Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: lala164
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Viễn Tưởng - Xuất Bản] Kẻ Cắp Tia Chớp (The Lightning Thief) | Rick Riordan - Completed + Lời cảm ơn

[Lấy địa chỉ]
41#
 Tác giả| Đăng lúc 20-7-2014 10:50:34 | Chỉ xem của tác giả
Grover rùng mình:

- Ôi ghê quá! Ớn không chịu được.

Mắt nó vẫn nhắm tịt nhưng tôi đoán nó nghe tiếng ồng ộc, xèo xèo.

Annabeth vừa ngửa cổ nhìn trời, vừa lần từng bước đến chỗ tôi. Nó sờ soạng, nắm tấm màn che mặt của Medusa:

- Đứng yên.

Cực kỳ cẩn trọng, mắt vẫn không nhìn xuống, nó gói đầu yêu quái bằng miếng vải đen rồi nhặt lên. Thứ chất nhờn xanh lè vẫn nhỏ giọt từ thủ cấp.

Bạn ấy hỏi tôi mà giọng run run:

- Cậu không sao chứ?

Tôi sắp nôn hết bánh hamburger đại tướng nằm trong bụng:

- Ừ. Sao cái đầu… không “bốc hơi” như mụ?

- Giờ nó là chiến lợi phẩm cho ai chặt lìa nó rời khỏi xác. Cũng giống sừng quỷ đầu bò thôi. Nhưng chớ mở lớp vải bọc. Nó vẫn làm người ta hoá đá được đấy.

Grover vừa rên rẩm, vừa leo xuống tượng gấu. Trán nó sưng vều ra. Cái mũ nhỏ màu xanh lá xộc xệch trên đầu, phô ra một bên sừng bé tí. Hai bàn chân giả tuột khỏi móng guốc. Đôi giày thần bay lơ lửng trên đầu nó.

- Lần này cậu là người hùng, Tớ phục cậu sát đất.

Nó bẽn lẽn cười:

- Trò này không vui lắm. Lúc thẳng tay phang yêu quái thì thích. Nhưng va vào tượng gấu thì… bầm dập lắm.

Grover với tay giật đôi giày bay xuống. Tôi đậy nắp, cất kiếm đi. Cả ba chúng tôi bước thấp bước cao quay vào nhà kho.

Tìm được mấy bịch nhựa, loại hay đựng thực phẩm đã cũ, tôi bọc kín đầu Medusa. Quẳng bọc giấy xuống bàn lúc nãy cả ba còn ngồi mê mải ăn, chúng tôi kéo ghế ngồi, mệt đến độ nói không ra hơi.

Mãi sau tôi bảo:

- Thế ra tại thần Athena, bọn ta sém bị phù thuỷ này hại chết?

Annabeth khó chịu lườm tôi:

- Tại cha cậu thì có. Cậu không nhớ à? Medusa từng là tình nhân của thần biển Poseidon. Họ hẹn hò nhau ở đền thờ mẹ tớ. Chính vì thế, thần Athena mới biến mụ thành yêu quái. Cả ba chị em, Medusa và hai mụ em định giúp chị thoát khỏi đền thờ, đều bị hoá thành nữ thần tóc rắn. Đó là lý do Medusa muốn băm vằm tớ, nhưng giữ cậu làm tượng. Mụ vẫn còn tơ tưởng đến cha cậu. Có khi nhìn cậu, mụ càng nhớ thần biển hơn.

Tôi tức đỏ mặt:

- Cãi qua cãi lại hoá ra vì tớ nên ta gặp Medusa sao?

Annabeth ngồi thẳng dậy, giả giọng tôi:

- “Annabeth này, chỉ chụp hình thôi, có hại gì đâu.”

- Thôi không nói nữa. Tớ hết chịu nổi cậu rồi.

- Còn cậu thì hiền lắm đấy! Quá quắt vừa thôi.

- Cậu…

Grover cắt ngang:

- Này, thần rừng không bao giờ bị nhức đầu. Vậy mà nghe hai cậu cãi nhau, đầu tớ đang nhức như búa bổ đây. Bây giờ nói xem: Các cậu định xử lý đầu yêu quái thế nào?

Tôi nhìn chiến lợi phẩm kinh khiếp trên bàn. Một con rắn nhỏ chui qua lỗ thủng của vỏ bọc bò ngoe nguẩy. Trên túi giấy có dòng chữ: ”Chúng tôi đánh giá cao kết quả công việc của bà.”

Máu trong huyết quản tôi sôi sục: không chỉ bực Athena, Annabeth mà giận tất cả các thần. Vì họ, tôi phải thực hiện cuộc truy tìm này, xe bị nổ tung trên đường đi và vừa đến trại đã đánh nhau hai trận kinh hoàng. Nếu ngày nào cũng thế này, chúng tôi chưa chắc toàn mạng đến được Los Angeles, huống hồ đến đó trước ngày Hạ chí.

Lúc nãy, Medusa nói gì với tôi nhỉ?

”Đừng làm con tốt đen trên bàn cờ của đỉnh Olympus, ngốc ạ. Làm tượng sướng hơn nhiều.”

Tôi đứng bật dậy:

- Tớ ra đây một lát.

Annabeth gọi với theo:

- Percy, cậu định…

Tôi lùng sục tìm phòng làm việc của Medusa.

Sổ sách kế toán của mụ cho thấy sáu lần chuyển hàng gần nhất đều xuống Âm phủ, trang trí cho vườn của Hades và Persephone. Trong một hoá đơn vận chuyển có ghi địa chỉ thanh toán của địa ngục là DOA Recording Studios, West Hollywood, California. Tôi gấp mẩu giấy cất vào túi áo.

Ở máy tính tiền có hai mươi đô la, vài đồng vàng drachma và mấy tờ hoá đơn vận chuyển gửi cho Công Ty Phát Chuyển Nhanh Hermes, mỗi tờ kèm một túi da đựng tiền xu. Tôi lục tung văn phòng, tìm chiếc hộp vừa ý.

Trở lại bàn ăn, tôi đóng hộp đầu Medusa, điền hoá đơn vận chuyển như sau:

Gửi các thần
Đỉnh Olympus
Tầng thứ 600, Toà nhà Empire State
New York, NY
Cùng những lời chúc tốt đẹp nhất
PERCY JACKSON



Grover nhắc:

- Họ sẽ cáu tiết và bảo cậu láo xược cho xem.

Tôi rót vài đồng drachma vào túi nhỏ. Vừa thắt miệng túi, tôi nghe tiếng lạch xạch như máy tính tiền hoạt động. Kiện hàng bay lên không và biến mất kèm theo tiếng “BỤP”.

- Tớ cố tình khiến họ nghĩ thế mà.

Tôi nhìn Annabeth như muốn thách bạn ấy lên tiếng chỉ trích này nọ.

Nhưng Annabeth chỉ làm thinh. Có lẽ bạn ấy ngán biệt tài chọc giận các thần của tôi.

Annabeth làu bàu:

- Đi thôi. Ta cần lên kế hoạch khác.


* * *


HẾT CHƯƠNG 11

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

42#
 Tác giả| Đăng lúc 20-7-2014 22:58:25 | Chỉ xem của tác giả
12. LỜI KHUYÊN CỦA CHÓ XÙ



Đêm ấy thật khốn khổ.

Chúng tôi ngủ trong rừng, cách đường chính chừng ba mươi mét, tại một bãi đất trống lầy lội. Thoạt nhìn, ta biết ngay bọn trẻ trong vùng hay đàn đúm ở đây: mặt đất đầy vỏ lon nước ngọt bẹp dúm và giấy gói đồ ăn nhanh.

Chúng tôi mang theo đồ ăn và mấy tấm mền lấy từ nhà “cô Em” nhưng không dám đốt lửa trại hong quần áo ướt. Một ngày đối phó với cả Nữ thần Báo Thù và Medusa khiến chúng tôi mệt lử nên không dám mời gọi thêm rắc rối.

Ba đứa dự định thay nhau ngủ. Tôi tình nguyện thức ca đầu.

Vừa đặt mình xuống, Annabeth đã cuộn tròn trong chăn ngáy pho pho. Grover đi giày có cánh bay lên chạc ba thấp nhất của cái cây gần đó, ngồi dựa lưng ngắm bầu trời đêm.

Tôi giục nó:

- Cứ yên tâm ngủ đi. Có chuyện gì tớ sẽ gọi.

Nó gật đầu nhưng không nhắm mắt:

- Tớ buồn quá đi mất.

- Sao… hối hận vì đi chuyến này rồi ư?

Nó chỉ xuống vào đống rác ở dưới đất:

- Không phải. Dưới kia kìa. Cả trên trời nữa. Đâu còn ngắm sao được nữa. Cả bầu trời cũng bị ô nhiễm. Thời này làm thần rừng khổ nhất.

- Ra thế. Bạn tôi là người bảo vệ môi trường cơ đấy.

Nó lườm tôi:

- Trên đời chỉ mỗi con người không bảo vệ môi trường. Chẳng mấy lúc giống loài nhà cậu làm thế giới chết ngạt… Thôi, tớ chẳng buồn nói nữa đâu. Nói phải nói quấy với loài người phỏng ích gì chứ. Cứ đà này, tớ hết tìm nổi Pan.

- Pan là gì? Có phải kem xịt bánh không?

Grover hét toáng lên:

- Pan cũng không biết à? Là thần đồng quê đó. Thế theo cậu, tớ cần giấy phép truy tìm làm gì?

Một cơn gió lạnh xào xạc thổi qua bãi trống, làm át mùi hôi thối của rác rến và bùn lầy. Gió mang theo hương dâu chín trộn lẫn hương hoa đồng nội và mùi nước mưa ngọt mát… những thứ trước đây từng có trong rừng. Thốt nhiên, cảm giác tiếc nuối man mác dâng ngập lòng tôi, nhưng nếu có ai hỏi tôi, tôi không biết trả lời sao.

- Kể tớ nghe vụ truy tìm đi.

Grover nhìn tôi cảnh giác như thể sợ tôi chế giễu:

- Hai ngàn năm trước, Thần Của Chốn Hoang Sơ biến mất. Một thuỷ thủ dong buồm ngoài khơi Ephesos nghe tiếng kêu bí ẩn từ bờ biển vọng tới: “Hãy loan tin thần Pan vĩ đại đã qua đời!”. Hung tin lan nhanh trong loài người và họ tin ngay. Kể từ đó, họ tàn phá xứ sở của thần Pan. Đối với thần rừng, thần Pan là vua, là chúa tể. Thần bảo vệ chúng tớ và thế giới hoang dã còn sót lại trên trái đất. Thần rừng chúng tớ không tin thần đã chết. Thế hệ nào cũng có thần rừng thề tìm cho được thần Pan, dù chết cũng cam lòng. Họ tìm kiếm khắp nơi, lùng sục những miền hoang sơ, hy vọng tìm nơi thần ở ẩn và đánh thức thần từ giấc ngủ dài.

- Có phải cậu cũng muốn đi tìm?

- Suốt đời tớ chỉ ấp ủ giấc mơ ấy. Trước đây, cha tớ cũng đi tìm. Cậu Ferdinand noi gương cha… giờ thành bức tượng cậu thấy đằng kia…

- Tớ nhớ rồi. Xin chia buồn với cậu.

Grover lắc đầu:

- Cậu Ferdinand biết trước việc mình làm rất mạo hiểm. Cha tớ cũng thế. Nhưng tớ sẽ thành công. Tớ sẽ là thần rừng đầu tiên còn sống trở về.

- Gượm đã… cậu nói đầu tiên còn sống là sao?

Nó rút cây sáo sậy trong túi:

- Người đi tìm thần Pan chưa ai trở về. Hễ đi là mất luôn. Không ai còn nhìn thấy họ sống sót ở bất cứ đâu.

- Từ hai ngàn năm trước đến giờ ư?

- Ừ.

- Nói riêng về cha cậu, cậu không biết ông ấy gặp chuyện gì ư?

- Không.

Tôi kinh ngạc:

- Sao cậu vẫn muốn đi? Chẳng lẽ cậu tin chắc sẽ tìm được thần Pan?

- Tớ bắt buộc phải tin. Ai đi tìm thần cũng vậy. Chỉ có cách đó thần rừng mới không tuyệt vọng khi hàng ngày chứng kiến con người huỷ hoại trái đất này. Tớ phải tin thần Pan còn thức tỉnh.

Tôi đăm đăm nhìn không trung phủ lớp sương màu da cam.

Không thể hiểu tại sao Grover lại theo đuổi giấc mơ khó thành hiện thực đến vậy.

Ngẫm lại mình, tôi có khác gì nó đâu.

Tôi hỏi:

- Ta vào cửa địa ngục bằng cách nào đây? Tớ muốn hỏi khi đấu tranh với thần thánh, liệu ta có cơ hội thắng không?

Grover thú nhận:

- Tớ không biết. Nhưng khi nãy ở nhà Medusa, lúc cậu đi tìm văn phòng của Medusa, Annabeth bảo…

- À phải, mình quên. Annabeth nhìn xa trông rộng mà.

- Đừng khắt khe với bạn ấy quá. Dù từ nhỏ đến lớn phải vật lộn với nghịch cảnh, nhưng Annabeth là người tốt. Với lại bạn ấy tha thứ cho tớ chuyện…

Giọng Grover nghẹn lại.

- Sao cơ? Annabeth tha thứ chuyện gì?

Grover thốt nhiên quá chăm chú đến cây sáo.

Tôi nhớ lại:

- Khoan nhé. Cách nay năm năm, cậu nhận nhiệm vụ trông nom lần đầu. Annabeth ở trại hè vừa đúng năm năm. Bạn ấy không… tớ nhớ là nhiệm vụ lần đầu của cậu không thành…

Môi Grover run run. Nếu tôi gặng hỏi, chắc chắn nó sẽ oà lên khóc:

- Tớ không nói chuyện ấy được đâu. Quay lại vụ ở nhà Medusa khi nãy, Annabeth và tớ đều cho rằng vụ điều tra này rất lạ. Nhất định có uẩn khúc gì đây.

- Còn gì lạ hơn việc tớ bị chụp mũ tội ăn cắp tia chớp trong khi thủ phạm là Hades?

- Tớ không nói chuyện đó. Thực tế là ba Nữ thần Báo… ba “Người Tử Tế” không thẳng tay với cậu. Nhớ cô Dodds hôm ở bảo tàng không? Sao cô ta phải chờ đến lúc ấy mới giết cậu? Lúc trên xe buýt cũng thế. Ba người họ không hung hăng như mọi khi.

- Vậy thế nào mới gọi là “hung hăng”? Tớ còn ớn đến tận xương tuỷ đây này.

Grover lắc đầu:

- Họ cứ gào mãi: “Thứ đó đâu? Ở chỗ nào?”

- Họ hỏi tớ mà.

- Có thể cậu đúng… nhưng Annabeth và tớ đều cho rằng họ không tìm cá nhân nào. “Thứ đó đâu?” có nghĩa họ đòi một món đồ gì mà mình không biết.

- Vô lý.

- Ừ. Nhưng nếu quả thực ta hiểu sai mục đích nhiệm vụ trong khi chỉ có chín ngày tìm tia chớp thì…

Nó nhìn tôi hy vọng có lời giải nhưng tôi mù tịt.

Tôi nhớ Medusa bảo: Tôi bị các thần lợi dụng. Tôi đang dấn thân vào chốn kinh hoàng đến độ so với nó, bị hoá đá là hồng phúc.

Tôi thành thật:

- Tớ chưa nói hết với cậu. Tia chớp ra sao, tớ cũng mặc. Tớ xuống địa ngục cốt để cứu mẹ mà thôi.

Grover vi vu thổi sáo:

- Tớ biết chứ. Nhưng cậu có chắc đó là lý do duy nhất?

- Dù gì cũng không phải giúp cha tớ. Ông không đếm xỉa gì đến tớ. Vậy việc gì tớ phải nghĩ đến cha.

Từ cành cây cao, Grover nhìn xuống tôi:

- Percy này, tớ không thông minh, sắc sảo bằng Annabeth, cũng không can đảm bằng cậu. Nhưng về mặt nhận diện cảm xúc, tớ có biết đôi chút. Cậu mừng vì cha mình còn sống. Cậu sung sướng vì ông công khai nhận con. Có phần nào cậu muốn làm ông tự hào vì mình. Chính vì thế cậu gửi thủ cấp Medusa lên đỉnh Olympus. Cậu muốn trình làng bằng chứng cho thấy con trai ông cũng giỏi như ai.

- Không có đâu. Rõ là cảm xúc của thần rừng khác người phàm nên cậu đoán sai bét. Ông ấy nghĩ gì tớ cũng mặc.

Grover gác chân lên:

- Thôi được rồi, Percy. Sao cũng được mà.

- Với lại, tớ có nên công nên trạng gì đâu mà khoe. Nhìn xem, mới đi khỏi New York ta đã kẹt ở đây. Không một xu dính túi, không biết đến hướng tây bằng đường nào.

Grover đăm đăm nhìn trời đêm như thể suy nghĩ rất lung về vấn đề tôi vừa nêu:

- Thôi để tớ gác lượt đầu cho. Cậu ngủ cho lại sức.

Tôi vừa định cãi, nó đã thổi sáo nhạc Mozart dìu dặt và ngọt ngào. Tôi trở mình, mắt cay xè. Mới nghe đoạn ngắn từ bản Concerto số 12, tôi đã ngủ thiếp đi.

-0-


Tôi mơ thấy mình đứng trong hang tối, trước mặt là hố sâu thăm thẳm. Những sinh vật nhỏ xíu màu xám bay thành bức màn dày kín quanh tôi. Không hiểu sao tôi biết những mảng khói phát ra âm thanh rì rầm ấy là linh hồn của người chết.

Họ níu quần áo, cố lôi tôi lại nhưng tôi chỉ nóng lòng tiến sát mép vực sâu.

Tôi chóng mặt khi nhìn xuống dưới.

Miệng vực rộng hoác, tối đen, rõ là không đáy. Thế nhưng tôi cảm giác có con gì cố trèo lên miệng vực. Nó to lớn và rất độc ác. Một giọng nói vang lên từ bóng đêm sâu thẳm bên dưới.

- Anh hùng bé nhỏ, cậu quá yếu ớt, quá trẻ, nhưng có thể cậu sẽ làm được.

Giọng nói nghe xa xôi, lạnh lùng và chở nặng hận thù. Tiếng nói ấy vây lấy tôi như bức tường dày bằng chì, xám xịt và nặng trĩu.

- Thằng nhóc kia, bọn chúng làm ngươi mê mụ rồi. Hãy bỏ chúng, theo ta. Ta sẽ cho ngươi thứ ngươi muốn.

Một hình bóng mờ ảo bay lơ lửng giữa lòng vực trống trải: mẹ tôi đứng sững trong tư thế lúc bị biến thành cơn mưa vàng. Mặt mẹ nhăn nhó vì đau như thể quỷ đầu bò vẫn còn siết cổ mẹ. Mắt mẹ nhìn tôi như van lơn: “Chạy đi con!”

Tôi cố kêu nhưng không thành tiếng.

Tiếng cười lạnh lẽo từ sâu dưới lòng vực.

Có một lực vô hình đẩy tôi lên trước. Nếu tôi không bấu chặt chân xuống đất, nó đã lôi tôi xuống dưới.

Giọng nói càng thống thiết hơn:

- Đưa tia chớp cho ta. Tấn công bọn thần bất trung bất nghĩa.

Linh hồn người chết vây quanh tôi thì thào:

- Đừng! Tỉnh lại đi!

Hình ảnh mẹ tôi mờ dần. Quái vật dưới vực siết chặt lực vô hình quanh người tôi.

Đến lúc này tôi mới biết nó không định lôi tôi xuống. Nó muốn níu lấy tôi mà leo lên.

Nó lào khào:

- Tốt! Tốt lắm!

Linh hồn khe khẽ giục:

- Dậy đi! Thức tỉnh đi!

-0-


Có người lay tôi dậy.

Tôi choàng tỉnh. Trời sáng bảnh mắt từ lúc nào.

Annabeth trêu chọc:

- Rồi, thây ma sống lại kìa.

Giấc mơ làm tôi run khắp người. Tôi như thấy quái thú dưới vực còn siết chặt ngực mình:

- Tớ ngủ bao lâu rồi?

Annabeth ném sang bịch bánh khoai chiên giòn lấy từ nhà “cô Em” đêm qua:

- Lâu. Tớ chuẩn bị xong bữa sáng rồi đây. Còn Grover thăm thú xung quanh xong. Nhìn này, cậu ấy tìm được bạn.

Mắt tôi cay xè, chưa tập trung được.

Grover ngồi xếp bằng trên tấm mền. Có con gì lông xù nằm gọn trong lòng nó: Một con thú nhồi bông màu hồng kỳ dị bẩn lem nhem.

Không, không phải thú nhồi bông. Nó là chó xù màu hồng.

Thấy tôi, nó cảnh giác sủa ăng ẳng. Grover thản nhiên:

- Không, cậu ấy không thế.

Tôi chớp mắt lia lịa:

- Cậu… nói chuyện với chó à?

Chú khuyển gầm gừ.

Grover đe:

- Cậu nói nghe có vẻ coi thường. Nói cho biết nhé: Chú cún này là tấm vé giúp chúng ta đi về hướng tây đấy. Lịch sự với người ta một tí.

- Cậu biết nói tiếng thú à?

Grover giả điếc:

- Giới thiệu với Percy, đây là Gladiola. Gladiola này, đây là Percy.

Tôi trợn mắt nhìn Annabeth, hy vọng bạn ấy quát Grover thôi đùa dai với tôi. Nhưng Anna beth cực kỳ nghiêm túc. Tôi nguây nguẩy:

- Ai lại chào chó! Quên đi, tớ không chào.

Annabeth thủng thẳng:

- Percy này. Tớ vừa chào Gladiola xong. Giờ đến lượt cậu.

Gladiola lại gầm gừ.

Tôi đành miễn cưỡng chào nó.

Grover kể nó gặp Gladiola trong rừng, bèn bắt chuyện làm quen. Chú cún lông xù này chạy trốn gia đình chủ giàu có. Họ treo giải thưởng hai trăm đô la cho ai bắt được nó. Dù không muốn quay lại nhà đó, nhưng muốn giúp Grover, nó xin sẵn lòng.

Tôi hỏi:

- Sao Gladiola biết có giải thưởng?

- Thì đọc tờ rơi. Có thế cũng hỏi.

- Ờ nhỉ! Tớ ngốc thật. Ra chó cũng biết đọc cơ đấy.

Annabeth ôn tồn trình bày kế hoạch:

- Vậy ta sẽ trả Gladiola về nhà, lấy tiền mua vé đi Los Angeles. Thế là xong.

Tôi nhớ giấc mơ hồi tối: Những linh hồn thì thầm, quái thú dưới vực, khuôn mặt mẹ đúng lúc bị biến thành cơn mưa vàng. Có thể tất cả đều đang ở hướng Tây chờ tôi.

Tôi nói trước:

- Không đi xe buýt đâu đấy.

Annabeth đồng tình:

- Ừ, quên vụ xe buýt đi.

Bạn ấy chỉ tay xuống chân đồi, nơi có đường ray xe lửa chạy qua. Đêm qua tôi không nhìn thấy vì trời tối.

- Ga xe lửa Amtrak cách đây một cây số. Gladiola bảo trưa nay tàu đi hướng tây sẽ khởi hành.


* * *


HẾT CHƯƠNG 12

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

43#
 Tác giả| Đăng lúc 23-7-2014 21:14:23 | Chỉ xem của tác giả
13. TÔI LAO ĐẦU VÀO CHỖ CHẾT



Hai ngày liền, chúng tôi trên tàu Amtrak chạy thẳng về hướng tây, băng qua bao núi đồi, sông suối và những cánh đồng lúa mì gợn sóng màu hổ phách.

Dù không bị tấn công lần nào, tôi vẫn không thoải mái. Tôi cảm giác cả ba đang theo tàu chạy vòng quanh hộp đồ chơi. Nhiều cặp mắt dõi theo chúng tôi từ bên trên và bên dưới, như thể có người đang chờ lúc thuận lợi là ra tay.

Tôi cố gắng ẩn mình, càng ít người thấy càng tốt vì ảnh tôi theo nhiều tờ báo đi khắp miền duyên hải phía đông. Tờ Trenton Register News đăng tấm hình khách du lịch chụp tôi vừa chạy từ xe buýt Greyhound. Tôi không tin ở mắt mình: bóng thanh kiếm Thuỷ Triều mờ mờ, trông như tôi đang cầm gậy vụt bóng chày.

Ghi chú dưới bức hình có nội dung sau:

”Percy Jackson, mười hai tuổi, đang bị cảnh sát truy lùng nhằm làm rõ nguyên nhân mất tích của mẹ hắn cách nay hai tuần, lộ diện khi chạy trốn khỏi xe buýt, nơi hắn bắt chuyện với mấy cụ già là hành khách trên xe. Jackson vừa xuống, chiếc xe nổ tung trên hương lộ vắng vẻ miền New Jersey. Dựa trên lời kể của nhiều nhân chứng, Jackson có hai kẻ tòng phạm luôn theo sát hắn. Ông Gabe Ugliano, bố dượng tên này, treo giải thưởng bằng tiền mặt cho ai bắt được hắn.”

Annabeth trấn an:

- Đừng lo. Cảnh sát người phàm không bắt được ta đâu.

Nhưng nghe giọng nói, tôi biết chính Annabeth cũng không dám chắc.

Suốt ngày hôm đó, tôi như ngồi trên chảo lửa. Nếu không đi tới đi lui hết chiều dài con tàu, tôi lại đứng nhìn cửa kính.

Một lần, tôi thấy cả gia đình nhân mã đeo cung tên săn bữa trưa đang phi nước kiệu qua đồng lúa mì. Thấy tôi nhìn, cậu con trai trạc tuổi học trò lớp hai dính trên mình ngựa giơ tay vẫy.

Tôi nhìn hành khách trong khoang nhưng hình như không ai thấy. Người lớn đi tàu, thường vùi mặt vào tạp chí hoặc chăm chú ngó màn hình máy tính xách tay.

Lần khác, lúc sẩm tối, có con gì to lớn chạy xuyên cánh rừng ven đường. Tôi tin chắc mình nhìn thấy sư tử, chỉ có điều ở Mỹ không có sư tử. Hơn nữa con này cực kỳ to lớn. Lông nó vàng óng trong ánh hoàng hôn. Lát sau, nó chạy sâu vào rừng cây rậm rạp và biến mất.

-0-


Tiền thưởng tìm Gladiola trả cho chủ chỉ đủ mua vé đến Denver. Không thể chơi sang mua vé nằm, chúng tôi đành gà gật trên khoang tàu ngồi. Cổ và gáy tôi tê cứng. Vì Annabeth ngồi ngay cạnh nên khi ngủ, tôi cố không nhểu dãi.

Grover vừa ngủ, vừa ngáy, vừa nói mơ khiến tôi thức suốt. Có lần nó đạp mạnh khiến hai bàn chân giả rụng ra. Tôi và Annabeth cuống cuồng gắn lại vì sợ lộ tẩy.

Annabeth xỏ giày vào chân Grover:

- Nói nghe xem, ai nhờ cậu giúp thế?

- Sao cậu hỏi vậy?

- Lúc cậu ngủ, cậu nói mơ: “Ta không giúp ngươi đâu”. Cậu mơ thấy ai thế?

Tôi không định kể nhưng đã hai lần tôi mơ thấy giọng nói của quỷ dưới vực. Vì lo quá nên cuối cùng tôi tâm sự hết.

Annabeth im lặng rất lâu:

- Nghe ra thì không phải Hades. Bao giờ ông ta cũng xuất hiện trên ngai vàng màu đen và không bao giờ cười thành tiếng.

- Vật ấy đem mẹ tớ ra trao đổi. Không Hades thì ai vào đây?

- Theo tớ thì… có thể ông ta bảo: “Giúp ta rời Địa ngục”, nếu ông ta muốn cư dân đỉnh Olympus tiêu diệt nhau. Nhưng nếu đã có trong tay tia chớp, tại sao ông ta đòi cậu giao nó?

Tôi lắc đầu. Giá tôi biết câu trả lời thì hay quá. Tôi nhớ Grover từng bảo hình như ba Nữ thần Báo Thù trên xe buýt đang tìm kiếm thứ gì đó.

Nó ở đâu? Ở đâu?

Hình như cảm xúc của tôi ảnh hưởng đến Grover. Nó khụt khịt, lẩm bẩm câu gì đó về rau cỏ rồi lật đầu sang bên kia ngủ tiếp.

Annabeth chỉnh mũ, che sừng cho Grover:

- Percy này, chớ đổi chác với Hades. Chắc cậu thừa biết ông ta xảo trá, nhẫn tâm và tham lam vô độ. Lần này, dù ba “Người Tử Tế” ông ta cử lên không hung hăng, tớ cũng không mắc lừa…

- Nói thế có nghĩa trước đây cậu gặp họ rồi ư?

Annabeht chạm tay vào vòng đeo cổ, chỉ năm viên sứ lưu niệm, viên màu trắng ngà có vẽ hình cây thông:

- Cứ cho là tớ không ưa gì thần cai quản địa ngục. Cậu đừng như cá cắn câu, mắc mưu ông ta vì muốn cứu mẹ.

- Giả sử ở địa vị tớ và Hades lấy cha cậu làm mồi nhử, cậu sẽ làm gì?

- Dễ ợt. Tớ mặc ông ấy cho quạ rỉa.

- Nói thật hay đùa đấy?

Cặp mắt xám nhìn tôi không chớp. Mặt lạnh lùng y như lúc ở trại hè Annabeth rút kiếm định chém con chó địa ngục:

- Cậu không biết chứ cha ghét tớ từ lúc tớ mới lọt lòng mẹ. Ông chưa hề muốn có con bao giờ. Nghe tin có tớ, ông bảo thần Athena mang tớ lên đỉnh Olympus mà nuôi. Ông ấy bận, không chăm sóc được. Nghe vậy mẹ buồn lắm. Mẹ bảo các anh hùng phải do cha hoặc mẹ người phàm nuôi dạy dưới trần.

- Nhưng… mẹ cậu không thể đến nhà bảo sanh, đúng không?

- Thần Gió Tây Zephyr mang nôi vàng trong đó có tớ thả trước cửa nhà cha. Chắc chắn cha tớ phải biết đó là phép màu. Cũng như người phàm chụp ảnh kỹ thuật số vậy. Nhưng lúc nào ông cũng ca thán rằng tớ là mối phiền toái lớn nhất đời ông. Tớ mới lên năm, ông đã cưới vợ khác, quên hẳn mẹ tớ. Có vợ người phàm và hai đứa con hoàn toàn bình thường, ông ta cố giả vờ như không hề có tớ trên đời.

Tôi ngó mông lung ngoài cửa kính. Ánh đèn vàng vọt của thị trấn đang say ngủ trôi dần qua.

Tôi muốn an ủi bạn, nhưng không biết ăn nói thế nào.

- Mẹ tớ lấy một gã vô cùng đê tiện. Grover bảo mẹ bảo vệ tớ… bằng cách dùng khung cảnh gia đình phàm trần làm bình phong che chắn cho con. Chắc cha cậu cũng theo cách ấy.

Annabeth mân mê vòng cổ không rời. Cô bé nắm chặt nhẫn vàng đeo cùng năm hạt sứ, loại nhẫn sinh viên tốt nghiệp trường quân sự West Point hay đeo. Tôi đoán chắc nhẫn của cha Annabeth. Nếu giận cha, sao Annabeth còn đeo nó?

- Cha bỏ bê, còn dì ghẻ chê tớ quái đản. Bà ly gián, không cho tớ chơi với em cùng cha khác mẹ. Mỗi khi có tình huống nguy hiểm, chẳng hạn yêu quái tấn công, cả hai đều tức tối dồn mắt vào tớ như muốn nói: “Sao ngươi dám bắt người thân cùng chịu nguy hiểm?”. Sau này, tớ hiểu cha và mẹ kế không muốn chứa chấp đứa bất bình thường. Thế nên, tớ bỏ nhà đi luôn.

- Năm ấy cậu mấy tuổi?

- Bảy tuổi. Cùng năm tớ đến Trại Con Lai.

- Nhưng… cậu không thể đi một mình đến trại hè được.

- Đúng vậy. Chẳng ai làm thế một mình cả. Vì luôn dõi theo con nên mẹ hướng dẫn tớ tìm người giúp. Tớ bất ngờ quen hai người bạn sau này giúp tớ rất nhiều… nhưng mọi chuyện kết thúc quá chóng vánh.

Tôi muốn hỏi sau đó xảy ra chuyện gì. Nhưng hình như Annabeth đắm mình với chuỗi kỷ niệm buồn, quên hết xung quanh. Tôi biết gặng hỏi chỉ làm bạn ấy buồn thêm.

Trong lúc tàu lao nhanh đến Ohio, tôi đành vừa chịu trận tiếng ngáy như kéo gỗ của Grover, vừa ngắm những cánh đồng trải dài tít tắp trong đêm khuya thanh vắng.

-0-


Đi tàu hết gần hai ngày, tức cuối ngày mười ba tháng Sáu, tám ngày trước Hạ chí, chúng tôi theo tàu đi qua dãy đồi rợp nắng vàng, qua cầu bắc ngang sông Mississippi, tiến vào địa phận St. Louis.

Annabeth say mê ngắm Gateway Arch, cửa ô xây hình vòm ngay lối vào thành. Tôi thấy nó giống quai túi giấy móc bên hông đô thị sầm uất.

Cô bạn tôi trầm trồ:

- Tớ thích giống họ.

- Cái gì?

- Xây một cái giống thế. Cậu thấy đền Parthenon chưa, Percy?

- Chỉ có trong ảnh thôi.

Annabeth nhìn xa xăm:

- Sẽ có ngày chính mắt tớ thấy công trình vĩ đại như thế. Tớ sẽ xây tượng đài lớn nhất lịch sử cho các thần. Một kỳ quan sau hàng chục thế kỷ vẫn sừng sững giữa trời.

Tôi bật cười:

- Cậu á? Định làm kiến trúc sư à?

Không hiểu sao tôi thấy tức cười. Thật khó hình dung Annabeth ngồi yên cả ngày kẻ kẻ, vẽ vẽ.

Hai má bạn tôi đỏ như quả bồ quân:

- Ừ, kiến trúc sư thì sao nào? Mẹ Athena kỳ vọng con mình kiến tạo, không đập phá như cái ông thần chuyên gây động đất kia.

Tôi im lặng nhìn con sông Mississippi chở nặng phù sa, cuồn cuộn nổi sóng.

Annabeth vội nói:

- Xin lỗi. Tớ quá lời.

Tôi năn nỉ:

- Ta hợp tác một chút có được không vậy? Chẳng lẽ cha Poseidon và mẹ Athena chưa từng bắt tay làm chung dự án nào ư?

Annabeth phải bình tâm ngẫm nghĩ mới nhớ ra:

- Chắc có chứ… cỗ xe cho thần mặt trời chẳng hạn. Sáng kiến của mẹ tớ, nhưng thần Poseidon biến sóng biển thành đàn bạch mã kéo xe. Sau đó, họ cùng chung tay hoàn tất nó.

- Vậy nếu muốn, ta làm chung được mà.

Đoàn tàu lao nhanh đến trung tâm thành phố. Annabeth ngắm mãi cho đến khi cửa ô mái vòm khuất sau toà nhà khách sạn cao ngất.

Mãi sau, bạn ấy mới bảo:

- Ừ.

Tàu dừng trong nhà ga Amtrak toạ lạc giữa lòng thành phố. Loa trên toa thông báo tàu nghỉ hai tiếng trước khi khởi hành đến Denver.

Grover vươn vai. Chưa mở mắt, nó đã kêu:

- Ăn!

Annabeth giục:

- Dậy đi, dê con. Ta đi ngắm cảnh thôi.

- Ngắm gì?

- Gateway Arch(1). Chắc đây là cơ hội duy nhất leo lên mái cổng vòm của tớ. Cậu có đi không thì nói?

Grover và tôi đưa mắt nhìn nhau.

Tôi định từ chối: “Không đi đâu”, nhưng tốt hơn hết chớ nên để Annabeth đi đâu một mình.

Grover nhún vai:

- Miễn là quán ăn ở đó không có yêu quái.

-0-



Chú thích:

(1) Gateway Arch: Hay còn gọi là “Gateway to the West”, toạ lạc tại thành phố St. Louis Missouri, là một phần thêm ra của đài tưởng niệm Jefferson National Expansion Memorial, có hình mái vòm và được xem là biểu tượng của thành phố này. Với chiều cao 192 mét, đây là đài tưởng niệm cao nhất tại Hoa Kỳ.

Ảnh chụp Gateway Arch vào buổi đêm, rất đẹp đúng không?



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

44#
 Tác giả| Đăng lúc 24-7-2014 23:02:40 | Chỉ xem của tác giả
Gateway Arch cách ga vài dãy nhà. Giờ đã là cuối ngày. Dòng người xếp hàng lên đỉnh tham quan đã vãn. Chúng tôi băng qua viện bảo tàng dưới lòng đất, xem xe đẩy và thuyền mành của người da đỏ có từ đầu thế kỷ mười bảy. Tuy không thú vị lắm nhưng nghe Annabeth nhiệt tình thuyết minh về tiến trình xây cổng vòm, được Grover liên tục giúi kẹo vào tay nên tôi cũng thấy hay hay.

Tuy nhiên, tôi luôn cảnh giác quan sát đoàn người xếp hàng xem có gì khác thường chăng.

Tôi ghé tai Grover hỏi nhỏ:

- Cậu ngửi thấy gì không?

Nó nhăn mặt bảo:

- Không khí dưới lòng đất luôn có mùi yêu quái. Chắc không có gì đáng ngại đâu.

Nhưng tôi thấy bất an, bụng bảo dạ đáng lẽ cả ba không nên đến đây.

- Này, các cậu biết biểu tượng sức mạnh thần thánh là gì không?

Đang đọc về thiết bị xây dựng dùng xây cổng vòm, Annabeth ngẩng lên hỏi:

- Là gì?

- À, là Hades…

Grover đằng hắng:

- Ta đang giữa chốn đông người… cậu vừa nhắc đến ông bạn “dưới lầu” phải không?

- Ừ, tít tận dưới đó. Có phải ông ta cũng có mũ giống mũ Annabeth?

Annabeth đáp:

- À, mũ sắt của thần bóng tối. Phải, biểu tượng quyền uy đấy. Hôm các thần họp cuối năm, tức ngày Đông chí, tớ thấy mũ đặt cạnh ghế của Hades.

- Ông ta cũng đến à?

Annabeth gật đầu:

- Ngày tối trời nhất trong năm, ngày duy nhất Hades lên đỉnh Olympus. Nhưng theo tớ biết, mũ của Hades công năng kỳ diệu hơn mũ tàng hình này nhiều…

Grover công nhận:

- Nhờ nó, Hades tan vào bóng tối, đi xuyên tường. Không ai chạm tới, nhìn hoặc nghe tiếng ông ta. Đồng thời, Hades biết cách gây nên cơn hoảng loạn ghê gớm đến mức làm người ta phát điên hoặc đứng tim. Thử nghĩ xem, sao có người cực kỳ duy lý vẫn sợ bóng tối?

- Nhưng… giả sử lúc này ông ta đội mũ tàng hình có mặt ngay đây, sao ta biết được?

Annabeth và Grover lo lắng nhìn nhau:

- Không ai biết cả.

- Chà, đa tạ. Giờ tớ ăn không ngon ngủ không yên rồi đây. Còn kẹo dẻo không?

Vừa thấy khoang thang máy bé xíu chạy lên đỉnh mái vòm, tôi giật thót mình. Linh tính mách bảo tôi sắp gay go to. Tôi ghét không gian hẹp lắm. Nếu bị ép vào đó, đầu óc tôi sẽ bấn loạn mất.

Chúng tôi bị nhồi vào thang máy có sẵn bà béo ục ịch dắt con chó dữ giống Chihuahua, đeo cổ dề gắn kim cương giả. Tôi tưởng ở đây cấm chó nhưng khổ nỗi thấy nó, không nhân viên nào kêu ca một tiếng.

Chúng tôi bắt đầu đi lên. Chưa bao giờ đi thang máy theo đường vòng cung thế này nên tôi hơi buồn nôn.

Bà béo hỏi trống không:

- Bố mẹ không đưa cùng à?

Mắt bà ta tròn xoe, răng nhọn và đen như người nghiện cà phê. Bà này đội mũ vải jeans, mặc váy may cùng chất liệu vải chật cứng, ngấn thịt nổi từng cuộn khiến bà ta trông giống quả khinh khí cầu bọc vải.

Annabeth đáp:

- Họ ở dưới. Sợ độ cao mà.

- Ôi, tội nghiệp chưa.

Chú khuyển Chihuahua gầm gừ. Bà chủ nhắc:

- Thôi nào Sonny, ngoan nào.

Mắt chó tròn xoe như mắt chủ: vừa hằn học vừa như nhìn thấu mọi vật.

Tôi hỏi:

- Tên nó là Sonny ư?

- Không.

Đáp xong, bà ta mỉm cười như thể tôi có nghĩa vụ hiểu cho tường tận.

Lên đỉnh mái vòm, gian nhà dành cho khách tham quan đứng ngắm cảnh gợi cho tôi hình ảnh trại giam bé xíu trải thảm đỏ. Bên tường này là dãy cửa sổ tí tẹo nhìn xuống thành phố. Cửa sổ tường bên kia nhìn xuống sông.

Tuy phong cảnh đẹp nhưng với tôi, thứ đáng ghét hơn không gian hẹp là một không gian đã hẹp lại còn lơ lửng giữa trời, cách mặt đất gần ba trăm thước. Tôi chỉ muốn về ngay.

Kéo Annabeth và Grover ra cửa, đẩy hai đứa vào xe điện, tôi định chui vào cùng nhưng phát hiện trong xe có sẵn hai người khác. Không còn chỗ cho tôi nữa rồi.

Bảo vệ nhắc:

- Cậu này đi xe sau.

Annabeth kêu lên:

- Vậy tụi tôi cũng ra. Chúng tớ cùng đợi với cậu.

Biết làm thế phiền mọi người và tốn thời gian, tôi bảo:

- Không cần đâu. Đợi tớ ở dưới được rồi.

Cả Grover và Annabeth đều lo lắng, nhưng họ đành buông tay để cánh cửa xe sập lại.

Xe điện mất hút dưới bờ dốc.

Giờ trên khu ngắm cảnh chỉ còn tôi, một cậu bé đi chung với bố mẹ, nhân viên an ninh và bà béo dắt chú khuyển Chihuahua.

Tôi ngượng ngập cười xã giao với bà béo. Lúc bà ta cười đáp lễ, đầu lưỡi chẻ đôi lấp ló sau hai hàm răng.

Gượm đã.

Lưỡi bà ta chẻ đôi!

Trước khi tôi kịp kiểm tra lại xem mình có nhìn nhầm chăng, con chó dữ đã nhảy xổ về phía tôi sủa ông ổng.

Bà béo vỗ về nó:

- Chưa đâu, cưng. Giờ chưa phải lúc. Người vô can còn đứng cả đây mà.

Cậu bé kêu lên:

- Chó! Chó kìa.

Bố mẹ cậu bèn kéo con lùi lại.

Con Chihuahua nhe nanh doạ tôi, bọt mép trào ra, dính đầy đôi môi thâm xì.

Bà béo thở dài:

- Thôi được rồi, con trai. Mày thích thì tao chiều.

Tôi lạnh cả người:

- Bà vừa gọi con Chihuahua này là con trai ư?

Bà ta sửa gáy:

- Chimera(1), không phải Chihuahua. Dễ nhầm quá phải không?

Mụ ta xắn tay áo, để lộ cẳng tay đóng vảy xanh lè. Lúc mụ cười, răng biến thành nanh hết. Hai tròng mắt mụ chạy sang hai thái dương, giống mắt bò sát.

Con chó sủa to hơn. Sau mỗi tiếng sủa, nó phình to ra. Lúc đầu to bằng người, sau to bằng sư tử. Tiếng sủa lớn như tiếng hổ rống.

Cậu bé hét lên. Bố mẹ cậu lôi tuột con ra cửa, thẳng tới chỗ nhân viên an ninh đang đứng chết sững, kinh hoàng nhìn quái thú.

Con Chimera cao đến độ lưng nó chạm nóc nhà.

Quái thú đầu sư tử có bờm bết máu khô, mình và bốn chân móng guốc như dê, đuôi là con rắn độc ngoe nguẩy. Con rắn to như con trăn dài ba thước vươn dài từ sau cặp mông lông lá. Vòng cổ đính kim cương giả vẫn trên cổ nó, bảng tên ghi rõ: “CHIMERA, HUNG DỮ, KHẠC RA LỬA, RĂNG CÓ NỌC ĐỘC. NẾU AI TÌM THẤY XIN GỌI ĐẾN TARTARUS, số nội bộ 954”.

Tôi nhận ra tôi chưa mở nắp cây kiếm. Hai bàn tay tê dại. Chỉ cách bụng dính máu khô của Chimera mười bước chân, tôi biết nếu thấy động nó sẽ lao ngay đến.

Bà rắn cười phì phì như tiếng hổ mang bành:

- Percy Jackson, hẳn ngươi tự hào lắm. Hiếm khi Zeus cho phép ta mang con trai đi tỉ thí với anh hùng. Nhớ lấy: Ta là phù thuỷ Echidna, mẹ của bầy quái thú.

Tôi trố mắt nhìn mụ, buột miệng:

- Tưởng Echidna là thú ăn kiến chứ?

Mụ rống lên, mặt tím bầm giận dữ:

- Hễ nghe nói vậy, ta bừng bừng lửa hận. Ta ghét dân châu Úc, đem tên ta đặt cho loài cầm thú quái dị đó. Ngươi dám xúc phạm ta, con trai ta sẽ xé xác ngươi.

Chimera xông tới, nhe hàm răng sư tử nhọn hoắt. Tôi nhanh nhẹn nhảy sang bên tránh cú đớp khủng khiếp.

Cú nhảy đưa tôi đến cạnh gia đình cậu bé và nhân viên an ninh. Bốn người họ đều kêu cứu inh ỏi, cố mở cửa lối thoát hiểm.

Tôi không thể khoanh tay nhìn họ bị hại.

Mở nắp bút, tôi chạy sang mé bên kia phòng, miệng hét tướng:

- Này, Chihuahua!

Quái thú Chimera quay ngoắt, nhanh hơn tôi tưởng.

Trước khi tôi kịp vung kiếm, nó há hoác miệng. Sau hơi thở khét lẹt mùi thịt cháy như khói từ lò nướng thịt khổng lồ, một luồng lửa đỏ phụt thẳng vào tôi.

Tôi nằm bẹp xuống tránh. Kế đến là khói mù mịt, thảm bốc cháy và hơi nóng thiêu rụi lông mày tôi.

Ngay chỗ tôi đứng khi nãy là lỗ hổng toang hoác bên sườn cổng vòm. Khói từ kim loại nóng chảy bốc quanh miệng hố.

Tôi nhủ thầm: “Chết thật. Mình vừa góp tay phóng hoả công trình tầm cỡ quốc gia.”

Kiếm Thuỷ Triều hiện nguyên hình trên tay tôi. Chờ Chimera quay lại, tôi nhắm cổ nó đâm lên.

Thật là sai lầm chết người.

Lưỡi kiếm đâm trúng vòng cổ, toé lửa. Con vật không hề hấn gì. Tôi loạng choạng cố đứng vững. Nhưng mải tránh miệng sư tử hung hăng, tôi mất cảnh giác với đuôi rắn. Con rắn độc vút đến, cắm phập nanh vào bắp chân tôi.

Toàn chân tôi như có lửa thiêu. Tôi cố đâm mũi kiếm vào miệng Chimera nhưng bị đuôi rắn quấn quanh cổ chân, lôi tôi ngã nhào. Kiếm tuột khỏi tay văng đến lỗ thủng khi nãy và rơi xuống dòng Mississippi.

Cố đứng dậy được nhưng tôi biết mình thua. Tôi không có vũ khí trong lúc nọc rắn theo máu chạy lên tận ngực.

Tôi nhớ bác Chiron bảo kiếm luôn quay về với chủ nhưng túi tôi hiện giờ không có bút. Có lẽ nó rơi quá xa. Có lẽ nó chỉ trở về dưới dạng bút thường. Tôi không biết về nó, chỉ biết tôi không còn sống đến lúc đoán cho ra.

Tôi lùi trở lại lỗ thủng. Chimera gầm gừ tiến đến, miệng thở khói cuồn cuộn.

Phù thuỷ rắn Echidna đắc thắng:

- Thời nay anh hùng bì sao được thời xưa, phải không con trai?

Quái thú tru lên. Thấy tôi tơi tả, nó nóng lòng muốn kết liễu tôi cho xong.

Liếc nhìn nhân viên an ninh và gia đình cậu bé, tôi thấy cậu ta núp sau chân bố.

Tôi phải bảo vệ họ, chết bây giờ… không phải lúc!

Tôi cố nghĩ cách nhưng toàn thân nóng rực. Đầu óc quay cuồng.

Tôi không có gươm. Trước mặt tôi là quái thú khạc ra lửa và phù thuỷ mẹ nó. Còn tôi đang run sợ.

Không còn chỗ để lùi thêm nữa, tôi đã tiến sát miệng hố. Tít phía dưới kia là dòng sông lóng lánh ánh bạc.

Nếu tôi chết, mẹ con quái thú có bỏ đi không? Chúng có tha những người vô tội kia không?

Echidna rú rít:

- Nếu đúng con thần Poseidon, ngươi đâu sợ nước. Ta thách ngươi nhảy xuống sông đấy. Nếu không chứng minh được nước không làm hại ngươi, ngươi chẳng là cái thá gì cả. Nhảy xuống vớt gươm lên xem nào. Thế mà cứ huênh hoang ta đây con dòng cháu giống.

Tôi nghĩ thầm: “Đúng rồi.”

Tôi nhớ có sách dạy rằng nhảy từ trên cao, khoảng cách bằng toà nhà hai tầng xuống nước giống lao thẳng xuống nền nhựa đường. Còn từ độ cao này, da thịt tôi sẽ nát nhừ.

Miệng con Chimera đỏ rực, chuẩn bị khạc lửa.

Mụ Echidna bảo tôi:

- Ngươi không có lòng tin. Không tin tưởng các thần trên trời. Ta không trách nhóc con hèn nhát. Ngươi có sống cũng chẳng làm nên trò trống gì. Thần thánh không giúp gì được ngươi. Nọc độc sắp chạy vào tim rồi.

Mụ không sai. Tôi sắp chết, hơi thở yếu dần.

Không ai cứu nổi tôi, kể cả các thần trên đỉnh Olympus.

Tôi lùi tiếp và quan sát dòng sông bên dưới.

Tôi nhớ vầng hào quang ấm áp từ nụ cười của cha. Chắc chắn ông đã nhìn mặt tôi. Lúc tôi còn nằm nôi, cha đã ghé thăm tôi rồi.

Tôi nhớ cây đinh ba quay tròn trên đầu đêm hội cướp cờ, dấu hiệu cho thấy thần Poseidon đã nhận con.

Nhưng dưới kia không phải biển, chỉ là sông Mississippi nằm giữa địa phận Hoa Kỳ. Thần biển không có ở đó.

- Kẻ mất lòng tin như mi đáng chết!

Echidna lải nhải, Chimera khạc cột lửa thẳng tới mặt tôi.

Tôi cầu xin:

- Cha ơi, cứu con.

Tôi quay người lao xuống sông trong lúc quần áo bắt lửa và độc tố theo máu đi khắp cơ thể.


* * *


HẾT CHƯƠNG 13



Chú thích:

(1) Chimera: Có xuất xứ từ vùng Tây Á, là con của quái vật Typhon và Echidna, có họ hàng với chó ba đầu Cerberus và quái vật Hydra. Chimera có khả năng thở ra lửa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

45#
 Tác giả| Đăng lúc 25-7-2014 22:06:46 | Chỉ xem của tác giả
14. KẺ BỊ TRUY NÃ



Tôi thích tự nhận rằng khi cắm đầu lao xuống, tôi ngộ ra chân lý cuộc đời, rằng cái chết không còn đáng sợ v.v… và v.v…

Bạn muốn biết sự thật? Tôi kêu không thành tiếng:

- AAAAGGGHHHHH!

Tôi lao xuống mặt nước với vận tốc xe tải. Gió thổi bạt hơi khiến tôi tưởng hai lá phổi nổ tung. Trong mắt tôi, nhà cửa, đồi núi, tàu bè đều lộn phộc, xiên xéo.

TÙM!

Bọt nước trắng xoá. Khi chúi xuống vùng nước tối, tôi tưởng đâu mình sắp lao đầu qua ba chục mét nước pha bùn và mãi mãi bị chôn vùi dưới đáy sông.

Nhưng lúc va chạm với mặt nước tôi không đau. Giờ tốc độ chìm đang chậm lại, bọt nước luồn qua kẽ tay tôi nhồn nhột.

Tôi không gây tiếng động lúc chạm xuống đáy. Một con cá da trơn nhầy nhụa to bằng bố dượng tôi ngoe nguẩy bơi về phía ánh sáng mờ mờ. Phù sa sông Mississippi trộn lẫn cả đống rác rến kinh tởm: nào chai bia rỗng, giày cũ và bịch ni lông.

Lúc ấy, tôi nhận ra vài điều.

Thứ nhất: người tôi không dẹp lép như bánh kếp. May mà trước khi nhảy, tôi chưa thành thịt nướng. Nọc độc của Chimera không còn sục sôi trong mạch máu nữa.

Tôi còn sống, thế là tốt rồi.

Thứ hai: Tôi không ướt. Tuy chân thấy mát lạnh, lửa cháy trên quần áo bị dập tắt nhưng lúc tôi sờ vạt áo, nó vẫn khô.

Trong số rác trôi lơ lửng, tôi lấy hộp quẹt ga và nhủ thầm: “Để xem nào.”

Tôi bật lửa. Tia lửa bắn ra. Một ngọn lửa tí xíu xuất hiện ngay dưới lòng sông Mississippi.

Tôi quờ tay vơ mảnh giấy gói bánh hamburger thấm đẫm nước trôi giữa dòng. Lập tức giấy khô cong. Khi gí nó vào lửa, giấy cháy dễ dàng. Tôi vừa buông tay, lửa tắt lịm. Mảnh giấy lại thành mẩu rác nhầy nhụa.

Quái đản thật.

Nhưng đến lúc đó, tôi để ý thấy điều lạ nhất.

Tôi vẫn thở.

Đang ở đáy sông, tôi vẫn thở bình thường như trên mặt đất.

Tôi đứng dậy, thấy bùn ngập ngang gối. Đầu gối mềm nhũn, hai tay run rẩy.

Đáng lẽ giờ tôi chỉ là một thây ma. Nhưng tôi vẫn sống như thể có… phép lạ.

Hình như tôi nghe tiếng phụ nữ. Giọng người này hơi giống mẹ tôi.

- Percy, cậu nói gì vậy?

Sâu dưới nước, giọng tôi vang vang như trong phòng thu âm và ồm ồm như giọng người lớn:

- À… cảm ơn. Con cảm ơn… cha.

Không lời đáp. Xung quanh chỉ có rác nối nhau trôi theo dòng, một con cá da trơn to khổng tượng lướt qua và ánh nắng lúc hoàng hôn tít trên cao xuyên qua làn nước chở nặng phù sa biến tất cả thành màu kẹo bơ caramen.

Sao cha Poseidon cứu tôi?

Càng nghĩ sâu xa, tôi càng hổ thẹn.

Tất nhiên, từ nhỏ đến lớn tôi gặp may vài lần.

Nhưng đối mặt với Chimera… không thể có cơ hội sống. Chắc giờ bốn người dân lành trên cổng vòm đã bị nướng thành than. Không bảo vệ được họ, sao đáng mặt anh hùng chứ?

Nhục nhã quá! Người như tôi chắc nên ở dưới này làm bạn với cá, gia nhập cư dân kiếm ăn ở tầng nước đáy.

Rạt, rạt!

Một chiếc xuồng máy đi qua phía trên đầu tôi, chân vịt khuấy nước phù sa đục ngầu.

Cách tôi chưa đầy hai mét là thanh Thuỷ Triều, cán cắm sâu xuống bùn.

Tiếng phụ nữ êm ái lại cất lên:

- Percy, cầm kiếm đi. Cha cậu đặt lòng tin vào cậu đấy.

Lần này, tôi biết rõ tiếng nói không vang trong đầu tôi. Tôi không tự tưởng tượng ra nó. Giọng nói âm vang khắp nơi, truyền vào nước như sóng siêu âm của cá heo.

- Ai vậy?

Đúng lúc ấy, qua ánh sáng mờ mờ, tôi thấy một người phụ nữ và trang phục mang màu của nước trông như bóng ma bập bềnh trôi phía trên thanh kiếm. Tóc cô ấy bồng bềnh. Nhìn kỹ tôi thấy mắt cô ấy màu xanh lục, giống mắt tôi.

Tôi nghẹn ngào:

- Mẹ đấy ư?

- Tuy ta không phải mẹ cháu nhưng số phận mẹ cháu chưa tuyệt vọng như cháu nghĩ đâu. Ta chỉ là sứ giả truyền tin mà thôi. Hãy đến bãi biển Santa Monica.

- Sao cơ ạ?

- Cha cháu nhắn thế. Trước khi xuống địa ngục, hãy tới bãi biển Santa Monica. Hãy nhớ kỹ, Percy. Ta không thể ở đây lâu. Vì nước quá bẩn nên ta phải đi ngay.

Tôi tin chắc đó là mẹ tôi, hay ít nhất là cái bóng của bà.

- Nhưng… cô là ai… Sao cô lại…

Dù muốn hỏi dồn nhưng lời lẽ tắc nghẹn trong cổ họng tôi.

Cô ấy với tay về phía tôi. Lập tức làn nước lướt qua mặt tôi như cái vuốt má trìu mến:

- Hỡi cậu bé dũng cảm, giờ ta phải đi. Cháu nhất định phải đến Santa Monica. Còn nữa, quà tặng không đáng tin.

Giọng cô nhỏ dần.

- Quà nào ạ? Khoan đã…

Cô định nói thêm nhưng không thành tiếng. Bóng cô tan vào nước.

Nếu đó là mẹ, tôi vừa mất bà lần nữa.

Tôi chỉ muốn trẫm mình, bỏ xác dưới sông. Nhưng khổ nỗi: tôi không có khả năng chết đuối!

Cô ấy bảo: “Cha cậu đặt lòng tin vào cậu đấy.”

Cô còn khen tôi dũng cảm… trừ phi cô định dành câu ấy cho con cá đang bơi gần tôi.

Tôi lội đến bên nắm lấy cán kiếm.

Có thể Chimera và phù thuỷ rắn còn ở trên kia, chờ kết liễu đời tôi. Chắc chắn giờ cảnh sát tràn ngập nơi đó. Họ cố đoán xem ai làm thủng đỉnh mái vòm. Nếu thấy tôi, họ sẽ tạm giữ để thẩm vấn.

Tôi đậy nắp, cất bút bi vào túi áo.

Tôi thì thầm với dòng sông đen ngòm lần cuối:

- Cảm ơn cha.

Dứt lời, tôi đạp bùn ngoi lên mặt nước.

-0-


Tôi ngoi đầu khỏi mặt nước, ngay cạnh vỏ hộp bánh McDonald bập bềnh trôi gần bờ.

Cách đó một dãy nhà, tất cả xe cứu thương của thành phố St. Louis nhỏ bé tập trung quanh Gateway Arch. Trực thăng cảnh sát quần đảo trên đầu. Đám đông hiếu kỳ gợi tôi nhớ Quảng trường Thời Đại trước thời khắc đón chào năm mới.

Một cô bé gọi mẹ:

- Mẹ ơi! Anh kia từ sông đi lên.

Người mẹ nghển cổ xem xe cứu thương, lơ đãng trả lời:

- Ừ, hay nhỉ.

- Nhưng quần áo anh ấy khô!

- Ừ ừ, mẹ biết rồi.

Có nữ phóng viên nói trước ống kính:

- Theo chúng tôi được biết, đây có lẽ không phải một vụ khủng bố. Tuy nhiên, các nhà chức trách mới trong giai đoạn đầu của cuộc điều tra. Như quý vị thấy, tổn hại là rất nghiêm trọng. Chúng tôi đang cố gắng tiếp cận nhóm người sống sót. Họ chứng kiến tận mắt có người ngã từ đỉnh Gateway Arch.

Người sống sót! Tôi nhẹ cả người. Chắc nhân viên an ninh và gia đình cậu bé thoát nạn. Hy vọng Annabeth và Grover không sao.

Tôi len đám đông để xem sau dãy cảnh sát xếp hàng có gì.

Một phóng viên khác tường thuật:

- … một nam thiếu niên. Kênh Năm được biết máy quay an ninh ghi được cảnh cậu bé phát điên ngay trên khu vực dành cho khách tham quan và gây ra vụ nổ lạ lùng. Thật khó tin nhưng theo nguồn tin đáng tin cậy, sự thật đúng như thế. Xin nhắc lại, không có con số thương vong…

Tôi lùi lại, đầu cúi gằm.

Tôi đi vòng quanh hàng rào cảnh sát rất lâu. Đâu đâu cũng thấy cảnh sát mặc thường phục và phóng viên.

Sắp tuyệt vọng vì không tìm thấy Annabeth và Grover, tôi bỗng nghe giọng thân quen:

- Perrr-cy!

Tôi quay lưng lại và nghẹt thở trong vòng tay Grover:

- Tụi tớ tưởng cậu tìm đường khác để đến chỗ Hades rồi.

Đứng sau Grover, Annabeth làm mặt giận nhưng chắc chắn thấy tôi, bạn ấy cũng bớt lo.

- Vừa rời tụi này năm phút là có chuyện! Có chuyện gì trên ấy thế?

- Đại khái là tớ ngã.

- Từ độ cao gần hai trăm mét ư?

Có ông cảnh sát quát sau lưng:

- Tránh đường!

Đám đông rẽ ra. Hai nhân viên y tế đẩy băng ca khẩn trương chạy ra. Tôi nhận ra ngay mẹ cậu bé nọ.

Bà ta kể:

- Sau đó, một con chó khổng lồ, con Chihuahua rất to khạc ra lửa…

Nhân viên y tế bảo:

- Tôi nghe rồi. Bà cứ bình tĩnh. Chồng con bà bình yên vô sự rồi nhé. Thuốc thần kinh bắt đầu có tác dụng đấy.

- Tôi không điên! Cậu ta nhảy xuống hố và con quái thú biến mất. – Bà ta nhìn thấy tôi. – Kìa, người kia đúng là cậu ấy!

Tôi quay ngoắt đi, đoạn kéo hai bạn theo cùng. Chúng tôi lẩn vào đám đông.

Annabeth hỏi dồn:

- Chuyện thế nào? Có phải bà ta nhắc đến con Chihuahua trong thang máy không?

Tôi kể hết từ đầu chí cuối: nào Chimera, nào phù thuỷ Echidna, nào màn trình diễn nhảy từ trên cao của tôi và thông điệp của người phụ nữ dưới đáy sông.

- Chà chà, ta sẽ đi Santa Monica! Cha cậu gọi, cậu không thể né được đâu nhé!

Annabeth chưa kịp phản ứng thì đúng lúc chúng tôi đi ngang qua một phóng viên truyền hình trực tiếp. Tôi chết sững khi nghe ông ta bảo:

- Percy Jackson. Đúng vậy. Kênh Mười Hai được biết nhận dạng thiếu niên gây ra vụ nổ vừa qua trùng khớp mô tả một người trẻ tuổi đang bị giới chức New Jersey truy nã sau vụ tai nạn xe buýt nghiêm trọng ở New Jersey cách đây ba ngày. Người ta tin rằng cậu ta đi về miền Tây. Xin giới thiệu với khán giả hiện ngồi trước màn hình tấm ảnh Percy Jackson.

Ba chúng tôi cúi lom khom vòng ra sau xe của đài truyền hình và chạy vào hẻm.

Grover bảo:

- Việc cần làm ngay: Đi khỏi thành phố.

May thay, chúng tôi đến được ga Amtrak mà không bị phát hiện. Cả ba lên tàu trước khi xe lửa chuyển bánh đi Denver.

Màn đêm buông xuống, bao phủ lên con tàu chạy về hướng miền Tây. Chúng tôi bỏ lại phía sau rừng đèn xe cảnh sát sáng rực bầu trời.


* * *


HẾT CHƯƠNG 14
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

46#
 Tác giả| Đăng lúc 26-7-2014 18:49:36 | Chỉ xem của tác giả
15. THẦN TỐT BỤNG ĐÃI BÁNH



Chiều hôm sau, ngày mười bốn tháng Sáu, bảy ngày trước Hạ chí, tàu vào ga Denver.

Từ đêm qua, lúc tàu còn ở Kansas tới giờ, ba đứa chưa ăn. Từ lúc rời Trại Con Lai tới giờ: chưa tắm. Chắc chắn trông chúng tôi giống bụi đời.

Annabeth gợi ý:

- Tìm cách liên lạc với bác Chiron đi. Tớ muốn báo vụ cậu nói chuyện với thần sông.

- Ta đâu dùng điện thoại được.

- Có ai bảo dùng điện thoại đâu.

Suốt nửa tiếng đồng hồ, ba đứa lang thang ở trung tâm thành phố dù tôi không biết Annabeth tìm gì. Ở đây khô và nóng, còn St. Louis thì ẩm ướt. Rặng Rocky vây quanh Denver, sừng sững như ngọn sóng thần sắp ập xuống thành phố.

Cuối cùng, chúng tôi tìm được trạm rửa xe tự động vắng khách. Vừa vòng ra ngăn xa đường nhất, chúng tôi vừa quan sát xem có xe cảnh sát đi tuần không. Nếu thấy ba thiếu niên tay không lảng vảng gần trạm rửa xe hơi, cảnh sát hạng bét cũng sẽ đoán chúng tôi có ý đồ bất lương.

Thấy Grover cầm vòi xịt, tôi hỏi:

- Chính xác thì ta đang làm gì đây?

Nó làu bàu:

- Những bảy mươi lăm xu. Tớ chỉ còn hai đồng hai lăm xu. Annabeth có không?

Annabeth đáp:

- Đừng nhìn tớ. Nhà ăn đêm qua vét sạch túi tớ rồi.

Tôi khoắng túi lấy hai mươi lăm xu, đồng tiền lẻ cuối cùng. Như vậy trong túi tôi còn hai đô la tiền xu và một đồng vàng drachma lấy ở chỗ Medusa.

- Tuyệt vời. Theo cách này, tớ không phải bơm nước mỏi rã cả tay.

- Tớ không hiểu.

Nó bỏ xu vào máy, vặn núm “phun sương”. Tôi hỏi Annabeth:

- Grover làm gì vậy?

- Gửi thông điệp Iris. Nữ thần cầu vồng Iris sẽ mang thông điệp tới các thần. Nếu biết nói khéo nhờ thần giúp và nếu thần không bận, nữ thần Iris sẽ giúp cả con lai.

- Gọi thần bằng vòi xịt nước ư?

Grover chĩa vòi lên trời. Màn sương trắng dày đặc phụt ra:

- Trừ khi cậu biết cách tạo cầu vồng nhanh hơn.

Đúng như Grover nói, nắng xuyên qua sương nhanh chóng biến thành cầu vồng bảy sắc.

Annabeth chìa tay:

- Đưa tớ đồng drachma.

Tôi ngoan ngoãn nghe lời.

Bạn tôi giơ đồng tiền vàng cao quá đầu:

- Xin thần nhận chút lòng thành.

Cô bé tung đồng tiền vào cầu vồng. Sau khi tan thành ánh sáng vàng, nó biến mất.

Annabeth kêu lên:

- Đồi Con Lai.

Chẳng thấy gì.

Giây lát sau, sau màn sương hiện lên ruộng dâu, eo biển Long Island phía xa như thể chúng tôi đang đứng trên thềm Nhà Lớn vậy. Cạnh lan can quanh thềm, quay lưng lại phía tôi là một thanh niên tóc vàng mặc quần soóc và áo thun da cam. Tay cầm kiếm đồng, anh ta chăm chú quan sát cánh đồng cỏ.

Tôi gọi:

- Luke!

Anh ngạc nhiên quay lại. Luke chỉ cách tôi ba bước chân và màn sương mỏng. Có điều tôi chỉ nhìn thấy phần cơ thể hiện trên cầu vồng.

Nụ cười tươi tắn hiện trên khuôn mặt sẹo:

- Percy! Kia có phải Annabeth không? Ơn trời… các em không sao chứ?

Annabeth lắp bắp:

- À, ừm… không sao.

Cô bé vuốt vuốt vạt áo dính bẩn, hất lọn tóc xoà xuống trán:

- Em tưởng bác Chiron…

Nụ cười của Luke tắt ngấm:

- Bác ấy xuống dãy nhà có việc. Mấy em dưới đó gặp chuyện. Nhưng mà này, các em bình an không? Grover vẫn khoẻ chứ?

Grover giơ vòi nước lên cao, nghiêng người để Luke nhìn thấy:

- Em đây. Ở trại có chuyện gì thế?

Đúng lúc ấy, một chiếc xe hơi Lincoln Continental chạy vào trạm. Tiếng nhạc hip-hop mở hết cỡ phát ra từ đầu máy stereo. Xe tiến đến ngăn bên cạnh, âm bass từ loa trầm rung chuyển mặt đường.

- Bác Chiron phải… sao ồn thế?

Annabeth mừng vì có cớ tránh mặt:

- Để em lo. Grover, đi thôi.

- Cái gì? Nhưng…

- Đưa vòi cho Percy rồi ra đây.

Grover lẩm bẩm câu gì đó đại loại con gái khó hiểu hơn cả gấu túi Tasmanian. Nó đưa vòi cho tôi và đi theo Annabeth.

Tôi chỉnh vòi nước sao cho vừa giữ được cầu vồng, vừa nhìn thấy Luke.

Luke hét to át tiếng nhạc:

- Bác Chiron vừa can một vụ đánh nhau. Tình hình trại khá căng thẳng. Tin mật Zeus và Poseidon bất hoà bị tiết lộ. Ban quản lý trại chưa dám chắc ai loan tin gây hoang mang, nhưng anh đoán cũng tên cặn bã gọi chó địa ngục bữa trước. Giờ anh em trong trại chia bè phái. Hệt như cuộc chiến thành Troy xưa: các thần Aphrodite, Ares và Apollo ủng hộ Poseidon. Athena ủng hộ thần Zeus.

Tôi rùng mình khi nghĩ đến khả năng nhà Clarisse ủng hộ cha tôi, dù chỉ là việc nhỏ.

Tiếng nhạc ở ngăn bên nhỏ hẳn. Tôi nghe Annabeth và gã trai nào đó cãi nhau bằng ngôn ngữ lạ. Chắc là tiếng Tây Ban Nha.

Luke hỏi:

- Tình hình em thế nào? Bác Chiron nhớ em lắm đấy.

Tôi kể anh nghe gần như mọi chuyện, kể cả giấc mơ của tôi. Gặp anh tôi mừng quá nói huyên thuyên, cảm giác như được về trại hè ít phút. Không biết tôi thao thao bất tuyệt bao lâu nhưng mãi khi máy phun sương kêu “bíp bíp”, tôi mới nhớ máy sẽ ngừng trong hơn phút nữa.

Luke bảo:

- Giá anh được đi với chú nhỉ? Ở đây, tụi anh không giúp gì được nhiều. Nhưng nghe này, chắc chắn Hades lấy tia chớp. Đông chí vừa rồi ông ta có lên đỉnh Olympus. Anh giám sát một chuyến tham quan và tụi anh thấy ông ấy.

- Nhưng bác Chiron bảo các thần không có khả năng tự tay lấy dụng cụ có phép thần của nhau.

Luke bối rối ra mặt:

- Đúng, đúng. Nhưng… Hades có mũ sắt tàng hình. Ai dám vào phòng đặt ngai vàng của Zeus lấy trộm tia chớp chứ? Phải tàng hình mới vào được.

Cả hai im lặng. Luke như sực nhớ nói chữa:

- Này, anh không ám chỉ Annabeth đâu nhé. Anh quen cô bé lâu nên hiểu tính. Annabeth không bao giờ… Nói thực là anh coi Annabeth như em gái.

Tôi e Annabeth không thích thế.

Tiếng nhạc ở ngăn bên tắt hẳn. Có tiếng đàn ông hoảng hốt la to, tiếng cửa đóng sập và chiếc Lincoln lủi khỏi trạm rửa xe.

- Chú thử ra xem chuyện gì. À này, còn mang giày anh đưa chú không? Nếu nó giúp được chú, anh cũng mừng.

Tôi thấy mình có tội khi phải nói dối:

- À… có. Tiện lắm anh ạ.

Nước tắt ngấm. Sương bắt đầu tan.

Luke nói với, giọng anh nhỏ dần:

- Ở Denver nhớ cẩn thận đấy. Nhắn Grover đừng lo, lần này sẽ suôn sẻ hơn lần trước. Sẽ không ai bị biến thành cây thông đâu. Chỉ cần nó…

Màn sương tan hết. Hình ảnh Luke biến mất. Chỉ mình tôi trơ trọi giữa ngăn rửa xe ướt át.

Annabeth và Grover về tới. Họ cười nói hỉ hả. Grover đi lộp cộp bằng móng guốc, tay cầm đôi giày mọc cánh.

Nó nhại:

- El Diablo! El Diablo! Annabeth này, lúc nãy cậu nói gì với họ thế?

- Lát nữa tớ nói cho nghe.

Thấy tôi, bạn ấy đứng sững. Nụ cười tắt ngấm:

- Percy, cậu sao thế? Anh Luke nói gì vậy?

Tôi nói dối mà trong lòng buồn và trống trải lạ thường:

- Chẳng có gì. Thôi mình đi tìm cái gì ăn trước đã.

-0-
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

47#
 Tác giả| Đăng lúc 27-7-2014 10:43:12 | Chỉ xem của tác giả
Mấy phút sau, ba chúng tôi vào quán ăn có ánh đèn vàng vọt chọn một ngăn. Quanh chúng tôi có mấy gia đình vừa ăn hamburger, uống sôđa và tráng miệng với đồ ngọt.

Mãi sau phục vụ bàn đi tới. Chị ấy nghi ngờ nhướn mày hỏi:

- Các em là…?

Tôi ấp úng:

- Chúng em… định gọi món.

- Các em có đủ tiền không đã?

Môi Grover run run. Tôi chỉ sợ nó kêu be be, hoặc tệ hơn… ăn vải sơn lót nhà. Còn Annabeth trông như sắp ngất xỉu vì đói.

Tôi cố nghĩ câu chuyện mủi lòng đem kể với chị phục vụ bàn. Thình lình cả toà nhà rung chuyển. Tôi tưởng mình đói quá nên chóng mặt. Bên ngoài, có chiếc môtô to bằng voi con thắng gấp bên lề đường.

Quán ăn im phăng phắc.

Đèn pha xe đỏ rực. Bình xăng xe sơn ngọn lửa cháy, hai bên đeo hai bao súng, nòng súng lấp ló miệng bao. Yên xe bọc da, nhưng da này giống da người đem thuộc.

Người ngồi trên xe có thể khiến cả chục đô vật vừa chạy vừa gọi mẹ. Ông ta mặc áo thun đỏ bó sát, quần jeans đen, áo khoác da đen, cạnh đùi giắt con dao găm dài. Sau cặp kính mát màu đỏ to tướng là khuôn mặt hung ác, dữ tợn nhất tôi từng thấy: đẹp trai nhưng quỷ quyệt. Mái tóc đen vuốt sáp bóng mượt và hai má chằng chịt sẹo từ vô số lần đánh nhau. Có điều lạ là tôi thấy ông ta trông quen quen.

Ông ta vừa bước vào, một cơn gió khô nóng xộc vào mọi ngõ ngách trong quán. Thực khách như bị thôi miên đứng cả dậy. Nhưng sau cái phẩy tay của ông ta, họ lại ngồi xuống.

Mọi người trong quán trò chuyện xôn xao. Chị phục vụ bàn chớp mắt, như thể có người nhấn nút tua lại trong não chị:

- Các em có đủ tiền không đã?

Tay đua xe lên tiếng:

- Tôi đãi.

Ông ta vào ngăn chúng tôi. Không gian quá hẹp so với thân hình kềnh càng của ông nên Annabeth phải ngồi nép bên cửa sổ.

Ông nhìn chị phục vụ ngạc nhiên nhìn mình:

- Cô vẫn còn ở đây sao?

Ông chỉ tay, chị ta cứng đờ như khúc gỗ rồi xoay lưng, đi xuống bếp.

Ông ta quay sang tôi. Dù không nhìn thấy mắt ông sau cặp kính màu đỏ, nhưng trong tôi sôi sục những cảm xúc khó chịu. Giận dữ, tức tối, cay đắng. Tôi muốn đấm vào tường, muốn ra ngoài gây sự đánh nhau. Gã này tưởng mình là ai chứ?

Ông ta cười nhếch mép:

- Ra đây là con lão già Tảo biển?

Đáng lẽ tôi phải ngạc nhiên hoặc sợ hãi. Đằng này, cảm giác của tôi giống lúc đối mặt Gabe Cóc Chết. Tôi chỉ muốn vặt đầu gã cho hả giận:

- Ông là cái thá gì chứ?

Annabeth lườm tôi:

- Percy, ăn nói cẩn thận. Ông đây là…

Ông ta giơ tay can ngăn:

- Không sao đâu. Ta thích người có cá tính. Miễn là phải biết trên biết dưới. Này anh họ, biết ta là ai không?

Giờ tôi biết sao ông ta trông quen quen. Gã có kiểu bĩu môi giống hệt mấy đứa ở nhà Số Năm, Trại Con Lai.

- Ông là cha của Clarisse. Thần chiến tranh Ares.

Thần Ares cười nham nhở, đoạn tháo kính mát. Chỗ của cặp mắt chỉ toàn lửa. Hai hốc mắt bốc cháy như có những vụ nổ hạt nhân bé xíu liên tiếp nối nhau.

- Thằng ranh, mày đoán đúng rồi đó. Tao nghe nói mày bẻ giáo của Clarisse.

- Nó muốn thế mà.

- Chắc vậy. Mày cũng được đấy. Chuyện trẻ con đánh nhau, tao không dính vào. Tao đến đây vì… vì nghe nói mày ghé Denver chơi. Tao định gợi ý mày một chuyện.

Chị nhân viên quay lại, bưng theo ba khay đầy bánh hamburger phô mai, khoai tây chiên, hành tây và sữa sôcôla.

Ares đưa chị mấy đồng vàng drachma.

Chị sợ hãi nhìn:

- Nhưng tiền này không…

Ares rút con dao to tướng tẩn mẩn cạo móng tay:

- Sao thế, cô em?

Hết hồn, chị cầm tiền vàng đi ra.

Tôi bảo:

- Ông không được đem dao ra doạ người.

Ares cười hô hố:

- Mày giỡn chắc? Tao thích xứ này. Kể từ thời Sparta, Mỹ là nơi tuyệt vời nhất. Ranh con, mày cũng mang vũ khí đấy thôi. Thế giới ngoài kia đầy hiểm hoạ. Nói đến đây tao mới nhớ vụ gợi ý. Mày phải giúp tao một việc.

- Tôi tài hèn sức mọn, sao giúp được thần thánh?

- Có chứ, giúp tao đỡ phí thời gian vì đôi ba thứ nhỏ nhặt. Tao quên tấm khiên ở công viên nước bỏ hoang dưới trung tâm. Chẳng là tao đang vui vẻ với… nhân tình thì bị phá ngang. Tao bỏ lại khiên ở đó. Giờ mày lấy nó về cho tao.

- Sao ông không tự đi mà lấy?

- Cũng cùng lý do tao không biến mày thành chó rồi cán chết bằng chiếc Harley kia. Bởi vì tao không thích. Này Percy Jackson, thần thánh đang cho mày cơ hội khoe mẽ. Hay mày biến thành thằng hèn rồi? – Ông ta ghé sát lại. – Hay mày chỉ hung hăng khi có dòng sông đỡ bên dưới, để cha mày còn ra tay cứu mày?

Tôi muốn đấm vào mặt gã nhưng không hiểu sao tôi biết gã chỉ chờ có thế. Thần Ares rất biết chọc giận tôi. Nếu tôi nổi khùng xông vào, gã sẽ đắc ý. Tôi quyết không cho gã hả hê.

- Tụi tôi không quan tâm vì còn có việc phải làm.

Cặp mắt dữ dội của Ares bắt tôi nhìn những thứ tôi không muốn nhìn: nào máu chảy, khói lửa, xác người la liệt khắp chiến trường…

- Tao biết việc gỉ rồi. Lúc mới mất bảo bối, Zeus cử toàn người giỏi nhất đi tìm: Apollo, Athena, Artemis và tao, tất nhiên. Nếu tao không tìm ra món đồ lợi hại đó… - Ares liếm môi như thể ông ta khao khát khi nghĩ đến tia chớp. – Nếu tao không tìm được, mày đừng có mong. Tuy nhiên, tao cho mày cớ để nghi ngờ đây. Nói cho biết, chính tao rỉ tai Poseidon, khiến cha mày nghi ngờ lão Mồm Thối suốt ngày loanh quanh với xác chết.

- Ông bảo cha tôi rằng Hades lấy tia chớp ư?

- Còn ai vào đây nữa. Chỉ thoáng nhìn tao biết ngay Hades ném đá giấu tay, khiến Zeus tuyên chiến với Poseidon. Xét theo một khía cạnh nào đó, mày phải cảm ơn tao. Nhờ tao, mày mới được giao việc này.

Tôi làu bàu:

- Cảm ơn.

- Này, tao hào phóng lắm. Chạy giúp tao việc vặt kia, tao sẽ giúp lộ phí cho mày. Tao sẽ dàn xếp, tìm xe cho chúng mày đi về miền Tây.

- Chúng tôi tự lo được.

- Phải, chúng mày giỏi. Không tiền, không xe, không biết đối thủ của mình là ai mà đòi tự lo. Thôi giúp tao đi, biết đâu tao sẽ có thông tin mày cần. Về mẹ mày ấy.

- Mẹ tôi sao?

Gã cười nhăn nhở:

- Giờ chịu nghe rồi phải không? Công viên nước cách Delancy chừng hai cây số về phía tây. Dễ tìm lắm. Nhớ đến Đường Hầm Tình Yêu nhé.

Tôi hỏi kháy:

- Cái gì khiến ông bỏ cuộc vui giữa chừng? Nó làm ông sợ mất mật phải không?

Thần Ares nhe nanh với tôi, nhưng tôi biết trò doạ nạt qua Clarisse rồi. Toàn làm bộ làm tịch, như thể họ đang che giấu nỗi lo sợ nào đó.

- Nhãi con, may mà gặp tao đấy. Vào tay thần khác thì đừng hòng. Không ai khoan dung thói hỗn xược bằng tao đâu. Xong việc nhớ quay lại đây gặp tao. Đừng làm tao thất vọng, nghe chưa?

Sau đó, chắc tôi ngất hoặc bị thôi miên vì khi mở mắt, trong ngăn không còn ai ngoài ba chúng tôi. Tôi tưởng cuộc nói chuyện vừa rồi chỉ có trong mơ nhưng nét mặt Annabeth và Grover cho thấy điều ngược lại.

Grover bảo:

- Không hay rồi Percy. Thần Ares tìm cậu không phải điềm lành.

Tôi ngó cửa sổ. Chiếc xe biến mất.

Có thật thần Ares biết thông tin về mẹ hay chỉ đùa cợt trên sự đau khổ của tôi? Giờ ông ta ra đi, cơn giận trong tôi tan biến. Chắc chắn ông này thích làm cảm xúc con người ta rối như mớ bòng bong. Biệt tài của thần Ares là thế: Làm cảm xúc đối phương rối rắm, quay cuồng khiến họ không còn suy nghĩ sáng suốt.

- Chắc chỉ là trò chơi khăm. Kệ ông ta. Mình đi thôi.

Annabeth cãi:

- Không được. Tớ chẳng ưa gì thần Ares, nhưng ta không thể phớt lờ thần thánh trừ phi muốn rước đại hoạ vào thân. Ông ta dư sức biến cậu thành loài gặm nhấm.

Tôi nhìn bánh hamburger trên bàn. Thốt nhiên, nó không thơm ngậy như tôi tưởng.

- Sao ông ta cần chúng mình nhỉ?

- Chắc vì năng lực suy tưởng thôi. Thần Ares có sức mạnh. Nhưng chỉ có thế không hơn. Đôi khi sức mạnh cũng phải cúi đầu trước sự thông thái.

- Nhưng công viên nước này… điệu bộ ông ta có vẻ sợ sệt. Cái gì khiến thần chiến tranh phải bỏ chạy như thế?

Annabeth và Grover hồi hộp nhìn nhau. Annabeth bảo:

- E rằng ta phải tự tìm hiểu lấy.

-0-
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

48#
 Tác giả| Đăng lúc 27-7-2014 22:45:38 | Chỉ xem của tác giả
Khi ba chúng tôi tìm thấy công viên nước, mặt trời đã xuống núi. Nhìn biển báo, tôi đoán nơi này từng có tên WATERLAND, nhưng giờ vài chữ đã rách nát, chỉ còn lại chữ WAT R A D.

Cửa chính khoá, trên cùng chăng dây kẽm gai. Bên trong, chỗ nào cũng thấy cầu trượt chưa bơm nước, ống trượt lớn nhỏ xoắn vặn nối với mấy bể bơi rỗng và khô. Vé cũ và tờ rơi vương vãi khắp mặt đường nhựa.

Màn đêm dần buông khiến nơi này trông buồn thảm và rờn rợn.

Tôi nhìn mạng dây kẽm gai chằng chịt bên trên:

- Nghe nói Ares đưa bạn gái đến đây du hí. Chắc cô ta cũng thuộc loại “thứ dữ”.

Annabeth gắt:

- Percy, tỏ ra tôn trọng chút đi.

- Sao gắt tớ? Tớ tưởng cậu cũng ghét Ares.

- Dù gì ông ta cũng là thần thánh. Với lại, tình nhân của ông ấy nóng tính lắm.

Grover đế thêm:

- Đố ai dám chê diện mạo của bà ta.

- Ai mà ghê thế? Echidna chắc?

- Không, là Aphrodite, nữ thần tình yêu.

- Tớ tưởng bà ta lấy người khác. Nhớ rồi, Hephaestus.

- Cậu nói thế làm gì?

Thốt nhiên tôi muốn đổi đề tài:

- À, ta vào bằng cách nào đây?

- Maia!

Giày Grover mọc cánh.

Bay qua hàng rào, lộn một vòng trên không trung, Grover loạng choạng tiếp đất bên kia cánh cửa. Nó thản nhiên phủi bụi quần như thể đã tính toán cú nhảy từ trước:

- Sao, mấy cậu có vào không đây?

Annabeth và tôi phải leo cổng theo cách bình thường. Hai đứa thay phiên giữ dây kẽm gai cho nhau tiến từng bước.

Bóng tối dần thẫm lại, mênh mông hơn trong lúc chúng tôi tiến sâu vào công viên, xem xét các tụ điểm. Ở đây có đảo “Coi Chừng Bị Cắn Chân”, khu vui chơi “Khéo Đụng Đầu” và góc “Đồ Bơi Của Tôi Rơi Đâu Rồi?”.

Không thấy yêu quái rình mò. Xung quanh im lặng như tờ.

Chúng tôi đến quầy lưu niệm cửa mở toang. Hàng hoá vẫn chất đầy trên kệ: quả cầu tuyết, bút chì, bưu thiếp và dãy móc treo…

Annabeth reo lên:

- Quần áo sạch.

Tôi nhắc:

- Phải. Nhưng cậu không được…

- Thế ư? Nhìn đây.

Ôm hết quần áo trên dãy móc dài, Annabeth biến mất trong phòng thay đồ. Mấy phút sau, bạn ấy trở ra với quần soóc in hoa, áo thun đỏ in chữ Waterland và đôi giày thể thao mang tên khu vui chơi. Annabeth đeo trên vai balô căng phồng in logo của công viên nước. Rõ ràng bên trong còn rất nhiều quần áo khác.

Grover bảo tôi:

- Thoải mái đi.

Lát sau, cả ba đều ăn mặc như dụng cụ quảng cáo biết đi cho công viên bị xoá sổ từ lâu.

Chúng tôi tiếp tục tìm Đường Hầm Tình Yêu. Tôi có cảm giác cả công viên đang nín thở.

Cố quên bóng tối ngày càng quánh lại, tôi gợi chuyện:

- Vậy… Ares và Aphrodite có quan hệ với nhau?

Annabeth đáp:

- Nghe đồn thế. Từ ba ngàn năm trước cơ.

- Thế còn chồng Aphrodite?

- Cậu biết rồi, thần Hephaestus là thợ rèn. Mới lọt lòng chưa được bao lâu đã bị thần Zeus quẳng từ đỉnh Olympus xuống nên bị tật nguyền, què quặt. Vậy không thể gọi là đẹp trai được. Tuy ông khéo tay nhưng Aphrodite không thích thú gì trí thông minh và tài năng hết.

- Bà ấy thích dân đua mô tô.

- Đại khái thế.

- Hephaestus biết chuyện không?

- Biết chứ. Một lần ông dùng lưới vàng bắt cả hai sau đó mời các thần đến chứng kiến nhằm bêu riếu cặp tình nhân. Từ trước đến giờ, Hephaestus luôn nghĩ cách làm họ xấu hổ. Thế nên muốn gặp nhau họ phải tìm nơi kín đáo, như…

Annabeth dừng phắt lại, nhìn thẳng phía trước:

- Như chỗ kia kìa.

Trước mặt chúng tôi là hồ cạn khô. Chắc lúc trước là sân trượt băng rất đẹp. Nó hình tròn, đường kính ít nhất năm chục mét.

Xung quanh sân trượt bài trí hơn chục tượng thần tình yêu Cupid có cánh bằng đồng giương sẵn cung tên. Đối diện chỗ chúng tôi đứng là đường hầm hun hút, có lẽ là chỗ tháo nước khi hồ đầy. Bảng phía trên đề: HÀNH TRÌNH LY KỲ CỦA TÌNH YÊU – Đây KHÔNG phải Đường hầm Tình yêu của cha mẹ bạn!

Grover rón rén đến gần mép hồ:

- Nhìn kìa!

Dưới đáy hồ cạn khô có chiếc thuyền nhỏ sơn màu hồng và trằng. Mui thuyền có dù che. Khắp thuyền vẽ đầy trái tim xinh xinh. Trên ghế trái có một vật tròn bằng đồng sáng mờ do phản chiếu ánh sáng lúc trời nhập nhoạng: khiên của thần Ares.

- Sao dễ thế? Chỉ cần xuống lấy là xong.

Annabeth rà đầu ngón tay lên bệ tượng Cupid gần nhất.

- Ở đây có khắc chữ Hy Lạp: Êta. Không hiểu…

Tôi hỏi:

- Grover này, cậu có ngửi thấy mùi yêu quái không?

Grover hít hà:

- Không.

- Lúc ở Gateway Arch, cậu cũng bảo không có yêu quái. Lần này thì sao?

Grover tự ái:

- Tớ đã bảo đó là chó địa ngục mà.

Tôi lấy can đảm:

- Thôi, xin lỗi nhé. Để tớ xuống.

- Tớ đi với cậu.

Nói thế nhưng Grover có vẻ không hào hứng lắm. Tôi đoán Grover cố xí xoá vụ bỏ tôi lại một mình trên Gateway Arch.

- Không. Tớ muốn cậu tận dụng tối đa giày bay. Tớ cần cậu hỗ trợ, nhất là lúc có sự cố.

Grover ưỡn ngực:

- Có tớ đây. Nhưng sự cố nào chứ?

- Tớ không biết, chỉ linh tính thế thôi. Annabeth đi với tớ…

- Cậu điên à?

Cô bạn nhìn tôi từ đầu đến chân như thể tôi vừa ở cung trăng rơi xuống. Hai má Annabeth đỏ bừng.

Tôi quạu quọ:

- Sao thế?

- Tớ đi với cậu vào Đường Hầm Tình Yêu ư? Ngượng chết được. Nhỡ ai nhìn thấy thì sao?

- Làm gì có ai?

Nói thế chứ tôi cũng ngượng chín mặt. Sao con gái hay rắc rối thế nhỉ?

Tôi bảo Annabeth:

- Được rồi. Tớ tự làm lấy.

Nhưng thấy tôi bước xuống hồ, bạn ấy cũng đi theo, miệng lẩm bẩm rằng con trai chỉ lắm chuyện lằng nhằng.

Chúng tôi đến bên thuyền. Chiếc khiên dựng trên một ghế. Bên kia có khăn quàng cổ bằng lụa.

Tôi tưởng tượng thần Ares và Aphrodite trong khung cảnh này: Hai vị thần gặp nhau trong công viên nước bỏ hoang. Tại sao phải thế? Vừa lúc đó tôi nhận thấy chi tiết mà lúc đứng phía trên, tôi không thấy: quanh hồ gắn đầy gương. Tất cả đều chiếu thẳng vào thuyền. Dù nhìn đi đâu, tôi cũng soi gương được. Ra vậy. Trong lúc ân ái mặn nồng, Ares và Aphrodite vẫn ngắm người yêu qua gương.

Tôi cầm khăn quàng cổ lên xem. Chất liệu vải mỏng, hồng nhạt thơm mùi hoa hồng hoặc cây nguyệt quế mọc trên núi. Tôi mơ màng cười nụ, suýt áp khăn lên má. Annabeth giật vội, nhét khăn vào túi:

- Chớ! Đừng động vào bảo bối tình yêu chứ!

- Cái gì?

- Đồ óc tảo biển, lấy khiên rồi đi thôi.

Tay vừa chạm khiên, tôi biết ngay có sự chẳng lành. Bàn tay tôi vừa xuyên qua một thứ nối khiên với bảng điều khiển của xuồng máy. Tôi tưởng mạng nhện, nhưng khi giơ tay lên nhìn kỹ, hoá ra đó là dây kim loại rất mảnh, mắt thường gần như không nhìn thấy được. Một đoạn dây bẫy.

Annabeth ngăn:

- Khoan đã.

- Không kịp rồi.

- Mạn xuồng có chữ Êta, giống trên kia. Ta mắc bẫy rồi.

Thình lình, bao âm thanh nhất loạt vang lên như thể có hàng ngàn bộ phận đồng thời khởi động. Cả hồ nước biến thành cỗ máy khổng lồ.

Grover hét:

- Các cậu ơi, coi chừng!

Quanh thành hồ hình tròn, tượng Cupid giơ cung ngắm bắn. Tôi chưa kịp kêu Annabeth tìm chỗ nấp, họ đã nhả tên. Nhưng họ không bắn chúng tôi mà bắn lẫn nhau: Tượng bên này bắn sang thành hồ đối diện. Những sợi dây kim loại mảnh theo mũi tên găm sang bờ bên kia tạo thành hình hoa thị bằng vàng. Sau đó, những sợi chỉ kim loại nhỏ xíu tự đan vào nhau dệt nên tấm lưới khổng lồ.

Tôi phát hoảng:

- Ta phải thoát ra.

Annabeth đáp:

- Không được.

Chộp lấy cái khiên, tôi và Annabeth bỏ chạy. Nhưng chạy lên thành hồ dốc và trơn khó hơn đi xuống.

Grover giục:

- Nhanh lên!

Nó cố vạch lưới chừa lỗ hổng cho chúng tôi chui ra. Nhưng những sợi chỉ vàng tự động quấn lấy bàn tay nó.

Đầu các Cupid mở ra. Máy ghi hình từ đó nhô lên. Quanh hồ, đèn pha mọc lên làm chúng tôi loá mắt. Tiếng loa oang oang:

- Truyền hình trực tiếp lên đỉnh Olympus sau một phút… Năm mươi chín giây… Năm mươi tám…

Annabeth kêu to:

- Hephaestus! Tớ ngố quá đi. Êta là chữ H. Thần làm bẫy này để bắt quả tang vợ và thần Ares. Giờ máy quay sắp truyền hình trực tiếp tớ với cậu lên đỉnh Olympus. Mình thành lũ hề mất rồi.

Chúng tôi sắp lên đến miệng hồ. Bất ngờ, những tấm gương mở lên như cửa cống. Hàng ngàn con gì bằng kim loại nhỏ xíu tràn vào.

Annabeth hét toáng lên.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

49#
 Tác giả| Đăng lúc 28-7-2014 23:01:06 | Chỉ xem của tác giả
Dòng chảy của những con vật ghê rợn tuồn vào mãi: mình bằng đồng, tám chân khẳng khiu và miệng nhỏ ngáp liên tục. Chúng vây quanh Annabeth và tôi tạo nên âm thanh loảng xoảng.

Annabeth kêu la:

- Nhện! A…a…a…

Tôi chưa từng thấy Annabeth hoảng loạn như thế. Cô bé kinh hoàng ngã ngửa, suýt bị lũ nhện rô bốt chôn vùi nếu tôi không nhanh tay kéo lên và lôi về phía thuyền.

Lũ nhện tràn ra từ quanh miệng hồ. Hàng triệu con bò lổm ngổm tới giữa hồ, vây kín chúng tôi. Tôi trấn tĩnh bằng cách tự nhủ rằng: Người ta không lập trình lũ nhện với mục đích giết người. Chúng chỉ vây hãm, cắn đớp và biến chúng tôi thành lũ ngốc. Một lần nữa, chúng tôi sa bẫy chuyên dành cho các thần. Rủi thay, Annabeth và tôi không phải thần thánh.

Chúng tôi leo lên xuồng. Tôi vung chân đuổi lũ nhện bắt đầu tràn vào lòng xuồng. Tôi gào thét kêu Annabeth giúp đỡ nhưng bạn tôi quá hoảng loạn, ngoài gào thét ra không biết làm gì hơn.

Loa tiếp tục đếm ngược:

- Ba mươi, hai chín…

Lũ nhện nhả tơ kim loại, trói chặt chúng tôi. Sợi tơ rất mảnh, lúc đầu giật đứt dễ dàng. Nhưng sau quá nhiều dây bện lại, đồng thời dòng lũ nhện vẫn tiếp tục tuôn đến. Tôi đá một con bò lên chân Annabeth. Nó quay lại cắn một miếng giày thể thao mới tinh của tôi.

Đôi giày thần đưa Grover bay là là trên hồ. Nó cố kéo cho lưới nới lỏng ra, nhưng không ăn thua.

Tôi tự nhủ: “Nghĩ cách đi chứ!”

Lối vào Đường Hầm Tình Yêu dưới tấm lưới. Nó là lối thoát nếu không có hàng triệu con nhện máy cản đường.

Loa vẫn đếm:

- Mười lăm, mười bốn…

Tôi tự hỏi: “Nước. Nước chảy vào đường hầm này từ đâu?”

Và rồi tôi đã thấy. Mấy ống nước khổng lồ sau hàng gương. Nhện tuôn ra từ đó. Trên tấm lưới, cạnh một tượng thần Cupid là buồng nhỏ gắn cửa sổ kính. Chắc chắn bảng điều khiển trong đó.

Tôi gọi lớn:

- Grover! Vào buồng đi. Tìm nút ON.

- Nhưng…

- Làm đi.

Hy vọng ấy thật ngông cuồng nhưng là cơ hội duy nhất. Annabeth vẫn điên cuồng gào thét. Tôi phải tìm cách thoát cho cả hai.

Grover vào buồng điều khiển thử vài nút nhấn.

- Năm, bốn…

Grover ngẩng lên tuyệt vọng nhìn tôi, giơ cả hai tay. Tôi biết nó đã thử mọi nút nhưng vô vọng.

Nhắm mắt, tôi mường tượng cảnh sóng nước, dòng chảy xiết, sông Mississippi. Cảm giác rất đỗi thân quen tràn về. Tôi hình dung mình lôi cả đại dương đến với Denver.

- Hai, một, ZERO!

Nước xối ào ào từ miệng ống nước. Dòng chảy ào ạt đổ vào bể nhanh chưa từng thấy, cuốn trôi lũ nhện như quét sạch bụi li ti. Lôi Annabeth lên ghế bên cạnh, tôi vừa thắt dây an toàn cho bạn xong, sóng lớn đã xô mạnh xuồng, hất lũ nhện ra ngoài, làm chúng tôi ướt hết nhưng xuồng không lật. Chiếc xuồng quay đầu, theo nước dâng lên xoay tròn giữa hồ nước xoáy.

Dưới nước nhung nhúc lũ nhện máy hỏng. Nhiều con bị sóng đánh vào tường xi măng mạnh đến nỗi chúng vỡ tan tành.

Đèn pha tập trung vào hai đứa tôi. Mấy máy ghi hình kêu xè xè, truyền hình trực tiếp lên đỉnh Olympus.

Nhưng đầu óc tôi dồn cả vào việc lái xuồng. Tôi muốn nó trôi theo dòng và không va vào tường. Chắc chắn do trí tưởng tượng quá phong phú nên tôi thấy xuồng làm theo ý tôi. Ít nhất cả người lẫn xuồng không bị đập nát thành triệu mảnh. Xuồng xoay vòng lần cuối, lực nước đủ cao đưa chúng tôi xuyên thủng mạng nhện kim loại. Sau đó xuồng quay đầu hướng về đường hầm, đưa chúng tôi lao vun vút vào bóng tối.

Annabeth và tôi hét thất thanh, ôm chặt nhau những lúc xuồng đến khúc cua gắt, góc hẹp và lao từ độ dốc bốn mươi lăm độ, băng qua hình vẽ Romeo và Juliet cùng đủ loại tranh ảnh tình tứ khác.

Ra khỏi đường hầm, gió đêm thổi bạt tóc chúng tôi. Chiếc xuồng phóng thẳng đến lối ra.

Đúng ra, xuồng sẽ xuống đoạn dốc giữa hai Cánh Cổng Tình Yêu rồi dừng lại an toàn ở hồ nước cuối chặng gần lối ra. Nhưng chúng tôi không gặp may. Cánh Cổng Tình Yêu có khoá dây xích. Trước đó có hai xuồng cũng bị chặn lại sau khi rời đường hầm. Giờ chúng thành chướng ngại vật: một chiếc đầy nước, chiếc kia bể làm đôi.

Tôi thét bảo Annabeth:

- Tháo dây an toàn đi!

- Cậu điên à?

Tôi lồng khiên của thần Ares vào cánh tay:

- Cậu muốn chết tan xác không? Ta sẽ nhảy khỏi xuồng.

Sáng kiến của tôi đơn giản mà ngông cuồng: Khi xuồng đụng vật cản, chúng tôi sẽ dùng nó làm lò xo nhảy qua cổng. Tôi nghe nói nhiều người gặp tai nạn xe mà thoát chết nhờ cách đó. Họ văng xa cách chỗ xảy ra tai nạn cả mươi, mười lăm thước. Nếu may mắn, chúng tôi sẽ ngã vào bể nước.

Hình như Annabeth hiểu ý tôi.

Khi xuống đến gần cổng, cô bạn nắm chặt tay tôi.

Tôi dặn:

- Cứ làm theo tớ!

- Không! Cậu trông tớ mà làm!

- Cái gì?

- Kiến thức vật lý đơn giản! Theo đường đạn đạo thì…

- Rồi! Theo cách của cậu đi.

Annabeth ngập ngừng, kiềm chế rồi hét lên:

- Nhảy!

RẮC!

Annabeth tính đúng. Nếu nhảy theo ý tôi, cả hai sẽ văng mạnh vào cánh cửa.

Annabeth tính lực tối đa cho cú nhảy của cả hai.

Rủi thay, lực hơi lớn hơn cần thiết một chút.

Xuồng chúng tôi đâm sầm vào đống xuồng vỡ. Annabeth và tôi bay giữa trời: qua cánh cổng, qua hồ nước và lao xuống mặt đường nhựa.

Con gì túm sau áo tôi.

Annabeth la:

- Úi!

Grover!

Lơ lửng giữa trời, một tay nó nắm áo tôi, tay kia lôi cánh tay Annabeth cố không để chúng tôi ngã xuống đường nhưng lực quán tính của chúng tôi quá lớn.

Grover than:

- Hai người nặng quá. Ta ngã mất.

Chúng tôi cùng lao xuống đất. Grover cố hết sức làm giảm lực va chạm từ cú tiếp đất.

Ba đứa đâm thủng tấm bìa cứng tạo cảnh chụp hình. Đầu Grover xuyên qua lỗ có cảnh trong phim Noo-Noo và Cá Voi Thân Thiện. Annabeth và tôi sóng soài dưới đất, bị đau nhưng còn sống. Khiên của thần Ares vẫn dính cánh tay tôi.

Cách đó chừng ba mươi mét, tại hồ nước cạnh cổng vào, máy quay của thần Cupid vẫn hoạt động. Tôi quay lại nhìn. Sóng ở Đường Hầm Tình Yêu đã dịu lại. Xuồng chúng tôi vỡ tan, bập bềnh gần cổng sắt.

Tôi hét lên:

- Chương trình đến đây là kết thúc. Cảm ơn quý vị xem đài! Chúc ngủ ngon!

Hơn chục tượng thần tình yêu Cupid về tư thế ban đầu. Đèn tắt ngấm. Công viên lại im ắng và tối tăm, ngoại trừ tiếng nước nhỏ giọt tong tong ở hồ gần lối ra.

Tôi bâng quơ tự hỏi truyền hình trên đỉnh Olympus có nghỉ quảng cáo hay đang chuẩn bị bình chọn cho show diễn vừa rồi.

Tôi ghét bị trêu chọc. Tôi ghét bị lừa bịp. Tôi có cả kho kinh nghiệm đối phó với những tay chuyên đi bắt nạt dám giở những trò đó với tôi.

Giơ cao tấm khiên trên cánh tay, tôi quay sang bảo bạn:

- Mình có chút chuyện cần nói với thần Ares.


* * *


HẾT CHƯƠNG 15
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

50#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2014 20:24:42 | Chỉ xem của tác giả
16. ĐƯA NGỰA VẰN ĐẾN VEGAS



Thần chiến tranh đợi chúng tôi ngoài bãi xe của quán ăn hôm trước.

- Chà chà, mấy đứa chưa chết à?

Tôi chỉ trích:

- Ông biết đó là bẫy còn bảo chúng tôi vào.

Thần Ares cười khoái trá:

- Chắc lão thợ rèn chưng hửng vì mất công giăng lưới bẫy hai nhóc tì ngu xuẩn. Trên tivi, hai đứa trông xinh ra phết.

Tôi giúi khiên vào người ông ta:

- Đồ đểu!

Annabeth và Grover sợ tái mặt.

Chộp ngay tấm khiên, thần Ares xoay nó trên không như miếng bột bánh pizza, biến nó thành áo chống đạn. Ông ta khoác áo lên vai.

Thần Ares chỉ chiếc xe tải hạng nặng đậu bên kia đường, đối diện quán ăn:

- Thấy xe kia không? Mấy đứa sẽ lên xe đó. Xe chạy thẳng đến Los Angeles, chỉ nghỉ dọc đường một lần khi đến Vegas.

Tấm bảng sau xe có dòng chữ: TỔ CHỨC NHÂN ĐẠO QUỐC TẾ: PHƯƠNG TIỆN VẬN CHUYỂN CỦA SỞ THÚ NHÂN ĐẠO. LƯU Ý: THÚ HOANG CÒN SỐNG.

Tôi bực mình:

- Ông giỡn đấy ư?

Thần Ares búng tay. Then cửa sau xe rơi ra.

- Đi xe miễn phí nhé. Nhãi con đừng ca cẩm nữa. Cầm lấy, trả công cho vụ vừa rồi đây.

Ông ta lấy ba lô bằng vải nylon móc trên tay ga ném cho tôi.

Bên trong có mấy bộ quần áo sạch, hai mươi đô la tiền mặt, túi nhỏ đựng tiền drachma và bịch bánh ngọt Oreos.

Tôi cau có:

- Đây không thèm mấy thứ vớ vẩn…

Grover đỡ lời, đồng thời lừ mắt nhìn tôi đi kèm sắc mặt dữ tợn nhất có thể:

- Cảm ơn Ngài. Cảm ơn lắm lắm.

Tôi nghiến răng trèo trẹo. Hành động từ chối quà thần ban là sự xúc phạm ghê gớm nhưng tôi căm ghét mọi thứ Ares chạm tay vào. Miễn cưỡng, tôi khoác ba lô lên vai.

Dù biết hễ nhìn thần Ares rồi nổi cáu là vô lý, nhưng tôi vẫn ngứa ngáy chân tay, chỉ muốn thoi ông ta một quả vào giữa mặt cho bõ tức. Ông ta nhắc tôi nhớ mọi kẻ từng bắt nạt tôi: Nancy Bobofit, Clarisse, Gabe Cóc Chết, các giáo viên hay mỉa mai và mọi tên đốn mạt ngày đi học dám bảo tôi ngu hoặc cười hô hố lúc tôi bị đuổi học.

Ngoái đầu nhìn, tôi thấy trong quán ăn chỉ còn vài thực khách. Chị phục vụ bàn hôm trước mang bánh cho chúng tôi giờ đứng sát cửa sổ lo lắng quan sát. Hình như chị sợ thần Ares ra tay với ba đứa tôi. Chị rủ cả đầu bếp ra xem. Chị vừa rỉ tai ông ta. Đầu bếp gật đầu, lấy máy ảnh chụp chúng tôi một kiểu.

Tôi nghĩ thầm: “Chán thật! Mai ba đứa lại lên báo.”

Dòng tít tưởng tượng chạy trong đầu tôi: TỘI PHẠM MƯỜI HAI TUỔI ĐÁNH ĐẬP DÃ MAN TAY ĐUA MÔ TÔ KHÔNG PHÒNG VỆ.

Tôi cố giữ giọng bình tĩnh:

- Ông nợ tôi một chuyện. Lúc trước ông có hứa sẽ cho biết tin về mẹ tôi.

Ông ta khởi động xe:

- Có chắc mày chịu nổi hung tin không? Mẹ mày chưa chết.

Đất dưới chân tôi quay cuồng:

- Nghĩa là sao?

- Nghĩa là khi bà ấy sắp chết, có người đưa bà ấy thoát khỏi tay quỷ đầu bò. Mẹ mày biến thành cơn mưa vàng, đúng chưa? Vậy linh hồn có rời đi chỗ khác. Chưa chết. Chỉ bị bắt giữ thôi.

- Sao mẹ tôi bị bắt?

- Đúng là vắt mũi chưa sạch mà. Phải học binh pháp chứ. Đây là “chiêu” dùng con tin. Bắt người này để khống chế người khác.

- Đừng hòng ai khống chế được tôi.

Ông ta cười khả ố:

- Ghê quá nhỉ? Thôi, ta còn gặp nhau nhiều.

Tôi nắm chặt hai tay:

- Còn ông chớ tự mãn. Mới thấy tượng Cupid mặc bỉm nghịch cung tên đã quay đầu bỏ chạy. Vậy mà cũng tự xưng là thần chiến tranh.

Lửa bốc cháy sau cặp kính mát. Gió nóng thổi bạt hơi tôi, như thể tôi đang đứng từ xa quan sát vụ thử tên lửa hạt nhân:

- Percy Jackson, tao chưa xong chuyện với mày đâu. Khi nào đánh nhau nhớ cẩn thận đấy.

Ông ta rồ máy. Chiếc Harley gầm gào vọt xuống cuối đường.

Annabeth nhận xét:

- Thế là không ngoan đâu.

- Mặc kệ.

- Chẳng ai muốn gây thù chuốc oán với thần thánh. Với thần Ares thì càng không.

Grover chêm vào:

- Các cậu ơi, dù không thích ngắt lời, nhưng tớ phải…

Nó chỉ quán ăn. Tại quầy thanh toán, hai thực khách cuối cùng đang trả tiền, hai ông mặc áo liền quần có logo trắng giống logo trên xe tải Tổ chức nhân đạo quốc tế.

- Nếu muốn nhờ xe bên sở thú, ta phải nhanh chân lên mới kịp.

Dù không thích, nhưng tôi biết ba đứa tôi không còn cách nào khác. Với lại, vãn cảnh Denver thế là đủ lắm rồi.

Chúng tôi chạy sang đường, trèo lên cửa sau của xe và đóng chặt cửa.

-0-


Mùi thối làm tôi bật ngửa: xe này có mùi của ổ mèo con lớn nhất thế giới. Trong xe tối mò. Tôi mở nắp bút, dùng ánh sáng từ kiếm Thuỷ Triều quan sát khung cảnh buồn não nề.

Ba chuồng sắt bẩn thỉu xếp thành dãy nhốt ba con thú hoang dã trông sầu thảm chưa từng thấy: một ngựa vằn, một sư tử đực lông trắng và một con thuộc loài linh dương trông rất lạ.

Chuồng sư tử có bao củ cải. Chắc chắn nó không thích ăn thứ đó. Chuồng linh dương và ngựa vằn đều có khay nhôm bày thịt bò xay. Bờm ngựa vằn dính bết bã kẹo cao su, giống như có người tiêu khiển bằng cách nhai kẹo nhổ bã lên người nó. Sừng linh dương treo trái bóng bay mừng sinh nhật có dòng chữ ngớ ngẩn: HAY ĂN CHÓNG LỚN.

Tất nhiên, không ai muốn đến gần làm sư tử khó chịu. Con vật tội nghiệp cuồng chân trong không gian nhỏ xíu, đi tới đi lui trên miếng vải lót chuồng bẩn thỉu, thở hổn hển bởi không khí ngột ngạt trong xe. Ruồi bu quanh cặp mắt đỏ lè, xương sườn nhô ra dưới lớp lông trắng toát.

Grover phẫn nộ:

- Nhân đạo là thế này ư?

Nó định nhào ra ngoài túm cổ lái xe, dùng sáo bằng cây sậy vụt hắn nhừ tử. Tôi sẵn sàng tiếp tay cho nó. Rủi thay, xe nổ máy ầm ầm, thùng xe rung chuyển. Nếu chúng tôi không ngồi thể nào cũng ngã.

Ba đứa nép trong góc, ngồi trên mấy bao tải đựng thức ăn gia súc mốc xanh mốc đỏ, cố quên mùi thối, ruồi nhặng và cái nóng kinh người. Grover kêu be be bắt chuyện với ba con thú, nhưng chúng chỉ im lặng buồn bã nhìn nó.

Annabeth nóng ruột, định phá chuồng thả thú hoang nhưng tôi phân tích rằng nên chờ xe đến trạm nghỉ đã. Thêm vào đó, chắc chắn sư tử thấy ba chúng tôi ngon lành hơn củ cải.

Tìm được hũ nước, tôi đổ đầy tô cho chúng, sau đó dùng kiếm đồng khều đồ ăn bỏ nhầm chuồng ra ngoài. Tôi cho sư tử ăn thịt, ngựa vằn và linh dương ăn củ cải.

Grover dỗ dành linh dương để Annabeth lấy dao cắt dây bóng bay. Bạn ấy muốn xén lông bờm dính bã kẹo cao su nhưng chúng tôi khuyên chớ làm thế vì xe xóc nảy rất nguy hiểm.

Sau khi bảo Grover hứa với chúng sáng mai sẽ giúp, chúng tôi dọn chỗ ngủ.

Grover nằm co ro trên bao củ cải.

Annabeth mở bịch bánh Oreos nhai trệu trạo.

Tôi tự uỷ lạo tinh thần bằng cách tự nhủ ba đứa đã đi được nửa đường. Hôm nay mới ngày mười bốn tháng Sáu, trước ngày Hạ chí – hai mươi mốt tháng Sáu những một tuần. Thời gian đang ủng hộ chúng tôi.

Mặt khác, tôi không biết cái gì đang đợi mình phía trước. Các thần thay nhau đùa bỡn tôi. Ít nhất thần Hephaestus không lén lút: ngang nhiên ghi hình tôi để giải trí. Giờ ống kính ngừng hoạt động, tôi vẫn mang cảm giác họ theo dõi từng đường đi nước bước của ba đứa tôi. Hoá ra tôi là thằng hề mua vui cho các thần.

Annabeth thì thào:

- Này, xin lỗi cậu. Chỉ tại lúc ở công viên nước, tớ sợ quá.

- Không sao.

Cô bạn rùng mình:

- Chỉ tại… lũ nhện.

- Trong truyện nữ thần Arachne chứ gì? Bà ấy biến thành nhện thách mẹ cậu thi dệt vải, đúng không?

Annabeth gật đầu:

- Kể từ đó, con thần Arachne tìm con thần Athena trả thù. Mới cách hai cây số, nhện đánh hơi thấy tớ rồi. Tớ ghét cay ghét đắng mấy sinh vật bé xíu, ghê rợn đó. Mà thôi, tớ nợ cậu lần này.

- Tụi mình hoạn nạn có nhau mà. Với lại, Grover cũng bay đến cứu chứ bộ.

Tưởng nó ngủ rồi, ai dè Grover nằm trong góc góp chuyện:

- Tớ bay giỏi ra trò, nhỉ?

Annabeth và tôi bật cười.

Cô bạn lấy bánh bẻ cho tôi một nửa:

- À… lúc nói chuyện qua cầu vồng… Anh Luke bảo gì cậu thế?

Vờ mải ăn, tôi nghĩ cách trả lời sao cho khéo. Từ tối đến giờ, tôi băn khoăn mãi chuyện ấy:

- Luke kể chuyện cậu và anh ấy hồi đó. Anh ấy còn nhắn… lần này Grover không thất bại như lần trước. Không ai bị biến thành cây thông cả.

Ánh sáng mờ của cây kiếm không thể soi tỏ mặt người.

Grover kêu be não nề. Giọng nó run run:

- Đáng lẽ ngay từ đầu tớ nên kể hết với cậu. Tớ sợ… nếu biết tớ từng thất bại, cậu sẽ không cho tớ đi cùng.

- Cậu là thần rừng từng gắng cứu Thalia, con gái thần Zeus?

Nó gật đầu, mặt buồn hiu.

Tôi quay sang Annabeth:

- Còn hai bạn của Thalia đến Trại Con Lai an toàn là cậu và anh Luke, đúng không?

Cô bé buông miếng bánh ăn dở:

- Như tớ đã nói, con lai mới bảy tuổi đầu không thể đi xa một mình. Mẹ Athena chỉ đường cho tớ tìm người giúp. Lúc ấy Thalia mười hai, Luke mười bốn. Họ cũng bỏ nhà đi giống tớ. Hai anh chị vui vẻ cho tớ đi cùng. Dù chưa được huấn luyện, Thalia và Luke chống trả yêu quái rất tài tình. Từ Virginia, ba anh em lên phương Bắc mà không có kế hoạch gì rõ ràng. Suốt hai tuần, chúng tớ vừa đi vừa tránh yêu quái cho tới khi Grover tìm được tụi tớ.

Grover sụt sịt:

- Đáng lẽ tớ phải đưa Thalia về trại an toàn. Chỉ mình Thalia thôi. Lệnh của bác Chiron ngặt nghèo lắm: không được để bất cứ chuyện gì làm chậm tiến trình giải cứu. Nhưng dù biết Hades ráo riết săn lùng Thalia, chị ấy và tớ không thể bỏ mặc Annabeth và Luke. Lúc đầu tớ tưởng mình có khả năng đưa cả ba về trại an toàn. Chính tớ khiến bọn “Người Tử Tế” đuổi kịp cả nhóm. Tớ sợ quá. Lúc sắp đến trại, tớ quên đường nên cả nhóm đi lạc. Chỉ cần tớ nhanh chân hơn một chút thì…

Annabeth mắng:

- Thôi đi. Có ai trách cậu đâu nào. Thalia cũng không trách cậu.

Grover thống thiết:

- Thalia hy sinh thân mình bảo vệ bọn tớ. Tại tớ nên cô ấy mới chết. Chính Hội Đồng kết luận thế mà.

- Chỉ vì cậu không bỏ mặc hai người khác? Thật bất công quá!

Annabeth nói thêm vào:

- Percy nói đúng. Không có cậu, tớ không còn sống đến hôm nay. Hội Đồng nói gì kệ họ.

Grover chưa thôi sụt sịt trong góc tối:

- Số tớ cũng may. Thần rừng kém cỏi nhất trần đời tìm được Thalia và Percy, hai con lai hùng mạnh nhất trong vòng một trăm năm trở lại đây.

Annabeth giữ nguyên chính kiến:

- Cậu không kém cỏi. Tớ chưa thấy thần rừng nào dũng cảm như cậu. Thử hỏi có thần rừng nào dám xuống địa ngục chưa? Tớ chắc chắn Percy mừng vì có cậu đi cùng.

Không cần Annabeth gợi ý, tôi nói rất thành thực:

- Phải đấy. Cậu gặp Thalia và tớ không nhờ vận may. Cậu là thần rừng tốt bụng nhất. Cậu có tài tìm kiếm bẩm sinh. Chính vì thế cậu sẽ tìm được thần Pan.

Có tiếng thở phào nhẹ nhõm từ chỗ Grover nằm. Tôi chờ xem nó định nói gì nhưng chỉ nghe thấy tiếng thở sâu và đều hơn. Lát sau, tiếng thở chuyển thành tiếng ngáy. Nó đã ngủ say.

Tôi trầm trồ:

- Sao Grover làm được thế?

Annabeth đáp:

- Tớ không biết. Nhưng những gì cậu nói với Grover có tác dụng tốt đấy.

- Tớ thật lòng mà.

Trong lúc xe đi thêm vài dặm nữa, chúng tôi im lặng ngồi lắc lư theo mấy bao thức ăn gia súc. Ngựa vằn nhai củ cải rào rào. Sư tử ăn hết thịt bò xay, liếm môi nhìn tôi hy vọng.

Annabeth vuốt dây đeo cổ như đang suy nghĩ về kế hoạch sắp tới.

Tôi hỏi:

- Hạt sứ có hình cây thông tượng trưng cho năm đầu phải không?

Annabeth ngước lên:

- Ừ. Mỗi năm, cứ đến tháng Tám, các nhân viên tư vấn của trại chọn một sự kiện quan trọng nhất của mùa hè để vẽ hạt sứ. Tớ có hình cây thông của Thalia, tàu chiến cổ ba tầng chèo bốc cháy, nhân mã mặc váy dạ hội… mùa hè này lạ nhất…

- Còn nhẫn kia của cha cậu?

- Không phải chuyện của… - Annabeth ngừng lại. – À, phải. Của cha tớ.

- Nếu cậu không muốn kể cũng không sao.

Hơi thở Annabeth run rẩy:

- Không… được mà. Hai năm trước, cha tớ gửi nó kèm một bức thư. Chiếc nhẫn giống… vật lưu niệm cha giữ để nhớ đến mẹ. Không có bà, ông không thể hoàn tất chương trình tiến sĩ ở trường Harvard… Chuyện dài lắm. Tóm lại, cha muốn tớ giữ nhẫn. Ông xin lỗi vì lúc trước không lo cho tớ vẹn toàn. Ông còn nói ông rất thương con và nhớ con. Ông muốn tớ quay về sống với ông.

- Nếu vậy cha cậu không đến nỗi tệ.

- Ừ thì… rắc rối ở chỗ tớ tin và làm theo lời cha. Đầu năm học, tớ cố gắng về sống ở nhà. Nhưng dì ghẻ không thay đổi. Bà không muốn con ruột bị vạ lây bởi sống chung với đứa quái dị. Thế rồi yêu quái tấn công. Cả nhà to tiếng. Tớ không ở nổi đến kỳ nghỉ đông. Tớ liên lạc với bác Chiron và quay lại Trại Con Lai ngay lập tức.

- Cậu sẽ không bao giờ cố gắng sống bên cha ruột nữa sao?

Annabeth tránh nhìn mắt tôi:

- Thôi đừng nhắc nữa. Tớ không muốn tự dằn vặt.

- Đừng bó tay, phó mặc. Hãy viết thư hoặc tìm cách liên lạc với cha.

Annabeth lạnh lùng:

- Cảm ơn cậu đã khuyên. Nhưng cha tớ thích sống với ai là quyền của ông. Và ông đã chọn rồi.

Chúng tôi lại im lặng thêm vài dặm đường nữa.

Tôi gợi chuyện:

- Nếu có biến trên đỉnh Olympus, mọi thứ sẽ rạch ròi như cuộc chiến thành Troy ư? Thần Athena sẽ chống lại thần Poseidon à?

Annabeth nhắm mắt, gối đầu lên ba lô thần Ares cho chúng tôi hồi tối:

- Chẳng biết mẹ tớ làm gì, chỉ biết tớ sẽ sát cánh bên cậu.

- Tại sao?

- Vì cậu là bạn tớ, ngố ạ. Còn câu nào ngộ nghĩnh hơn đem ra hỏi nốt đi?

Tôi im bặt. May thay, Annabeth không vặn vẹo thêm và ngủ thiếp đi.

Muốn theo gương Annabeth không dễ. Vây quanh tôi có tiếng Grover ngáy vang và ánh mắt thèm khát của sư tử trắng. Nhưng cuối cùng, tôi cũng nhắm mắt nằm yên.

-0-
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách