Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: sweetdream_20_6
Thu gọn cột thông tin

[Xuyên Không - Xuất Bản] Đức Phật Và Nàng | Chương Xuân Di (Tập 1&Tập 2) (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 11:19:55 | Xem tất
Chương 18 - Đến Chùa Cakra


Xe ngựa chạy mãi, tôi kéo rèm nhìn ra bên ngoài, vậy là chúng tôi đang đi về hướng bắc, bên đường, ruộng nương trải rộng mênh mông, chắc chắn đã ra khỏi thành Khâu Từ rất lâu rồi. Lạ quá, sao phải đi xa như vậy, không lẽ nhà trọ đó ở nông thôn?

- Chúng ta đến chùa Cakra.

Thấy tôi có vẻ suy tư, Ra­ji­va mỉm cười.

- Tôi là sư trụ trì ở chùa Cakra. Chùa cách kinh thành bốn mươi dặm, đường sá khá xa xôi.

Chùa Cakra ư? Là ngôi chùa mà Huyền Trang từng đến giảng kinh? Nơi có thành cổ Sub­ash mà tôi đã khảo sát nhiều ngày khi ở Kucha? Đúng rồi, Ra­ji­va từng trụ trì ngôi chùa đó, có điều không thấy văn bản hay tài liệu nào ghi chép năm tháng cụ thể, không ngờ lại vào khoảng thời gi­an khi cậu ấy còn trẻ như vậy.

- Chúng ta sẽ kịp giờ ăn tối.

Có lẽ thấy tôi ngơ ngác nhìn ra xung quanh, trông có vẻ khổ sở lắm, Ra­ji­va càng cười tươi hơn.

Định lên tiếng biện hộ, nhưng chạm phải nụ cười quyến rũ ấy, tôi chẳng còn nhớ mình muốn nói gì nữa, cứ mê mải ngắm nhìn. Nụ cười năm mười ba tuổi của cậu ta đã khiến người khác phải bối rối rồi, nụ cười tuổi hai mươi tư càng có sức cuốn hút mãnh liệt. Bất giác, tôi đưa tay lên che mắt, phải chặn ngay sức hấp dẫn khiến tôi cứ phải hồi hộp vô cớ ấy.

- Tay cô đang bị đau, đừng chạm vào.

Ra­ji­va ơi, cậu có biết ánh mắt và nụ cười ấy của cậu ở thế kỷ XXI người ta gọi là “phát tín hiệu” không hả? Tôi bỏ tay xuống, kìm chế bản thân để không nhìn vào đôi mắt hút hồn ấy nữa và nhanh chóng nghĩ cách chuyển chủ đề:

- Pusyse­da vẫn khỏe chứ?

Nhắc đến em trai, Ra­ji­va cười vui vẻ.

- Cậu ấy hiện là đội trưởng đội cấm vệ quân, đức vua rất trọng dụng.

Tôi biết mà, từ nhỏ Pusyse­da đã thích học võ hơn học chữ, lúc nào cũng ham mê diễn kịch đánh đấm. Mỗi lần lên lớp, tôi đều phải giả làm quân lính, giả làm giặc cướp, chơi đùa với chú nhóc một lúc lâu, sau đó Pusyse­da mới chịu ngồi vào học bài. Nghĩ đến cậu nhóc ấy lại thấy buồn cười. Bây giờ đã là chàng trai hai mươi mốt tuổi rồi, không biết có còn nhớ tôi không, khi mà chúng tôi chỉ sống cùng nhau vẻn vẹn ba tháng.

- Cậu ấy kết hôn chưa?

Vẫn chưa. Pusyse­da suốt ngày rong chơi phong lưu, chưa thấy cậu ấy thật lòng với cô gái nào cả. Cha tôi thúc giục thì cậu ấy bảo nhất định sẽ cưới một cô gái độc nhất vô nhị trên đời này.

Ha ha, tiêu chuẩn cao gớm nhỉ! Cũng phải thôi, cậu ta xuất thân quyền quý, lại cao ráo đẹp trai nữa.

- Tôi muốn gặp cậu ấy. Nhưng không biết có làm cậu ấy hoảng sợ không.

Ra­ji­va bật cười, hình như nhớ đến điều gì đó.

- Không đâu, cậu ấy vẫn luôn nghĩ cô là tiên nữ và tin rằng, cô nhất định sẽ quay lại.

- Cậu giúp tôi sắp xếp được không?

Không biết tôi có nhận ra cậu nhóc ấy không nữa.

Ra­ji­va gật đầu, tôi cảm thấy nhẹ nhõm.

- Gặp được cậu, sau đó gặp cậu ấy nữa, thì tôi có thể yên tâm quay về rồi.

Khâu Từ vốn không có trong kế hoạch vượt thời gi­an lần này. Tôi cố ý đến đây chỉ để được nhìn thấy Ra­ji­va và nhân tiện tìm cách gặp Pusyse­da, sau đó sẽ đi khảo sát thành cổ Taqian, rồi đến Trường An. Tôi luôn luôn nhắc nhở bản thân, tôi đến đây để làm việc. Tôi chỉ có thể ở lại nhiều nhất là một năm. Mặc dù sau khi sử dụng Lithi­um, tính năng của đồng hồ vượt thời gi­an đã ổn định hơn trước rất nhiều, nhưng tuổi thọ của loại pin này cũng có giới hạn nhất định. Để đảm bảo còn đủ năng lượng khi quay về, tôi phải rời khỏi đây trong vòng một năm. Nếu không tôi sẽ phải lưu lại vĩnh viễn.

Ánh mắt Ra­ji­va thoáng vẻ ngỡ ngàng:

- Cô trở về Trung Nguyên ư? Hay… về trời?

Về trời ư? Tôi sững người.

- Cậu tin điều đó thật sao?

- Nếu không, vì sao một cô gái như cô lại một mình xuất hiện giữa sa mạc? Vì sao cô chưa từng đến Kab­ul lại nắm rõ kiến trúc chùa hang đá ở đó? Vì sao cô biết nguồn gốc chùa Masha ở Khotan? Vì sao kiến thức và sự hiểu biết của cô phong phú hơn bất cứ cô gái nào? Vì sao đột ngột cô biến mất không để lại dấu vết gì? Vì sao sau mười năm dung mạo của cô không hề thay đổi?

Hàng loạt câu hỏi “vì sao” khiến tôi bối rối. Cậu ta vốn rất giỏi hùng biện, tôi làm sao chống đỡ nổi. Nếu tiếp tục hỏi nữa, chắc tôi sẽ “khai” ra hết.

Nhìn vẻ mặt tội nghiệp của tôi, Ra­ji­va khẽ cười, đôi mắt long lanh.

- Thực ra, mười năm trước tôi đã cảm thấy rất lạ. Cô đột nhiên biến mất, mười năm sau trở lại, dung mạo không hề thay đổi. Điều này càng khiến tôi tin rằng, sự xuất hiện của cô là do Phật tổ an bài.

Tôi không biết phải nói sao, ánh mắt ấy khiến tôi vô cùng bối rối. Tôi gắng giữ bình tĩnh, chuyển đề tài:

- Cha cậu vẫn khỏe chứ?

Vẻ mặt Ra­ji­va bỗng trở nên u ám.

- Sức khỏe của cha giảm sút đi nhiều, có lẽ vì quá thương nhớ mẹ tôi.

Tôi nhớ rằng, về sau Ji­va đã rời Khâu Từ để đến Ấn Độ, nhưng các tài liệu không ghi chép thời gi­an cụ thể. Bây giờ, hẳn là bà đã ra đi rồi.

Tôi thinh lặng, Ku­marayana, con người nho nhã, đôn hậu ấy, con người “thông tuệ và đức hạnh” ấy chắc hẳn vẫn luôn tha thiết yêu vợ mình? Lẽ ra ông sẽ là người kế vị ở Ấn Độ (không rõ quốc gia của ông là tiểu quốc nào, vì khi đó, Ấn Độ phân tách thành rất nhiều quốc gia nhỏ), nhưng ông đã từ bỏ tất cả để xuất gia và tìm đường đến Khâu Từ học đạo. Có sách chép rằng Ku­marayana thành thân với Ji­va vì bà rất yêu ông, thậm chí đã ép ông phải cưới bà. Nhưng tôi nghĩ, một cao tăng “tâm vững như bàn thạch” như Ku­marayana nếu không có tình cảm sâu sắc với Ji­va, chắc chắn sẽ không chịu làm quốc sư Khâu Từ, rồi lưu lại nơi này. Ở Ấn Độ, ông có thể trở thành một tướng quốc kia mà! Nếu không vì người vợ xinh đẹp, nếu không vì những đứa con thông minh, chắc hẳn ông đã không can tâm với thân phận một kẻ tha hương. Vì vậy, khi Ji­va muốn xuất gia ông đã kiên quyết phản đối, chỉ đến khi bà một mực tuyệt thực, ông mới đành ngậm đắng nuốt cay chấp nhận. Giương mắt đứng nhìn người vợ đầu gối tay ấp của mình xuống tóc đi tu, từ nay gia đình hạnh phúc của ông không còn trọn vẹn nữa, chắc hẳn ông đã rất đau lòng. Bản thân ông là một tín đồ Phật giáo, lẽ ra ông phải vui mừng khi có người nguyện dành trọn đời phụng sự Đức Phật mới phải chứ? Nhưng vì sao khi tín đồ ấy là người ông yêu thương, ông lại chẳng thể nguôi ngoai?

Tôi vén rèm cửa nhìn ra bên ngoài, xe ngựa chạy rất nhanh, nhưng vì là cỗ xe tốt nên mức độ rung lắc không quá nghiêm trọng. Từng thửa ruộng đều tăm tắp trôi qua trước mắt, phía xa xa là dãy Thiên Sơn sừng sững tạc hình lên bầu trời xanh ngút ngát. Quay đầu lại, bắt gặp ánh mắt Ra­ji­va đang nhìn mình. Lại nhớ chuyện Ku­marayana không bằng lòng để vợ xuống tóc, nhưng lại đồng ý cho cậu con trai mới bảy tuổi của mình xuất gia. Có lẽ không chỉ vì cậu bé tuổi nhỏ cần có mẹ, mà còn vì Ku­marayana muốn Ra­ji­va ở bên Ji­va để chăm sóc bà.

Tôi đắm chìm trong những suy tư miên man không dứt, bánh xe vẫn đều đặn quay, mí mắt trùng xuống, nặng trịch. Mấy ngày rong ruổi trên đường khiến tôi thấm mệt. Chợt thấy vẳng bên tai một giọng nói khẽ khàng, ấm áp:

- Ngải Tình, nằm xuống chợp mắt đi.

Không kịp suy nghĩ thêm, tôi ngã đầu xuống, trước lúc thiếp đi chỉ nhớ mang máng là đã gối trên vật gì đó rất êm, sau đó ngủ say không biết trời đất gì.

Khi Ra­ji­va đánh thức tôi dậy thì trời đã về chiều, trước mặt tôi là quần thể kiến trúc nguy nga, đồ sộ chẳng khác nào một thành phố. Ra­ji­va lại đỏ mặt khi tôi mở mắt ra nhìn cậu ta, chắc là điệu bộ của tôi lúc ngủ khó coi lắm, nên cậu ta mới như vậy. Tôi thấy hơi xấu hổ, nhưng cảm giác ấy đã nhanh chóng biến mất ngay sau khi tôi xuống xe và nhìn thấy công trình kiến trúc trước mặt.

Đó là ngôi chùa nổi tiếng nhất trong lịch sử Khâu Từ - chùa Cakra, được xây dựng dưới thời Ngụy Tấn, cũng là ngôi chùa lớn nhất còn lưu lại ở Tây vực. Trong “Đại Đường Tây vực ký” Huyền Trang gọi đó là chùa Chiêu Hộ Li. Khi Huyền Trang đi Tây Trúc thỉnh kinh và có ghé qua chùa Chiêu Hộ Li, thì ngôi chùa này khi ấy đang vào gi­ai đoạn cực thịnh. Khuôn viên của chùa kéo dài đến tận vùng gò đồi và núi cao hai bên bờ phía đông và phía tây sông Tongchang. Ngài Huyền Trang đã ở lại chùa Cakra giảng kinh trong suốt hơn sáu mươi ngày và ngài đã để lại cho thế kỷ XXI rất nhiều tư liệu nghiên cứu quý giá về ngôi chùa này. Phía bắc chùa Cakra có một thôn làng nhỏ của người Duy Ngô Nhĩ (Uygur), nghe nói đó chính là nơi từng được gọi là “Nước con gái” (Nữ nhi quốc) trong tiểu thuyết “Tây du ký” nổi tiếng của Ngô Thừa Ân. Nhưng sự thật có phải vậy không thì vẫn chưa ai giải đáp được. Một số di chỉ thiền động với rất nhiều văn tự Khâu Từ và những bức bích họa đậm màu sắc Phật giáo nằm trên ngọn núi phía bắc chùa Cakra vẫn được bảo tồn đến ngày nay. Nghe nói, về sau, những pho tượng Phật trong chùa đã bị tín đồ Hồi giáo phá hủy, vì họ căm ghét việc sùng bái những thần linh có hình hài.

Chùa Cakra lấy sông Tongchang làm đường ranh giới tự nhiên phân tách ngôi chùa thành hai khu vực phía đông và phía tây. Người dân Kucha ngày nay gọi đó là thành cổ Sub­ash, là di chỉ quan trọng nhất ở Khâu Từ, bên cạnh Thiên Phật động Kizil. Ngày nay, muốn đến chùa Chiêu Hộ Li ở Kucha bạn phải nói là đến “thành cổ Sub­ash”, vì hầu hết những người không nghiên cứu sâu về lịch sử ở Kucha đều không biết chùa Chiêu Hộ Li là ngôi chùa nào. Tuy nhiên, trên thực tế, thành cổ Sub­ash chỉ là một thành phố nhỏ nằm ở đầu phía nam của khu chùa phía tây mà thôi. Là thành phố trực thuộc trong cả khối kiến trúc đồ sộ của ngôi chùa Cakra vĩ đại này. Sub­ash là nơi nghỉ trọ của khách thập phương khi đến chùa cúng bái. Trong nội thành Sub­ash, kiến trúc đền tháp chiếm đa số, đi đến đâu cũng thấy những tòa tháp, tháp lớn tháp bé, khiến người ta mỏi mắt ngắm nhìn.

Chúng tôi đang có mặt ở nội thành Sub­ash. Ra­ji­va đưa tôi đến một ngôi nhà nhỏ ở nơi khá hẻo lánh trong thành phố. Người mở cửa là một ông lão, tôi thấy ông rất quen, ông lão cũng nhìn tôi chăm chú. Tôi nhớ ra rồi, chính là ông cụ quản gia của phủ quốc sư, tên là Mava­su, là người theo hầu Ku­marayana từ Ấn Độ sang Khâu Từ. Mất một lúc lâu ông lão mới nhận ra tôi và đúng như tôi nghĩ, ông ngạc nhiên đến mức tay chỉ trỏ vào tôi hồi lâu mà không nói được câu nào. Ra­ji­va giải thích với ông cụ bằng tiếng Phạn. Ông cụ đã bình tĩnh trở lại, nhưng vẫn nhìn tôi bằng ánh mắt đầy thắc mắc khi đưa tôi vào nhà.

Khuôn viên ngôi nhà không rộng lắm, gồm ba gi­an, hai chái nhà ở hai bên. Và giống như mọi ngôi nhà khác ở Khâu Từ, trước sân có một giàn nho, hoa nở rực rỡ. Lúc này đang là mùa nho chín rộ, nên khắp không gi­an lan tỏa hương thơm ngọt ngào dìu dịu. Đồ đạc trong phòng rất giản dị: giường, tủ, bàn, ghế và không có bất cứ thứ đồ dư thừa nào khác. Cảm giác như nơi này không vướng chút bụi trần, thanh bần và thoáng đãng. Tài sản quý giá duy nhất là hai giá sách áp vào lưng tường. Chỉ thoáng nhìn đã thấy đầy đủ: sách tiếng Hán, tiếng Phạn, tiếng Tochari và một vài cuốn trong số đó nhìn rất quen.

- Đây là nơi tôi đọc sách.

Thấy tôi chú ý đến tủ sách, Ra­ji­va giải thích:

- Pusyse­da không ham đọc sách, nên cha đã tặng tôi toàn bộ số sách trong nhà.

- Cậu sống ở đây ư?

- Tôi ở trong chùa chứ! Nơi này chỉ là chốn thanh tĩnh để đọc sách thôi.

Khuôn mặt Ra­ji­va toát lên vẻ thư thái hiếm thấy.

- Cô cứ yên tâm ở lại đây, vợ chồng Mava­su sẽ chăm sóc cô.

Ra­ji­va bước ra ngoài, tôi tranh thủ sắp xếp đồ đạc. Một lát sau cậu ta quay lại, trên tay cầm chai rượu thuốc và một miếng vải bông sạch. Tôi muốn tự mình băng bó, nhưng khi rượu thuốc ngấm vào vết thương, tôi cắn răng chịu đau. Ra­ji­va ngồi bên cạnh quan sát, trách tôi tay chân vụng về, rồi cầm lấy tay tôi, nhẹ nhàng thấm rượu vào miếng bông tẩy trùng vết thương cho tôi. Thực ra vết rách trong tay không nghiêm trọng, nhưng khuỷu tay bị toác một miếng khá rộng và sâu. Tôi xắn tay áo lên, chìa vết thương đang sưng tấy, nhức buốt ra trước mặt cậu ta.

Ra­ji­va sững người khi nhìn thấy cánh tay trần của tôi. Quên cả việc băng bó, để mặc ánh mắt khó hiểu miệt mài du ngoạn trên cánh tay tôi. Tôi chợt nhận ra, trước mặt tôi lúc này không còn là cậu thiếu niên với thân hình mảnh khảnh và khuôn mặt hồn nhiên của tuổi mười ba nữa. Ra­ji­va của mười năm sau đã là một thanh niên trưởng thành, bằng tuổi tôi. Và vào thời cổ đại, một cô gái chìa cánh tay trần của mình ra trước một chàng trai là hành vi không ý nhị chút nào. Tôi buông tay áo xuống, nói rằng tôi sẽ tự mình băng bó.

Ra­ji­va đang yên lặng bỗng kéo tay tôi về phía mình, vén tay áo lên cao, thấm bông và lau vết thương cho tôi. Động tác của cậu ấy không nhẹ nhàng chút nào, nhưng vẻ mặt nghiêm trang của Ra­ji­va khiến tôi quên cả đau, chỉ biết len lén quan sát cậu ấy.

Dưới ngọn đèn dầu của buổi chiều muộn, gương mặt dài bên ánh sáng, hàng mi dài khẽ đua lên cao, sống mũi cao vời vợi, đôi môi khép chặt. Vẻ đẹp cuốn hút ấy khiến người đối diện không thở nổi. Chúng tôi ngồi cách nhau đủ gần để tôi có thể cảm nhận được mùi thơm dìu dịu của gỗ đàn hương trên người cậu ấy, thứ hương thơm khiến tôi mơ màng và chỉ muốn lại gần thêm nữa. Tôi chợt nhận ra rằng, tôi phải rời khỏi đây càng sớm càng tốt, nếu không tôi sẽ mắc sai lầm. Mà sai lầm này, chắc chắn sếp sẽ không tha cho tôi và bản thân tôi cũng không thể tha thứ cho mình.

Vợ chồng Mava­su mang đồ ăn vào phòng, mùi thơm của thức ăn đã làm vơi bớt đi hương thơm say người kia. Mối nghi hoặc của Mava­su vẫn rất lớn, điều đó thể hiện qua ánh mắt nhìn tôi chăm chú. Tôi không biết Ra­ji­va đã nói gì để ông cụ chấp nhận sự trở lại của tôi, nên chỉ biết gượng cười chống chế. Sau đó, hỏi Ra­ji­va, mới biết, cậu ta nói với Mava­su, tôi là cháu gái của Ngải Tình. Tôi cười lăn lóc. Nói như thế thật là… Nhưng khoan đã, hòa thượng không được phép nói dối kia mà? Tôi định trêu chọc Ra­ji­va, nhưng đã kịp dừng lại. Vì chính tôi cũng không nghĩ ra cách giải thích nào hợp lý hơn cho sự trở lại của mình.

- Ra­ji­va, lần trước có một chiếc ba lô tôi quên mang theo, cậu còn giữ nó không?

Tôi đã bỏ lại bao nhiêu đồ dùng của thời hiện đại, trong đó có tập giấy nháp và cuốn sổ tay quan trọng. Sếp từng nhắc nhở rất nhiều lần là không được lưu lại bất cứ thứ rác thải hiện đại nào, nếu để người đời sau phát hiện ra, thì… Thử tượng tượng xem, một nhà khảo cổ với mái tóc bạc phơ đang lọ mọ nghiên cứu một gói đồ cũ nát, rồi ông đột nhiên phát hiện ra ở một góc nhỏ của gói đồ mấy chữ cái này: “North­face”… Rùng cả mình!

Ra­ji­va gật đầu, nhưng nét mặt không được tự nhiên. Lạ quá, lẽ nào cậu ta thích cái ba lô của tôi? Đừng đùa, North­face là nhãn hiệu ba lô du lịch hàng đầu thế giới đấy! Khoản tiền mua chiếc ba lô này là do nhóm nghiên cứu chi trả, chứ một sinh viên nghèo như tôi làm sao mà mua nổi. Nhưng mà, kể cả Ra­ji­va thích đến thế nào tôi cũng không thể tặng cậu ấy được.

- Mấy hôm nữa sẽ mang đến cho cô.

Tôi gật đầu, uống thêm một ngụm canh thịt dê.

- Ra­ji­va, tôi muốn đi tham quan chùa Cakra, được chứ?

Ra­ji­va khẽ gật đầu.

- Ngày mai sẽ đưa cô đi xem.

Buổi tối, tôi ngủ trên chiếc giường gỗ thấp, thời cổ đại làm gì có chăn ga gối đệm, nhưng tôi đã quen nằm trên chiếc giường cứng như thế này rồi. Ra­ji­va nói không ở đây, có lẽ vì muốn tôi được thoải mái. Tôi tin rằng cậu ta sống ở đây, bởi vì mùi gỗ đàn hương dìu dịu vẫn còn thoảng trên tấm chăn này, trên chiếc gối này và trên mảnh chiếu này. Hương thơm thanh khiết ấy ru tôi vào giấc ngủ miên man.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 11:28:01 | Xem tất
Chương 19 - Tham quan Chùa Cakra



Tinh mơ hôm sau, tiếng kẹt cửa làm tôi thức giấc. Tôi gắng gượng hé đôi mắt vẫn đang đói ngủ của mình và lơ mơ thấy một bóng dáng cao gầy đang đứng giữa căn phòng ngập ánh sáng.

- Ra­ji­va, sao đến sớm vậy…

- Tôi… tôi… xin lỗi.

Ngược sáng, không thấy rõ biểu cảm trên gương mặt cậu ấy, chỉ nghe trong giọng nói có chút ngượng ngùng. Ra­ji­va vội vã lui ra ngoài, lại một tiếng kẹt cửa trả lại bóng tối cho căn phòng.

Tôi nhìn đồng hồ, mới bảy rưỡi sáng. Chết thật, tôi quên mất, ngày nào cậu ấy cũng thức dậy lúc hơn bốn giờ, từ năm giờ đến sáu giờ là thời gi­an tụng kinh buổi sáng, sau đó mới đến bữa sáng. Giờ này, với cậu ấy, đã không còn sớm sủa gì nữa. Nhưng tôi vẫn còn muốn ngủ, lại ngả xuống vớt vát thêm vài phút, sau đó mới uể oải xuống giường.

Khoảng chín giờ tôi cùng Ra­ji­va ra khỏi nhà. Thành phố Sub­ash bé nhỏ khi ấy đã tấp nập người qua lại, nhà sư, cư sĩ, thương nhân đủ cả, dòng người đông đúc trên phố xá chật chội. Tôi không muốn Ra­ji­va khó xử, nên ý tứ giữ khoảng cách với cậu ấy. Ra­ji­va đi trước, tôi theo sau, chốc chốc cậu ta lại dừng bước, ngoảnh đầu quan sát, rồi mới đi tiếp.

Có vẻ như Ra­ji­va rất được lòng người dân nơi đây. Trên đường đi, hầu hết mọi người đều lại gần chắp tay hành lễ với cậu ấy. Một đôi vợ chồng ẵm theo đứa trẻ sơ sinh đến xin Ra­ji­va cầu phúc. Cậu ấy xoa đầu em bé, lầm rầm đọc một đoạn kinh văn. Vợ chồng nọ vui mừng khôn tả, chắp tay tạ ơn, vẻ mặt hân hoan, mãn nguyện khi ra về. Ra­ji­va quay lại nhìn tôi cười rạng rỡ, rồi tiếp tục bước đi, chốc chốc lại dừng bước đáp lễ với người đi đường.

Ra khỏi thành Sub­ash là đến cổng chính của khu chùa Cakra phía tây. Ấn tượng ban đầu của tôi về ngôi chùa này là những vọng lâu được trang trí rất bắt mắt phía trên bức tường bao quanh. “Khâu Từ có hơn mười nghìn nhà sư, chiếm một phần mười dân số trong thành”. Chỉ riêng ở chùa Cakra đã có đến năm nghìn sư. Sự hưng thịnh của Phật giáo ở Khâu Từ được thể hiện sống động qua hình ảnh ngôi chùa Cakra nguy nga, đồ sộ. Tuy vậy, thời điểm này vẫn chưa phải là gi­ai đoạn cực thịnh của Chiêu Hộ Li tự. Quy mô ngôi chùa vẫn nhỏ hơn rất nhiều so với thời nhà Đường, khi Huyền Trang đi lấy kinh qua đây. Khi mang thai Ra­ji­va, “năng lực giác ngộ của Ji­va tăng lên gấp bội. Bà nghe danh tiếng ngôi chùa Cakra đã lâu, lại nghe nói trong chùa có nhiều vị cao tăng đắc đạo, bèn cùng với những tín nữ quý tộc khác và các ni cô ngày đêm nhang khói lễ bái, ăn chay niệm Phật”. Hẳn là, ngay từ khi còn trong bụng mẹ, Ra­ji­va đã “thấm nhuần” giáo lý Phật pháp. Trí tuệ siêu phàm của cậu ấy phải chăng có được từ bối cảnh đặc biệt này?

Ý nghĩ đó khiến tôi bật cười.

Chúng tôi bước đến một bức tường thành thấp hình vuông bên ngoài cổng chính. Bên trong có một điện thờ đặt tượng Phật Thích Ca Mâu Ni. Tôi lập tức dập tắt những ý nghĩ lan man, lấy lại tinh thần chuyên nghiệp thường ngày, chuẩn bị lôi cuốn tập ra và bắt tay vào công việc.

- Ngải Tình, không cần vội. Để tôi đưa cô đi tham quan hết một vòng, rồi quay lại vẽ cũng chưa muộn.

- Thật không?

Tôi mừng quýnh!

- Đúng rồi! Cậu là chủ trì, cậu có đặc quyền mà! Vậy, ngày nào tôi cũng đến đây vẽ nhé?

- Được chứ!

Ra­ji­va mỉm cười. Những chùm nắng đầu hạ rực rỡ chiếu rọi làm bừng sáng cả con người cậu ấy, toát lên thứ hào quang khiến tôi không dám nhìn thẳng.

Tôi ép mình ngoảnh đi hướng khác.

- Ra­ji­va, khối ngọc khổng lồ dưới chân tượng Phật nằm ở đâu vậy? Đưa tôi đến đó xem đi!

- Cô biết về khối ngọc này?

Ra­ji­va có vẻ ngạc nhiên, ánh mắt nhìn tôi như thăm dò.

- Đây là báu vật của chùa Cakra kia mà!

Làm sao tôi biết được ư? Đơn giản thôi! Câu trả lời là: Huyền Trang đã được tận mắt chứng kiến và ghi chép lại trong “Đại Đường Tây vực ký”. Cuối thế kỷ XIX, một nhà sưu tầm đồ cổ người Nga đã đào được khối ngọc này, ông ta còn ngu xuẩn hết mức khi đập vỡ nó làm đôi với ý đồ sẽ vận chuyển về nước. Nhưng người dân địa phương đã kịp thời ngăn chặn và bảo vệ được khối ngọc quý. Sau giải phóng, khối ngọc đã được đưa về trưng bày tại Viện bảo tàng tự nhiên Bắc Kinh. Nửa khối to nặng khoảng hơn một nghìn hai trăm kilôgam, nửa khối nhỏ hơn nặng khoảng hơn bảy trăm kilôgam. Còn bây giờ, không cần thiết phải đến Bắc Kinh, tôi vẫn có thể chiêm ngưỡng khối ngọc ấy và là khối ngọc hoàn chỉnh, bạn nói xem, tôi có nên sung sướng hay không? Bởi vậy, khi Ra­ji­va đưa tôi vào một điện thờ nhỏ nhưng được trang trí nguy nga, tráng lệ phía sau gi­an thờ chính và tận mắt nhìn thấy khối ngọc khổng lồ trong suốt, giống hình một con ngao biển với hai màu trắng và vàng đan xen ấy, tôi tiếc ngẩn ngơ vì không mang theo máy ảnh. Khối ngọc rộng khoảng hơn ba mươi cen­timét, dài hơn nửa mét, cao hơn mười cen­timét. Dấu chân Phật tổ được in thành hình hai vết lõm rất tự nhiên giữa khối ngọc. Những hình ảnh phác họa dấu ấn như thế này có rất nhiều. Bạn có thể bắt gặp dấu chân của đại sư Liên Hoa Sinh (Pad­masamb­ha­va) ở bất cứ đâu trên khắp vùng Tây Tạng, chỉ khác đó là hình phác họa trên những cây cối và sỏi đá tự nhiên, để Phật tử có thể cảm nhận được một cách chân thực pháp lực vô biên của Phật.

Nhưng tôi không nói điều đó với Ra­ji­va, sợ cậu ấy không vui. Tôi bắt chước Ra­ji­va, chắp tay cúi lạy thành kính và cắm hương lên khối ngọc thần thánh. Bước ra khỏi điện thờ nổi tiếng ấy, tôi chợt thấy một hành lang rất dài chạy hút về phía sau, nhưng hai bên được che phủ kín đáo, nom có vẻ tối tăm âm u kỳ lạ và cảm giác như nó kéo dài đến vô tận.

Thấy tôi lặng lẽ quan sát hành lang kỳ lạ đó hồi lâu, Ra­ji­va đến bên, nhẹ nhàng lên tiếng:

- Đó là nơi thọ đại giới. Cô là người phàm, không được phép vào đó.

Thọ đại giới tức là thọ giới Cụ Túc (Up­asam­ba­da)! Chẳng khác nào nhận bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành Phật học dành cho các đệ tử nhà Phật! Chỉ khi đã thọ giới Cụ Túc, mới được xem là đủ tư cách và điều kiện để trở thành một Tỷ khâu (Bhikkhu). Ra­ji­va nổi danh khi còn rất trẻ, những tri thức Phật học và sự giác ngộ Phật pháp của cậu, giới tăng sĩ đương thời, không ai bì kịp. Nhưng, cho dù đạt được cảnh giới cao đến đâu về kiến thức Phật học, cậu vẫn phải tuân thủ những quy định của giới tu hành trong các thiền viện. Vậy nên, mặc dù Ra­ji­va đã thông tỏ chân lý của Phật giáo Đại Thừa từ lâu, nhưng cậu vẫn phải thọ giới Cụ Túc giống như những tăng sĩ bình thường khác khi đến tuổi hai mươi.

Tôi đã từng nhìn thấy khu vực thọ đại giới của tăng sĩ tại chùa Long Hưng, thuộc huyện Chính Định, gần Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc, một ngôi chùa được xây dựng từ thời nhà Tùy. Nhưng ở đó không có hành lang dài và u ám như thế này. Những ngôi chùa đủ tư cách truyền giới Cụ Túc không nhiều, đó phải là những ngôi chùa quy mô lớn. Chùa Cakra là ngôi chùa duy nhất ở Khâu Từ đủ tư cách truyền đại giới.

Bước chân vào dãy hành lang ảm đạm, hun hút ấy, hẳn trong lòng mỗi Sa di không khỏi dâng lên những suy cảm. Vậy là ta đã quyết, cả đời này sẽ gắn bó với kinh kệ, khói hương. Cả đời này sẽ từ bỏ mọi tình ái và dục vọng. Cả đời này, sẽ gánh vác trách nhiệm truyền bá giáo lý Phật pháp. Những suy cảm đó sẽ theo các Sa di chầm chậm bước đến điểm tận cùng của con đường – giới đàn (nơi tăng sĩ thọ giới). Ba vị pháp sư, bảy người làm chứng, hình ảnh chiếc dao cạo sáng lấp lóa, những tiếng tụng kinh lầm rầm trang nghiêm. Kể từ giây phút này, bước ra khỏi sự sống chết, thoát ly khỏi tham lam, dục vọng, đoạn tuyệt với thế tục…

Tôi quay đầu nhìn Ra­ji­va đang yên lặng ngóng về dãy hành lang ảm đạm ấy, vẻ mặt chất đầy suy tư. Có lẽ cậu cũng đang nghĩ về ngày trọng đại ấy. Rồi đây, trần ai, thế tục sẽ không còn duyên nợ gì với cậu ư, Ra­ji­va?

Chúng tôi bước vào một gi­an thờ ánh sáng yếu ớt, các nhà sư khác thấy Ra­ji­va liền cung kính hành lễ, Ra­ji­va gật đầu đáp lại rồi trò chuyện đôi câu với họ bằng tiếng Phạn. Gi­an thờ này không lớn, ở giữa đặt tượng Bồ Tát Địa Tạng Vương, bốn phía xung quanh là những bức bích họa. Tôi nhận ra tượng Bồ Tát Địa Tạng vì trên tay ngài có một cây tích trượng rất dài. Bồ Tát Địa Tạng từng thề rằng:

“Chúng sinh độ tận, phương chứng bồ đề

Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật”.

Nghĩa là:

Cứu độ chúng sinh hết khổ, mới là Giác Ngộ

Địa ngục còn chưa trống không, thề không thành Phật.

Điều đó có nghĩa, đối tượng cứu khổ của Bồ Tát Địa Tạng là những sinh linh tội lỗi dưới Địa Ngục. Vì vậy, sau khi Phật giáo được truyền bá vào Trung Nguyên, sức ảnh hưởng của vị Bồ Tát này ngày càng trở nên rộng rãi, cùng với Văn Thù, Phổ Hiền và Quan Âm, ngài được xem là một trong bốn vị Đại Bồ Tát. Tương truyền, Cửu Hoa Sơn ở An Huy chính là đạo tràng thuyết pháp của ngài.

Tôi đang quan sát và phân tích tỉ mỉ để nhận ra điểm khác biệt về tạo hình giữa Bồ Tát Địa Tạng ở Tây vực và Bồ tát Địa Tạng ở Trung Nguyên. Một chú tiểu từ bên ngoài bước vào, mang theo một ngọn đèn dầu, chuyển cho Ra­ji­va rồi lẳng lặng lui ra. Ra­ji­va nâng cao ngọn đèn, để ánh sáng chiếu rọi lên những bức vẽ trên tường. Lúc này, trước mặt tôi là hình ảnh những cánh tay tàn phế, những đôi chân gẫy gập, là biểu cảm đau đớn tột cũng trên những khuôn mặt người, là đủ mọi loại dụng cụ tra tấn, trừng phạt đẫm vệt máu. Quả rất đáng sợ!

Những bức họa này mô phỏng nỗi thống khổ của chúng sinh nơi tám địa ngục lớn.

Chả trách điện thờ này đặt tượng Bồ Tát Địa Tạng, lại âm u, ảm đạm đến vậy. Có lẽ mục đích là khiến cho các tín đồ cảm thấy kinh sợ trước những hình ảnh rùng rợn dưới các tầng địa ngục. Ở hầu hết các ngôi chùa từ quy mô trung bình trở lên đều có những bức bích họa phóng tác như thế này.

Tôi có biết về tám địa ngục lớn, nhưng không nhớ tên gọi cụ thể, nên đã nài nỉ Ra­ji­va diễn giải.

- Đây là địa ngục đẳng hoạt (địa ngục chết đi sống lại). Chúng sinh mắc tội sa xuống địa ngục này là những người vẫn còn chút tình cảm, họ không nguôi ngoai nỗi thương nhớ cha mẹ. Nhưng móng tay họ sẽ biến thành vuốt sắt, họ cấu xé lẫn nhau và khi tâm thần bấn loạn, họ cào cấu chính mình, cho đến khi thịt nát máu cạn và họ tắt thở. Nhưng một luồng gió lạnh thổi đến, da thịt hồi sinh, họ lại tiếp tục chịu sự trừng phạt như lúc trước.

Giọng nói của Ra­ji­va đượm vẻ u buồn, cậu dừng lại giây lát rồi mới tiếp tục:

- Những người mắc tội sát sinh, chà đạp lẽ phải, phỉ báng người ngay đều sẽ sa xuống địa ngục này.

Vừa ngắm nhìn các bức vẽ tôi vừa gật đầu, bước chân không ngừng di chuyển theo ánh sáng ngọn đèn dầu trên tay Ra­ji­va. Điện thờ trống trải chỉ còn lại hai chúng tôi. Giọng nói ấm áp của Ra­ji­va vang giữa không gi­an trầm mặc, khoảnh khắc ấy, cảm xúc trong tôi bỗng trở nên thê lương.

- Đây là địa ngục hắc thằng (nơi chúng sinh bị trói bằng dây sắt), chúng sinh phạm tội sẽ bị trói lại bằng dây sắt nung nóng, sau đó tứ chi bị chặt hoặc bị cưa đứt. Nỗi đau đớn, khổ sở lớn gấp mười lần địa ngục đẳng hoạt. Những người phạm tội sát sinh, trộm cắp đều sẽ sa xuống địa ngục này.

Ánh đèn tiếp tục được đẩy về phía trước.

- Đây là địa ngục chúng hợp (nơi chúng sinh bị núi đá ép chặt), người phạm tội bị đẩy vào giữa hai núi đá và bị ép chặt cho đến khi xương cốt nát vụn. Phàm những người mắc tội sát sinh, trộm cắp, tà dâm đều rơi xuống địa ngục này.

- Đây là địa ngục khiếu hoán (nơi chúng sinh kêu la thảm thiết), người mắc tội sẽ bị nướng trên vạc dầu hoặc bị đẩy vào lò lửa, hoặc bị dùng kìm nóng banh miệng, đổ đồng nóng chảy vào bụng khiến cho lục phủ ngũ tạng bị thiêu hủy. Phàm những kẻ mắc tội giết người, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu đều sẽ sa xuống địa ngục này. Nếu đệ tử Phật môn vi phạm năm điều giới luật, thì dù là người xuất gia hay người tu tại gia đều sẽ bị sa xuống địa ngục đại khiếu hoán (địa ngục mà sự trừng phạt khiến chúng sinh kêu la thống thiết gấp rất nhiều lần địa ngục khiếu hoán).

Tôi bỗng thấy rùng mình, sự trừng phạt đối với người nhà Phật còn khủng khiếp hơn cả người thường ư!

- Đây là địa ngục tiêu nhiệt (nơi chúng sinh bị thiêu đốt), kẻ phạm tội nằm trên sắt nung, toàn thân bị đánh đến bầm dập vỡ nát. Phàm những kẻ vi phạm năm điều giới luật đều sẽ bị đẩy xuống địa ngục này.

Ánh sáng ngọn đèn dầu bỗng nhiên dừng lại, bàn tay người giữ đèn run run. Bóng dáng cao gầy hắt lên tường, khiến cho những hình ảnh thảm thương cho bức vẽ trở nên mờ ảo, tan loãng trong những dao động lập lòa của ánh sáng.

- Ra­ji­va, cậu sao thế?

Tôi ngước mắt lên nhìn cậu ấy, chúng tôi chỉ cách nhau một bước chân, ánh đèn leo lét rọi vào khuôn mặt ưu tư, một thoáng u buồn ẩn hiện, nhưng tan đi rất nhanh. Ra­ji­va lấy lại vẻ điềm tĩnh thường thấy, tiếp tục giảng giải.

- Nếu tăng sĩ phạm tội sát sinh, trộm cắp, tà tâm sẽ bị sa xuống địa ngục đại tiêu nhiệt, mức độ trừng phạt tàn khốc hơn rất nhiều lần so với địa ngục tiêu viêm.

Giọng nói của Ra­ji­va đượm vẻ chua xót, phải chăng vì lòng trắc ẩn đối với những hình phạt nặng nề dành cho giới tăng lữ. Phật môn quản giáo đệ tử của mình rất nghiêm khắc, trong số tám địa ngục lớn, có đến hai địa ngục dành để trừng phạt những tăng sĩ phạm tội.

Ra­ji­va lấy lại sự bình tĩnh, bàn tay mang theo chiếc đèn dầu khi nãy bất giác buông xuống, giờ đã lại được nâng cao.

- Đây là địa ngục vô gián, hay còn gọi là địa ngục a tỳ, người phạm tội bị hành hình liên tục, chịu đau đớn khổ sở không lúc nào ngơi nghỉ. Phàm những kẻ phạm phải năm tội đại nghịch (giết mẹ, giết cha, giết A- la- hán, gây chia rẽ tăng sĩ, phá hoại hình ảnh của Phật tổ), đều bị đày xuống địa ngục này.

Đó là bức vẽ cuối cùng, chúng tôi cũng vừa đi hết một vòng tròn.

Ra­ji­va đặt đèn dầu lên hương án phía trước pho tượng Bồ Tát Địa Tạng Vương, cung kính quỳ xuống vái ba vái, rồi cùng tôi bước ra khỏi điện thờ.

- Mỗi địa ngục trong số tám địa ngục lớn lại được chia thành mười sáu địa ngục nhỏ. Tội ác cũng chia thành ba cấp. Những kẻ phạm tội nặng nhất bị đẩy vào địa ngục lớn, những kẻ còn lại bị đẩy vào địa ngục nhỏ.

Ánh nắng rực rỡ bên ngoài xua tan đi những ảm đạm trong lòng, tôi giống như chiến binh Dante vừa dạo hết một vòng địa ngục, cảm xúc đầy vơi. Kết luận rút ra là: nhân gi­an thật tuyệt vời!

Gần đến giờ trưa, Ra­ji­va dẫn tôi đến nhà ăn dành cho các cư sĩ tu tại gia đến chùa Cakra cúng bái, cậu ấy ngồi ăn cùng tôi. Ra­ji­va ăn uống từ tốn, quả không hổ danh là con nhà quý tộc. Nhưng điều khiến tôi thiếu tự nhiên là những ánh mắt đổ dồn về phía chúng tôi, tuy họ không nói gì, nhưng tôi biết họ nghĩ gì. Tôi bỗng cảm thấy không thoải mái. Một người như Ra­ji­va nếu sống ở thời hiện đại, cũng chưa hẳn đã là một sự chọn lựa lý tưởng. Mặc dù nếu có cậu ấy ở bên cạnh, đi đến đâu, tôi cũng có thể hãnh diện với bạn bè và những người xung quanh, nhưng cậu ấy quá tài trí, thông minh, lại đẹp trai hút hồn như vậy, sẽ làm lu mờ hình ảnh của tôi. Không những tôi sẽ phải thấp thỏm lo âu từng giây phút, canh chừng mọi lúc mọi nơi, đề phòng những cô gái trẻ đẹp khác, mà tôi còn phải đau đầu tìm cách nâng cao tầm vóc trí tuệ của bản thân để có thể theo kịp cậu ấy. Cuộc sống mệt mỏi như thế, lấy đâu ra vui vẻ, thoải mái chứ! Cho nên, kết luận của tôi là: tôi – không – thèm!

- Không thèm gì vậy?

Tôi giật mình ngẩng lên, bắt gặp hai vực nước sâu hun hút đang xoáy vào mình, xấu hổ không biết giấu mặt vào đâu, bối rối không biết phải thanh minh thế nào.

- Các thầy!

May quá! Có người đến giải nguy cho tôi rồi! Đó là… là người Hán, hai hòa thượng người Hán!

Họ trò chuyện với nhau bằng tiếng Phạn, tôi đứng bên chăm chú quan sát đồng hương.

Ra­ji­va giới thiệu với tôi, hai vị hòa thượng từ Trường An xa xôi đến đây xin nghe giảng đạo, pháp hiệu của họ là Tăng Thuần và Đàm Sung. Tôi trợn tròn mắt khi nghe thấy những cái tên đó.

Tăng Thuần và Đàm Sung! Chính là hai vị sư này! Họ đến Khâu Từ học đạo, sau đó trở về Trung Nguyên tấu trình với vua nhà Tiền Tần khi ấy là Phù Kiên rằng, Ku­mara­ji­va là vị pháp sư tài trí hơn người, là người đã truyền bá sâu rộng kinh văn Đại Thừa, tiếng tăm vang khắp vùng Tây vực. Một nhà sư nổi tiếng ở Trung Nguyên là Thích Đạo An, nghe danh Ku­mara­ji­va đã lâu, cũng thuyết phục Phù Kiên mời Ra­ji­va đến Trường An. Khi Phù Kiên quyết định tấn công Khâu Từ, nhà vua đã nói với Đô đốc Lữ Quang rằng: “Trẫm nghe nói Tây Quốc có Ku­mara­ji­va, thông hiểu pháp tướng, giỏi luận âm dương, là một bậc kỳ tài trong thiên hạ. Trẫm lấy làm ngưỡng mộ. Nhân tài là báu vật của quốc gia. Vậy, sau khi chiếm được Khâu Từ, khanh hãy lập tức đưa Ku­mara­ji­va về đây”.

Câu chuyện này đã được các tín đồ Phật giáo ngày sau truyền tụng khắp nơi. Họ cho rằng Phù Kiên phát động chiến tranh với Khâu Từ là vì muốn có được Ku­mara­ji­va. Giống như việc các cô gái tin rằng cuộc chiến thành Troy là vì nàng He­len xinh đẹp, hay Ngô Tam Quế bán đứng nhà Hán cho triều đình Mãn Thanh là vì nàng kỹ nữ Tô Châu – Trần Viên Viên. Một cuộc chiến tranh quy mô lớn đã nổ ra và cướp đi tính mạng của mấy chục nghìn người, chỉ vì muốn đoạt lấy một người thôi ư, những câu chuyện như thế mới hấp dẫn làm sao! Tôi là người nghiên cứu lịch sử, tất nhiên, tôi không tin Phù Kiên phát động chiến tranh chỉ vì muốn có được một vị cao tăng. Liệu Phù Kiên có thực sự hiểu rõ Ku­mara­ji­va sẽ mang lại lợi ích gì cho ông ta hay không? Nhà vua muốn có Ku­mara­ji­va chỉ vì cậu ta thông tỏ âm dương ngũ hành? Một người tài trí cao vời như Giả Nghị, lẽ nào Hán Văn Đế cũng chỉ vì muốn ông ta coi bói cho mình?

- Ngải Tình!

Tôi lại để tâm trí trôi tận đâu đâu rồi, quay lại đã thấy hai vị hòa thượng đang hành lễ với mình, tôi vội vàng đáp lễ. Họ là những đồng hương đầu tiên mà tôi gặp sau hai lần vượt thời gi­an đến đây.

Ra­ji­va giới thiệu với họ tôi là cháu gái của người thầy dạy tiếng Hán hồi trẻ của cậu và tôi đến Khâu Từ để lễ Phật. Tôi chỉ dám trò chuyện đôi câu với họ, bởi vì những gì tôi biết về thời kỳ Nam Bắc triều thập lục quốc chỉ là những kiến thức trong sách vở, tôi sợ mình lỡ lời, tiết lộ bí mật lịch sử thì nguy.

Sau vài lời xã gi­ao với tôi, họ quay sang thảo luận giáo lý Phật pháp cùng Ra­ji­va. Họ trao đổi bằng tiếng Phạn, tôi nghe không hiểu, nên cũng quay đi ngắm nghía những bức vẽ trên tường.

- Đoạn kinh văn ấy dịch sang tiếng Hán có nghĩa là: Bao nhiêu tâm ý của chúng sinh trong trời đất, Như Lai đều thấu tỏ. Vì sao lại như vậy?

Ra­ji­va giảng kinh bằng tiếng Hán! Tôi quay lại nhìn cậu ấy và nhận được một nụ cười đầy hàm ý. Cậu ấy muốn tôi nghe đoạn kinh văn này ư? Tôi ngạc nhiên, nghiêng tai lắng nghe.

- Đức Phật nói, mọi tâm niệm đều không thực sự tồn tại, đó chỉ là những ham muốn nhất thời, thoáng chốc nảy sinh trong từng bối cảnh. Nên người ta đặt cho nó cái hư danh là tâm niệm. Vì sao như vậy? Bởi vì những ham muốn trong quá khứ là cái đã trôi qua, không để lại vết dấu, ta muốn mà không có được. Những ham muốn hiện tại, quẩn quanh trong tâm trí ta, chẳng thể nắm bắt. Những ham muốn của tương lai, còn chưa sinh ra, càng khó nắm bắt.

Trình độ tiếng Hán của Ra­ji­va đã đạt đến mức lưu loát, trôi chảy rồi, lại thêm giọng nói trầm ấm truyền cảm, tựa như nhả ngọc phun châu ấy nữa, khiến mỗi câu mỗi chữ như làn gió nhẹ vương vào trái tim tôi.

- Vậy nên, người thuyết giảng Phật pháp vốn không có Phật pháp để thuyết giảng, thuyết pháp chỉ là danh xưng. Không những không tồn tại Phật pháp để có thể thuyết giảng, mà ngay cả người thuyết pháp cũng không tồn tại.

Dáng người cao lớn của Ra­ji­va tọa lạc giữa Phật điện, thoáng một nét cười thỏa nguyện trên vành môi, cậu khẽ nghiêng đầu về phía hai vị hòa thượng thấp nhỏ chỉ đến vai mình:

- Những luận giải của Ra­ji­va, không biết hai vị đã nắm rõ hay chưa?

Tăng Thuần và Đàm Sung như vừa giác ngộ được chân lý, miệng nhẩm đi nhẩm lại lời Ra­ji­va vừa giảng giải, ở cả hai vị hòa thượng người Hán đều toát lên vẻ say mê trong sự lĩnh hội. Tôi lặng ngắm Ra­ji­va. Sự tự tin tỏa khắp con người cậu, sức hút mãnh liệt từ trí tuệ uyên bác ấy khiến tôi không dám nhìn thẳng. Tuy tuổi còn trẻ, nhưng ở Ra­ji­va đã tụ hội đầy đủ phong thái của một bậc danh sư.

Buổi chiều, chúng tôi tiếp tục tham quan ngọn đồi phía bắc, nơi đây có một quần thể hang đá, gồm rất nhiều căn phòng tọa thiền của tăng sĩ. Nói là phòng tọa thiền nhưng thực chất chỉ là một hốc đá nhỏ, đủ chỗ cho một người ngồi lọt vào trong. Ra­ji­va chỉ cho tôi thấy trên vách tường phía sau có dấu vết in đậm hình hài một con người. Cậu nói rằng, rất nhiều vị cao tăng theo trường phái tu khổ hạnh đã từng ngồi thiền ở đây, lâu dần, hình hài của các vị đã in tạc vào vách đá. Phật giáo Tiểu Thừa coi trọng việc tu hành. Công việc hàng ngày của tăng sĩ chủ yếu là ngồi thiền trong căn phòng trống không, tĩnh tâm lĩnh hội Phật pháp. Phương pháp tu hành này xuất phát từ phép thiền Yo­ga của Ấn Độ. Trước khi giác ngộ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đã trải qua sáu năm tu hành khổ hạnh. Ngài ngồi thiền hết ngày này qua tháng khác, ăn uống rất ít, thân xác héo hon. Sau khi đắc đạo, ngài ăn uống bình thường trở lại và không khoác lên mình chiếc áo cà sa chắp vá rách rưới nữa. Tuy nhiên, ngài vẫn duy trì thói quen tĩnh tâm tọa thiền. Điều này đã trở thành một trong những đặc trưng nổi bật của Phật giáo Tiểu Thừa. Và cũng bởi vậy, trong cấu trúc của các ngôi chùa Phật giáo Tiểu Thừa, ít hay nhiều đều có những phòng đá tọa thiền dành cho các tăng sĩ.

Có điều, những căn phòng đó đang hiện ra trống trải không một bóng người trước mắt tôi. Tôi hỏi Ra­ji­va, cậu mỉm cười.

- Từ khi tôi tiếp nhận vai trò trụ trì chùa này, đã ra sức truyền bá giáo lý Đại Thừa, yêu cầu các nhà sư năng ra ngoài giảng đạo, thâm nhập vào đời sống của chúng sinh, việc tĩnh tâm tọa thiền có thể thực hiện vào lúc thuận tiện.

Mười năm trước, khi Ra­ji­va vừa tiếp xúc với Phật giáo Đại Thừa đã vấp phải rất nhiều trở ngại và chịu nhiều lời điều tiếng. Người ta phê phán cậu lén lút học đòi những giáo lý ngoại đạo sai trái. Trong vòng mười năm, bằng sự thông tuệ, bằng tài năng thuyết pháp khiến người nghe tâm phục khẩu phục và tận dụng mối quan hệ với hoàng thất, Ra­ji­va đã dốc toàn tâm toàn sức chuyển hướng tín ngưỡng của toàn bộ tiểu quốc Khâu Từ sang Phật giáo Đại Thừa. Truyện kể về Ra­ji­va chép rằng: “Khi ấy số lượng tăng sĩ Khâu Từ tin theo giáo phái Đại Thừa lên đến hơn mười ngàn người. Điều này thật đáng kinh ngạc. Từ đó, ai nấy đều tỏ ra kính trọng và nể phục Ku­mara­ji­va”.

- Lại ngơ ngẩn rồi!

Tôi kéo lại những suy nghĩ miên man đang vân du tận đâu đâu, đưa mắt lên nhìn khuôn mặt điển trai của Ra­ji­va.

- Ra­ji­va, cậu không còn là cậu thiếu niên năm nào lúc còn hoang mang, trăn trở với khát vọng thay đổi tông phái.

- Đúng vậy.

Ánh mắt cậu ấy như phiêu du về với quá khứ, tìm kiếm những những ký ức xa xưa, khóe môi hé cười.

- Ngải Tình, nếu không có những lời khích lệ của cô, Ra­ji­va không thể có quyết tâm và nghị lực mạnh mẽ đến như vậy. Mười năm qua, mỗi khi phải đương đầu với khó khăn, Ra­ji­va lại nhớ đến những lời cô nói. Phật giáo Đại Thừa xem trọng việc cứu rỗi chúng sinh, góp phần sửa đổi những khiếm khuyết của Phật giáo Tiểu Thừa. Phải như vậy, Phật pháp mới được truyền bá rộng rãi, mới cứu độ được nhiều chúng sinh thoát khỏi bể khổ. Tôi đã dành không ít công sức và tâm sức cho lý tưởng đó.

Ra­ji­va đưa mắt dõi nhìn về hướng xa xăm, giọng nói trở nên thanh thoát.

- Phật tổ phù hộ, đến nay Ra­ji­va đã thuyết phục được triều đình và các bậc tôn sư, Phật giáo Tiểu Thừa bắt rễ suốt mấy trăm năm ở Khâu Từ, cuối cùng đã có những cải biến nhất định.

Đến trên ngọn đồi này, có thể quan sát toàn bộ quang cảnh chùa Cakra. Sóng nước dòng sông Tongchang lấp lánh ánh bạc. Bóng chiều đã ngả về tây, phủ lên dáng hình cao lớn ấy những vệt nắng cuối ngày, gió thổi mạnh làm tung bay vạt áo cà sa. Con người ấy, thần thái ấy tạc vào không gi­an của buổi hoàng hôn trên sườn đồi hình ảnh một chú chim đại bàng đang khát khao tung cánh bay lên bầu trời bao la. Dưới chân chúng tôi là quần thể đồ sộ, nguy nga những đền đài miếu mạo, đó là vương quốc của Ra­ji­va và cậu ấy là người cha tinh thần của hàng vạn chúng sinh trong vương quốc ấy. Đột nhiên tôi nhận ra rằng, mười năm trước tôi vẫn có thể đàm đạo với cậu ấy về Phật pháp, nhưng giờ đây, tư tưởng của cậu ấy, nhất là những kiến thức về Phật học, đã vượt lên một cảnh giới cao vời vợi mà tôi không sao vươn tới được. Tôi chỉ là một người bình thường, nhưng trí thức mà tôi có, chẳng qua là tích cóp được từ 1650 năm thời gi­an. Nếu chúng tôi sinh ra cùng thời đại, tôi cũng sẽ như những người bình thường khác, chỉ có thể lặng lẽ ngắm nhìn cậu ấy trên đỉnh cao vinh quang và đừng mơ có thể lại gần.

- Ra­ji­va.

Tôi hít một hơi thật sâu, cùng hướng mắt về khung cảnh nguy nga dưới ngọn đồi.

- Khâu Từ chỉ có mấy mươi vạn chúng sinh. Còn ở Trung Nguyên, lúc này chiến tranh xảy ra liên miên, hàng triệu người vẫn đang quằn quại trong bể khổ vô biên, hơn bao giờ hết, họ đang rất cần sự giải thoát về tinh thần để có thể vượt qua kiếp nạn này.

- Ngải Tình, đến Trung Nguyên truyền bá Phật pháp luôn là tâm nguyện bấy lâu nay của Ra­ji­va.

Ra­ji­va quay lại nhìn tôi, nụ cười ấm áp tựa gió xuân.

- Cô luôn muốn Ra­ji­va đến Trung Nguyên, Ra­ji­va luôn ghi nhớ điều đó.

Đón lấy nụ cười dễ làm say lòng người ấy, trái tim khó bảo của tôi lại bắt đầu lạc nhịp.

Đến giờ tụng kinh buổi tối, tôi ngỏ ý muốn đi về một mình. Ra­ji­va bây giờ đã là “CEO” của ngôi chùa lớn nhất Tây vực, cậu ấy không thể tùy tiện như hồi nhỏ, thích trốn là trốn. Cậu ấy phải biết cân nhắc. Thế nên, Ra­ji­va đã gật đầu, chỉ cho tôi đường về và dặn rằng hết giờ tụng kinh cậu ấy sẽ đến. Tôi vốn định mở lời can ngăn cậu ấy đừng đến, vì sợ có điều tiếng không hay. Nhưng ý tứ đã ra đến đầu lưỡi lại lặng lẽ rút vào. Tôi hiểu rõ tính cách của cậu ấy, Ra­ji­va không bao giờ để ý đến những lời đàm tiếu. Vả lại, hãy thành thật đi, lẽ nào tôi không mong chờ gì ư?

Kết quả là, khi Ra­ji­va xuất hiện trước cổng nhà vào lúc hơn sáu giờ tối thì tôi đang trong tư thế ngóng đợi, đôi mắt dán vào cánh cổng. Giây phút cánh cổng từ từ mở ra và một bóng dáng cao gầy hắt lên hàng hiên từ ánh sáng ngọn đèn dầu, tôi bỗng thấy tiếng trái tim mình đập rộn ràng, tưởng như vang động khắp căn nhà.

Ra­ji­va tiếp tục chăm sóc vết thương cho tôi. Lại là khoảng cách quá gần ấy, lại là mùi thơm dìu dịu của gỗ đàn hương ấy. Tôi… say mất…

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 11:31:32 | Xem tất
Chương 20 - Tiếp tục công việc gia sư



Sau khi sắp xếp ổn thỏa nơi ăn chốn ở, tôi bắt đầu công việc khảo sát, đo đạc, vẽ tranh ở chùa Cakra mỗi ngày. Ra­ji­va đã căn dặn các sư sãi trong chùa, từ người giữ công, người trông coi Phật điện, đến người quản lý tàng kinh các để tôi được tự do tiến hành công việc của mình. Khách thập phương đến chùa Cakra, ngôi chùa lớn nhất Tây vực thời đó sẽ bắt gặp cảnh này: một cô gái người Hán trong trang phục Khâu Từ tay cầm một cuốn tập, dùng một thứ bút kì lạ tô tô vẽ vẽ trên cuốn tập đó. Chốc chốc lại lôi từ trong túi ra một chiếc thước cuộn hình thù kì dị đo chỗ này, ướm chỗ kia. Và vị sư trụ trì chùa, đại pháp sư Ku­mara­ji­va nổi danh khắp Tây vực đã yêu cầu tất cả hòa thượng sư tăng trong chùa tạo mọi điều kiện và không gây trở ngại cho công việc của cô gái đó.

Khi tôi đo đạc, khi tôi vẽ tranh, tôi thường xuyên nhìn thấy Ra­ji­va. Đây là lần đầu tiên tôi được quan sát công việc thường ngày của cậu ấy ở trong chùa. Lúc thì trò chuyện, đàm đạo với các đệ tử về kinh Phật, lúc thì bận rộn tiếp đón các tăng sĩ, hòa thượng đến xin học đạo từ các quốc gia lân cận, thậm chí từ các khu vực thuộc Trung Nguyên xa xôi. Ra­ji­va cũng thường xuyên ra ngoài, thâm nhập vào đời sống của quần chúng để thuyết giảng và truyền bá những giáo lý kinh văn Đại Thừa. Giờ tụng kinh buổi sáng bắt đầu khi tôi còn say trong giấc ngủ, nhưng bù lại tôi đã được quan sát trọn vẹn giờ tụng kinh buổi chiều của cậu ấy từ bốn giờ đến năm giờ. Khi tiếng chuông ngân vang, tất cả sư tăng trong chùa đều đến tập trung trên đại điện. Ra­ji­va khoác áo cà sa, cùng chư tăng hành lễ, dâng hương trước tượng Phật tổ, sau đó cậu ngồi vào vị trí cao nhất, bắt đầu tụng kinh cầu nguyện. Âm thanh tiếng tụng niệm kinh văn của hàng trăm nhà sư ấy ngân nga trầm bổng tựa sóng biển, vang vọng khắp đại điện, xen với tiếng chuông tiếng mõ thanh thoát, trong veo. Linh hồn như được tắm gội trong biển thanh âm thanh khiết, thoát tục ấy.

Chiếc ba lô North­face thân thuộc của tôi đã trở về. Đồ đạc bên trong không thiếu thứ gì, kể cả chiếc khăn lụa Ata­la. Nhớ đến ngày Ra­ji­va tặng quà sinh nhật cho tôi, nhớ đến khuôn mặt đỏ lựng đi vì xấu hổ ấy, tôi tủm tỉm cười và bất giác hứng khởi quàng ngay chiếc khăn vào cổ. Một vài vật dụng đã thất thoát, như cuốn tập mới tôi chưa dùng đến, hay một vài cây bút chì và một vài cục tẩy. Nhưng những bức vẽ của tôi vẫn còn nguyên vẹn. Tôi cũng không vì thế mà âu sầu, tôi đoán Pusyse­da đã lấy ra nghịch và làm gãy hoặc làm mất rồi. Sau mười năm mà vẫn có thể tìm lại được bao nhiêu kỷ vật và chúng lại được giữ gìn cẩn thận như vậy, tôi không mong cầu gì hơn.

Buổi tối, Ra­ji­va vẫn đến và chăm sóc vết thương cho tôi. Thấy tôi quàng chiếc khăn lụa, cậu ấy thoáng ngạc nhiên, khóe môi ẩn hiện một nét cười. Ra­ji­va đề nghị tôi tiếp tục làm giáo viên tiếng Hán của cậu ấy. Cuốn sách đầu tiên mà cậu ấy muốn tôi giảng là cuốn “Sử ký” của Tư Mã Thiên. Thế là tôi bắt đầu khởi động chương trình “Trăm nhà thuyết giảng” với những câu chuyện thần thoại thời thượng cổ, những sự tích về Tam Hoàng Ngũ Đế. Tôi vốn là người rất yêu thích công việc giảng dạy. Vì học chuyên ngành lịch sử, tôi thường đến các Viện bảo tàng xin làm hướng dẫn viên du lịch “không lương”. Tôi cảm thấy rất phấn chấn mỗi khi du khách say mê lắng nghe những câu chuyện tôi kể.

Trước mặt tôi lúc này tuy chỉ có một thính giả, nhưng trình độ học thức của vị thình giả này lại rất cao. Vị thính giả ấy đang tập trung tinh thần cao độ để lắng nghe và liên tục gật đầu tán thưởng. Tôi cảm thấy như mình đang trở lại khoảng thời gi­an làm gia sư mấy tháng trước đó, chỉ khác là, tuy học trò không thay đổi, nhưng thời gi­an đã trải qua mười năm đằng đẵng. Giờ đây, tôi không thể cốc vào đầu cậu ấy, cũng không thể làm bộ nghiêm khắc, lên lớp với cậu ấy được nữa. Tình hình trở nên tệ hơn, vì cô giáo thường xuyên nhìn trộm gương mặt điển trai hệt như bức tượng điêu khắc trong thần thoại Hy Lạp của học sinh, sức lôi cuốn của vẻ đẹp ấy khiến cô giáo mất tập trung, ánh mắt cứ vân du tận chốn nao và giọng nói trở nên nhỏ nhẹ đến mơ hồ. Mất một lúc mới kịp lấy lại tinh thần, mặt đỏ như gấc chín, vờ uống nước, vờ hắng giọng, vờ tìm quạt, vờ đi vệ sinh, vân vân và vân vân các phương thức chữa thẹn.

Ở chùa Cakra, tôi từng được chứng kiến Ra­ji­va chủ trì một ngày hội cầu nguyện Phật Quan Âm. Tên gọi Quan Âm Bồ Tát được dịch ý từ tiếng Phạn, lẽ ra phải dịch thành Quan Tự Tại, nhưng sau khi truyền vào Trung Nguyên, người Hán đã đọc sai thành Quan Thế Âm. Thời nhà Đường, vì không muốn phạm húy khi có âm đọc trùng với tên vua Lý Thế Dân, triều đình đã hạ lệnh lược bỏ chữ “Thế”, nên tên Bồ Tát chỉ còn là Quan Âm. Tôi vốn không hề biết đây chính là ngày hội cầu nguyện Quan Âm Bồ Tát mà sau này đã được truyền bá rộng rãi tại Trung Nguyên, vì tên tiếng Phạn của Quan Âm rất khó nhớ. Nhưng khi nhìn thấy pho tượng Quan Âm thì tôi đã hiểu ra. Vào thời kỳ này, Quan Âm Bồ Tát không phải là hình tượng một vị Phật nữ giàu lòng từ bi mà chúng ta thường gặp, mà là một vị Phật nam uy nghiêm với hai vành râu rất đẹp, giống hệt hình ảnh trên những bức bích họa ở Mạc Cao, Đôn Hoàng và hình ảnh điêu khắc về Phật giáo thời kỳ Nam Bắc triều. Trước thời nhà Đường, Phật Quan Âm mang hình tượng của một vị Phật nam. Nhưng vì Quan Âm đi chu du khắp nơi, ngài thường cứu vớt chúng sinh bằng những phép thuật khéo léo tài tình và ngài còn có thể ban tặng con cái cho chúng sinh, nên có lẽ hình tượng Phật nữ phù hợp với ngài hơn chăng?

Lễ hội kéo dài bảy ngày và vì là lễ hội cầu nguyện cho mọi chúng sinh nên ai cũng có thể tham gia. Phật tử viết tên người thân đã qua đời của mình lên một thẻ gỗ, rồi trao cho vị sư phụ trách tiếp nhận để đặt lên hương án trước ban thờ Phật. Ra­ji­va cùng các Phật tử đặt hoa và dâng hương lên bàn thờ Quan Âm, sau đó chắp tay quỳ xuống vái ba vái, mỗi động tác, cử chỉ đều rất mực từ tốn, nho nhã, thanh thoát. Rồi cậu ngồi trên bục cao, khẽ lắc chiếc chuông đồng trên tay, âm thanh giòn giã trong trẻo vang xa, bỗng chốc, cả đại điện trở nên yên ắng lạ thường.

Ra­ji­va đưa mắt quan sát một lượt, vầng trán cao rộng, đôi mắt sáng ngời và gương mặt đức độ dạo qua tất cả mọi người, trong khói hương nghi ngút, hình ảnh của Ra­ji­va tựa như một vị tiên hạ phàm. Khi cậu cất tiếng, âm thanh như có sức mạnh thấu suốt, vang động mãi trong không gi­an thánh khiết.

Tự giác ngộ và giải thoát là biểu hiện của trí tuệ sáng suốt, giúp người giác ngộ và giải thoát là biểu hiện của lòng từ bi hỉ xả. Quan Thế Âm Bồ Tát với trí tuệ sáng suốt và tấm lòng đại từ đại bi luôn dõi theo chúng sinh. Ngài ban phát những lời răn và sự giúp đỡ dựa trên năng lực, phẩm hạnh và mong muốn không giống nhau của mỗi người. Từ đó, giúp chúng sinh vơi bớt thống khổ, giúp niềm hân hoan được nhân lên, giúp con người sống cuộc đời tự do tự tại, không phiền muộn, ưu sầu.

Chúng tăng quỳ rạp bái lạy, đồng thanh niệm đọc A di đà Phật. Những người dân đứng bên cạnh tôi cũng quỳ xuống bái lạy, tôi vội vàng học theo. Tiếp đó, Ra­ji­va đọc một câu kinh, sư tăng trong đại điện cất giọng đọc theo, biển thanh âm thành kính, từ tâm ấy ngân vang, bay lên cao như lay động cả trời xanh.

Ngày hôm đó, chùa Cakra phát lộc cho mọi thiện nam tín nữ đến chùa. Ra­ji­va đích thân chia lộc và ban phước cho mọi người. Hàng ngũ kéo dài đến tận cổng chính của chùa. Tôi len lỏi từng chút một để nhích dần lên phía trước và không ngừng nghển cổ ngóng trông. Ra­ji­va miệng niệm A di đà Phật, tay chắp lại kính cẩn, phân phát từng phần lộc đã được gói bọc cẩn thận cho từng người, tay cầm cây trượng dài được khắc chạm tinh xảo gõ nhẹ lên đầu mỗi người cầu phúc cho họ. Ai nấy đều tươi cười mãn nguyện. Xếp hàng hai tiếng mới đến lượt tôi, bụng đói cồn cào. Nhìn thấy tôi, Ra­ji­va thoáng vẻ ngạc nhiên, đáy mắt gợn nhẹ một ánh cười, quay sang nói nhỏ với đệ tử bên cạnh đôi câu. Rồi đặt lễ lên tay tôi, tôi mỉm cười chắp tay đáp lễ, cúi đầu nhận lời cầu phúc. Một vật gì đó chạm nhẹ trên đầu, mùi gỗ đàn hương tỏa khắp không gi­an, ngẩng đầu nhìn Ra­ji­va, trên gương mặt ấy là vẻ an nhiên tự tại và khí chất thanh tao không thuộc về thế giới trần tục, bỗng tôi thấy tim mình đập mạnh. Đang định rảo bước thì vị sư khi nãy chạy tới trao cho Ra­ji­va một chùm nho. Ra­ji­va tươi cười đón lấy, đặt vào tay tôi. Nho là hoa quả phổ biến nhất ở Khâu Từ nên rất rẻ. Tôi len lén nhìn quanh, thấy không ai có phản ứng bất mãn nào với phần quà đặc biệt dành cho mình, liền vội vàng cúi đầu nhận lộc và nhanh chân bước đi.

Chùm nho ấy tôi không nỡ ăn, tôi lấy một tờ giấy bọc lại cẩn thận rồi cất vào trong ba lô. Buổi tối khi trở về, Ra­ji­va có vẻ mệt mỏi, nhưng tinh thần rất phấn chấn và vui vẻ. Cậu ấy cả ngày không ăn uống gì, lại phải ở đó phát lộc và cầu phúc cho mọi người bốn tiếng đồng hồ liền, tôi thấy thương, vội lôi từ trong ba lô chùm nho để dành ra, nhưng ngập ngừng chưa biết phải thuyết phục cậu ấy như thế nào.

Ra­ji­va chăm chú quan sát từng động tác của tôi. Khi thấy tôi bóc lớp vỏ bọc và chìa chùm nho ra trước mặt, cậu hơi ngạc nhiên. Không chờ tôi mở lời, cậu đón lấy, ngắt một quả bỏ vào miệng, nhìn tôi cười:

- Ngọt lắm!

Tôi sững người trong giây lát, rồi cũng ngắt một quả thưởng thức, đúng là rất ngọt, ngọt hơn bất cứ loại nho nào tôi từng ăn…

Chúng tôi ngồi đối diện và cùng thưởng thức chùm nho ấy. Đột nhiên, nhớ đến một câu nói vui: Ăn nho nhớ bỏ vỏ nho đó![9] Tôi phì cười, muốn dạy lại cho Ra­ji­va. Tiếng Hán của cậu ấy chịu ảnh hưởng khẩu âm Khâu Từ nên phát âm không chuẩn, mấy lần bị líu lưỡi, làm tôi cười ngất. Không khí vui vẻ ấy khiến tôi bồi hồi, giá như, giá như thời gi­an ngưng đọng trong giây phút này…

Những ngày diễn ra lễ hội cầu nguyện, Ra­ji­va rất mệt mỏi, nhưng vẫn kiên trì đến chỗ tôi. Tôi tạm ngừng việc giảng bài và nghĩ cách để cậu ấy được nghỉ ngơi, thư giãn. Đôi lúc rất muốn mas­sage cho cậu ấy, nhưng tất nhiên chỉ dám nghĩ trong đầu. Buổi tối ngày cuối cùng, cả ngôi chùa rực rỡ ánh sáng. Trên tay mỗi người đều có một cây đèn nhỏ. Ra­ji­va đến trước tượng Phật tổ, khấu đầu vái lạy, rồi thắp sáng ngọn đèn trong tay mình. Rồi lần lượt các tăng sư sắp xếp theo phẩm giới từ cao xuống thấp, người phía sau đón ánh lửa từ ngọn đèn của người phía trước để thắp sáng ngọn đèn trên tay mình. Phút chốc, cả đại điện lung linh rực rỡ. Tôi cũng thắp sáng ngọn đèn của mình, cảm giác như ánh sáng ấy có thể chiếu rọi cả cõi tâm linh. Trong không khí linh thiêng ấy, Ra­ji­va tựa như một vị thánh với hào quang tỏa sáng, thần tuệ siêu phàm, dẫn dắt cả nghìn người cầu nguyện, rồi thả từng thẻ gỗ có ghi tên những người đã khuất vào trong đống lửa. Âm thanh tụng niệm vang vọng, bay lượn trong không gi­an và rót vào tai tôi. Khung cảnh này, cảm xúc này khiến tôi cảm động tưởng như có thể bật khóc.

Lễ hội kết thúc đã nhiều ngày rồi, vậy mà tôi vẫn không ngừng hồi tưởng về bầu không khí tâm linh trang nghiêm hôm đó, thêm một lần nữa tôi đã lĩnh hội được sức mạnh tinh thần lớn lao của tôn giáo. Có lẽ vì thế chăng mà ngay từ khi loài người xuất hiện, tôn giáo cũng theo đó ra đời. Và tôi tin rằng, tôn giáo sẽ tiếp tục tồn tại trường tồn cùng với sự tồn tại của con người và chỉ biến mất khi loài người diệt vong. Ai cũng có nhu cầu ký thác tâm nguyện, nhất là khi phải trải qua những khổ nạn. Phật giáo đã bắt rễ rất sâu và lưu truyền rộng rãi ở Trung Nguyên vào thời kỳ Nam Bắc triều, bởi vì đó là một gi­ai đoạn lịch sử thảm khốc. Khi tôi nói với Ra­ji­va về suy nghĩ và cảm nhận đó, cậu ấy mỉm cười đồng tình. Phần lớn kinh văn Phật giáo tôi đều không thuộc, tôi chỉ có thể thảo luận với cậu ấy về tôn giáo dưới góc độ lịch sử và triết học mà thôi. Có đôi lúc, cậu ấy không lí giải nổi những điều tôi nói, nhưng chỉ trong giây lát, tư duy thần tốc đã cho cậu ấy câu trả lời trọn vẹn. Khoảng thời gi­an ngắn ngủi mỗi buổi tối trôi qua trong chớp mắt. Tới khi nhận ra đã đến giờ cậu ấy phải về chùa, tôi không khỏi ấm ức, vì sao học thuyết tương đối của Ein­stein lại đúng tuyệt đối kia chứ!

Tôi tiếp tục công việc khảo sát và vẽ tranh trong chùa. Có lúc, tôi đang ngồi xếp bằng bên ngoài đại diện để đo đạc, thì cậu ấy bước vào trong trò chuyện với các đệ tử. Khi tôi ngồi trong đại điện họa lại những bức vẽ trên tường, thì cậu ấy dẫn theo một số hòa thượng vào điện thuyết pháp, không quên ra hiệu cho tôi tiếp tục công việc của mình, đừng để ý đến họ. Khi tôi kiễng chân lên đo chiều cao của ngôi tháp, sẽ có một bóng người cao gầy bước đến cầm lấy chiếc thước cuộn, che trên đầu tôi. Khi tôi khát nước, lập tức sẽ có một chú tiểu mang nước đến cho tôi, sau đó sẽ thấy bóng chiếc áo cà sa màu nâu sòng thân thuộc lướt qua bậc cửa…

Không thể tiếp tục như vậy! Giờ đây mỗi lần nhìn thấy Ra­ji­va, trái tim tôi lại đập rộn ràng một cách khó hiểu. Ngày nào không thấy cậu ấy, tôi như người mất hồn, không thể tập trung làm được việc gì cả. Buổi tối, khi gối đầu trên chiếc gối của cậu ấy, đắp lên mình tấm chăn của cậu ấy, một niềm vui bất trị cứ trào dâng trong tôi. Lúc đến chùa Cakra, tay tôi cầm bút nhưng mắt tôi không ngừng dõi theo từng bước chân của cậu ấy, cho đến khi Ra­ji­va ngước lên và mỉm cười với tôi. Tôi biết rất rõ những biểu hiện ấy có nghĩa là gì. Nếu tôi vẫn tiếp tục ngắm nhìn gương mặt ấy, tiếp tục lắng nghe giọng nói của của cậu ấy, tôi sẽ sa vào “vòng trầm luân”, không thoát ra được và cũng không muốn thoát ra. Nhưng, Ngài Tình ơi, cô có thể có tình cảm với bất cứ ai, nhưng không được có tình cảm với cậu ấy. Cậu ấy không phải là tách trà cô uống mỗi ngày. Giữa cô và cậu ấy là khoảng cách 1650 năm thời gi­an. Và điều quan trọng nhất là: cậu ấy mãi mãi là một hòa thượng, còn cô, sớm muộn cũng phải quay trở về thế kỷ XXI của mình.

Vậy nên, sau hai tháng trời kéo lê, công việc khảo sát ở chùa Cakra của tôi không thể không kết thúc. Trăn trở mãi, cuối cùng tôi cũng quyết định sẽ nói với cậu ấy về dự định của mình vào buổi học tiếp theo.

Hôm đó, tôi giảng giải cho Ra­ji­va quyển thứ sáu mươi mốt trong tập “Sử ký” của Tư Mã Thiên có tên gọi – Bá Di liệt truyện. Bá Di và Thúc Tề lấy việc nước mất làm xấu hổ, thề không ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi hái rau dại ăn qua bữa, nhưng rau dại không thể nuôi sống con người, nên cuối cùng hai ông đã bị chết đói tại núi Thú Dương. Dưới ngòi bút của Thái Sử Công Tư Mã Thiên, lòng trung thành và phẩm hạnh cao khiết lẫm liệt ấy đã được đánh giá rất cao. Phần truyện kể về Bá Di, Thúc Tề rất ngắn gọn súc tích, nhưng nội dung chính lại nằm trong đoạn Thái Sử Công bày tỏ những suy cảm của riêng mình.

- Thế nhưng, chúng ta có nên học theo hành động “ngu trung” đó của Bá Di và Thúc Tề hay không? Khi ấy, thiên hạ đã thuộc về nhà Chu, họ thề không ăn thóc nhà Chu, bỏ lên núi hái rau dại, nhưng rau dại ấy vẫn là rau dại của nhà Chu, họ sống trên núi Thú Dương thuộc lãnh thổ của nhà Chu và sau khi họ chết, chính người nhà Chu đã an táng cho họ.

Tôi thở dài:

- Ai rồi cũng phải đối mặt với những khó khăn thử thách trong cuộc đời và trước mỗi khó khăn thử thách ấy, mỗi người đều phải đưa ra lựa chọn và quyết định của riêng mình. Sẽ nhẫn nhục tiếp tục sống hay học theo Bá Di, Thúc Tề thà chết đói chứ nhất định không chịu nhục. Nếu là tôi, tôi sẽ chọn cách tiếp tục sống. Bởi vì chỉ có như vậy chúng ta mới có thể thực hiện được lý tưởng của mình. Vậy còn những lời phán xét của người đời sau thì sao? Tôi đã thành người thiên cổ rồi thì còn để tâm đến điều đó làm gì nữa!

Tôi lặng ngắm Ra­ji­va và bâng khuâng nghĩ đến khúc ngoặt trên hành trình số mệnh của cậu ấy mười một năm sau. Khi ấy, chắc hẳn cậu ấy đã phải chịu những nỗi dằn vặt đau đớn đến đứt từng khúc ruột?

- Vì vậy, Ra­ji­va ạ, nếu sau này gặp phải khó khăn hay trở ngại, cậu hãy nghĩ đến lý tưởng lớn lao của mình, lấy đó làm động lực tiếp tục sống.

Mười một năm sau, tôi sẽ không xuất hiện, nên chỉ có thể đưa ra lời khuyên như vậy với cậu ấy.

- Viết sách làm thơ, đó là điều những người trong lúc cùng khốn dùng để truyền đạt chí hướng và suy cảm của mình. Xưa Tây Bá (tức Chu Văn Vương) bị tù ở Dũ Lí nên diễn giải Chu dịch; Khổng Tử gặp nạn ở đất Trần, đất Sài nên viết Xuân Thu; Khuất Nguyên bị đuổi nên viết Ly Tao; Tả Khâu Minh bị mù làm Quốc Ngữ; Tôn Tẫn cụt chân bàn Binh Pháp; Lã Bất Vi bị đày sang Thục, đời truyền lại sách Lữ Lăm; Hàn Phi bị tù ở Tần làm nên những thiên Thuyết Nan, Cô Phẫn; ba trăm bài ở “Kinh thi” phần lớn đều do thánh hiền làm ra để giãi bày nỗi phẫn uất. Những người ấy đều vì những điều uất ức không biểu lộ ra được, cho nên thuật lại việc xưa mà lo truyền lại người sau.

Ra­ji­va nhìn tôi, mượn lời của Thái Sử Công đáp lời tôi.

Chúng tôi cứ thế nhìn sâu vào mắt nhau, mặc cho không gi­an xung quanh trở nên tĩnh lặng thất thường, giữa chúng tôi là bầu không khí khó đặt tên. Gương mặt Ra­ji­va hiện dần sắc đỏ, cậu đột nhiên quay đi. Vẻ mặt mà tôi nhìn thấy là sự đan xen của rất nhiều xúc cảm: một chút khó xử, một chút buồn và một chút… hối hận.

Ra­ji­va, thực ra cậu đâu cần tôi dạy. Đoạn sử “Thái Sử Công tự thuật” cậu vừa đọc nằm trong chương cuối của bộ Sử ký. Tôi tin rằng, nếu yêu cầu cậu đọc thuộc cả bộ Sử ký này, cậu cũng có thể làm được. Vậy thì vì sao cậu vẫn muốn tôi lên lớp? Trái tim tôi bỗng đập nhanh dữ dội, tưởng như có thể nhảy ra khỏi lồng ngực. Tôi có thể suy luận ra được, là vì cậu muốn được gặp tôi mỗi ngày, nên mới vờ như chưa từng đọc “Sử ký”, đúng không? Nhưng mà… nhưng mà…

Tôi nhắm nghiền mắt lại, cố sức kìm chế nhịp đập gấp gáp, vất vả của trái tim và nói với cậu ấy bằng sự bình tĩnh lớn nhất mà tôi có được:

- Ngày mai tôi không đến chùa Cakra nữa, tôi đã vẽ xong rồi. Cậu biết phải tìm đoàn thương nhân đi Trường An ở đâu không? Nếu cậu không biết, tôi tự tìm hiểu cũng được.

Trầm tư trong giây lát, Ra­ji­va hỏi tôi:

- Lúc này Trung Nguyên đang trong hoàn cảnh loạn lạc, chiến tranh liên miên, người Hán và người Hồ ra sức tàn sát lẫn nhau. Cô một mình thân gái dặm trường, vì sao cứ nhất định phải đến nơi nguy hiểm ấy? Khâu Từ tuy chỉ là một quốc gia bé nhỏ, nhưng dù sao vẫn an toàn hơn nơi đó rất nhiều. Chi bằng…

- Ra­ji­va…

Tôi khẽ ngắt lời cậu ấy.

- Lý tưởng của cậu là cứu độ cho mọi chúng sinh thoát khổ. Để hoàn thành lý tưởng này, cậu sẵn sàng đến Trung Nguyên, dấn thân vào chốn binh đao khói lửa đó chứ?

- Tất nhiên là tôi sẵn sàng.

- Tôi cũng vậy.

Tôi ngắm nhìn cuốn “Sử ký” vốn là tâm huyết một đời của Thái Sử Công.

- Tôi cũng có lý tưởng của mình. Tôi từng nói với cậu, ước nguyện của tôi là viết nên một cuốn sách sử, ghi lại những sự kiện lịch sử chân thực, trả lại cho lịch sử tính xác thực vốn có.

Ngũ Hồ Loạn Hoa là thời đại lịch sử bi thảm nhất của người Hán. Cha con Thạch Hổ nước Hậu Triệu lấy việc giết hại người Hán làm thú vui, chỉ trong vòng hai mươi năm đã giết hại mấy mươi vạn người.

Nhiễm Mẫn diệt Triệu, ban lệnh tàn sát người Hồ, phàm những người có dung mạo giống người Hồ là thẳng tay giết chết không tha. Chỉ trong một năm, đã giết hại hơn hai mươi vạn người Hồ. Phương bắc Trung Quốc, trong vòng hơn hai mươi năm, xương trắng đầy đồng, xác người chất cao thành núi, tiếng than khóc dậy trời. Nếu là thời đại đó, có cho tôi đem theo vũ khí hạt nhân, tôi cũng không dám đi. May thay đó là gi­ai đoạn khi Ra­ji­va vừa chào đời. Tình hình Trung Nguyên hiện nay, nhà Tiền Tần đã lấy được vùng Lương Châu và Liêu Đông, cơ bản thống nhất được phương bắc. Và Phù Kiên là vị vua mà tôi ngưỡng mộ nhất trong thời kỳ Thập lục quốc. Tôi rất mong muốn được đến tham quan nước Tiền Tần do ngài cai trị hiện nay, bởi vì sau mười năm nữa, với thất bại thảm hại ở trận Phì Thủy, nhà Tiền Tần của ngài đã nhanh chóng suy yếu và tan rã, phương bắc lại tiếp tục rơi vào cuộc tranh đoạt thảm khốc của các thế lực ly khai.

Tôi nhìn Ra­ji­va, thầm hy vọng ánh mắt kiên định của mình sẽ nói lên điều gì đó. Cậu ấy nhìn tôi, rồi lại ngoảnh mặt đi hướng khác, ánh mắt lạc lõng thả trên ngọn đèn dầu lập lòa, giọng nói nhẹ như hơi thở:

- Tôi sẽ sắp xếp cho cô.

Tôi tiếp tục giảng bài, Ra­ji­va tiếp tục lắng nghe. Cứ xem như tôi không hiểu tâm trạng của cậu ấy. Cứ vờ như thế đi, tiếp tục làm ngơ đi…

Kết thúc buổi học, như thường ngày, Ra­ji­va lặng lẽ ra về. Tôi đang định thở phào một tiếng, chợt cánh cửa phòng lại mở ra.

- Cô còn nhớ Thiên Phật động Kizil không?

Vẫn dáng vẻ bình thản thường thấy đó.

- Sau mười năm kể từ ngày cô nói ở đó sẽ có một ngôi chùa hang đá, đến nay đã có hơn mười hang động lớn nhỏ được xây dựng rồi đó.

- Bảy ngày sau tôi sẽ tới đó lễ Phật.

Ra­ji­va nhìn tôi, mắt sáng long lanh.

- Cô có muốn đi không?

Tôi… tôi… tôi muốn chứ! Cậu ấy hiểu rõ điều gì có thể hấp dẫn tôi. Nếu đến đó, tôi sẽ xác định thời gi­an và trình tự xây dựng các hang đá của ngôi chùa vĩ đại ấy và còn có thể phác họa lại những bức vẽ tuyệt đẹp trên tường mà về sau đã bị phá hoại nặng nề. Những tài liệu này sẽ là những tài liệu lịch sử vô cùng quý giá. Tôi không kháng cự nổi sức hấp dẫn này. Trì hoãn thêm vài ngày có lẽ không vấn đề gì. Có lẽ tôi vẫn còn đủ thời gi­an.

Thấy tôi gật đầu, Ra­ji­va tươi cười.

- Bảy ngày sau chúng ta sẽ lên đường.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 11:35:29 | Xem tất
Chương 21 - Thiên phật động Kizil



Bảy ngày sao đó, vào một sáng mùa hạ rực rỡ, chúng tôi lên chiếc xe ngựa tiện dụng của Ra­ji­va, thẳng tiến về hướng Thiên Phật động chỉ cách Kucha chừng bảy mươi dặm, xe ngựa của Ra­ji­va lại là cỗ xe rất tốt, nên chỉ mất hai ngày là đến nơi. Có điều, phải ngồi chung với Ra­ji­va trong một khoảng không gi­an hẹp như vậy, không thoải mái chút nào. Ánh mắt chạm đến đâu cũng là hình ảnh của cậu ấy: Ra­ji­va lúc điềm nhiên, Ra­ji­va lúc mỉm cười, Ra­ji­va nho nhã, lịch thiệp, Ra­ji­va với ánh mắt hút hồn. Đôi mắt tôi, tựa như chuếc máy ảnh tám triệu pix­el, liên tực giữ những khung hình của cậu ấy. Giá như tôi có được một bức ảnh của Ra­ji­va thì tuyệt biết mấy, như thế lúc quay về tôi sẽ có kỷ vật để mà hồi tưởng lại. Quay về? Đúng rồi, sớm muộn gì tôi cũng phải quay về, thế nên tốt nhất đừng lãng phí và tình cảm thêm nữa.

Nào hãy tập trung tinh thần, dẹp bỏ mọi ảo tưởng, kiên quyết tránh xa sức hấp dẫn của “Chàng đẹp trai” và hoàn thành cho tốt bổn phận của mình.

Quyết tâm như vậy, nên khi xe ngựa dừng lại nghỉ ngơi, tôi làm ngơ bàn tay đang chìa ra muốn đỡ tôi xuống, tôi thờ ơ, tự tìm cách nhảy khỏi xe. Lúc ăn uống, tôi tự phục vụ bản thân, kiên quyết không để tái diễn tình trạng lười biếng lúc trước, ỷ lại vào đôi tay của cậu ấy. Lúc gặm xong miếng bánh khô Tây vực, tự mình lau sạch những vụn bánh vương vấn trên mép, kiên quyết không nhận lấy mảnh khăn nhỏ từ tay cậu ấy và để mặc đôi tay ấy phải ngượng ngùng thu về. Lúc ngồi lên xe, không có cách gì tránh né, tôi đành nhắm nghiền mắt lại, nghỉ ngơi lấy sức, buồn ngủ cũng kiên quyết không gục xuống, tránh khi tỉnh dậy lại thấy mình lấy tay cậu ấy làm gối

Có phải là ảo giác của tôi hay không? Một tiếng thở dài khe khẽ, buồn bã trôi đến tai tôi. Trái tim tôi như thắt lại…

Cuối cùng cũng tới Kizil. Tôi lấy làm khâm phục sự kiên cường của bản thân, suốt hai ngày trong không gi­an riêng biệt chỉ có hai người, cái không gi­an nhỏ hẹp không khỏi khiến người ta điên đảo, vậy mà tôi vẫn kiên trì nguyên tắc của mình, kiên quyết không để nảy sinh tình cảm với người cổ đại. Đó là lời răn dạy của sếp trước mỗi lần tôi vượt thời gi­an: Phải luôn ghi nhớ, em là người hiện đại, em sẽ phải quay về thời đại của mình, phải luôn nhắc nhở bản thân, nếu nảy sinh tình cảm nam nữ, lịch sự rất có thể sẽ vì em mà thay đổi…

Nhưng khi trước mắt tôi là ngọn núi Karadag hùng vĩ đang tắm gội dưới ráng chiều huyền ảo, dãy hang đá dài bất tận với những cửa động đều thẳng tắp, những chiếc thang gỗ cao chất ngất với những hành lang bí ẩn len lỏi qua các hang đá, thì những thứ quá ư mệt mỏi như tình cảm hay cảm xúc này nọ, đã trôi tuồn tuột ra khỏi đầu tự lúc nào không hay.

Tối hôm đó, tôi được sắp xếp ở lại trong một quán trọ ven sông Muzat. Nghe nói họ dành cho tôi căn phòng tốt nhất, tuy vậy điều kiện vệ sinh không ổn cho lắm, may mà tôi đã chủ động mang theo túi ngủ tiện dụng. Buổi tối bên sông Muzat, không khí trong lành, thoáng đãng như vừa gột rửa, nền trời ngàn sao lấp lánh. Không gi­an tựa như vô trùng này mang lại cảm giác sảng khoái, dễ chịu thật đặc biệt. Tôi vốn định lang thang, dạo mát ven sông, nhưng bóng dáng cao gầy ấy cứ chậm rãi, lặng lẽ bước theo tôi, khiến tâm tư tôi không khỏi xao động. Không biết phải làm sao, tôi đành dằn lòng quay gót, rảo bước về phòng, bỏ lại bóng dáng ấy chơ vơ giữa dòng sông vằng vặc ánh trăng.

Ngày hôm sau đến chùa, đúng như tôi dự đoán, rất nhiều người nhận ra Ra­ji­va. Chùa Kizil đã thu hút đông đảo các hòa thượng từ khắp nơi đến đây tu hành, phòng đá dành cho các tăng sư tọa thiền đã kín chỗ. Tất cả mọi người đều nhìn Ra­ji­va với ánh mắt kinh ngạc, thậm chí, hình như có chút gì đó kinh miệt. Không không, không thể như thế được. Làm sao người ta có thể khinh miệt Ra­ji­va chứ! Chắc chắn tôi đã nghiêm trọng hóa vấn đề lên thôi! Vị sư trụ trì chào đón Ra­ji­va rất nồng nhiệt, sau đó đưa cậu ấy đến một căn phòng thiền đặc biệt, đã được dọn dẹp sạch sẽ. Sao lại như vậy? Lẽ ra mọi người phải sôi nổi vây quanh Ra­ji­va và sôi nổi luận đàm về Phật pháp với cậu ấy mới đúng chứ? Sao lại để cậu ấy ngồi thiền một mình trong căn phòng đá vắng lạnh kia? Tôi đưa mắt quan sát và nhận thấy, tăng sư trong các phòng khác cũng ngồi im lìm một chỗ, cả ngày không bước chân ra ngoài. Tuy có hơi băn khoăn, nhưng tôi nghĩ rằng chắc mình không hiểu sâu những phép tắc, quy định, luật lệ của nhà Phật, vả lại nói cho cùng thì, thứ thu hút tôi đến đây là những bức họa kia mà. Nghĩ vậy, tôi đã đẩy mọi nghi hoặc ra khỏi đầu.

Thiên Phật động Kizil có tất cả hai trăm ba mươi sáu hang đá được đánh dấu theo thứ tự. Trong đó có khoảng tám trăm hang đá còn lưu giữ được các bức vẽ trên tường. Phần lớn hang đá là những căn phòng nhỏ ngồi thiền của nhà sư theo tông phái Phật giáo Tiểu Thừa. Khi còn ở thế kỷ XXI tôi đã từng khảo sát di tích này. Trong các phòng thiền không có tranh vẽ, chỉ có một chiếc giường đá rất lạnh, nhỏ và hẹp. Thời cổ đại, phải đào bới và đục đẽo hang đá bằng tay, nên rất gi­an nan và chi phí cũng rất tốn kém. Thời gi­an đầu xây dựng chùa, mọi phí tổn đều do đức vua Khâu Từ quyên tặng. Cho đến thời điểm tôi đang có mắt ở đây, ngôi chùa cũng mới chỉ có ba hang đá có các bức bích họa và tám phòng tiền, trong đó hai hang đá trang trí họa bích vẫn chưa hoàn thiện, các nghệ nhân vẫn đang tất bật với công việc vẽ tranh của mình.

Hấp dẫn quá! Đây là một đề tài tuyệt vời! Chỉ cần bạn chọn ra một trong số các công đoạn: Chọn màu tạo màu, sắp xếp hoa văn họa tiết, hay công đoạn vẽ, hay các câu chuyện Phật giáo trên các bức vẽ, bạn sẽ có được một bài luận xuất sắp với giá trị học thuật cao. Một dịp tham quan di tích lịch sử vương triểu Guge thuộc vùng Na­gari (nay là huện Zan­da, Na­gari, Tây Tạng), tôi tình cờ gặp một tổ chức từ thiện của Liên Hợp Quốc trong một ngôi chùa cổ từ tám trăm năm trước. Họ đang mải mê với các công việc phục chế miễn phí các bức bích họa đã được sáp xếp và di sản thế giới. Tôi nghển cổ lên trò chuyện với một nghẹ nhân nữ người Thụy Sĩ đang quỳ trên giá đỡ ở trên cao. Cô cho tôi xem bộ đồ nghề của mình: Những chiếc bút lớn nhỏ đủ mọi kích cỡ, những chiếc xẻng và những chiếc kẹp nhỏ, nhiều vô kể và không dễ sử dụng chút nào. Tôi mê mẩn quan sát cô ấy vẽ tranh, công việc tỉ mỉ chẳng khác nào thiếu nữ thêu hoa trên lụa. Những bức họa sau khi được phục chế, trở lên sống động lạ thường, cảm giác như chúng vừa được tái sinh. Từ tận đáy lòng mình tôi vô cùng cảm phục tài năng và tấm lòng cao đẹp của những con người ấy. Còn giờ đây, tôi đang được tận mắt chứng kiến quá trình chuẩn bị và hoàn thai nên những tác phẩm kiệt xuất của loài người, điều này làm tôi phấn khích quên cả đói và mệt. Tôi muốn tìm hiểu xem, trong điều kiện vật chất thiếu thốn thời cổ đại, trong thứ ánh sáng léo lắt được đốt lên từ nhựa thông, những nghệ nhân này đã sáng tạo nên những bức vẽ để đời ra sao. Tôi hào hứng hỏi chuyện họ, thâm nhập vào công việc của họ, học hỏi kỹ thuật vẽ tranh của họ, phác họa những bức vẽ đã hoàn thành của họ, chưa bao giờ tôi được bận rộn và vui sướng đến thế.

Họ sử dụng bột đá xanh Lapis Lazuli làm lớp màu nền, sau đó dùng bột vàng hoặc thếp giấy vàng quét lên quần áo cà sa của Phật tổ, từ xa sẽ thấy những hình ảnh Phật Thích Ca Mâu Ni tỏa hào quang lấp lánh, đẹp lung linh trong mỗi khung hình thoi màu xanh da trời. trải qua sự bào mòn của thời gi­an và mưa nắng, sắc đỏ trên bức vẽ biến thành màu đen, những màu sắc khác cũng không giữ được vẻ đẹp ban đầu, duy chỉ có màu xanh da trời ấy, vẫn vẹn nguyên vẫn tươi tắn như lúc trước. Đá Lapis Lazuli được khai thác ở Afghanistan, cách Khâu Từ một nghìn năm trăm kilo­met, với màu xanh lam quyến rũ, lại có thể phát ra thứ ánh sáng lấp lánh giống hệt đá Pyrite, nên khu được các thương nhân vận chuyển đến Khâu Từ, giá của các loại đá này tăng vọt, gấp nhiều lần so với giá vàng khối ở cùng một trọng lượng. trong không gi­an động đá, sự gi­ao thoa của hai màu xanh đỏ, tạo nên ánh vàng rực rỡ, mỗi bức tranh là một cảnh tượng sinh động, bắt măt, mỗi bức tranh là một tài sản lớn. Về sau, khi Khâu Từ bị người Ughur xâm chiếm, vì căm ghét tín ngưỡng thờ cúng hình tượng, họ đã đang tâm cạo sạch lớp bột vàng trên mình tượng Phật, để lộ lớp đất đá cằn cỗi tới tận hiện đại. Duy chỉ có màu xanh kiên trinh ấy, vẫn mỉm cười với thời gi­an, vẻ đẹp của nó đã khiến biết bao nhiêu học giả của thế kỷ XXI phải thổn thức, ngậm ngùi.

Sau khi phát triển hưng thịnh vào khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước Công nguyên, trong vòng vài trăm năm, Phật giáo không hề có tượng thờ, chỉ có dấu chân Phật, ban thờ, cây bồ đề, bảo tháp là những hình ảnh tượng trưng của Phật. Khi tôi đến tham quan hang đá Ajan­ta ở Ấn Độ, một hang đá được xây dựng rất sớm, vào khoảng thế kỷ I- II sau Công nguyên, tôi không thấy bất cứ tượng thờ nào, chỉ có dấu chân Phật và ban thờ Phật. Một thế kỷ sau Công nguyên, cùng với sự phát triển của Phật giáo Đại Thừa, tín ngưỡng hình tượng trở nên lưu hành, từ lúc đó mới bắt đầu xuất hiện những tác phẩm tượng Phật.

Alexan­der đại đế từng chinh chiến ngang qua Gand­hara[10] và mang theo tới đây nền nghệ thuật Hy Lạp, nên các tác phẩm tượng Phật phần nhiều chịu ảnh hưởng từ phong cách tạc tượng và điêu khắc của Hy Lạp, Gand­hara trở thành một trường phái quan trọng trong nghệ thuật tạo hình tượng Phật.

Các bức bích họa trong ngôi chùa hang đá Lizil chịu ảnh hưởng sâu sắc của nghệ thuật Gand­hara, thậm chí cả nghệ thuật Hy Lạp. Những bức vẽ tượng Phật mẫu đó đã bị hủy hoại hoàn toàn chính là những đại diện tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Gand­hara. Khuôn mặt hình bầu dục, ngũ quan đoan chính, sống mũi cao, mái tóc lượn sóng, búi gọn lên trên đỉnh đầu. Trên mình khoác áo choàng dài, lộ một bên vai và để râu. Hình ảnh các vị Phật, Bồ Tát và thánh tiên trên các bức bích họa phần lớn đều để trần nửa thân trên, dáng điệu uyển chuyển, thân thể bay bổng; y phục, trang sức, thắt lưng, đều được khắc họa vô cùng tinh tế và sống động.

Tôi đang phác thảo lại một bức họa “cung nữ hoắc Tất đạt đa (Sid­dartha)”. Bức họa này kể câu chuyện khi Phật tổ vẫn còn là một thái tử, ngài đã nhìn thấu những phiền não, khổ sở của cuộc đời và từ đó quyết định đi tu. Cha của ngài, đức vua Tịnh Phạn (Sud­dhoana) vì muốn ngài kế thừa vương vị nên đã ra sức kiến tạo một đời sống xa hoa, hy vọng có thể níu giữ Tất đạt đa ở lại ở thế tục. Tôi đang say sưa phác họa, chợt cảm thấy có điều gì lạ từ phía sau. Quay lại, bắt gặp Ra­ji­va đang chăm chú quan sát cuốn tập của tôi, khuôn mặt đỏ dữ dội. Tôi nhìn lại bức vẽ của mình và hiểu ra vấn đề. Tôi đang phác thọa hình ảnh một cung nữ áp sát thân mình thái tử, trong tư thế hết sức khêu gợi. Đây chỉ là một hình ảnh rất nhỏ trong hàng nghìn hình ảnh trên các bức bích họa trong hang đá này. Nếu tôi không vẽ lại và phóng to lên, chắc sẽ không ai để tâm đến những nét tinh tế ấy. Thân hình và tư thế của cô cung nữ quả thực các nghệ nhân vẽ tranh. Ra­ji­va đến, tôi mới nhận ra mình làm việc nhập tâm tới mức mọi người đã đi hết mà không hay biết. Không còn cách nào khác, tôi đành đi ăn cùng cậu ấy.

Mấy ngày nay, cậu ấy và vị sư trụ trì tất bật chạy qua chạy lại, không lúc nào rời bản vẽ thiết kế, mắt quan sát vách núi phía trước, tay chỉ trỏ liên hồi. Tôi thấy tò mò liền hỏi, cậu ấy bảo sẽ dùng số tiền quyên tặng của triều đình trong những năm gần đây cho chùa Cakra để xây dựng một pho tượng Phật khổng lồ. Tôi nhìn vào bản vẽ thiết kế, pho tượng cao tới mười lăm mét, trong vòng hào quang phía sau tượng Phật khổng lồ còn có rất nhiều hình tròn khắc họa các tượng Phật nhỏ hơn. Kiểu tạo hình khác với tạo hình tượng Phật ở cõi Niết Bàn điển hình của Phật giáo Tiều Thừa, đây là nghệ thuật Gand­hara gi­ai đoạn sau, hay còn gọi là “trường phái Ấn Độ - Afghanistan”

Nghệ thuật Gand­hara men theo con đường tơ lụa thẳng tiến về hướng đông. Trước hết, nó đổ bộ và phát triển rực rỡ tại phía đông của lãnh thổ Afghanistan vào thời đại của đế quốc Kushan (hoặc Ku­sana). Tượng Phật khổng lồ ở Bamiyan đã bị Tal­ian phá hủy chính là những đại diện tiêu biểu cho trường phái nghệ thuật này. Thời niên thiếu, Ra­ji­va từng theo mẹ đến Kab­ul, thuộc Kash­mir để học đạo, đây mà khu vực trung tâm Gnand­hara, chắc chắn cậu ấy đã được chiêm ngưỡng những pho tượng vĩ đại đó. Có lẽ nhờ thế mà Thiên Phật động Kizil mới có những hang đá bên trong dựng tượng Phật khổng lồ. Một công trình lớn như vậy, thiếu bàn tay và trí tuệ của một bậc cao tăng như Ra­ji­va, khó mà có thể hoàn thành.

Nhưng Ra­ji­va không biết được điều này, rằng phương pháp kết hợp kiến trúc xây dựng hang đá của Ấn Độ với nghệ thuật tạo tác những pho tượng khổng lồ nhằm tạo ra những pho tượng Phật trong hang đá của Ra­ji­va tại công trình Thiên Phật động Kizil không chỉ gây tiếng vang mạnh mẽ ở Khâu Từ, mà còn có sức ảnh hưởng rất lớn đến các công trình hang đá sau này như hang đá ở Mạc Cao, Đôn Hoàng, Vân Cương hay ở Long Môn.

Không thể không khâm phục và ngưỡng mộ cậu ấy. Nhưng tôi chợt nhận ra điều lạ lùng này, trong khi Ra­ji­va làm việc không nghỉ ngơi thì các sư tăng khác chỉ ngồi yên trong phòng từ sáng đến tối. Thậm chí, đến giờ ăn họ cũng không ra ngoài, thường sẽ có một chú tiểu mang hộp cơm đến và đặt vào từng căn phòng. Điều này thật kỳ quặc, phải chăng họ đang thực hiện một nghi thức nào đó? Lúc ăn cơm tôi đem thắc mắc đó ra hỏi Ra­ji­va thì cậu ấy chỉ trả lời qua loa rằng họ đang ngồi thiền, không có gì đáng ngạc nhiên cả. Tôi biết Ra­ji­va không muốn nói, nên tôi tranh thủ thời gi­an buổi chiều, tìm hiểu vấn đề thông qua các nghệ nhân vẽ tranh.

- Họ đang ngồi thiền mùa hạ[11]

Ngồi thiền mùa hạ? Nghe rất quen. Đúng rồi, trong “Pháp Hiển truyện” ngài Pháp Hiển có viết rằng trên hành trình đi Tây Trúc, ngài đã nhiều lần phải dừng lại ba tháng để ngồi thiền mùa hạ.

- Hàng năm, cứ đến mùa hạ, các pháp sư lại ngồi thiền tĩnh tâm ở trong phòng, không bước ra ngoài.

- Đúng vậy, họ không được phép ra ngoài, nếu có việc hệ trọng, họ phải xin phép trụ trì rồi mới được ra ngoài.

- Đúng vậy, đúng vậy, họ ngồi như vậy cả tháng trời. Các bậc cao tăng thì ngồi thiền liền ba tháng.

Cuộc thảo luận sôi nổi không còn sức hấp dẫn với tôi nữa. Tôi bỗng thấy sống mũi cay cay. Mùa mưa, đệ tử nhà Phật tập trung, ngồi bên nhau, tĩnh tâm tu hành. Bởi vì đây là khoảng thời gi­an vạn vật sinh sôi nảy nở, họ không ra ngoài để tránh sát sinh. Thì ra ánh mắt khinh miệt của những tăng sĩ kia dành cho Ra­ji­va là có thật. Đáng lẽ phải ngồi yên trong chùa tĩnh tâm tu hành, thì cậu ấy lại ngang nhiên ra ngoài cùng một cô gái. Mặc dù cậu ấy đến đây vì công việc xây tượng Phật, nhưng tại sao nhất định phải đến vào thời gi­an ngồi thiền mùa hạ? Cậu ấy bất chấp thanh quy, giới luật của nhà chùa, là vì tôi ư?

Buổi tối, tôi thơ thẩn bên sông Muzat, tôi biết, ở một góc khuất cách đó không xa, cậu ấy đang yên lặng đứng nhìn. Tôi đưa tay lên vẫy, Ra­ji­va có vẻ ngạc nhiên, chậm rãi bước đến bên tôi. Tôi phủi sạch viên đá bên cạnh, cậu ấy do dự trong giây lát rồi từ từ ngồi xuống.

- Ra­ji­va, hiện đang là thời gi­an ngồi thiền mùa hạ, cậu không nên ra ngoài mới phải…

Cậu ấy hơi giật mình, mắt di chuyển về phía dòng sông trăng lấp lánh như dát bạc, giọng nói bình thản:

- Tôi đến đây vì công việc xây dựng tượng Phật, điều đó càng tỏ lòng tôn kính đối với Phật tổ, vì sao không được?

- Nếu vậy, sao cậu không chờ một tháng sau hãy đến?

Ra­ji­va đột nhiên quay lại nhìn tôi, dưới bầu trời đêm ngàn sao lấp lánh, đôi mắt ấy như đang cuộn sóng, nhưng những đợt sóng rất nhanh chìm vào sâu thẳm.

Cổ họng tôi nghẹn đắng, tôi không dám nhìn vào mắt cậu ấy:

- Ra­ji­va, tôi vẽ cũng tương đối rồi, ngày mai có thể rời khỏi đây.

Ra­ji­va im lặng, nghiêng đầu dõi mắt về phía mặt sông, gương mặt u trầm, không chút biểu cảm.

Tôi cắn chặt môi, đẩy quyết tâm mức cao nhất có thể:

- Ra­ji­va, tôi không thuộc về nơi này.

- Tôi biết.

Bỗng nhiên, cậu ấy đứng bật dậy, khuôn ngực phập phồng. Ra­ji­va quả thực rất cao, tôi ngước lên nhìn cậu ấy chỉ một lát mà mỏi nhừ cả cổ. Có lẽ không phải chỉ vì cậu ấy quá cao, mà vì đầu tôi lúc này như đeo đá, nặng trình trịch, như đang rơi, sắp rơi xuống rồi…

- Ngày mai chúng ta sẽ rời khỏi đây.

Tôi gắng gượng nhấc đầu lên, thấy bóng chiếc áo cà sa màu nâu dòng đang di chuyển gấp gáp về phía nhà trọ, thoáng chốc đã biến mất trong một ngõ hẻm quanh co, vắng lặng.

Đêm đó, qua khung cửa sổ phòng trọ, tôi nhìn thấy bên sông, sưới ánh trăng vằng vặc, một bóng dáng cao gầy, đơn độc. Ngọn gió vô tình thổi bay những nếp áo mong manh, càng khiến bóng dáng ấy trở nên cô quạnh. Tôi như bị thôi miên vào bóng người cao gầy ấy, hồi lâu chợt thấy vạt áo thấm lạnh. Tôi u ê lau giọt nước mắt đã nhạt nhòa trên mặt, lao ra khỏi phòng. Không gi­an buổi đêm tịch mịch, quạnh quẽ, tiếng nước róc rách, bên sông không một bóng người. Đêm đó, tôi hầu như không ngủ, chống mắt nhìn trời sáng.

Trên đường trở về, hai chúng tôi đều im lặng. Quanh mắt cậu ấy xuất hiện những quầng thâm rõ rệt. Ra­ji­va hướng ánh mắt ra bên ngoài cửa xe, tôi cũng vậy. Chúng tôi đều đã trưởng thành, chúng tôi biết rằng điều gì không thể, thì không nên níu kéo, có níu kéo cũng vô ích, vậy hãy nhanh chóng rũ bỏ, càng sớm càng tối. Trở về thế kỷ XXI, tôi sẽ có cuộc đời riêng của mình, biết đâu tôi sẽ tìm được một người để yêu. Anh chàng cùng khoa, học trên tôi một khóa có ý với tôi lâu rồi, tôi sẽ suy nghĩ xem nên có phát triển tình cảm đó hay không.

Cho dù anh ta không đẹp trai bằng cậu ấy, không thông minh bằng cậu ấy, không dịu dàng bằng cậu ấy, không.. Tôi biết chứ, anh chàng khóa trên chẳng có điểm nào có thể so sánh với cậu ấy, nhưng anh ta là con người của hiện thực. Còn Ra­ji­va, đối với tôi, chỉ là tài liệu lịch sử để nghiên cứu, chỉ là mấy dòng chữ trong đống sách cũ nát mà thôi…

Chúng tôi cứ lặng lẽ như vậy suốt dọc đường, cho đến khi trở về căn nhà nhỏ trong thành cổ Sub­ash. Trước lúc quay về chùa, Ra­ji­va nhìn tôi rất lâu bằng ánh mắt khó hiểu, sau cùng là một tiếng thờ dài:

- Tôi sẽ sắp xếp đội thương nhân cho cô. Những ngày tới tôi phải ngồi thiền, buổi tối sẽ không về đây nữa.

Một lúc lâu, cậu ấy vẫn còn đứng đó. Bàn chân dùng dằng trước cổng nhà, mãi không cất bước.

- Mười ngày nữa là đến lễ hội Sumuzhe. Cô từng nói muốn xem lễ hội này. Hay là…

Cậu ấy ngập ngừng.

- Để sau khi lễ hội kết thúc hãy đi…

Tôi ngẩng đầu, thấy nhìn như đang trôi xuống hai vực nước sâu hun hút, không có cách nào thoát ra được. Sức thôi miên khó mà kháng cự của đôi mắt ấy khiến cơ quan phát thanh của tôi như cứng lại, tê liệt, chỉ đủ sức thốt lên một tiếng:

- Ừ.

Vành môi của cậu ấy như được kéo lên, đã rất lâu rồi mới thấy cậu ấy cười. Nhưng tôi không ở lại thêm mấy ngày vì cậu đâu nhé, Ra­ji­va. Tôi thật sự muốn tham dự ngày hội sôi động, mang đậm màu sắc của phương Đông ấy. Tôi là một học sinh hiếu học, tôi là một con ong chăm chỉ, nhưng tôi tuyệt đối không phải là một… người yêu lí tưởng…
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 11:41:54 | Xem tất
Chương 22 - Ra ngoài đi dạo



Những buổi tối sau đó, Ra­ji­va không đến. Tôi cứ ngỡ mình có thể mình tâm nhưng mỗi ngày, cứ đến năm giờ chiều, tôi lại ngồi yên trong phòng, dõi mắt ra phía cửa, cho tới khi ánh đèn tắt lịm, cả thành cổ chìm trong đêm tối tịch mịch. Hàng ngày, cầm cuốn tập trên tay lang thang trong thành Sub­ash, đi mãi đi mãi, rồi không hiểu vì sao bước chân lại đưa đẩy đến cổng chùa Cakra, tôi cứ quanh quẩn ở nơi đó hồi lâu, cho tới khi chú tiểu gác cổng cất lời hỏi han, tôi mới như người vừa tỉnh cơn mê, vội vàng cúi đầu, chạy biến. Lòng buồn vô hạn, như thể có bàn tay ai đó đang nắm chặt lấy trái tim tôi và vò nát, khiến tôi như kẻ mất hồn, tay cầm cuốn tập để bắt đầu công việc, những nét vẽ lại hiện dần hình ảnh của cậu ấy, hết bức chân dung này đến bức chân dung khác, nhưng vẽ xong tôi lại ra sức xóa đi.

Chỉ còn hai ngày là đến lễ hội Sumuzhe, vẫn không thấy bóng dáng Ra­ji­va đâu. Khi lễ hội kết thúc tôi sẽ rời khỏi Khâu Từ. trước lúc ra đi, liệu tôi có còn được gặp cậu ấy lần cuối hay không? Mặc dù vẫn biết rằng, không gặp sẽ là cách tốt nhất để khi ra đi, tôi có thể quên tất cả…

Buổi tối, tôi nằm co trên giường, đôi mắt tiếp tục cần mẫn “canh chừng” cánh cửa, suy nghĩ vẩn vơ. Tủ sách quý từng khiến tôi mê mẩn đang bày ta trước mắt, nhưng không thể khơi dậy dù chỉ là một chút cảm hứng trong tôi, vì nhiều ngày qua, cảm hứng ấy nằm bẹp trong góc xa xôi nào đó rồi. Mười giờ đêm, nếu là ở thế kỷ XXI thì bây giờ mới là thời khắc bắt đầu cuộc sống về đêm. Nhưng vào thời đại này, mười giờ đã là đêm khuya thanh vắng. Tôi thở dài, vậy là lại một đêm nữa trôi nữa qua.

Bỗng tôi nghe có tiếng gõ cửa, không ồn ào, nhưng rất rõ ràng. Rồi tiếng trò chuyện của Mava­su với ai đó vang lên trong sân. Họ nói chuyện bằng tiếng Phạn! Là cậu ấy!

Tim đập liên hồi, tôi vùng dậy, nhảy xuống giường và lao ra khỏi phòng. Ra­ji­va đang đứng trò chuyện với Mava­su giữa sân, trong bóng tối tôi không thấy rõ biểu cảm trên khuôn mặt cậu ấy. Nỗi băn khoăn ngày càng dâng cao, nếu không có việc gì hệ trọng, cậu ấy không đến vào giờ này. Có lẽ đã xảy ra chuyện gì đó.

Mava­su buồn rầu, lẳng lặng về phòng. Ra­ji­va chậm rãi bước lại gần tôi, có cảm giác mỗi bước đi của cậu ấy là một nỗ lực vô cùng lớn lao.

- Khuya thế này, lẽ ra Ra­ji­va không nên đến….

Giọng nói trở nên run rẩy.

- Nhưng, muộn phiền chất chứa trong lòng. Ra­ji­va ra ngoài đi dạo, không hiểu vì sao bước chân lại đưa đẩy đến nơi này. Ra­ji­va đứng ngoài cổng lưỡng lự hồi lâu, mới quyết tâm gõ cửa.

Cậu ấy ngẩng lên nhìn tôi, ánh sáng yếu ớt hắt ra từ ngọn đèn nhỏ trong phòng chiếu lên khuôn mặt đau thương cùng cực. Rốt cuộc là chuyện gì đã khiến một người luôn điềm tĩnh, an nhiên như Ra­ji­va trở nên tội nghiệp thế?

Cậu ấy đứng đó, dáng vẻ buồn khổ và bất lực, tôi khẽ cất tiếng:

- Ra­ji­va, chúng ta ra ngoài đi dạo một lát nhé!

Ra­ji­va nhìn tôi bừng vẻ ngạc nhiên, xem lẫn cảm động và hàm ơn, cậu cúi đầu thì thào:

- Cô mặc thêm áo vào, bên ngoài trời lạnh…

Thành cổ Sub­ash chìm trong yên tĩnh, đường phố đã tắt đèn từ lâu, nhưng ánh trăng vằng vặc vẫn soi tỏ đường đi dưới chân. Chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau. Đây là lần đầu tiên tôi ra ngoài cùng cậu ấy vào giờ khuya thế này. Ra­ji­va hẳn cũng có chút e ngại và thận trọng.

Sub­ash là thành phố nhỏ có ý nghĩa tôn giáo nhiều hơn quân sự, bởi vậy thành phố này không có tường thành bao quanh giống như những thành trì kiên cố khác. Chúng tôi đi vài bước đã ra khỏi thành để đến bên dòng sông Tongchang. Lúc này đang là mùa hạ, nước sông chảy xiết, tiếng nước róc rách càng tôn thêm vẻ tĩnh mịch của đêm vắng.

Chúng tôi tìm thấy một phiến đá lớn ven sông, tôi ngồi cuộn tròn, lặng nhìn cậu ấy.

- Sư phụ từng truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa ở Kab­ul của tôi vừa tới đây.

- Đại sư Band­hu­dat­ta ư?

Truyện kể về Ra­ji­va viết rằng, cậu ấy đã bỏ rất nhiều công sức để thuyết giảng giáo lý Phật giáo Tiểu Thừa cho vị sư phụ truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa cho mình là Band­hu­dat­ta nghe.

- Vì sao cô biết tên của sư phụ?

- Tôi…

Tôi giật mình. Tất nhiên là tôi đọc tài liệu nên mới biết được.

- Đúng rồi, tôi từng nói với cô. Không ngờ, mười năm rồi cô vẫn còn nhớ.

Ra­ji­va từng kể cho tôi nghe ư? Sao tôi không nhớ gì cả?

Tôi ngượng ngùng chuyển chủ đề:

- Cậu đã luận đàm với đại sư về Phật giáo Đại Thừa?

Ra­ji­va gật đầu

- Mấy ngày qua, Ra­ji­va đã cùng thầy luận đàm rất nhiều về những giáo lý của Phật giáo Đại Thừa, phân tích những điểm tiến bộ, những tinh hoa của giáo phái này và đã được thầy công nhận. Tuy thầy ngỏ ý muốn nhận Ra­ji­va làm sư phụ Đại Thừa của mình, đã công nhận học thuyết mới của Ra­ji­va, nhưng dù thế nào thầy vẫn là sư phụ truyền dạy Phật giáo Tiểu Thừa của tôi.

Tôi gật đầu đồng tình. Trong thế giới Phật giáo, khi một người sáng lập ra một luận thuyết và tông giáo mới và muốn được thừa nhận, thì điều quan trọng nhất là luận thuyết ấy phải thuyết phục được người có công dẫn dắt người đó bước vào cánh cửa của thế giới Phật giáo và được vị đại sư đó công nhận. Kết quả này chứng tỏ, Ra­ji­va đã chiến thắng trong cuộc luận chiến (hẳn là rất cam go) với chính sư phụ mình. Tuy rằng sau buổi luận chiến, Band­hu­at­ta nói sẽ tôn Ra­ji­va làm thầy, nhưng đại sư không hề có ý định thay đổi học thuyết của bản thân, hay nói cách khác, Ban­du­at­ta không chịu từ bỏ thân phận là “sư phụ Tiểu Thừa” của Ra­ji­va. Lẽ nào đây là nguyên nhân khiến Ra­ji­va buồn phiền như vậy?

- Ra­ji­va, ai cũng có lập trường riêng. Cậu sẽ thuyết phục được đại sư chấp nhận luận thuyết của mình, thậm chí còn ngỏ ý muốn tôn cậu làm sư phụ Đại Thừa. điều đó đã là rất nhanh công rồi. Lẽ nào cậu vẫn muốn đại sư từ bỏ Phật giáo Tiểu Thừa?

Ra­ji­va nhìn tôi kinh ngạc.

- Ra­ji­va nào dám ngông cuồng như thế!

- Vậy vì sao cậu lại buồn phiền?

Ra­ji­va đột nhiên im lặng, ánh mắt đăm chiêu nhìn về phía dòng nước, thẫn thờ hồi lâu.

- Mẹ tôi…

Ra­ji­va cắn chặt vành môi run run, như muốn khiến cho nó phải rỉ máu.

- Hôm nay sư phụ đến và báo cho tôi biết, ba tháng trước, ở Thiên Trúc (Ấn Độ), mẹ tôi đã… đăng tam quả.

Tôi không hiểu

- Đăng tam quả nghĩa là gì? Tồi tệ lắm sao?

Ra­ji­va thở dài, rồi hít một hơi thật sâu, chậm rãi nói:

- Tam quả, còn gọi là Anagamin, là cấp tu dưỡng thứ ba trong số bốn độ tu dưỡng mà những người xuất gia muốn đạt đến.

Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của tôi, Ra­ji­va tiếp tục giải thích:

- Anagamin có thể dịch thành “Không trở lại”. Nghĩa là, các tu sĩ đạt đến cấp độ này, sau khi viên tịch, sẽ hóa sinh giữa cõi trời thanh tịnh, tiếp tục thiền định để giải thoát khỏi năm điều trói buộc[12], tức là được giải thoát hoàn toàn và sẽ không trở lại cõi phàm trần này nữa

Ra­ji­va nghẹn ngào, hít một hơi thật sâu, nhưng giọng nói càng lúc càng trở nên run rẩy:

- Mẹ tôi đã đắc thành đạo, từ nay thoát khỏi vòng luân hồi khổ ải, người đến được cõi cực lạc rồi…

Cuối cùng thì tôi đã hiểu, Ra­ji­va nói dài như vậy, là muốn cho tôi biết, Ji­va, Ji­va đã qua đời tại Thiên Trúc.

Các tài liệu lịch sử chỉ viết rằng Ji­va một mình rời khỏi Khâu Từ để đến Ấn Độ. Nhưng sau đó không có bất cứ ghi chép nào về bà. Vậy là bà đã mất tại Ấn Độ. Và hung tin này, Ra­ji­va mới nhận được từ sư phụ Ban­du­at­ta..

Tôi bàng hoàng nhìn Ra­ji­va, chả trách cậu ấy đau buồn đến như vậy. Ji­va là người có sức ảnh hưởng lớn lao đến cuộc đời Ra­ji­va, hơn bất cứ ai. Bà đã đưa Ra­ji­va đến cửa Phật, đã dắt Ra­ji­va đến Kab­ul học đạo để tránh vòng vây của những lời tung hô, ca tụng sáo rỗng ở Khâu Từ, cũng chính bà khuyên Ra­ji­va theo học giáo thuyết Đại Thừa. Trước hai mươi mốt tuổi, mọi thứ trong cuộc đời Ra­ji­va đều do mẹ cậu ấy bày đặt. Với Ku­marayana, Ji­va có thể không phải là một người vợ hiền, nhưng với Ra­ji­va, bà là người mẹ tuyệt với, là người chỉ huy, là người dẫn đường của cậu.

- Ra­ji­va, nếu cậu buồn thì hãy…

- Không!

Ra­ji­va xúc động, hơi thở gấp gáp:

- Tôi không buồn. Mẹ đã chứng tam quả, ước nguyện giải thoát của người đã thành hiện thực. Người đã đến cõi cực lạc, từ nay tháo khỏi mọi ư phiền, vì sao tôi phải đau buồn, tôi không nên đau buồn!

Ra­ji­va bị chấn động mạnh, rõ ràng trái tim cậu ấy đang đập dữ dội và hơi thở trở lên gấp gáp khác thường, có thể dễ dàng nhận ra đó là những lời nói dối gắng gượng của cậu ấy.

- Ra­ji­va.

Tôi nhẹ nhàng vỗ vai Ra­ji­va.

- Trong hoàn cảnh này, ai cũng sẽ đau lòng, điều đó rất bình thường. Bởi vì cậu có tình yêu, cậu yêu mẹ cậu. Vậy thì vì sao cậu phải kìm chế, không thể hiện ra những cảm xúc đó?

- Tình yêu ư?

Ra­ji­va khẽ nhẩm lại từ này, một tiếng “yêu” mà như có sức nặng ngàn cân, khiến cậu ấy đọc không thành tiếng, chỉ có những âm hưởng run rẩy.

- Đức Phật nói rằng, mọi thứ trên cõi đời này đều không tồn tại. Ra­ji­va là người tu hành, đâu có thể có “tình yêu”?

- Giáo lý Phật giáo dạy rằng cuộc đời này những chuỗi đau khổ: sinh lão bệnh tử, yêu thương, căm ghét, chia ly, thất vọng, bởi vì căn nguyên của mọi nỗi khổ xuất phát từ tình yêu. Chỉ cần “diệt” được “yêu”, sẽ lên cõi Niết Bàn, từ đó thoát khỏi bể khổ luân hồi, bước vào cõi vình hằng. Nhưng, hãy thử nghĩ xem, lẽ nào Phật tổ không có tình yêu? Ngài có vợ con kia mà, lẽ nào ngài chẳng hề bận lòng về họ? Ngài đưa ra lời răn “diệt ái dục”. vì ngài từng nếm trải nỗi khổ sở do yêu thương mang lại? Nhưng nếu thực sự có thể “diệt ái dục”, thì vì sao chỉ đến lúc chết ngài mới đạt được sự giải thoát? Niết Bàn, tịch diệt, tác diệt, diệt độ, tịch, vô sinh, trạch diệt, ly hệ, giải thoát… tất cả những cách gọi đó, chẳng qua chỉ là từ đồng nghĩa với cái chết mà thôi. Chỉ khi chết đi người ta mới tận diệt được mọi ác dục. Phải chăng chính vì thấu tỏ điều này, nên Phật tổ mới vẽ ra một viễn cảnh, một thế giới tây phương cực lạc sau khi chết, để bù đắp những mất mát, những đau khổ mà người tu hành phải chịu đựng khi quyết tâm diệt ái dục trong kiếp này. Nhưng vì sao, nhất định phải…

- Ngải Tình!

Ra­ji­va gằng giọng ngắt lời tôi, khóe môi rung động, tay ôm đầu, vẻ đau khổ cùng cực.

- Đừng nói nữa…

Ra­ji­va xoay đầu qua một bên, không để tôi nhìn thấy gương mặt cậu. Đôi vai rung rung dưới ánh trăng, tôi nghe thấy hơi thở gấp gáp của cậu ấy. Tôi đứng lên, bước sang phía đối diện, đặt tay mình lên đôi vai của Ra­ji­va, nhẹ nhàng ôm cậu ấy vào lòng. Toàn thân cậu ấy như tê liệt, Ra­ji­va không đẩy tôi ra, nhưng dường như đang cố nín thở.

- Hãy khóc đi, cậu là con người không phải thánh thần. Người ta khóc thương người thân của mình, có gì không phải đâu. Muốn khóc thì hãy khóc cho thỏa, như thế cậu sẽ thấy dễ chịu hơn…

Tôi nhẹ nhàng vỗ về cậu ấy, Ra­ji­va trong vòng tay tôi, tuy dáng người cao lớn, nhưng thân hình mảnh khảnh, gầy guộc khiến tôi thấy xót xa. Tôi ước mình có thể hóa thân thành Ji­va đẻ an ủi cậu ấy.

Sau rất nhiều tranh đấu (có lẽ vậy), Ra­ji­va rụt rè vòng tay ôm ấy tôi. Động tác ấy khẽ khàng, như thể đang ôm một người bằng giấy và sợ người đó sẽ tan biến đi.

- Ngải Tình!

Tôi cảm thấy được khuôn ngực thổn thức của cậu ấy, sức mạnh nơi cánh tay tăng dần, càng lúc càng xiết chặt hơn.

- Ngải Tình!

Ra­ji­va khẽ gọi tên tôi, những giọt nước mắt nóng ấm nhỏ trên vai áo tôi, làn gió lướt qua làm nguội đi hơi ấm, nhưng ngay lập tức những giọt nước mắt nóng ấm liên tục rớt xuống. Cuối cùng thì Ra­ji­va cũng đã được khóc như một con người bình thường.

Cậu ấy đã khóc rất lâu, như thể đây là lần đầu tiên trong đời được khóc vậy. Khóc như thể cạn nước mắt của cả một đời người. Tôi cũng khóc cùng cậu ấy. Chúng tôi cứ thế, trong vòng tay nhau, dốc hết sức để khóc, khóc cho đến khi cả đất trời cũng mòn tan thành nước mắt…

Không biết phải mất bao lâu chúng tôi mới bình tâm trở lại. Tôi chưa bao giờ khóc nhiều như vậy, mệt mỏi rã rời, tôi tựa vào cậu ấy để không gục xuống. Ra­ji­va cũng đã thôi khóc, nhưng vẫn ôm chặt lấy tôi. Hơi ấm tỏa ra từ cơ thể cậu ấy thiêu đốt trái tim tôi. Tôi không muốn vòng tay ấy buông lơi, tôi thậm chí không dám thốt lên nên một lời nào vì sợ sẽ làm hỏng không khí này. Sau cùng, Ra­ji­va là người chủ động buông tay, ánh mắt giấu đi rất xa, tôi không nhìn thấy biểu cảm của cậu ấy, chỉ nghe thấy giọng nói chậm rãi:

- Mẹ biết ước nguyện của tôi là đến Trung Nguyên truyền bá giáo lý Đại Thừa, nên trước khi rời Khâu Từ, người từng nói với tôi: Giáo lý Đại Thừa muốn đến được Đông Thổ (đất Hán), tất cả dựa vào tôi. Nhưng trách nhiệm nặng nề này không hề có lợi cho cá nhân tôi. Mẹ có hỏi tôi, rằng tôi dự định thế nào?

Tôi vẫn còn chìm đắm trong những xúc cảm khi nãy, nên chỉ biết yên lặng nhìn cậu ấy. Ra­ji­va ngừng lại một lát, rồi tiếp tục:

- Tôi trả lời rằng: Phật giáo Đại Thừa giúp ích cho mọi người chứ không phải chỉ cho bản thân. Nếu tôi có thể truyền bá rộng rãi giáo lý của Phật tổ, giúp chúng sinh giác ngộ và từ đó thoát khỏi bể khổ, thì dù có phải nhảy vào chốn dầu sôi lửa bỏng, Ra­ji­va cũng quyết không từ nan.

Khi Ji­va còn ở bên cạnh, Ra­ji­va giống như một thần đồng được bảo bọc và chăm sóc chu đáo. Ra­ji­va tuy thông minh tuyệt đỉnh, những cậu giống như loài hoa trong nhà kính, chưa từng trải qua gió mưa bão bùng. Sau khi Ji­va ra đi, Ra­ji­va phải dựa vào nghị lực của mình để bước tiếp con đường chông gai. Lí tưởng của cậu, phải chăng đã được hình thành từ khi còn nhỏ? Nhưng Ra­ji­va đâu biết rằng, những lo lắng của Ji­va đã trở thành hiện thực trong tương lai. Cái giá mà Ra­ji­va phải trả cho lí tưởng truyền bá đạo Phật ở Trung Nguyên là những lời chỉ trích gay gắt của người đời, nếu có thể, tôi ước gì mình không biết trước tương lai của cậu.

- Ra­ji­va, tuy mẹ cậu không ở bên cạnh, nhưng bà luôn sống trong trái tim cậu. Bất cứ khi nào gặp khó khăn, cậu sẽ nhớ đến lời hứa với mẹ và cậu sẽ vượt qua tất cả, đúng không?

Ra­ji­va gật đầu, tôi tìm cách chuyển chủ đề, những mong cậu ấy sẽ vơi đi đau buồn.

- Ra­ji­va, hãy kể cho tôi nghe chuyện hồi nhỏ của cậu, những chuyện mà tôi không biết ấy.

Nói rằng muốn chuyển chủ đề chỉ là cái cớ, vì tôi thực sự tò mò về tuổi thơ của cậu ấy.

Chúng tôi tựa vào vai nhau, lắng nghe câu chuyện vầ Ra­ji­va hồi nhỏ: sự nghiêm khắc và tình yêu của Ji­va dành cho cậu, những câu chuyện vui về sư phụ và các sư huynh của cậu, những chuyến du ngoại khắp các tiểu quốc ở Tây vực của cậu. Chuyện nào cũng khơi gợi niềm phấn khích trong tôi. Thì ra một người có chỉ số IQ 200 như Ku­mara­ji­va, hồi nhỏ cũng từng trêu chọc các sư huynh, cũng từng bị mẹ trách phạt vì không học thuộc các bài kệ. Thì ra Ra­ji­va cũng có tuổi thơ, tôi cứ nghĩ, ngay từ khi còn nhỏ cậu ấy đã là một người thông tuệ và già dặn rồi.

Tôi muốn Ra­ji­va tạm quên đi nỗi đau mất mát kia và vui lên một chút, nên đã kể cho cậu ấy nghe về gia đình tôi, về bố mẹ tôi, về các bạn học của tôi, về sếp của tôi, về những cuốn sách tôi từng đọc, những nơi tôi từng đi qua. Tất nhiên là tôi đã lựa chọn từ ngữ sao cho cậu ấy có thể hiểu được và tránh không để lộ “thiên cơ”.

Phía xa xa bên kia dãy Thiên Sơn, những quầng đỏ màu son nhạt đã hiện lên trên nền trời, bầu trời ngàn sao lấp lánh vừa mới đây đã lặn mất tự lúc nào. Tôi xem đồng hồ, gần bốn giờ sáng, vậy là chúng tôi đã ngồi suốt một đêm. Tôi ngước nhìn Ra­ji­va.

- Ra­ji­va, về thôi, sắp đến giờ tụng kinh buổi sáng của cậu rồi.

Ra­ji­va như vừa tỉnh cơn mơ.

- Chúng ta đã ngồi hết đêm ư? Ngải Tình, có mệt không?

Tôi lắc đầu. Tuy tôi không mệt, nhưng toàn thân lạnh tê tái. Chiếc áo khoác mỏng manh không đủ che chắn khí lạnh buổi ban mai.

Ra­ji­va cầm tay tôi, bàn tay cậu ấy cũng không ấm hơn, những ngón tay dài vuốt nhẹ bàn tay tôi, tôi mỉm cười nhìn cậu ấy vất vả cọ xát đôi tay để tạo hơi ấm. Ra­ji­va ngước mắt lên, thấy tôi cười, cậu không tiếp tục chà tay nữa, mà cầm hai bàn tay tôi áp lên hai má của cậu. Tôi nín cười, hệt như có một cơn lũ vừa quét qua, phòng tuyến kiên cố cuối cùng trong trái tim tôi, vỡ òa..

Chúng tôi đứng im lìm, nhìn vào mắt nhau, bàn tay tôi áp chặt trên khuôn mặt có chút hơi ấm của Ra­ji­va. Lòng bàn tay chạm vào thứ gì đó ran rát, thì ra là những đốm râu mới mọc. khoảnh khắc ấy, tựa như có một luồng điện lan truyền khắp cơ thể, khiến toàn thân tôi run rầy. Tôi đã hoàn toàn hiểu ra điều này.

Tôi yêu Ra­ji­va.

Đúng vậy, tôi đã yêu cậu ấy từ rất lâu rồi, vào khoảnh khắc tôi gặp lại cậu ấy. Cũng không có gì lạ, một chàng trai thông minh, ưu tú với vẻ điển trai hút hồn như cậu ấy có thể khiến bất cứ cô gái nào trên đời này xiêu lòng. Tôi sẽ không do dự, không cự tuyệt nữa. Yêu thì cứ yêu thôi, làm sao tôi có thể phủ nhận cái thứ tình cảm tự nhiên nhất của loài người nay kia chứ! Tôi chỉ là một người bình thường. Tôi không thể diệt được ái dục, nên tôi không cần phải tranh đấu, dằn vặt và tự làm khổ mình. Lúc trước, tôi đấu tranh với bản thân để phủ nhận tình cảm này, bởi tôi đã nhìn nhận tình yêu bằng lí trí chủ quan cứng nhắc của con người hiện đại. Tôi muốn tình yêu phải được đáp lại. Tôi luôn viện cớ công việc, lúc nào cũng nhắc nhở bản thân phải quay về và tôi lo lắng, nếu yêu Ra­ji­va, tôi sẽ không có tương lai. Nhưng, nhưng nếu tôi không quay về thì sao? Nếu tôi đòi hỏi phải được ở bên cạnh cậu ấy thì sao? Nếu tôi cần tương lai thì sao? Có ai nói nếu yêu cậu ấy thì tôi không thể tiếp tục công việc của mình đâu. Tôi chỉ biết, điều tôi muốn lúc này là yêu Ra­ji­va và tôi sẽ yêu cậu ấy theo cách của mình. Tôi cũng có thể không để cậu ấy biết được tình cảm của mình. Tôi cũng có thể tiếp tục âm thầm nhớ, âm thầm yêu sau khi trở về thế kỷ XXI. Chỉ cần được yêu cậu ấy, tôi mặc kệ những chuyện về sau. Việc gì phải lí trí, việc gì phải suy xét thiện hơn mọi đường cơ chứ?

- Ngày kia là lễ hội Sumuzhe, hôm nay cô hãy lên đường đến thành cổ Khâu Từ đi.

Giọng nói ấm áp lướt qua bên tai tôi.

- Hãy về nghỉ ngơi đi, tôi dặn dò Kao­du­ra đưa cô đến thành cổ Khâu Từ, tôi đã sắp xếp nhà trọ cho cô. Hay là về phủ quốc sư? Cô vẫn muốn gặp Pusye­da kia mà!

Kao­du­ra ư? Tôi sững người, đó là người đánh xe ngựa của Ra­ji­va.

- Tôi sẽ ở lại nhà trọ, tôi sợ đến phủ quốc sư sẽ khiến mọi người hoảng sợ. Còn Pusye­da, trước khi rời khỏi Khâu Từ, tôi sẽ đến gặp cậu ấy.

Sau khi lễ hội kết thúc, tôi sẽ tìm cách gặp Pusye­da. Mười năm trước, cậu bé rất quý mến tôi, nhưng giờ cậu đã là một chàng trai trưởng thành, đã có cuộc sống riêng, tôi không muốn làm ảnh hưởng đến cậu ấy. Chỉ cần được nhìn thấy Pusye­da là tôi có thể yên tâm được rồi. Điều tôi mong muốn nhất, thực ra là…

- Cậu… cậu…

Chần chừ, chần chừ, rồi lại chần chừ.

- Cậu… có đến không?

Ra­ji­va thoáng giật mình, nhẹ nhàng thả tay tôi ra.

- Sư phụ vẫn còn đây, hơn nữa…

- Tôi biết rồi, giới luật quy định, cậu không được đến nơi hội hè ca múa.

Nén lại nỗi thất vọng đang nhen lên trong lòng, tôi làm bộ tỉnh bơ:

- Tôi chỉ hỏi vậy thôi. Cậu… không cần phải đến, cũng không thể đến…

Ra­ji­va thinh lặng, đứng lên, ánh nắng dìu dịu buổi ban mai phủ lên lớp áo cà sa màu nâu sòng, làm gió lật bay nhè nhẹ những nếp áo. Cậu ấy đứng đó, đẹp tựa một pho tượng Hy Lạp cổ tạc trước bình mình.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 12:32:11 | Xem tất
Chương 23 - Sumuzhe



Tôi đến thành Khâu Từ bằng xe ngựa của Ra­ji­va. Đường sá gập ghềnh, xe ngựa lắc lư, bình thường, trong trạng thái ấy, tôi đã ríu mắt lại hồi lâu, nhưng hôm nay không hiểu sao, tôi vẫn tỉnh như sáo. chẳng hề buồn ngủ. Có lẽ vì, tôi vẫn đắm chìm trong nỗi phấn khích lúc trước, hai mắt vẫn đang chăm chú mở to nhìn đôi tay. Kể từ lúc đôi tay này chạm vào khuôn mặt của cậu ấy, tôi thậm chí không nỡ rửa tay. Tôi đưa lên, nhắm mắt lại, cố hình dung ra từng đường nét và tưởng tượng ra những ngón tay mình đang khám phá khuôn mặt của Ra­ji­va. Tôi vẫn nhớ cảm giác gai gai ấm áp khi chạm vào gò má gầy gầy, xương xương, lốm đốm râu và làm da mịn màng của cậu ấy. Cảm giác đó khiến tôi, dù đã rất cố gắng, cũng không kìm chế được nụ cười hạnh phúc đang nở tràn trên môi.

Tôi cứ tủm tỉm cười như vậy suốt dọc đường đi, cho đến xe ngựa dừng lại giữa thành phố Khâu Từ đang tắm mình trong ráng chiều. Phòng trọ mà Ra­ji­va đặt trước cho tôi là một căn phòng “hạng sang”. Tôi thầm cảm ơn sự chu đáo của Ra­ji­va, vì nhờ cậu ấy, tôi đã có một chỗ nghỉ ngơi thoải mái trong thành cổ và dịp lễ, khi mà tất cả các nhà trọ đều đã kín người. Ăn uống qua loa xong xuôi, tôi bắt đầu ngáp ngủ, rất lâu rồi tôi mới thức khuya như hôm nay. Tôi nhớ là chỉ vào những dịp thi cử, tôi mới phải thức trắng đêm trong phòng học tự học ở trường. Thế nên, tôi quyết định dành tất cả khoảnh thời gi­an còn lại… để ngủ. Hi vọng là lúc mê mệt, tôi không ngáy to, nếu có ngáy, mong là không khiến phòng bên cạnh mất ngủ.

Sumuzhe, hay còn gọi là lễ hội cầu lạnh, được tổ chức vào tháng bảy âm lịch hàng năm. Lễ hội được tổ chức nhằm cầu nguyện một mùa đông lạnh hơn, tuyết rơi nhiều hơn, để năm tới Khâu Từ có được nguồn nước dồi dào phục vụ việc trồng cấy. Lễ hội này được truyền đến Trung Nguyên vào thời nhà Đường, khiến kinh thành của người Hán trở nên náo động hơn bao giờ. Có rất nhiều tác phẩm thơ ca nổi tiếng viết về lễ hội Sumuzhe đã ra đời trong thời kỳ này, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Di, Lý Hạ… đều đã từng chấp bút về đề tài này. Đến đời Tống, Sumuzhe trở thành tiêu điểm của rất nhiều bài tử, trong đó, nổi tiếng nhất phải kể đến bài tử của Phạm Trọng Yêm:

Biếc mây trời

Vàng lá đất

Sóng lẫn sắc thu

Khói sóng xanh lặng ngắt

Nước lên trời, núi chiều nắng bắt

Đám cỏ trêu ngươi

Mơn mởn trong nắng nhạt

Não hồn quê

Buồn đất khách

Vì được bằng đêm

Mộng đẹp ru ngon giấc

Trăng sáng chớ một mình tựa gác

Rượu ngấm ruột sầu

Nỗi nhớ đẫm nước mắt[13]

Khi đi ngang qua Khâu Từ, Huyền Trang cũng từng được chứng kiến và ghi chép lại không khí náo nhiệt của ngày hội này. Đức vua Khâu Từ đã mời nhà sư cùng dự lễ. Đến tiết mục nhảy múa, đức vua còn khẩn khoản mời sư phụ cởi áo cà sa và giày tất, cùng tham gia vào điệu múa cầu lạnh. Huyền Trang cũng xem múa hát đó thôi, vì sao Ra­ji­va không thể? Nhưng thôi, Huyền Trang là du khách từ nơi xa đến, nhập gia phải tùy tục là theo lẽ thường tình.

Tôi đeo chiếc mặt nạ mua ở Sub­ash, đi lang thang ngắm nghía phố phường. Những con phố chính đã chật kín người, ai nấy đều đeo mặt nạ, mọi người niềm nởi chào hỏi lẫn nhau, bất kể người quen hay người lại. Không khí cởi mở, vui tươi ấy đã bù đắp nỗi trống trải và xua tan ưu phiền trong lòng tôi. Tôi náo nức hòa vào dòng người trên phố. Một lát sau, thì đoàn diễn hành bắt đầu diễn qua. Đầu tiên là đội trống với dàn trống Hạt khổng lồ dẫn đầu[14], các tay trống ngồi trên xe ngựa, đồng loạt đánh lên những thanh âm sôi động đầu tiên, mở màn cho lễ hội Sumuzhe.    Theo sau là một đoàn nghệ sỹ cầm trên tay nhiều loại trống lớn nhỏ khác nhau, vừa đánh trống vừa nhảy múa, phối hợp nhịp nhàng với đội trống Hạt đi đầu. Cách một đoạn là đến đội hình múa đôi nam nữ. Họ mặc những trang phục chỉnh tề, nghiêm trang, mảnh khăn lụa dài được căng rộng trên hai sải tay, biểu cảm trang trọng, điệu múa truyền thống. đậm màu sắc cổ điển. Điệu múa này có nét gì đó rất giống với vũ điệu “ương ca[15]” của các bà cô người Hán vào mỗi dịp năm hết Tết đến.  

Tiếp đó là đội hình biểu diễn múa trên dây, các cô gái trẻ, đầu đội mũ miện đính hoa tươi, sải bước trên những sợi dây thừng được trang trí hoa văn rực rỡ, ký thuật điêu luyện, động tác uyển chuyển, nét mặt rạng rỡ như hoa. Kế đó là các đội hình múa dải lụa, xiếc khỉ, vân vân. Mắt tôi được dịp no căng với bao nhiêu loại hình vũ đạo độc đáo. Mỗi điệu múa có một đội hình riêng, với những cỗ xe được trang trí hoa tươi muôn hình muôn vẻ và rất nhiều các loại nhạc cụ khác nhau, kèn thất lật[16], đàn Không[17], tỳ bà, ống sáo làm bằng sừng động vật,... tất cả những nhạc cụ đặc sắc này đã tạo nên biểu thanh âm rộn rã, vui tai.   

Năm 1903, có hai người Nhật đã tìm được một chiếc hộp, bên trong đựng xá lợi của một vị cao tăng ở thành cổ Sub­ash. Họ lẳng lặng đem chiếc hộp về Nhật Bản và giấu đi. Đến tận năm 1957, người Nhật Bản mới phát hiện ra, dưới lớp màu sắc được phủ phía trên thấp thoáng dấu ấn của hội họa. Lúc đó, họ mới cạo bỏ lớp màu trên bề mặt, những hình vẽ nguyên sơ hiện ra, đó là bức họa về các vũ điệu Sumuzhe, sống động và tinh tế khiến người ta phải kinh ngạc. Bức họa vễ rất nhiều ngưới, trên tay cầm những nhạc cụ đặc sắc của Tây vực, họ đeo mặt nạ và trình diễn những vũ đạo không giống nhau.

Đến nay, chiếc hộp vẫn đang ở Nhật Bản. Chúng tôi phải cất công sang tận đó để chụp hình mang về nghiên cứu.

Còn bây giờ, lễ hội từng được mệnh danh là “ngày hội sôi động của phương Đông” đang diễn ra sống động trước mắt tôi, có thể nói rằng, niềm phấn khích trong tôi không bút nào tả xiêt. Lễ hội Sumuzhe diễn ra liên tục trong bảy ngày, bất kể ngày đêm. Nếu như khi quay về, tôi có thể góp sức khôi phục lại ngày lễ cổ truyền long trọng này thì công tác nghiên cứu tính kế thừa lịch sử của các loại hình nghệ thuật ca múa dân gi­an chắc chắn sẽ được ủng hộ và phát triển rộng rãi. Và điều đó, chắc chắn sẽ khiến không ít đồng nghiệp của tôi phải đỏ mắt ghen tị. Ha ha, chỉ nghĩ đến đó tôi đã sung sướng cười ngất.

Bây giờ là buổi trưa, đoàn ca vũ vẫn tiếp tục diễu hành qua các con phố, bên đường, những quán ăn vặt đã bày sẵn lúc nào. Mùi thơm của thịt dê nướng khiến tôi không khỏi nuốt nước miếng ừng ực. Tháo mặt nạ, tôi đến bên một sạp hàng nhỏ, hỏi mua ba xiên thịt. Xiên thịt nướng ở thời đại này sao mà vĩ đại! Miếng nào miếng ấy to bằng cả quả trứng gà. Khi đi du lịch ở Tân Cương, tôi phát hiện ra điều này, rằng kích thước của xiên thịt cứ nhỏ dần từ nam Tân Cương lên bắc Tân Cương, từ Tân Cương đến đại lục, đến các thành phố ven biển. Ở nam Tân Cương (gồm các huyện Kash­gar, Khotan, Kucha), kích thước xiên thịt nướng không thay đổi sau 1650 năm, vẫn to như quả trứng gà và thường chỉ có hai đồng một xiên. Còn ở quán ăn trước cổng trường tôi đang học, họ bán những xiên thịt nướng nhỏ nhất mà tôi từng thấy, một đồng một xiên, nhưng đám con gái chúng tôi phải ăn hai mươi xiên may ra mới có cảm giác “lót dạ”.

Kéo mạch suy nghĩ lan man từ thời hiện đại trở về với lễ hội cổ truyền trước mắt, tôi vừa thưởng thức thịt dê nướng vừa ngắm nhìn dòng người qua lại trên phố. Vừa “tiếp lương thực” vào bụng vừa được ngắm các chàng trai đẹp là tuyệt nhất, nhưng có vẻ như không nhiều chàng trai đẹp ở đây cho lắm, vì hầu hết mọi người đều đeo mặt nạ. Nhưng đột nhiên, tôi há hốc miệng, bỏ dở miếng thịt dê thơm phức trên tay.

Có ai đó tách ra khỏi đám đông, bước về phía tôi, dáng người cao lớn, trên mình là bộ trang phục truyền thống của giới quý tộc Khâu Từ: áo rộng màu vàng nhạt, thắt eo. Lối trang phục này nhìn qua rất giống trang phục của các kỵ sĩ châu Âu thời kỳ trung thế kỷ. Những chàng trai vóc dáng khỏe khoắn, khoác thêm bộ trang phục này sẽ càng nam tính và cuốn hút. Người đàn ông đó, dáng vẻ tự tin, thân hình cao lớn vạm vỡ, hoàn toàn nổi bật giữa đám đông,

Tuy không nhìn rõ khuôn mặt, nhưng có thể dễ dàng đoán ra đó là một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Vì sao anh ta lại đến gần tôi? Và vì sao dáng dấp ấy lại quen thuộc đến vậy? Anh ta đeo một chiếc mặt nạ hình ma quỷ, ánh mắt lúc lại gần, lộ rõ vẻ kinh ngạc và nghi hoặc. Tôi chớp mắt liên tục, chăm chú quan sát và đoán định. Đôi mắt xanh nhạt ấy quá đỗi quen thuộc. Trái tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Là cậu ấy ư, cậu ấy bảo không đến kia mà?

- Ngải Tình, có phải chị không?

Giọng nói xúc động.

- Là tôi chứ ai.

Tôi xoay xoay chiếc mặt nạ đang vắt vẻo trên cổ tay và nhận ra “bi kịch” này: một bên tay tôi vẫn đang cầm ba xiên thịt nướng vĩ đại (có thể khiến bất cứ ai phải hoảng). Thôi thế hỏng hết! Mồm miệng nhồm nhoàm. dầu mỡ dính đầy trên mặt và cái vẻ ngớ ngẩn trợn tròn mắt nhìn cậu ta của tôi nữa, toàn bộ cái bộ dáng kỳ cục, đáng xấu hổ này đã lọt vào mắt cậu ta rồi!

Đang đau khổ và tủi hổ bất tận, tôi bỗng ngã vào một vòng tay ấm áp. Nhịp tim tôi mỗi lúc một dữ dội hơn, tư duy hỗn loạn: vì sao, vì sao cậu ấy lại…

Tuy tôi vẫn giơ cao xiên thịt nướng, toàn thân như bị điểm huyệt, tôi để mặc người đàn ông cao lớn đó nhấc bổng mình lên xoay mấy vòng liền.

- Ngải Tình, chị đã trở về thật rồi ư!

Giọng nói có vẻ giống, nhưng chắc chắn không phải giọng nói của cậu ấy! Cậu ấy chưa bao giờ ôm chặt tôi như vậy, cũng không bao giờ cười lớn như vậy và càng không bao giờ nhấc bổng tôi lên xoay mấy vòng liền giữa chốn đông người như vậy.

Một lúc lâu sau người đó mới thả tôi xuống, hơi nghiêng người, tháo mặt nạ. Sống mũi cao thanh tú, mát sáng long lanh, hàng mi dày và rậm, đồng tử màu xám nhạt, giống cậu ấy qua! Chiều cao và vóc dáng cũng giống hệt cậu ấy. Nhưng khuôn mặt không gầy guộc như cậu ấy, làn da không có màu bánh mật như cậu ấy và vành môi cậu ấy không bao giờ nhấc lên tinh nghịch như vậy. Thoáng một chút thất vọng, nhưng ngay lập tức đã được thay thế bởi một niềm vui mới tràn ngập.

- Pusyse­da!

Bây giờ đến lượt tôi ôm chầm lấy cậu ta. Nhưng sao cậu ta lại cao lớn đến vậy?

Cậu ta suốt từ lúc nhìn thấy tôi đến giờ, lúc tôi buông tay ra thì cậu ta làm vẻ mặt giận dỗi:

- Ngải Tình, dầu mỡ trên miệng chị dính hết lên quần áo tôi

Tôi hơi ngượng ngùng khi ôm “chú nhóc Pusyse­da đã trưởng thành” ấy, nhưng câu nói không chút kiêng nể kia đã khiến cảm giác ngượng ngùng ấy lập tức tan biến! Tên ranh này, chẳng thay đổi gì cả!

- Bù lại, chị phải thiết đãi tôi một bữa đấy!

Tôi không kịp phản ứng gì, đã bị cậu ta giằng lấy xiên thịt nướng, trả lại người bán hàng, sau đó, lôi tôi đi, không cho tôi thời gi­an cằn nhằn vì đã lẵng phí đồ ăn! Cái tên hoang toàng này!

Tôi tròn mắt nhìn từng đĩa sơn hào hải vị bày la liệt trên bàn ăn trước mắt. Đã bao lâu rồi tôi không được ăn đồ ăn Trung Quốc? Đã bao lâu rồi tôi chưa nhìn thấy cơm trắng? Ở thời đại này, gạo được vẫn chuyển tới đây từ Trung Nguyên. Ăn một bữa cơm gạo trắng ở Tây vực là cả một khoản chi tiêu xa xỉ. Hãy nhìn xem cách bài trí ở quán hàng này, trời ơi, còn cả ghế lô nữa. Miệng nhai cơm, lòng thầm làu bàu: Đúng là tên phá gia chi tử!

Pusyse­da ngồi bên ghế đối diện, hầu như không nhấc đũa, chỉ chăm chú nhìn tôi, nụ cười ngang tàn trên khóe môi chưa chịu tắt. Tôi cảm thấy hơi lo lắng, nên cắm đầu nhai nuốt. Một cô gái người Hán mang đồ ăn vào, cậu ta đón lấy và cảm ơn bằng nụ cười quyến rũ ấy. Tôi thấy cô gái bước ra ngoài với đôi má ửng đỏ và cuống quít đến mức cụng đầu vào cánh cửa.

Tôi thở dài:

- Pusyse­da, cậu có biết điệu bộ tươi cười lả lơi của cậu có thể khiến mọi cô gái trên đời này nghiêng ngả không?

Cậu ta nhướn mày, nhổm dậy, toàn thân vươn qua bàn, sáp lại gần tôi:

- Còn chị thì sao, Ngải Tình?

Tên ranh, dám ăn nói với tôi như thế đấy! Tôi nhìn khuôn mặt điển trai rạng rỡ của cậu ta, nuốt nước bọt:

- Cho tôi xin, tôi già cả rồi, cậu làm ơn cho tôi sống thêm vài năm nữa đi!

Cậu ta cười vang. Nụ cười đó hoàn toàn khác nụ cười của Ra­ji­va. Pusyse­da cười sảng khoái, không chút e ngại. Ra­ji­va thì khác, lúc nào cũng điềm đạm, nho nhã.

- Ngải Tình, chị là tiên nữ, chị đâu có già đi!

Cậu ta đột nhiên thôi cười, đổi sang giọng điệu nghiêm túc.

Tôi chẳng biết phải giải thích thế nào. Chính tôi đã nói với cậu ấy điều đó và cậu ta cũng được chứng kiến cảnh tôi biến mất. Nếu biết sẽ có ngày quay lại, tôi không nên gieo vào tâm hồn thơ ngây của Pusyse­da cái lý do ngớ ngẩn ấy. Giờ đây, tâm hồn ngây thơ đã bị tôi bẻ cong suốt mười năm, liệu có thể nắn cho thẳng lại được không?

- Ngải Tình, chị về khi nào vậy?

- Tôi…

Tôi ấp úng, thần kinh căng như dây đàn

- Hôm qua.

Tôi không muốn Pusyse­da biết mình đã ở đây gần ba tháng. Tôi không muốn cậu ta biết mình đã ở cùng Ra­ji­va. Ra­ji­va của tôi, tôi muốn bảo vệ cậu ấy và yêu cậu ấy theo cách của mình…

Sau đó, Pusyse­da hỏi tôi ở đâu, tôi nói tên nhà trọ của mình. Thấy tôi vẫn tiếp tục ăn cơm, cậu ta tỏ ra hết kiên nhẫn:

- Chị định ăn đến bao giờ mới thôi hả?

Tôi giật mình.

- Cậu bận à, sao gấp thế?

- Tất nhiên là bận rồi!

Cậu ta nhìn tôi nghiêm túc.

- Tôi phải đi dọn giúp chị.

- Để đi đâu?

- Về phủ quốc sư chứ còn đâu nữa!

Pusyse­da theo tôi về nhà trọ trả lại phòng. Lúc tôi thu dọn đồ đạc, đã sơ ý để cậu ta nhìn thấy chiếc áo ngực của mình. Cậu ta còn nhấc chiếc áo lên và hỏi tôi đây là thứ gì với vẻ mặt rất hiếu kỳ, tôi xấu hổ không biết giấu mặt vào đâu. Sau đó cậu ta chẳng nói chẳng rằng, khoác chiếc ba lô Northace của tôi lên vai, ném cho chủ quán một xâu tiền, khoát tay hách dịch:

- Không cần trả lại!

Đúng là đồ hoang toàng!

Gần đến phủ quốc sư, tôi ngập ngừng kéo tay Pusyse­da lại:

- Cậu định nói thế nào với mọi người? Mười năm qua, tôi không hề thay đổi.

Cậu ta dừng lại, mắt ra chiều suy nghĩ:

- Sẽ nói chị là cháu gái của Ngải Tình, gọi chị là Tiểu Ngải Tình nhé!

Tôi đứng tim, anh em ruột có khác, đến cách nghĩ cũng giống hệt nhau.

- Nhưng tôi sẽ không giấu cha.

Vẻ mặt cậu ta bỗng trở lên nghiêm trang.

- Tôi chưa bao giờ nói dối cha điều gì.

Ku­marayana, con người thông tuệ, nho nhã ấy, hẳn sẽ chấp nhận sự xuất hiện kỳ quặc của tôi

Tôi giương mắt lên quan sát mọi thứ trước mặt. Vẫn căn phòng năm xưa, cách bài trí này, mười năm rồi không hề thay đổi. Thậm chí trên bức tường phía đầu giường vẫn còn nguyên những chữ Hán mà tôi bắt Pusyse­da tập viết. Khi ấy cậu nhóc nằng nặc đòi dán lên chỗ đó. Tôi chiều theo, cậu nhóc viết xong trang nào tôi dán lên tường trang ấy. Chữ viết xiêu vẹo ngả nghiêng, lúc trước nhìn chỉ muốn phát cáu, nhưng bây giờ lại cảm thấy vô cùng thân thuộc

- Ngày nào cũng có người dọn dẹp, chờ ngày chị trở về.

Giọng nói nhẹ nhàng lướt qua vai, rơi vào vành tai tôi, cảm giác gai gai nhưng trong lòng thấy ấm áp lạ thường.

- Đi nào, cho chị xem thứ này.

Còn chưa hết ngỡ ngàng đã bị cậu ta lôi đi. Tên ranh này tính nết vẫn như ngày nào.

Cậu ta kéo tôi đến phòng mình. Căn phòng đã đổi khác rất nhiều. Trên tường treo rất nhiều thanh kiếm dài, nhìn những hoa văn tinh xảo trên bao kiếm là biết đó toàn là kiếm quý. Một tủ sách nho nhỏ, tôi lướt qua và nhận thấy hều hết đều là sách kinh Phật. Sách tiếng Tochari thì đều là sách về binh pháp và chiến tranh. Chỉ có vài cuốn sách tiếng Hán, “Binh pháp Tôn tử”. “Hàn Phi Tử”, “Chiến quốc sách”…

Đang mải mê ngắm căn phòng của Pusyse­da. Chợt thấy cậu ta thận trọng lôi từ trong ngăn tủ ra vật gì đó rất giống một khung ảnh, rồi nhẹ nhàng cởi lớp vải lụa bọc bên ngoài.Tôi há hốc miệng, đó là bức họa Dore­mon mà tôi tặng cho cậu nhóc nhân dịp năm mới! Không ngờ, cậu ta vẫn giữ gìn nó như giữ một báu vật vậy!

Tôi ngẩng đầu lên nhìn Pusyse­da, xúc động:

- Pusyse­da …!

- Đừng sụt sịt vội, vẫn còn nữa đó.

Cậu ta rút một cuốn sách bên dưới gối, đặt vào lòng tôi, đó là cuốn “Kinh thi”, mép sách nhàu nhì, chắc chắn đã được chủ nhân lật mở rất nhiều lần.

- Chị có thể chọn một trang bất kì để kiểm tra.

Tôi không cần mở sách, suy nghĩ trong giây lát:

- Thiên “kích cổ” (Gióng trống) trong phần “Bội Phong - Quốc Phong”, cậu thuộc chứ?

Pusyse­da nhếch mép cười, hai tay chắp sau lưng, bước vài bước, quay quay đầu, cất giọng trầm bổng, ngâm ngợi:

Trống đánh thùy thuỳnh

Gươm giáo tập tành

Những ai đắp đất xây thành

Xa nhà xa nước riêng mình sang nam



Tử sinh cách trở đôi nơi

Cùng em anh đã nặng lời từ xưa

Đôi ta những nguyện cùng giá,

Cầm tay thủa ấy, bây giờ chưa quên

Cùng nhau thôi đã cách xa,

Sống đâu còn đến thân ta hỡi mình,

Thề xưa còn đó rành rành,

Nay thôi anh đã phụ tình cùng em[18]

Đây là bài thơ tôi thích nhất trong “Kinh Thi”. Khi giảng bài cho Pusyse­da, tôi dùng tiếng Tochari, không giống khi lên lớp bằng tiếng Hán cho Ra­ji­va. Nghe cậu ta phát âm tiếng Hán trọ trẹ, tôi muốn bật cười, nhưng không hiểu sao sống mũi cay cay, chừng như muốn khóc.

- Còn nhớ không, chị từng nói, nếu tôi đọc thuộc “Kinh thi” thì chị sẽ trở lại?

Tôi gật đầu. Thật không ngờ, những lời buột miệng ra khi ấy, Pusyse­da đều cho là thật.

- Năm đầu tiên, tôi đọc thuộc toàn bộ cuốn “Kinh thi”, nhưng chị không quay lại. Tôi nghĩ rằng tại mình chưa đọc tốt, nên năm thứ hai, tôi đọc thuộc lại một lần nữa, nhưng chị vẫn bặt vô âm tín. Mỗi năm vào đúng ngày mùng mười tháng Một âm lịch, tôi đều đến phòng chị và đọc hết một lượt cuốn 'Kinh thi" này. Tôi đọc mười lần thì chị đã trở về…

- Pusyse­da…

- Cảm động lắm phải không?

Tôi gật đầu, nước mắt trực trào ra, tôi sắp không kìm chế được nữa rồi!

- Vậy, cho tôi ôm một cái!

Tên sói nham hiểm chuẩn bị lao vào cô bé quàng khăn đỏ, nhưng đã bị khổ chủ cho một cái bạt tai. Những giọt nước mắt khi nãy trực trào ra đã được nuốt ngược trở lại vào trong bụng.

Hôm đó, tôi đã đến thăm Ku­marayana. Mười năm qua đi, hai người con trai của ông đã trưởng thành và đang tận hưởng những năm tháng tươi đẹp nhất của đời người, còn với ông, mười năm thời gi­an giống như lưỡi dao vô hình cắt từng vết hằn học trên thân thể ông. Khuôn mặt vốn đã gầy guộc, khổ hạnh, nay càng thêm hốc hác, xanh xao, tóc ông bạc trắng, hình như năm nay ông mới ngoài năm mươi tuổi. Nhưng ông có vẻ rất yếu, những tiếng ho khan bật lên liên hồi. Nhưng đôi mắt màu xám nhạt khảm giữa hai hốc mắt như hai vực sâu hun hút ấy, đôi mắt sáng rực vẻ thông tuệ và từng trải ấy như nhìn thấu tâm cam con người. Tôi bỗng run rẩy, đôi mắt Ra­ji­va rất giống mắt cha.

Bộ dạng bông đùa, cười cợt thường ngày của Pusyse­da biến mất, cậu tỏ ra rất mực cung kính đối với cha, chuyện trò từ tốn với ông rất lâu bằng tiếng Phạn. Ku­marayana không ngừng đưa ánh mắt kinh ngạc hướng về phía tôi, khiến tôi không khỏi lo lắng, Nhưng sau đó, ông không hề tỏ ra thắc mắc về lai lịch kỳ lạ của tôi. Ông chỉ nhẹ nhàng bảo tôi hãy yên tâm ở lại và rằng người của phủ quốc sư sẽ đối đãi với tôi như một vị khách quý. Tôi đã đoán đúng, một người thông tuệ như Ku­marayana, dù ông không thể biết rõ thân phận thật sự của tôi, nhưng ông sẽ không xem tôi như yêu ma quỷ quái để rồi trói tôi lại và đem thiêu sống. Có lẽ vì thế, ông mới sinh ra hai người con trai xuất sắc như vậy và cả hai đều yêu kính ông như vậy!

Đêm đó, tôi đã được ngủ một giấc say sưa trong căn phòng mà trước kia tôi từng gắn bó suốt ba tháng trời. Tôi băn khoăn tự hỏi, không biết Ra­ji­va sẽ nghĩ gì nếu biết tôi đã quay về phủ quốc sư. Không biết giờ này cậu ấy đang làm gì? Và, không biết cậu ấy có nhớ tôi không?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 12:35:17 | Xem tất
Chương 24 - Rong chơi



Mở mắt đã thấy bên giường có bóng người. Tôi thót tim, sau đó thì giận sôi người. Lại là tên ranh ấy! Hồi nhỏ chưa hiểu chuyện làm tôi hết hồn bao phen, tôi có thể bỏ qua, nhưng bây giờ đã là người lớn rồi, mà sao không hiểu thế nào là “nam nữ thụ thụ bất thân”?

- Chị ngủ giỏi thật đấy, tôi ngồi nhìn chị từ suốt từ nãy đến giờ mà chị không hay biết!

Tôi giận dữ thu người vào trong chăn. Lúc này, tôi chỉ mặc một chiếc váy ngủ mỏng, không biết khi nãy, chân thò ra ngoài có bị hắn nhìn thấy không?

- Không phải giấu, có gì đáng xem đâu!

Tôi phi chiếc gối vào người hắn, nhưng tên ranh đã nhanh nhẹn né được. Hắn cười vang, mon men lại gần giường tôi:

- Mau dậy đi, lễ hội Sumuzhe hôm nay có nhiều trò hay lắm!

- Cậu ra ngoài đi để tôi thay quần áo!

Pusyse­da không cợt nhả nữa, ngoan ngoãn bước ra ngoài. Nhưng vừa ra khỏi cửa, hắn đã lại thò chân vào, nháy mắt với tôi:

- Chị mặc chiếc váy ấy cũng đẹp mà, nhưng tiếc là chỉ được mặc trong phòng cho tôi ngắm thôi.

Tôi nổi đóa, lùng sục khắp phòng tìm vũ khí, nhưng chưa tìm ra thì hắn đã cười ha hả chạy biến tận đâu rồi.

Người qua lại trên phố đông như mắc cửi, Pusyse­da che chắn cho tôi, để không bị chen lấn. Nhưng tôi không thích kiểu bảo vệ ấy. Cậu ta cứ ôm chặt lấy tôi dìu đi, ai nhìn thấy cũng tưởng chúng tôi là một cặp tình nhân. Mà cậu ta, hình như được rất nhiều người quý mến, ai gặp cũng tươi cười chào hỏi. Đàn ông liếc thấy bàn tay như gọng kìm của cậu ta đang bám chặt lấy vai tôi thì cười nham hiểm. Còn phụ nữ thì phức tạp hơn nhiều, phần lớn là những ánh mắt hình mũi tên, khiến tôi lạnh cả người. Nhưng tên ranh ấy hình như không thèm quan tâm, bộ dạng bất cần của hắn thật đáng giận!

Tôi cố sức vùng vẫy khỏi “vuốt sắc” của hắn, nhưng càng vùng vẫy hắn càng xiết chặt.

- Đừng ồn, đội múa sư tử sắp bắt đầu rồi đấy.

Các tay trống Hạt đồng loạt gióng trống, khí thế hào hùng. Năm chú sư tử đủ các màu: xanh, đỏ, vàng, trắng, đen, từ năm hướng tiến vào khu vực trung tâm. Mỗi chú sư tử được điều khiển bởi mười hai nghệ sĩ, đầu đội đai đỏ, có hai người đi trước phe phẩy cây phất trần màu đỏ, biểu diễn những động tác hài hước gây cười. Bên cạnh đội sư tử là dàn hợp xướng gồm hơn một trăm người, họ hát vang những bài ca ca ngợi đức vua Khâu Từ, âm thanh tiếng trống tiếng nhạc tiếng hát ngân vang, bay cao lên chín tầng mây. Sư tử là loài vật linh được hoàng tộc Khâu Từ sùng bái, đức vua Khâu Từ thường tự xưng là vua Sư Tử. Người Khâu Từ còn sáng tạo ra câu chuyện một vị vua dũng mãnh của họ hàng phục được loài sư tử. Điệu múa sư tử đã ra đời dựa trên câu chuyện ấy. Sau khi chiếm được Khâu Từ, Lư Quang đã đưa Ku­mara­ji­va cùng hàng vạn nghệ sĩ, nghệ nhân của Khâu Từ đến Lương Châu (nay là huyện Vũ Uy, Cam Túc), kể từ đó, múa sư tử gia nhập vào đời sống văn hóa của người Hán, được cải biên trở thành điệu “múa sư tử năm hướng” lưu truyền rộng rãi ở Trung Nguyên cho đến tận ngày nay.

Phía trước quảng trường là một dãy lán trại được trang hoàng lộng lẫy, đức vua Bạch Thuần cùng đám quý tộc ngồi bên trong. Tôi hỏi Pusyse­da:

- Sao cậu không đến ngồi cùng họ?

- Đi theo mấy ông bà già ấy có gì hay ho chứ! Tôi thích đi chơi với chị hơn.

Tiếng ồn ào khiến tôi không nghe rõ cậu ta nói gì. Pusyse­da ghé sát vào tai tôi, gào to:

- Nhìn bộ dạng lúc cáu giận và điệu cười ngớ ngẩn của chị rất là thích thú!

Tên ranh hỗn hào! Tôi điên tiết hất tay hắn ra, nhưng chỉ một lát sau hắn lại sáp đến, mặc tôi gườm gườm nhìn hắn đe dọa, hắn chẳng biết sợ là gì, cũng chẳng để tâm sự tức giận của tôi. mặt hắn vẫn nhăn nhở cười đùa, cợt nhả. Hắn thích chọc tôi thế ư?

Một ngày trôi qua rất nhanh với các tiết mục biểu diễn, với các món ăn vặt của Khâu Từ, với việc cãi lộn, cáu gắt với Pusyse­da. Buổi tối, tôi thận trọng cài then cửa chính lẫn cửa sổ, đề phòng trộm cắp và đề phòng Pusyse­da. Sáng hôm sau khi thức dậy, không phải giật thót tim vì Pusyse­da nữa, nhưng cái giá phải trả là toàn thân ngứa ngáy vì một đêm nóng bức, ngột ngạt. Lúc mở cửa, đã thấy cậu ta đứng tựa lưng ở bên ngoài, điệu bộ cợt nhả, đẩy về phía tôi một chiếc lọ nhỏ. Tôi tò mò đón lấy, hỏi là thứ gì. Tên ranh thản nhiên nói đó là hộp phấn rôm, hắn còn lên giọng tuyên bố, giáo huấn một hồi, rằng mùa hè nóng nực, trong phòng phải mở cửa cho thoáng gió, thoáng khí. Tôi tiện tay vơ lấy cây chổi dựng ở góc nhà, đuổi theo hắn chạy vòng vòng khắp phủ quốc sư, miệng không ngừng gào to phải trị tội hắn.

Tất nhiên là tôi không đuổi kịp hắn, hồi hắn mười tuổi tôi đã không phải là đối thủ của hắn rồi. Mới chạy được vài vòng tôi đã thở dốc, phủ phục xuống đất, hai tay giơ cao cán chổi, giọng nói thều thào:

- Tôi xin hàng, xin đại tướng quân tha mạng!

Vừa dứt lời tôi cảm thấy bất an, sao tôi có thể thốt ra những lời mà hồi bé Pusyse­da nài ép tôi đóng kịch cùng nhỉ? Đã thành phản xạ có điều kiện rồi, thành phản xạ có điều kiện rồi! Pusyse­da ôm bụng cười nghiêng ngả giữa sân. Người trong phủ đi qua đi lại, nhìn chúng tôi với vẻ mặt ngạc nhiên khó hiểu. Tôi thấy mình không còn chút thể diện nào…

Ngày thứ ba của kễ hội Sumuzhe, vẫn rộn ràng những màn biểu diễn múa hát. Nghệ nhân từ khắp các quốc gia Tây vực đều tập trung về Khâu Từ, ngày nào cũng nhộn nhịp tưng bừng, ngày nào cũng hân hoan, náo nức. Pusyse­da rất ham vui, hễ thấy chỗ nào đông người là kéo bằng được tôi đến đó. Lúc này, chúng tôi đang đứng ở một góc quảng trường lớn, sân khấu đã được dựng lên ở khu vực trung tâm, giữa khán đài có một trụ sắt khổng lồ, phía trên là đài hoa sen. Khi ba tiếng trống vang lên dồn dập, đài sen mở ra, một cô gái xuất hiện, cô gái đeo khăn che mặt bằng chất liệu voan mỏng, mặc một chiếc váy dài, tay rộng màu mận chín, trên mình đeo những chiếc chuông nhỏ được gắn vào những dải lụa mềm mại, chân đi một đôi giày vải màu đỏ rất xinh xắn. Âm nhạc nổi lên, cô gái bắt đầu nhảy múa, tiếng chuông lanh canh, réo rắt, vui tai vang lên theo mỗi chuyển động của cơ thể cô gái.

- Đây là điệu múa Chaj[19]

Pusyse­da ghé vào tai tôi thì thầm:

- Lát nữa đừng xấu hổ đấy nhé!

Hơi thở của cậu ấy khiến vành tai tôi ngứa ngáy, tôi nghiêng đầu né tránh. Cứ nói chuyện bình thường, việc gì phải ghé sát như vậy chứ!

Tiếng trống ngày càng rộn rã, dồn dập. Toàn thân cô gái rung lắc, uốn lượn mềm mại như dải lụa. Rồi tiếng trống đột ngột dừng lại, cô gái kéo chiếc áo choàng rộng thùng thình ra khỏi người và tung lên đài sen. Giờ thì người cô gái chỉ còn lớp áo voan mỏng màu mận chín bó sát người, một chiếc áo khoác ngắn tay và một chiếc váy dài thướt tha cùng màu. Tiếng trống tiếp tục vang lên với tốc độ ngày một nhanh hơn, chiếc váy tung bay lả lướt, chuyển động của cô gái uyển chuyển, thanh toát tựa như một nàng tiên. Tiếng trống lại dừng đột ngột, cô gái trút bỏ chiếc áo ngắn bên ngoài, để lộ cánh tay trần và thân hình quyến rũ sau lớp vải voan mỏng. Đám đông hò reo không ngớt, ai nấy đều phấn khích rạng rỡ, tôi cũng không ngoại lệ. Tiếng trống tiếp tục dội lên, cô gái bắt đầu xoay người, cơ thể chuyển thanh toát, sức hấp dẫn ngày một đẩy lên cao qua mỗi điệu bộ lơi lả. Bàn tay nhẹ nhàng giật tung chiếc váy dài thướt tha, để lộ chiếc quần thắt ống màu hồng phấn xinh xắn. Rồi sau đó, thắt lưng cùng chiếc áo voan mỏng bó sát đều được trút bỏ hết, trên mình cô gái chỉ còn lại chiếc áo ngực (giống kiểu áo Bra thời hiện đại) và chiếc quần thắt ống (Kiểu quần Al­iba­ba, với rất nhiều tư thế khêu gợi, quyến rũ khiến người xem phải nín thở.

- Trời đất ơi, đây rõ ràng là điệu múa thoát y mà!

Hai mắt tôi được dịp co giãn hết cỡ, cổ họng cũng được hoạt động liên tục với việc điều tiết nước bọt. Không thể tin được, 1650 năm về trước, tư tưởng của người Tây vực đã hiện đại đến mức này rồi ư? Ở thế kỷ XXI, muốn xem thoát y vũ với nhiều cấp độ khác nhau, bạn phải tìm đến quán bar hay các vũ trường, làm gì có chuyện được phép biểu diễn công khai ở giữa chốn đông người như thế này?

Có ai đó vừa quệt tay rất mạnh lên mũi tôi.

- Lạ thật, tôi cứ nghĩ con gái Trung Nguyên xem màn biểu diễn phải xấu hổ, thẹn thùng chứ nhỉ, nào ngờ, chị còn phấn khích hơn cả tôi!

Tôi che kín chiếc mũi tội nghiệp của mình. So với người Khâu Từ, sống mũi tôi vốn đã không được thẳng rồi, giờ lại bị tên đáng ghét kia làm cho lệch hơn nữa.

- Chị hứng thứ như vậy, hay là...

Tên háo sắc sáp lại gần tôi.

- Tối nay về phủ chị biểu diễn cho tôi xem nhé.

Mũi hắn nhận được cú đấm trả hận đích đáng.

Hắn ôm lấy mũi, mặt nhăn nhó kêu đau, nhưng vẫn cố vớt vát thêm một câu:

- Thôi, thôi, chị cởi ra cũng chẳng có gì hay ho xem đâu…

Có vẻ như hắn muốn sống mũi của mình không bao giờ đứng thẳng lên được!

Buổi sáng, vừa tỉnh dậy đã lại thấy đôi mắt màu xám nhạt đang chăm chú quan sát tôi ở một khoảng cách gần đến choáng váng, khiến tôi thót tim, tôi sẽ sớm mắc bệnh đau tim vì hắn mất, Tôi tự trấn an bản thân, rồi sẽ quen, rồi sẽ quen. Biện pháp đối phó lần này của tôi là không thay váy ngủ, tôi lên giường và mặc nguyên bộ quần áo lúc đi chơi. Thế nên tôi tự tin mở toang cửa sổ và ngủ ngon lành cho tới sáng.

Vẻ thất vọng lộ rõ trên gương mặt Pusyse­da:

- Cái váy hôm trước đâu rồi, sao chị không mặc?

Rõ là đồ háo sắc! Tôi tươi cười đắc ý:

- Cậu bảo chẳng có gì hay ho để nhìn kia mà!

- Thì đúng là như thế!

Hắn gật gù nghĩ ngợi:

- Ngải Tình, chị phải chịu khó ăn nhiều thịt vào.

- Để làm gì?

- Thế thì cái chỗ này mới to lên được.

- Chị gầy quá chạm vào chỗ đó sẽ chẳng mang lại cảm giác gì cả.

Tôi không chịu nổi nữa! Ai có thể giúp tôi tiêu diệt tên háo sắc này không?

Lại một ngày rong chơi trên phố. Tôi hầu như quên bẵng công việc, ngày ngày chỉ biết vui chơi và ngủ nghỉ. Pusyse­da là một bạn chơi rất tuyệt, vì cậu ta luôn nghĩ ra những trò vui mới. Mỗi ngày cậu ta đưa tôi đến một nơi để thưởng thức những món ăn khác nhau, món ăn Ấn Độ, món ăn Trung Á, món ăn Ba Tư, món ăn Trung Quốc, từ các món sơn hào hải vị đến các món ăn vặt đủ hương vị đặc sắc khác nhau. Vòng eo của tôi đã phình ra đáng kể. Bảy ngày diễn ra lễ hội Sumuzhe ấy, tôi đã được vui chơi thỏa thích nhiều hơn bất cứ dịp Quốc tế lao động hay Quốc khánh nào ở thế kỷ XXI. Những màn biểu diễn nghệ thuật trên đường phố đều rất đặc sắc, là nguồn tài liệu thực tiễn vô cùng quý giá, tính chất đại chúng của các loại hình biểu diễn đó cũng thật đáng ngưỡng mộ. Mỗi khi âm nhạc vang lên, tất cả mọi người, không phân biệt giới tính, tuổi tác đều cùng nhau nhảy múa ca hát.

Ngày thứ tư của lễ hội Sumuzhe, tôi được tận mắt chiêm ngưỡng điệu múa tròn xoay (Hồ hoàn vũ) của người Hồ mà tôi hâm mộ từ lâu. Điệu múa này có nguồn gốc từ quốc gia Kangqu ở Trung Á[20], sau khi du nhập vào Trung Nguyên, nó đã trở lên thịnh thành.

Thời nhà Đường đã có rất nhiều thi nhân chấp bút họa thơ về đề tài này. Trong đó nổi tiếng nhất phải kể đến bài thơ của Bạch Cư Di: “Cô gái Hồ múa điệu xoay tròn, tâm hồn hòa vào tiếng đàn, cánh tay đưa theo nhịp trống”. Có tài liệu còn ghi chép rằng, Dương Quý Phi múa điệu Hồ hoàn vũ này rất điêu luyện, đến mức Bạch Cư Di từng phê phán “người đẹp”: “Quý phi mê hoặc quân vương bằng điệu múa xoay tròn”.

Giờ đây, được tận mắt chiêm ngưỡng, quả thật là rất đẹp! Đây là điệu múa tập thể. Hơn mười cô gái thân hình mềm mại, dáng điệu thướt ta, với những động tác xoay người rất điệu nghệ, thanh toát. Các nhà thơ miêu tả họ “nhanh như sao băng”, “rực rỡ như mặt trời” không quá lời chút nào! Hồi đi Ai Cập, tôi từng được xem người dân bản địa múa điệu Su­fi, cũng là động tác xoay liên tục không nghỉ ngơi, nhưng do nam giới biểu diễn. Các nghệ sĩ cũng khoác lên mình những chiếc váy dài sặc sỡ, khi họ xoay tròn, sắc màu trên chiếc váy biến đổi kỳ ảo, tôi vừa ngưỡng mộ lại vừa lo lắng, không biết họ có chóng mặt hay không.

Buổi tối, tôi dỗ giấc ngủ bằng nỗi nhớ Ra­ji­va, bằng những kỉ niệm ngọt ngào giữa chúng tôi. Những điều nhỏ nhặt nhất liên quan đến cậu ấy cũng có thể khiến tôi ngơ ngẩn hồi lâu. Mấy ngày qua tôi đã được vui chơi hết mình, tôi chưa bao giờ vui chơi thảo sức như thế, lại trong nhiều ngày liên tục như thế. Giá như có Ra­ji­va bên cạnh… Thôi, không nghĩ đến nữa. Cậu ấy chẳng thể ngồi xổm bên đường gặm thịt xiên với tôi như Pusyse­da được. Nhắc đến Pusyse­da mới nhớ, ngày mai nhất định phải nói với cậu ta, không nên mới sáng sớm tinh mơ đã chạy đến phòng tôi như thế!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 12:43:57 | Xem tất
Chương 25 - Lãng tử



- Sao hôm nào mới sáng sớm tinh mơ đã chạy đến phòng tôi như thế này?

Tôi trùm chăn, than vắn thở dài.

- Thì đã sao. Ngày xưa tôi vẫn thường xuyên như thế mà. Chị quên tôi đã từng ngủ cùng chị à?

Tức chết mất!

- Khi ấy cậu mới mười tuổi.

Hồi bé quấn lấy tôi, tôi không trách, nhưng bây giờ đã là người lớn rồi, cứ quẩn quanh bên tôi thế này, ngày sau kết hôn, làm sao vợ cậu ta có thể chấp nhận được!

- Cậu có biết là cậu đã trưởng thành rồi không?

Pusyse­da gật đầu, đôi mắt mở to chớp chớp, long lanh, tỏ vẻ vô tội. Lại cái chiêu cũ rích hồi nhỏ vẫn thường dùng để lấy lòng tôi đây mà!

- Nam nữ phải giữ khoảng cách chứ, cậu em!

Tôi ôm đầu, chỉ muốn lao vào bức tường kia cho xong!

Bỗng nhiên, tôi bị kéo vào một vòng tay rất chặt và mạnh mẽ, một giộng nói xúc động thoảng qua trên đầu:

- Ngải Tình, xin đừng như lúc trước, tỉnh dậy không thấy bóng dáng chị đâu cả, báo hại tôi lang thang tìm kiếm khắp nơi…

Tôi thật sự cảm động, những chiếc lông nhím chưa kịp xù lên đã mềm nhũn ra. Thì ra, mỗi sáng cậu ta chạy đến phòng tôi là để chắc chắn rằng tôi vẫn ở đây. Nhớ năm đó cậu ta mới mười tuổi, vậy mà phải chứng kiến cảnh người thật, việc thật biến mất vào khoảng không chỉ trong nháy mắt, hệt như diễn kịch vậy. Một người trưởng thành và tâm lý vững vàng, nếu phải chứng kiến cảnh đó, có lẽ cũng không thể chịu nổi, đừng nói là một cậu nhóc. Không biết khi ấy Pusyse­da đã hụt hẫng và hoảng sợ nhường nào! Chỉ e, suốt đời, cậu ta cũng không thể xóa được ám ảnh tâm lý này. Tất cả là lỗi ở tôi…

- Xin lỗi Pusyse­da…

Thực ra, lần này tôi sẽ lại biến mất, nhưng tôi đã hứa với lòng mình, không để Pusyse­da phải chứng kiến cảnh tượng đó thêm một lần nào nưa. Thời đại này, kiếm đâu ra bác sĩ tâm lý để điều trị cho cậu ta?

- Ngải Tình, tôi có phải là người đàn ông đầu tiên mà chị ngủ cùng không?

Trời đất ơi! Tên trăng hoa này mà gặp trở ngại về tâm lý ư? Tôi gào lên thảm thiết. Ai giúp tôi xé xác hắn ra với!

Tâm điểm của lễ hội Sumuzhe trong ngày thứ năm này là vũ điệu “Hồ đằng” (điệu múa bay lên). Điệu múa này do nam giới biểu diễn và chú trọng đến các kỹ thuật: bay cao, trụ vững, sải dài, đá chân quay vòng, xoay tay chống eo, thu cằm nhún vai. Chúng ta có thể nhận thấy những nét tương đồng giữa vũ điệu này với các điệu múa của người Uyghur thời hiện đại. Tiếng nhạc hào hùng sôi nổi, xúc cảm dâng chào cuồng nhiệt, hơn mười chàng trai vừa hô vang, vừa bay nhảy, reo hò cỗ vũ không nghỉ ngơi.

- Ngải Tình, chị thích điệu múa này lắm hả?

Pusyse­da ghé tai hỏi lớn, tôi chẳng thèm suy nghĩ, gật đầu lấy lệ, ánh mắt không rời khỏi các nghệ sĩ đẹp trai ngời ngời đang biểu diễn trên sân khấu.

Pusyse­da tháo mặt nạ đặt vào tay tôi, chạy biến. Chưa kịp hỏi xem cậu ta đi đâu thì đã thấy lãng tử rẽ đám đông, lao vào giữa đội múa. Tôi há hốc miệng khi thấy Pusyse­da nhanh chóng hòa nhập với đội múa và thực hiện những động tác bay nhảy như một diễn viên chuyên nghiệp. Pusyse­da nổi bật giữa sân khấu, không chỉ bởi chiều cao một mét tám mươi lăm và thân hình hoàn hảo, mà còn bởi khuôn mặt điển trai, quyến rũ. Cậu ta vừa bước lên sân khấu, tiếng reo hò cổ động của các khán giả nữ đã vang lên áp đảo.

Pusyse­da gập người làm tư thế ngồi, nhưng nhanh như cắt, bước chân biến chuyển tựa như chim bay, các động tác di chuyển vị trí, dứt khoát, nhịp nhàng, mềm mại, vừa thể hiện được sức mạnh, vừa thể hiện được khéo léo. Những bước nhảy điêu luyện của Pusyse­da khiến tôi, lần đầu tiên cảm nhận được một kiểu hấp dẫn khác của nam giới, tôi gào thét cổ vũ cùng các cô gái dưới khán đài. Nhưng như thế hình như vẫn chưa sảng khoái, tôi tháo mặt nạ, chụm tay quanh miệng làm thành hình cái loa, hướng về Pusyse­da gào to:

- Pusyse­da, cậu khá lắm, tôi yêu cậu!

Nghe thấy tiếng kêu của tôi, cậu ta nháy mắt truyền tín hiệu, nhếch môi cười đắc ý, điệu bộ ấy có thể hớp hồn bất cứ cô gái nào!

Âm nhạc càng lúc càng sôi động. Động tác nhảy của Pusyse­da càng lúc càng nhanh thoăn thoắt, tiếng reo hò cổ vũ của khán giả càng lúc càng bùng nổ, mọi người vỗ tay theo nhịp trống. Rồi âm nhạc đột ngột tắt lịm, Pusyse­da đột ngột lộn một vòng rất cao trên không, khi tiếp đất, đầu gối ở tư thế quỳ xuống sàn diễn, vẽ một đường trượt dài về phía tôi. Lúc dừng lại trước mặt tôi, cậu ta làm động tác dang rộng hai tay, đầu ngẩng cao kiêu hãnh, nụ cười rạng rỡ, hấp dẫn không bút nào tả xiết. Tôi cảm nhận rất rõ những ánh mắt hình mũi tên đang chĩa về phía mình, vội vàng đưa tay kéo cậu ta dậy.

Pusyse­da mồ hôi nhễ nhại, một vài lọn tóc xoăn màu nâu dính trên trán, quần áo cũng đầm đìa. Phản xạ đầu tiên của tôi là đút tay vào túi, nhưng chẳng có cái khăn nào cả. Không biết đã bao nhiêu năm rồi tôi không mang theo khăn mùi xoa bên người, vì đã quen dùng khăn ướt, mặc dù tôi biết dùng khăn ướt không vệ sinh chút nào…

Thấy tôi tiu nghỉu rút đôi tay trống không từ trong túi áo ra, Pusyse­da cười nói: không sao, rồi kéo vạt áo của tôi lên lau mồ hôi. Tôi sững sờ, cậu ta thật tự nhiên vô đối…

Nhìn chiếc áo nhàu nhì, ướt mèm, tôi chỉ muốn khóc. Toàn mồ hôi là mồ hôi, mà hình như có mùi rất là khó chịu. Tôi bực mình càu nhàu:

- Này, cậu làm thế, tôi mặc làm sao được nữa? Cậu… cậu… cậu thật là quá đáng

- Sao thế? Tiếc gì cái áo ấy, tôi thấy vui là được!

Lòng bàn tay cậu ta nhớp nháp mồ hôi, hỏng rồi, tay tôi cũng không sạch nữa!

- Đi mua quần áo.

Pusyse­da quay đầu nhìn tôi, vẻ bực dọc.

- Chị tiếc làm gì bộ quần áo cũ rích ấy, chị khoác thứ đó lên người cùng tôi ra phố làm mất mặt tôi quá!

- Pusyse­da!

Chúng tôi giật mình dừng bước, nhìn lên. Một cô gái làm da trắng trẻo mịn màng đang dừng trước mặt chúng tôi, vẻ mặt giận dữ cuồng nộ. Pusyse­da nghiêng mắt nhìn cô gái, điệu bộ thách thức. Đây rõ ràng là một màn kịch tình yêu, nhưng tôi không phải là vai chính, tôi phải rút lui thôi.

Tôi lẳng lặng bứt ra khỏi bàn tay rặt mồ hôi của Pusyse­da, định bụng ẩn thân vào một góc khuất ở con phố bên cạnh.

Nhưng được nửa bước đã bị kéo trở lại. Nguy quá, hắn quàng tay lên cổ tôi. Tôi rùng mình, mùi mồ hôi nồng nặc..

- Pusyse­da, anh.. sao anh làm vậy?

Cô gái đó chừng sắp khóc, ánh mắt nhìn tôi đằng đằng sát khí.

- Cô nhìn thấy cả rồi đấy.

Pusyse­da quàng vai tôi, áp sát đầu vào cổ tôi. Chú em ơi, cậu không thích người ta thì cũng đừng nên lấy tôi làm lá chắn cho cậu chứ. Huống hồ người chú em đầm đìa mồ hôi thế này…

- Nhưng anh nói là…

- Nói gì? Tôi đã hứa hẹn gì với cô? Cô tự mình dấn thân đấy chứ?

- Cô gái ơi, cô hiểu nhầm rồi…

- Tôi và cậu ấy không phải như cô nghĩ đâu..

“Chụt!”- một tiếng động lạ, rõ ràng, dứt khoát phát ra trên má trái của tôi. Thê thảm quá, hết tay chân, quần áo, đến cả mặt cũng bị vấy bẩn rồi!

Cô gái giận dữ giậm chân, nước mắt như mưa gió, chạy đi như bay. Tôi thở dài. Chỉ một chú sơ ý, tôi đã trở thành vai chính của vở kịch này.

- Pusyse­da, sao lại đối xử với người yêu mến cậu như thế?

- Bọn họ cứ bám riết lấy tôi đấy chứ. Đôi bên vui vẻ một chút thì không sao, nhưng đằng này, chỉ vài ngày sau là họ lại đòi tương lai này nọ.

Đúng là đồ lăng nhăng! Chả trách anh trai cậu ta từng trách: Suốt ngày trêu hoa ghẹo nguyệt. Nghĩ đến Ra­ji­va, trong lòng chợt thấy ấm áp lạ thường. Ra­ji­va chắc chắn không bao giờ như vậy. Tuy rằng mười năm sau… Thôi, không nghĩ đến nữa! Kể từ giây phút quyết định sẽ yêu Ra­ji­va theo cách riêng của mình, tôi đã quyết tâm không nghĩ đến chuyện sau này cậu ấy sẽ kết hôn và sinh con. Tôi không muốn nghĩ xa xôi đến thế. Tôi chỉ cần được yêu Ra­ji­va trong hiện tại, thế là đủ…

- Pusyse­da, lẽ nào cậu chưa từng yêu ai?

- Đúng vậy.

Câu trả lời mới dứt khoát làm sao!

Gặp lại Pusyse­da sau mười năm, tôi nhận thấy cậu ta đã trở thành một lãng tử đa tình, cả ngày lông bông rong chơi. Cậu ta trở nên ranh mãnh hơn, biết chọc giận tôi, có lúc còn khiến tôi đỏ mặt vì xấu hổ. Lúc đầu, ngỡ rằng cậu ta có ý gì với mình, tôi ra sức đề phòng. Nhưng qua vài ngày tiếp xúc, mới biết đó là bản tính cợt nhả, bông lơi của cậu ta. Thực ra, Pusyse­da chưa từng có hành vi hay cử chỉ gì không phải với tôi, mặc dù đôi lúc vẫn bắt nạt tôi và những lời lẽ trăng hoa của cậu ấy khiến tôi nổi giận. Ra phố, gặp những cô gái cậu ta quen biết, thấy ai nấy đều niềm nở chào hỏi, những cô gái không quen thì ngẩn ngơ ngó theo. Với bất kì cô gái nào cậu ta cũng liếc mắt đá lông nheo trêu đùa, chọc ghẹo. Mở miệng là thốt những lời có cánh. Cậu ta giống hệt một “người tình của đại chúng”. Thế nên, tôi đã quen và không còn khó chịu với những cử chỉ thân mật của cậu ta nữa. Đôi lúc, tôi càu nhàu, gắt gỏng, nhưng đã dần chấp nhận con người mới của cậu ta, vì dù sao đó cũng là bản tính trời sinh.

Nhưng tôi phải thừa nhận rằng, những lúc ở bên Pusyse­da, tôi rất vui. Cậu ta thông minh, lanh lợi, hoạt bát, lại hài hước, phóng khoáng, cậu ta nghĩ ra rất nhiều thứ khiến tôi vui và còn đẹp trai nữa. Chả trách biết bao cô gái chết mê chết mệt, bám theo cậu ta, chả trách những cô gái bị cậu ta bỏ rơi đều đau khổ tuyệt vọng đến như thế. May mà tôi cứng cỏi, kiên cường, sức hấp dẫn “chết người” của Ra­ji­va, tôi còn có thể kháng cự trong một thời gi­an dài nữa là! Và cũng mừng là trái tim rất nhỏ bé, Ra­ji­va đã “chiếm giữ” toàn bộ rồi. Nếu không có lẽ tôi cũng sẽ giống như người phụ nữ đáng thương kia, khóc hết nước mắt khi phải chứng kiến Pusyse­da thay người yêu như thay áo.

Buổi tối, tắm rửa xong xuôi, vừa bước đến cửa phòng đã thấy gã “lãng tử” đang “nhàn cư vi bất thiện”, vẽ vời lung tung trên cuốn tập của tôi. Thói xấu này mười năm qua vẫn không thay đổi. Mấy cuốn tập tôi quên mang theo hồi đó, chắc chắn đã bị cậu ta xé đi không ít

Vừa thấy tôi, gã lãng tử liền quẳng ngay chiếc bút xuống, vẻ mặt cau có:

- Chị tắm rửa gì mà lâu thế! Này mặc vào đi!

Pusyse­da đẩy một chiếc váy mới ra trước mặt tôi, đó là một chiếc váy lụa mềm, màu lục, trang nhã, thêu những bông lựu vàng tươi tăn, chất liệu vải cao cấp, thủ công tinh xảo, chắc chắc người mua đã phải bỏ ra một khoản khổng lồ. Tôi tấm tắc khen ngợi:

- Pusyse­da, cậu đúng là cao thủ tình trường. Chiếc váy đẹp thế này, cô gái nào đành lòng từ chối kia chứ!

- Đây là lần đầu tiên tôi tặng quà cho phụ nữ đấy. Xưa nay, đều là đám phụ nữ ấy tặng quà cho tôi, họ tặng quà mà chưa chắc tôi đã nhận đâu.

Cậu ta rướn cằm, vênh mặt lên trời.

- Rốt cuộc là chị có nhận không hả, không thích thì để tôi trả lại

- Ấy, đừng đừng.

Tôi vội vàng đón lấy

- Tôi cũng là phụ nữ, tôi không nỡ từ chối.

Khi còn ở thế kỷ XXI, vì thích đi du lịch, thích tìm hiểu, nghiên cứu mọi thứ, nên trang phục thường xuyên của tôi là quần bò, áo phông, giày thể thao. Sếp thường lắc đầu nhìn tôi bảo rằng tôi chẳng nữ tính chút nào. Trở về thời cổ đại, lại càng không có nhu cầu thu hút sự chú ý của người khác, quần áo trên người mặc lại càng giản tiện hơn. Nhưng dù thế nào thì tôi cũng là phụ nữ, phụ nữ thì ai cũng giống ai, ai cũng bị quần áo đẹp chinh phục.

- Thích không?

Tôi gật đầu, sung sướng ướm thử chiếc váy lên người. Giọng nói rủ rỉ của Pusyse­da bay trên đầu tôi:

- Chị định trả công tôi thế nào đây?

- Tôi giật mình

- Cậu muốn thế nào?

- Hay là, tối nay tôi ở lại đây nhé?

Lại là nụ cười quyến rũ và những cái liếc mắt đưa tình làm người khác ngộp thở, lại là chiêu bài đong đưa mang thương hiệu ấy. Mặt tôi nóng bừng. Tôi không quen nghe những lời tán tỉnh ve vãn ấy. Không đi là sao? Cậu ta muốn gì chứ?

- Ha ha, tôi đùa thôi.

Pusyse­da cười giòn giã.

- Tôi chưa thèm khát đến mức ấy đâu.

Nhưng mà…

Cậu ta đột ngột ghé mặt sát tôi, ánh mắt phong tình gợi cảm, cố ý kéo dài giọng:

- Ngải Tình, chị chưa từng có gì với đàn ông đúng không? Tôi mới nói thế mà chị đã đỏ mặt rồi.

Mặt tôi lại càng đỏ lên dữ dội, tôi lừ mắt đe dọa tên ranh ấy.

- Việc gì đến cậu! Nếu có thì cũng không phải với cậu!

Cậu ta được dịp cười lăn lộn

- Chị hoàn toàn khác những cô gái mà tôi từng gặp.

Gã lãng tử không tiếp tục cười nữa.

- Tôi mà muốn ôm đám phụ nữ đó vào lòng, chắc họ phải run lên vì vui sướng. Chị thì khác, mới đụng chạm một tí thôi mà chị đã tránh né, sợ sệt như có ai sắp cắt da xẻ thịt của chị không bằng. Đám phụ nữ kia gặp tôi ba ngày đã nài nỉ tôi lên giường với họ. Vậy mà chị, bao nhiêu ngày rồi vẫn dửng dưng như không.

- Họ nài nỉ cậu ư?

Trời đất ơi, không ngờ 1650 năm về trước Khâu Từ đã hiện đại đến vậy, quan hệ nam nữ có thể tùy tiện đến vậy! Nhưng nghĩ kỹ lại cũng không có gì đáng ngạc nhiên cả. Điệu múa thoát y trên đường phố trong lễ hội Sumuzhe, đến những bức họa bán khỏa thân và hoàn toàn khỏa thân trên vách đá ở Kizil, tính cách phóng khoáng, sôi nổi, nồng nhiệt của người dân nơi đây. Với lối sống đó của họ, nữ giới chủ động theo đuổi nam giới chắc chắn không có gì là lạ. Vả lại, Pusyse­da hội tụ đủ những điều kiện để các cô gái phải chết mê chết mệt

- Đúng vậy, tôi chưa bao giờ nài nỉ bất cứ cô gái nào. Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi tùy tiện. Muốn được lọt vào mắt cậu chủ Pusyse­da không dễ đâu nhé.

Cậu ta đổ người lên chiếc giường của tôi, hai tay gập lại làm gối, rung đùi tự mãn, đúng là dáng vẻ điển hình của một tên trăng hoa.

- Nhưng phụ nữ người Hán các chị có vẻ thẹn thùng, e lệ rất nữ tính và đáng yêu.

Đây là lần đầu tiên trong đời tôi nói chuyện về vấn đề giới tính với một người con trai vào lúc nửa đêm thế này. Tôi cảm thấy rất mất tự nhiên. Tôi là phụ nữ thế kỷ XXI, lại hơn cậu ta ba tuổi, mà sao tôi không hề tự tin khi nói chuyện với cậu ta nhỉ?

- Ngải Tình, chị là cô gái đầu tiên mà tôi chưa nỡ “ra tay” sau một thời gi­an dài như vậy đấy.

Tôi không chịu nổi vấn đề nhạy cảm này nữa! Vì sao cậu ta cứ mở miệng là thốt ra những lời lẽ đong đưa ong bướm như vậy? Còn tình yêu thì sao, tình yêu xếp ở vị trí nào?

- Những cô gái lên giường với cậu, cậu có yêu họ không?

- Không hề! Tôi chỉ thấy vui thích thôi. Nhưng được vài ngày là họ đòi này đòi nọ. Họ đòi tôi phải hứa hẹn, đòi tôi một lòng một dạ, đòi tôi kết hôn, họ khiến tôi mệt mỏi và ngán ngẩm.

- Họ muốn cậu hứa hẹn bởi vì họ thật lòng yêu cậu.

Trái tim tôi như thắt lại khi nghĩ đến con người mà ngay cả lời yêu cũng không dám thốt ra ấy.

Đàn ông và phụ nữ tình cờ gặp gỡ, nảy sinh tình cảm, gi­ai đoạn đó người ta gọi cuốn hút. Cuốn hút là sức hấp dẫn nhục dục, nó sẽ tan rất nhanh. Nhưng yêu là thứ tình cảm chứa đựng cả rung động của tâm hồn và khát khao nhục cảm. Khi người ta yêu, lý trí trở lên bất lực, mọi buồn vui, hạnh phúc và đau khổ đều nảy sinh từ đó. Rồi người ta muốn được có nhau, muốn được hãnh diện về nhau, đón nhận nhau, thương nhớ nhau, tha thứ cho nhau, hạnh phúc vì nhau. Nhưng đó chưa phải là giới hạn cao nhất của tình yêu, giới hạn cao nhất là sống bên nhau. Tình yêu cuồng nhiệt đến đâu rồi nước chảy hoa trôi, cũng sẽ trở lên bình lặng. Hai con người nương tựa vào nhau, sống bên nhau cho tới khi đầu bạc răng long, đó mới là sự gắn kết bền chặt, mãi mãi.

Tôi lặng ngắm bầu trời bên ngoài cửa sổ. Ra­ji­va đang ở nơi cách tôi bốn mươi dặm. Có phải cậu ấy cũng đang hướng lên bầu trời ngàn vì tinh tú kia giống như tôi không?

- Từ tình cảm đến chân tình rồi trao nhau ân tình, đó mới là những cung bậc trọn vẹn của tình yêu.

Tôi và Ra­ji­va, sẽ chẳng bao giờ có cơ hội để trao nhau ân tình. Tình cảm của chúng tôi, rồi cũng hoang phế.

- Ngải Tình, chị yêu ai rồi phải không?

Tôi thót tim! Pusyse­da đang ở rất gần tôi, đôi mắt sâu thẳm chiếu vào tôi như muốn soi tâm tư. Ánh mắt ấy giống Ra­ji­va đến kì lạ!

- Không, không, không phải.

Tôi vội vàng thanh minh. Tôi không thể để Pusyse­da hay bất cứ ai trên đời này biết được tình cảm của mình dành cho Ra­ji­va.

- Tôi chỉ hơi xúc động thôi! Giá mà tôi có được tình yêu như thế thì tuyệt biết bao…

Pusyse­da xoay vai tôi lại, ngón tay nhè nhẹ nâng cằm tôi lên để khiến tôi đối diện với đôi mắt thường khiến tôi gặp ảo giác ấy.

- Tử sinh cách trở đôi nơi

Cùng em anh đã nặng lời từ xưa

Đôi ta những nguyện cùng già,

Cầm tay thuở ấy, bây giờ chưa quên[21]

Ngải Tình, chị muốn có một tình yêu như vậy, đúng không?

Tôi chưa từng nghĩ về điều này. Tôi chưa bao giờ dám mơ đến một ngày nào đó sẽ được bình thản nắm tay Ra­ji­va, cùng nhau đi đến cuối chặng đường đời. Mỗi người trong chúng tôi đang phải gánh trên vai rất nhiều trách nhiệm…

- Ngải Tình, hay chúng ta thử xem.

Khi làn môi gợi cảm của tên lãng tử chực đổ xuống, thì tôi đã kịp dùng chiếc váy mới che trước mặt, sau đó đá hắn ra khỏi phòng.


P/s: Câu trích dẫn lúc giới thiệu đã xuất hiện ở chương này, càng đọc càng thấy sâu, thấy ngấm
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 12:48:56 | Xem tất
Chương 26 - Màn trình diễn của tôi


Mở mắt ra đã lại thấy Pusyse­da ngồi cạnh giường. Tôi không thấy lạ, cũng chẳng thèm để ý, mặc cậu ta gào thét thúc giục, ngủ nướng thêm một lúc nữa, mới uể oải vươn vai chào bình minh. Tôi mặc chiếc váy được tặng hôm qua, ra ngoài sân thấy Pusyse­da khoác trên mình một chiếc áo ngắn chít eo màu xanh lục. Dáng người rất chuẩn, nếu sống ở thời hiện đại mà không làm người mẫu hay diễn viên thì quả là “phí của trời”. Có điều quần áo mà chúng tôi mặc trên người rất giống trang phục của một cặp tình nhân. Pusyse­da nhìn thấy tôi, huýt sáo tán thưởng, sau đó đảo một vòng quanh tôi, gật gù tấm tắc. Nhưng, tên ranh này lại phán một câu khiến tôi rất đỗi đau lòng:

- Sao chị không trang điểm? Đồ trang sức của chị đâu?

Tối qua, ngoài chiếc váy mới, Pusyse­da còn tặng tôi cả một bộ đồ nghề trang điểm. Nhưng tôi đã thu dọn và cất vào ba lô, dự định sẽ mang về thế kỉ XXI làm hiện vật hỗ trợ cho việc nghiên cứu về cách thức làm đẹp của phụ nữ thời cổ đại. Còn đồ trang sức ư, tôi chưa bao giờ dùng đến, nếu có, tôi cũng sẽ cất đi để làm hiện vật nghiên cứu. Phụ nữ thời Hán trang trí mái tóc rất đơn giản, quấn tóc gọn sau gáy, rồi dùng một chiếc trâm cài lên là xong. Ngày nào tôi cũng ra phố với vẻ ngoài giản dị ấy, có sao đâu, hà cớ gì hôm nay lại bị một gã phong lưu đẩy đến trước gương, ép tôi trang điểm? Điều đáng ngại là, tôi không biết sử dụng “mỹ phẩm” của người cổ đại. Thế là gã phong lưu đành phải ra tay.

Pusyse­da thỏa sức bôi quệt trên mặt tôi, lòng đau như cắt, không biết hôm nay da mặt tôi sẽ phải hấp thụ bao nhiêu chì đây?

Rất lâu sau, Pusyse­da mới ngừng tay, tôi ngắm mình trong gương, ôm bụng cười nghiêng ngả. Hai hàng lông mày của tôi giống hệt vai diễn bà mối trong các bộ phim của Ngô Quân Như, vành môi tròn, rộng, đỏ chót, có thể khiến bất cứ đứa trẻ nào hoảng sợ. Trời cao đất dày ơi, tạo hình kiểu này không khác vai diễn Như Hoa trong phim hài của Châu Tinh Trì một chút nào! Tôi chạy như bay đi rửa mặt, cầu trời đừng ai nhìn thấy bộ dạng của tôi!

Sau khi đã trở lại là chính mình, tôi hạ quyết tâm, nếu Pusyse­da vẫn muốn trang điểm cho tôi, hôm nay tôi sẽ không ra phố nữa, cho dù tôi đã háo hức chờ đợi ngày thứ sáu của lễ hội Sumuzhe biết nhường nào!

Pusyse­da không o ép tôi nữa, gương mặt cậu xuất hiện dấu hiệu của sự xấu hổ mà xưa nay tôi chưa từng thấy. Bây giờ đến lượt tôi đảo quanh cậu ta một vòng, lẽ nào đây là khuôn mặt cợt nhả, phong lưu ngàn năm không đổi ư?

Trên phố hôm nay toàn là các nam thanh nữ tú, dập dìu tài tử gi­ai nhân, họ không đeo mặt nạ như mấy ngày trước, ai nấy trang điểm xinh đẹp như hoa như ngọc, rất nhiều đôi mặc trang phục tình nhân, tay nắm tay tình tứ dạo phố. Tôi hiểu rồi, ngày thứ sáu của lễ hội Sumuzhe là ngày lễ tình nhân của người Khâu Từ. Sau đó thì tôi nhận được rất nhiều ánh mắt ghen tị, tức tối khi nhìn thấy trang phục của chúng tôi và cánh tay như gọng kìm của Pusyse­da trên vai tôi. Tôi cứ băn khoăn sao cậu ta lại tốt bụng đến thế, tặng váy áo cho tôi, lại bắt tôi phải trang điểm thật đẹp, không ngờ đó là âm mưu đẩy tôi ra làm lá chắn cho mình, hại tôi vô duyên vô cớ chịu tội với bao nhiêu cô nàng. Tôi giận sôi người, ra sức vùng vẫy, nhưng kết quả vẫn như những lần trước, không thoát được là không thoát được.

Các cặp đôi đã tập trung rất đông trước một sân khấu đặt giữa quảng trường lớn, ai nấy đều háo hức chờ đợi. Tôi ngó nghiêng xung quanh, không thấy các nghệ sĩ múa chuyên nghiệp đâu cả. Lẽ nào hôm nay là ngày hội của diễn viên quần chúng?

- Đây là một cuộc thi hát, từng đôi nam nữ sẽ lên trình diễn các bài tình ca, ban giám khảo cho điểm dựa vào nội dung ca khúc, phong cách biểu diễn và chất giọng. Đội chiến thắng sẽ được bình chọn là cặp đôi đẹp nhất Khâu Từ năm nay. Chị nhìn kìa, đó là giải thưởng.

Tôi đưa mắt theo cánh tay Pusyse­da, thấy hai chiếc hộp đặt trên một chiếc bàn cao, bên trong hẳn là thứ gì đó quý giá lắm. Vì đứng cách xa nên tôi không nhìn rõ giải thưởng.

Pusyse­da thở dài thườn thượt:

- Ngải Tình à, bao nhiêu cô gái muốn hát cặp với tôi, nhưng vì chị mà tôi từ chối tất cả, chị có biết, tôi muốn giành được giải thưởng đó từ lâu rồi không…

Cậu ta đưa ánh mắt thèm khát, rất tội nghiệp về phía chiếc bàn đặt giải thưởng.

- Đi nào!

Tôi dắt tay Pusyse­da bước về phía khán đài.

- Ngải Tình, đây là lần đầu tiên chị chủ động nắm tay tôi, tôi vui lắm, nhưng chị có thể cho tôi biết, chị định làm gì không?

- Giúp cậu giành giải thưởng chứ làm gì?

Tôi nháy mắt, cười bí hiểm với Pusyse­da.

- Xem như tặng quà cho cậu vì hôm qua cậu đã nhảy rất đẹp.

Sau khi đăng kí, chúng tôi đứng sang một bên, tôi hát cho cậu ta nghe lời hát bằng tiếng Hán. Pusyse­da cười ngặt nghẽo, nhưng đã bị tôi lườm đe dọa:

- Hãy tỏ ra nghiêm túc, đây là cuộc thi mà!

Pusyse­da thôi cười, chăm chú nghe tôi hát, sau đó tự dịch sang tiếng Tochari. Tuy điệu hát giản đơn, nhưng Pusyse­da đã dịch rất nhanh và rất khớp nhạc. Chỉ nghe tôi hát thêm lần nữa, cậu ta đã chuyển ngữ thành một bài hát bằng tiếng Tochari trọn vẹn. Tôi hết sức kinh ngạc, Pusyse­da vốn rất thông minh, có thể không bằng anh trai, nhưng IQ của cậu chắc chắn vượt xa người bình thường. Nhưng vì thường ngày cậu ta hay cợt nhả, bông đùa, nên không ai nhận ra trí tuệ của cậu thôi.

Diễn tập vài lần, kiểm tra thấy không có sai sót, chúng tôi hăm hở bước lên sân khấu khi nghe thấy người dẫn chương trình gọi đến tên mình.

Chúng tôi đứng ở hai đầu khán đài, Pusyse­da giả bộ đang dạo chơi trên phố, bỗng nhìn thấy tôi, vẻ mặt ngỡ ngàng vui thích, đảo quanh tôi mấy vòng. Tôi làm bộ xấu hổ, cúi đầu toan bước đi, anh chàng muốn chặn lại, tôi vội né tránh, anh chàng bắt đầu cất giọng phía sau tôi:

- Này cô em, có biết, thứ gì đang đùa chơi, thứ gì đang dựng nhà, thứ gì đang che ô và thứ gì đang quấn quít nhau trên mặt nước?

Giọng hát của Pusyse­da vút cao, vang xa, khỏe khoắn. Không ngờ cậu ta chẳng những nhảy múa giỏi mà ca hát cũng tài đến vậy. Tôi nhìn Pusyse­da, làm bộ thẹn thùng, e lệ, bắt đầu cất lời đối đáp bằng chất giọng thanh trong, từng vô địch các phòng hát Karaoke của mình:

- Này anh chàng ơi, loài vịt đang đùa chơi, thuyền lớn đang dựng nhà, lá sen đang che ô và chim uyên quấn quít nhau trên mặt nước đó anh!

Anh chàng tươi cười hớn hở, muốn tiến lên nắm tay tôi, nhưng tôi đã nhanh nhẹn quay người né tránh, nhìn anh chàng và cất cao giọng:

- Này anh có biết, thứ gì có miệng mà không nói năng, thứ gì không miệng nhưng inh tai cả ngày, thứ gì có chân không chạy bao giờ, thứ gì không chân nhưng nhà nhà đều ghé.

Nghe tôi hát, anh chàng làm bộ gãi đầu, đăm chiêu, ra chiều khổ sở, nhún vai xòe tay, như muốn cầu xin đối phương đừng ra câu đối khó như vậy! Những động tác này không hề có khi chúng tôi diễn tập, rõ ràng là phần diễn ngẫu hứng của Pusyse­da, cậu ta diễn rất tự nhiên, khiến câu chuyện của chúng tôi càng thêm hấp dẫn. Tên ranh này quả nhiên rất có khả năng trình diễn. Nhìn bộ mặt giả vờ như thật của cậu ta, tôi chỉ muốn bật cười.

Tôi đã kết thúc phần hát của mình nhưng anh chàng không tiếp lời đối đáp lại ngay. Anh chàng bước vài bước, vẻ mặt đăm chiêu ra chiều suy nghĩ, khiến khán giả ai nấy đều cho rằng anh ta sắp thua, đếu không khỏi lo lắng. Sau đó mặt mày anh chàng bỗng trở nên hớn hở, gõ gõ vào lòng bàn tay với vẻ mặt hả hê, xoay người đối đáp:

- Này cô em, Bồ Tát có miệng nhưng Người chẳng nói năng, cồng chiêng không miệng nhưng inh tai cả ngày, nhà giàu có chân không thèm chạy, đồng tiền không chân đến muôn nhà.

Khán giả dưới khán đài vỗ tay reo hò tán thưởng, không khí của toàn bộ hội diễn đã sôi nổi hẳn lên nhờ Pusyse­da. Trong lúc mọi người vẫn đang hào hứng sôi nổi, tôi ngượng ngùng để anh chàng nắm lấy tay mình, cùng nhau song ca:

- Muốn hát, hãy hát lên. Muốn đánh cá, hãy ra biển. Em cắm sào, anh quăng lưới, ta theo nhau đi khắp muôn sông.

Pusyse­da không chỉ nắm tay mà còn vòng qua ôm eo tôi, ngả đầu vào vai tôi, tiếng nhạc du dương trữ tình, chúng tôi kết thúc phần biểu diễn bằng hình ảnh kinh điển của chàng Jack và nàng Rose trong Ti­tan­ic. Tiếng vỗ tay rào rào vang dội, hoa tươi ngập không gi­an, tôi âm thầm thụi cho tên phong lưu một cú thật đau, nhưng hắn không hề hấn gì, vẫn ôm chặt lấy tôi. Lẽ ra tôi phải cảnh cáo hắn từ trước mới phải, giờ hối hận cũng đã muộn.

Đó là đoạn hát đối trong phim “Chị Lưu Tam”, lời hát gốc còn có thêm các loại hoa quả vùng nhiệt đới như: đu đủ, chuối, dứa, bưởi, nhưng vì những loại hoa quả này người Khâu Từ chưa được thấy bao giờ, nên tôi đã lược bỏ.

Kết quả không ngoài dự đoán, chúng tôi được giải nhất, với lời đánh giá của ban giám khảo: bài hát độc đáo, ca từ thú vị, diễn xuất tài tình, giọng hát chuyên nghiệp. Điều đó là tất nhiên, các bạn tìm đọc tiểu thuyết về đề tài vượt thời gi­an sẽ thấy các cô gái trổ tài ca múa của mình trên sân khấu thời cổ đại như thế nào. Tôi sung sướng đắc chí, vì cuối cùng tôi cũng đã có dịp thể hiện. Từ nay không ai còn phàn nàn về chuyện tôi chẳng giống các cô gái vượt thời gi­an chút nào nữa nhé!

Phần thưởng thật tuyệt vời! Đó là một đôi sư tử (sư tử là tượng trưng của Khâu Từ) bằng ngọc trắng Khotan trong suốt, thủ công tinh xảo, nếu ở thời hiện đại, chắc chắn phải trị giá hàng chục nghìn nhân dân tệ. Pusyse­da đeo miếng ngọc hình sư tử cái lên cổ mình, sau đó, không nói không rằng, quàng ngay miếng ngọc hình sư tử đực vào cổ tôi. Cậu ta sung sướng tươi cười như chưa bao giờ nhìn thấy bảo bối gì quý giá hơn thế.

Ngày hôm đó, Pusyse­da gần như không lúc nào thôi cười, cậu ta khiến bao nhiêu cô gái phải ngơ ngẩn nhìn theo, người đụng cột, kẻ đụng tường. Mỗi khi mở miệng gọi tôi là lại: này cô em. Tôi nhớ một năm nọ, đi du lịch Dương Sóc, trên phố Tây, nơi tập trung đông khách du lịch nhất, hầu như quán hàng nào bên tai tôi cũng văng vẳng gi­ai điệu ấy, đến nỗi về đến nhà rồi mà miệng không lúc nào dừng hát: Này cô em, này anh chàng… Pusyse­da giống hệt tôi ngày đó, cậu ta ca đi ca lại khiến tôi nhàm cả tai. Tôi bực quá phải cảnh cáo, nếu còn hát nữa tôi sẽ bỏ về một mình, thế là cậu ta nín thinh.

Buổi tối, gã phong lưu lại lẻn đến phòng tôi, nhưng không nêu ra những chủ đề khiến tôi phải đỏ mặt nữa, mà nài nỉ tôi hát lại bài hát ngày xưa. Một vài ca khúc cậu ta còn nhớ, thì ngâm ngợi theo tôi. Khi hát đến bài “Ngủ ngon bé yêu”, tôi chợt nhớ lại, hôm đó đã hát cùng Ra­ji­va. Kể từ giây phút ấy, tôi nhận ra mình rất nhớ, rất nhớ cậu ấy, nỗi nhớ cồn cào…

Âm thanh nghẹn lại, ý nghĩ mông lung, trong lúc sơ ý, tôi lại bị kéo vào một vòng tay rất chặt. Tôi hối hận vì ngày trước đã không tham gia các buổi học về kĩ năng phòng thân. Dùng “võ” không được, tôi đành dùng “văn” vậy.

- Pusyse­da, sao cậu thích ôm tôi thế?

- Bởi vì trên người chị có mùi thơm rất dễ chịu.

Cậu ta hít hà trên cổ tôi, hệt một chú cún con, làm tôi buồn buồn, tức cười. Tôi nhấc cánh tay lên ngửi, có mùi gì dễ chịu đâu nhỉ? Tôi không mang theo dầu gội, sữa tắm, sữa dưỡng thể, cũng không trang điểm, không sức nước hoa, khi tắm, tôi dùng loại xà bông thông dụng của người Khâu Từ, làm gì có mùi thơm chứ!

- Chị không giống những cô gái khác, thân thể họ rất hôi, tôi chẳng thiết động vào họ.

Cậu ta lại hít hà một hơi, tán thưởng:

- Ngải Tình thơm lắm!

Tôi đã hiểu ra vấn đề! Mùi hôi trên cơ thể mà Pusyse­da nhắc đến, chúng ta thường gọi là mùi hôi nách. Trần Dần Khác từng viết một bài nghiên cứu mang tên “Người Hồ và mùi hôi cơ thể”. Bài viết có đoạn: “Mùi hôi, trước thường gọi là mùi người Hồ, chỉ mùi cơ thể đặc trưng của người Hồ ở vùng Tây vực. Nhưng sau khi tộc người Hồ vùng Tây vực hợp hôn với tộc người Hoa Hạ ở Trung Nguyên, thì trong số những người Hoa vẫn thấy xuất hiện mùi hôi nói trên. Xét thấy nếu tiếp tục gọi là “mùi người Hồ” thì không hợp lí, lại thấy mùi hôi đó giống mùi hôi của loài cáo, nên từ đó đổi tên gọi thành mùi hôi của cáo”. Hầu hết người phương Tây hiện đại cũng có mùi hôi trên cơ thể, tôi cho rằng đó là vì thói quen ăn uống của họ khác với người phương Đông, họ thích ăn đồ lạnh, lâu dần đã tạo nên mùi hôi đó. Người da vàng ở phương Đông rất ít khi có mùi hôi cơ thể. Có lẽ vì vậy mà Pusyse­da rất thích hít hà trên người tôi. Tôi bỗng chột dạ, may mà hai anh em họ đều không có thứ mùi này.

- Còn nữa, chị rất ấm…

- Cậu đùa à!

Tôi đẩy cậu ta ra.

- Là người thì phải ấm chứ.

- Nhưng mẹ tôi rất lạnh.

Pusyse­da buông tôi ra, chậm rãi bước đến và chăm chú quan sát bức tường có dán những chữ Hán ngô nghê năm nào.

- Kí ức của tôi về mẹ là những lần cha đưa tôi đến chùa thăm bà. Bà mặc thứ trang phục khiến tôi bực bội, bà nhìn cha với ánh mắt lạnh lùng, với tôi cũng vậy. Cái người đứng phía sau mà cha bắt tôi gọi bằng anh cũng lạnh lùng như thế. Tôi chưa bao giờ nói với cha, rằng thực ra tôi ghét phải đến chùa thăm mẹ và anh trai. Sau đó, họ lên đường tầm sư học đạo, chuyến đi kéo dài suốt bốn năm. Tôi cảm thấy rất nhẹ nhõm, vì cuối cùng đã không phải gặp mặt những con người lạnh lùng ấy nữa.

- Nhưng, tôi còn nhớ, khi họ trở về, cậu đã ôm chầm lấy mẹ và gào khóc rất thảm thiết.

- Tôi làm thế vì muốn cha vui lòng.

Pusyse­da quay lại nhìn tôi, nhếch môi cười.

- Cha luôn mong tôi sẽ yêu mẹ, chỉ cần cha vui, tôi sẽ làm bất cứ điều gì. Mặc dù tôi thấy hết sức khó hiểu, vì sao cha có thể ngày đêm thương nhớ hai con người vô cảm ấy.

Tôi sững sờ. Mới mười tuổi Pusyse­da đã biết đóng kịch để làm cha vui lòng! Nhưng, điều đó cũng không khó hiểu. Ku­marayana là người thân duy nhất luôn bên cạnh Pusyse­da từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành, trong khi giữa mẹ, anh trai và cậu luôn có một bức tường ngăn cách vô hình, chẳng thể vượt qua.

- Đó là lần đầu tiên trong đời tôi ôm mẹ, tôi cũng muốn biết cảm giác được mẹ ôm vào lòng sẽ như thế nào, nhưng bà rất dửng dưng. Tôi ghét vòng tay giá lạnh của bà cũng như ghét vẻ lạnh lùng của bà. Từ đó, tôi không còn muốn ôm mẹ nữa.

Vẻ mặt của Pusyse­da trở nên buồn ảm đạm, nét buồn ấy rất giống Ra­ji­va. Họ là anh em mà, kể cả khi không có tình cảm với nhau thì trên người họ vẫn chảy cùng một dòng máu.

- Nhưng chị thì khác, lúc mười tuổi, trong vòng tay chị, cảm thấy rất ấm áp, khác hẳn cảm giác khi sa vào lòng mẹ, nên hồi đó, tôi rất thích được ôm chị.

Pusyse­da đưa tay ra, kéo tôi vào lòng, một tiếng thở dài khe khẽ lướt trên cổ tôi.

- Mười năm sau ôm chị vào lòng, khiến tôi không khỏi bồi hồi nhớ lại hơi ấm ngày xưa.

Tôi không vùng vẫy cố thoát ra khỏi vòng tay của Pusyse­da như lúc trước nữa. Bản năng làm mẹ của người phụ nữ khiến tôi không nỡ từ chối chàng trai tội nghiệp này. Cậu ta luôn thiếu vắng và khao khát tình yêu của người mẹ. Không biết khi mải mê theo đuổi lý tưởng của mình, Ji­va có từng nghĩ bà sẽ gây nên những tổn thương trong lòng Pusyse­da? Có lẽ bà cũng yêu thương hai anh em họ như mọi bà mẹ trên cõi đời này, nhưng tình yêu đó của bà, có phải rất lạ lùng hay không?

Để mặc Pusyse­da ôm mình hồi lâu, tôi nghĩ vẫn nên nói rõ với cậu ấy. Dù những cử chỉ thân mật này xuất phát từ khát khao tình mẹ, nhưng tôi không thể thay thế Ji­va. Pusyse­da giờ đây đang được vây bọc trong vòng tay của rất nhiều phụ nữ, chắc hẳn chưa bao giờ cậu ta nghĩ đến cảm giác của tôi. Tôi không thể để tình trạng này tiếp tục. Quan trọng hơn cả là, tôi không muốn Ra­ji­va nhìn thấy những cử chỉ thân mật này. Tuy rằng giữa chúng tôi chưa có bất cứ lời hẹn ước nào, nhưng trong trái tim tôi, Ra­ji­va đã là duy nhất.

Tôi thở dài, lựa lời khuyên nhủ:

- Pusyse­da, cậu đã trưởng thành. Người Hán có câu: nam nữ thụ thụ bất thân, tức là mọi cử chỉ giữa đàn ông và phụ nữ phải có giới hạn, phải giữ khoảng cách, điều này gọi là lễ nghi. Vì vậy, cậu không nên tùy ý ôm tôi như thế. Tôi là người Hán, tôi không quen với việc đàn ông có những cử chỉ quá ư thân mật như vậy.

- Chị không thích à?

Nhìn ánh mắt nghiêm nghị của tôi, Pusyse­da thở dài, buông tay ra.

- Tôi cứ nghĩ, cô gái nào cũng thích được tôi ôm vào lòng.

- Đó là vì họ yêu cậu. Chỉ những người yêu nhau mới thích những tiếp xúc thân thể như thế.

- Vậy…

Pusyse­da đột nhiên sáp lại gần tôi, ánh mắt hút hồn chăm chú quan sát biểu cảm của tôi, hỏi khẽ:

- Chị có yêu tôi không?

- Không.

Tôi cố gắng để giọng nói của mình là rõ ràng và chắc nịch.

- Cậu giống như em trai tôi. Đừng quên, tôi hơn cậu ba tuổi đó.

- Nhưng chị là tiên nữ, chỉ vài năm nữa tôi sẽ nhiều tuổi hơn chị. Khi tôi trở nên già nua, chị vẫn trẻ trung như bây giờ.

Lại là vấn đề đó. Tôi phải giải thích thế nào để có thể xóa bỏ hoàn toàn lời nói dối đáng ghét ngày ấy?

- Pusyse­da…

Ánh mắt Pusyse­da bỗng rực sáng, cậu ta vội vàng ngắt lời tôi:

- Thôi được, nếu chị không thích thì sau này tôi sẽ hạn chế ôm chị.

Vẻ phong lưu, lãng tử quen thuộc đã trở lại.

- Nhưng, thỉnh thoảng ôm một cái, không sao chứ?

Chỉ được vài phút nghiêm chỉnh, Pusyse­da lại “hiện nguyên hình” rồi. Đúng là, gi­ang sơn dễ đổi bản tính khó dời.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 9-4-2013 12:53:41 | Xem tất
Chương 27 - Ngày hội té nước



Ngày cuối cùng của lễ hội Sumuzhe, Pusyse­da không cần ngồi xổm trước mặt tôi và nhọc lòng gào thét tôi thức dậy nữa. Giấc mơ cùng Ra­ji­va đi ngắm mặt trời mọc đã tan biến khi âm thanh tiếng kèn Xô – na và tiếng cười nói hoan hỉ vẳng tới bên tai tôi.

- Ngải Tình, dậy đi! Tôi chưa từng thấy cô gái nào thích ngủ nướng như chị. Hôm nay là ngày sôi động nhất của lễ hội Sumuzhe đấy.

Miệng làu bàu, mắt vẫn nhắm chặt, tôi nuối tiếc giấc mơ đẹp. Ra­ji­va và tôi chỉ có thể tay trong tay đi bên nhau trong mơ mà thôi!

- Chị còn không chịu dậy, tôi sẽ bế chị lên đó.

Tôi bật dậy, nhanh như tên bắn.

Chúng tôi đeo mặt nạ ra phố, vừa bước chân ra cổng, mắt tôi đã hoa lên vì cảnh tượng: đường phố ngập nước, ai nấy áo quần ướt sủng, nhưng dường như mọi người đều không bận tâm.

- Đây là…

- Đi nào, rồi chị sẽ thấy, ngày hội này thú vị ra sao…

Tiếng nhạc rộn rã vang lên nơi góc phố, Pusyse­da kéo tay tôi chạy như bay về hướng đó.

Một chiếc xe ba gác chầm chậm tiến đến, trên xe có vài ba người đang thổi kèn Xô – na, một thùng nước lớn bằng gỗ và hai chàng thanh niên to khỏe đang múc từng gáo nước, té lên người đi đường, miệng hô vang: “Năm mới phát đạt, tai ương không còn”. Nhà nào nhà nấy mở rộng cửa, đặt một thùng nước trước nhà và có chủ nhà cũng đang ra sức múc nước trong thùng hất về phía những chiếc xe ba gác. Không nhìn rõ gương mặt những người đang tắm trong làn mưa nước vì họ đeo mặt nạ, nhưng tôi nghe thấy tiếng cười ha hả, sảng khoái ngân vang không dứt của họ. Họ khiến tôi trở nên phấn chấn vì tôi đang được chứng kiến lễ hội té nước của 1650 năm về trước.

Gã lãng tử nhanh nhẹn né được một gáo nước, nhưng tôi thì lãnh đủ, áo váy dầm dề.

- Đi nào, Ngải Tình.

Pusyse­da nắm tay tôi, ánh mắt hoan hỉ.

- Chúng ta đi té nước nào!

Gã lãng tử kéo tôi quay lại phủ quốc sư. Một chiếc xe ba gác dùng ngựa kéo, trang trí rất đẹp đang chờ sẵn trong sân, trên xe đã có một thùng nước lớn. Pusyse­da bố trí một thanh niên điều khiển cỗ xe, hai người phụ trách thổi kèn Xô – na. Sau đó, cậu ta đỡ tôi lên xe và tự mình vọt lên theo bằng một cú nhảy điệu nghệ. Pusyse­da ấn vào tay tôi một chiếc gáo, rồi quay ra hô anh chàng phu xe: Đi nào! Cỗ xe di chuyển, tiếng kèn Xô – na vang lên, chúng tôi tuần du qua các góc phố và thỏa sức đắm mình vào lễ hội té nước trong âm thanh náo động và bầu không khí rộn ràng, vui nhộn ấy.

Tôi từng đến Thái Lan vào dịp năm mới theo lịch của người Thái, đó là ngày hội Songkran mà chúng ta thường gọi là ngày hội té nước. Trên đường phố Bangkok, ai nấy đều cầm một khẩu súng nước, những chiếc xe bán tải nối đuôi nhau diễu hành. Khi tiếng nhạc dồn dập, vút cao, các bạn nam nữ thanh niên hò reo múc nước trong những chiếc thùng nhựa cỡ lớn đặt trên xe, tới tấp té, hất vào người đi đường. Khi di chuyển đến nơi tập trung đông người, các xe dừng lại và cuộc “thủy chiến” diễn ra sôi động giữa các “chiến sĩ” té nước. Thậm chí khi chiếc xe bán tải dừng đỗ song song với những chiếc xe bus công cộng trên đường, các chiến sĩ không ngần ngại té nước vào xe bus. Người bị té ướt, ai nấy đều cười vui vẻ. Nhưng hồi đó tôi chỉ là khán giả, đứng bên đường quan sát, tuy cũng bị té ướt, thậm chí một nhóm các bạn trẻ người Thái tôi không hề quen biết còn chạy tới, bôi lên mặt tôi một thứ phấn trắng gì đó, nhưng chưa bao giờ tôi chính thức tham gia vào trò chơi té nước và chơi hết mình như ở lễ hội này.

Trên đường phố Khâu Từ, mọi người mải mê đùa vui, chúng tôi té nước vào người đi đường và họ té nước lại chúng tôi. Khi gặp những chiếc xe ngựa đi ngược chiều, chúng tôi dừng lại, một cuộc thủy chiến diễn ra, các chiến sĩ vừa ra sức “chiến đấu” vừa hô vang những lời chúc tốt lành. Lúc đầu tôi còn e dè, chỉ múc những gáo nước nhỏ và hất nhẹ về phía mọi người. Nhưng sau khi bị “tấn công” tới tấp, quần áo ướt sủng, tôi hăm hở lao vào cuộc chiến và liên tục “chào hỏi” người đi đường bằng những gáo nước đầy tràn. Vừa chiến đấu vừa né trái né phải tránh đòn “phục thù”. Khâu Từ đang là mùa hè, thời tiết oi bức, được tắm trong nước thế này thật dễ chịu. Tôi gào thét khản cả cổ, chưa bao giờ tôi được vui chơi thỏa sức như hôm nay! Trên phố, cũng có người cầm những khẩu súng nước bằng gỗ, khi bắn, nước phun khá xa. Một ai đó hướng khẩu súng về phía tôi, tôi vội nghiêng người né tránh, cỗ xe chòng chành, tôi trượt chân, té nhào. Không văng ra khỏi xe ngựa, nhưng tôi lại rơi vào một vòng tay đang hừng hực hơi thở. Đôi mắt màu xám nhạt ở cách tôi rất gần, ánh mắt đảo một vòng khắp người tôi, từ đầu đến chân. Tôi giật mình nhận ra chiếc váy ướt đầm dính sát vào thân người, ngôn ngữ thông dụng trong tình huống này gọi là “lộ rõ đường cong cơ thể”. Chỉ nhìn thấy đôi mắt, nhưng không khó đoán vẻ mặt của gã phong lưu này như thế nào. Hai má tôi nóng bừng, may mà đeo mặt nạ, tôi vội vàng vùng vẫy đứng lên. Gã phong lưu không “bắt nạt” tôi như những lần trước, nhưng hắn nhìn tôi hồi lâu, buông tiếng thở dài:

- Ngải Tình, ngực chị nhỏ quá…

Một gáo nước lớn dội lên đầu hắn. Tôi làm sao mà so sánh với các thiếu nữ “béo tốt màu mỡ” của Khâu Từ được.

- Nhưng nghe nói, chịu khó xoa bóp thì sẽ to dần lên.

Gáo nước thứ hai tặng cho hắn.

Pusyse­da lắc đầu giũ nước trên tóc, những lọn tóc xoăn ướt sũng dính trên trán, nhưng hắn không hề biết sợ:

- Tôi có thể giúp chị…

Nước đã dùng hết, tôi lao lên tấn công, phải xử tên này thôi, để hắn sống sót chắc chắn sẽ gây họa cho người đời.

Cỗ xe chậm rãi lăn bánh trong thành phố, nước trong thùng đã cạn. Pusyse­da kêu phu xe dừng lại, cùng những chàng trai khác khiêng thùng gỗ đến một nhánh nhỏ của sông Muzat chảy trong lòng thành phố để lấy nước. Tôi cũng xuống xe, giúp họ một tay. Hồi nãy, Pusyse­da là người chơi trò té nước nhiệt tình nhất, nên toàn thân cậu ướt sũng, lớp áo mỏng dính sát vào cơ thể, làm lộ rõ những cơ bắp cuồn cuộn tráng kiện và tấm lưng rộng, lực lưỡng. Ngắm nhìn một thân hình đàn ông hấp dẫn như thế mà không vui thích thì không phải là phụ nữ!

- Thế nào? Chị thấy hài lòng chứ?

Đúng là đồ phong lưu, thốt ra toàn những lời trăng gió, ong bướm. Tôi như bị sét đánh ngang tai! Xin cậu đấy, Pusyse­da!

Không thể không cho tên này một gáo nước, nhưng hắn đã nhanh nhẹn né kịp, một người đang đứng phía sau hắn đã phải chịu trận…

Quần áo của người đó vốn không hề dính nước, nhưng giờ đây đã ướt nhẹp vì gáo nước của tôi, anh ta bối rối, bước lùi lại phía sau. Dáng người cao gầy, chiếc áo ngắn chít eo màu xanh nhạt, đeo mặt nạ hình sư tử, ở con người đó toát lên vẻ phiêu diêu thoát tục không thể diễn tả nổi. Dù đang ở giữa chốn ồn áo náo nhiệt, nhưng người đó dường như rất cô độc. Tim tôi đập mạnh, ánh mắt hớt hải kiếm tìm, nhưng anh ta đã quay gót đi xa. Tôi muốn đuổi theo, nhưng Pusyse­da đã giữ lại. Tôi thẫn thờ nhìn theo, khẽ lắc đầu. Chắc chắn là ảo giác, cậu ấy không thể đến đây được! Vả lại người đó rõ ràng là có mái tóc màu nâu nhạt dài ngang vai. Nhưng vì sao, vì sao tôi cảm thấy tim mình quặn thắt khi nhìn thấy bóng dáng cô đơn ấy? Những trò đùa của Pusyse­da không còn sức hấp dẫn với tôi nữa, tôi mặc lòng ủ dột…

Cỗ xe tiếp tục hành trình, lướt qua quán trọ mà tôi từng ở…

Cuối cùng chúng tôi cũng về đến phủ quốc sư. Pusyse­da chưa chơi đủ, vẫn hô hào muốn đi tiếp. Cậu ta đúng là đồ ham chơi, cả ngày dài trên phố mà không biết mệt.

Bước chân vào cửa đã thấy không khí có gì đó bất thường, mọi người trong phủ ai nấy đều giữ vẻ nghiêm trang khác lạ. Thấp thoáng bóng chiếc áo cà sa màu nâu sòng, một dáng hình cao gầy, cô độc, lặng lẽ tư lự trong sân. Nghe thấy tiếng chúng tôi, người đó quay đầu lại, vẻ mặt an nhiên…

Giây phút đó, hai mắt tôi ướt nhòe. Ra­ji­va, đã bao lâu rồi không được gặp cậu? Sao tôi cảm thấy thời gi­an dài miên man như đã trải qua một đời người vậy?

Ra­ji­va chăm chú quan sát tôi, khuôn mặt đột nhiên ửng đỏ. Tôi vẫn đang trong tình trạng quần áo ướt đẫm, trước mặt Pusyse­da tôi không cảm thấy có điều gì bất thường, nhưng trước mặt cậu ấy, không hiểu sao, tôi thấy tim mình đập dữ dội, hai má nóng bừng và không biết đầu đã cúi thấp từ lúc nào.

Chiếc mặt nạ của tôi bị tháo ra, gọng kìm của Pusyse­da lại kẹp trên vai tôi:

- Anh nhìn xem ai đến này. Là Ngải Tình đó, tiên nữ của chúng ta, sau mười năm biến mất đã trở lại.

Ra­ji­va ngước lên nhìn tôi. Một chút ngạc nhiên thoáng qua trong đáy mắt. Hai tay khép lại, cung kính cúi đầu:

- Ra­ji­va kính chào thầy!

Không ngờ cậu ấy lại xử sự với tôi như vậy trước mặt em trai. Tôi bối rối không biết phải đáp lễ ra sao, nên cứ ngơ ngẩn nhìn cậu ấy.

- Mau đi thay quần áo đi, chị ướt cả rồi này! Cẩn thận kẻo cảm lạnh.

Đây là lần đầu tiên Pusyse­da nói với tôi bằng những lời đầy “chăm sóc”. Tôi len lén nhìn Ra­ji­va, vẻ mặt cậu ấy không có gì khác lạ, cũng không có bất cứ biểu cảm ngạc nhiên nào.

Cơn buồn tủi bỗng trào dâng, bàn tay của Pusyse­da trên vai tôi tựa như mọc gai cắm vào da thịt tôi, tôi tức giận vùng thoát, cắm đầu bước vội về phòng mình.

Tiếng Pusyse­da giễu cười phía sau:

- Đúng là phụ nữ, hay cáu giận vô cớ…

Ra­ji­va ngắt lời Pusyse­da bằng giọng nói lạnh lùng:

- Em thay quần áo rồi đến phòng cha, ta có chuyện muốn nói.

Thay xong quần áo, tôi dạo bước trong sân để hong khô mái tóc ướt. Hai anh em họ đang ở trong phòng Ku­marayana, không biết Ra­ji­va muốn nói gì với họ. Tâm trạng tôi rối bời, vì sao hôm nay cậu ấy về đây? Sư phụ Ban­hud­da­ta còn ở chỗ cậu ấy không?

Cửa phòng Ku­marayana bật mở, cắt ngang dòng suy tư của tôi. Sắc mặt Pusyse­da tái nhợt, thấy tôi, cậu ta bước đến và ôm tôi vào lòng. Tôi cắn răng vùng vẫy, tôi không muốn Ra­ji­va nhìn thấy cảnh tượng này.

- Ngải Tình!

Pusyse­da giữ chặt lấy tôi, giọng nghẹn ngào:

- Mẹ tôi…qua đời rồi…

Tôi lặng đi, quên cả mong muốn vùng thoát. Thì ra, cậu ấy trở về để thông báo tin này. Tôi ngước mắt lên, thấy Ra­ji­va đứng trên bậc thềm trước cửa phòng cha. Nền trời ảm đạm, bóng hoàng hôn đổ trên dáng hình cao gầy ấy, hắt xuống sân một vòng nắng tròn buồn tẻ.

- Cậu cả, phòng của cậu đã được dọn sạch.

Dù Ra­ji­va đã là một pháp sư nổi danh khắp vùng Tây vực, nhưng Ku­marayana vẫn yêu cầu mọi người trong phủ quốc sư gọi cậu là cậu cả. Phải chăng vì ông muốn nhắc nhở con trai mình: rằng cậu vẫn luôn là một thành viên không thể thiếu của gia đình?

Ra­ji­va khẽ gật đầu, bước xuống bậc thềm, đi về phía phòng mình, dường như không bận tâm đến tôi và Pusyse­da đang đứng trong sân. Lúc lướt qua tôi, đôi môi vẫn mím chặt, vẻ mặt lạnh lùng, như muốn nói rằng: mọi sự trong thế tục không liên quan gì đến cậu! Tim tôi như bị bóp nghẹt, nước mắt tuôn trào, bằng tất cả sức lực của mình, tôi vùng thoát khỏi gọng kìm của Pusyse­da.

- Ngải Tình, sao vậy?

Pusyse­da sững sờ, cuống quít vỗ về tôi:

- Chị khóc vì tôi, tôi vui lắm. Nhưng xin chị, đừng khóc nữa…

Tôi hất tay cậu ta ra và vùng chạy về phòng, chốt cửa lại.

- Ngải Tình, mở cửa ra!

Pusyse­da nhẫn nại gõ cửa, nhưng tôi mặc kệ. Lúc phiền muộn, tôi cho phép mình vùi đầu trong chăn, thỏa sức hành hạ bản thân một đêm, để rồi sau đó sẽ bắt đầu một ngày mới không còn bóng dáng của nỗi buồn. Trên đời này, không có trở ngại nào là không thể vượt qua. Nhưng tôi vẫn không hiểu nổi vì sao mình lại khóc?

- Khóc vì mẹ tôi, không đáng đâu.

Tôi chui ra khỏi chăn, đã thấy Pusyse­da ngồi trước mặt. Cậu ta hình như chưa bao giờ vào phòng tôi bằng cửa chính.

Tôi chưa từng thấy Pusyse­da trong tâm trạng phức tạp thế này bao giờ. Biểu cảm trên gương mặt cậu là sự đan xen của nỗi buồn, sự tức giận và nỗi đau…

- Mẹ chưa bao giờ quan tâm lo lắng cho gia đình này, bà lúc nào cũng chỉ một lòng tu hành, để được giải thoát, để được lên cõi cực lạc, để không còn phải chịu kiếp số luân hồi.

Pusyse­da nhếch môi cười, hơi thở gấp gáp chừng như rất xúc động.

- Tôi không hiểu, cõi cực lạc ấy có gì tốt đẹp hơn thế giới hiện thực chứ? Vì sao nó quan trọng hơn cả chồng và con trai bà?

Cậu ta cắn chặt môi, hít một hơi thật sâu.

- Trong lòng bà chỉ có anh trai tôi mà thôi. Bà sinh tôi ra chỉ để có người nối dõi tông đường, để hoàn thành nghĩa vụ với nhà chồng mà thôi. Thế nên bà đã ra đi cùng anh trai, bỏ tôi ở lại. Hai mươi mốt năm qua, tôi gặp bà được mấy lần? Bao nhiêu năm qua, cha tôi ngày đêm thương nhớ bà, còn bà thì sao? Tu hành đắc đạo thành Phật khiến con người trở nên lạnh lùng, vô cảm như vậy ư?

Pusyse­da đột ngột đứng lên, đầu ngẩng cao, giọng nói dõng dạc:

- Người ta muốn thành Phật, tôi thì không. Muốn thành Phật thì phải từ bỏ mọi tình cảm thế tục, như thế có gì vui đâu. Tôi thà sa xuống địa ngục A tì còn hơn phải o ép bản thân mình trong kiếp này. Đời người được mấy mươi năm. Kiếp sau tôi chẳng cầu được làm người, chỉ cần kiếp này được làm những gì mình thích thì kiếp sau có làm trâu làm ngựa cũng chẳng sao.

Tôi bất ngờ đến quên cả khóc. Pusyse­da chưa bao giờ bộc bạch với tôi những suy nghĩ sâu kín này. Phải chăng thái độ ngông nghênh, giễu đời giễu người của cậu là hành động phản kháng trước quyết định từ bỏ gia đình của mẹ cậu? Phải chăng cậu đang ra sức vẽ nên viễn cảnh tăm tối, tuyệt vọng của thế giới sau cái chết để chống lại giáo lý Phật giáo?

- Con người tồn tại giữa trời đất, chỉ như bóng câu qua thềm, thoắt đến, thoắt đi.

Tôi kéo chăn, bước xuống giường, đến bên Pusyse­da, nhẹ nhàng khuyên nhủ:

- Pusyse­da, trân trọng đời sống hiện thực không có gì là xấu.

Cậu ta quay lại nhìn tôi chăm chú:

- Ngải Tình, chị không cho rằng tôi là kẻ hư hỏng đấy chứ?

Ở một nơi mà người người kính Phật, người người ngóng đợi một kiếp sau tươi đẹp như Khâu Từ, thì suy nghĩ của Pusyse­da quả là không thể chấp nhận được.

Nước trên mặt đất

Chia về muôn hướng

Người nào phận nấy

Chẳng nên than phiền

Đó là những câu thơ của Bào Chiếu.

- Pusyse­da, những điều cậu nghĩ, những việc cậu làm thể hiện khát khao sống và tận hưởng cuộc sống thực tại của cậu.

Có điều, khi không thực sự có tình yêu, thì những trò vui trăng hoa tuyết nguyệt ấy liệu sẽ kéo dài được đến khi nào?

- Không có tình yêu ư?

Miệng lẩm nhẩm, ánh mắt cậu ta trở nên mơ hồ.

- Có lẽ có, nhưng cậu không hề biết. Cậu không dám thừa nhận rằng cậu yêu mẹ. Vì yêu mẹ, nên cậu muốn biết cảm giác ấm áp khi sà vào lòng mẹ như thế nào. Vì yêu mẹ nên cậu mới tức tối khi bà bỏ đi, mới ghen tị với anh trai vì được mẹ quan tâm hơn, mới chống lại lý tưởng theo đuổi sự giải thoát của bà.

- Ngải Tình!

Ánh mắt Pusyse­da nhìn tôi bối rối.

- Theo chị, mẹ có yêu tôi không?

- Tất nhiên rồi! Trên đời này không có người cha người mẹ nào không yêu thương con cái. Bà yêu cậu theo cách của bà, nhưng có lẽ cậu không cảm nhận được tình yêu đó, hoặc có lẽ vì nó chưa đủ lớn như mong đợi của cậu. Khi nào cậu làm cha cậu sẽ hiểu được điều này.

Pusyse­da im lặng, viền mắt đỏ dần lên. Thực ra cho đến bây giờ, cậu ta vẫn luôn khao khát tình mẹ.

Đêm đó, Pusyse­da đã trò chuyện với tôi rất nhiều, bằng sự chân thành, bằng nỗi lòng thổn thức, buồn khổ mà trước đó chưa bao giờ tôi thấy ở cậu. Lúc bước ra khỏi phòng tôi, khuôn mặt vẫn chồng chất ưu tư, hoàn toàn khác con người thường ngày của cậu. Tôi thổi đèn, ngồi bên cửa sổ, chăm chú nhìn sang căn phòng đối diện. Bóng dáng cao gầy chập chờn lướt qua ô cửa sổ, một giây mất hút cũng khiến tôi thót tim. Tôi cứ ngồi thẫn thờ như vậy cho đến khi ánh đèn phòng đối diện vụt tắt. Trong bóng đêm tịch mịch, những suy tư theo nhau dội tới, khiến tôi không sao bình tâm.

Vậy là, lễ hội Sumuzhe đã kết thúc.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách