Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 2857|Trả lời: 23
Thu gọn cột thông tin

[Viễn Tưởng - Xuất Bản] Lâu Đài Bay Của Pháp Sư Howl | Diana Wynne Jones (End)

[Lấy địa chỉ]
Đăng lúc 10-10-2014 19:55:22 | Xem tất |Chế độ đọc
LÂU ĐÀI BAY CỦA PHÁP SƯ HOWL



Thể loại: Tiểu Thuyết, Viễn Tưởng
Tác giả: Diane Wynne Jones
Dịch giả: Đặng Kim Trâm
Độ dài: 21 Chương (400 Trang)
Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành - Xuất bản
Nguồn: tự type
Ngày xuất bản: Xuất bản năm 2008
Nhà xuất bản: Nhã Nam
Giới thiệu sơ lược:


- Cô đồng ý thoả thuận với tôi chứ? - con quỷ là sưởi nói. - Tôi sẽ hoá giải lá bùa cho cô nếu cô đồng ý phá giao kèo đang ràng buộc tôi.

Cô gái Sophie Hatter đang sống và làm việc yên ổn trong cửa hiệu bán mũ của bố mẹ ở Ingary, xứ sở của những đôi ủng bảy lý và áo choàng tàng hình thì bỗng một ngày, mụ Phù thuỷ xứ Waste xuất hiện biến cô thành bà già xấu xí. Quyết tâm giải cứu bản thân mình, Sophie đi tới lâu đài bay tìm kiếm sự giúp đỡ của Pháp sư Howl - kẻ vốn bị đồn là khoái "ăn tươi nuốt sống" trái tim của những cô gái trẻ...



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2014 21:25:06 | Xem tất
MỞ ĐẦU


~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~


Cuốn sách này dành tặng Stephen


Ý tưởng về cuốn sách này là của một cậu bé ở một trường học tôi từng đến thăm, cậu đề nghị tôi viết một cuốn sách có tên là "Lâu đài bay".
Tôi đã ghi tên cậu bé lại rồi cất kĩ đến mức từ đó tôi không thể nào tìm thấy được nữa.
Tôi muốn cảm ơn cậu bé thật nhiều.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2014 21:50:50 | Xem tất
CHƯƠNG I

Sophie nói chuyện với những chiếc mũ


~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~


Ở xứ sở Ingary, nơi những thứ như hài bảy lý và áo tàng hình thật sự tồn tại thì thật bất hạnh nếu bạn được sinh ra làm chị cả trong ba chị em. Ai cũng biết bạn sẽ là người đầu tiên nếm mùi thất bại và tệ nhất là khi cả ba chị em bạn bắt đầu đi tìm vận may.

Sophie Hatter là chị cả trong ba chị em gái. Thậm chí cô cũng không được là con gái một ông thợ mộc nghèo, nếu vậy thì cũng còn có vài cơ hội để cô thành công. Cha mẹ làm ăn khấm khá và là chủ một cửa hiệu bán mũ dành cho các quý bà trong thị trấn Chợ Chipping giàu có. Thực ra mẹ đẻ của Sophie qua đời khi cô mới lên hai còn em Lettie mới được một tuổi, và cha cô đã cưới cô bán hàng trẻ nhất trong cửa hiệu, một cô gái tóc vàng xinh đẹp tên là Fanny. Chẳng bao lâu Fanny sinh Martha, cô em gái thứ ba. Chuyện này có thể khiến Sophie và Lettie thành hai cô chị Lọ Lem, nhưng thực tế cả là cả ba chị em lớn lên đều rất xinh đẹp, mặc dù mọi người vẫn thường nói Lettie đẹp nhất. Fanny đối xử tốt với cả ba chị em, và không hề ưu ái Martha hơn tí nào.

Ông Hatter rất tự hào về ba cô con gái và gửi họ vào học trường tốt nhất của thị trấn. Sophie học hành chăm chỉ nhất. Cô đọc rất nhiều sách và sớm hiểu ra cơ hội để cô có được một tương lai thú vị ít ỏi đến nhường nào. Điều đó làm cô thất vọng nhưng cô vẫn luôn hạnh phúc khi chăm sóc các em và chuẩn bị cho Martha tìm kiếm vận may khi thời điểm đến. Fanny luôn bận rộn với công việc ở cửa hiệu nên Sophie là người chăm sóc hai em. Hai đứa này rất hay la hét và kéo tóc nhau. Lettie thì không đời nào chịu chấp nhận là người thứ hai, sau Sophie, bị định sẵn sẽ có ít cơ hội thành công.

- Như thế là không công bằng! - Lettie hét lên. - Tại sao Martha sẽ sướng nhất chỉ vì nó là em út? Em sẽ lấy một hoàng tử, vậy đấy!

Martha sẽ luôn luôn quặc lại là cuối cùng nó sẽ vô cùng giàu có mà chẳng phải lấy bất cứ ai.

Lúc đó Sophie sẽ phải lôi hai đứa ra và vá lại quần áo cho chúng. Cô rất khéo tay kim chỉ. Dần dần, cô còn may được quần áo cho các em. Vào Lễ hội Mùa Xuân trước khi câu chuyện này thực sự bắt đầu, cô đã may cho Lettie bộ cánh màu hồng thẫm mà Fanny bảo là trông cứ như được mua trong cửa hiệu đắt tiền nhất ở Kingsbury.

Vào khoảng thời gian này, mọi người lại bắt đầu nói đến mụ Phù thuỷ xứ Waste. Người ta nói rằng mụ đã đe doạ mạng sống con gái Đức Vua và rằng Đức Vua đã ra lệnh cho Pháp sư riêng của mình, Pháp sư Sulliman, đi tới xứ Waste để giải quyết mụ. Và có vẻ không những Pháp sư Sulliman không giải quyết được mụ: ông ta còn để chính mình bị mụ giết.

Mấy tháng sau đó, khi một toà lâu đài đen thui cao ngất đột nhiên xuất hiện trên những ngọn đồi phía trên Chợ Chipping, phả từng cuộn khói đen kịt từ bốn toà tháp canh cao chót vót, tất cả mọi người đều tin là chắc mụ Phù thuỷ đã lại rời khỏi xứ Waste và sắp làm điều tệ hại với đất nước họ như năm mươi năm trước. Mọi người vô cùng sợ hãi. Không ai dám đi đâu một mình, nhất là vào ban đêm. Điều khiến cho mọi chuyện đáng sợ hơn là toà lâu đài không ở nguyên một chỗ. Có lúc trông nó giống một vệt lửa hun cháy đen cao ngút trên cánh đồng hoang phía Tây Bắc, cũng có lúc nó lại nhô lên phía trên những tảng đá phía Đông, và đôi khi nó còn chạy thẳng xuống chân đồi ngự giữa đám thạch nam ngay bên kia nông trại cuối cùng ở phía Bắc. Thỉnh thoảng bạn có thể thấy nó di chuyển thực sự, khói từ các tháp canh tuôn thành từng đụn xám xịt, bẩn thỉu. Suốt một thời gian dài mọi người đều nghĩ chẳng bao lâu nữa toà lâu đài đó sẽ đi thẳng xuống thung lũng, và quan Đốc lý đã nói đến chuyện cầu cứu Đức Vua.

Nhưng toà lâu dài chỉ di chuyển loang quanh trên đồi và hoá ra nó không phải là của mụ Phù thuỷ mà là của Pháp sư Howl. Pháp sư Howl là một kẻ khá xấu xa. Mặc dù lão có vẻ không muốn rời khỏi những quả đồi, nhưng người ta đồn lão khoái bắt con gái trẻ và hút linh hồn họ.Cũng có người nói lão ăn tim họ. Lão là một pháp sư máu lạnh và nhẫn tâm tột cùng, không một cô gái nào được an toàn nếu bị lão tóm được khi đi một mình. Cũng như mọi cô gái khác ở Chợ Chipping, Sophie, Lettie, Martha được cảnh báo không bao giờ được phép ra ngoài một mình, điều đó khiến các cô thực sự khó chịu. Các cô rất thắc mắc không hiểu vì cớ gì Pháp sư Howl lại hút linh hồn của các cô gái trẻ.

Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, ba chị em lại phải lo lắng chuyện khác, vì ông Hatter chết đột ngột ngay khi Sophie khôn lớn và có thể nghỉ học hẳn. Lúc đó mới thấy ông Hatter đã quá tự hào về ba cô con gái của mình. Khoản học phí ông vẫn phải trả đã khiến cửa hiệu sa vào nợ nần nặng nề. Tang lễ xong xuôi, Fanny ngồi trong phòng khách ở căn nhà kế bên cửa hiệu và phân tích tình hình. Bà nói :

- Mẹ e là tất cả các con sẽ phải thôi học ở trường. Mẹ đã tính toán trước sau cả rồi, và mẹ thấy cách duy nhất để duy trì cửa hiệu và chăm lo cho cả ba con là phải thu xếp để các con vào học ở một cơ sở dạy nghề có tương lai nào đó. Giữ cả ba con ở lại cửa hiệu thì không được thực tế cho lắm. Mẹ không kham nổi việc đó. Vậy mẹ đã quyết định. Trước hết là Lettie...

Lettie ngước lên, gương mặt rạng ngời vẻ khoẻ khoắn và xinh đẹp mà ngay cả nỗi buồn và bộ quần áo tang cũng không che giấu được.

- Con muốn tiếp tục đi học. - Cô nói.

- Vậy thì con yêu, con sẽ tiếp tục đi học. - Fanny nói. - Mẹ đã thu xếp để con được học nghề ở chỗ Cesari, một thợ làm bánh ngọt ở Quảng trường Chợ. Họ nổi tiếng là đối xử với học viên như với vua chúa, và ở đó con sẽ vừa được vui vẻ vừa được học một nghề có ích. Bà Cesari là một khách hàng và là một người bạn tốt, và bà ấy đã ưu ái nhận con vào học.

Lettie cười to chứng tỏ cô không hề hài lòng chút nào:

- Ồ, cám ơn mẹ. - Cô nói. - May mắn làm sao con cũng thích nấu nướng, đúng không nào?

Fanny có vẻ nhẹ nhõm. Đôi khi Lettie có thể là đứa bướng khủng khiếp.

- Bây giờ đến Martha. - Bà nói. - Mẹ biết là con vẫn còn bé chưa đến tuổi đi làm, vì thế mẹ nghĩ mãi để tìm cho con một chỗ học nghề lâu dài và yên tĩnh, và sau này nó vẫn còn có ích dù con quyết định làm gì đi chăng nữa. Con biết bà Annabel Fairfax, bạn học cũ của mẹ chứ?

Martha, mảnh dẻ và trắng trẻo, ngước đôi mắt xám to nhìn xoáy vào Fanny, trông cũng bướng bỉnh chẳng kém gì Lettie.

- Mẹ muốn nói đến cái bà nói lắm ấy à? - Cô nói. - Bà ấy chẳng phải là phù thuỷ ư?

- Ừ, bà ấy có một ngôi nhà rất đẹp và khách hàng của bà ấy thì ở khắp Thung lũng Folding. - Fanny sôi nổi nói. - Martha, bà ấy là một phụ nữ tốt. Bà ấy sẽ dạy con tất cả những gì bà ấy biết và rất có thể sẽ giới thiệu con với những người quan trọng ở Kingsbury. Một khi bà ấy đã chấp nhận con thì cuộc đời con sẽ được sắp đặt đâu vào đấy.

- Bà ấy là người đáng mến. - Martha thừa nhận. - Thôi được.

Ngồi lắng nghe, Sophie thấy Fanny đã tính toán mọi chuyện đúng như cần thiết. Là con gái thứ hai, Lettie dường như sẽ chẳng đi đến đâu xa lắm, vì thế bà đưa cô tới nơi có thể gặp một anh chàng học nghề đẹp trai nào đó và sau này sẽ sống hạnh phúc. Martha, con bé nhất định sẽ tranh đấu và tự tìm kiếm vận may cho mình thì sẽ được phép thuật và bạn bè giàu có giúp đỡ. Còn về bản thân cô, Sophie không hề thắc mắc điều gì đang chờ đợi mình. Cô không ngạc nhiên khi nghe Fanny nói:

- Nào, Sophie yêu quý, dường như việc con sẽ thừa hưởng cửa hiệu bán mũ khi mẹ nghỉ ngơi là hoàn toàn đúng đắn và công bằng vì con là con cả. Mẹ đã quyết định sẽ tự mình dạy nghề cho con, để con có cơ hội học buôn bán. Con thấy thế nào?

Sophie sao có thể nói rằng cô đành cam chịu nghề bán mũ. Cô cảm ơn Fanny đầy biết ơn.

- Vậy mọi chuyện đã sắp đặt xong. - Fanny nói.

Ngày hôm sau, Sophie giúp Martha sắp xếp quần áo vào hòm, rồi sáng hôm sau nữa, mọi người tiễn Martha lên đường trên chiếc xe ngựa chở khách; trông cô nhỏ bé, căng thẳng và hồi hộp. Vì đường đến Folding Thượng, nơi bà Fairfax sống, chạy qua quả đồi nơi có toà lâu đài di động của Pháp sư Howl. Hoàn toàn hiểu được vì sao Martha sợ hãi.

- Em ấy sẽ ổn thôi. - Lettie nói. Lettie không để ai giúp mình gói gém đồ đạc. Khi chiếc xe ngựa chở khách đi khuất, Lettie nhét tất cả đồ đạc của mình vào chiếc vali mềm rồi trả cho thằng bé đánh giày nhà bên cạnh sáu xu để thuê nó đẩy bằng xe cút kít tới hiệu bánh Casari ở Quảng trường Chợ.

Lettie đi sau chiếc xe cút kít, vẻ vui tươi hơn Shophie mong đợi. Thực ra, cô như đang giũ hết những bụi bặm của cái cửa hiệu bán mũ khỏi chân mình.

Thằng bé đánh giày mang về một mẩu thư nguệch ngoạc của Lettie, viết rằng cô đã xếp đồ đạc vào ký túc xá nữ và Cesari có vẻ rất thú vị. Một tuần sau, chiếc xe ngựa chở khách cũng mang thư của Martha về nói rằng Martha đã đến nơi an toàn và bà Fairfax “là một người rất đáng mến và bỏ mật ong vào mọi thứ. Bà ấy nuôi ong.”. Đó là tất cả những gì Sophie biết về Lettie và Martha lúc này, vì ngay sau khi hai em rời khỏi nhà cô cũng bắt đầu học việc.

Dĩ nhiên Sophie đã biết rất rõ nghề buôn mũ. Hồi còn bé, cô vẫn thường chạy ra chạy vào kho đựng mũ bên kia sân, nơi những chiếc mũ được làm ẩm và đóng khuôn trên khuôn mũ, rồi hoa quả cùng những đồ trang trí khác làm từ sáp và lụa. Cô biết những người làm việc ở đây. Hầu hết họ làm việc ở đây từ hồi cha cô còn là một chú bé. Cô biết Bessie, cô bán hàng duy nhất còn lại của cửa hiệu. Cô biết những khách hàng mua mũ, biết người đàn ông thường đánh xe ngựa về nông thôn lấy mũ rơm đem về để người ta tạo hình lại trong nhà kho. Cô biết cả những nhà cung cấp khác và biết người ta sẽ sờ thử mũ mùa đông như thế nào. Quả thực Fanny không thể dạy thêm cho cô nhiều lắm, có lẽ chỉ trừ cách làm thế nào để khách hàng chịu mua mũ mà thôi.

- Con yêu, con phải dẫn khách hàng tới chỗ chiếc mũ hợp nhất. - Fanny nói. - Cho họ xem những cái mũ không hợp trước, sau đó chỉ cần đội cái mũ thích hợp lên là họ biết ngay khác nhau ở chỗ nào.

Thực tế Sophie chưa được bán mũ nhiều. Sau khoảng một ngày quan sát trong kho đựng mũ, và một ngày nữa Fanny đưa dạo quanh các cửa hiệu quần áo và cửa hiệu lụa, Fanny bảo cô ngồi trang trí mũ. Sophie ngồi trong hốc tường phía sau cửa hiệu, đính hoa hồng vào mũ có dây buộc dưới cằm, đính mạng vào mũ nhung, lót lụa bên trong và trang trí hoa bằng sáp cùng những dải nơ kiểu cách bên ngoài. Cô rất có khiếu trang trí mũ. Cô rất thích công việc này. Nhưng cô cảm thấy biệt lập và hơi chán. Mọi người trong xưởng đều luống tuổi nên không mấy vui nhộn, hơn nữa, họ đối xử với cô xa cách như với một người một ngày kia sẽ thừa kế cửa hiệu này. Bessie cũng đối xử với cô như vậy. Dẫu sao đi nữa câu chuyện duy nhất của Bessie là về anh chàng nông dân mà sau ngày lễ hội Mùa Xuân cô sẽ lấy làm chồng. Sophie khá ghen tị với Fanny vì bà có thể lăng xăng chạy đi mặc cả với ông bán lụa bất cứ khi nào bà thích.

Thú vị nhất là những câu chuyện của khách hàng. Không ai mua mũ mà lại không ngồi lê đôi mách. Sophie ngồi trong cái hốc tường của mình, khâu mũ và nghe chuyện quan Đốc lý không bao giờ ăn rau xanh, và lâu đài của Pháp sư Howl lại di chuyển quanh vách đá, cái lão đó thật là, thì thầm, thì thầm, thì thầm... Những giọng nói đó bao giờ cũng hạ xuống thật thấp mỗi khi nhắc đến Pháp sư Howl, nhưng Sophie tóm lại rằng tháng trước lão đã bắt một cô gái dưới thung lũng. “Yêu râu xanh!” - giọng nói thì thầm, rồi lại lên cao khi chuyển sang chuyện Jane Farrier quá ư vô duyên với cách chải tóc đó. Rằng cái cô đó thì không thể nào quyến rũ nổi đến cả Pháp sư Howl chứ đừng nói đến một người đàn ông đáng kính. Rồi sau đó là một tràng những lời thì thầm khiếp hãi về mụ Phù thuỷ xứ Waste. Sophie bắt đầu cảm thấy có lẽ lão Pháp sư Howl và mụ Phù thuỷ xứ Waste nên kết hợp với nhau.

- Có vẻ hai kẻ đó là một cặp trời sinh. Có ai đó nên làm mối đi thôi. - Cô nói với cái mũ mình đang trang trí trên tay.

Nhưng đến cuối tháng, những chuyện người ta kháo nhau trong cửa hiệu mũ đột nhiên lại toàn về Lettie. Có vẻ như ở Cesari, từ sáng đến tối, chật kín các quý ông, ai cũng mua hàng đống bánh ngọt và đòi được Lettie phục vụ. Cô đã nhận được mười lời cầu hôn, sắp xếp theo chất lượng thì từ con trai quan Đốc lý cho đến anh chàng quét phố, và cô đã từ chối hết thảy, nói rằng mình còn quá trẻ chưa thể quyết định được.

- Mình gọi đó là óc xét đoán của em ấy. - Sophie nói với cái mũ buộc dây cô đang lót lụa.

Fanny rất vui trước tin tức đó.

- Mẹ biết em con sẽ ổn mà! - Bà vui vẻ nói. Sophie chợt nhận ra rằng Fanny hài lòng vì Lettie không còn ở đây nữa.

- Lettie không giúp ích được gì cho cửa hàng. - Cô nói với chiếc mũ khi đang xếp nếp lớp lụa màu nấm. - Em ấy sẽ khiến cả đến mày cũng có vẻ kiều diễm, cái đồ tồi tàn cũ rích này ạ. Các quý bà nhìn Lettie và cảm thấy tuyệt vọng.

Nhiều tuần trôi qua, Sophie càng ngày càng hay nói chuyện với những cái mũ. Cũng chẳng có mấy ai khác để cô trò chuyện. Cả ngày Fanny bận mặc cả, hoặc cố lùa khách hàng mua mũ, còn Bessie bận phục vụ khách hàng và kể cho mọi người kế hoạch đám cưới của mình. Sophie bắt đầu có thói quen mỗi khi hoàn thành một chiếc mũ sẽ đặt nó lên giá - trông chiếc mũ đặt trên giá như cái đầu không có thân người - rồi dừng tay nói với cái mũ thân thể đội nó cần phải trông ra sao. Cô hơi nịnh cái mũ một chút, vì người ta cũng nên nịnh khách hàng.

- Bạn có vẻ quyến rũ bí ẩn. - Cô nói với cái mũ được mạng với những nét lấp lánh khuất bên trong. Còn với chiếc mũ rộng, màu kem, có giắt hoa hồng dưới vành thì cô bảo. - Bạn sẽ lấy được một người giàu có. - Bạn tươi trẻ như một chiếc lá xuân. - Cô nói với chiếc mũ rơm màu lục có lớp lông quăn màu xanh lá cây. Cô bảo những chiếc mũ hồng có dây buộc rằng trông chúng duyên dáng quá, còn những chiếc mũ sang trọng được trang trí bằng nhung thì trông bạn thật dí dỏm. Cô nói với chiếc mũ xếp nếp hình nấm:

- Bạn có trái tim vàng, một người có địa vị rất cao sẽ nhìn ra điều đó và đem lòng yêu bạn.

Đó là vì cô thấy thương cái mũ này. Trông nó thật rối mắt và xấu xí.

Ngày hôm sau, Jane Farrier đến cửa hiệu và mua chiếc mũ đó. Sophie lén nhòm qua hốc tường, thầm nghĩ tóc cô ta trông hơi lạ, tựa như Jane đã quấn nó quanh một dãy que cời lửa. Dường như hơi tội nghiệp khi cô ta chọn chiếc mũ này. Nhưng lúc đó hình như mọi người xung quanh đều đang mua mũ. Có thể đó là nhờ tài bán hàng của Fanny, hoặc cũng có thể là vì mùa xuân đang đến, nhưng việc kinh doanh mũ có vẻ sôi động lên trông thấy. Fanny bắt đầu nói, vẻ như có lỗi:

- Mẹ nghĩ lẽ ra không nên vội vã bắt Martha và Lettie đi xa sớm thế. Cứ đà này, chúng ta vẫn có thể làm chủ được.

Khách hàng rất đông bởi tháng Tư đang trôi qua và Lễ hội Mùa Xuân đang đến gần, Sophie khoác thêm cái áo dài màu xám kín đáo và lên phụ giúp cửa hiệu. Nhu cầu mũ quá lớn khiến cô rất vất vả mới trang trí kịp yêu cầu của khách, và tối tối cô phải đem mũ sang căn nhà kế bên cửa hiệu ngồi khâu dưới ánh đèn đến khuya để có đủ mũ bán trong ngày hôm sau. Những chiếc mũ màu lục tươi như của bà vợ quan Đốc lý được đặt mua rất nhiều, cả mũ màu hồng buộc dây cũng vậy. Rồi, vào tuần lễ trước ngày Lễ hội Mùa Xuân, một người bước vào cửa hiệu và hỏi mua chiếc mũ xếp nếp hình nấm giống như chiếc mũ Jane Farrier đã đội khi bỏ trốn cùng bá tước Catterack.

Đêm hôm đó, Sophie vừa ngồi khâu vừa tự thú nhận rằng cuộc sống của mình thật tẻ nhạt. Thay vì nói chuyện với những chiếc mũ, mỗi khi khâu xong một chiếc cô lại đội thử lên đầu và soi gương. Đó là một sai lầm. Chiếc áo dài xám nhạt nhẽo không hợp với Sophie, nhất là khi mắt cô quầng đỏ vì khâu vá, và vì tóc cô màu đỏ rơm nên cả màu xanh lục và màu hồng đều không hợp. Ai đó đội chiếc mũ xếp nếp hình nấm sẽ làm chính mình trông thật ảm đạm. “Trông cứ như gái già vậy!” - Sophie nói. Không phải vì cô muốn bỏ trốn theo Bá tước Catterack như Jane Farrier, cũng không phải vì muốn được cả nửa thị trấn cầu hôn như Lettie. Nhưng cô muốn làm cái gì đó - cô cũng không rõ đó là cái gì - một cái gì đó thú vị hơn một chút so với việc chỉ đơn giản ngồi trang trí mũ. Cô nghĩ hôm sau sẽ sắp xếp thời gian để đi gặp và nói chuyện với Lettie.

Nhưng Sophie không đi được. Hoặc là vì không sắp xếp được thời gian, hoặc cô không đủ sức lực, hoặc như Quảng trường Chợ có vẻ như quá xa, hay cũng có thể vì nhớ ra đi một mình sẽ gặp nguy hiểm với lão Pháp sư Howl - dẫu sao đi nữa, dường như càng ngày cô càng thấy khó đi gặp em gái hơn. Điều đó thật kì quặc. Sophie vẫn tưởng mình cứng cỏi gần bằng Lettie. Bây giờ cô thấy rằng có những việc cô chỉ có thể làm khi không còn lí do gì để trốn tránh.

- Vô lý quá! - Sophie nói. - Quảng trường Chợ chỉ cách đây hai dãy phố. Nếu mình chạy... - Và cô thề với lòng mình là sẽ đến Cesari khi cửa hiệu nghỉ Lễ hội Mùa Xuân.

Trong khi đó lại có tin đồn mới lan đến cửa hiệu mũ. Người ta đồn rằng Đức Vua cãi nhau với Hoàng thân Justin, em trai người và Hoàng thân đã bị lưu đày. Không ai biết rõ lí do cuộc cãi cọ, nhưng cách đây hai tháng Hoàng thân đã vi hành qua Chợ Chipping mà không ai biết. Đức Vua cử Bá tước Catterack đi tìm và ông này đã tình cờ gặp Jane Farrier thay vì tìm được Hoàng thân. Sophie lắng nghe họ kháo nhau và cảm thấy buồn. Dường như những chuyện thú vị vẫn xảy ra, nhưng bao giờ cũng là với ai khác. Tuy vậy, sẽ thật vui nếu được gặp lại Lettie.

Ngày hội Mùa Xuân đã đến. Từ sáng tinh mơ, không khí hội hè đã tràn ngập phố phường, Fanny ra phố từ sớm, nhưng Sophie vẫn còn hai chiếc mũ cần trang trí. Sophie vừa làm vừa hát. Rốt cuộc thì Lettie cũng đang phải làm việc. Vào những ngày lễ hội, Cesari mở cửa tới tận nửa đêm. “Mình sẽ mua bánh kem của họ” - Sophie quyết định. - “Phải mấy năm rồi mình chưa ăn bánh kem”. Cô nhìn đám người đông nghẹt đi ngang cửa sổ với đủ loại quần áo màu sắc sặc sỡ, người ta bán đồ lưu niệm, người ta đi cà kheo, và cô thấy lòng mình rạo rực.

Nhưng cuối cùng, khi quàng chiếc khăn san màu xám lên chiếc áo dài xám và đi ra phố, Sophie không còn rạo rực nữa. Cô cảm thấy choáng ngợp. Quá nhiều người lao qua cô, cười nói hò hét, quá ồn ào và nhộn nhịp. Sophie cảm thấy mấy tháng ngồi yên một chỗ với công việc khâu vá dường như đã biến cô thành một bà già, hoặc người gần như tàn phế. Cô quấn chặt chiếc khăn san quanh người và rón rén đi nép sát những ngôi nhà, cố tránh không bị những đôi giày thượng hạng của người ta giẫm lên hoặc bị một cái cùi chỏ bên trong ống tay áo lụa lượt thượt nào đó huých phải. Khi những tiếng đùng đùng đột nhiên vang lên từ đâu đó, Sophie tưởng như mình sắp ngất. Cô ngước lên và thấy toà lâu đài của Pháp sư Howl ngay trên sườn đồi bên trên thị trấn, gần đến nỗi dưòng như nó đang ngồi trên nóc các ống khói. Những ngọn lửa xanh phụt ra từ cả bốn tháp canh, cuộn thành những quả cầu lửa xanh lè nổ bùng trên trời cao, thật khiếp rợn. Có vẻ Lễ hội Mùa Xuân khiến Pháp sư Howl khó chịu. Hoặc cũng có thể lão thử tham dự theo kiểu riêng của mình. Sophie quá khiếp sợ nên không quan tâm. Lẽ ra cô đã quay về nhà, nhưng có điều lúc này cô đã đi được nửa đường đến Cesari. Vậy nên cô chạy.

- Cái gì khiến mình nghĩ mình muốn cuộc đời này thú vị hơn nhỉ? - Cô vừa chạy vừa tự hỏi. - Mình sẽ sợ chết khiếp mất. Đó là vì mình là chị cả trong ba chị em.

Khi đến Quảng trường Chợ, tình hình còn tệ hơn, nếu quả thực còn có thể tệ hơn được nữa. Hầu hết các nhà trọ đều ở trong Quảng trường này. Những đám đông thanh niên vênh váo đi tới đi lui, khoác những tấm áo choàng lụng thụng với tay áo dài lượt thượt, dậm những đôi giày có khoá mà ngày thường chẳng bao giờ họ mơ được xỏ, họ hét to để gây sự chú ý và sán đến bắt chuyện với các cô gái. Các cô cặp kè từng đôi một, sẵn lòng chờ các chàng trai tán tỉnh. Chuyện đó hoàn toàn bình thường trong những ngày Lễ hội Mùa Xuân, nhưng Sophie cũng chết khiếp luôn cả chuyện đó. Và khi một chàng trai trẻ mặc bộ cánh màu xanh lơ và bạc kì quặc nhìn thấy Sophie và quyết định sấn tới làm quen với cô thì Sophie rúm mình vào sau cánh cửa một cửa hiệu để trốn.

Chàng trai ngạc nhiên nhìn cô:

- Không sao đâu, chuột xám bé bỏng ạ. - Anh chàng cười to, vẻ thương hại. - Tôi chỉ muốn mời cô đi uống nước thôi. Đừng sợ quá như thế.

Vẻ thương hại khiến Sophie vô cùng xấu hổ. Anh ta cũng là một kẻ rất chưng diện, với gương mặt xương xương thạo đời - rất già so với tuổi ngoài hai mươi - và mái tóc vàng chải chuốt công phu. Ống tay áo của anh ta dài lê thê, hơn bất cứ ống tay áo nào khác trên quảng trường, gấu tay áo viền kiểu vỏ sò và dát bạc.

- Ồ, cám ơn ngài, xin ngài tha lỗi. - Sophie lắp bắp. - Tôi... tôi đang trên đường đi thăm em gái.

- Vậy chắc chắn cô phải đi thăm em gái thôi, - Anh chàng chải chuốt cười to. - tôi là ai mà dám ngăn không cho một quý cô xinh đẹp đi thăm em gái mình kia chứ? Trông cô có vẻ rất sợ hãi, tôi muốn xin phép đi cùng cô được không?

Anh ta thực sự có ý tốt, điều đó càng khiến Sophie xấu hổ hơn bao giờ hết:

- Không, cám ơn ngài, thôi ạ - Cô thở hổn hển và bỏ chạy vượt qua anh ta. Anh ta còn xịt cả nước hoa nữa. Mùi hoa dạ lan hương đuổi theo khi cô chạy. Người phong nhã làm sao! - Sophie nghĩ khi len lỏi đi giữa những chiếc bàn nhỏ bên ngoài Cesari.

Những chiếc bàn chật cứng. Bên trong cũng chật cứng và ồn ào chẳng kém ngoài Quảng trường Chợ. Sophie nhìn thấy Lettie trong dãy các cô bán hàng đứng ở quầy vì một nhóm thanh niên rõ ràng là các cậu công tử con nhà điền chủ đang chống khuỷu tay lên quầy hét gọi cô. Lettie, xinh đẹp hơn bao giờ hết và có lẽ hơi gầy đi một chút, đang bỏ bánh vào túi thật nhanh, khéo léo xoắn từng túi và nhìn xuống khuỷu tay mình với một nụ cười và một câu trả lời dành cho mỗi cái túi vừa được xoắn lại. Rất nhiều tiếng cười. Sophie phải lách mãi mới tới được chỗ quầy hàng.

Lettie nhìn thấy chị. Cô có vẻ run trong thoáng chốc. Rồi mắt cô mở to, nụ cười cũng rộng mở, cô hét:

- Sophie!

- Chị có thể nói chuyện với em được không? - Sophie gào to. - Ở đâu đó. - Cô hét lên, hơi bất lực khi một cái cùi chỏ to tướng trong tay áo rất diện đẩy bật cô ra khỏi quầy hàng.

- Chờ một tí! - Lettie gào lại. Cô quay sang cô gái bên cạnh và thì thầm. Cô gái nọ gật đầu, cười và tiến lại thay vào chỗ Lettie.

- Tôi sẽ phục vụ thay. Tiếp theo là ai ạ? - Cô gái nói với đám đông.

- Nhưng tôi muốn nói chuyện với cô cơ, Lettie! - Một trong những cậu công tử hét.

- Nói với Carrie ấy. - Lettie đáp lại. - Tôi muốn nói chuyện với chị tôi.

Dường như không ai buồn quan tâm. Họ đẩy Sophie tới tận tít cuối quầy hàng nơi Lettie đang lật cánh cửa đậy bàn quầy lên và vẫy tay ra hiệu, họ bảo cô chớ có giữ Lettie cả ngày. Khi Sophie chui được qua cánh cửa bàn quầy, Lettie nắm cổ tay cô và lôi cô ra phía sau cửa hiệu, tới một căn phòng xung quanh xếp đầy những giá gỗ, cái nào cũng chất đầy bánh ngọt. Lettie đẩy hai chiếc ghế đẩu tới.

- Chị ngồi xuống đi. - Lettie nói. Cô nhìn cái giá gần nhất, vẻ hơi lơ đãng, và lấy một cái bánh kem đưa cho Sophie. - Có lẽ chị cần cái này.

Sophie ngồi phịch xuống ghế, hít mùi bánh thơm ngậy và cảm thấy rưng rưng nước mắt:

- Ồ, Lettie, gặp em chị mừng quá. - Cô nói.

- Vâng, và em cũng rất mừng vì chị đã ngồi xuống. - Lettie nói.- Chị thấy đấy, em không phải Lettie. Em là Martha.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2014 22:08:03 | Xem tất
CHƯƠNG 2

Sophie bị buộc phải đi tìm vận may


~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~


- Cái gì? - Sophie trố mắt nhìn cô gái ngồi yên trên chiếc ghế đẩu đối diện mình. Trông cô ta giống hệt Lettie. Cô ta mặc chiếc áo dài màu xanh da trời đẹp thứ nhì của Lettie, một màu xanh tuyệt vời rất hợp với cô. Cô ta có mái tóc thẫm màu và đôi mắt xanh da trời của Lettie.

- Em là Martha. - Cô em nói. - Chị đã bắt gặp ai xé vụn cái quần lót chẽn gối bằng lụa của Lettie? Em không bao giờ tiết lộ với Lettie chuyện đó. Chị đã kể à?

- Không. - Sophie nói, hoàn toàn sững sờ. Lúc này cô đã nhận ra đó là Martha. Đúng cái kiểu nghiêng nghiêng của Martha trên cái đầu của Lettie, và cái cách Martha đan hai tay ôm lấy đầu gối, hai ngón tay cái mân mê nhau. - Sao lại thế?

- Em vẫn rất sợ chị đến thăm em. - Martha nói. - Vì em biết em sẽ phải nói thật với chị. Thật nhẹ nhõm vì giờ đây em đã nói ra. Hãy hứa với em là chị sẽ không nói với bất kì ai. Chị rất trọng danh dự.

- Chị hứa. - Sophie nói. - Nhưng tại sao? Như thế nào?

- Lettie và em đã thu xếp chuyện này. - Martha nói, mân mê hai ngón tay cái. - Vì Lettie muốn học pháp thuật còn em thì không. Lettie có đầu óc và chị ấy muốn một ngày kia có thể sử dụng pháp thuật. - Có điều thử nói với mẹ điều ấy xem! Mẹ quá ghen tị với Lettie nên thậm chí không thể thừa nhận là chị ấy thông minh!

Sophie không thể tin Fanny lại có thể như vậy, nhưng cô cho qua:

- Nhưng còn em thì sao?

- Chị ăn bánh đi, - Martha nói. - ngon lắm đấy. Ồ, vâng, em cũng có thể thông minh được. Chỉ trong vòng hai tuần ở nhà bà Fairfax em đã tìm ra câu thần chú mà chúng em đang sử dụng. Ban đêm em trở dậy và bí mật đọc sách của bà ấy, việc này thật dễ dàng. Sau đó, em xin phép về thăm nhà và bà Fairfax đồng ý. Bà ấy thật tốt. Bà ấy tưởng em nhớ nhà. Vậy là em lấy thần chú của bà Fairfax và đến đây, còn Lettie thì trở về nhà bà Fairfax và giả vờ làm em. Khó nhất là tuần đầu tiên, lúc đó em chẳng biết gì về những điều lẽ ra em phải biết rồi. Thật kinh khủng. Nhưng em phát hiện ra mọi người thích em, chị biết đấy, nếu chị thích họ - và sau đó mọi chuyện đều ổn. Và bà Fairfax cũng không tống cổ Lettie đi, vì thế em đoán chị ấy cũng xoay xở được.

Sophie nhai khào khạo miếng bánh mà thật sự không cảm nhận được mùi vị gì.

- Nhưng điều gì khiến em muốn làm thế này?

Martha đu đưa trên chiếc ghế đẩu, toét miệng cười tràn khắp gương mặt Lettie, cô xoay xoay hai ngón tay cái tạo thành một đám hồng hồng hạnh phúc:

- Em muốn lấy chồng và đẻ mười đứa con.

- Em chưa đủ lớn! - Sophie nói.

- Chưa đủ lớn hẳn. - Martha nhất trí. - Nhưng chị có thể thấy em sắp bắt đầu lớn ngay đây để có thể đẻ được mười đứa con. Và bằng cách này em sẽ có thời gian để chờ đợi và xem xem cái người em cần đó có thích em vì em là em không. Câu thần chú này sẽ dần dần hết tác dụng, và em sẽ ngày càng giống bản thân mình hơn, chị biết đấy.

Sophie quá đỗi kinh ngạc đến mức cô đã ăn hết cả cái bánh mà không hề nhận ra nó là loại bánh gì.

- Tại sao lại những mười đứa con?

- Vì em thích có chừng ấy đứa. - Martha nói.

- Chị không hề biết đấy!

- Vâng, nói tiếp chuyện đó cũng chẳng ích gì khi chị còn bận giúp mẹ thúc đẩy em đi tìm vận may. - Martha nói. - Chị tưởng mẹ muốn thế thật. Em cũng đã tưởng thế mãi đến khi bố mất và em thấy mẹ chỉ cố tống khứ chúng em đi mà thôi - mẹ đưa Lettie đến nơi mà chị ấy sẽ buộc phải gặp nhiều đàn ông và lấy chồng cho xong, và mẹ cố đẩy em đi càng xa càng tốt! Em rất giận mẹ và nghĩ, tại sao không? Rồi em nói chuyện với Lettie, chị ấy cũng tức giận chẳng kém gì em, vậy là chúng em sắp đặt mọi chuyện. Giờ thì chúng em ổn cả rồi. Nhưng cả hai chúng em đều thương chị. Chị quá tốt và thông minh, không thể nào bị kẹt mãi ở cái cửa hiệu đó cho đến hết đời được. Bọn em nói với nhau chuyện đó, nhưng không biết phải làm gì.

- Chị ổn mà. - Sophie phản đối. - Chỉ hơi tẻ nhạt một chút.

- Ổn? - Martha kêu lên. - Vâng, chị chứng minh rằng chị vẫn ổn bằng cách bao nhiêu tháng trời không đến thăm em, rồi sau đó đến đây trong cái áo dài và cái khăn san xám ngoét đáng sợ này, trông cứ như thể đến em cũng làm chị sợ! Mẹ đã làm gì chị vậy?

- Chẳng làm gì cả. - Sophie bứt rứt nói. - Mẹ và chị khá bận rộn. Em không nên nói về Fanny như vậy, Martha. Bà ấy là mẹ em!

- Phải, và em giống mẹ đủ để hiểu mẹ. - Martha quặc lại. - Chính vì thế mà mẹ tống em đi thật xa, hoặc cố tống em đi thật xa. Mẹ biết người ta không cần phải ác tâm với ai đó mới có thể bóc lột họ. Mẹ biết chị dễ bảo như thế nào. Mẹ biết chị coi chuyện này là một sự thua thiệt vì chị là con cả. Mẹ điều khiển chị một cách hoàn hảo và biến chị thành nô lệ cho bà ấy. Em cuộc là bà ấy không trả lương cho chị.

- Chị vẫn đang học việc mà. - Sophie phản đối.

- Em cũng vậy, nhưng em vẫn có lương. Cửa hiệu Cesari biết em xứng đáng được hưởng lương. - Martha nói. - Dạo này cái cửa hiệu mũ ấy kiếm được hàng đống tiền, và tất cả là nhờ chị! Chính chị đã làm cái mũ xanh lá cây ấy khiến bà vợ quan Đốc lí trông chẳng khác nào một cô nữ sinh ngây ngất, đúng không?

- Màu xanh lục. Chị đã trang trí cái mũ ấy. - Sophie nói.

- Và cái mũ Jane Farrier đã đội khi gặp vị quý tộc nọ. - Martha nói tiếp. - Chị rất tài hoa với mũ nón và quần áo, và mẹ biết vậy! Chị đã đóng triện cho số phận của mình khi may cho Lettie bộ cánh hồi Lễ hội Mùa xuân năm ngoái. Bây giờ chị kiếm tiền trong khi bà ta rong chơi lang thang...

- Mẹ đi mua đồ. - Sophie nói.

- Mua đồ! - Martha kêu lên. Hai ngón tay cái của cô mân mê rối rít. - Bà ấy làm việc đó chỉ mất nửa buổi sáng. Sophie, em đã nhìn thấy bà ấy, và đã nghe người ta nói. Bà ấy biến vào chiếc xe ngựa thuê và quấn mình trong những quần áo mới mua bằng tiền do chị kiếm được, đi thăm thú tất cả các biệt thự dưới thung lũng. Người ta bảo bà ấy sẽ mua cái biệt thự đồ sộ ở cuối thung lũng và sắp xếp lại theo phong cách riêng của mình. Vậy chị ở đâu?

- Ồ, Fanny xứng đáng được hưởng những niềm vui ấy sau bao nhiêu nhọc nhằn nuôi chúng ta khôn lớn. - Sophie nói. - Chị nghĩ là chị sẽ được thừa hưởng cửa hiệu.

- Số phận mới tuyệt làm sao! - Martha kêu lên. - Chị nghe này...

Nhưng đúng lúc đó, hai thùng bánh không bị kéo sang bên ở cuối phòng, và một thợ học việc từ đâu đó thò đầu vào:

- Lettie, hình như anh nghe thấy tiếng em. - Anh ta nói, toét miệng cười vẻ thân thiện và tán tỉnh. - Mẻ bánh vừa mới ra lò. Bảo họ thế. - Cái đầu quăn quăn và hơi dính bột lại biến mất. Sophie nghĩ có vẻ đó là một anh chàng tử tế. Cô rất muốn hỏi đó có phải là người mà Martha thực sự thích không, nhưng không kịp. Martha vội đứng vọt dậy, miệng vẫn còn nói.

- Em phải gọi mấy cô gái đem tất cả chỗ bánh này sang cửa hàng. - Cô nói. - Khiêng một đầu giúp em. - Cô lôi cái thùng gần nhất tới và Sophie giúp cô đẩy nó qua cửa để chuyển sang cửa hàng đang ồn ào tất bật. - Sophie, chị phải làm gì cho bản thân mình đi. - Martha vừa đi vừa thở hổn hển. - Lettie cứ nói mãi chị ấy không biết điều gì sẽ xảy đến với chị khi chúng em không còn ở bên chị và mang lại niềm vui cho chị. Chị ấy lo là phải.

Trong cửa hàng, bà Cesari đưa đôi tay vạm vỡ nhận thùng bánh từ hai chị em, miệng gào lên ra lệnh và một dòng người ùa qua Martha để lấy thêm bánh. Sophie hét lên tạm biệt em rồi luồn khỏi đám đông nhộn nhạo. Có vẻ không phải khi ở bên Martha thêm chút nữa. Vả lại, cô cũng muốn được ở một mình để suy nghĩ. Cô chạy về nhà. Lúc này người ta đang bắn pháo hoa, những phát pháo hoa bay lên từ cánh đồng cạnh bờ sông nơi đang diễn ra lễ hội, như muốn cạnh tranh với những cầu lửa xanh lơ nổ vang từ lâu đài của Pháp sư Howl. Sophie thấy mình giống một người tàn phế hơn bao giờ hết.

Suốt tuần kế tiếp đó, cô nghĩ, nghĩ mãi, và rốt cuộc cô trở nên bối rối và bất mãn. Mọi thứ hình như không giống như trước kia cô tưởng nữa. Martha và Lettie khiến cô kinh ngạc. Bao năm nay cô đã hiểu lầm các em. Nhưng cô không thể tin Fanny là loại người như Martha nói.

Cô có rất nhiều thời gian để suy nghĩ, vì vừa hay Bessie được nghỉ để làm đám cưới và hầu như chỉ còn lại mình Sophie trong cửa hiệu. Quả thật Fanny có vẻ hay ra ngoài, dù lang thang rong chơi hay không, và việc buôn bán có phần chậm lại sau Lễ hội Mùa Xuân. Sau ba ngày suy nghĩ, Sophie lấy hết can đảm hỏi Fanny:

- Con có nên được nhận lương không hả mẹ?

- Dĩ nhiên là có chứ, con yêu, với tất cả những gì con đã làm! - Fanny trả lời một cách nồng nhiệt, khi đang đứng trước gương đội thử một chiếc mũ đính hoa hồng. - Chúng ta sẽ bàn chuyện đó ngay sau khi mẹ làm sổ sách kế toán xong vào tối nay.

Nói rồi, bà ra ngoài và mãi đến khi Sọphie đóng cửa hiệu và đem số mũ ngày hôm đó về nhà trang trí thì bà mới trở về.

Thoạt tiên, Sophie chỉ định làm theo lời Martha, nhưng khi Fanny tuyệt nhiên không đả động gì tới chuyện trả lương, tối hôm đó hay bất kì lúc nào sau này, Sophie bắt đầu nghĩ Martha nói đúng.

- Có lẽ mình đang bị bóc lột, - Cô nói với cái mũ đang được trang trí bằng một dải lụa đỏ và chùm quả anh đào làm từ sáp. - nhưng cũng phải có ai đó làm việc này chứ, nếu không sẽ chẳng có cái mũ nào mà bán cả. - Cô hoàn thiện chiếc mũ và đang bắt đầu trang trí chiếc mũ khác, nhã nhặn và hợp thời trang, với hai màu đen trắng, thì bất chợt một ý nghĩ mới mẻ này ra trong đầu cô. - Không có mũ bán thì đã làm sao? - Cô hỏi cái mũ. Cô nhìn quanh đám mũ chất đống, kể cả những cái đặt trên giá hay vẫn còn xếp đống chờ được trang trí. - Tất cả các bạn thì có ích gì? - Cô hỏi chúng. - Chắc chắn tất cả các bạn chẳng đem lại cho tôi tí tích sự nào cả.

Sophie đang định rời bỏ cái nhà này và ra đi để tìm số phận của mình thì chợt nhớ ra mình là con cả và thế là cô chẳng còn lí do nào nữa. Cô cầm lại cái mũ lên, thở dài.

Sáng hôm sau, Sophie vẫn còn bất mãn và đang ngồi một mình trong cửa hiệu thì một cô khách hàng nom rất thô kệch lao vào, tay cầm mấy dải nơ của một cái mũ xếp nếp hình nấm vung lên:

- Nhìn cái này xem! - Quý cô nọ rít lên. - Cô bảo tôi cái này giống cái mũ Jane Farrier đội hôm gặp Bá tước. Và cô đã nói dối. Chẳng có gì xảy ra với tôi cả!

- Tôi không hề ngạc nhiên. - Sophie nói ngay, trước khi kịp trấn tĩnh lại. - Nếu cô ngốc nghếch đến mức đội cái mũ đó với bộ mặt đó thì cô không đủ tinh tường để nhận ra Đức Vua nếu người đến ăn xin trước mặt cô - đó là nếu Người còn chưa biến thành đá ngay khi nhìn thấy cô.

Người khách hàng quắc mắt. Rồi cô ta ném cái mũ vào Sophie và lao qua khỏi cửa hiệu. Sophie cẩn thận nhét cái mũ vào thùng rác, thở hổn hển. Nguyên tắc là: nếu nổi nóng, bạn sẽ mất khách hàng. Cô vừa chứng minh nguyên tắc đó xong. Và cô lo lắng nhận ra làm vậy thích thú đến nhường nào.

Sophie không có thì giờ để trấn tĩnh. Có tiếng bánh xe và vó ngựa và một chiếc xe hòm làm cửa sổ tối lại. Chuông cửa vang lên và vị khách sang trọng nhất mà Sophie từng gặp yêu kiều tiến vào, chiếc khăn choàng lông chồn rủ xuống từ khuỷu tay bà ta và những hạt kim cương lấp lánh trên khắp chiếc áo dài đen nặng trĩu. Mắt Sophie trước tiên nhìn lên chiếc mũ của quý bà nọ - lông đà điểu thật nhuộm màu để phản chiếu ánh hồng, lục và xanh lơ lấp lánh trên những hạt kim cương, vậy mà trông vẫn đen nhánh. Đó là chiếc mũ của một người cực kì giàu có. Khuôn mặt quý bà được trang điểm kĩ càng. Mái tóc nâu hạt dẻ khiến bà ta trông có vẻ trẻ, nhưng... - Mắt Sophie hướng vào chàng thanh niên cùng đi, một chàng trai có khuôn mặt hơi khó xác định, với mái tóc đỏ, ăn mặc rất đẹp nhưng trông nhợt nhạt và đầy vẻ ưu tư. Anh ta nhìn Sophie vẻ như hãi hùng cầu khẩn. Rõ ràng anh ta trẻ hơn rất nhiều so với người phụ nữ. Sophie thấy khó hiểu.

- Cô Hatter phải không? - Quý bà nọ hỏi, giọng du dương nhưng đầy vẻ ra lệnh.

- Vâng ạ. - Sophie nói. Chàng thanh niên trông phiền muộn hơn bao giờ hết. Có lẽ, người phụ nữ này là mẹ anh ta.

- Ta nghe nói cô bán những cái mũ đẹp tuyệt trần đời. - Quý bà nói. - Đưa ta xem.

Sophie không kì vọng bản thân cô đáp lời trong tâm trạng đó. Cô vào trong lấy mũ. Không một chiếc nào trong số đó xứng với đẳng cấp của quý bà này, nhưng cô cảm thấy đôi mắt của chàng thanh niên đang dõi theo mình, và điều đó khiến cô không thoải mái. Người phụ nữ này càng sớm nhận ra những cái mũ này không hợp với mình thì cái đôi cọc cạch ấy sẽ đi khỏi càng nhanh. Cô làm theo lời dặn của Fanny và đưa những cái mũ không hợp nhất ra trước.

Người phụ nữ bắt đầu quẳng những cái mũ đó đi ngay lập tức:

- Lúm đồng tiền, - Bà ta nói với cái mũ hồng buộc dây, - và Tuổi trẻ, - với cái màu xanh lục. Với cái mũ có mạng và điểm sáng long lanh bà ta nói. - Nét quyến rũ bí ẩn. Rõ ràng làm sao. Cô còn cái mũ nào nữa?

Sophie quay vào lấy chiếc mũ màu đen trắng rất mốt kia ra, đó là cái duy nhất may ra có thể lọt vào mắt quý bà này.

Bà ta nhìn cái mũ vẻ khinh miệt:

- Cái này chẳng làm gì được cho bất cứ ai. Cô Hatter, cô làm ta phí cả thì giờ.

- Đó chỉ là vì bà đến và hỏi xem mũ thôi ạ. - Sophie nói. - Đây chỉ là cửa hiệu bán mũ nhỏ trong một thị trấn nhỏ, thưa bà. Sao bà lại, - Phía sau bà ta, chàng thanh niên há hốc miệng và có vẻ cố ra hiệu cảnh báo cô. - bận tâm đến đây làm gì? - Sophie nói nốt và tự hỏi chuyện gì đang xảy ra.

- Ta luôn bận tâm nếu có kẻ cố rắp tâm chống lại Phù thuỷ xứ Waste. - Quý bà nói. - Cô Hatter, ta đã nghe nói về cô, và ta không quan tâm đến chuyện cạnh tranh hay thái độ của cô. Ta chỉ đến để ngăn cô lại. Thế đấy. - Bà ta xoè rộng tay làm thành một cử chỉ hất vào mặt Sophie.

- Bà nói bà là Phù thuỷ xứ Waste? - Sophie run rẩy. Giọng cô như lạc đi vì sợ hãi và kinh ngạc.

- Đúng vậy. - Quý bà nói. - Và hãy để điều đó dạy cho cô cách can thiệp vào những thứ thuộc về ta.

- Cháu nghĩ cháu chẳng làm gì cả. Nhất định là có điều gì lầm lẫn rồi. - Sophie kêu lên. Lúc này, chàng thanh niên nhìn cô với vẻ hoảng sợ tột cùng, mặc dầu Sophie không hiểu tại sao.

- Không lầm lẫn gì hết, cô Hatter. - Mụ Phù thuỷ nói. - Đi thôi, Gaston. - Bà ta quay lại và lướt ra cửa. Trong khi người thanh niên khúm núm mở cửa, bà ta quay lại nói với Sophie. - Nhân thể, cô sẽ không thể nói được với ai rằng cô đang bị yểm bùa.

Cánh cửa đóng lại rền rĩ như tiếng chuông đám ma khi mụ ta đi khỏi.

Sophie đưa tay lên mặt, tự hỏi người thanh niên đã nhìn chằm chằm vào cái gì. Cô cảm thấy những nếp nhăn dai và mềm. Cô nhìn xuống tay mình. Chúng cũng nhăn nheo, và gầy guộc, với những mạch máu to tướng ở mu bàn tay và các khớp đốt ngón tay trông như những cái bướu. Cô kéo vạt áo dài xám lên khỏi ống chân, nhìn xuống hai mắt cá và đôi bàn chân gày guộc, hom hem đã làm đôi giày lổn nhổn u bướu. Đó là chân một người già khoảng chín mươi tuổi và có vẻ rất thật.

Sophie ép mình đi tới gương và nhận ra mình phải đi tập tễnh. Bộ mặt trong gương trông rất bình thản, bởi đó là cái cô đã đoán đợi sẽ nhìn thấy. Đó là mặt một bà già cằn cỗi, héo khô và nâu xạm, xung quanh mặt loà xoà tóc trắng. Đôi mắt của cô - vàng và ướt nhoẹt - đang chằm chằm nhìn mình, vẻ bi thảm.

- Bà lão, đừng lo. - Sophie nói với khuôn mặt. - Trông bà hoàn toàn khoẻ mạnh. Hơn nữa, như thế trông giống bà hơn nhiều đấy.

Cô nghĩ về tình cảnh của mình, hoàn toàn bình tĩnh. Mọi việc dường như trở nên quá bình thản và xa xôi. Thậm chí cô không thấy quá tức giận với mụ Phù thuỷ xứ Waste.

- Ồ, dĩ nhiên khi có cơ hội mình nhất định sẽ làm gì đó với bà ta. - Cô tự nhủ. - Nhưng trong lúc này, nếu Lettie và Martha có thể chịu đựng được việc thế chỗ cho nhau thì mình cũng có thể chịu đựng được chuyện này. Nhưng mình không thể ở lại đây được nữa. Fanny hẳn sẽ ngất mất. Xem nào. Cái áo dài màu xám này rất thích hợp, nhưng mình cần lấy khăn san và một ít thức ăn.

Cô khập khiễng đi ra cửa và cẩn thận treo tấm biển ĐÓNG CỬA lên. Các khớp xương kêu lục cục khi cô cử động. Cô phải đi còng gập và rất chậm. Nhưng cô thấy yên lòng khi phát hiện ra mình là bà cụ già tráng kiện. Cô không thấy đau yếu hay khó chịu, chỉ thấy người cứng đơ. Cô tập tễnh đi lấy khăn san, quấn quanh đầu và vai như các bà lão thường làm. Rồi cô lê bước vào nhà, lấy cái ví đựng mấy đồng xu, một gói bánh mì và phó mát. Cô gượng mình bước ra khỏi nhà, cẩn thận giấu chìa khoá vào chỗ thường lệ, rồi tập tễnh đi xuống phố, rất ngạc nhiên vì thấy mình quá đỗi bình thản.

Cô thực sự băn khoăn có nên đến chào tạm biệt Martha không. Nhưng cô không thích cái ý nghĩ Martha không nhận ra mình. Tốt nhất là cứ thế đi. Sophie quyết định bao giờ đến được nơi cô sẽ đến - đâu cũng được - thì sẽ viết thư cho cả hai em. Cô tiếp tục lê bước qua cánh đồng nơi từng diễn ra Lễ hội Mùa Xuân, qua cầu, rồi bước tới con đường làng bên kia cầu. Đó là một ngày xuân ấm áp. Sophie nhận thấy việc phải làm một bà cụ không ngăn cô thưởng ngoạn cảnh vật cũng như hương vị táo gai trong những bờ dậu, mặc dù cảnh vật có hơi nhoè nhoẹt. Lưng cô bắt đầu đau. Cô tập tễnh bước đi, dù còn khá sung sức nhưng vẫn cần một cây gậy. Cô vừa đi vừa tìm trong từng hàng giậu để xem có cái cọc nào lung lay không.

Rõ ràng mắt cô không còn tinh tường như trước. Cô nghĩ mình nhìn thấy một cây gậy, dài đến cả dặm hoặc hơn thế, nhưng khi lôi lên thì hoá ra đó là phần thân dưới của một thằng bù nhìn bị ai đó vất vào bờ dậu. Sophie kéo nó thẳng lên. Bộ mặt của nó làm bằng một củ cải nhăn nheo. Sophie thấy mình thoáng đồng cảm với nó. Thay vì tước ra để lấy cây gậy, cô nhét nó vào giữa hai nhánh của hàng giậu, đặt nó đứng ngang tàng trên bụi táo gai với ống tay áo tả tơi nơi hai cánh tay gậy phất phơ trên bờ giậu.

- Đấy, - Cô nói, và cái giọng run run già nua khiến cô không kìm nổi mình bật cười khùng khục vì ngạc nhiên. - cả hai chúng ta đều chẳng đáng kể gì, phải không anh bạn? Nếu tớ đặt cậu ở chỗ mọi người có thể nhìn thấy, biết đâu cậu có thể trở lại được với đồng ruộng của mình.

Cô lại bắt đầu bước trên con đường nhỏ, nhưng một ý nghĩ bất chợt khiến cô quay lại:

- Bây giờ nếu tớ không phải chịu số kiếp bị định sẵn thất bại chỉ vì vị trí của tớ trong gia đình, thì cậu sẽ sống và giúp tớ tạo ra vận may của mình. Nhưng dù sao tớ cũng chúc cậu may mắn. - Cô nói với thằng bù nhìn.

Cô lại lục cục cười khi bước đi tiếp. Có thể cô hơi điên điên, nhưng các bà cụ vẫn thường hay như thế.

Khoảng một giờ sau, cô tìm được một chiếc gậy trong lúc ngồi nghỉ trên bờ ruộng và ăn bánh mì cùng phó mát. Có tiếng động trong hàng giậu sau lưng cô: những tiếng rên rít nghèn nghẹn, theo sau là tiếng thở gấp làm rung những cánh hoa táo gai khiến chúng rụng khỏi bờ giậu. Sophie lồm cồm bò trên hai đầu gối xương xẩu, nhòm vào bên trong hàng giậu qua đám lá, hoa, và gai nhọn, và phát hiện một con chó xám gầy nhom bên trong. Nó đang bị kẹt một cách vô vọng bởi một sợi dây buộc quanh cổ nó. Bản thân cây gậy lại mắc giữa hai nhánh của hàng giậu khiến con chó khó nhọc lắm mới cử động được. Nó cuống cuồng láo liên nhìn bộ mặt nhòm ngó của Sophie.

Là con gái, Sophie sợ tất cả các loài chó. Thậm chí, dù đã là một bà cụ già, cô cũng vẫn hoảng hốt trước hai hàng răng nanh trắng nhởn trong cái miệng há hốc của con vật. Nhưng cô tự nhủ:

- Mình đã thế này rồi, chẳng còn gì đáng phải sợ nữa. - Cô nói với chính mình rồi lần tìm kéo trong túi may. Cô lại gần hàng giậu và dùng kéo cứa sợi dây buộc quanh cổ con chó.

Con chó rất dữ tợn. Nó giãy khỏi cô và gầm gừ. Nhưng Sophie vẫn dũng cảm tiếp tục cứa.

- Mày sẽ chết đói hoặc chết ngạt, - Cô nói với con chó bằng cái giọng già nua run rẩy. - nếu mày không để tao nới lỏng cho mày, chó thân mến ạ. Thực tế, tao nghĩ có kẻ nào đó đã cố siết nghẹt cổ mày. Cõ lẽ vì mày hung dữ quá đấy.

Sợi dây được buộc rất chặt quanh cổ con chó và cây gậy lại được xoắn vào đó đầy ác ý. Phải cứa rất lâu sợi dây mới đứt và con chó mới có thể lê mình thoát ra từ dưới cây gậy.

- Mày có muốn ăn một ít bánh mì và phó mát không? - Sophie hỏi. Nhưng con chó chỉ gầm gừ với cô, cố lách ra ngoài qua bờ giậu phía bên kia và lủi đi. - Biết ơn thế đấy! - Sophie nói và xoa xoa cánh tay bị gai đâm. - Nhưng mày cũng để lại cho tao một món quà thế mạng đây rồi! - Cô rút chiếc gậy đã làm con chó mắc kẹt ra khỏi bờ giậu và thấy đó là một cây gậy chống rất thích hợp, được đẽo kĩ càng và đầu bịt sắt. Sophie ăn nốt bánh mì và phó mát rồi tiếp tục lên đường. Con đường mỗi lúc một dốc hơn và cô thấy chiếc gậy giúp ích được rất nhiều. Cô lại còn có thể nói chuyện được với nó. Sophie hăng hái vừa lọc cọc đi vừa nói chuyện với cây gậy. Rốt cuộc, người già vẫn hay nói chuyện một mình.

- Vậy là có hai cuộc chạm trán, - Cô nói. - và chẳng mảy may có được chút biết ơn màu nhiệm nào ở cả hai. Tuy vậy, mày vẫn là một cây gậy tốt. Không phải ta đang càu nhàu đâu. Nhưng chắc chắn ta sẽ có một cuộc chạm trán thứ ba, dù màu nhiệm hay không cũng vậy. Thực ra, ta nhất định sẽ có một cuộc chạm trán màu nhiệm. Ta thắc mắc không biết nó sẽ là cái gì.

Cuộc chạm trán thứ ba tới vào cuối buổi chiều khi Sophie đã leo lên được khá cao trên đồi. Một anh chàng nhà quê huýt sáo đi xuống con đường nhỏ về phía cô. Anh chàng chăn cừu trở về nhà sau buổi chăn cừu, - Sophie nghĩ. Đó là một chàng trai trẻ khoảng bốn mươi tuổi, vóc người khoẻ mạnh nở nang. Chao ôi! - Sophie tự nhủ. - Nếu là sáng nay hẳn mình sẽ coi anh ta là một người già. Quan điểm của người ta thay đổi khiếp thật!

Thấy Sophie lẩm bẩm một mình, anh chăn cừu bèn thận trọng bước tránh sang bên kia đường và gọi to rất nồng nhiệt:

- Mẹ ơi, con chào mẹ. Mẹ đi đâu đấy?

- Mẹ? - Sophie nói. - Anh bạn trẻ, tôi đâu phải mẹ của anh!

- Một cách nói thôi mà. - Anh chăn cừu nói và đi dọc mép giậu phía bên kia. - Thấy mẹ lên đồi vào lúc chiều muộn thế này nên con chỉ định hỏi một cách lịch sự thôi. Mẹ sẽ không thể xuống kịp Folding Thượng trước khi trời sẩm tối, đúng không ạ?

Sophie đã không nghĩ đến chuyện này. Cô đứng giữa đường, nghĩ ngợi:

- Chuyện đó không thành vấn đề. - Cô nói, nửa như với riêng mình. - Một khi đã đi tìm vận may thì người ta không nên cầu kì quá.

- Mẹ thật sự không xuống kịp, phải không? - Anh chăn cừu nói. Lúc này, anh ta đi hẳn xuống sườn đồi về phía Sophie và có vẻ cảm thấy như vậy dễ chịu hơn. - Vậy thì con chúc mẹ may mắn, với điều kiện là vận may của mẹ không liên quan gì đến bọn bỏ bùa mê ngải lú đáng khinh ấy. - Nói rồi anh ta sải những bước dài đi tiếp, gần như chạy, nhưng chưa đến mức chạy.

Sophie phẫn nộ chòng chọc nhìn theo.

- Anh ta tưởng mình là phù thuỷ. - Cô nói với cây gậy. Cô nửa muốn doạ anh chăn cừu bằng cách hét theo những câu ác độc, nhưng làm vậy có vẻ không tốt lắm. Cô cần mẫn leo đồi, vừa leo vừa lẩm bẩm. Chẳng bao lâu, bờ giậu đã nhường chỗ cho những bờ đất trơ trụi và dải đất phía bên kia trở thành vùng đất đồi đầy những cây thạch nam, dốc dần về phía xa với những đám cỏ vàng mọc ngập. Sophie vẫn quyết tâm leo dốc. Lúc này, đôi chân xương xẩu già nua của cô đau nhức, cả lưng và đầu gối cũng vậy. Cô bắt đầu quá mệt chẳng buồn lẩm bẩm nữa mà chỉ nhẫn nại đi tiếp, vừa đi vừa thở hổn hển cho đến khi mặt trời lặn xuống thấp hẳn. Rồi đột nhiên, Sophie thấy rõ mình không thể bước nổi thêm bước nào nữa.

Cô ngồi xuống một tảng đá bên đường, tự hỏi mình có thể làm gì lúc này.

- Vận may duy nhất mình có thể nghĩ đến là một chiếc ghế êm ái. - Cô thở hổn hển.

Tảng đá này hoá ra lại nằm trên một mũi đất cao khiến Sophie có thể quan sát toàn bộ con đường mình vừa đi qua. Gần như cả thung lũng trải rộng dưới mắt cô trong ánh chiều hoàng hôn, những cánh đồng, những bức tường và những bờ giậu, những khúc sông uốn lượn quanh co và những toà nhà tráng lệ của bọn nhà giàu sống động sau những lùm cây, ngay dưới những dãy núi cao xanh mờ phía xa. Ngay bên dưới cô là Chợ Chipping. Sophie có thể nhìn xuống những con phố nổi tiếng ở đó. Có Quảng trường Chợ và tiệm bánh Cesari. Cô có thể ném một hòn đá xuống chụp ống khói của ngôi nhà kế bên cửa hiệu mũ.

- Vẫn gần làm sao! - Sophie thất vọng nói với cây gậy. - Đi chừng ấy đường để rồi chỉ để ở ngay trên mái nhà nhà mình!

Mặt trời đã lặn, Sophie bắt đầu thấy lạnh khi ngồi trên phiến đá. Một cơn gió không mấy dễ chịu thổi tung dù Sophie đã quay đủ mọi phía để tránh. Giờ thì việc ở ngoài trời cả đêm trên đồi không còn có vẻ không quan trọng nữa. Cô thấy mình bắt đầu nghĩ ngày càng nhiều đến một chiếc ghế êm ái và một chỗ ngồi bên cạnh lò sưởi, nghĩ cả tới bóng tối và bầy thú hoang dã. Nhưng nếu quay lại Chợ Chipping thì cũng phải nửa đêm cô mới xuống tới nơi. Có lẽ cứ nên đi tiếp. Cô thở dài và đứng dậy, xương kêu lục cục. Đáng sợ thật. Cô đau nhức khắp người.

- Trước đây, mình chưa bao giờ nhận ra người già phải chịu đựng những gì. - Cô thở hổn hển, khó nhọc leo tiếp. - Thế nhưng mình vẫn không nghĩ lũ sói hoang sẽ ăn thịt mình đâu. Thịt mình chắc phải khô và dai lắm. Đó dù sao cũng là niềm an ủi.

Màn đêm đang buông xuống rất nhanh và vùng đất đồi đầy thạch nam nhuốm một màu xám xanh. Gió thổi buốt lạnh hơn. Tiếng thở hổn hển cùng tiếng khớp chân lục cục vang to tướng bên tai khiến Sophie mãi mới nghe thấy tiếng ken két và phù phù hoàn toàn không phải từ người cô phát ra. Cô lờ mờ ngước lên.

Toà lâu đài của Pháp sư Howl đang nảy bần bật và chạy sầm sầm về phía cô từ phía bên kia cánh đồng hoang. Khói đen đùn ra từng đụn sau những tháp canh đen ngòm. Toà lâu đài cao, mảnh, nặng, xấu xí, và quả thật đầy sát khí. Sophie tì lên cây gậy và quan sát. Cô không thấy sợ lắm. Cô lấy làm lạ không hiểu làm thế nào nó lại di chuyển được. Nhưng điều cô đang nghĩ nhiều đến lúc này là những đụn khói đen kia có nghĩa là nhất định sẽ có một cái lò sưởi rất lớn đâu đó bên trong những bức tường đen thui cao ngất này.

- Được lắm, sao lại không kia chứ? - Cô nói với cây gậy. - Chắc hẳn Pháp sư Howl sẽ không cần đến linh hồn của ta cho bộ sưu tập của ông ta làm gì. Ông ta chỉ hút linh hồn các cô gái trẻ.

Cô giơ gậy và hống hách vẫy về phía lâu đài:

- Dừng lại! - Cô hét lên.

Toàn lâu đài phát ra tiếng trèo trẹo và sầm sầm rồi ngoan ngoãn dừng lại trên sườn đồi, cách cô khoảng năm mươi feet. Sophie cảm thấy vô cùng hài lòng, tập tễnh lê bước về phía đó.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2014 22:13:46 | Xem tất
CHƯƠNG 3

Sophie bước vào lâu đài cùng một cuộc mặc cả


~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Sophie tiến thẳng về phía cái cửa lớn đen ngòm trên bức tường đen sì đối diện với mình, cố tập tễnh bước thật nhanh. Đến gần, toà lâu đài trông đáng sợ hơn bao giờ hết. Nó quá cao so với chiều cao của chính nó và có hình thù kì dị. Tất cả những gì Sophie có thể nhìn thấy trong bóng tối mỗi lúc một quánh đặc cho thấy nó được xây cất bởi những khối khổng lồ màu đen, trông như than đá, và cũng giống như than đá, những khối đá này gồm đủ mọi loại hình dáng và kích cỡ khác nhau. Chúng phả hơi ớn lạnh khi cô đến gần, nhưng chẳng hề mảy may làm Sophie sợ hãi. Cô chỉ nghĩ đến những cái ghế và chỗ ngồi gần lò sưởi, và nôn nóng giơ tay về phía cánh cửa.

Tay cô không thể nài với tới gần cánh cửa. Một bức tường vô hình chặn nó lại cách cánh cửa khoảng một foot. Sophie đưa một ngón tay cáu kỉnh chọc chọc vào nó. Khi thấy không ăn thua cô bèn lấy gậy chọc. Bức tường vô hình dường như trùm khắp cánh cửa, cao đến hết tầm với của cây gậy và mọc thẳng lên từ mảnh đất hoang đầy thạch nam đâm ngang dưới chân cánh cửa.

- Mở ra! - Sophie lục khục nói.

Điều đó chẳng hề làm bức tường nhúc nhích.

- Được lắm. - Sophie nói. - Ta sẽ đi tìm cửa sau.

Cô tập tễnh vòng qua bức tường bên trái toà lâu đài, chỗ vừa gần nhất vừa hơi nằm về phía chân đồi. Nhưng cô cũng không thể vòng qua nó được. Bức tường vô hình chặn cô lại ngay khi cô vừa đi ngang tầm những viên đá đen dị thường ở góc tường. Thấy vậy Sophie bèn nói ra một từ học được của Martha mà ngay đến các bà già và các cô gái trẻ đều không nên biết, rồi lượn lại lên sườn đồi và đi ngược chiều kim đồng hồ sang góc tường bên phải. Ở đây không có vật chắn. Cô đi vòng qua đó và hăm hở tập tễnh bước về phía cánh cửa lớn và đen thứ hai ở giữa mặt này của lâu đài.

Lại có vật cản trùm khắp cánh cửa.

Sophie quắc mắt nhìn:

- Ta gọi thế này là rất không hiếu khách đấy. - Cô nói.

Khói đen từ mấy tháp canh phả xuống thành từng đám. Sophie ho. Cô đã bắt đầu phát cáu. Cô già nua, gầy guộc, lạnh buốt và đau nhức khắp người. Đêm đã xuống và toà lâu đài thì cứ đứng trơ ở đó mà phả khói vào cô.

- Mình sẽ nói với lão Howl về chuyện này! - Cô nói và giận dữ đi sang góc tiếp theo. Ở đây không có gì chắn cả - rõ ràng bạn phải đi vòng quanh lâu đài ngược chiều kim đồng hồ - nhưng ở đó, hơi chệch một chút sang bức tường tiếp theo, lại có cánh cửa thứ ba. Cánh cửa này nhỏ hơn và xoàng xĩnh hơn nhiều.

- Rốt cuộc đây là cửa sau! - Sophie nói.

Toà lâu đài lại bắt đầu chuyển động sau khi Sophie đến gần cánh cửa. Mặt đất rung lên. Bức tường rùng mình và kêu cót két, và cánh cửa bắt đầu di chuyển sang bên xa khỏi Sophie.

- Ôi, không, mày đừng thế! - Sophie hét lên. Cô chạy đuổi theo cánh cửa và vung gậy quật dữ dội. - Mở ra! - Cô gào lên.

Cánh cửa bật mở toang về phía trong, nhưng vẫn tiếp tục chuyển động sang bên. Sophie, cuống cuồng tập tễnh, cuối cùng cũng đặt được một chân lên bậu cửa. Rồi cô nhảy lên và bò toài và lại nhảy lên, trong khi những khối đá đen ngòm quanh cánh cửa xóc nảy lên và nghiến trèo trẹo khi toà lâu đài tăng tốc chạy trên sườn đồi mấp mô. Sophie không ngạc nhiên khi thấy toà lâu đài nghiêng hẳn đi. Điều kì diệu là nó không bị đổ tan ngay tại chỗ.

- Thật là một cách cư xử quá ngu ngốc đối với một toà nhà! - Cô vửa thở hổn hển vừa lao mình vào trong. Cô buộc phải thả cây gậy ra và bíu vào cánh cửa mở để không bị bật thẳng lại ra ngoài.

Khi bắt đầu lấy lại được hơi, cô nhận ra có ai đó đang đứng trước mặt mình, tay cũng giữ cánh cửa. Cậu ta chỉ cao hơn Sophie một cái đầu, nhưng cô thấy rõ cậu ta chỉ là một đứa trẻ, lớn hơn Martha một chút. Và có vẻ như cậu ta đang cố đóng sập cửa lại trước mặt cô và đẩy cô trở lại đêm tối, ra khỏi căn phòng ấm áp, với ánh đèn chiếu thấp bên trong.

- Chẳng lẽ cậu lại vô liêm sỉ đến mức đóng sập cửa vào mặt ta thế à, cậu bé?

- Cháu không định làm thế, nhưng bà cứ giữ cửa mở toang thế kia. - Cậu ta chống chế - Bà muốn gì?

Sophie nhìn quanh những thứ có thể thấy phía sau chàng trai. Có rất nhiều thứ có thể là đồ phù thuỷ treo lủng lẳng trên xà nhà: những dây hành, các bó cỏ và nhiều bó rễ cây lạ. Có cả những thứ khác chắc chắn là đồ phù thuỷ: những cuốn sách bìa da, đám chai khòng khoèo, và một cái đầu lâu cũ kĩ, nâu nâu, cười nhăn nhở. Phía bên kia chàng trai là một chiếc lò sưởi với ngọn lửa nhỏ đang cháy trong ghi lò. Ngọn lửa này nhỏ hơn nhiều so với cái mà những đụn khói bên ngoài khiến người ta nghĩ đến, vậy thì đây rõ ràng chỉ là căn phòng hậu trong lâu đài. Nhưng với Sophie thì điều quan trọng hơn nhiều là ngọn lửa này đang cháy hồng lên với những khúc củi, và ở cạnh đó, chỗ ấm áp nhất, có một chiếc ghế thấp trải nệm.

Sophie đẩy chàng trai sang bên và lao bổ nhào về phía chiếc ghế.

- A! Vận may của ta! - Cô nói và ngồi lại cho thoải mái. Quả là một diễm phúc. Lửa sưởi ấm cơ thể đau nhức của cô và chiếc ghế đỡ lưng cô, và cô biết nếu có kẻ nào muốn đẩy cô ra ngoài bây giờ thì nhất định kẻ đó sẽ phải vận đến thứ pháp thuật tuyệt đỉnh nhất và dữ dội lắm.

Chàng trai đóng cửa. Rồi cậu ta nhặt chiếc gậy của Sophie lên và lịch sự dựng nó cạnh ghế cho cô. Sophie nhận ra không có dấu hiệu nào cho thấy toà lâu đài đang chạy qua sườn đồi: thậm chí còn không có lấy nổi một tiếng ầm hay một cái lắc dù là nhẹ nhất. Lạ thật!

- Bảo với Pháp sư Howl là nếu cứ chạy tiếp thì toà lâu đài này sẽ bung ra quanh mũi ông ta đấy. - Cô nói với chàng trai.

- Nhưng toà lâu đài đã được yểm bùa để liên kết chắc với nhau rồi. - Chàng trai nói. - Và cháu rất tiếc là lúc này Pháp sư Howl không có ở đây.

Đây là một tin vui với Sophie:

- Bao giờ ông ta mới về? - Cô hồi hộp hỏi.

- Có lẽ phải đến mai. - Chàng trai nói. - Bà cần gì? Cháu có thể giúp bà thay ông ấy được không? Cháu là Michael, người học việc của Pháp sư Howl.

Đây là một tin tốt lành hơn bao giờ hết.

- Ta sợ chỉ Pháp sư mới giúp được ta thôi. - Sophie nói, vội vàng và quả quyết. Nhưng có lẽ cũng đúng như vậy. - Ta sẽ chờ, nếu cậu không phiền lòng.

Rõ ràng là Michael có phiền lòng. Cậu ta loanh quanh cạnh Sophie vẻ hơi bất lực. Sophie nhắm mắt, giả vờ chìm vào giấc ngủ, cho cậu ta thấy rõ ràng rằng cô không hề có ý định để một thằng bé học nghề đuổi ra ngoài.

- Bảo ông ấy tên ta là Sophie. - Cô lẩm bẩm. - Cụ Sophie. - Cô nói thêm cho chắc.

- Như vậy có thể bà sẽ phải chờ cả đêm mất. - Michael nói. Vì đây là chính xác điều Sophie muốn nên cô giả vờ như không nghe thấy. Thực ra, cô hầu như đã bắt đầu lơ mơ thiếp đi rất nhanh. Sau chừng ấy quãng đường, cô đã quá mệt mỏi. Một lúc sau, Michael đành chịu thua và quay lại làm tiếp công việc đang dang dở trên chiếc bàn thợ chỗ đặt cây đèn.

Vậy là mình đã có chỗ nghỉ cho cả một đêm, cho dù phải giả vờ một chút, Sophie lơ mơ nghĩ. Howl là một kẻ độc ác như vậy, có lẽ lão cũng đáng bị lợi dụng lắm chứ. Nhưng cô có ý định sẽ cao chạy xa bay trước khi Howl trở về và lên tiếng phản đối.

Cô đưa đôi mắt ngái ngủ lén nhìn chàng trai học nghề. Hơi ngạc nhiên khi thấy đó là một chàng trai tử tế và lịch sự. Rốt cuộc, cô đã đột nhập vào đây một cách thô lỗ và Michael không hề phàn nàn chút nào. Có lẽ, Howl chỉ coi cậu ta như nô lệ hèn mọn. Nhưng Michael trông không giống nô lệ. Cậu ta cao, ngăm đen với vẻ mặt vui tươi, cởi mở và ăn mặc có vẻ rất đáng trọng. Thực tế, nếu lúc đó Sophie không nhìn thấy cậu ta đang thận trọng rót thứ chất lỏng màu xanh lá cây từ một cái chai cong queo vào thứ bột màu đen đựng trong một chiếc bình thuỷ tinh khòng khoèo, thì cô sẽ nghĩ đó là con trai của một nông dân giàu có. Lạ thật!

Tuy nhiên, mọi sự thế nào cũng luôn kì quặc một khi dính đến các pháp sư, Sophie nghĩ. Và căn bếp này, hay phòng làm việc này, lại rất ấm cúng, đẹp đẽ và rất thanh bình. Sophie hoàn toàn chìm vào giấc ngủ say và ngáy khò khò. Cô không hề tỉnh giấc khi từ phía bàn thợ loé sáng và một tiếng nổ bị nghẹt lại vang lên, sau đó là tiếng chửi thề vội bị bặm môi bịt lại của Michael. Cô cũng không hề tỉnh giấc khi Michael vừa mút những ngón tay bỏng lửa vừa gạt món bùa sang bên để nghỉ đêm và mở kho lấy bánh mì và phó mát. Cô không trở mình khi Michael hất rơi cây gậy của cô cạch một tiếng và với qua người cô để lấy củi chất thêm vào lò sưởi, hoặc khi Michael nhìn vào cái miệng há hốc của cô, nói với cái lò sưởi:

- Bà ta vẫn còn nguyên răng. Bà ta không phải Phù thuỷ xứ Waste chứ hả?

- Nếu bà ta là Phù thuỷ xứ Waste thì ta đã không cho bà ta vào. - Chiếc lò sưởi vặc lại.

Michael nhún vai và lịch sự nhặt cây gậy của Sophie lên. Rồi cậu ta bỏ một khúc củi vào lò với vẻ lịch sự không kém và đi ngủ đâu đó phía bên trên.

Đến nửa đêm, tiếng ai đó ngáy khiến Sophie tỉnh giấc. Cô ngồi phắt dậy, hơi cáu kỉnh khi phát hiện ra chính mình là kẻ đang ngáy. Dường như cô mới chỉ ngủ thiếp đi vài giây, nhưng có vẻ như Michael đã biến mất trong vài giây đấy, đem theo cả đèn. Hiển nhiên là ngay từ tuần đầu tiên bọn phù thuỷ học việc đã học được những trò như vậy. Và cậu ta để lủa lò sưởi rất nhỏ. Ngọn lửa cứ réo ù ù và nhảy múa rất khó chịu. Gió lò ớn lạnh thổi dọc sống lưng Sophie. Cô nhớ lại mình đang ở trong lâu đài của một pháp sư, và với cảm giác khó chịu, cô nhớ ra có một cái đầu lâu người trên chiếc bàn thợ đâu đó phía sau mình.

Cô rùng mình và nghển cái cổ già nua cứng ngắc nhìn quanh, nhưng chỉ thấy bóng tối sau lưng mình.

- Chúng ta cần thêm một chút ánh sáng chứ hả? - Cô nói. Cái giong run run của cô dường như không to hơn tiếng lách tách của ngọn lửa. Sophie ngạc nhiên. Cô cứ ngỡ tiếng mình sẽ vang lên tận nóc vòm của lâu đài và vọng lại. Tuy vậy, cạnh cô có một giỏ củi. Cô đưa cánh tay cọt kẹt xương đẩy một khúc củi vào lò, nó hắt ra những tia lửa xanh bay thẳng lên ống khói. Cô lại đẩy khúc củi thứ hai và ngồi xuống, không quên lo lắng nhìn lại phía sau nơi ánh sáng xanh tím từ lò sưởi nhảy múa bên trên khung xương nâu nâu bóng lộn của cái đầu lâu. Căn phòng rất nhỏ. Chẳng có ai trong phòng ngoài Sophie và cái đầu lâu.

- Cậu ta đã đặt cả hai chân xuống mồ rồi, còn ta thì mới có một. - Cô tự an ủi mình. Cô quay về phía lò sưởi, lúc này đang cháy bùng thành những ngọn lửa xanh lét. - Chắc trong củi này phải tẩm muối. - Sophie lầm bầm. Cô ngồi lại cho thoải mái hơn, đặt hai bàn chân xương xẩu lên thanh chắn lò sưởi và ngả đầu vào một góc ghế, ngồi thế cô có thể nhìn thẳng vào ngọn lửa đầy màu sắc và bắt đầu suy tính đến việc sáng mai cần phải làm gì. Nhưng cô hơi bị chệch hướng một chút khi hình dung ra một khuôn mặt trong ngọn lửa.

- Đó sẽ là một khuôn mặt mỏng quẹt màu xanh lơ, - Cô lẩm bẩm. - rất dài và mỏng, với cái mũi mỏng màu xanh lơ. Nhưng những ngọn lửa màu xanh lá cây cong xòe trên cũng kia nhất định sẽ là tóc. Giả sử mình cứ ở đây cho đến khi Howl về thì sao nhỉ? Các pháp sư có thể giải bùa, mình cho là thế. Và những ngọn lửa màu tía ở dưới thấp đó làm thành cái miệng - anh bạn, anh có hàm răng dữ quá đấy. Hai búi lửa xanh lá cây kia làm thành đôi lông mày...

Rất lạ, hai ngọn lửa màu cam duy nhất trong lò sưởi nằm dưới hai búi lông mày xanh lá cây kia trông giống hệt hai con mắt, và ở giữa mỗi bên là một chấm nhỏ màu tía lấp lánh khiến Sophie có thể hình dung khá rõ nó đang nhìn cô, giống như hai con ngươi.

- Mặt khác, - Sophie nghĩ tiếp và nhìn vào hai ngọn lửa màu cam. - nếu lá bùa được giải, tim mình sẽ bị lão ăn ngày trước khi mình kịp quay đi.

- Cô không muốn bị ăn tim à? - Cái lò sưởi hỏi.

Nhất định là cái lò sưởi đó vừa nói. Sophie nhìn thấy cái miệng màu tía của nó mấp máy theo từng lời thốt ra. Giọng nó cũng run run như giọng cô, đầy tiếng phì phì và rên rỉ của củi cháy.

- Đương nhiên là không. - Sophie đáp. - Mi là cái gì vậy?

- Một con quỷ lò sưởi. - Cái miệng đỏ tía đáp. Tiếng rên rỉ nhiều hơn tiếng phì phì khi nó nói vậy. - Tôi bị gắn chặt vào lòng lò sưởi này vì một giao kèo. Tôi không thể thoát khỏi chỗ này được. - Rồi giọng nó trở nên nhanh và run rẩy hơn. - Còn cô là gì? - Nó hỏi. - Tôi thấy rõ là cô đang bị yểm bùa.

Câu nói đó thức tỉnh hẳn Sophie khỏi trạng thái mơ màng:

- Mi nhìn thấy! - Cô kêu lên. - Mi có thể giải lá bùa đó không?

Một quãng im lặng cuồn cuộn, dữ dội trong khi đôi mắt màu cam trên khuôn mặt xanh lơ rập rờn của con quỷ đảo nhìn Sophie từ đầu đến chân:

- Lá bùa rất mạnh. - Cuối cùng nó nói. - Có vẻ giống như lá bùa mụ Phù thủy xứ Waste đã yểm vào tôi.

- Đúng vậy. - Sophie nói.

- Nhưng hình như còn hơn thế nữa cơ. - Con quỷ nổ lách tách. - Tôi thấy có hai lớp. Và dĩ nhiên cô không thể nào nói với ai về nó, trừ khi họ đã biết trước. - Nó chằm chằm nhìn Sophie một hồi lâu. - Tôi phải xem xét đã. - Nó nói.

- Xem xét trong bao lâu? - Sophie hỏi.

- Có thể khá lâu. - Con quỷ nói. Và nó bổ sung bằng nột ánh lửa bập bùng mềm mại đầy vẻ thuyết phục. - Cô sẽ thỏa thuận với tôi chứ? Tôi sẽ hóa giải lá bùa đó cho cô nếu cô đồng ý phá cái giao kèo đang ràng buộc tôi.

Sophie cảnh giác nhìn bộ mặt xanh lơ mỏng quẹt của con quỷ. Bộ mặt có vẻ đặc biệt xảo quyệt khi đưa ra đề nghị đó. Tất cả những gì cô từng đọc đều cho thấy mối nguy hiểm cực độ khi giao kèo với một con quỷ. Và chắc chắn con quỷ này thực sự vô cùng độc ác. Những cái răng dài đỏ tía kia.

- Mi có chắc mi hoàn toàn thành thực không? - Cô hỏi.

- Không hoàn toàn đâu. - Con quỷ thừa nhận. - Nhưng cô có muốn cứ như thế cho đến chết không? Nếu tôi hiểu biết một chút về những chuyện này thì chắc chắn lá bùa đó sẽ rút ngắn cuộc đời cô đi khoảng sáu mươi năm.

Đó là một ý nghĩ độc ác, và là điều Sophie vẫn cố không nghĩ tới đến tận lúc này. Nó khiến mọi chuyện khác hẳn đi.

- Cái giao kèo đang ràng buộc mi là giao kèo với Pháp sư Howl phải không? - Cô hỏi.

- Dĩ nhiên là thế. - Con quỷ nói. Giọng nó lại hơi rên rỉ. - Tôi bị buộc chặt trong lò sưởi này và không thể xê dịch được đi đầu xa hơn một foot. Tôi buộc phải làm đủ mọi loại Pháp thuật quanh đây. Tôi phải duy trì tòa lâu đài và giữ cho nó luôn chuyển động và tạo ra các hiệu ứng đặc biệt làm dân chúng khiếp sợ mà tránh xa, cũng như phải làm bất cứ điều gì mà Howl muốn. Howl rất nhẫn tâm, cô biết đấy.

Sophie chẳng cần phải nói rằng Howl nhẫn tâm. Mặt khác, con quỷ này có lẽ cũng độc ác chẳng kém.

- Thế mi không nhận được chút gì từ giao kèo này à? - cô nói.

- Nếu không được gì thì tôi đã không bao giờ vướng vào cái giao kèo này. - Con quỷ nói và bập bùng buồn bã. - Nhưng nếu biết mọi chuyện sẽ ra sao thì tôi đã không dây vào cái giao kèo này làm gì. Tôi đang bị bóc lột.

Dù cảnh giác, Sophie vẫn cảm thấy thương cảm với con quỷ. Cô nghĩ đến cảnh chính mình ngồi làm mũ cho Fanny trong khi Fanny rong chơi.

- Thôi được. - Cô nói. - Điều kiện của giao kèo đó là gì? Làm sao ta phá được nó?

Một nụ cười đỏ tía hăm hở toét ra trên khuôn mặt xanh lơ của con quỷ.

- Cô đồng ý mặc cả chứ?

- Nếu mi đồng ý giải bùa cho ta. - Sophie nói, với sự can đảm để nói ra một điều cốt tử.

- Xong! - Con quỷ kêu lên, khuôn mặt dài thượt của nó vui sướng chồm lên cao đến tận ống khói. - Tôi sẽ giải bùa cho cô ngay khi cô phá được giao kèo cho tôi!

- Vậy thì hãy nói cho ta biết cách phá giao kèo đó. - Sophie nói.

Đôi mắt màu cam ánh lên nhìn cô, rồi nhìn đi chỗ khác:

- Tôi không thể. Một phần của giao kèo là cả Pháp sư và tôi đều không thể nói được điều khoản chính là gì.

Sophie thấy mình bị lừa. Cô há miệng định nói cho con quỷ lò sưởi biết rằng nếu thế thì nó cứ việc ngồi trong cái lò sưởi cho đến ngày tận thế.

Con quỷ nhận ra cô định làm gì:

- Đừng hấp tấp thế! - Nó nổ lách tách. - Cô có thể tìm ra điều khoản đó là gì nếu chịu khó quan sát và lắng nghe kĩ. Tôi cầu xin cô hãy thử xem. Về lâu dài mà nói thì cái giao kèo này chẳng đem lại điều gì tốt đẹp cho cả hai chúng tôi. Và tôi rất giữ lời. Thực tế là việc tôi chịu chết kẹt ở đây chứng tỏ rằng tôi biết giữ lời!

Con quỷ đang nghiêm túc, nhảy qua nhảy lại trên các khúc củi vẻ kích động. Sophie lại cảm thấy vô cùng thương cảm:

- Nhưng nếu ta phải quan sát và lắng nghe thì có nghĩa là ta phải ở lại lâu đài này của lão Howl! - Cô phản đối.

- Chỉ khoảng một tháng thôi. Hãy nhớ, tôi cũng còn phải xem xét lá bùa ếm lên cô nữa. - Con quỷ khẩn khoản.

- Nhưng ta có thể đưa ra lí do nào hợp lí để ở lại đây? - Sophie hỏi.

- Chúng ta sẽ nghĩ ra một cái cớ. Howl hầu như vô tích sự trong mọi việc. - Con quỷ nói, rít lên hiểm độc. - Thực ra đến quá nửa thời gian anh ta chỉ nghĩ đến mình nên chẳng thể nhìn thấy gì xa hơn cái mũi của chính mình. Chúng ta có thể lừa anh ta, chỉ cần cô đồng ý ở lại.

- Được lắm. - Sophie nói. - Ta sẽ ở lại. Giờ thì hãy tìm một cái cớ đi.

Cô ngồi lại thoải mái trên ghế trong khi con quỷ suy nghĩ. Nó nghĩ to thành tiếng, vừa lách tách vừa rì rầm bập bùng khiến Sophie thoáng nhớ đến cái cách cô vẫn nói chuyện với cây gậy trên đường tới đây, và nó vừa cháy bùng vừa ngẫm nghĩ với tiếng lửa reo vui phần phật khiến cô lại mơ màng ngủ thiếp đi. Cô nghĩ con quỷ đã đưa ra vài lời gợi ý. Cô nhớ mình đã lắc đầu trước ý tưởng sẽ phải đóng giả làm bà cô già đã chết từ lâu của Howl hay trước một hai ý tưởng thậm chí còn viển vông hơn nữa, nhưng cô thực sự không nhớ được gì rõ ràng cho lắm. Cuối cùng con quỷ bắt đầu hát một bài ca dịu dàng, bập bùng. Nó hát bằng một thứ tiếng Sophie không hiểu - hoặc cô nghĩ là mình không hiểu cho đến khi cô nghe rõ ràng từ “cái chảo” một vài lần - và bài hát nghe rất du dương. Sophie chìm sâu vào giấc ngủ, chỉ hơi ngờ ngợ rằng mình đang bị bỏ bùa mê, cũng như đang bị lừa, nhưng điều đó cũng không khiến cô bận tâm lắm. Chẳng bao lâu nữa cô sẽ được giải thoát khỏi lá bùa...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2014 22:32:52 | Xem tất
CHƯƠNG 4

Những chuyện lạ



**********************************************************

Khi Sophie tỉnh dậy, ánh sáng của một ngày mới đang tràn ngập khắp người cô. Thoạt tiên, cô nhớ trong lâu đài không có cái cửa sổ nào nên cô nghĩ rằng mình đã ngủ thiếp đi khi đang trang trí mũ và mơ thấy mình bỏ nhà ra đi. Đống lửa trước mặt đã tàn thành một đám than hồng và tro trắng, khiến cô tin chắc mình đã mơ thấy con quỷ lò sưởi. Nhưng những cử động đầu tiên cho cô biết không phải mọi chuyện đều là giấc mơ. Tiếng xương kêu răng rắc giòn giã khắp người.

- Ái chà! - Sophie kêu lên. - Mình đau khắp mình mẩy! - Giọng cô kêu lên yếu ớt, khào khào. Cô đưa đôi tay xương xẩu lên sờ các nếp nhăn. Lúc đó, cô mới nhận thấy mình đã trong trạng thái choáng váng suốt cả ngày hôm qua. Cô thực sự vô cùng tức giận mụ Phù thủy xứ Waste vì đã khiến cô trở nên như vậy, một nỗi tức giận to lớn, sừng sững:

- Ưỡn ẹo đi vào cửa hiệu rồi biến người ta thành già khọm! - Cô kêu lên. - Ôi, có cái gì mà mình không dám làm với mụ ta kia chứ!

Cơn tức giận khiến cô bật dậy với một loạt những tiếng cọt kẹt, rồi cô tập tễnh đi tới khuôn cửa sổ bất ngờ kia. Nó nằm bên trên chiếc bàn thợ. Trước nỗi kinh ngạc tột cùng của cô, khuôn cửa sổ nhìn xuống quang cảnh một thành phố cảng biển. Cô có thể trông thấy cả con phố dốc đứng, không có vỉa hè, hai bên là hai dãy nhà nhỏ tí trông có vẻ rất nghèo khổ, bên kia những mái nhà là những cột buồm dựng lên tua tủa. Sophie thấp thoáng thấy biển phía xa những cột buồm, từ bé đến giờ cô chưa từng được nhìn thấy biển.

- Ta đang ở đâu vậy? - Sophie hỏi chiếc đầu lâu trên bàn thợ. - Ta không hy vọng anh sẽ trả lời câu hỏi của ta đâu, anh bạn. - Cô vội vã nói thêm và nhớ ra đây là lâu đài của một pháp sư, rồi quay lại nhìn căn phòng. Đó là một căn phòng rất nhỏ, với những thanh rầm đen bóng nặng nề trên trần. Dưới ánh sáng ban ngày trông căn phòng bẩn thỉu đến kinh ngạc. Những viên đá lát sàn dính đầy vết bẩn và nhờn mỡ, tro dồn thành đống bên trong thanh chắn lò sưởi, và mạng nhện lòng thòng bụi rủ xuống từ các thanh rầm. Chiếc đầu lâu cũng bị bụi phủ kín. Sophie lơ đãng phủi bụi khi đi tới để nhòm vào chiếc chậu rửa cạnh bàn thợ. Cô rùng mình trước đám nhớt hồng hồng xam xám trong chậu cùng thứ chất lỏng trắng phếu nhểu xuống từ chiếc bơm bên trên. Rõ ràng lão Howl chẳng thèm bận tâm tôi tớ của mình sống bẩn thỉu dơ dáy thế nào.

Phần còn lại của tòa lâu đài hẳn là nằm phía bên kia của một trong bốn cái cửa đen thấp xung quanh phòng. Sophie mở cánh cửa gần nhất, trên bức tường cuối phòng phía bên kia bàn thợ. Phía sau cánh cửa là một phòng tắm rộng. Về nhiều mặt, đó là một phòng tắm người ta thường chỉ có thể thấy trong các cung điện, với những thiết bị sang trọng như một toa lét, một vòi hoa sen, một bồn tắm rộng mênh mông với mấy cái chân cong cong và những chiếc gương gắn trên mọi bức tường. Nhưng trong phòng tắm thậm chí còn bẩn hơn cả căn phòng trước. Sophie nhăn mặt vì cái toa lét, ngần ngại trước màu của bồn tắm, co rúm trước đám rêu xanh mọc trên vòi sen, và thật dễ dàng tránh nhìn bộ dạng nhăn nhúm của mình trong gương vì mặt kính phủ lấm tấm những chấm và vệt của những chất không tên. Bản thân những chất không tên đó đầy nhóc trên một cái giá rất lớn bên trên bồn tắm. Chúng được đựng trong các hũ, hộp, ống, và trong hàng trăm túi giấy và gói nâu nâu rách rưới. Cái hũ to nhất có tên. Nó được gọi là BỘ KHÔ và được viết bằng những chữ cái vặn vẹo. Sophie không dám chắc có cần phải có chữ T ở đó hay không. Cô nhặt bừa một cái gói lên. Trên gói viết nguệch ngoạc chữ DA, cô vội đặt xuống. Một cái hũ khác có chữ MẮT, vẫn nét chữ nguệch ngoạc đó. Một cái ống thì ghi ĐỂ LÀM THỐI RỮA.

“Có vẻ như cũng để làm việc” - Sophie lẩm bẩm, rùng mình nhìn vào bồn rửa. Cô vặn cái núm xám xám có lẽ bằng đồng, nước chảy vào bồn và rửa trôi bớt những vật thối rữa. Sophie lấy nước rửa tay và mặt, không để chạm vào bồn, nhưng cô không đủ can đảm dùng BỘ KHÔ. Cô lấy vạt áo lau khô tay và mặt rồi đi tới cánh cửa đen thứ hai.

Cánh cửa này dẫn lên một dãy cầu thang gỗ ọp ẹp. Sophie nghe thấy tiếng ai đó phía trên nên vội vã đóng cửa lại. Dù sao thì cái cầu thang đó có lẽ cũng chỉ dẫn lên một cái gác xép là cùng. Sophie tập tễnh đi tới cánh cửa thứ ba. Lúc này cô đã đi lại dễ dàng hẳn. Cô là một bà cụ khỏe mạnh như điều cô đã phát hiện ra từ hôm qua.

Cánh cửa thứ ba mở ra một cái sân sau hẹp bao quanh bởi mấy bức tường gạch cao. Trong sân có một đống củi lớn, và mấy đống các thứ lôm nhôm gồm những mẩu sắt, mấy cái bánh xe, mấy cái xô, lá kim loại, tất cả chất thành đống cao gần ngang bức tường bao. Sophie đóng nốt cánh cửa này lại, thoáng bối rối bởi khoảnh sân chẳng có vẻ gì là một phần của lâu đài. Chẳng có tòa lâu đài nào hiện ra phía sau bức tường gạch. Chỉ là khoảng không. Sophie chỉ có thể nghĩ rằng phần sân này vòng quanh cái góc mà bức tường vô hình đã chặn bước cô đêm qua.

Cô mở cánh cửa thứ tư và đó chỉ là một cái kho để chổi, bên trong có hai chiếc áo choàng nhung khá đẹp nhưng rất bụi bặm khoác trên hai cái chổi. Sophie đóng nốt cánh cửa này, khá chậm rãi. Chỉ còn lại cánh cửa trên bức tường có khuôn cửa sổ, và đêm qua cô đã cố leo vào lâu đài qua chính cánh cửa này. Cô tập tễnh đi tới và thận trọng mở cánh cửa đó ra.

Cô đứng đó một lúc, nhìn quang cảnh sườn đồi đang chuyển động chậm chạp, nhìn cánh đồng thạch nam lướt qua dưới khuôn cửa và cảm thấy gió lùa vào mái tóc lòa xòa, lắng nghe tiếng sầm sầm và ken két của những tảng đá đen to nghiến vào nhau trong khi tòa lâu đài chuyển động. Rồi cô đóng cửa và đi tới cửa sổ. Lại là cảnh thành phố cảng biển. Đó không phải là một bức tranh. Một người đàn bà đã mở cánh cửa đối diện và đang quét bụi ra đường. Phía sau căn nhà đó là một cánh buồm xám bằng vải bạt đang được kéo lên cột buồm trong những cú giật mạnh thình lình, làm xao động một đàn hải âu khiến chúng bay lượn vòng trên mặt biển lấp lánh.

- Ta không hiểu. - Sophie nói với cái đầu lâu. Rồi, khi thấy đống lửa gần như đã tắt hẳn, cô đi tới bỏ thêm hai khúc củi vào và gạt bớt tro đi.

Những lưỡi lửa xanh lá cây bò lan giữa hai khúc củi, nhỏ và cong queo rồi phụt lên thành khuôn mặt xanh lơ dài thườn thượt với mái tóc xanh lá cây cháy rực.

- Xin chào. - Con quỷ lò sưởi nói. - Đừng quên thỏa thuận giữa hai ta nhé.

Hóa ra chẳng có gì là mơ cả. Sophie thường không hay khóc, nhưng cô ngồi lặng trên ghế hồi lâu và chằm chằm nhìn con quỷ lò sưởi lờ mờ, trườn trượt, và không để ý đến những tiếng động khi Michael đến gần, mãi đến khi cô nhận ra cậu ta đang đứng cạnh mình, trông bối rối và hơi bực tức.

- Bà vẫn còn ở đây. - Cậu ta nói. - Có chuyện gì không?

- Ta già rồi. - Cô sụt sịt.

Nhưng quả đúng như mụ Phù thủy từng nói và con quỷ lò sưởi đã đoán trước. Michael hồ hởi nói:

- Ồ, chúng ta rồi ai cũng thế cả thôi. Bà có muốn ăn chút điểm tâm không ạ?

Sophie phát hiện ra quả thực mình là một bà lão rất tráng kiện. Cả ngày hôm qua cô chỉ ăn mỗi bánh mì phó mát vào bữa trưa, cô đói cồn cào.

- Có! - Cô nói và khi Michael đi tới chiếc chạn chìm trong tường, cô vọt tới và nhòm qua vai cậu ta để xem có gì ăn.

- Cháu e là chỉ có mỗi bánh mì và phó mát thôi. - Michael nói, vẻ kém thân thiện.

- Nhưng có cả một giỏ trứng kia kìa! - Sophie nói. - Và kia không phải là thịt ba chỉ xông khói à? Một thứ đồ uống gì nóng nóng thì sao? Ấm đun nước của cậu đâu?

- Chẳng có cái nào cả. - Michael nói. - Howl là người duy nhất có thể nấu nướng được.

- Ta nấu được - Sophie nói. - lấy cái chảo rán kia xuống, ta sẽ chỉ cho cậu.

Cô với tay lấy cái chảo lớn màu đen treo trên chạn, mặc kệ Michael đang ra sức ngăn cô lại.

- Bà không hiểu. - Michael nói. - Đó là vì Calcifer, con quỷ lò sưởi. Trừ Howl ra, nó không chịu cúi đầu xuống cho bất cứ ai nấu nướng.

Sophie quay lại và nhìn con quỷ lò sưởi. Nó bập bùng đáp lại vẻ ranh mãnh.

- Tôi không chịu để bị bóc lột đâu. - Nó nói

- Cậu định nói là cậu sẽ cam chịu đến đồ uống nóng cũng không có nếu Howl không ở đây ư? - Sophie nói với Michael.

Michael ngượng ngùng gật đầu.

- Vậy thì chính cậu mới là kẻ đang bị bóc lột! - Sophie nói. - Đưa cái chảo đây. Cô giật mạnh cái chảo khỏi những ngón tay đang cố giằng lại của Michael, cho thịt ba chỉ xông khói vào và vục muôi gỗ vào giỏ trứng xúc một muôi đầy, rồi đem tất cả đi về phía lò sưởi.

- Nào, Calcifer, - Cô nói. - đừng có vớ vẩn nữa. Cúi đầu xuống.

- Cô không thể ép tôi! - Con quỷ lò sưởi kêu lách tách.

- Ồ, ta có thể đấy! - Sophie lách tách đáp lại, với cái vẻ sắt đá vẫn thường khiến hai cô em gái phải dừng ngay cuộc cãi cọ. - Nếu mi không cúi xuống, ta sẽ dội nước lên mi. Hoặc ta sẽ cầm gắp củi lên và gắp hết củi của mi ra. - Cô nói thêm, khi lục cục quỳ xuống trước lò sưởi. Rồi cô thì thầm. - Hoặc ta sẽ lật lại bản giao kèo, hoặc nói cho Howl biết chuyện đó, ta có thể làm vậy, đúng không?

- Ồ, mẹ kiếp! - Calcifer giận dữ. - Sao cậu lại để bà ta ở đây hả Michael?

Con quỷ sưng sỉa cúi bộ mặt xanh lơ xuống cho đến khi chỉ còn thấy một vòng lửa xanh lá cây quăn queo nhảy múa trên khúc củi.

- Cám ơn! - Sophie nói và đặt mạnh chiếc chảo nặng trịch lên vòng lửa xanh không để Calcifer đột ngột nhô lên lần nữa.

- Cầu mong món thịt xông khói của cô cháy đen. - Calcifer nói, ngọt nghẹt dưới cái chảo.

Sophie vứt từng miếng thịt xông khói vào cái chảo. Chảo rất nóng. Thịt cháy xèo xèo và cô phải lấy vạt áo quấn quanh tay mới giữ được cán chảo. Cửa mở, nhưng tiếng xèo xèo làm cô không để ý.

- Đừng có dại dột thế. - Cô nói với Calcifer - Và ngồi yên để ta đập trứng.

- Ồ, xin chào, ông Howl. - Michael nói vẻ bất lực.

Nghe thế, Sophie quay lại, hơi vội vã. Cô trố mắt nhìn. Anh chàng trẻ tuổi cao ngòng mặc bộ cánh tươi sáng màu xanh lơ và ánh bạc vừa bước vào đứng sựng lại khi dựng chiếc đàn ghi ta vào góc nhà. Anh ta vuốt mái tóc vàng hoe cho khỏi vướng đôi mắt xanh trong veo đầy tò mò và trố mắt nhìn lại Sophie. Khuôn mặt dài góc cạnh của anh ta có vẻ bối rối.

- Bà là quái ai vậy? - Howl nói. -Tôi đã gặp bà ở đâu rồi nhỉ?

- Ta là một người lạ hoàn toàn. - Sophie nói dối chắc nịch. Rốt cuộc, Howl chỉ mới gặp cô một lần trước đó, và chỉ thoáng qua đủ để gọi cô là chuột xám nên đó cũng không hẳn là một lời nói dối. Lẽ ra phải tạ ơn ngôi sao chiếu mệnh đã run rủi cho cô may mắn thoát được lần ấy, cô cho là vậy, nhưng thực ra điều cô nghĩ đến lúc này là Trời ơi! Với chừng ấy sự ác độc mà Pháp sư Howl chỉ là một thằng ranh tuổi đôi mươi! Khi người ta đã già thì quả là một sự khác biệt lớn, cô vừa nghĩ vừa lật miếng thịt rán trong chảo. Và cô thà chết còn hơn để thằng bé ăn mặc bảnh bao này biết cô chính là cô gái hắn đã thương hại trong Lễ hội Mùa Xuân. Trái tim và tâm hồn chẳng liên quan gì ở đây cả. Howl sẽ không biết cô là ai.

- Bà ta nói tên bà ta là Sophie. - Michael nói. - Bà ta đến đêm qua.

- Làm thế nào bà ta bắt Calcifer cúi xuống được? - Howl hỏi.

- Bà ta bắt nạt ta! - Từ dưới cái chảo đang kêu xèo xèo, Calcifer nói bằng giọng nghèn nghẹt khổ sở.

- Không mấy người có thể làm được điều đó. - Howl tư lự nói. Anh ta dựng cây ghi ta vào góc nhà và đi tới lò sưởi. Mùi nước hoa dạ hương lẫn với mùi thịt rán khi anh ta đẩy mạnh Sophie sang bên. - Calcifer không thích bất kì ai ngoài tôi nấu nướng trên lửa của hắn đâu. - Anh ta nói, quỳ xuống và quấn vạt áo dài thượt quanh tay để giữ cái chảo. - Vui lòng đưa cho tôi hai lát thịt xông khói và sáu quả trứng nữa, và nói cho tôi biết bà đến đây làm gì?

Sophie trố mắt nhìn đôi khuyên tai nạm đá quý màu xanh lơ lủng lẳng rủ xuống từ tai Howl và đưa anh ta từng quả trứng.

- Ta đến đây làm gì ư, anh bạn trẻ? - Cô nói. Điều này thật hiển nhiên sau những gì cô nhìn thấy ở lâu đài. - Dĩ nhiên ta đến đây vì ta là người lau dọn nhà cửa mới cho anh.

- Chính là bà ư? - Howl nói, đập trứng bằng một tay và vứt vỏ lên khúc củi. Calcifer có vẻ như sẽ ăn chúng với những tiếng làu bàu gáu gáu - Ai bảo bà là người lau dọn mới?

- Chính ta. - Sophie nói, và cô nói thêm giọng đạo đức giả. - Anh bạn trẻ, dẫu ta không thể tẩy sạch anh khỏi sự độc ác của mình thì ta cũng có thể tẩy sạch những dơ dáy khỏi nơi này.

- Howl không độc ác! - Michael nói.

- Có, ta rất độc ác. - Howl phủ nhận. - Michael, lúc này cậu chỉ tạm quên đi ta độc ác thế nào thôi. - Anh ta hất hàm với Sophie. - Bà lão tốt bụng, nếu bà nóng lòng muốn mình có ích thì hãy tìm mấy bộ dao nĩa và dọn sạch bàn thợ đi.

Dưới gầm bàn có mấy chiếc ghế đẩu cao. Michael lôi chúng ra để ngồi và gạt mọi thứ trên bàn sang một bên để lấy chỗ đặt mấy bộ dao nĩa cậu ta vừa lấy từ trong ngăn kéo ra. Sophie tới giúp cậu. Cô không hy vọng Howl sẽ chào đón mình, dĩ nhiên là vậy, nhưng cho đến giờ anh ta thậm chí vẫn chưa đồng ý cho cô ở lại sau bữa sáng. Vì Michael có vẻ không cần giúp đỡ nên Sophie lê bước đến chỗ cây gậy và chậm chạp đặt nó nằm chềnh ềnh trong kho để chổi. Khi thấy điều đó dường như không khiến Howl chú ý, cô nói:

- Nếu muốn, anh có thể để ta làm thử một tháng.

Pháp sư Howl không nói gì ngoài “Đĩa, nào, Michael!” và đứng đó bưng cái chảo nghi ngút khói. Calcifer bật dậy với một tiếng rống sảng khoái và cháy bùng lên tận ống khói.

Sophie cố gắng thêm lần nữa để ép Howl:

- Nếu được dọn rửa ở đây trong tháng tới thì ta muốn biết phần còn lại của lâu đài nằm ở đâu. - Cô nói. - Ta chỉ tìm được mỗi phòng này và phòng tắm thôi.

Trước sự ngạc nhiện của cô, cả Michael lẫn Pháp sư đều cười rộ lên.

Mãi đến khi gần xong bữa sáng, Sophie mới hiểu điều gì khiến họ cười ầm lên. Howl không chỉ rất khó ép buộc. Dường như anh ta không thích phải trả lời bất cứ câu hỏi nào. Sophie bỏ ngang không hỏi anh ta thêm nữa mà thay vào đó quay sang hỏi Michael.

- Nói cho bà ta biết. - Howl nói. - Để bà ta thôi lảm nhảm đi.

- Lâu đài này chẳng còn phần nào khác cả, - Michael nói. - ngoài những gì bà đã trông thấy và hai phòng ngủ trên gác.

- Cái gì? - Sophie kêu lên.

Howl và Michael lại phá lên cười.

- Howl và Calcifer đã sáng tạo ra tòa lâu đài này. - Michael nói. - Và calcifer giữ cho nó chuyển động. Bên trong lâu đài thật ra chỉ là ngôi nhà cũ của Howl ở Porthaven và đó là phần có thật duy nhất.

- Nhưng Porthaven ở cách đây hàng dặm tít dưới phía biển! - Sophie nói. - Ta gọi thế là quá tệ! - Các anh có chủ tâm gì khi cứ để cái lâu đài đồ sộ và xấu xí này chạy quanh đồi và làm người dân ở Chợ Chipping sợ đến chết khiếp?

Howl nhún vai:

- Một bà lão trực tính làm sao! Tôi đã đạt đến giai đoạn đó trong sự nghiệp của mình, khi mà tôi cần phải gây ấn tượng với mọi người bằng sức mạnh và sự độc ác của tôi. Tôi không thể để Đức Vua nghĩ tốt về tôi. Và năm ngoái tôi đã xúc phạm một kẻ nào đó rất có thế lực và tôi cần phải tránh xa họ.

Có vẻ như đó là một cách tránh mặt mọi người rất tức cười, nhưng Sophie ngờ rằng các Pháp sư có những chuẩn mực khác với người thường. Và chẳng bao lâu cô phát hiện tòa lâu đài có những điểm đặc biệt khác. Họ vừa ăn xong và Michael đang xếp chồng đĩa vào cái bồn rửa nhầy nhụa bên cạnh bàn thợ thì có tiếng gõ cửa to và rõ.

Calcifer sáng bừng lên:

- Mở cửa cho Kingsbury!

Howl đang đi vào buồng tắm bèn quay lại và đi ra cửa. Trên cánh cửa có một núm gỗ hình vuông, nằm chìm trong lanh tô, trên mỗi mặt núm đều có một chấm sơn. Lúc đó, ở mặt núm quay xuống dưới có chấm xanh lá cây, nhưng Howl xoay vòng cái núm cho chấm đỏ quay xuống rồi mới mở cửa.

Một người đàn ông đeo bộ tóc giả cứng đơ màu trắng và đội một chiếc mũ lớn đang đứng chờ bên ngoài. Ông ta mặc bộ đồ màu đỏ thẫm, tía và vàng, tay giơ cây quyền trượng nhỏ thắt ruy băng trang hoàng chẳng khác gì cây nêu cho trẻ con trong Lễ hội Mùa Xuân. Ông ta cúi đầu. Mùi đinh hương và hoa cam bay vào phòng.

- Đức Vua tôn kính gửi lời khen ngợi tới ngài và trả ngài tiền cho hai ngàn đôi ủng bảy lí. - Người đó nói.

Sophie thoáng thấy một cỗ xe ngựa phía sau ông ta đang đứng chờ trong một con phố với những ngôi nhà sang trọng khắc hình chạm sơn, những ngọn tháp, những mái nhà hình chóp và mái vòm phía xa, vẻ lộng lẫy mà trước đây cô không thể nào tưởng tượng nổi. Cô thấy tiếc vì người đó chỉ đứng ở cửa trong giây lát để đưa cho Howl một cái ví dài, óng mượt, kêu lanh canh, và cũng rất nhanh Howl xoay cái núm cho chấm xanh lại chỉ xuống và nhét cái ví dài vào túi. Sophie thấy mắt Michael nhìn theo chiếc ví với vẻ khẩn thiết và lo lắng.

Rồi Howl đi thẳng vào phòng tắm, gọi với ra:

- Calcifer, tôi cần nước nóng trong này.

Và biến mất trong đó một hồi lâu, rất lâu.

Sophie không nén nổi tò mò:

- Ai ở ngoài cửa đó thế? - Cô hỏi Michael. - Ta muốn hỏi là ở đâu thế?

- Cái cửa đó mở ra Kingsbury, - Michael nói. - nơi Đức Vua sống. Cháu nghĩ người đó là thư kí của quan Chưởng Ấn. Và, - Cậu ta lo lắng nói với Calcifer. - cháu thực sự ước ông ta đã không đưa cho Howl toàn bộ số tiền đó.

- Liệu Howl có để ta ở lại đây không?

- Nếu ông ấy đồng ý thì bà không bao giờ được ép buộc ông ấy. Ông ấy ghét bị ép buộc làm bất cứ điều gì.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2014 22:41:24 | Xem tất
CHƯƠNG 5

Những chuyện cọ rửa




Điều duy nhất phải làm là chứng tỏ cho Howl biết cô là một quý bà dọn dẹp tuyệt vời, là một kho báu thực sự - Sophie quyết định. Cô chít một mảnh vải cũ lên mái tóc bạc lưa thưa, xắn tay áo lên cao trên cánh tay già nua gầy guộc và lấy mảnh khăn trải bàn cũ trong kho để chổi quấn quanh người làm tạp dề. Thật khá nhẹ nhõm khi nghĩ chỉ phải quét dọn bốn phòng thay vì cả một lâu đài. Cô vớ lấy cái xô cùng chiếc chổi sể và bắt đầu làm việc.

- Bà làm cái gì thế? - Michael và Calcifer đồng thanh hét lên hãi hùng.

- Dọn dẹp. - Sophie quả quyết đáp. - Nơi này là một nỗi hổ thẹn.

- Không cần đâu. - Calcifer nói, còn Michael lẩm bẩm. - Howl sẽ đá bà ra ngoài.

Nhưng Sophie phớt lờ cả hai bọn họ. Bụi bay thành từng đám.

Giữa lúc đó, một loạt tiếng thình thịch khác vang lên ngoài cửa. Calcifer sáng bừng lên, gọi:

- Mở cửa cho Porthaven!

Rồi lão hắt hơi xèo xèo ầm ĩ khiến những tia lửa tía phụt ra qua làn mây bụi.

Michael rời khỏi bàn thợ và đi ra cửa. Sophie nhòm qua đám bụi cô vừa làm tung lên và thấy lần này Michael xoay cái núm cho mặt có chấm sơn màu xanh lơ quay xuống. Rồi cậu ta mở cánh cửa quay ra con phố mà cô đã nhìn thấy ngoài cửa sổ.

Một cô gái nhỏ đứng đó.

- Thưa ông Fisher, - Cô bé nói. - cháu đến xin lá bùa đó cho mẹ cháu.

- Bùa an toàn cho con thuyền của cha cô, đúng không? - Michael nói. - Có ngay đây.

Cậu ta quay lại chỗ chiếc bàn và đong bột từ một cái hũ để trên giá rồi đổ xuống mảnh giấy hình vuông. Trong khi đợi cậu ta, cô bé săm soi nhìn Sophie tò mò chẳng kém gì Sophie đang săm soi nhìn cô. Michael vặn mảnh giấy quanh chỗ bột vừa đong và quay ra nói:

- Bảo bà ấy rắc dọc con thuyền. Thuyền sẽ bền vững và trở về, ngay cả khi gặp bão.

Cô bé cầm gói giấy và đưa một đồng tiền.

- Ngài Phù thủy cũng có một bà phù thủy giúp việc ạ? - Cô bé hỏi.

- Không. - Michael nói.

- Tức là ta ấy hả? - Sophie hỏi to. - Ồ, đúng đấy, cháu của ta. Ta là phù thủy giỏi nhất và sạch sẽ nhất Ingary.

Michael đóng cửa, có vẻ bực dọc:

- Rồi đây, mọi chuyện sẽ ầm khắp Porthaven cho mà xem. Có thể Howl sẽ không thích đâu. - Cậu ta xoay cho núm chấm xanh lá cây hướng xuống đất.

Sophie cười khúc khích một mình một chút, hoàn toàn không tỏ vẻ ăn năn. Có lẽ cô đã để cái chổi sể cô đang quét nhét những ý nghĩ ấy vào đầu mình. Nhưng nếu mọi người nghĩ cô đang làm việc cho Howl, cũng có thể điều đó sẽ thuyết phục được Howl cho cô ở lại. Thật lạ. Nếu vẫn là một cô gái, có lẽ Sophie đã rùng mình xấu hổ vì lối cư xử của mình. Nhưng là một bà cụ, cô chẳng hề bận tâm cô đã làm gì hoặc nói gì. Cô thấy điều đó vô cùng dễ chịu.

Cô ầm ĩ đi tới trong khi Michael nâng một tảng đá gần lò sưởi lên và giấu đồng tiền của cô bé lúc nãy dưới đó.

- Cậu làm gì đấy?

- Calcifer và cháu đang để dành một số tiền. - Michael nói vẻ có lỗi. - Nếu chúng cháu không cất, Howl sẽ tiêu sạch từng xu kiếm được.

- Hoang phí vô độ! - Calcifer kêu lách tách. - Anh ta sẽ tiêu hết số tiền đó của Đức Vua nhanh hơn tôi đốt hết một khúc củi. Vô ý thức.

Sophie lấy nước trong bồn để rẩy cho đỡ bụi khiến Calcifer rụt lại xa khỏi ống khói. Rồi cô quét lại khắp lượt sàn nhà. Cô quét một lối ra tận cửa để nhìn cái núm hình vuông gắn trên đó. Mặt thứ tư, cô chưa thấy cần dùng đến, có một chấm sơn đen. Tự hỏi không biết cái đó sẽ dẫn đến đâu, Sophie bắt đầu quét vội mạng nhện khỏi xà nhà. Michael rên rỉ, và Calcifer lại hắt hơi.

Howl bước ra từ phòng tắm trong mùi nước hoa phảng phất đắm say. Trông anh ta bảnh bao đến kì diệu. Ngay cả những hình thêu và khảm ánh bạc trên bộ vest dường như cũng sáng hơn. Anh ta nhìn quanh rồi lại trở vào phòng tắm, giơ ống tay áo màu xanh lơ và bạc lên che đầu.

- Bà già, thôi đi! - Anh ta nói. - Để cho lũ nhện tội nghiệp ấy yên thân!

- Những cái mạng nhện này là một nỗi hổ thẹn! - Sophie tuyên bố và giật chúng xuống từng mớ.

- Vậy thì khều chúng xuống và để lũ nhện được yên. - Howl nói.

Có lẽ anh ta có mối đồng cảm xấu xa với lũ nhện, Sophie nghĩ.

- Chúng sẽ chỉ chăng thêm mạng mà thôi. - Cô nói.

- Và giết ruồi nữa, rất có ích. - Howl nói. - Nào, hãy giữ yên cái chổi khi tôi đi qua phòng mình.

Sophie tì vào chổi và dõi nhìn Howl đi ngang qua căn phòng và cầm cây ghi ta lên. Khi anh ta dặt tay lên then cửa, cô nói:

- Nếu chấm đỏ mở sang Kingsbury và chấm xanh mở sang Porthaven thì chấm đen mở sang đâu?

- Bà già mới tọc mạch làm sao! - Howl nói. - Cái chấm đó mở sang hang chốn riêng của tôi và bà sẽ không được nói đó là đâu. - Anh ta mở cánh cửa dẫn đến vùng đất hoang mọc đầy thạch nam và những quả đồi rộng lớn đang chuyển động.

- Howl bao giờ ông về? - Michael hỏi, vẻ hơi thất vọng.

Howl vờ như không nghe thấy. Anh ta nói với Sophie:

- Bà không được phép giết dù chỉ là một con nhện khi tôi đi vắng.

Rồi cánh cửa đóng sập lại sau lưng anh ta. Michael nhìn Calcifer đầy ngụ ý và thở dài. Calcifer nổ lách tách với tiếng cười độc ác.

Vì không ai nói cho cô biết Howl đi đâu nên Sophie kết luận là anh ta lại ra ngoài săn các cô gái trẻ, và cô bắt đầu làm việc với vẻ hăm hở đúng mực hơn bất cứ lúc nào. Cô không dám làm hại con nhện nào sau những gì Howl nói. Bởi vậy cô vừa đập mạnh chổi lên xà nhà vừa hét lên:

- Nhện, tránh ra! Tránh đường ta ra!

Lũ nhện nguều ngòao bò chạy trối chết, và mạng nhện rơi xuống từng mảng. Rồi, dĩ nhiên cô lại phải quét sàn nhà lại lần nữa. Sau đó, cô quỳ xuống và bắt đầu kỳ cọ.

- Cháu muốn bà thôi đi. - Michael nói, ngồi trên bậc thang tránh đường Sophie.

Calcifer co rúm lại phái sau ghi lò, lẩm bẩm:

- Giờ thì tôi chỉ ước là chưa từng có giao kèo đó với cô.

Sophie hùng hục kì cọ:

- Bao giờ mọi thứ trở nên sạch sẽ và đẹp đẽ, nhất định các cậu sẽ thấy vui vẻ hơn nhiều.

- Nhưng bây giờ cháu đang khổ sở đây. - Michael phản ứng.

Hôm ấy, mãi đến khuya Howl mới trở về. Trước đó, Sophie đã quét tước kì cọ nhiều đến mức không cựa quậy nổi nữa. Cô đang ngồi co ro trên ghế, đau nhức khắp người. Michael nắm ống tay áo lượt thượt của Howl và kéo anh ta vào phòng tắm, Sophie nghe thấy tiếng ca cẩm của cậu ta vọng ra, những tiếng lẩm bẩm sôi nổi. Những cụm từ đại loại như “mụ già khủng khiếp”, “không chịu nghe lấy một lời” nghe rất rõ, mặc dù Calcifer gầm rống lên, “Howl, ngăn mụ ta lại. Mụ ấy sẽ giết chết cả hai chúng tôi mất.”.

Nhưng tất cả những gì Howl nói, sau khi Michael để cho anh ta đi, chỉ là:

- Bà có giết chết con nhện nào không đấy?

- Dĩ nhiên là không. - Sophie quát lại. Cơn đau nhức khiến cô cáu kỉnh. - Chúng nhìn ta và chạy trối chết. Chúng là cái gì vậy? Những cô gái bị anh ăn tim hả?

Howl cười to:

- Không, đơn giản chỉ là những con nhện bình thường thôi. - Anh ta nói và mơ màng đi lên cầu thang.

Michael thở dài. Cậu ta vào kho để chổi và lục tìm cho đến khi tìm được một chiếc giường gấp cũ, một cái nệm cói và mấy tấm chăn rồi đem ra đặt dưới cái vòm tò vò dưới gầm cầu thang:

- Tốt hơn hết là đêm nay bà ngủ ở đây. - Cậu ta nói với Sophie.

- Điều này nghĩa là Howl đồng ý cho ta ở lại? - Sophie hỏi.

-Cháu không biết! - Michael cáu kỉnh nói. - Howl chẳng bao giờ cam đoan với chính mình sẽ làm gì. Cháu đã ở đây sáu tháng ông ấy mới có vẻ nhận ra cháu đang sống ở đây và cho cháu học việc. Cháu chỉ nghĩ một chiếc giường sẽ tốt hơn cái ghế kia mà thôi.

- Vậy thì rất cám ơn cậu. - Sophie nói vẻ biết ơn. Quả thật chiếc giường này dễ chịu hơn so với một cái ghế, và đêm đến khi Calcifer kêu đói thì Sophie có thể dễ dàng cọt kẹt đi tới chỗ con quỷ và nhét cho nó một khúc củi.

Những ngày sau đó Sophie mải miết lau dọn khắp lâu đài. Cô thực sự thấy thích thú. Vừa tự nhủ phải tìm dấu vết cô vừa lau chùi cửa sổ, cô kì cọ chiếc bồn rửa rỉ nước, và bắt Michael dọn sạch mọi thứ trên bàn thợ và các kệ giá để cô có thể cọ rửa chúng. Cô lôi các thứ trong kho để chổi ra, lấy những thứ trên xà nhà xuống và kì cọ tuốt tuột. Cô tưởng tượng cái đầu lâu bắt đầu trông có vẻ khổ sở hệt như Michael. Nó thường xuyên bị di chuyển. Rồi cô đính một tấm vải cũ lên cái rầm gần lò sưởi nhất và buộc Calcifer phải cúi đầu xuống khi cô quét ống khói. Calcifer ghét việc đó. Hắn lách tách đê tiện khi Sophie thấy bồ hóng bay rơi khắp phòng và cô phải lau chùi tất cả lại từ đầu. Đó là vấn đề của Sophie. Cô không khoan nhượng nhưng cô thiếu phương pháp. Dù vậy trong sự không khoan nhượng ấy lại là một nguyên tắc khác của cô: cô tính toán rằng mình sẽ không thể lau chùi sạch sẽ toàn bộ nơi này mà không sớm hay muộn tình cờ phát hiện ra nơi Howl giấu linh hồn của các cô gái, hoặc những trái tim bị nhai nát - một cái gì đó giải thích rõ giao kèo của Calcifer. Cô chợt nhận ra phần trên của ống khói, với sự canh gác của Calcifer, sẽ là nơi cất giấu lý tưởng. Nhưng trên đó chẳng có gì ngoài vô số bồ hóng và Sophie đem bỏ chúng trong đống bao ngoài sân. Trong danh sách cô nghi ngờ là nơi cất giấu, sân cũng là điểm rất đáng khả nghi.

Mỗi lần Howl về nhà, Michael và Calcifer lại lớn tiếng phàn nàn về Sophie. Nhưng dường như anh ta không để tâm. Anh ta cũng có vẻ không nhận thấy sự sạch sẽ. Và cũng chẳng hề nhận thấy chạn ăn đầy ắp bánh mứt và thỉnh thoảng cả rau diếp ngon lành.

Vì, đúng như Michael nói trước, tin đồn đã lan khắp Porthaven. Mọi người đến để xem Sophie. Ở Porthaven người ta gọi cô là bà Phù thủy còn ở Kingsrbury người ta gọi cô là bà Pháp sư. Tin đồn cũng lan dến tận thủ đô. Mặc dầu, những người đến từ Kingsbury ăn mặc đẹp đẽ hơn những người đến từ Porthaven, nhưng không ai ở hai nơi này muốn vô cớ đến nhà một người có vẻ có thế lực như vậy. Vì thế, Sophie luôn phải dừng tay để gật đầu, mỉm cười chào và nhận một món quà nào đó hoặc để bảo Michael gói nhanh lá bùa cho ai đó. Một vài món quà rất đẹp: những bức tranh, chuỗi hạt làm bằng vỏ sò và những chiếc tạp dề đặc dụng. Tạp dề thì Sophie vẫn mặc hàng ngày, còn những bức tranh và những chuỗi hạt thì cô treo khắp cái hố của mình dưới gầm cầu thang, chẳng bao lâu chỗ này bắt đầu giống một góc nhà nhỏ.

Sophie biết cô sẽ nhớ hốc nhà nhỏ của mình khi Howl đuổi cô đi. Càng ngày cô càng sợ Howl sẽ làm thế. Cô biết anh ta sẽ không thể tiếp tục phớt lờ cô như thế mãi được.

Công việc tiếp theo là lau dọn phòng tắm. Việc này mất nhiều ngày bởi ngày nào cũng thế, Howl thường ở trong phòng tắm rất lâu trước khi ra khỏi nhà. Ngay khi anh ta vừa đi khỏi, để lại làn hơi nước mù mịt và những lá bùa đẫm mùi nước hoa thì Sophie bước vào.

- Nào, chúng ta thử xem xem cái giao kèo đó ra sao nào! - Cô lẩm bẩm với cái bồn tắm, nhưng dĩ nhiên mục tiêu chính của cô là cái giá chất đầy những gói, hũ và ống kia. Cô lấy từng thứ xuống, viện cớ phải lau chùi cái giá, cô mất hầu như trọn một ngày để xem xét cẩn thận liệu trong đống lọ dán nhãn DA, MẮT và TÓC có cái nào đựng bộ phận cơ thể các cô gái không. Tuy vậy, cô chỉ có thể nói toàn bộ đống lọ chỉ chứa các loại kem, bột và màu. Nếu chúng từng là bộ phận của các cô gái thì Sophie nghĩ rằng Howl đã dùng chất LÀM THỐI RỮA khiến chúng mục nát, thối rữa hoàn toàn trong bồn rửa để không thể nào nhận ra được nữa. Dẫu sao Sophie vẫn hy vọng những thứ chứa trong đống lọ ấy chỉ là mỹ phẩm.

Cô xếp lại các thứ lên giá và kỳ cọ. Đêm hôm đó, cô đang ngồi trên ghế đau ê ẩm khắp người thì Calcifer làu bàu rằng hắn đã phải dốc cạn cả một suối nước nóng vì cô.

- Suối nước nóng ở đâu? - Sophie hỏi. Những ngày này, cái gì cũng làm cô tò mò.

- Hầu hết là ở dưới đầm lầy Porthaven. Nhưng nếu cô cứ tiếp tục thế này, tôi sẽ phải lấy cả nước nóng ở Waste nữa. Bao giờ thì cô thôi cọ rửa và tìm cách phá vỡ giao kèo của tôi?

- Khi cơ hội đến. - Sophie nói. - Làm sao ta có thể moi từ Howl các điều kiện giao kèo nếu anh ta chẳng bao giờ ở nhà? Anh ta luôn luôn đi vắng thế à?

- Chỉ khi nào anh ta theo đuổi quý cô nào đó thôi. - Calcifer nói.

Khi phòng tắm đã sạch và sáng, Sophie bắt đầu kì cọ cầu thang và chiếu nghỉ ở tầng trên. Rồi cô chuyển sang căn phòng nhỏ của Michael. Michael lúc này đã bắt đầu rầu rĩ chấp nhận Sophie như một thảm họa tự nhiên, chỉ kêu lên chán nản và sầm sầm chạy lên gác để cứu những vật dụng quý giá nhất của mình. Những thứ đó đựng trong chiếc hộp cũ giấu dưới gầm giường nhỏ bị mọt ăn của cậu ta. Trong khi cậu ta vội vã lôi cái hộp cất đi, Sophie thoáng thấy một dải ruy băng màu xanh lơ, một chiếc kẹo bông hồng mọc lên giữa dải lụa, trên cùng có vẻ là những chữ viết.

- Vậy là Michael đã có người yêu! - Cô tự nhủ khi mở toang cửa sổ - khuôn cửa cũng nhìn xuống con phố ở Porthaven - và kéo chiếc giường của cậu ta ra gần bậu cửa để hong. Nghĩ đến những ngày gần đây cô trở nên tọc mạch đến thế nào, Sophie hơi ngạc nhiên với chính mình khi không hỏi Michael cô gái đó là ai và cậu ta làm thế nào để giữ cô ấy được an toàn trước Howl.

Cô quét được vô số bụi và rác ra khỏi phòng Michael, nhiều đến mức suýt nữa cô làm Calcifer chết ngộp khi đốt chúng.

- Cô là hung thần với tôi! Cô cũng như Howl, không hề có trái tim! - Calcifer tức tối. Chỉ còn trông thấy mỗi mái tóc xanh lá cây và một mảng trán xanh lơ của lão ló ra.

Michael cất cái hộp quý giá vào ngăn kéo bàn và khóa lại:

- Ước gì Howl nghe lời chúng ta! - Cậu nói. - Sao cô gái này lôi ông ấy đi lâu thế nhỉ?

Ngày hôm sau, Sophie thử bắt đầu dọn dẹp sân sau. Nhưng hôm đó, Porthaven mưa, nước mưa đập mạnh vào cửa sổ và lộp độp dột vào ống khói khiến Calcifer rít lên bực tức. Khoảng sân sau cũng là một phần của Porthaven, nên khi Sophie mở cửa cũng thấy mưa đang trút xối xả. Cô che tạp dề lên đầu và lục lọi một lát, và trước khi bị ướt nhẹp vì mưa, cô tìm thấy một xô vôi và cái chổi quét vôi to tướng. Cô mang chúng vào nhà và bắt đầu công việc với mấy bức tường. Cô tìm được một cái ghế thang cũ trong kho để chổi và bắt đầu quét vôi khoảng trần giữa những xà nhà. Hai ngày sau đó, Porthaven vẫn chưa ngớt mưa, mặc dầu khi Howl xoay cái núm cho chấm xanh lá cây quay xuống mở cửa và bước ra đồi thì bên ngoài trời nắng đẹp, những bóng mây lớn đang chạy đuổi nhau trên cánh đồng thạch nam, nhanh hơn tốc độ tòa lâu đài có thể di chuyển. Sophie quét vôi cái hốc ấm áp của mình, rồi cầu thang, chiếu nghỉ, và cả phòng của Michael.

- Chuyện gì đã xảy ra ở đây thế nhỉ? - Howl hỏi, khi trở về nhà sau hai ngày đi vắng. - Có vẻ như ở đây sáng lên nhiều.

- Sophie đấy. - Michael nói giọng buộc tội.

- Lẽ ra tôi phải đoán ra mới phải - Howl nói, rồi biến mất vào phòng tắm.

- Ông ấy đã nhận thấy! - Michael thì thầm với Calcifer. - Chắc cuối cùng cô gái đó đã nhượng bộ rồi!

Ngày hôm sau, Porthaven vẫn mưa phùn. Sophie buộc khăn lên đầu, xắn tay áo và đeo tạp dề. Cô lấy chổi, xô và xà phòng, rồi ngay khi Howl ra khỏi cửa, cô bắt đầu công việc dọn dẹp phòng riêng của Howl, như một thiên thần báo thù lụ khụ. Cô đã để công việc này lại sau cùng vì sợ những gì sẽ tìm được. Cô thậm chí không dám nhòm vào căn phòng đó. Và như vậy thật ngớ ngẩn, cô vừa nghĩ vừa tập tễnh lên cầu thang. Tới lúc này thì đã rõ chính Calcifer thực hiện hầu hết các phép thuật mạnh trong lâu đài và Michael làm tất cả các công việc được thuê, trong khi Howl chỉ mải chạy theo các cô gái và bóc lột hai người khi đúng như Fanny từng bóc lột cô. Sophie chưa bao giờ thấy Howl thực sự đáng sợ. Bây giờ cô chẳng cảm thấy gì, ngoài sự khinh miệt.

Cô lên đến chiếu nghỉ và thấy Howl đang đứng ở ngưỡng cửa phòng mình. Anh ta uể oải chống lên một tay, hoàn toàn chắn ngang đường Sophie.

- Không, bà không phải dọn dẹp chỗ này. - Anh ta nói rất vui vẻ. - Tôi muốn nó bẩn thỉu, cám ơn.

Sophie há hốc miệng nhìn anh ta:

- Anh ở đâu ra thế? TA thấy anh đi khỏi rồi mà?

- Tôi cố ý để bà nhìn thấy thế. - Howl nói. - Bà đã làm mọi sự tồi tệ nhất với Calcifer và Michael tội nghiệp rồi. Và dù Calcifer đã nói gì với bà, tôi vẫn là một Pháp sư, bà biết đấy. Bà không nghĩ tôi có thể làm phép à?

Điều đó lật đổ mọi giả định của Sophie. Cô thà chết còn hơn thừa nhận điều đó:

- Anh bạn trẻ, ai chẳng biết anh là pháp sư. - Cô nghiêm trang nói. - Nhưng điều đó cũng chẳng thay đổi được thực tế lâu đài của anh là chỗ bẩn thỉu nhất mà ta từng đặt chân đến. - Cô nhìn vào căn phòng qua cánh tay áo màu xanh lơ và ánh bạc dài lượt thượt của anh ta. Tấm thảm lót sàn tơi tả như tổ chim. Cô liếc nhìn bức tường tróc từng mảng và cái giá đầy sách, vài quyển trông rất rợn người. Không thấy dấu hiệu của đống tim bị gặm nham nhở, nhưng rất có thể chúng được giấu phía sau hoặc dưới chiếc giường vĩ đại kia. Những cánh rèm xám trắng phủ đầy bụi khiến cô không thấy được cửa sổ nhìn ra cái gì.

Howl vung tay áo trước mặt cô:

- Ờ, ờ, đừng có tọc mạch.

- Ta không tọc mạch! - Sophie phản đối. - Căn phòng đó...!

- Có, bà rất tọc mạch. - Howl nói. - Bà tọc mạch kinh khủng, hống hách kinh khủng, một mụ già dọn nhà khủng khiếp. Trấn tĩnh lại đi. Bà đang ngược đãi tất cả chúng tôi đấy.

- Nhưng đây là cái chuồng lợn. - Sophie nói. - Ta không thể làm khác được!

- Có, bà có thể đấy! - Howl nói - Và tôi thích phòng tôi cứ như thế. Bà phải thừa nhận nếu muốn tôi có quyền ở trong chuồng lợn. Giờ hãy xuống nhà và nghĩ ra việc gì khác mà làm. Nào. Tôi rất ghét cãi cọ với mọi người.

Sophie không còn biết làm gì khác ngoài việc tập tễnh đi xuống nhà với chiếc xô lanh canh bên cạnh. Cô hơi run, và rất ngạc nhiên vì Howl đã không quẳng cô ra khỏi lâu đài ngay tại trận. Nhưng vì anh ta đã không làm thế nên ngay lập tức cô nghĩ ra việc phải làm tiếp theo. Cô mở cánh cửa cạnh cầu thang, thấy mưa gần tạnh, bèn xông ra sân, hối hả lục lọi những đống rác sũng nước.

Tiếng kim loại va vào nhau xoảng! Và Howl lại xuất hiện, hơi loạng choạng, giữa những tấm tôn gỉ lớn mà Sophie vừa định hất sang bên.

- Cả ở đây cũng không. - Anh ta nói. - Bà là kẻ quấy phá hả, phải không? Để cái sân này được yên! Tôi biết rõ mọi thứ ở đâu trong cái sân này, và nếu bà xếp dọn lại, tôi sẽ không thể tìm được những thứ tôi cần cho các lá bùa di chuyển.

Vậy là có thể một bọc linh hồn hoặc một hộp trái tim bị nhai nát đang ở đâu đó quanh đây, Sophie nghĩ. Cô cảm thấy thực sự bị ngáng trở.

- Nhưng ta ở đây là để dọn dẹp mọi thứ! - Cô hét lên với Howl.

- Vậy thì bà sẽ phải nghĩ ra một ý nghĩa khác cho cuộc đời bà! - Howl nói. Trong giây lát, có vẻ như anh ta cũng sắp mất bình tĩnh. Đôi mắt lạ lùng nhợt nhạt của anh ta trợn trừng nhìn Sophie. Nhưng rồi anh ta trấn tĩnh lại và nói. - Bây giờ hãy chỉ loanh quanh trong nhà thôi, cái bà già hiếu động kia, và hãy tìm lấy thứ gì đó mà chơi trước khi tôi nổi cáu. Tôi rất ghét phải nổi cáu đấy.

Sophie khoanh đôi tay gầy guộc. Cô không thích bị đôi mắt trông như hai hòn bi ve kia nhìn trừng trừng như thế.

- Dĩ nhiên là anh ghét phải nổi cáu! - Cô quặc lại. - Anh không thích những thứ không vui vẻ, đúng không? Anh là một kẻ ưa lẩn tránh, anh là thế đấy! Anh lẩn tránh mọi thứ anh không thích!

Howl cố nặn ra một nụ cười:

- Đươc rồi. - Anh ta nói. - Vậy là bây giờ cả hai chúng ta biết rõ lỗi của nhau. Giờ thì hãy quay vào trong nhà đi. Đi nào. Quay vào.

Anh ta đi trược Sophie, vẫy cô đi về phía cửa. Ống tay áo vướng phải cạnh một mảnh kim loại gỉ, bị giật lại, và rách toạc.

- Khốn kiếp! - Howl nói và nhấc ống tay áo xanh lơ và ánh bạc lượt thượt lên. - Nhìn xem bà đã làm gì tôi này!

- Ta có thể vá lại! - Sophie nói.

Howl lại nhìn cô bằng đôi mắt như hai hòn bi ve:

- Bà lại thế rồi. - Anh ta nói. - Bà mới thích phục vụ làm sao!

Anh ta nhẹ nhàng đưa bàn tay phải cầm mảnh tay áo rách, vuốt nhẹ giữa các ngón tay. Khi vuốt xong tuyệt nhiên không còn vết rách nào trên ống tay nữa.

- Đấy. Hiểu chưa? - Anh ta nói.

Sophie tập tễnh quay vào nhà, hơi kiềm chế một chút. Các pháp sư rõ ràng chẳng cần làm theo cách thông thường. Howl vừa chúng tỏ cho cô thấy anh ta thật sự là một pháp sư đáng được chú ý.

- Tại sao anh ta không đuổi mình đi nhỉ? - Cô nói, nửa với mình, nửa với Michael.

- Cháu cũng chịu. - Michael nói. - Nhưng cháu nghĩ ông ấy nghe lời Calcifer. Hầu hết mọi người đến đây hoặc là không nhận ra Calcifer hoặc sợ cứng cả người vì lão.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2014 22:54:59 | Xem tất
CHƯƠNG 6

Howl giãi bày tình cảm bằng đám nhớt màu xanh lá cây


Ngày hôm đó, Howl không đi ra ngoài, mấy ngày sau cũng vậy. Sophie im lặng ngồi trên chiếc ghé cạnh lò sưởi, cố tránh mặt anh ta và nghĩ ngợi. Cô thấy rằng lúc đang thực sự tức giận mụ Phù thủy xứ Waste thì những tình cảm của cô về tòa lâu đài đã bị xóa sạch, mà Howl thì đáng bị như thế. Và cô hơi buồn với ý nghĩ phải ở đây với bề ngoài giả mạo. Howl có thể nghĩ rằng Calcifer thích cô, nhưng Sophie biết rằng Calcifer chỉ cố nắm lấy cơ hội để có được giao kèo với cô. Sophie thoáng nghĩ rằng cô đã làm Calcifer thất vọng.

Tâm trạng đó không kéo dài lâu. Sophie tìm thấy một đống quần áo của Michael cần mạng lại. Cô lôi đê khâu, kéo và chỉ từ túi khâu ra và bắt đầu làm việc. Tối hôm đó, cô vui vẻ đến nỗi hòa giọng với Calcifer trong bài hát ngớ ngẩn về những cái chảo.

- Vui vẻ với công việc chứ hả? - Howl hỏi, vẻ châm biếm.

- Ta cần thêm quần áo để mạng. - Sophie nói.

- Nếu bà cần cảm thấy bận rộn hơn nữa thì bộ Vest cũ của tôi cũng cần mạng lại đấy. - Howl nói.

Điều đó có nghĩa là Howl không còn tức giận nữa. Sophie cảm thấy nhẹ nhõm. Sáng hôm đó, cô gần như đã rất sợ hãi.

Rõ ràng, Howl vẫn chưa tán tỉnh được cô gái mà anh ta theo đuổi. Sophie nghe Michael hỏi khá lộ liễu về chuyện đó, và anh ta tránh phải trả lời bất cứ câu hỏi nào một cách tài tình.

- Anh ta là một kẻ lẩn tránh có hạng. - Sophie lẩm bẩm với đôi tất ngắn của Michael. - Không thể lật tẩy sự độc ác của anh ta.

Cô nhìn Howl đang tỏ vẻ bận rộn không yên để giấu vẻ bực dọc. Đó là cái cách mà Sophie hiểu khá rõ rồi.

Howl ngồi bên bàn thợ, làm việc nhiều hơn và nhanh hơn hẳn Michael, anh ta ghép các lá bùa với nhau một cách thiện nghệ nhưng rất ẩu tả. Nhìn vẻ mặt của Michael thì hầu hết các lá bùa vừa khó làm vừa khác thường. Nhưng Howl vứt một lá bùa dở dang lại đó và chạy thẳng lên phòng riêng để chăm nom một cái gì bí mật - và chắc chắn là phải độc ác, tiếp tục ở trên đó, rồi nhanh chóng chạy ra sân vá một mảnh bùa lớn ngoài ấy. Sophie mở hé cửa và khá kinh ngạc khi thấy chàng pháp sư hào hoa đang quỳ giữa đống bùn, hai ống tay áo dài lượt thượt buộc chắp lại sau ổ cho khỏi vướng víu trong khi anh ta cẩn thận nhấc đống kim loại rối tinh nhầy nhụa mỡ cho vào một cái khung nào đó.

Đó là lá bùa cho Đức Vua. Một sứ giả khác ăn mặc sang trọng và sặc mùi nước hoa tới, đem theo bức thư và một bài diễn văn dài, rất dài nói rằng liệu ngài Howl có thể dành thời gian cùng tâm trí cao quý và thông tuệ của ngài, nói cách khác là được thuê với một số tiền lớn, để quan tâm tới một vấn đề nhỏ của Đức Bệ hạ - nghĩa là để xem làm thế nào một đội quân có thể đưa vũ khí nặng qua đầm lầy cũng như qua vùng đất gồ ghề. Howl nhã nhặn đáp lại một cách tuyệt vời và vòng vèo chẳng kém. Anh ta từ chối. Nhưng sứ giả nói tiếp nửa giờ nữa, cuối cùng ông ta và Howl cúi chào nhau và Howl đồng ý làm bùa cho Đức Vua.

- Đây là điềm gở. - Howl nói với Michael khi vị sứ giả đi khỏi. - Sulliman khiến mình lạc lối ở xứ Waste vì điều gì cơ chứ? Có vẻ như là Đức Vua nghĩ ta sẽ làm thay công việc của ông ta.

- Theo những gì cháu biết, ông ta không thể sáng tạo được như ông. - Michael nói.

- Ta đã quá lịch sự và quá kiên nhẫn rồi. - Howl rầu rĩ nói. - Lẽ ra ta phải tính tiền đắt hơn nữa mới phải.

Howl cũng kiên nhẫn và lịch sự như vậy với các khách hàng đến từ Porthaven, nhưng, đúng như Michael đã lo lắng chỉ ra, vấn đề là Howl tính tiền những người này quá thấp. Đó là sau khi Howl lắng nghe bà vợ của một ngư dân phân trần đến hàng giờ lí do vì sao bà không có đồng nào để trả, sau đó ông ta còn hứa hẹn làm cho ông thuyền trưởng nào đó một lá bùa gió với giá gần như cho không. Howl lảng tránh những lập luận của Michael bằng cách dạy cho cậu ta một bài pháp thuật.

Sophie đính cúc áo cho Michael và lắng nghe Howl thảo luận chi tiết một lá bùa với Michael.

- Ta biết mình cẩu thả, - Howl nói. - nhưng cậu không nhất thiết phải bắt chước ta. Trước tiên bao giờ cũng phải đọc hết lá bùa một lượt thật cẩn thận. Hình dạng lá bùa sẽ cho cậu biết rất nhiều điều, rằng đó là lá bùa tự hoàn chỉnh, hay tự khám phá, hay là một câu thần chú đơn giản, hay là sự kết hợp của lời nói và hành động. Khi đã xác đinh được rồi hãy xem xét lại một lần nữa và quyết định mảnh nào có ý nghĩa, mảnh nào chỉ thêm vào cho ra vẻ rắc rối. Bây giờ cậu đã bắt đầu hiểu những lá bùa mạnh hơn rồi đấy. Cậu sẽ thấy những lá bùa mạnh đều có ít nhất một lỗi hoặc một bí ẩn có chủ ý để đề phòng bất trắc. Cậu phải tìm cho ra cái đó. Nào, cầm lấy lá bùa này...

Lắng nghe cách Michael ngập ngừng trả lời các câu hỏi của Howl, và nhìn Howl viết nguệch ngoạc lên tờ giấy bằng cái bút lông rất lạ, Sophie nhận ra mình cũng có thể hiểu được khối thứ. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu cô rằng nếu Martha có thể tìm ra câu thần chú để đổi chỗ cho Lettie ở nhà bà Fairfax thì ở đây cô cũng có thể làm một điều tương tự. Chỉ cần một chút may mắn là cô có thể chẳng cần nhờ cậy Calcifer nữa.

Khi Howl yên tâm rằng Michael đã quên biến chuyện tính tiền nhiều hay ít cho những người ở Porthaven, anh ta bèn dắt cậu ra sân phụ mình làm bùa cho Đức Vua. Sophie lục cục đứng lên và tập tễnh đi ra bàn thợ. Lá bùa khá rõ, nhưng nét chữ nguệch ngoạc của Howl khiến cô chịu chết. Mình chưa bao giờ nhìn thấy chữ ai như thế! - cô làu bàu với cái đầu lâu - Anh ta dùng bút hay que thế không biết? - Cô hăm hở lục tất cả các mảnh giấy trên bàn và xem xét những thứ bột và chất lỏng đựng trong đống hũ khòng khoèo.

- Phải, hãy thừa nhận đi. - Cô nói với cái đầu lâu. - Ta rất tọc mạch. Và ta có được phần thưởng xứng đáng cho mình. Ta có thể tìm ra cách chữa bệnh gà toi hay làm dịu cơn ho gà, cách gọi gió đến hay làm mất râu trên mặt người ta. Nếu Martha tìm được vận mệnh của mình, hẳn là em ấy vẫn còn ở nhà bà Fairfax.

Sophie thấy, lúc từ sân quay vào, Howl kiểm tra lại một lượt những thứ mà cô đã dịch chuyển. Nhưng có vẻ như đó chỉ là một trạng thái bứt rứt. Sau đó, hình như anh ta không biết làm gì với bản thân mình. Sophie nghe tiếng anh ta tha thẩn đi lên đi xuống suốt đêm. Sáng hôm sau, anh ta chỉ ở trong phòng tắm một tiếng đồng hồ. Anh ta có vẻ sốt ruột trong khi Michel khoác lên người bộ vest nhung đẹp nhất màu mận chín, sẵn sàng đi tới cung điện ở Kingsbury, và hai người gói lá bùa to tướng bằng giấy vàng. Hẳn là lá bùa này nhẹ một cách đáng ngạc nhiên so với kích thước của nó. Michael có thể vòng hai tay ôm nó và dễ dàng mang đi một mình. Howl mở cửa cho Michael, xoay tay nắm cửa cho chấm đỏ quay xuống rồi đẩy cậu ta ra phố, đi giữa những ngôi nhà sơn màu.

- Bọn họ đang mong chờ nó đấy. - Howl nói. - Cậu sẽ chỉ phải chờ chưa đầy buổi sáng. Bảo họ là trẻ con cũng làm được. Chỉ cho họ thấy. Và khi cậu trở về, ta sẽ có một lá bùa mạnh để cậu làm. Đi nhé.

Anh ta đóng cửa lại rồi đi tha thẩn khắp phòng. Rồi đột nhiên anh ta nói:

- Chân tôi ngứa ngáy hết cả. Tôi sẽ đi dạo trên đồi một lát. Bảo Michael lá bùa tôi hứa với cậu ấy ở trên bàn. Còn cái này thì dành cho bà để mà bận rộn.

Sophie thấy một bộ vest màu ghi và tía, trông cũng ngộ nghĩnh như bộ xanh lơ và ánh bạc, không biết từ đâu bỗng rơi vào lòng mình. Trong khi đó, Howl cầm cây ghi ta ở góc tường lên, xoay tay nắm cửa cho chấm xanh lá cây trỏ xuống, rồi bước ra cánh đồng thạch nam bên trên Chợ Chipping.

- Chân anh ta ngứa! - Calcifer làu bàu. Sương mù đang phủ dày ở Porthaven. Calcifer gí gị dưới mấy khúc củi, bứt rứt nhích bên này bên kia tránh những giọt nước từ ống khói nhỏ xuống.- Anh ta nghĩ tôi cảm thấy thế nào khi bị chết kẹt trong cái lò sưởi sũng nước này kia chứ?

- Vậy thì ít nhất lão cũng phải gợi ý cho ta biết cách phá vỡ giao kèo cho lão chứ. - Sophie nói và giũ giũ bộ vest màu ghi và tía. - Chúa ơi, mi là mộ vest tốt đấy chứ, cho dù đã bị sờn đôi chút! Mi được may để dụ dỗ những cô gái, phải không hả?

- Tôi đã nói cho cô biết rồi đấy chứ! - Calcifer kêu xèo xèo.

- Vậy thì lão sẽ phải nói lại cho ta. Ta đã không bắt được ý lão. - Sophie vừa nói vừa đặt bộ quần áo xuống, rồi tập tễnh đi ra cửa.

- Nếu tôi gợi ý, rồi bảo cho cô biết đó là gợi ý của tôi, thì đó trở thành một thông tin. Mà tôi thì không được phép tiết lộ thông tin cho cô. - Calcifer nói. - Cô đi đâu đấy?

- Đi làm một việc mà chỉ khi cả hai bọn họ đi vắng ta mới dám làm. - Sophie nói. Cô xoay cái núm hình vuông trên cửa cho đến khi chấm đen trỏ xuống. Rồi cô mở cửa.

Chẳng có gì bên ngoài cả. Nó không đen, không xám, cũng chẳng trắng. Nó không dày đặc, cũng chẳng trong suốt. Nó không chuyển động. Nó không có mùi vị và không có cảm giác. Sophie thận trọng thò thử một ngón tay ra chạm vào nó, cô không thấy nóng cũng chẳng cảm thấy lạnh. Chẳng có cảm giác gì. Có vẻ như tuyệt đối và tuyệt nhiên không có gì.

- Cái này là cái gì? - Cô hỏi Calcifer.

Calcifer cũng chú ý chẳng kém gì Sophie. Khuôn mặt xanh lơ của lão thò cả ra ngoài ghi lò để nhìn ra cửa. Lão đã quên khuấy cả chuyện sương mù:

- Tôi không biết. - Lão thì thầm. - Tôi chỉ duy trì nó thôi. Tất cả những gì tôi biết là nó nằm ở mặt bên kia của lâu đài mà không ai có thể đi vòng sang. Có cảm giác như nó rất xa.

- Cảm giác xa xôi như ở tít phía bên kia mặt trăng vậy. - Sophie nói. Cô đóng cửa và xoay chấm xanh lá cây trỏ xuống đất. Cô ngần ngừ một phút, rồi bắt đầu tập tễnh lên gác.

- Anh ta khóa cửa rồi. - Calcifer nói. - Anh ta đã bảo tôi nói với cô như vậy, nếu cô lại định tọc mạch.

- Ồ. - Sophie nói. - Anh ta có cái gì trên ấy vậy?

- Tôi không biết. - Calcifer nói. - Tôi không biết tí gì về tầng trên cả. Giá mà cô biết chuyện đó bức bối như thế nào! Thậm chí, tôi thậm chí còn không thể nhìn được bên ngoài lâu đài này. Chỉ có thể nhìn được xem mình đang đi về hướng nào thôi.

Sophie cũng cảm thấy bực dọc chẳng kém, cô ngồi xuống và bắt đầu mạng bộ vest xám pha tía. Một lát sau Michael trở về.

- Đức Vua tiếp cháu ngay lập tức. - Cậu ta nói. - Ông ấy... - Rồi nhìn quanh phòng. Mắt cậu ta nhìn vào góc nhà trống, nơi mọi khi vẫn dựng cây ghi ta. - Ôi, không! Không phải lại quý cô ấy chứ! Cháu cứ tưởng cô ta đã yêu ông ấy và mọi chuyện đã chấm dứt mấy ngày trước rồi kia mà. Cái gì đã giữ cô ấy lại?

Calcifer xèo xèo ranh mãnh:

- Cậu nhìn nhận dấu hiệu sai rồi. Kẻ không có trái tim như Howl thấy quý cô này hơi khó xơi. Anh ta quyết định bỏ mặc cô ta mấy ngày để xem có thay đổi được gì không. Có thế thôi.

- Chán mớ đời! - Michael nói. - Điều đó nghĩa là có chuyện rồi đây. Vậy mà cháu lại cứ hy vọng Howl gần như biết nghĩ trở lại.

Sophie đập bộ quần áo xuống đùi:

- Thật à! - Cô nói. - Làm sao cả hai cậu có thể nói như vậy về một chuyện độc ác tột cùng đến thế! Ít nhất ta cũng nghĩ là ta không thể lên án Calcifer, vì đó là một con quỷ xấu xa. Nhưng còn cậu, Michael...!

- Tôi nghĩ tôi không hề xấu xa! - Calcifer phản đối.

- Nhưng cháu đâu có bình thản về chuyện đó, nếu bà nghĩ như thế. - Michael nói. - Nếu bà biết được những rắc rối mà chúng cháu gặp phải chỉ bởi Howl cứ liên tục vướng vào yêu đương thế này! Nào kiện cáo, nào bọn cầu hôn vác kiếm, nào các bà mẹ vung trục cán bột, nào các ông bố ông chú cầm dùi cui. Và các bà cô nữa. Các bà cô mới thật khủng khiếp. Họ đến gặp chúng cháu với những cây ghim cài mũ. Nhưng tệ nhất là khi các cô gái tự tìm ra nơi Howl ở và đến trước cửa, khóc lóc khổ sở. Howl chuồn ra cửa sau, Calcifer và cháu phải lo liệu mọi chuyện.

- Tôi ghét những người rầu rĩ. Họ cứ rỏ nước mắt vào người tôi. Thà họ cứ giận dữ còn hơn. - Calcifer nói.

- Bây giờ phải chấn chỉnh mọi chuyện lại, - Sophie nói, siết chặt nắm tay xương xẩu lên làn xa tanh đỏ. - Howl đã làm gì những người phụ nữ khốn khổ đó? Ta nghe nói anh ta ăn tim họ và hút linh hồn họ.

Michael cười có vẻ không thoải mái:

- Vậy ắt hẳn bà đến từ Chợ Chipping. Howl đã cử cháu đến đó bôi bẩn tên tuổi của ông ấy hồi chúng cháu mới dựng lên tòa lâu đài này. Cháu... ờ... chính cháu đã bịa ra những chuyện như vậy. Đó là điều mà các bà cô vẫn thường hay nói. Nó chỉ đúng theo nghĩa bóng thôi.

- Howl rất nhanh chân. - Calcifer nói. - Anh ta chỉ thích thú lúc chưa tán được cô gái. Sau đó anh ta chẳng thèm ngó ngàng đến nữa.

- Nhưng ông ấy không thể nào ngồi yên khi chưa thể làm cô ta yêu mình. - Michael hăm hở nói. - Chừng nào ông ấy chưa làm được thì không ai có thể khơi dậy được ý thức của ông ấy. Cháu luôn mong đến lúc cô gái bị tán đổ. Khi đó mọi chuyện mới tử tế hơn.

- Cho đến khi họ tìm ra anh ta. - Calcifer nói.

- Các cậu phải hiểu rằng anh ta đủ khôn ngoan để bịa ra một cái tên giả. - Sophie nói một cách khinh miệt. Vẻ khinh miệt để giấu đi một điều là cô cảm thấy mình có phần ngốc nghếch.

- Ồ, bao giờ mà ông ấy chẳng nói tên giả. - Michael nói. - Ông ấy thích thế kể cả khi không tán gái. Bà không thấy là với người Porthaven thì ông ấy là Phù thủy Jenkins, với người Kingsbury thì là Pháp sư Pendragon, còn khi ở lâu đài thì lại là Howl Khủng khiếp à?

Sophie đã không để ý thấy thế, và điều đó khiến cô càng cảm thấy mình ngốc nghếch hơn. Và cảm giác ngốc nghếch khiến cô tức giận:

- Ồ, ta vẫn nghĩ là chạy quanh làm các cô gái đau khổ như vậy là độc ác lắm. - Cô nói. - Như vậy thật nhẫn tâm và vô nghĩa.

- Anh ta luôn làm thế. - Calcifer nói.

Michael kéo một chiếc ghế đẩu ba chân lại gần lò sưởi và ngồi xuống trong khi Sophie khâu vá, rồi kể cho cô nghe về những cuộc chinh phục của Howl và những rắc rối xảy ra sau đó. Sophie lẩm bẩm với bộ vest. Cô vẫn cảm thấy mình ngốc nghếch.

- Bộ vest này, vậy thì mi là kẻ ăn tim hả, đúng là mi không? Tại sao các bà cô lại đặt thêm những chuyện kì cục như thế khi nói về các cô cháu gái mình? Có khi mi làm họ thích thú chăng, bộ vest đẹp của ta. Mi cảm thấy thế nào khi bị những bà cô thịnh nộ rượt đuổi hả?

Trong khi Michael kể cho cô nghe về một bà cô cụ thể mà cậu ta nhớ được thì Sophie chợt nhận ra có thể những lời đồn đại về Howl đã lan đến Chợ Chipping đúng như thế. Cô có thể hình dung ra một cô gái cứng cỏi như Lettie cũng rất thích Howl và kết cục lại vô cùng đau khổ.

Michael vừa nhắc đến bữa trưa và Calcifer cũng vừa rên lên như mọi khi thì Howl mở toang cửa bước vào, vẻ bất mãn hơn bao giờ hết.

- Ăn chút gì nhé? - Sophie hỏi.

- Không. Calcifer, cho nước nóng vào buồng tắm. - Rồi anh ta đứng đăm chiêu trước cửa buồng tắm một lúc. - Sophie, bà có tình cờ dọn dẹp giá bùa trong này không đấy?

Sophie cảm thấy ngớ ngẩn hơn bao giờ hết. Không có gì có thể buộc cô thú nhận là đã lục khắp các gói và hũ để tìm bộ phận cơ thể của các cô gái.

- Ta chẳng đụng vào cái gì sất. - Cô đáp lại vẻ rất đạo đức trong khi đi lấy chảo rán.

- Hy vọng là bà không đụng đến nó. - Michael nói vẻ bứt rứt khi cửa buồng tắm đóng sầm lại.

Tiếng nước xả và nước chảy từ buồng tắm vọng ra trong lúc Sophie làm món rán cho bữa trưa.

- Anh ta dùng nhiều nước nóng quá. - Từ dưới chảo, Calcifer nói với lên. - Tôi nghĩ anh ta đang nhuộm tóc. Hy vọng cô để mấy lá bùa nhuộm tóc ấy yên thân. Là một anh chàng chất phác với mái tóc màu bùn, anh ta dương dương tự đắc kinh khủng với bề ngoài của mình đấy.

- Ồ, im miệng đi. - Sophie quát lên. - Ta để mọi thứ lại nguyện chỗ ta thấy chúng. - Cô cáu kỉnh đến nỗi làm đổ cả chảo trứng rán và thịt xông khói lên Calcifer.

Dĩ nhiên là Calcifer vô cùng nhiệt tình chén sạch, sáng rực lên và nuốt ngấu nghiến. Sophie rán một chảo khác trên ngọn lửa cháy rừng rực. Cô và Michael ăn phần của mình. Họ đang dọn dẹp, và Calcifer đang đưa cái lưỡi xanh lơ lên liếm đôi môi đỏ tía thì cửa phòng tắm mở sầm và Howl lao ra, rền rĩ vì tuyệt vọng:

- Nhìn này! - Anh ta hét lên. - Xem này! - Cái mụ đàn bà lúc nào cũng phải làm lộn tung mọi thứ lên ấy đã làm gì những lá bùa thế này?

Sophie và Michael quay phắt lại nhìn Howl. Tóc anh ta ướt nhẹp nhưng ngoài điều đó ra cả hai đều chẳng thấy tóc anh ta có gì khác.

- Nếu anh định nói là ta... - Sophie nói.

- Tôi thực sự nói bà đấy! Nhìn này! - Howl hét lên. Anh ta ngồi phịch xuống chiếc ghế đẩu ba chân và lấy ngón tay thọc mạnh vào cái đầu ướt nhẹp. - Nhìn đi. Nghiên cứu đi. Điều tra đi. Tóc tôi hỏng rồi. Trông tôi khác gì cái chảo rán trứng và thịt muối xông khói.

Michael và Sophie lo lắng cúi xuống nhìn đầu Howl. Có vẻ đến tận chân tóc vẫn là màu vàng nhạt thường ngày. Điểm khác biệt duy nhất có lẽ chỉ là dấu ấn mỏng manh, rất mỏng manh của màu đỏ. Sophie thấy như vậy cũng ổn. Nó khiến cô phần nào nhớ đến màu tóc cũ của mình trước đây.

- Ta nghĩ là rất đẹp đấy chứ. - Cô nói

- Đẹp! - Howl rú lên. - Bà dám! Bà cố ý làm thế! Bà không thể ngồi yên nếu chưa làm tôi khốn khổ. Nhìn mà xem! - Đó là màu hoe! Tôi sẽ phải trốn cho đến khi nhạt màu. - Anh ta dang tay phẫn nộ. - Tuyệt vọng! - Anh ta gào lên. - Đau đớn, rùng rợn!

Căn phòng tối đi. Những cái bóng trông như bóng người, đồ sộ, âm u trồi lên từ bốn phía tiến đến gần Sophie và Michael, vừa đi vừa hú. Những tiếng hú đầu tiên rền rĩ, rùng rợn, cao thành tiếng rên rỉ the thé, rồi cao lên nữa thành tiếng rú đau đớn và khủng khiếp. Sophie đưa hai tay bịt chặt tai, nhưng tiếng rú ép qua tay cô, to hơn và to hơn nữa, mỗi giây một rùng rợn hơn. Calcifer vội vàng rụt xuống dưới ghi lò và bập bùng cháy dưới khúc củi thấp nhất. Michael tóm khuỷu tay Sophie, và lôi cô ra cửa. Cậu ta xoay cho cái núm màu xanh lơ chỉ xuống đất, đá cửa mở rộng và kéo cả hai nhào ra ngoài phố ở Porthaven nhanh hết mức có thể.

Mặc dù đã ra đến ngoài này, tiếng gầm rú vẫn rất rợn người. Cửa nhà trên phố đều mở toang, mọi người chạy bổ ra đường, hai tay bịt chặt lấy tai.

- Chúng ta có nên để mặc anh ta một mình trong tình trạng thế không? - Sophie lập cập hỏi.

- Có, - Michael nói. - nếu ông ấy nghĩ đó là lỗi của bà, thì phải dứt khoát.

Hai người vội vã đi qua thành phố, những tiếng gào rú choáng óc đuổi theo họ. Cả một đám đông đi cùng họ. Mặc dù lúc này sương mù dày đặc đã trở thành một biển mưa bụi sũng nước, mọi người đều cố chạy ra cảng hoặc bãi cát, ở đó âm thanh có vẻ bớt đáng sợ hơn. Biển cả mênh mông xám xịt cũng phần nào nuốt đi tiếng động. Mọi người đứng túm tụm thành từng đám ướt sũng, nhìn ra chân trời trắng đục toàn sương và đám thừng nhỏ nước trên những con tàu đang neo đậu, trong khi âm thanh đó trở thành những tiếng thổn thức phi thường vang dội đến nát cả tim. Sophie nhớ ra đây là lần đầu tiên trong đời cô nhìn thấy biển thật gần. Thật tiếc là cô không được hưởng cái thú vui ấy thêm nữa.

Tiếng thổn thức tắt dần thành tiếng thở dài vang vọng, khốn khổ và im lặng. Mọi người bắt đầu thận trọng trở về thành phố. Một vài người dè dặt đến gần Sophie.

- Thưa bà phù thủy, có chuyện gì xảy ra với ông Phù thủy tội nghiệp thế ạ?

- Hôm nay, ông ấy hơi phiền lòng một chút. - Michael nói. - Đi thôi. Cháu nghĩ bây giờ chúng ta có thể liều về nhà xem sao.

Trong khi hai người đi dọc bến cảng lát đá, rất nhiều thủy thủ đứng trên tàu lo lắng gọi với ra hỏi liệu âm thanh đó có phải là điềm gở hay sắp có bão không.

- Không hề gì đâu. - Sophie gọi đáp lại. - Giờ thì mọi chuyện qua rồi.

Nhưng mọi chuyện chưa qua. Hai người trở lại ngôi nhà của Pháp sư, từ bên ngoài nó chỉ là một ngôi nhà bình thường rúm ró khiến Sophie không thể nhận ra nếu không có Michael đi cùng. Micahel thận trọng mở cánh cửa nhỏ xập xệ. Trong nhà, Howl vẫn ngồi trên ghế. Anh ta ngồi với dáng bộ tuyệt vọng tột cùng. Khắp người anh ta dính nhầy nhụa một thứ chất lỏng màu xanh lá cây sền sệt.

Cả một lượng nhớt màu xanh lá cây, một lượng khủng khiếp, dữ dội, bi thảm - nhiều đến kì dị. Nó phủ kín khắp người Howl. Nó trùm kín đầu và vai anh ta thành những lớp cục dinh dính, đọng lại thành từng đụn trên đầu gối và hai bàn tay, chảy thành từng dòng xuống chân và rỏ từ ghế xuống thành đám sợi dinh dính. Nó đọng thành từng vũng ứa nước và ao tù bò trên khắp mặt sàn. Những ngón tay dài của nó đang trườn vào gần lò sưởi. Nó bốc mùi ghê tởm.

- Cứu tôi với! - Calcifer kêu lên, giọng thì thầm khản đặc. Lão đã rụt xuống thành hai ngọn lửa nhỏ lay lắt tuyệt vọng. - Cái thứ này sắp làm tôi tắt mất rồi.

Sophie xếch váy và đến gần Howl - gần hết cỡ có thể nhưng không quá gần.

- Thôi đi! - Cô nói. - Thôi ngay lập tức! Anh cư xử như một đứa trẻ vậy!

Howl không nhúc nhích cũng chẳng trả lời. Anh ta trân trân nhìn ra từ sau lớp nhớt, đôi mắt to, trắng dã, trợn trừng đau khổ.

- Chúng ta phải làm gì bây giờ? - Michael hỏi, bồn chồn đi cạnh cửa. - Ông ấy chết rồi phải không?

Michael là một chàng trai tốt, Sophie nghĩ, nhưng hơi vô dụng trong lúc bấn loạn.

- Không, dĩ nhiên là anh ta không chết. - Cô nói. - Và nếu không vì Calcifer thì ta sẽ để mặc anh ta cư xử như một con lươn nhèo nhuột suốt ngày! Mở cửa buồng tắm ra!

Trong khi Michael dò dẫm đi giữa những vũng nước trơn tuột để vào buồng tắm, Sophie ném cái tạp dề vào chỗ gần lò sưởi để ngăn nhớt lỏng không lan thêm đến chỗ Calcifer và túm lấy cái xẻng. Cô xúc một xẻng tro lên và đổ ụp vào giữa đống nhớt to nhất. Nó rít lên dữ dội. Căn phòng mịt mùng hơi nước và bốc mùi hơn bao giờ hết. Sophie xắn tay áo lên, cúi xuống để nắm lấy hai đầu gối nhầy nhụa của chàng Pháp sư và đẩy cả Howl lẫn ghế về phía buồng tắm. Chân cô trượt dài trong đám nhớt, nhưng dĩ nhiên là nhớt xanh cũng giúp cô đẩy được chiếc ghế đi. Michael đến và túm lấy tay áo gây gây nhớt của Howl. Hai người cùng đẩy anh ta vào buồng tắm. Trong buồng tắm, Howl vẫn không chịu nhúc nhích nên họ phải đẩy anh ta đến dưới vòi hoa sen.

- Nước nóng, Calcifer! Thật nóng vào! - Sophie thở hổn hển.

Phải mất một giờ mới cọ được nhớt xanh khỏi Howl. Và cũng mất một giờ nữa Michael mới thuyết phục được Howl đứng dậy khỏi chiếc ghế và mặc quần áo khô. May thay, bộ vest màu ghi và tía mà Sophie vừa mạng lại đang vắt trên lưng ghế, ngoài đường đi của đám nhớt. Bộ màu xanh lơ và ánh bạc thì đã hỏng. Sophie bảo Michael bỏ nó vào bồn tắm ngâm nước. Trong khi đó, miệng lẩm bẩm và càu nhàu, cô lấy thêm nước nóng. Cô xoay cái núm trên tay nắm cửa cho màu xanh lá cây chỉ xuống và quét hất tất cả đám nhớt xanh ra cánh đồng hoang. Tòa lâu đài để lại một vệt như con ốc sên trên cánh đồng thạch nam, nhưng đó là cách dễ dàng nhất để loại bỏ chất nhớt. Vậy là có thêm những ưu điểm nữa khi sống trong một tòa lâu đài di động, Sophie nghĩ khi cọ rửa sàn. Cô băn khoăn không hiểu những tiếng gầm gào của Howl có vọng từ lâu đài ra hay không. Nếu vậy thì cô thấy tội nghiệp cho người dân Chợ Chipping.

Tới lúc này Sophie đã mệt mỏi và cáu kỉnh. Cô biết đám nhớt xanh này là sự trả thù của Howl với cô, và cô hoàn toàn không sẵn lòng cảm thông khi cuối cùng Michael dẫn Howl trong bộ đồ ghi và tía ra khỏi buồng tắm, rồi dịu dàng đặt anh ta ngồi xuống chiếc ghế cạnh lò sưởi.

- Đó là một sự ngu ngốc! - Calcifer thổi phù phù. Anh đang cố tẩy bỏ phần tốt nhất trong pháp thuật của mình đấy à, hay là sao?

Howl không để ý. Anh ta chỉ ngồi, trông đau khổ và run rẩy.

- Cháu không thể làm ông ấy nói được! - Michael khổ sổ thì thào.

- Đó chỉ là một cơn hờn thôi. - Sophie nói. Martha và Lettie cũng rất giỏi hờn. Cô biết phải đối phó thế nào với những trò đó. Tuy vậy, sẽ rất mạo hiểm khi định phát vào mông một pháp sư trong khi anh ta lên cơn kích động về chuyện đầu tóc. Dẫu sao đi nữa, kinh nghiệm của Sophie cũng cho cô biết rằng những cơn hờn đó hiếm khi về những chuyện tưởng chừng như khiến kẻ đó giận dữ. Cô gạt Calcifer sang bên để đặt xoong sữa thăng bằng trên các khúc củi. Khi sữa đã ấm, cô ấn một bình sữa đầy vào tay Howl:

- Uống đi. - Cô nói. - Nào, tất cả những chuyện lộn xộn này là sao đây? Có phải là vì cái cô tiểu thư anh vẫn đến gặp không?

Howl âu sầu nhấp sữa:

- Ừ, - Anh ta nói. - tôi đã bỏ mặc cô ấy để xem việc đó có khiến cô ấy nhớ đến tôi một cách yêu thương hay không, và không hề. Cô ấy không chắc lắm, ngay cả khi tôi gặp cô ấy lần vừa rồi. Bây giờ, cô ấy nói với tôi là cô ấy đã có một anh chàng khác.

Giọng anh ta khổ sở khiến Sophie cảm thấy rất thương cảm. Tóc anh ta giờ đã khô, Sophie nhận thấy điều đó với vẻ hối lỗi, thật sự trông nó như gần như hồng hồng.

- Cô ấy là cô gái xinh đẹp nhất từ xưa đến nay ở vùng này. - Howl tiếp tục vẻ thê lương. - Tôi yêu cô ấy tha thiết, nhưng cô ấy khinh rẻ sự tận tụy sâu sắc của tôi và động lòng trước một anh chàng khác. Làm sao cô ấy có thể có một anh chàng khác sau tất cả những quan tâm tôi dành cho cô ấy? Bọn họ thường gạt các anh chàng khác đi ngay khi tôi vừa xuất hiện.

Lòng thương cảm của Sophie co rúm lại. Cô chợt nhận ra nếu Howl có thể phủ nhớt xanh lên khắp người dễ dàng như thế thì anh ta cũng có thể dễ dàng biến tóc mình thành màu thích hợp.

- Vậy thì tại sao anh lại không cho cô ta ăn một thứ bùa yêu và thế là xong? - Cô nói.

- Ồ, không. - Howl nói. - Chơi như vậy là không đúng luật. Và như thế sẽ làm hỏng mọi vui thú.

Lòng thương cảm của Sophie co rúm lại lần nữa. Một trò chơi, phải thế không?

- Có bao giờ anh nghĩ đến cô gái tội nghiệp đó không? - Cô quát.

Howl uống hết chỗ sữa và nhìn chằm chằm vào bình với nụ cười đa cảm:

- Lúc nào tôi cũng nghĩ đến cô ấy, - Anh ta nói. - Lettie đáng yêu, rất đáng yêu.

Lòng thương cảm của Sophie tan biến, ngay tức khắc. Thay vào đó là nỗi lo lắng vô bờ. “Ôi, Martha!” cô nghĩ. Em đã phải bận rộn rồi! Vậy ra không phải là em nói đến một anh chàng nào đó ở Cesari.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2014 23:00:16 | Xem tất
CHƯƠNG 7

Thằng bù nhìn ngăn Sophie rời khỏi lâu đài


Tối hôm đó, chỉ vì cơn đau nhức dữ dội nên Sophie không thể lên đường đi Chợ Chipping. Trận mưa phùn ở Porthaven đã ngấm vào xương cô. Cô nằm trong hốc tường, đau đớn và lo lắng cho Martha. Cũng có thể không tồi tệ đến thế, cô nghĩ. Cô chỉ phải nói cho Martha biết rằng kẻ theo đuổi mà Martha không chắc chắn ấy không ai khác chính là Pháp sư Howl. Điều đó sẽ khiến Martha khiếp sợ mà từ bỏ. Và cô cũng sẽ nói cho Marhta biết cách xua Howl đi là nhận lời yêu anh ta là được.

Sáng hôm sau, khi Sophie trở dậy, các khớp xương vẫn còn răng rắc. - Nguyền rủa mụ Phù thủy xứ Waste! - Cô lẩm bẩm với cây gậy trong khi lấy nó ra và chuẩn bị lên đường. Cô nghe thấy tiếng Howl đang hát trong buồng tắm cứ như thể cả đời anh ta chưa bao giờ lên cơn hờn vậy. Cô nhón chân tập tễnh cố hết sức bước ra cửa thật nhanh.

Dĩ nhiên là Howl ra khỏi buồng tắm trước khi cô ra đến cửa. Sophie nhìn anh ta chua chát. Anh ta trông thật bảnh bao và chải chuốt, với mùi nước hoa thoảng hương hoa táo. Ánh nắng từ cửa sổ chiếu vào làm bộ cánh ghi và tía trở nên chói lòa và tạo thành một vòng hào quang màu hồng nhạt trên tóc anh ta.

- Tôi nghĩ tóc tôi trông khá hợp với màu này. - Anh ta nói.

- Anh nghĩ thế thật à? - Sophie gắt gỏng.

- Nó hợp với bộ cánh này. - Howl nói. - Bà có sửa một chút đúng không? Bằng cách nào đó, bà đã làm bộ vest trông phong cách hơn một chút đấy.

- Hà! - Sophie nói.

Howl dừng lại, bàn tay đặt lên cái núm trên cửa.

- Những cơn đau nhức đang làm bà khổ sở à? - Anh ta nói. - Hay có điều gì làm bà khó chịu?

- Khó chịu? - Sopphie nói. - Tại sao ta lại khó chịu chứ? Có kẻ nào đó chỉ đổ đầy nước thịt đông thiu khắp lâu đài, làm đinh tai mọi người ở Porthaven, làm Calcifer khiếp sợ đến mức rụi thành than, và làm tan vỡ hàng trăm trái tim thôi. Tại sao chuyện đó lại làm ta khó chịu?

Howl cười to:

- Tôi xin lỗi. - Anh ta nói, xoay cái núm cho màu đỏ trỏ xuống đất. - Hôm nay, Đức Vua muốn gặp tôi. Có thể tôi sẽ phải chờ mỏi gối trong Cung điện cho đến tối, nhưng khi về tôi có thể làm gì đó cho bệnh thấp khớp của bà. Đừng quên dặn Michael là tôi để lá bùa đó cho cậu ấy trên bàn. - Anh ta mỉm cười vui vẻ với Sophie và bước ra ngoài giữa những ngọn tháp của Kingsbury.

- Và anh nghĩ điều đó sẽ khiến cho mọi chuyện ổn thỏa! - Sophie làu bàu khi cánh cửa đóng lại. Nhưng nụ cười đó làm cô dịu đi. - Nếu nụ cười đó có tác động tới mình thì chẳng có gì ngạc nhiên khi Martha tội nghiệp không biết nghĩ ngợi ra sao nữa! - Cô lẩm bẩm.

- Tôi cần một khúc củi trước khi cô đi! - Calcifer nhắc.

Sophie tập tễnh đi tới bỏ thêm một khúc củi vào ghi lò. Rồi cô lại bước ra cửa. Nhưng Michael chạy từ trên gác xuống và chộp nốt phần bánh mỳ còn lại trên bàn trong khi chạy về phía cánh cửa.

- Bà không phật ý chứ, phải không ạ? - Cậu ta nói, vẻ rất xúc động. - Cháu sẽ mang theo một ổ bánh mới khi trở về. Cháu có việc gấp phải đi xem xét hôm nay, nhưng tối sẽ về. Nếu ông thuyền trường tàu biển đến lấy bùa gió thì nó nằm ở cuối bàn thợ, dán nhãn rất rõ ràng. - Cậu ta xoay cái núm cho màu xanh lá cây trỏ cuống dưới và nhảy ra sườn đồi lộng gió, ôm chặt chỗ bánh mỳ vào bụng.

- Hẹn gặp lại bà! - Cậu ta hét to khi toàn lâu đài trôi qua mình và cửa đóng sầm lại.

- Thật phiền quá! - Sophie nói. - Calcifer, làm thế nào ai đó mở cửa được nếu trong nhà không có ai?

- Tôi sẽ mở cửa cho cô, hoặc Michael. Howl thì tự mở lấy. - Calcifer nói.

Vậy thì sẽ không ai bị nhốt bên ngoài khi Sophie đi khỏi. Cô cũng không chắc mình sẽ quay trở lại chút nào, nhưng cô không định nói với Calcifer. Cô đợi Michael đi một quãng xa trên đường tới nơi nào đó cậu ta định đến, rồi mới lại đi ra cửa. Lần này, Calcifer ngăn cô lại.

- Nếu cô định đi vắng lâu lâu thì hãy để lại vài khúc củi ở chỗ nào tôi có thể với tới được.

- Lão có thể nhặt củi được à? - Sophie ngạc nhiên dù đang sốt ruột.

Để trả lời, Calcifer thò ra mộ ngọn lửa xanh lơ hình cánh tay, ở cuối được chẻ thành những lưỡi lửa hình ngón tay màu xanh lá cây. Nó không dài lắm, cũng không có vẻ khỏe lắm.

- Thấy chưa? Thậm chí tôi còn có thể với ra được xung quanh lò sưởi nữa kia. - Lão nói vẻ tự hào.

Sophie chồng một đống củi trước ghi lò để ít nhất Calcifer cũng có thể với được những khúc trên cùng.

- Lão chỉ được đốt cháy chúng sau khi đã đặt chúng lên ghi lò sưởi đấy nhé. - Cô cảnh báo Calcifer và lại bắt đầu đi ra cửa.

Lần này có người gõ cửa trước khi cô ra được tới nơi.

Thật là một ngày phiền phức, Sophie nghĩ. Chắc hẳn đó là ông thuyền trưởng. Cô đưa tay xoay cái núm màu xanh lơ quay xuống.

- Không, đó là cửa lâu đài. - Calcifer nói. - Nhưng tôi không chắc lắm...

Vậy thì hẳn là Michael quay lại làm gì đấy, Sophie nghĩ trong khi mở cửa.

Một bộ mặt củ cải liếc nhìn cô đểu cáng. Cô ngửi thấy mùi mốc. Tương phản với bầu trời xanh rộng lớn là một cánh tay tơi tả ở đầu còn lại của chiếc gậy đang quay quanh và cố vồ lấy cô. Đó là thằng bù nhìn. Nó chỉ được làm bằng gậy và giẻ rách, nhưng nó sống và đang cố vào trong.

- Calcifer! - Sophie rú lên. - Cho lâu đài chạy nhanh hơn mau!

Những tảng đá quanh ngưỡng cửa bắt đầu bị nghiến răng rắc và kèn kẹt. Cánh đồng hoang màu xanh - nâu mọc đầy thạch nam đột nhiên chạy vụt qua. Cánh tay gậy của thằng bù nhìn đấm mạnh lên cửa, rồi bắt đầu cào dọc tường khi tòa lâu đài bỏ nó lại đằng sau. Nó vung cánh tay kia lên một vòng và có vẻ cố bám vào bức tường đá. Nó chủ định lọt vào trong lâu đài nếu có thể.

Sophie đóng sầm cửa lại. Điều này phần nào chứng tỏ một cô chị cả ngu ngốc đến thế nào khi định thử tìm vận may cho mình! - Cô nghĩ. Đó là thằng bù nhìn mà cô đã dựng dậy trong bờ giậu trên đường tới lâu đài. Cô đã đùa cợt với nó. Bây giờ, tựa như trò đùa của cô đã thổi sinh khí ác độc vào nó, nó đã đi theo cô suốt đến tận đây và cố vồ vào mặt cô. Cô chạy ra cửa sổ để nhìn xem cái thứ đó có còn cố lọt vào lâu đài nữa không.

Dĩ nhiên, những gì cô nhìn thấy chỉ là một ngày nắng đẹp ở Porthaven, với hàng chục thủy thủ đang căng buồm phía sau những mái nhà đối diện, và một đàn hải âu đang lượn vòng trên bầu trời xanh.

- Đó là cái khó của việc cùng một lúc ở nhiều chỗ! - Sophie nói với cái đầu lâu trên bàn.

Rồi, ngay lập tức, cô phát hiện ra cái bất lợi thực sự của việc là một bà cụ. Tim cô nảy tưng lên và nhộn nhạo, sau đó lại như đang cố bật tung khỏi lồng ngực. Đau đớn. Toàn thân cô run lên, đầu gối hơi rung. Cô còn thoáng nghĩ là mình sắp chết. Cô chẳng thể làm gì, ngoài việc cố đi tới chiếc ghế cạnh lò sưởi. Cô ngồi đó thở hổn hển, ôm chặt lấy ngực.

- Có chuyện gì à? - Calcifer hỏi.

- Ừ. Tim ta. Có một thằng bù nhìn ngoài cửa! - Sophie thở hắt ra.

- Thằng bù nhìn thì liên quan gì đến tim cô kia chứ? - Calcifer hỏi.

- Nó cố lọt vào đây. Nó làm ta sợ chết khiếp. Và tim ta... nhưng lão sẽ không hiểu được đâu, đồ quỷ nhãi ngớ ngẩn ạ. - Sophie thở hổn hển. - Lão làm gì có tim.

- Có, tôi có tim. - Calcifer nói, đầy tự hào hệt như lúc để lộ cánh tay. - Ở chỗ phát sáng dưới những khúc củi ấy. Và đừng có gọi tôi là thằng nhãi. Tôi già hơn cô hàng triệu tuổi! Giờ thì tôi có thể cho lâu đài chạy chậm lại chưa?

- Chỉ khi thằng bù nhìn đã đi khỏi. - Sophie nói. - Nó đã đi chưa?

- Tôi không biết. - Calcifer nói. - Nó không phải bằng xương bằng thịt, cô thấy đấy. Tôi đã nói với cô là tôi không thể thật sự nhìn thấy bên ngoài kia mà.

Sophie đứng dậy và lại lê ra cửa. Cô thận trọng chậm rãi mở cửa. Những con dốc xanh, tảng đá và các con đường dốc tía nhoang nhoáng vút qua khiến cô cảm thấy chóng mặt, nhưng cô bám chặt lấy khung cửa và nhoài người ra nhìn dọc tường ra cánh đồng hoang đang tụt lại phía sau. Thằng bù nhìn ở đằng sau cách lâu đài khoảng năm mươi yard. Nó nhảy lò cò từ lùm thạch nam này sang lùm thạch nam khác với vẻ đằng đằng sát khí, hai cánh tay bằng gậy rung rung dang ra thành một góc để giữ thăng bằng trên sườn đồi. Trong khi Sophie quan sát nó thì tòa lâu đài đã bỏ nó lại xa hơn một chút. Nó đi chậm nhưng vẫn bám theo. Cô đóng cửa.

- Nó vẫn ở ngoài đó. - Cô nói. - Đang nhảy đuổi theo chúng ta. Đi nhanh hơn đi.

- Nhưng như vậy sẽ đảo lộn mọi tính toán của tôi. - Calcifer giải thích. - Tôi định chạy vòng quanh đồi và tối nay sẽ trở lại chỗ Michael đi lúc nãy để kịp đón cậu ấy.

- Vậy thì hãy cho lâu đài chạy nhanh gấp đôi và vòng quanh đồi hai lần. Chỉ cần lão bỏ cái vật kinh khủng đó lại đằng sau là được! - Sophie nói.

- Thật là lộn xộn! - Calcifer làu bàu. Nhưng lão đã tăng tốc độ tòa lâu đài. Lần đầu tiên, cô thực sự có thể cảm nhận thấy nó đang chạy sầm sầm quanh cô khi cô ngồi co rúm người trên ghế, tự hỏi có phải mình sắp chết không. Cô chưa muốn chết chừng nào chưa nói chuyện được với Martha.

Đến cuối ngày, mọi vật trong lâu đài bắt đầu nhảy tưng tưng vì tốc độ của nó. Chai lọ kêu lanh canh. Cái đầu lâu đập lách cách trên bàn. Sophie có thể nghe thấy tiếng mọi vật đổ nhào khỏi giá trong buồng tắm và rơi tung tóe vào bồn tắm chỗ bộ cánh màu xanh bạc của Howl đang ngâm. Cô bắt đầu cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Cô lại lê mình ra cửa và nhìn ra ngoài, mái tóc bay bay trong gió. Mặt đất đang kẻ vạch bên dưới. Những quả đồi dường như quay vòng chầm chậm khi tòa lâu đài tăng tốc chạy qua. Tiếng ken két và rầm rầm suýt làm cô điếc tai, khói phả ra phía sau thành từng đụn. Nhưng đến lúc đó, thằng bù nhìn chỉ còn là một chấm đen bé xíu trên con dốc phía xa. Lần tiếp theo cô nhìn ra nó đã hoàn toàn khuất khỏi tầm mắt.

- Tốt lắm. Vậy thì tôi sẽ dừng lại để nghỉ đêm. - Calcifer nói. - Căng thẳng quá.

Tiếng sầm sầm lặng đi. Mọi vật đã thôi không nhảy tưng tưng. Calcifer đi ngủ, theo cách những ngọn lửa vẫn ngủ, rụt xuống dưới những khúc củi cho đến khi chỉ còn là những khúc than hồng phủ tàn tro trắng, chỉ còn mong manh chút màu xanh lơ và xanh lá cây tít ở bên dưới.

Đến lúc đó, Sophie cảm thấy hoàn toàn hoạt bát trở lại. Cô vào vớt sáu cái gói và một cái chai ra khỏi bồn nước nhơn nhớt. mấy cái gói ướt sũng cả. Sau chuyện hôm qua, cô không dám để mặc chúng như vậy, vì thế cô đặt chúng trên sàn và, rất thận trọng, rắc lên chúng cái thứ trong BỘ KHÔ. Chúng khô gần như ngay lập tức. Điều này thật đáng mừng. Sophie xả nước khỏi bồn và thử rắc thứ BỘ KHÔ lên bộ vest của Howl. Nó cũng khô ngay. Vẫn còn những vết nhớt màu xanh lá cây và phần nào nhỏ hơn trước, nhưng điều đó khiến Sophie phấn chấn hẳn lên khi nhận thấy ít nhất cô cũng có thể làm đúng một cái gì đó.

Cô vui vẻ đến nỗi bận rộn chuẩn bị bữa tối. Cô dồn mọi thứ thành đống ở góc bàn quanh chiếc đầu lâu và bắt đầu thái hành.

- Anh bạn, ít nhất thì mắt của anh cũng không bị chảy nước. - Cô nói với chiếc đầu lâu. - Coi như là diễm phúc của anh.

Cửa bật mở.

Sophie suýt cắt vào tay mình vì sợ hãi, cô nghĩ hẳn lại là thằng bù nhìn. Nhưng đó là Michael. Cậu ta hân hoan nhảy xộc vào. Cậu ta ném phịch một ổ bánh mỳ, một cái bánh nướng và một cái hộp sọc màu hồng trắng lên đống hành. Rồi cậu vòng tay ôm quanh cái eo xương xẩu của Sophie và lôi cô nhảy quanh phòng.

- Tốt cả rồi! Tốt cả rồi! - Cậu ta vui sướng hét to.

Sophie loạng choạng, tập tễnh cố tránh đôi giày ống của Michael.

- Yên nào, yên nào! - Cô thở hổn hển và lập bập giữ con dao tránh để nó đâm phải hai người. - Cái gì tốt cả rồi?

- Lettie yêu cháu! - Michael hét lên và lôi cô nhảy đến sát tận buồng tắm rồi lại sát tận lò sưởi. - Cô ấy thậm chí chưa bao giờ gặp Howl cả! Đó hoàn toàn là một sự nhầm lẫn. - Cậu ta quay tít cả hai người ở giữa phòng.

- Bỏ ta ra trước khi con dao này có thể sẽ đâm phải một trong hai chúng ta. - Sophie kêu lên the thé. - Và có lẽ phải giải thích một chút.

- Hấp - này! - Michael hét lên. Cậu ta xoay tít Sophie tới ghế và ấn cô vào đó, cô ngồi đó và thở hổn hển. - Đêm qua, cháu chỉ ước bà nhuộm tóc ông ấy thành màu xanh da trời! - Cậu ta nói. - Giờ cháu chẳng cần bận tâm nữa. Lúc Howl nói là “Lettie Hatter”, thậm chí cháu còn nghĩ đến chuyện tự mình nhuộm tóc ông ấy thành màu xanh da trời nữa kia. Bà thấy cái kiểu ông ấy nói đấy. Cháu biết ông ấy sẽ bỏ rơi cô gái này, giống như mọi cô gái khác, ngay khi làm cho cô ấy yêu mình. Và khi cháu nghĩ đó là Lettie của cháu, cháu... Dù sao đi nữa, bà biết đấy ông ấy nói là có một anh chàng khác, và cháu nghĩ đó là cháu! Vì thế hôm nay cháu lao xuống Chợ Chipping. Và mọi chuyện đều tốt đẹp! Chắc chắn Howl đang theo đuổi một cô khác cùng tên. Lettie thậm chí chưa bao giờ nhìn thấy ông ấy.

- Nói rõ chuyện này xem nào. - Sophie choáng váng nói. - Chúng ta đang nói đến Lettie Hatter, cô gái đang làm việc ở cửa hiệu bánh ngọt Cesari, đúng không?

- Dĩ nhiên là chúng ta đang nói đến cô ấy! - Michal hân hoan nói. Cháu yêu cô ấy từ khi cô ấy bắt đầu làm việc ở đó, và cháu hầu như đã không thể tin nổi khi cô ấy nói là cô ấy yêu cháu. Cô ấy có đến hàng trăm kẻ ngưỡng mộ. Cháu sẽ không ngạc nhiên nếu Howl là một trong số đó. Cháu thấy nhẹ nhõm làm sao! Cháu mua cho bà một chiếc bánh ngọt ở cửa hiệu Cesari để ăn mừng đây. Cháu để nó ở đâu rồi ấy nhỉ? Ồ, nó đây.

Cậu ta dúi cái hộp kẻ sọc trắng - hồng vào Sophie. Hành củ rơi khỏi chiếc hộp xuống lòng cô.

- Cháu của ta, cháu bao nhiêu tuổi? - Sophie hỏi.

- Tròn mười lăm vào Lễ hội Mùa Xuân vừa rồi. - Michael nói. - Calcifer đã bắn pháo hoa từ lâu đài. Đúng không, Calcifer? Ồ, ông ta ngủ rồi. Có lẽ bà nghĩ cháu còn quá trẻ chưa đến tuổi đính hôn. - Cháu vẫn còn ba năm học việc nữa, và Lettie thậm chí còn lâu hơn, - nhưng chúng cháu đã hứa với nhau, và chúng cháu chẳng bận tâm vì phải chờ đợi.

Vậy thì tuổi tác Michael cũng hợp với Martha, Sophie nghĩ. Và bây giờ cô đã biết cậu ta là một anh chàng tử tế, vững vàng với sự nghiệp pháp sư trước mắt. Chúa phù hộ cho trái tim Martha. Nhớ lại cái ngày lễ hội Mùa Xuân hoang mang ấy, cô nhận ra Michael là một trong đám người hò hét đứng tì lên bàn trước mặt Martha. Còn Howl thì ở ngoài Quảng trường Chợ.

- Cậu có chắc Lettie của cậu nói thật về chuyện Howl không? - Cô lo lắng hỏi.

- Hoàn toàn chắc. - Michael nói. - Cháu biết khi nào cô ấy nói dối. Cô ấy sẽ thôi không mân mê ngón tay cái nữa.

- Nó vẫn làm thế đấy! - Sophie nói, khúc khích cười.

- Làm sao bà biết được? - Michael ngạc nhiên hỏi.

- Vì nó là... em gái... ơ... cháu của em gái ta, - Sophie nói. - và hồi bé nó không được trung thực lắm. Nhưng nó còn rất bé và... ơ... Ồ, giả sử trông nó khác khi nó lớn lên. Nó... ơ... biết đâu khoảng một năm nữa trông nó không giống bây giờ.

- Cháu cũng sẽ thế. - Michael nói. - Những đứa ở tuổi bọn cháu luôn thay đổi mà. Điều này không làm cháu lo lắng. Cô ấy sẽ vẫn là Lettie.

Đấy là nói thôi, Sophie nghĩ.

- Nhưng giả sử nó nói thật, - Cô lo lắng nói tiếp. - và nó chỉ biết Howl dưới một cái tên giả thì sao?

- Đừng lo, cháu đã nghĩ đến chuyện ấy rồi. - Michael nói. - Cháu đã miêu tả Howl. - Bà phải thừa nhận là ông ta rất dễ nhận ra - và cô ấy thật sự chưa nhìn thấy ông ta hay cây ghi ta khốn khổ ấy. Thậm chí, cháu chẳng cần phải nói cho cô ấy biết là ông ta không biết chơi cái thứ đó. Cô ấy chưa bao giờ để mắt đến ông ta, và cô ấy mân mê ngón tay cái mãi khi nói vậy.

- Thật nhẹ nhõm! - Sophie nói và nằm cứng đơ trên ghế. Và dĩ nhiên là nhẹ nhõm vì Martha. Nhưng cô chưa cảm thấy nhẹ nhõm hẳn, vì cô biết chắc chỉ có một Lettie Hatter khác trong vùng mới là Lettie thật. Nếu có người nào khác nữa thì khách vào cửa hiệu mũ trước đây đã phải kháo nhau về chuyện đó rồi. Có vẻ như, Lettie cứng cỏi chính là cô gái không nhượng bộ Howl. Điều làm Sophie lo lắng là Lettie đã nói cho Howl biết tên thật của mình. Có thể con bé chưa chắc chắn về Howl, nhưng cũng đã thích anh ta đến mức tin cậy tiết lộ cho anh ta biết bí mật quan trọng như vậy.

- Bà đừng lo lắng quá như thế. - Michael cười và dựa vào lưng ghế. - Hãy nhìn cái bánh ngọt cháu mua cho bà đi.

Trong khi Sophie bắt đầu mở hộp, cô chợt nhận ra Michael thực sự mến cô, thay vì từng coi cô như một thảm họa tự nhiên. Cô rất hài lòng và mừng đến độ quyết định kể cho Michael toàn bộ sự thật về Lettie và Martha cũng như về bản thân cô. Sẽ công bằng nếu cho cậu ta biết về cái gia đình mà cậu ta định gia nhập.

Cái hộp mở ra. Đó là một cái bánh ngọt ngon lành nhất của Cesari, phủ dầy kem cùng anh đào, và có những nếp cong nhỏ bằng sô cô la.

- Ồ! - Sophie nói.

Cái núm hình vuông trên cửa tự động quay tròn cho chấm đỏ trỏ xuống dưới và Howl bước vào.

- Một cái bánh tuyệt vời làm sao! Đúng loại ta thích đấy! - Anh ta nói. - Cậu lấy nó ở đâu ra thế?

- Cháu... ơ... cháu rẽ vào Cesari. - Michael nói với vẻ bẽn lẽn và ngượng ngập. Sophie ngước nhìn Howl. Bao giờ cũng có một cái gì đó chặn cô lại mỗi khi cô quyết định rằng nói rằng mình đang bị yểm bùa. Và lần này là một pháp sư.

- Có vẻ đáng công đi bộ đấy. - Howl nói và xem xét cái bánh. - Tôi nghe nói bánh của Cesari ngon hơn bánh của bất cứ cửa hiệu nào ở Kingsbury. Tôi thật ngốc vì chưa bao giờ đến đó. Và có phải tôi nhìn thấy một cái bánh nướng trên bàn không nhỉ? - Anh ta đi tới để nhìn. - Chiếc bánh nằm trên đống hành tươi. Đầu lâu người trông có vẻ bị đối xử tệ bạc. Anh ta cầm cái đầu lâu lên và gõ cho củ hành rơi khỏi hốc mắt nó. - Tôi thấy là Sophie lại bắt đầu bận rộn rồi đây. Anh bạn, anh không ngăn nổi bà ấy hả?

Cái đầu lâu lách cách hàm răng với Howl. Howl có vẻ giật mình và vội vã đặt nó xuống.

- Có chuyện gì à? - Michael hỏi. Dường như cậu ta cũng nhận ra dấu hiệu.

- Có. - Howl nói. - Ta sẽ phải tìm ra kẻ nào đó để bôi đen tên tuổi ta với Đức Vua.

- Có chuyện gì không ổn với bùa thùng rượu à? - Micahel nói

- Không. Nó làm việc hoàn hảo. Thế mới rắc rối. - Howl nói và bứt rứt xoay củ hành trên một ngón tay. - Giờ đây Đức Vua đang cố trói chặt ta vào một việc khác. Calcifer, nếu chúng ta không thật cẩn thận, ông ta sẽ chỉ định ta làm Pháp sư Hoàng gia mất.

Calcifer không đáp. Howl đảo mắt nhìn về phía lò sưởi và thấy Calcifer đang ngủ.

- Michael, gọi lão dậy. - Anh ta nói. - Ta cần hỏi ý kiến lão.

Michael ném hai khúc củi vào Calcifer và gọi lão. Chẳng có gì xảy ra, chỉ trừ một sợi khói mỏng manh.

- Calcifer! - Howl hét to. Cũng không ăn thua. Howl đưa mắt nhìn Michael vẻ hoang mang và cầm que cời lửa lên. Sophie chưa nhìn thấy anh ta làm thế bao giờ.

- Calcifer, xin lỗi. - Anh ta nói và chọc xuống dưới những khúc củi chưa cháy. - Dậy đi!

Một đám khói đen kịt cuộn lên, rồi dừng lại.

- Đi đi. - Calcifer càu nhàu. - Tôi mệt.

Nghe thấy thế, Howl có vẻ thực sự hốt hoảng:

- Lão ấy làm sao thế? Ta chưa từng thấy lão ấy như thế bao giờ!

- Ta nghĩ tại thằng bù nhìn đấy. - Sophie nói.

Howl xoay một vòng trên đầu gối và chĩa đôi mắt cẩm thạch nhìn cô:

- Bây giờ bà lại làm gì vậy? - Anh ta tiếp tục nhìn chòng chọc khi Sophie giải thích. - Một thằng bù nhìn? - Anh ta nói. - Calcifer đồng ý cho lâu đài chạy nhanh hơn chỉ vì một thằng bù nhìn à? Sophoe thân mến, vậy thì vui lòng cho tôi biết làm cách nào bà bắt nạt được một con quỷ lò sưởi để lão trở nên phục tùng như vậy. Tôi rất muốn được biết đấy.

- Ta không bắt nạt lão. - Sophie nói. - Nó giáng cho ta một cú và lão thấy thương ta.

- Nó giáng cho bà ấy một cú và Calcifer thấy thương cho bà ấy! - Howl nhại lại. - Sophie tốt bụng của tôi, Calcifer chẳng bao giờ ái ngại cho ai cả. Tiện thể, hy vọng bà xơi bữa tối với hành sống và bánh nguội, vì bà gần như đã dập tắt Calcifer rồi.

- Có bánh ngọt mà. - Michael nói, cố làm hòa.

Thức ăn dường như làm Howl trấn tĩnh hơn một chút, mặc dù suốt bữa ăn, anh ta cứ lo lắng nhìn mãi khúc củi không cháy trong lò sưởi. Bánh nướng nguội ngon lành, và hành cũng khá ngon khi Sophie đem ngâm dấm. Chiếc bánh ngọt thì ngon tuyệt. Trong khi ăn bánh ngọt, Michael đánh liều hỏi Howl xem Đức Vua muốn gì.

- Chưa có gì rõ ràng cả. - Howl rầu rĩ nói. - Nhưng ông ta thăm dò ý kiến của tôi về em trai mình, có vẻ rất đáng ngại. Rõ ràng giữa họ đã có một mối bất hòa khá lớn trước khi Hoàng thân Justin lao vụt đi, và mọi người đang bàn tán. Đương nhiên là Đức Vua muốn tôi tình nguyện đi tìm em Người. Và như một thằng ngớ ngẩn, tôi đã đi và nói rằng tôi không nghĩ Pháp sư Sulliman đã chết, và điều đó làm cho sự việc tồi tệ hơn.

- Tại sao anh lại muốn tránh việc đi tìm Hoàng thân? - Sophie hỏi. - Anh không nghĩ anh có thể tìm được ông ta à?

- Vừa khiếm nhã lại vừa hách dịch phải không bà? - Howl nói. Anh ta vẫn chưa tha thứ cho cô về chuyện Calcifer. - Tôi muốn chuồn khỏi việc đó vì tôi biết tôi có thể tìm được ông ta, nếu đó là chuyện bà cần phải biết. Justin là bạn thân của Sulliman, và chuyện bất hòa đó là vì Hoàng thân nói với Đức Vua là ông ta sẽ đi tìm hắn. Ông ta đã chẳng nghĩ lẽ ra Đức Vua cần phải tống Sulliman đến xứ Waste trước đã. Bây giờ, thậm chí bà cũng phải biết rằng có một quý bà sống ở xứ Waste, kẻ vốn hay gây chuyện xấu xa. Năm ngoái, mụ ta hứa sẽ rán sống tôi, và mụ ta tung một lá bùa đuổi theo tôi và bây giờ tôi vẫn tránh được vì tôi đã khôn ngoan nói cho mụ một cái tên giả.

Sophie gần như sợ hãi:

- Anh muốn nói rằng anh đã bỏ rơi mụ Phù thủy xứ Waste.

Howl cắt cho mình một miếng bánh nữa, trông anh ta buồn bã và đánh kính:

- Nói như thế không đúng lắm. Tôi thừa nhận có một thời tôi tưởng mình yêu mụ ta. Về nhiều mặt, mụ ta là một quý bà buồn rầu và rất đáng ghét. Tất cả đàn ông ở Ingary đều khiếp sợ mụ ta đến cứng cả người. Sophie thân mến, bà hẳn phải biết cảm giác đó như thế nào.

Sophie há hốc miệng phẫn nộ đến tột cùng. Michael vội nói:

- Ông có nghĩ là chúng ta nên di chuyển lâu đài không? Đó chẳng phải là lý do ông sáng chế ra nó sao?

- Chuyện đó phụ thuộc vào Calcifer. - Howl ngoái lại nhìn qua vai những khúc củi bốc khói yếu ớt lần nữa. - Phải nói là nếu tôi nghĩ đến chuyện cả Đức Vua lẫn mụ Phù thủy cùng đuổi theo mình thì tôi chỉ khao khát trồng cái lâu đài này trên một tảng đá khắc nghiệt, đẹp đẽ cách xa đây hàng ngàn dặm.

Rõ ràng Michael chỉ ước mình đã không nói gì. Sophie thấy rõ cậu ta đang nghĩ hàng ngàn dặm là một chặng đường khủng khiếp để đến chỗ Martha.

- Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra với Lettie Hatter của anh, - Cô nói với Howl. - nếu anh rời đi?

- Tôi hy vọng đến lúc đó thì mọi chuyện đã qua. - Howl lơ đãng nói. - Nhưng nếu tôi có thể nghĩ ra cách để Đức Vua đừng đuổi theo tôi... Tôi biết rồi! - Anh ta nâng nĩa lên với một miếng bánh và kem đang tan dính ở trên đó và chỉ vào Sophie. - Bà có thể nói xấu tôi với Đức Vua. Bà có thể giả vờ làm bà mẹ già của tôi và cầu xin cho thằng con trai mắt xanh của bà. - Anh ta dành cho Sophie một nụ cười hẳn đã làm mê mẩn mụ Phù thủy xứ Waste và có thể cả Lettie nữa, nụ cười ấy sáng dọc theo cái nĩa, qua tảng kem và chĩa thẳng vào mắt Sophie, chói lòa. - Nếu bà có thể bắt nạt được Calcifer thì hẳn là Đức Vua sẽ không gây được tí rắc rối nào cho bà.

Sophie nhìn thấu nụ cười chói lòa và không nói gì. Đây chính là chỗ cô phải tránh đi, cô nghĩ. Cô sẽ đi khỏi. Cái giao kèo với Calcifer đã quá tồi tệ rồi. Cô đã chán ngấy Howl. Đầu tiên là nhớt xanh, sau đó thì quắc mắt nhìn cô vì một việc Calcifer tự nguyện làm, rồi bây giờ lại đến chuyện này! Ngày mai cô sẽ chuồn đi Folding Thượng và kể cho Lettie chuyện này.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2014 23:07:57 | Xem tất
CHƯƠNG 8

Sophie rời khỏi lâu đài theo nhiều hướng


Sáng hôm sau, Calcifer cháy sáng, rực rỡ và vui tươi trước sự nhẹ nhõm của Sophie. Nếu không phải vì đã chán ngấy Howl, hẳn cô sẽ cảm động trước sự vui mừng đến thế của Howl khi thấy Calcifer.

- Tôi cứ tưởng bà ấy đã làm lão toi rồi, cái thùng xăng cũ rích ạ. - Howl nói và quỳ trước lò sưởi, ống tay áo quệt cả lên tro.

- Tôi chỉ mệt thôi. - Calcifer nói. - Gần như là phải lôi cả lâu đài đi vậy. Tôi chưa từng bao giờ cho nó chạy nhanh như thế.

- Ồ, chớ để bà ấy bắt lão làm như thế nữa. - Howl nói. Anh ta đứng dậy, duyên dáng phủi tro khỏi bộ cánh xám và tía. - Michael, hôm nay bắt đầu làm lá bùa đó đi. Và nếu có ai từ chỗ Đức Vua đến thì nói là tôi đi vắng vì một việc riêng khẩn cấp, mai mới về. Tôi sẽ đến gặp Lettie, nhưng cậu không phải nói với người đó như thế.

Anh ta cầm cây ghi ta lên và mở cửa với cái núm xanh lá cây trỏ xuống, đoạn bước ra sườn đồi thênh thang phủ mây.

Thằng bù nhìn đã lại ở đó. Khi Howl mở cửa, nó lao sang bên sạt qua anh ra với bộ mặt củ cải gục xuống ngực. Cây ghi ta bật lên một tiếng tưng rợn người. Sophie khẽ oái lên một tiếng kinh hãi và bám chặt vào ghế. Một cánh tay gậy của thằng bù nhìn cào cào một vòng cứng nhắc cố tìm điểm tựa bám vào cửa. Nhìn cách Howl cố ghì hai chân thì rõ ràng anh ta đang bị xô rất mạnh. Thằng bù nhìn chắc chắn đã hạ quyết tâm vào bằng được lâu đài.

Bộ mặt xanh lơ của Calcifer ló ra khỏi ghi lò. Michael đứng đờ ra phía sau.

- Có một thằng bù nhìn thật! - Cả hai cùng nói.

- Ồ, có à? Đã nói rồi mà! - Howl thở hổn hển. Anh ta tì một chân vào khung cửa và đẩy mạnh. Thằng bù nhìn vụng về bay ngược về phía sau và đổ xuống cánh đồng thạch nam cách xa vài yard với một tiếng soạt nhẹ. Nó bật lên tức khắc và lại nhảy lò cò về phía lâu đài. Howl vội đặt cây ghi ta xuống ngưỡng cửa và nhảy tới để đón nó.

- Không, đừng làm thế, bạn thân mến. - Anh ta nói, một tay chìa ra. - Quay về chỗ cũ của cậu đi. - Anh ta chậm rãi bước tới, vẫn chìa một tay ra. Thằng bù nhìn hơi lùi lại, nhảy từng bước chậm rãi và thận trọng lùi lại phía sau. Khi Howl dừng lại, thằng bù nhìn cũng dừng lại, một chân cắm xuống cánh đồng thạch nam, hai cánh tay tơi tả nghiêng ngoẹo sang hai phía như một người đang lấy thế chuẩn bị vào trận đấu. Giẻ rách phất phơ trên cánh tay nó dường như là một sự bắt chước rồ dại theo hai ống tay áo Howl.

- Vậy cậu không đi à? - Howl nói. Và cái đầu củ cải chậm chạp lắc từ bên này sang bên kia. - Không.

- Tôi rất tiếc là cậu sẽ phải đi. - Howl nói. - Cậu làm Sophie sợ, và khi sợ hãi thì không biết bà ấy sẽ làm những trò gì nữa. Nghĩ đến chuyện đó thì cậu cũng làm tôi sợ đấy.

Hai cánh tay Howl chuyển động, nặng nề, như thể anh ta đang phải nâng một quả tạ lớn, cho đến khi nâng cao hơn đầu. Anh ta hét to một từ lạ lùng, tiếng hét bị át đi một nửa bởi tiếng sấm bất ngờ ran lên. Và thằng bù nhìn bắt đầu bay vút đi. Nó bay vèo về phía sau, giẻ rách phất phơ, hai cánh tay bơi bơi chống cự, lên cao, và bay mãi, bay mãi cho đến khi nó chỉ còn là một cái đốm cao vút trên bầu trời, rồi thành một chấm nhỏ biến mất trong những đám mây, rồi không nhìn thấy gì nữa.

Howl hạ tay xuống và quay lại ngưỡng cửa, lấy mu bàn tay lau mặt.

- Sophie, tôi xin rút lại những lời gay gắt của tôi. - Anh ta nói và thở hổn hển. - Cái vật này đáng ngại đấy. Có thể nó đã lôi cả lâu đài lại hôm qua. Nó có thứ pháp thuật mạnh nhất mà tôi từng gặp. Dù nó là cái gì chăng nữa, đó có phải là phần còn lại của người cuối cùng được bà tẩy rửa không?

Sophie bật cười yếu ớt. Tim cô lại cư xử tồi tệ lần nữa.

Howl nhận ra điều gì đó bất ổn trong cô. Anh ta nhảy qua cây ghi ta để vào nhà, nắm lấy khuỷu tay cô và đặt cô ngồi xuống ghế.

- Giờ thì nghỉ ngơi đi! - Có điều gì đó giữa Howl và Calcifer sau đó. Sophie cảm thấy thế, vì Howl vẫn đang giữ chặt tay cô, còn Calcifer vẫn thò mặt ra khỏi ghi lò. Dù đó là gì đi chăng nữa, trái tim cô đã cư xử tử tế trở lại hầu như ngay lập tức. Howl nhìn Calcifer, nhún vai, rồi quay đi để ra cho Michael một lô mệnh lệnh về việc bắt Sophie phải ở yên cả ngày. Rồi anh ta nhặt cây ghi ta lên và cuối cùng thì đi khỏi.

Sophie nằm trên ghế và giả vờ ốm yếu gấp đôi thực tế. Cô phải đợi cho tới khi Howl đi khuất. Thật phiền hà khi anh ta cũng tới Folding Thượng, nhưng cô đi chậm hơn nhiều cho nên sẽ phải tới lúc anh ta bắt đầu về cô mới đến được đó. Điều quan trọng là phải tránh gặp anh ta trên đường. Cô kín đáo quan sát Michael trong khi cậu ta trải lá bùa ra và gí đầu xuống đó. Cô chờ cho đến khi cậu ta lôi những quyển sách bìa da to tướng ở trên giá xuống và bắt đầu ghi chép một cách điên cuồng và tuyệt vọng. Khi cậu ta có vẻ như đã bị cuốn hút hoàn toàn vào công việc, Sophie bắt đầu lẩm bẩm vài lần. - Ở đây ngột ngạt quá!

Michael không để ý.

- Ngột ngạt kinh khủng! - Sophie nói, đứng dậy và lóng ngóng lê ra cửa. - Không khí trong lành. - Cô mở cửa và trèo ra ngoài. Calcifer ngoan ngoãn cho lâu đài đứng yên trong khi cô trèo ra. Sophie đặt chân xuống cánh đồng thạch nam và nhìn quanh để xác định phương hướng. Con đường trên đồi tới Folding Thượng là một dải màu cát dẫn qua cánh đồng ở ngay phía chân đồi tính từ phía tòa lâu đài. Đương nhiên, Calcifer sẽ không gây bất tiện cho Howl. Sophie cất bước đi về phía đó. Cô cảm thấy hơi buồn. Cô sẽ nhớ Michael và Calcifer.

Khi cô sắp ra đến đường thì nghe thấy tiếng hét phía sau. Michael đang lao vọt xuống sườn đồi đuổi theo cô, tòa lâu đài đen thui cao ngất cũng lóc cóc đuổi theo, lo lắng phả những đám khói từ cả bốn tháp canh.

- Bà làm cái gì thế? - Michael nói lúc đuổi kịp cô. Cứ xem cánh cậu ta nhìn cô, Sophie có thể thấy cậu ta tưởng thằng bù nhìn đã làm cho đầu óc cô hỏng mất rồi.

- Ta hoàn toàn khỏe mà. - Sophie bực tức nói. - Ta chỉ đi thăm con bé cháu của em gái ta thôi. Tên nó cũng là Lettie Hatter. Giờ thì cậu đã hiểu chưa?

- Cô ấy sống ở đâu? - Michael hỏi, tựa như nghĩ có thể Sophie không biết.

- Folding Thượng. - Sophie nói.

- Nhưng chỗ đó cách đây những hơn mười dặm kia! - Michael nói. - Cháu đã hứa với Howl sẽ bắt bà nằm nghỉ. Cháu không thể để bà đi được. Cháu đã bảo ông ấy là cháu sẽ không rời mắt khỏi bà.

Sophie thấy đó chẳng phải điều tốt đẹp gì cho cam. Bây giờ Howl nghĩ cô cũng có ích vì anh ta muốn cô đến gặp Đức Vua. Dĩ nhiên, anh ta không muốn để cô rời lâu đài.

- Hừ! - cô nói.

- Hơn nữa, - Michael nói, chậm chạp nắm bắt tình hình. - chắc hẳn Howl cũng đang đi tới Folding Thượng.

- Ta tin chắc anh ta đang tới đó.

- Vậy thì bà đang lo lắng về cô gái này, nếu cô ấy là cháu gái của bà. - Michael nói, khi đã nắm được vấn đề. - Cháu hiểu rồi. Nhưng cháu không thể để bà đi được.

- Ta sẽ đi. - Sophie nói.

- Nhưng nếu Howl gặp bà ở đó, ông ta sẽ điên tiết lên mất. - Michael nói tiếp, tính toán xem mọi chuyện ra sao. - Vì cháu đã hứa với ông ấy nên ông ấy sẽ nổi điên lên với cả hai bà cháu ta. Bà cần phải nghỉ ngơi. - Rồi, khi Sophie đang suýt đánh cho cậu ta một phát thì cậu ta kêu lên. - Khoan đã! Có một đôi ủng bảy lý trong kho để chổi!

Cậu ta nắm lấy cổ tay khẳng khiu của Sophie và lôi cô lên đồi tới chỗ lâu đài đang chờ. Cô buộc phải hơi lò cò để không bị vướng chân vào bụi thạch nam.

- Nhưng, - Cô thở hổn hển. - bảy lý là những hai mốt dặm! Chỉ hai sải chân là ta đi được nửa đường tới Porthaven mất rồi.

- Không, một bước chân chỉ đi được mười dặm rưỡi thôi - Michael nói. - Gần như chính xác tới Folding Thượng rồi còn gì. Nếu mỗi người chúng ta đi một chiếc và cùng đi với nhau, cháu sẽ có thể dõi mắt theo bà và bà sẽ không phải cố sức quá, chúng ta sẽ đến đó trước Howl, thậm chí ông ấy sẽ không biết chúng ta đã đến đó. Như vậy, mọi chuyện sẽ được giải quyết một cách êm thấm.

Michael quá thích chí đến nỗi Sophie không còn tâm trí nào phản đối cậu ta. Cô nhún vai và cho rằng tốt hơn hết là Michael phải biết được về cả hai cô Letie trước khi vẻ ngoài của cả hai đứa được trả lại cho nhau. Như thế này sẽ thành thực hơn. Nhưng khi Michael lấy hai chiếc ủng trong kho ra, Sophie bắt đầu nghi ngại. Cho đến giờ, cô vẫn tưởng đó là hai cái xô da thuộc không hiểu sao bị mất quai và hơi méo.

- Bà phải đặt chân vào đó, cả giày và các thứ khác - Michael giải thích trong khi xách hai vật nặng trịch hình cái xô ra cửa. - Đây là nguyên mẫu của những đôi ủng mà Howl đã làm cho quân đội của Đức Vua. Chúng cháu đã cố làm được cho những đôi ủng sau này nhẹ hơn và giống hình chiếc ủng hơn.

Cậu ta cùng Sophie ngồi xuống bậu cửa và mỗi người xỏ một chân vào một chiếc ủng.

- Bà phải quay về phía Folding Thượng trước khi đặt chân xuống đất. - Michael căn dặn. Hai người đứng lên bằng chân đi giày thường và thận trọng quay người đối diện về phía Folding Thượng.

- Nào, bước! - Michael nói.

Roạt! Ngay lập tức, phong cảnh xung quanh trôi qua vùn vụt nhanh đến nỗi chỉ còn là một đám lờ mờ nhoáng nhoàng, một đám nhoáng nhoàng xám lục thay cho mặt đất và một đám nhoáng nhoàng xanh lơ thay cho bầu trời.

Gió vùn vụt khi họ di chuyển, xé cả tóc Sophie và kéo mọi nếp nhăn trên mặt cô về phía sau đến mức cô nghĩ mình sẽ tới nơi với nửa bộ mặt nằm lại phía sau tai.

Cuộc nhoáng nhoàng dừng lại đột ngột hệt như khi bắt đầu. Mọi vật thật bình thản và ngập nắng. Họ đứng giữa bụi mao lương hoa vàng ngập đến gối, ngay giữa khoảng đất công cộng của làng Folding Thượng. Một con bò gần đó trố mắt nhìn họ. Phía sau nó, những nếp nhà tranh lơ mơ ngủ dưới lùm cây. Không may, chiếc ủng hình xô quá nặng khiến Sophie loạng choạng lúc đỗ xuống.

- Đừng đặt chân đó xuống đất! - Michael gào lên, quá muộn.

Rồi một đám roàn roạt nhoáng nhoàng khác và một trận gió vùn vụt nữa lại nổi lên. Lúc mọi thứ dừng lại, Sophie thấy mình đang ở ngay Thung lũng Folding, gần đền Đầm lầy Folding.

- Ồ, chết tiệt! - Cô nói và thận trọng nhảy lò cò bằng bên chân đi giày thường và thử lần nữa.

Roạt! Nhoáng nhoàng. Và cô trở lại trên bãi cỏ của Folding Thượng, loạng choạng bổ nhào về phía trước dưới sức nặng của chiếc ủng. Cô thoáng nhìn thấy Michael nhào tới tóm mình...

Roạt! Nhoáng nhoàng.

- Ồ, chán quá! - Sophie rên lên. Cô lại ở trên đồi. Cái bóng đen khoằm khoằm của tòa lâu đài đang bình yên bồng bềnh gần đó. Calcifer đang tự mua vui cho mình bằng cách thổi những vòng khói đen từ một tháp canh. Sophie nhìn thấy chúng rất lâu trước khi bên chân đi giày thường của cô chạm xuống cánh đồng thạch nam và cô lại nháo nhào bổ về phía trước.

Roạt! Roạt! Lần này, trong chớp nhoáng, Sophie liên tiếp đến thăm Quảng trương Chợ ở Chợ Chipping và bãi cỏ phía trước của một tòa biệt thự sang trọng.

- Phù! - Cô kêu lên. - Chết tiệt.

Mỗi từ cô kêu lên là một nơi mới. Và cô lại lao đi theo quán tính lần nữa và lại một tiếng “Roạt!” khác ngay cuối cái thung lũng trên một cánh đồng ở đâu đó. Một con bò đực đỏ to tướng nghển cái mũi bị xỏ dây khỏi đám cỏ và tư lự cúi đôi sừng xuống.

- Ta đi đây, con vật tốt bụng ạ. - Sophie kêu lên và cuống cuồng lò cò nhảy quanh.

Roạt! Trở lại ngôi biệt thự. Roạt! Về Quảng trường Chợ. Roạt! Và tòa lâu đài lại kia rồi. Cô đã đỗ xuống mặt dốc của nó. Roạt! Folding Thượng đây rồi - nhưng dừng lại thế nào ấy nhỉ? Roạt!

- Ôi, đồ chết tiệt! - Sophie kêu lên, lại suýt rơi xuống Đầm lầy Folding.

Lần này, cô thận trọng nhảy lò cò vòng quanh và cân nhắc kĩ lưỡng trước khi đặt chân xuống. Roạt! May thay chiếc ủng đậu xuống một bãi phân bò và cô ngồi phịch xuống. Michael vọt đến trước khi cô kịp động đậy và tháo chiếc ủng ra khỏi chân cô.

- Cám ơn cậu. - Sophie nói, đứt cả hơi. - Dường như chẳng có lí do gì khiến ta phải dừng lại cả!

Tim Sophie đập hơi mạnh khi hai người đi ngang qua bãi cỏ công cộng để đến nhà bà Fairfax, nhưng cũng chỉ đập mạnh như mọi khi người ta làm gì nhiều và hơi quá nhanh. Cô cảm thấy rất biết ơn về bất cứ điều gì mà Howl và Calcifer đã làm.

- Một nơi rất đẹp! - Michael nhận xét khi giấu đôi ủng vào hàng giậu nhà bà Fairfax.

Sophie cũng thấy vậy. Ngôi nhà to nhất làng. Mái nhà lớp bằng rơm khô, với những bức tường trắng giữa những hàng cột đen, và, theo kí ức của Sophie từ những lần cô đến đây hồi bé thì bạn sẽ đi qua một khoảnh vườn phủ đầy hoa và vo ve tiếng ong để bước tới hiên nhà. Trên mái hiên, một bụi kim ngân và một bụi hồng leo trắng đang ganh đua nhau xem ai có thể làm bầy ong bận rộn. Đó là một buổi sáng mùa hè lý tưởng ở Folding Thượng.

Đích thân bà Fairfax ra mở cửa. Bà là một trong những phụ nữ phốp pháp, dễ chịu với những lọn tóc màu bơ cuộn quanh đầu, kiểu người mà chỉ cần nhìn bạn đã cảm thấy cuộc sống có phần dễ chịu. Sophie thoáng cảm thấy hơi ghen tị với Lettie một chút. Bà Fairfax hết nhìn Sophie lại nhìn sang Michael. Bà đã gặp Sophie năm ngoái, khi cô còn là thiếu nữ tuổi mười bảy, và chẳng có lí do gì để bà ấy có thể nhận ra cô trong bộ dạng một bà cụ chín mươi.

- Xin chào cụ. - Bà lịch sự nói.

Sophie thở dài. Michael nói:

- Đây là bà cô của Lettie Hatter, cháu đưa bà ấy đến đây để gặp Lettie.

- Ồ, tôi cũng nghĩ là trông mặt quen quen. - Bà Fairfax kêu kên. - Đúng là nét hao hao trong cùng gia đình. Mời vào đi ạ. Lettie đang bận chút việc, nhưng xin mời nếm chút bánh nướng và mật ong trong khi chờ cô ấy.

Bà mở cho cửa chính rộng thêm. Ngay lập tức, một con chó cô-li to tướng len qua vạt váy của bà Fairfax, sủa giữa Sophie và Michael, rồi chạy qua luống hoa gần nhất, giật hoa hết bên trái lại bên phải.

- Ôi, chặn nó lại! - Bà Fairfax thở hổn hển, lao ra đuổi theo con chó. - Tôi không muốn thả nó ra bây giờ!

Mất khoảng một phút chạy toán loạn, con chó chạy từ chỗ nọ sang chỗ kia, nhào lộn, luồn lách và bà Fairfax cùng Sophie nhảy qua các luống hoa đuổi theo con chó, còn Michael đuổi theo Sophie, miệng kêu lên:

- Đứng lại! Bà làm cho mình phát ốm mất.

Rồi con chó bắt đầu nhảy cẫng quanh một góc nhà. Michael nhận ra cách để ngăn Sophie là phải chặn con chó lại. Cậu ta chạy cắt ngang qua mấy luống hoa, lao quanh ngôi nhà để đuổi theo con chó, rồi tóm được nó với đôi tay túm chặt vào lớp lông dày đúng lúc nó ra tới vườn quả sau nhà.

Sophie tập tễnh đi tới và thấy Michael đang lôi con chó vào và nhăn mặt với cô rất lạ nên thoạt đầu cô tưởng cậu ta bị ốm. Nhưng cậu ta cứ hất đầu liên tục về phía vườn quả khiến cô hiểu ra cậu ta chỉ đang cố nói với cô điều gì đó. Cô thò mặt qua góc tường và tưởng sẽ thấy một đàn ong.

Howl đang ở đó với Lettie. Họ ngồi dưới một lùm táo rêu phong với muôn hoa nở rộ, và một dãy tổ ong phía xa xa. Lettie ngồi trên một chiếc ghế màu trắng đặt ngoài vườn. Howl quỳ một chân trên cỏ, dưới chân Lettie, nâng bàn tay cô lên vẻ rất quý tộc và nồng nàn. Lettie mỉm cười yêu thương với anh ta. Nhưng tệ nhất - Sophie chỉ quan tâm có thế - là Lettie trông chẳng giống Martha chút nào. Cô giữ nguyên vẻ đẹp tuyệt trần của mình. Lettie mặc chiếc áo dài màu hồng và trắng tựa như màu đám hoa táo chi chít trên đầu. Mái tóc đen của cô đổ thành từng búp óng mượt tỏa xuống một bên vai và ánh mắt cô ngời sáng nhìn Howl đầy chan chứa.

Sophie rụt đầu khỏi góc nhà và thất thần nhìn Michael, khi cậu ta giữ con chó cô-li đang rên ư ử

- Hẳn là ông ấy dùng bùa tốc độ. - Michael nói, vẻ hoảng hốt chẳng kém.

Bà Fairfax đuổi kịp họ, thở hổn hển và cố cài lại một vòng tóc bị tuột trên mái tóc màu bơ.

- Con chó hư quá! - Bà nói với con chó cô-li, giọng thì thầm nhưng dữ dội. - Lần sau mà thế ta sẽ ếm cho mày một lá bùa đấy!

Con chó chớp mắt và cúi xuống. Bà Fairfax chỉ một ngón tay nghiêm khắc:

- Đi vào nhà! Ở yên trong nhà!

Con chó cô-li vùng khỏi tay Michael và lại lẻn qua góc nhà.

- Cám ơn cậu quá! - Bà Fairfax nói với Michael trong khi tất cả mọi người đi theo con chó. - Nó sẽ cố cắn khách của Lettie. Ở trong nhà! - Bà nghiêm khắc hét to ở vườn trước, vì con chó cô-li có vẻ nghĩ đến chuyện vòng ra sau nhà và chạy ra vườn quả bằng đường khác. Con chó ngoái lại buồn bã nhìn bà và chán nản lê qua hiên để vào nhà.

- Có thể con chó đó nghĩ đúng đấy. - Sophie nói. - Bà Fairfax, bà có biết khách của Lettie là ai không?

Bà Fairfax cười khúc khích:

- Pháp sư Pendragon, hay là Howl, hay bất cứ cái tên nào anh ta tự xưng. - Bà nói. - Nhưng Lettie và tôi không để lộ là chúng tôi đã biết. Tôi rất buồn cười cái lần đầu tiên anh ta xuất hiện, xưng là Sylvester Oak, vì tôi nhận thấy là anh ta đã quên tôi, mà tôi thì không hề quên anh ta, mặc dù hồi đi học tóc anh ta màu đen. - Lúc này, bà Fairfax khoanh tay trước ngực và đứng thẳng, chuẩn bị nói chuyện suốt ngày, như cái cách Sophie thường thấy ở bà. - Bà biết đấy, anh ta là học sinh cuối cùng của cô giáo cũ của tôi, trước khi bà ấy nghỉ hưu. Hồi ông Fairfax còn sống, thỉnh thoảng ông ấy thích tôi chở cả hai đi Kingsbury để xem biểu diễn. Nếu đi chậm chậm một chút, tôi có thể chở được cả hai một cách ngon lành. Và khi đến đó, bao giờ tôi cũng ghé vào nhà bà lão Pentstemmon. Bà thích giữ liên lạc với học sinh cũ. Và có lần bà giới thiệu anh bạn trẻ Howl này với chúng tôi. Ồ, bà tự hào về anh ta. Bà cũng dạy cả Pháp sư Sulliman nữa, bà biết đấy, nhưng bà nói là Howl giỏi gấp đôi...

- Nhưng bà không biết điều tiếng gì về Howl à?

Chen vào câu chuyện của bà Fairfax cũng giống như chen vào sợi dây nhảy đang quay vậy. Phải chọn đúng lúc, nhưng một khi đã chen vào được thì tức là được. Bà Fairfax hơi quay lại đối diện với Michael.

- Theo tôi nghĩ đó hầu hết chỉ là những chuyện đồn thổi thôi. - Bà nói. Michael há miệng để nói là không phải thế, nhưng lúc đó cậu ta bị qua lượt và dây vẫn đang quay. - Và tôi nói với Lettie, “Cháu yêu, đây là cơ hội lớn của cháu đấy”. Tôi biết Howl có thể dạy nó tốt hơn tôi gấp hai mươi lần - vì tôi cũng chẳng ngại gì mà nói với bà rằng đầu óc Lettie vượt xa tôi, và con bé có thể tiến tới đẳng cấp của mụ Phù thủy xứ Waste, chỉ có điều là theo chiều hướng tốt. Lettie là một cô gái ngoan và tôi yêu quý nó. Nếu bà Pentstemmon vẫn còn dạy học thì ngay ngày mai tôi sẽ gửi nó đến đó. Nhưng bà ấy không còn dạy nữa. Vì thế tôi nói, “Lettie, anh chàng Pháp sư Howl này đang tán tỉnh cháu, và cháu có thể làm điều tệ hơn là đem lòng yêu anh ta, hãy để anh ta trở thành thầy giáo của cháu. Hai đứa cháu sẽ đi xa đấy”. Tôi nghĩ lúc đầu Lettie không chịu nhiệt tình với ý tưởng này lắm, nhưng sau đó nó dịu dần, và hôm nay mọi chuyện có vẻ tiến triển tốt đẹp.

Nói đến đây, bà Fairfax dừng lại tươi cười hiền hậu nhìn Michael, và Sophie táo bạo chen vào vòng dây để giành lượt:

- Nhưng có người nói với tôi là Lettie yêu một anh chàng khác. - Cô nói.

- Tội nghiệp cho anh ta, bà muốn nói thế chứ gì. - Bà Fairfax nói. Bà hạ giọng. - Một sự bất lực khủng khiếp, - Bà thì thầm giọng gợi nhớ. - và như thế là đòi hỏi quá nhiều ở một cô gái. Tôi đã nói với anh ta điều đó. Thực lòng tôi cũng thấy thương anh ta...

Sophie cố thốt lên một tiếng “Ồ” bối rối.

- ... nhưng đó là một lá bùa mạnh rất đáng sợ. Thật buồn. - Bà Fairfax tiếp tục. - Tôi phải nói với anh ta là một kẻ với khả năng như tôi thì không đời nào có thể giải được lá bùa do mụ Phù thủy xứ Waste ếm. Howl thì may ra, nhưng dĩ nhiên anh ta không thể nhờ Howl được, đúng không?

Đến đây, mặc dù vẫn lo lắng nhìn về phía góc nhà để đề phòng Howl đi qua đó và phát hiện ra họ, Michael vẫn cố giẫm được lên sợi dây đang quay và chặn nó lại bằng câu nói, “Cháu nghĩ có lẽ chúng ta nên đi thì hơn.”

- Có thật các vị không vào nhà nếm chút mật ong của tôi không? - Bà Fairfax hỏi. - Hầu như lá bùa nào của tôi cũng dùng nó, bà biết đấy.

Rồi bà ta lại tiếp tục, lần này về những đặc tính thần kỳ của mật ong. Michael và Sophie cố ý đi dọc con đường dẫn ra cổng và bà Fairfax bị cuốn đi theo họ, nói liên tục, vừa nói vừa thương xót dựng thẳng những cây bị con chó uốn cong. Trong khi đó, Sophie lục lọi trong óc cố tìm hiểu xem vì sao bà Fairfax biết được Lettie là Lettie mà không làm Michael phật lòng. Bà Fairfax dừng lại để thở một chút vì bà vừa kéo một cây đậu lupin to đứng thẳng lên.

Sophie nhảy vào:

- Bà Fairfax, thế không phải là con bé Martha cháu tôi mới là người phải đến chỗ bà à?

- Hai con bé hư đốn! - Bà Fairfax nói, mỉm cười lắc đầu khi chui ra từ bụi đậu lupin. - Chúng làm như tôi sẽ không nhận ra được một trong những bùa có mật ong của mình không bằng. Nhưng lúc đó tôi nói với nó. “Ở đây không có chuyện giả vờ nào hết. Cháu phải là chính cháu, nếu không thì thôi.”. Và kết quả rất đáng hài lòng, như bà thấy đấy. Có thật là bà không định ở lại và tự mình hỏi chuyện nó không?

- Tôi nghĩ tốt hơn là chúng tôi nên đi thôi. - Sophie nói.

- Bà ấy và cháu phải về. - Michael nói thêm, với một cái nhìn lo lắng nữa về phía vườn quả. Cậu ta nhặt đôi ủng bảy lí trong hàng rào ra và đặt một chiếc ngoài cổng cho Sophie. - Và lần này cháu sẽ ôm chặt lấy bà. - Cậu ta nói.

Bà Fairfax nhoài ra cổng trong khi Sophie đặt một chân vào chiếc ủng:

- Bảy lý, - Bà nói. - bà có tin bao năm nay tôi đã không được nhìn thấy đôi nào cả. Rất hữu ích cho một người ở tuổi bà. Ơ... Những ngày này, tôi sẽ không từ chối nếu có được một đôi. Vậy ra con bé Lettie được thừa hưởng năng khiếu pháp thuật từ bà phải không ạ? Cái đó không nhất thiết phải được truyền mãi trong các gia đình, nhưng thường thì không...

Michael nắm cánh tay Sophie và kéo. Cả hai chiếc ủng đặt xuống đất, phần cuối câu nói của bà Fairfax tan biến trong tiếng “Roạt!” và không khí vùn vụt. Tiếp sau đó, Michael phải trụ chân lại để khỏi bị va vào lâu đài. Cửa mở. Bên trong, Calcifer đang gầm lên:

- Mở cửa cho Porthaven! Từ lúc hai người đi đến giờ có ai đó đập cửa sầm sầm mãi!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách