh nhật lần thứ mười bảy của tôi không?

Tự nhiên, tôi cảm thấy vô cùng buồn tủi, liền lao ra ngoài, mặc cho cha quát gọi phía sau.

Màn đêm buông xuống, cơn gió mang theo hơi lạnh se sắt của mùa thu ào đến. Một mình lang thang trên đường phố vắng lặng, tôi bỗng nhận ra: từ trước đến nay, tôi vẫn luôn cô độc. Bao nhiêu bạn bè anh em, nhưng họ chỉ xuất hiện khi có hội nhậu, hay những cuộc đánh lộn. Tôi thấy mình như sắp hóa điên, bao điều nhức nhối dồn tụ trong lòng, không sao giải tỏa nổi.

- Pusyse­da!

Tôi ngẩng lên, thì ra là cô chủ quán ăn Khotan trong thành, một góa phụ trẻ tuổi lẳng lơ. Đã bị tôi cự tuyệt nhiều lần, nhưng cô ta chưa bao giờ chịu từ bỏ.

Tôi “diễn” một nụ cười phong tình, kéo cô ta vào lòng.

- Đến chỗ cô em nhé!

Tôi không muốn tiếp tục mơ mộng nữa, khổ sở theo đuổi những điều mơ hồ, không có thực ấy để mà làm gì? Dù sao trong mắt người đời tôi chỉ là một tên phong lưu không hơn không kém, vậy thì một tên phong lưu nên làm những việc xứng với danh xưng của hắn.

Tôi khá hồi hộp khi ở trong căn phòng của cô ta, cố gắng trấn tĩnh, tôi quay lại người đàn bà đã trút bỏ gần hết xiêm y:

- Nói cho ta biết phải làm thế nào?

Cô ta phá lên cười dâm đãng, nắm lấy tay tôi kéo lê trên thân thể cô ta. Mùi nước hoa nồng nồng trên người cô ta khiến tôi lảo đảo.

Dưới sự dẫn dắt của cô ta, tôi ngày càng trở nên thành thục, ngày càng trở nên cuồng bạo, tôi muốn trút bỏ mọi thứ đang dồn nén trong lòng ra ngoài. Tôi phải thừa nhận rằng, tôi đã cảm thấy thực sự hân hoan khi lên đến cao trào.

Sau khi kết thúc, tôi lẳng lặng ngồi dậy, đưa mắt nhìn mọi thứ xô lệch, nhàu nhĩ xung quanh và người đàn bà lõa lồ vẫn đang thở hổn hển cạnh tôi. Chẳng phải rất đơn giản sao? Vậy mà trước kia tôi cứ khiến nó trở nên nghiêm trọng. Rốt cuộc là tôi muốn bảo vệ thứ gì? Có đáng không? Chỉ là lên giường thôi mà, tôi có mất gì đâu!

- Chàng thật mạnh mẽ! Không giống là lần đầu tiên.

Cô ta trườn lên vai tôi, đổ cả thân hình mềm nhũn lên người tôi. Thân thể cô ta ướt át, mùi nước hoa trộn lẫn với thứ mùi hôi không thể giấu giếm xông lên mũi tôi. Ruột gan tôi như muốn lộn tùng phèo, tôi thấy buồn nôn. Đẩy cô ta ra xa, tự mình mặc quần áo, rồi lạnh lùng rời khỏi cái nơi đáng ghét ấy, tiếng cô ta gọi với phía sau:

- Khi nào chàng lại tới?

Tôi sẽ không bao giờ quay lại đó nữa, vì tôi không muốn hành hạ khứu giác với thứ mùi hôi kinh khủng ấy. Tôi lang thang trên đường cho đến khi tiếng mõ của người phu đi tuần đêm báo hiệu đã sang canh năm. Sinh nhật tuổi mười bảy của tôi đã qua đi như thế đó.

Tôi chính thức trở thành tên công tử chơi bời thực thụ, không nhớ nổi tôi đã lên giường với bao nhiêu người phụ nữ nữa. Tôi có thể tiếp nhận bất cứ ai, miễn là tôi cảm thấy hứng thú, chỉ với một điều kiện duy nhất: trên người họ không được có thứ mùi hôi khiến tôi buồn nôn ấy.

Ánh mắt cha khi nhìn tôi ngày càng chất chứa vẻ tuyệt vọng, mẹ thì không cần phải nói cũng biết bà khinh ghét tôi thế nào. Mặc kệ, dù sao thì họ chỉ cần có anh trai tôi là đủ...

Không lâu sau, mẹ và anh trai tôi chuyển đến ngôi chùa Cakra, cách nhà bốn mươi dặm. Như thế lại hay, tôi sẽ không phải ép mình đóng kịch, vờ thích thú mỗi lần phải cùng cha đến chùa thăm họ nữa. Anh trai trở thành trụ trì chùa Cakra, tuyên bố hùng hồn rằng sẽ dốc sức truyền đạo để toàn bộ người Khâu Từ tin theo giáo phái Đại Thừa. Sao cũng được, thích thay đổi điều gì xin mời cứ việc. Dù sao thì, đức vua rất mực sủng ái anh ấy, mọi người kính nể anh ấy, anh ấy muốn làm gì, ai nấy đều hưởng ứng.

Năm tôi hai mươi tuổi, mẹ quyết định rời khỏi Khâu Từ để đến Thiên Trúc, bà muốn chứng tam quả gì đó. Hai cha con tôi đến chùa Cakra tiễn bà. Chúng tôi lưu lại trong ngôi nhà của anh trai ở Sub­ash. Vì không đủ phòng nên tôi phải ngủ trong phòng của anh trai.

Buổi tối rỗi rãi, nhàm chán, tôi định bụng tìm đại một cuốn sách trong tủ sách của anh ấy để giết thời gi­an. Nhưng tôi tình cờ phát hiện ra một hốc nhỏ kín đáo phía sau tủ sách. Tôi tò mò đẩy nắp đậy ra và thấy một chiếc hộp gỗ hình chữ nhật.

Bên trong chiếc hộp gỗ là một xấp những bức vẽ. Cánh cửa ký ức trong tôi bỗng mở tung khi tôi nhìn thấy đôi mắt long lanh, trong sáng ấy, nụ cười tươi tắn rạng rỡ ấy, lúm đồng tiền duyên dáng ấy và suối tóc mượt mà, bồng bềnh, ơ hờ thả trên vai ấy. Chính là cô gái ấy! Đây đúng là dung nhan của nàng. Trong chốc lát, hơi ấm và giọng hát trong veo của cô gái ấy sống dậy trong tâm trí tôi, rõ ràng, sống động, như thể mọi thứ mới diễn ra ngày hôm qua. Tôi thật đáng trách! Tôi đã quên bẵng dung nhan ấy suốt mười năm trời.

Tôi lật mở ráo riết bức vẽ như kẻ đói khát lâu ngày được cho ăn. Cô ấy cưỡi trên lưng lạc đà, nhưng vì không quen nên ngồi không vững, suýt nữa thì ngã, điệu bộ rất nực cười. Cô ấy nghiêng đầu, há miệng, đúng rồi, đó là các động tác vũ đạo cô ấy tự biên tự diễn khi hát cho tôi nghe. Cô ấy nằm bò trên bàn ngủ gật. Tư thế ấy tôi đã được chứng kiến vài lần, ngờ nghệch mà đáng yêu vô cùng. Tôi cảm thấy tâm trạng trở nên nhẹ nhõm, thoải mái hơn khi ngắm nhìn những bức vẽ này, mọi buồn bực dường như đã tan theo mây khói. Tôi không nhịn nổi, bật cười sảng khoái, trong lòng chợt dâng lên một cảm giác ấm áp lạ thường. Lúc ấy tôi đã mong gặp lại cô gái đó biết chừng nào!

Những trang cuối cùng là chân dung của anh trai tôi thời niên thiếu. Tôi bừng tỉnh, thì ra những bức họa đủ mọi tư thế khác nhau của cô gái ấy đều do anh trai tôi vẽ. Không biết anh ấy đã vẽ trong bao nhiêu năm? Không biết hình ảnh cô gái ấy đã xuất hiện trong trái tim anh ấy bao nhiêu lần mới có thể giúp anh ấy phác họa được một chân dung tự nhiên, sinh động đến vậy. Thì ra, anh ấy vừa tụng kinh niệm Phật vừa lén lút cất giấu tiên nữ trong tim mình. Lục căn của anh ấy cũng đâu có thanh sạch, tôi nhếch môi cười, đột nhiên nảy ra một ý định.

- Hãy trả lại cho ta!

Quả nhiên anh ấy đã đến tìm tôi, thừa lúc vắng người, liền ghé vào tai tôi thì thầm, giọng nói có vẻ sốt ruột. Chẳng phải người tu hành nội tâm thanh tĩnh như mặt nước hay sao? Anh ấy mà cũng có lúc cuống quít như vậy ư?

- Trả lại gì?

Tôi lì lợm giả bộ không hiểu, nhướn mày thách thức. Anh ấy sững người, nhìn tôi hồi lâu, không nói thêm câu nào, xoay người bước đi.

- Cô ấy là tiên nữ, nhớ thương cũng chẳng ích gì đâu!

Tôi gào lên phía sau:

- Tôi đang giúp anh đó! Trong lòng nhiều vướng bận như thế làm sao chuyên tâm phụng sự Phật tổ được?

Anh ấy dừng bước, bờ vai rung động, không quay đầu lại, ngập ngừng một lúc lại tiếp tục bước đi. Nhìn theo anh ấy, tôi bỗng cảm thấy buồn bực vô chừng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách