|
Gateway Arch cách ga vài dãy nhà. Giờ đã là cuối ngày. Dòng người xếp hàng lên đỉnh tham quan đã vãn. Chúng tôi băng qua viện bảo tàng dưới lòng đất, xem xe đẩy và thuyền mành của người da đỏ có từ đầu thế kỷ mười bảy. Tuy không thú vị lắm nhưng nghe Annabeth nhiệt tình thuyết minh về tiến trình xây cổng vòm, được Grover liên tục giúi kẹo vào tay nên tôi cũng thấy hay hay.
Tuy nhiên, tôi luôn cảnh giác quan sát đoàn người xếp hàng xem có gì khác thường chăng.
Tôi ghé tai Grover hỏi nhỏ:
- Cậu ngửi thấy gì không?
Nó nhăn mặt bảo:
- Không khí dưới lòng đất luôn có mùi yêu quái. Chắc không có gì đáng ngại đâu.
Nhưng tôi thấy bất an, bụng bảo dạ đáng lẽ cả ba không nên đến đây.
- Này, các cậu biết biểu tượng sức mạnh thần thánh là gì không?
Đang đọc về thiết bị xây dựng dùng xây cổng vòm, Annabeth ngẩng lên hỏi:
- Là gì?
- À, là Hades…
Grover đằng hắng:
- Ta đang giữa chốn đông người… cậu vừa nhắc đến ông bạn “dưới lầu” phải không?
- Ừ, tít tận dưới đó. Có phải ông ta cũng có mũ giống mũ Annabeth?
Annabeth đáp:
- À, mũ sắt của thần bóng tối. Phải, biểu tượng quyền uy đấy. Hôm các thần họp cuối năm, tức ngày Đông chí, tớ thấy mũ đặt cạnh ghế của Hades.
- Ông ta cũng đến à?
Annabeth gật đầu:
- Ngày tối trời nhất trong năm, ngày duy nhất Hades lên đỉnh Olympus. Nhưng theo tớ biết, mũ của Hades công năng kỳ diệu hơn mũ tàng hình này nhiều…
Grover công nhận:
- Nhờ nó, Hades tan vào bóng tối, đi xuyên tường. Không ai chạm tới, nhìn hoặc nghe tiếng ông ta. Đồng thời, Hades biết cách gây nên cơn hoảng loạn ghê gớm đến mức làm người ta phát điên hoặc đứng tim. Thử nghĩ xem, sao có người cực kỳ duy lý vẫn sợ bóng tối?
- Nhưng… giả sử lúc này ông ta đội mũ tàng hình có mặt ngay đây, sao ta biết được?
Annabeth và Grover lo lắng nhìn nhau:
- Không ai biết cả.
- Chà, đa tạ. Giờ tớ ăn không ngon ngủ không yên rồi đây. Còn kẹo dẻo không?
Vừa thấy khoang thang máy bé xíu chạy lên đỉnh mái vòm, tôi giật thót mình. Linh tính mách bảo tôi sắp gay go to. Tôi ghét không gian hẹp lắm. Nếu bị ép vào đó, đầu óc tôi sẽ bấn loạn mất.
Chúng tôi bị nhồi vào thang máy có sẵn bà béo ục ịch dắt con chó dữ giống Chihuahua, đeo cổ dề gắn kim cương giả. Tôi tưởng ở đây cấm chó nhưng khổ nỗi thấy nó, không nhân viên nào kêu ca một tiếng.
Chúng tôi bắt đầu đi lên. Chưa bao giờ đi thang máy theo đường vòng cung thế này nên tôi hơi buồn nôn.
Bà béo hỏi trống không:
- Bố mẹ không đưa cùng à?
Mắt bà ta tròn xoe, răng nhọn và đen như người nghiện cà phê. Bà này đội mũ vải jeans, mặc váy may cùng chất liệu vải chật cứng, ngấn thịt nổi từng cuộn khiến bà ta trông giống quả khinh khí cầu bọc vải.
Annabeth đáp:
- Họ ở dưới. Sợ độ cao mà.
- Ôi, tội nghiệp chưa.
Chú khuyển Chihuahua gầm gừ. Bà chủ nhắc:
- Thôi nào Sonny, ngoan nào.
Mắt chó tròn xoe như mắt chủ: vừa hằn học vừa như nhìn thấu mọi vật.
Tôi hỏi:
- Tên nó là Sonny ư?
- Không.
Đáp xong, bà ta mỉm cười như thể tôi có nghĩa vụ hiểu cho tường tận.
Lên đỉnh mái vòm, gian nhà dành cho khách tham quan đứng ngắm cảnh gợi cho tôi hình ảnh trại giam bé xíu trải thảm đỏ. Bên tường này là dãy cửa sổ tí tẹo nhìn xuống thành phố. Cửa sổ tường bên kia nhìn xuống sông.
Tuy phong cảnh đẹp nhưng với tôi, thứ đáng ghét hơn không gian hẹp là một không gian đã hẹp lại còn lơ lửng giữa trời, cách mặt đất gần ba trăm thước. Tôi chỉ muốn về ngay.
Kéo Annabeth và Grover ra cửa, đẩy hai đứa vào xe điện, tôi định chui vào cùng nhưng phát hiện trong xe có sẵn hai người khác. Không còn chỗ cho tôi nữa rồi.
Bảo vệ nhắc:
- Cậu này đi xe sau.
Annabeth kêu lên:
- Vậy tụi tôi cũng ra. Chúng tớ cùng đợi với cậu.
Biết làm thế phiền mọi người và tốn thời gian, tôi bảo:
- Không cần đâu. Đợi tớ ở dưới được rồi.
Cả Grover và Annabeth đều lo lắng, nhưng họ đành buông tay để cánh cửa xe sập lại.
Xe điện mất hút dưới bờ dốc.
Giờ trên khu ngắm cảnh chỉ còn tôi, một cậu bé đi chung với bố mẹ, nhân viên an ninh và bà béo dắt chú khuyển Chihuahua.
Tôi ngượng ngập cười xã giao với bà béo. Lúc bà ta cười đáp lễ, đầu lưỡi chẻ đôi lấp ló sau hai hàm răng.
Gượm đã.
Lưỡi bà ta chẻ đôi!
Trước khi tôi kịp kiểm tra lại xem mình có nhìn nhầm chăng, con chó dữ đã nhảy xổ về phía tôi sủa ông ổng.
Bà béo vỗ về nó:
- Chưa đâu, cưng. Giờ chưa phải lúc. Người vô can còn đứng cả đây mà.
Cậu bé kêu lên:
- Chó! Chó kìa.
Bố mẹ cậu bèn kéo con lùi lại.
Con Chihuahua nhe nanh doạ tôi, bọt mép trào ra, dính đầy đôi môi thâm xì.
Bà béo thở dài:
- Thôi được rồi, con trai. Mày thích thì tao chiều.
Tôi lạnh cả người:
- Bà vừa gọi con Chihuahua này là con trai ư?
Bà ta sửa gáy:
- Chimera(1), không phải Chihuahua. Dễ nhầm quá phải không?
Mụ ta xắn tay áo, để lộ cẳng tay đóng vảy xanh lè. Lúc mụ cười, răng biến thành nanh hết. Hai tròng mắt mụ chạy sang hai thái dương, giống mắt bò sát.
Con chó sủa to hơn. Sau mỗi tiếng sủa, nó phình to ra. Lúc đầu to bằng người, sau to bằng sư tử. Tiếng sủa lớn như tiếng hổ rống.
Cậu bé hét lên. Bố mẹ cậu lôi tuột con ra cửa, thẳng tới chỗ nhân viên an ninh đang đứng chết sững, kinh hoàng nhìn quái thú.
Con Chimera cao đến độ lưng nó chạm nóc nhà.
Quái thú đầu sư tử có bờm bết máu khô, mình và bốn chân móng guốc như dê, đuôi là con rắn độc ngoe nguẩy. Con rắn to như con trăn dài ba thước vươn dài từ sau cặp mông lông lá. Vòng cổ đính kim cương giả vẫn trên cổ nó, bảng tên ghi rõ: “CHIMERA, HUNG DỮ, KHẠC RA LỬA, RĂNG CÓ NỌC ĐỘC. NẾU AI TÌM THẤY XIN GỌI ĐẾN TARTARUS, số nội bộ 954”.
Tôi nhận ra tôi chưa mở nắp cây kiếm. Hai bàn tay tê dại. Chỉ cách bụng dính máu khô của Chimera mười bước chân, tôi biết nếu thấy động nó sẽ lao ngay đến.
Bà rắn cười phì phì như tiếng hổ mang bành:
- Percy Jackson, hẳn ngươi tự hào lắm. Hiếm khi Zeus cho phép ta mang con trai đi tỉ thí với anh hùng. Nhớ lấy: Ta là phù thuỷ Echidna, mẹ của bầy quái thú.
Tôi trố mắt nhìn mụ, buột miệng:
- Tưởng Echidna là thú ăn kiến chứ?
Mụ rống lên, mặt tím bầm giận dữ:
- Hễ nghe nói vậy, ta bừng bừng lửa hận. Ta ghét dân châu Úc, đem tên ta đặt cho loài cầm thú quái dị đó. Ngươi dám xúc phạm ta, con trai ta sẽ xé xác ngươi.
Chimera xông tới, nhe hàm răng sư tử nhọn hoắt. Tôi nhanh nhẹn nhảy sang bên tránh cú đớp khủng khiếp.
Cú nhảy đưa tôi đến cạnh gia đình cậu bé và nhân viên an ninh. Bốn người họ đều kêu cứu inh ỏi, cố mở cửa lối thoát hiểm.
Tôi không thể khoanh tay nhìn họ bị hại.
Mở nắp bút, tôi chạy sang mé bên kia phòng, miệng hét tướng:
- Này, Chihuahua!
Quái thú Chimera quay ngoắt, nhanh hơn tôi tưởng.
Trước khi tôi kịp vung kiếm, nó há hoác miệng. Sau hơi thở khét lẹt mùi thịt cháy như khói từ lò nướng thịt khổng lồ, một luồng lửa đỏ phụt thẳng vào tôi.
Tôi nằm bẹp xuống tránh. Kế đến là khói mù mịt, thảm bốc cháy và hơi nóng thiêu rụi lông mày tôi.
Ngay chỗ tôi đứng khi nãy là lỗ hổng toang hoác bên sườn cổng vòm. Khói từ kim loại nóng chảy bốc quanh miệng hố.
Tôi nhủ thầm: “Chết thật. Mình vừa góp tay phóng hoả công trình tầm cỡ quốc gia.”
Kiếm Thuỷ Triều hiện nguyên hình trên tay tôi. Chờ Chimera quay lại, tôi nhắm cổ nó đâm lên.
Thật là sai lầm chết người.
Lưỡi kiếm đâm trúng vòng cổ, toé lửa. Con vật không hề hấn gì. Tôi loạng choạng cố đứng vững. Nhưng mải tránh miệng sư tử hung hăng, tôi mất cảnh giác với đuôi rắn. Con rắn độc vút đến, cắm phập nanh vào bắp chân tôi.
Toàn chân tôi như có lửa thiêu. Tôi cố đâm mũi kiếm vào miệng Chimera nhưng bị đuôi rắn quấn quanh cổ chân, lôi tôi ngã nhào. Kiếm tuột khỏi tay văng đến lỗ thủng khi nãy và rơi xuống dòng Mississippi.
Cố đứng dậy được nhưng tôi biết mình thua. Tôi không có vũ khí trong lúc nọc rắn theo máu chạy lên tận ngực.
Tôi nhớ bác Chiron bảo kiếm luôn quay về với chủ nhưng túi tôi hiện giờ không có bút. Có lẽ nó rơi quá xa. Có lẽ nó chỉ trở về dưới dạng bút thường. Tôi không biết về nó, chỉ biết tôi không còn sống đến lúc đoán cho ra.
Tôi lùi trở lại lỗ thủng. Chimera gầm gừ tiến đến, miệng thở khói cuồn cuộn.
Phù thuỷ rắn Echidna đắc thắng:
- Thời nay anh hùng bì sao được thời xưa, phải không con trai?
Quái thú tru lên. Thấy tôi tơi tả, nó nóng lòng muốn kết liễu tôi cho xong.
Liếc nhìn nhân viên an ninh và gia đình cậu bé, tôi thấy cậu ta núp sau chân bố.
Tôi phải bảo vệ họ, chết bây giờ… không phải lúc!
Tôi cố nghĩ cách nhưng toàn thân nóng rực. Đầu óc quay cuồng.
Tôi không có gươm. Trước mặt tôi là quái thú khạc ra lửa và phù thuỷ mẹ nó. Còn tôi đang run sợ.
Không còn chỗ để lùi thêm nữa, tôi đã tiến sát miệng hố. Tít phía dưới kia là dòng sông lóng lánh ánh bạc.
Nếu tôi chết, mẹ con quái thú có bỏ đi không? Chúng có tha những người vô tội kia không?
Echidna rú rít:
- Nếu đúng con thần Poseidon, ngươi đâu sợ nước. Ta thách ngươi nhảy xuống sông đấy. Nếu không chứng minh được nước không làm hại ngươi, ngươi chẳng là cái thá gì cả. Nhảy xuống vớt gươm lên xem nào. Thế mà cứ huênh hoang ta đây con dòng cháu giống.
Tôi nghĩ thầm: “Đúng rồi.”
Tôi nhớ có sách dạy rằng nhảy từ trên cao, khoảng cách bằng toà nhà hai tầng xuống nước giống lao thẳng xuống nền nhựa đường. Còn từ độ cao này, da thịt tôi sẽ nát nhừ.
Miệng con Chimera đỏ rực, chuẩn bị khạc lửa.
Mụ Echidna bảo tôi:
- Ngươi không có lòng tin. Không tin tưởng các thần trên trời. Ta không trách nhóc con hèn nhát. Ngươi có sống cũng chẳng làm nên trò trống gì. Thần thánh không giúp gì được ngươi. Nọc độc sắp chạy vào tim rồi.
Mụ không sai. Tôi sắp chết, hơi thở yếu dần.
Không ai cứu nổi tôi, kể cả các thần trên đỉnh Olympus.
Tôi lùi tiếp và quan sát dòng sông bên dưới.
Tôi nhớ vầng hào quang ấm áp từ nụ cười của cha. Chắc chắn ông đã nhìn mặt tôi. Lúc tôi còn nằm nôi, cha đã ghé thăm tôi rồi.
Tôi nhớ cây đinh ba quay tròn trên đầu đêm hội cướp cờ, dấu hiệu cho thấy thần Poseidon đã nhận con.
Nhưng dưới kia không phải biển, chỉ là sông Mississippi nằm giữa địa phận Hoa Kỳ. Thần biển không có ở đó.
- Kẻ mất lòng tin như mi đáng chết!
Echidna lải nhải, Chimera khạc cột lửa thẳng tới mặt tôi.
Tôi cầu xin:
- Cha ơi, cứu con.
Tôi quay người lao xuống sông trong lúc quần áo bắt lửa và độc tố theo máu đi khắp cơ thể.
* * *
HẾT CHƯƠNG 13
Chú thích:
(1) Chimera: Có xuất xứ từ vùng Tây Á, là con của quái vật Typhon và Echidna, có họ hàng với chó ba đầu Cerberus và quái vật Hydra. Chimera có khả năng thở ra lửa. |
|