Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: lala164
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Viễn Tưởng - Xuất Bản] Kẻ Cắp Tia Chớp (The Lightning Thief) | Rick Riordan - Completed + Lời cảm ơn

[Lấy địa chỉ]
31#
 Tác giả| Đăng lúc 11-6-2013 20:06:14 | Chỉ xem của tác giả
Ăn tối xong, ai nấy háo hức khác thường.

Chờ mãi cũng đến cuộc tranh Cờ Danh Dự.

Sau khi bát đĩa được dọn sạch, tù và vỏ ốc vang lên. Chúng tôi đứng ngay bên bàn ăn.

Mọi người hò reo khi thấy Annabeth và hai người nữa cầm lá cờ bằng lụa chạy vào lều rạp. Cờ dài khoảng ba mét bằng lụa bóng màu xám in hình chim lợn đậu trên cây ôliu. Từ cửa đối diện, Clarisse cùng hai bạn nó cũng cầm lá cờ to bằng cờ của Annabeth chạy vào. Chỉ có điều cờ của chúng màu đỏ chói, vẽ hình cây thương nhỏ máu và đầu lợn lòi.

Giữa đám đông ồn ào, tôi quay sang Luke nói như hét:

- Đó là Cờ Danh Dự à?

- Ừ.

- Lúc nào đội Athena và đội Ares cũng dẫn đầu ư?

- Không hẳn, nhưng thường thì họ thắng.

- Thế nếu cờ rơi vào tay nhà khác thì phải in lại à?

Luke cười toe toét:

- Rồi cậu sẽ thấy.Trước tiên ta phải giành được một trong hai cờ đã.

- Anh theo phe nào?

Luke liếc trộm tôi, như thể anh giấu điều gì tôi chưa biết. Trong ánh đuốc bập bùng, vết sẹo làm mặt anh thành hung ác.

- Tạm thời nhà Số Mười Một ta về phe Athena. Tối nay ta sẽ cướp cờ đội Ares. Cậu sẽ phải giúp một tay đấy.

Các đội đứng lên nhận đồng minh. Đội Athena liên kết với hai đội đông nhất là Apollo và Hermes. Rõ ràng họ đem quyền lợi đổi sự hỗ trợ, chẳng hạn thời gian sử dụng nhà tắm, làm hộ việc vặt và nhường vị trí tốt trên sân tập…

Đội Ares liên kết với các đội còn lại là các nhà Dionysus, Demeter, Aphrodite và Hephaestus(1). Con thần Dionysus là vận động viên thực thụ, chỉ có điều họ chỉ có hai người. Con thần Demeter giỏi kỹ năng tự nhiên và hoạt động ngoài trời, nhưng không dũng mãnh cho lắm. Hầu như họ không tham gia hoạt động gì, chỉ ngồi soi mình xuống mặt hồ, chải tóc và tán gẫu. Không phải tôi trọng nam khinh nữ đâu vì nhà ấy cả trai lẫn gái đều thế. Con thần Hephaestus không đông, cũng không xinh xắn nhưng cả bốn người họ đều to cao lực lưỡng vì cả ngày làm trong lò rèn. Đối thủ đáng gườm đây. Đó là chưa kể đến hơn chục đứa con thần Ares vừa to cao nhất, xấu xí nhất và xấu tính nhất vùng Long Island, hay nói đúng hơn là cả hành tinh.

Bác Chiron giậm chân xuống nền đá:

- Hỡi các anh hùng! Các bạn biết luật rồi đấy. Suối nước là ranh giới. Phạm vi thi đấu là cả khu rừng. Các bạn được dùng mọi vật dụng có phép thuật. Ai cầm cờ phải giơ cao cho mọi người cùng thấy và chỉ tối đa hai người được đi theo bảo vệ cờ thôi. Tù binh có thể bị tước vũ khí nhưng không cần trói và nhét giẻ vào miệng. Không được giết hoặc gây thương tích cho đối phương. Tôi sẽ vừa là trọng tài, vừa là cứu thương. Hãy chọn binh khí đi nào!

Ông giơ hai tay lên. Lập tức, mặt bàn xuất hiện đủ thứ: mũ giáp kiểu Hy Lạp cổ, kiếm đồng, giáo mác, khiên bằng da bò thuộc bọc kim loại. Tôi trầm trồ:

- Chà chà. Ta sẽ dùng thứ này sao?

Luke nhìn tôi như nhìn tên ngớ ngẩn:

- Nếu muốn nhà Số Năm băm cậu làm chả nướng thì đừng dùng. Này, cầm lấy. Bác Chiron bảo cái này vừa với cậu. Cậu sẽ bảo vệ vùng giáp ranh nhé.

Khiên của tôi to tướng có in y hiệu phía trước và nặng không thể tả. Dùng nó làm ván trượt tuyết thì tốt, nhưng đừng ai bắt tôi vác khiên này chạy thật nhanh. Tôi đội mũ của đồng minh đội Athena có chùm lông ngựa nhuộm xanh biển trên chóp. Đội Ares và đồng bọn đội mũ có chùm lông vũ màu đỏ.

Annabeth hô lớn:

- Đội xanh xung phong!

Cả đội hò reo, vung kiếm theo Annabeth theo đường mòn xuống phía nam khu rừng. Đội đỏ vừa tiến về phương bắc vừa mắng nhiếc xỉ vả chúng tôi.

Tôi vừa cố tránh vấp mũi cây kiếm dài thậm thượt trong tay, vừa ráng đuổi kịp Annabeth:

- Này.

Bạn ấy chỉ cắm cúi đi.

- Cậu định thế nào? Có đồ dùng phép thuật cho tớ mượn không?

Annabeth sờ túi như thể sợ tôi ăn trộm:

- Coi chừng cây giáo của Clarisse đấy. Đừng để nó chạm vào cậu. Còn lại thì đừng lo. Ta sẽ lấy được cờ của nhà Ares. Anh Luke giao việc cho cậu chưa?

- Canh vùng biên giới. Tớ chẳng hiểu gì cả.

- Dễ thôi. Cứ đứng bên suối, xua quân đỏ đi. Phần còn lại để tớ. Đội Athena luôn có kế hoạch đàng hoàng.

Dứt lời, bạn ấy chạy rõ nhanh, bỏ tôi lại với đám bụi mù mịt.

Tôi làu bàu:

- Được lắm. Hân hạnh được cùng đội với cậu.

Đêm ấy oi ả lạ thường. Rừng tối om, thỉnh thoảng có bầy đom đóm bay lập loè. Annabeth bảo tôi đứng bên bờ suối có nước róc rách chảy qua mấy tảng đá lớn. Sau đó, bạn ấy và cả đội tản ra trước khi vào rừng.

Đầu đội mũ sắt cắm lông ngựa, tay cầm tấm khiên to bằng cái mẹt đứng chơ vơ bên suối, tôi thấy mình nực cười hết chỗ nói. Thanh kiếm đồng này, như bao thanh kiếm từng qua tay tôi, lệch lạc thế nào. Chuôi kiếm bọc da thuộc trơn trượt như trái bóng bowling vậy.

Chắc đây chỉ là trò chơi đánh trận giả. Ai lại tấn công thật bao giờ. Ý tôi là cư dân Olympus phải ban hành luật lệ đàng hoàng chứ.

Từ xa vọng lại tiếng tù và vỏ ốc. Tôi nghe tiếng thúc ngựa, tiếng hò hét trong rừng và cả tiếng kim khí chạm nhau loảng xoảng. Một đồng minh nhà Apollo chạy vụt qua tôi nhanh như hoẵng rồi nhảy qua suối, tiến sâu vào lãnh địa đối phương.

Tôi chua chát nghĩ thầm: "Thế đấy. Cũng như trước thôi, có trò vui thì chẳng đến lượt mình".

Chợt có tiếng động làm tôi lạnh sống lưng. Ngay gần chỗ tôi đứng vọng đến tiếng chó dữ gầm gừ.

Theo bản năng tự vệ, tôi giơ khiên lên. Một linh cảm lạ mách bảo có con gì đang theo dõi từng nhất cử nhất động của tôi.

Thốt nhiên, tiếng gầm gừ im bặt. Tôi cảm giác nó vội lủi đi chỗ khác.

Từ bụi cây bên kia suối, năm chiến binh nhà Ares xông ra. Tiếng la lối, gào thét của chúng xé toạc màn đêm yên tĩnh.

Clarisse hét:

- Dần nhừ tử thằng cặn bã đó cho tao!

Cặp mắt lồi như mắt lợn luộc của nó trợn lên sau hai khe hở của nón sắt. Nó vung cây giáo dài thước rưỡi, lưỡi giáo nhọn sắc sáng loáng. Mấy chị em nó cầm kiếm đồng. Dù đó chỉ là kiếm thường nhưng cũng đủ làm tôi phát hoảng.

Năm đứa theo nhau lao qua suối.

Xung quanh không có ai để cầu cứu. Tôi chỉ có thể hoặc chạy trốn, hoặc tự vệ, chống trả nửa số "nhân khẩu" của nhà Số Năm.

Thấy đứa đầu tiên nhào tới, tôi nhảy sang bên để tránh. Nhưng năm đứa này khôn hơn quỷ đầu bò. Chúng bao vây tôi. Clarisse xỉa mạnh ngọn giáo. Khiên của tôi làm mũi giáo quay xuống đất, nhưng cảm giác đau nhói, râm ran lan khắp người tôi. Tóc tôi dựng hết cả. Cánh tay đeo khiên tê dại, tia lửa bắn tung toé.

Điện giật. Cây giáo lợi hại của Clarisse có điện.

Tôi ngã ngửa ra sau.

Thêm một đứa nhà Ares cầm chuôi kiếm thúc mạnh ngực tôi khiến tôi lăn lộn dưới đất.

Nếu chúng không phí thời gian cười ngặt nghẽo mà xông vào đấm đá tôi thì chắc người tôi đã mềm như thạch.

Clarisse xúi:

- Cắt tóc nó đi. Túm tóc chặt vào.

Tôi cố gượng đứng dậy. Thấy tôi giơ kiếm lên, Clarisse dùng giáo gạt mạnh. Tia lửa điện loé lên. Giờ cả hai tay tôi đều tê dại.

Clarisse khoái trá:

- Úi chà, thằng này làm tao sợ chết khiếp. Anh Percy ơi, tha cho em!

- Cờ đằng kia. Sao không ra đó mà lấy?

Tôi cố giả vờ hằm hè, doạ dẫm nhưng chết nỗi giọng tôi chẳng có chút khí thế nào.

Đứa khác bảo:

- Biết rồi. Nhưng mày không thấy tụi tao không thèm cờ quạt. Tối nay, tao bắt mày phải đền cái tội dám làm cả nhà tao bẽ mặt hôm trước.

- Chúng mày tự bôi nhọ thanh danh mình đấy chứ.

Có lẽ cãi nhau tay đôi với chúng không phải việc làm khôn ngoan. Hai đứa bèn tiến đến chỗ tôi. Vừa lùi dần tới bờ suối, tôi vừa giơ khiên lên cao nhưng Clarisse nhanh như sóc. Mũi giáo đâm trúng mạng sườn tôi. Nếu không mặc áo giáp che kín ngực, chắc tôi thành món thịt nướng rồi. Tuy nhiên tôi vẫn bị điện giật mạnh đến độ hai hàm răng suýt rụng khỏi hàm. Một đứa chung nhà với nó lướt lưỡi kiếm cắt ngọt ngang cánh tay tôi, để lại vết thương khá sâu và dài.

Nhìn máu mình chảy ròng ròng, tôi chóng mặt, toàn thân thoắt nóng lại lạnh buốt. Tôi cố lý sự:

- Luật cấm gây thương tích mà.

Một thằng trong bọn nhà Số Năm lên tiếng:

- Xin lỗi đấy. Cùng lắm thì bị phạt, mất bữa tráng miệng tối mai thôi.

Nó đẩy tôi ngã ngồi xuống suối. Nước bắn tung lên.

Cả bọn cười khả ố. Chắc chắn sau khi cười thoả thuê, chúng sẽ lấy mạng tôi.

Bất ngờ, chuyện lạ xảy đến. Hình như nước làm tôi tỉnh táo, kích thích các giác quan của tôi, hệt như tôi vừa ăn hết gói thạch đậu hương cà phê mẹ cho.

Clarisse cùng đồng bọn nhảy xuống nước định thộp cổ tôi nhưng tôi đã đứng vững chờ chúng đến. Tôi đã biết phải làm gì.

Tôi đập lưỡi kiếm nằm ngang vào đầu tên chạy trước làm mũ sắt của hắn văng xuống đất. Cú đập mạnh đến nỗi hai tròng mắt hắn rung lên trước khi ngã dúi xuống nước.

Thành viên thứ hai và thứ ba của đội quân Xấu Xí xông thẳng đến chỗ tôi. Một tay đập mạnh khiên vào mặt đứa này, tay cầm kiếm của tôi xén ngọt chùm lông trên mũ đứa kia. Cả hai vội lùi lại. Đứa thứ tư run sợ, không dám tiến lên nhưng Clarisse còn hung hăng lắm. Tia lửa điện trên lưỡi giáo của nó kêu lách tách. Ngay khi nó xỉa cây giáo tới, tôi nắm ngay cán giáo đoạn giữa khiên và kiếm của tôi và bẻ gãy dễ dàng như bẻ cành củi khô.

- Ối! Đồ ngu! Đồ giòi bọ hôi thối!

Có lẽ nó sẽ còn nói nhiều câu khó nghe hơn nếu tôi không nhanh tay dùng chuôi kiếm thúc mạnh vào trán, ngay giữa hai mắt nó. Cú đẩy làm Clarisse văng giật lùi cách mép nước xa.

Vừa lúc đó tiếng hò reo vui mừng dội tới. Luke giương cao cờ của đội đỏ chạy tới vạch ranh giới. Sát cánh bên anh có hai bạn nhà Hermes chạy theo yểm hộ cùng vài đồng minh nhà Apollo chạy sau họ. Vừa chạy, họ vừa đánh đuổi mấy đứa con thần Hephaestus. Đám con thần Ares lồm cồm bò dậy, riêng Clarisse cay cú chết lặng như bị yểm bùa.

Nó gào lên:

- Lũ lừa đảo! Trò lừa gạt mạt hạng!

Chúng cuống cuồng chạy theo Luke nhưng đã quá trễ. Lúc anh cầm cờ chạy sang lãnh địa đội mình cũng là lúc mọi người đổ dồn về suối. Đội chúng tôi ở bờ bên này cùng lúc ồ lên tiếng reo mừng chiến thắng. Lá cờ đỏ mờ đi trước khi biến thành màu bạc. Đầu lợn rừng và cây giáo biến thành y hiệu, biểu tượng của nhà Số Mười Một. Mọi người bên đội xanh đều đến chúc mừng Luke. Họ công kênh anh trên vai đi vòng quanh. Từ rừng già, bác Chiron vừa chạy nước kiệu tới vừa thổi vỏ ốc.

Cuộc thi kết thúc. Đội tôi chiến thắng.

Vừa định theo các bạn ăn mừng chiến thắng, tôi nghe tiếng Annabeth thoảng bên tai:

- Cũng không tệ nhỉ, anh hùng!

Tôi quay ngoắt sang nhưng không thấy bạn.

Tiếng cô hỏi tiếp:

- Cậu học ở đâu chiêu thức đấu tay đôi lúc nãy thế?

Không khí lay động, Annabeth cầm mũ lưỡi trai của đội bóng chày Yankee hiện ra.

Cảm giác giận dữ trong tôi mạnh đến nỗi át cả sự ngạc nhiên trước một Annabeth biết tàng hình.

- Cậu dắt mũi tớ. Sở dĩ cậu bảo tớ đứng đây vì biết thể nào Clarisse cũng đến chỗ tớ gây sự. Trong khi đó, cậu phái anh Luke đưa quân tấn công hai bên sườn đối phương. Cậu tính hết từ trước rồi phải không?

Annabeth nhún vai:

- Tớ đã bảo cậu rồi. Lúc trước tớ có nói nhà Athena luôn có kế sách mà.

- Mưu đồ của cậu biến tớ thành mồi ngon của Clarisse!

- Đừng nói thế. Tớ ráng hết sức chạy thật nhanh đến cứu cậu. Đúng lúc tớ định nhảy vào... - Cô nhún vai. - Cậu đâu cần tớ giúp.

Lúc này, Annabeth mới thấy cánh tay tôi bị thương:

- Sao cậu làm được thế?

- Bị tụi nó rạch chứ còn sao nữa.

- Nó khỏi rồi. Cậu nhìn mà xem.

Vệt máu biến mất. Chỗ có vết thương há hoác giờ là vết sẹo dài màu trắng. Thậm chí, sẹo cũng đang mờ dần. Sẹo lớn nhỏ dần thành sẹo mảnh và biến mất ngay trước mắt tôi.

- Sao... sao lại thế được?

Annabeth suy nghĩ rất lung. Cô bạn hết nhìn chân tôi lại nhìn cây giáo gãy của Clarisse rồi ra lệnh:

- Percy, cậu lên bờ đi.

- Gì cơ...

- Làm ngay đi.

Vừa đặt chân lên bờ, tôi đã mệt rã rời. Hai cánh tay tôi tê dại. Cảm giác phấn khích tan biến hoàn toàn. Tôi suýt khuỵu xuống, may mà Annabeth đỡ kịp.

- Thôi chết, không hay rồi. Tớ không mong... Vậy mà mình cứ tưởng thần Zeus...

Tôi định bắt Annabeth giải thích rõ nhưng không kịp. Tiếng chó dữ gầm gừ khi nãy lại nổi lên, lần này nghe gần hơn lần trước. Tiếp đến là tiếng tru rờn rợn vang dội khắp rừng già.

Tiếng reo phấn khởi im bặt. Bác Chiron thét lên bằng tiếng Hy Lạp cổ. Mãi giây lát sau tôi mới hiểu trọn nghĩa:

- Sẵn sàng chiến đấu! Mang cung cho tôi!

Annabeth giơ cao thanh kiếm tuốt trần.

Ngay trên đống đá tảng sừng sững trước mặt chúng tôi có con chó săn đen trũi to bằng con tê giác mắt vằn đỏ như bộ nanh sắc như dao.

Mắt nó phóng thẳng về phía tôi.

Không ai nhúc nhích ngoại trừ Annabeth. Bạn ấy la lên:

- Chạy đi Percy!

Annabeth định bước lên che cho tôi nhưng con quái thú nhanh như cắt. Nó nhảy qua đầu Annabeth. Cả khối đen thẫm chỉ có răng nhọn trắng nhởn lao thẳng vào tôi. Tôi ngã ngửa, chỉ kịp thấy hàm răng nhọn cắn ngập tấm áo giáp che ngực mình. Sau đó là một loạt âm thanh xoàn xoạt, nghe như ai xé lần lượt bốn mươi tờ giấy, hết tờ này đến tờ khác. Một vòng tên nhọn cắm phập quanh cổ quái thú. Nó lăn ra chết ngay dưới chân tôi.

Tôi còn sống như có phép màu. Tôi sợ không dám nhìn xuống tấm áo giáp tả tơi. Thấy ngực mình ươn ướt, âm ấm, tôi biết mình bị thương nặng. Chỉ chậm một giây thôi, quái thú sẽ biến tôi thành súc thịt vô tri nặng năm chục ký lô.

Lo sợ ra mặt, bác Chiron đến bên chúng tôi. Annabeth bảo:

- Thật kinh khủng. Đó là con chó ở mười hai tầng địa ngục, nơi trừng phạt những linh hồn tội lỗi. Chúng không thể... đáng lẽ chúng không...

Bác Chiron đăm chiêu:

- Có người gọi nó lên đây. Nhất định là người trong trại.

Luke đi tới. Lá cờ rũ rượi trong bàn tay buông thõng. Niềm vui chiến thắng trong mắt anh tiêu tan.

Clarisse gào lên:

- Percy làm đấy. Chính nó gọi con chó canh địa ngục!

Bác Chiron gắt:

- Im lặng nào.

Trước sự chứng kiến của mọi người, xác con chó lẩn vào bóng tối, rút xuống đất cho tới khi không còn dấu vết.

Annabeth giục tôi:

- Cậu bị thương kìa. Xuống nước ngay đi.

- Tớ khoẻ mà.

- Không, xuống đi. Bác Chiron nhìn cậu ấy xem.

Tôi mệt xỉu, không muốn lý sự dài dòng, chỉ lầm lũi bước xuống suối. Toàn trại vây quanh tôi.

Tức thì, tôi khoẻ khoắn hẳn lên. Da thịt rách bươm trên ngực tôi lành lại.

Trong đám đông, vài người vụt đưa tay bưng miệng.

Tôi cố xin lỗi:

- Các cậu, tớ không biết sao lại thế. Xin lỗi...

Nhưng mọi người không xem vết thương. Mắt họ dồn về phía thứ gì lơ lửng trên đầu tôi.

Annabeth chỉ tay:

- Percy, nhìn kìa...

Lúc tôi ngửa mặt lên nhìn, dấu hiệu đã mờ dần. Tuy nhiên, tôi vẫn nhận ra dấu nguệch ngoạc màu xanh lục lấp lánh sáng và đang xoay tròn kia là cây đinh ba.

Annabeth lẩm bẩm:

- Cha cậu đấy. Thế này không hay rồi.

Bác Chiron tuyên bố:

- Thân thế Percy đã được khẳng định.

Mọi người vây quanh tôi đều quỳ xuống, ngay cả con nhà Ares. Tất nhiên, nét mặt chúng chẳng vui vẻ gì.

Tôi hoang mang cực độ:

- Cha tớ là ai?

Bác Chiron quả quyết:

- Thần Poseidon, thần gây động đất, dông bão và là thần của loài ngựa. Chúng tôi kính cẩn chào đón Perseus Jackson, con trai của Thần Biển Cả.


* * *


HẾT CHƯƠNG 8



Chú thích:

(1) Hephaestus: Contrai của thần Zeus và Hera. Thần cai quản lửa và các nghề thủ công.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
 Tác giả| Đăng lúc 19-6-2013 14:21:26 | Chỉ xem của tác giả
9. TÔI ĐƯỢC GIAO NHIỆM VỤ TRUY TÌM VẬT BÁU



Sáng hôm sau, bác Chiron bảo tôi chuyển sang nhà Số Ba.

Tôi không phải ở chung với ai. Nhà rộng, thừa chỗ bày "của nả" của tôi gồm sừng quỷ đầu bò, một bộ quần áo (ngoài bộ mặc trên người) và đồ dùng vệ sinh cá nhân. Tôi có bàn ăn riêng, muốn làm gì tuỳ ý, không phải nghe lời ai và khi nào thích cứ việc hô: "Tắt đèn!".

Thế nhưng, chưa bao giờ tôi khổ sở hơn bây giờ.

Vừa kịp được mọi người chấp nhận, quen với nhà Số Mười Một như nhà mình và sung sướng vì tưởng mình giống bao người khác trong Trại Con Lai, tôi đã bị gạt ra. Giờ ai cũng nhìn tôi như kẻ mang mầm bệnh nguy hiểm, hiếm gặp.

Dù không ai nhắc đến con chó canh địa ngục nhưng tôi biết sau lưng tôi họ không ngớt xì xầm về nó. Vụ tấn công làm mọi người sợ hãi. Nó mang thông điệp kép: thứ nhất, khẳng định tôi là con thần biển ; thứ hai, cho thấy lũ quái vật sẽ không từ bất cứ thủ đoạn nào để giết hại tôi, thậm chí chúng có thể xuất hiện ở Trại Con Lai, nơi trước nay luôn được coi là an toàn.

Các trại viên tìm mọi cách tránh tôi. Sau những gì tôi làm với mấy đứa con nhà Ares trong rừng, nhà Số Mười Một quá khiếp hãi, không dám thực hành với tôi trong giờ kiếm thuật. Thế nên, chỉ còn tôi và Luke đấu tay đôi. Anh bắt tôi tập miệt mài và không ngại "tặng" tôi vài vết bầm tím trong khi thực hành. Lúc đấu tập với tôi bằng kiếm và đuốc cháy rừng rực, Luke nói ngay:

- Chú phải thành thạo mọi chiêu thức. Giờ lặp lại động tác "chặt đầu rắn" năm mươi lần.

Sáng sáng, Annabeth vẫn kèm tôi môn tiếng Hy Lạp cổ nhưng bạn ấy cứ lơ đãng thế nào ấy. Tôi nói một câu, bạn ấy gắt một câu, làm như bị tôi cấu véo không bằng.

Hễ học xong, Annabeth lại vừa ra về vừa lẩm bẩm một mình:

- Truy lùng?... Poseidon ư?... Thối rữa... Phải lên kế hoạch thôi...

Ngay Clarisse cũng giữ khoảng cách an toàn, dù ánh mắt nó doạ sẽ lấy mạng tôi vì tội dám bẻ giáo thần của nó.

Giá bị nó chửi bới, đấm đá, tôi lại dễ chịu hơn.

Tôi thà ngày nào cũng bị đánh còn hơn bị "nghỉ chơi".

Chắc chắn trong trại có kẻ căm ghét tôi vì một tối về đến nhà, tôi thấy ai đó nhét tờ báo của người phàm qua khe cửa. Đó là tờ New York Daily News, gấp đúng trang Metro. Suốt một tiếng đồng hồ, tôi đánh vật với bài báo. Tôi càng tức, câu chữ càng nhảy múa cuồng loạn hơn. Nội dung bài như sau:

Hai Mẹ Con Vẫn Mất Tích Sau Tai Nạn Ô Tô Kỳ Quái


"Tin từ Long Island: Một tuần sau khi Sally Jackson và con trai Percy biến mất một cách bí ẩn, vẫn chưa ai tìm được họ. Thứ Bảy vừa qua, người ta tìm thấy chiếc Camaro màu đỏ đời 78 của gia đình họ cháy trụi trên con lộ phía bắc Long Island. Mui xe rách toạc, trục trước bị gãy. Xe bị lật và trượt dài cả trăm mét trước khi bốc cháy.

Hai mẹ con nạn nhân đến Montauk nghỉ cuối tuần, nhưng vội vã rời đi vì lý do gì không ai biết. Người ta thấy có vết máu trong xe và tại chỗ xe nổ, ngoài ra không còn dấu vết gì của mẹ con nhà Jackson. Cư dân quanh vùng thôn quê yên tĩnh này cho biết trong khoảng thời gian ước tính xảy ra tai nạn, họ không thấy dấu hiệu gì bất thường.

Ông Gabe Ugliano, chồng bà Jackson khẳng định Percy Jackson, con riêng của vợ ông là trẻ hư từng bị tống cổ khỏi nhiều trường nội trú và nhiều lần bộc lộ khuynh hướng bạo lực.

Cảnh sát không khẳng định Percy là thủ phạm vụ mất tích của mẹ hắn nhưng do có vết máu tại hiện trường, họ không bỏ qua khả năng đây là một vụ trọng án. Dưới đây là ảnh bà Sally Jackson và con trai Percy. Cảnh sát kêu gọi ai biết tin gì về hai mẹ con Jackson, hãy gọi đến đường dây nóng sau.".


Số điện thoại miễn phí được khoanh tròn bằng mực đen. Vo viên tờ báo quẳng vào xó, tôi nằm vật xuống giường được kê giữa căn nhà trống trải và đau khổ rên lên:

- Tắt đèn.

-0-


Đêm đó, tôi bị ác mộng kinh khủng nhất giày vò.

Tôi mơ thấy mình chạy dọc bãi biển trong cơn bão táp kinh hoàng. Lần này, sau lưng tôi là thành phố lớn. Không phải New York. Vùng đô thị rộng lớn, hỗn độn này khác lắm: nào nhà cửa nhấp nhô nối nhau đến tận chân trời, nào hàng cọ cao vút và dãy đồi thấp phía xa xa.

Khoảng ba chục thước kể từ mép nước ra giữa biển có hai người đánh nhau. Trông họ giống hai đô vật trên ti vi: cơ bắp cuồn cuộn, râu quai nón dữ tợn và để tóc dài. Họ mặc áo choàng kiểu quý tộc Hy Lạp, vạt áo bay phấp phới. Một người mặc áo viền xanh biển, áo người kia viền xanh lá cây. Họ ôm ghì, vật, húc và đá nhau túi bụi. Mỗi lúc họ lao vào nhau, chớp loé lên, trời tối hơn và cuồng phong mạnh lên gấp bội.

Không hiểu sao tôi thấy nhất định phải can ngăn họ. Nhưng tôi càng cố chạy, gió thổi trước mặt càng mạnh. Cuối cùng, tôi chỉ chạy tại chỗ, hai bàn chân vô vọng guồng trong hố cát.

Tôi nghe tiếng ông áo viền xanh biển gào át tiếng gió hú:

- Trả tao đây! Trả đây!

Chẳng khác nào hai đứa bé lên ba giành nhau đồ chơi.

Sóng cao dần lên như bức tường xô lên bờ, hất đầy cát lên mặt tôi.

Tôi gào lên:

- Hai người thôi đi! Đừng đánh nhau nữa.

Mặt đất rung chuyển. Đâu đó sâu dưới lòng đất vọng lên tiếng cười ghê rợn, quỷ quyệt khiến máu trong người tôi đông lại.

Rồi đến giọng nói trầm trầm, rền rĩ:

- Xuống đây đi, tiểu anh hùng! Xuống đây với ta.

Đất dưới chân nứt toác thành vực thẳm sâu tới lõi quả đất. Tôi trượt chân và bị vực sâu tối nuốt chửng.

Giật mình mở mắt rồi mà tôi vẫn cứ ngỡ mình đang rơi.

Tôi đang nằm trên giường trong nhà Số Ba. Đồng hồ sinh học mách bảo trời đã sáng, nhưng tôi thấy ngoài trời tối đen. Có tiếng sấm ầm ầm từ bên kia dãy đồi vọng tới.

Trời sắp có bão. Riêng chi tiết này không chỉ có trong mơ.

Bên ngoài có tiếng lộp cộp của móng guốc gõ lên cánh cửa.

- Mời vào.

Grover bước vào, nét mặt lo lắng:

- Ngài D. muốn gặp cậu.

- Có chuyện gì thế?

- Ông ấy muốn giết... mà thôi, để ông ấy đích thân thông báo cho cậu.

Tôi thay quần áo theo Grover ra ngoài, lòng ngổn ngang trăm mối. Tôi dám chắc lần này bị rầy rà to.

Mấy bữa nay, tôi đoán già đoán non thể nào cũng bị gọi lên Nhà Lớn. Sau khi họ khẳng định tôi là con thần Poseidon, riêng sự có mặt của tôi trên đời đã là tội trọng. Chắc các thần đang tranh cãi tìm cách ghê gớm nhất để trừng phạt tôi vì cái tội còn sống đến ngày hôm nay! Giờ Ngài D. chỉ cần chờ tôi đến, đọc phán quyết của tập thể cư dân đỉnh Olympus nữa là xong.

Bầu trời Long Island như nồi cháo đậu đen sắp sôi. Bức màn mưa mịt mùng đang tiến về phía trại hè.

Tôi hỏi Grover liệu có cần mang ô theo không.

- Không. Nếu ta không yêu cầu, ở đây không bao giờ mưa.

Tôi chỉ bức màn dông bão phía xa:

- Thế kia là gì?

Nó sợ sệt liếc trộm bầu trời:

- Bão chỉ lồng lộn quanh vòng ngoài của trại thôi. Lần nào thời tiết xấu cũng thế hết.

Nó nói đúng. Suốt tuần qua tôi ở đây, khoảng trời phía trên Trại Con Lai chưa bao giờ u ám. Có mấy lần tôi nhìn thấy mưa dông, nhưng chúng chỉ chạy vòng quanh thung lũng.

Nhưng cơn bão lần này... chắc đổ cửa đổ nhà mất.

Ngoài bãi bóng chuyền, bọn trẻ nhà Apollo đang tập thể dục buổi sáng bằng trận đấu tập với nhóm thần rừng. Hai đứa sinh đôi con thần Dionysus len lỏi trong ruộng dâu, làm phép cho cây lớn. Ai nấy vẫn làm công việc hàng ngày, chỉ có điều nét mặt họ cực kỳ căng thẳng. Thi thoảng, họ lo âu ngước lên nhìn mây đen.

Grover đưa tôi đến thềm trước Nhà Lớn.

Thần Dionysus ngồi trước bàn bày sẵn bộ bài. Ông mặc áo hổ vằn vện, uống Coke không đường giống hệt ngày đầu tôi gặp ông. Bác Chiron ngồi xe lăn, đối diện ông quản lý trại hè. Họ cùng đánh bài với hai đối thủ tàng hình. Hai quạt bài lơ lửng trong không khí.

Không nhìn lên, Ngài D. bảo:

- Chà chà, ngôi sao nhí nhà ta đây rồi.

Tôi kiên nhẫn đợi.

Ngài D. ra lệnh:

- Ngồi xuống đi chứ. Đừng có mơ ta quỵ luỵ cậu chỉ vì cậu là con lão Nghêu già để râu quai nón.

Một chùm tia chớp rạch ngang tầng mây đen. Sấm nổ làm rung chuyển cửa sổ Nhà Lớn.

Ông quản lý vờ hoảng hốt:

- Ôi, sợ quá đi mất.

Bác Chiron tảng lờ bằng cách chăm chú quá mức vào bộ bài. Đứng bên lan can, Grover co rúm người, nhấp nhổm như đứng trên tổ kiến lửa.

Hình như hai tay chơi tàng hình chiếm cứ hai ghế trống duy nhất, thế nên tôi đành đứng.

Ngài D. nói tiếp:

- Nếu được tự quyết định, ta sẽ biến mọi phân tử trong cơ thể cậu bùng cháy. Tụi này sẽ hốt tro đổ đi cho đỡ phiền toái. Tiếc thay, Chiron đây bảo làm thế đi ngược với sứ mệnh của ta ở trại hè: bảo vệ lũ trẻ hư đốn các người khỏi bị xâm hại.

Bác Chiron thêm vào:

- Tự bốc cháy là bị tổn hại rồi.

- Vớ vẩn. Nó có cảm thấy đau đâu mà nói. Nhưng thôi, ta chấp nhận kiềm chế. Hay là ta biến cậu thành cá heo, thả xuống biển trả về cho cha cậu nhé?

Bác Chiron nhắc:

- Kìa, Ngài D...

Ông quản lý xịu mặt:

- Nghe rồi. Vẫn còn một cách. Nhưng nghe ngớ ngẩn lắm. - Ông ta đứng lên. Các quân bài của hai nhân vật tàng hình rơi xuống sàn. - Giờ ta lên đỉnh Olympus dự họp khẩn. Nếu lúc ta về mà thằng bé này còn ở đây, ta sẽ biến nó thành cá heo Đại Tây Dương. Mấy người rõ chưa? Này, Perseus Jackson, nếu cậu có chút xíu chất xám trong đầu, cậu sẽ thấy ta tình cảm hơn Chiron nhiều. Cứ chờ xem ông ta sắp bắt cậu làm gì.

Thần Dionysus búng tay.

Không khí quanh ông đặc lại, uốn lượn mờ ảo. Sau khi biến thành bức ảnh, Ngài D. theo gió biến đi, mùi nho chín còn vương lại.

Bình luận

Cám ơn bạn :)  Đăng lúc 19-6-2013 02:55 PM
mình type nhé bạn :)  Đăng lúc 19-6-2013 02:27 PM
Cám ơn bạn đã post tiếp, nhưng bạn type hay là bạn repost vậy bạn, để tớ biết mà đặt màu  Đăng lúc 19-6-2013 02:26 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
Đăng lúc 19-6-2013 14:30:49 | Chỉ xem của tác giả
lala164 gửi lúc 19-6-2013 14:21
9. TÔI ĐƯỢC GIAO NHIỆM VỤ TRUY TÌM VẬT BÁU


Xin lỗi bạn, đây là sơ sót của bọn mình.

Bạn type và post tiếp tục nhé. Mong bạn đừng buồn vì sơ sót này của bọn mình.

Cám ơn và xin lỗi bạn lần nữa ^^

Bình luận

Cám ơn b :)  Đăng lúc 19-6-2013 02:48 PM
ai cũng có lúc này lúc kia, ko sao đâu mod :)))  Đăng lúc 19-6-2013 02:32 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

34#
 Tác giả| Đăng lúc 1-7-2013 16:56:15 | Chỉ xem của tác giả
Dù cười với tôi, trông bác Chiron khá mệt mỏi và căng thẳng:

- Percy, ngồi đi cháu. Cả Grover nữa.

Chúng tôi ngoan ngoãn vâng lời.

Bác Chiron ngửa bài lên bàn. Đáng lẽ bác cầm chắc phần thắng. Nhưng giờ chẳng ai còn lòng dạ chơi bài nữa.

Bác hỏi:

- Percy này, nói bác nghe xem hôm nọ cháu đã làm gì con chó canh địa ngục?

Chỉ nghe nhắc đến, tôi đã rùng mình sợ hãi.

Chắc bác Chiron muốn nghe tôi bảo: "Cháu không dùng đến cái móng tay. Nhằm nhò gì con cún mới mở mắt ấy. Ngữ nó ăn sáng chẳng bõ dính răng!". Nhưng tôi không thích nói dối.

- Cháu sợ nó lắm. Nếu bác không bắn nó, chắc cháu chết lâu rồi.

- Trước khi xong việc, cháu sẽ gặp quái vật ghê gớm hơn thế nhiều.

- Xong việc gì ạ?

- Tất nhiên là nhiệm vụ truy tìm trại sắp giao cho cháu. Cháu có nhận không?

Tôi liếc trộm Grover, thấy nó ra dấu bảo đồng ý.

- Nhưng bác chưa nói đó là việc gì?

Bác nhăn mặt:

- Mô tả chi tiết bao giờ cũng là phần khó nhất.

Sấm ì ầm vang dội khắp thung lũng. Mây dông tiến đến sát bờ cát. Mưa gió hoành hành cả trên trời lẫn ngoài biển.

- Hai thần Poseidon và Zeus đang đánh nhau vì một vật có giá trị... một thứ bị mất cắp, phải không bác?

Bác Chiron và Grover nhìn nhau.

Bác nhoài người trên xe lăn:

- Sao cháu biết?

Tôi đỏ bừng mặt. Giá tôi ngậm chặt cái mồm hay nói linh tinh.

- Từ Giáng sinh đến giờ, thời tiết thay đổi bất thường, cứ như trời và biển đang giao tranh vậy. Thế rồi trong lúc nói chuyện với Annabeth, cháu nghe bạn ấy nhắc đến kẻ trộm. Còn nữa, cháu nằm mơ mấy lần.

Grover bảo:

- Biết ngay mà.

Bác Chiron bảo:

- Yên nào, thần rừng.

Mắt nó sáng lên phấn khích:

- Nhưng đó là dấu hiệu cho thấy bác phải giao việc cho Percy. Không còn nghi ngờ gì nữa.

Bác Chiron vuốt chòm râu thưa:

- Chỉ Lời Sấm Truyền mới khẳng định được. Nhưng Percy nói đúng. Mấy trăm năm nay ta chưa thấy cha cháu và thần Zeus cãi nhau to như lần này. Nguyên do: Có báu vật bị đánh cắp. Đó là tia chớp.

Tôi cười gượng:

- Cái gì ạ?

Bác cảnh cáo:

- Đây không phải chuyện đùa. Vật này không phải đồ chơi trẻ con. Tia chớp là thanh đồng hình trụ dài hơn nửa mét có phép thuật ghê gớm và hai đầu có gắn thuốc nổ cực mạnh.

- Ra thế.

Bác Chiron tả chi tiết:

- Báu vật bị mất là quyền trượng của thần Zeus. Nó tượng trưng cho sức mạnh của chúa tể các vị thần và là vật chủ. Mọi tia chớp khác đều từ nó mà ra. Các thần Cyclopes chế tạo nó như vũ khí đầu tiên trong cuộc chiến chống lại đội quân khổng lồ Titan. Chính tia chớp này đã bạt đỉnh núi Etna, hất Kronos khỏi ngai vàng. Tia chớp có sức công phá lớn đến độ so với nó, bom nguyên tử của người phàm chỉ là pháo tép.

- Nó bị mất hả bác?

- Bị đánh cắp.

- Ai lấy thế?

- Cháu.

Tôi há hốc miệng.

Bác Chiron vội giơ tay trấn tĩnh:

- Ít nhất thì thần Zeus cho là thế. Vào lễ Đông chí, trong buổi họp cuối năm của các thần, Zeus và Poseidon có cuộc tranh luận. Như mọi khi, nguyên nhân gây hấn rất vu vơ, đại loại như ai được yêu mến nhất, thảm hoạ trên không gây chú ý nhiều hơn thảm hoạ trên biển... Mải cãi cọ nên phải đến khi tan họp, thần Zeus mới biết tia chớp không cánh mà bay. Kẻ trộm lấy nó ngay trong phòng đặt ngai vàng, ngay trước mũi ông ta. Thần Zeus lập tức chụp mũ rằng Poseidon lấy nó. Đúng là Luật nhà trời cấm các thần chiếm quyền trượng của nhau nhưng Zeus cho rằng cha cháu thuyết phục một á thần, hay còn gọi là anh hùng của loài người, làm việc ấy.

- Nhưng cháu không...

- Kiên nhẫn nghe cho hết đã. Thần Zeus có lý do để nghi ngờ. Vì lò rèn của các thần Cyclopes dưới đáy biển, Poseidon có chút uy lực với nhóm thợ sản xuất tia chớp cho em trai. Zeus cho rằng Poseidon lấy vật chủ, bí mật lập kho đạn dược bằng cách lén sản xuất hàng loạt tia sét để chờ dịp lật đổ ngai vàng của Zeus. Điều Zeus chưa dám khẳng định là Poseidon xui anh hùng nào đi trộm báu vật. Đúng lúc đó, Poseidon công khai nhận cháu là con. Suốt dịp nghỉ đông, cháu ở New York nên dễ dàng lén lút đến đỉnh Olympus. Thế nên Zeus tin chắc thần có thể chỉ mặt vạch tên thủ phạm.

- Nhưng cháu đã lên đỉnh Olympus lần nào đâu! Zeus thật hàm hồ hết sức.

Cả bác Chiron lẫn Grover sợ sệt nhìn lên trời. Mây không tản ra vùng ngoại vi thung lũng như Grover nói. Tầng mây đen kịt như nắp quan tài tiến thẳng về thung lũng, đe doạ che phủ bầu trời ngay trên đầu chúng tôi.

Grover sợ chết khiếp:

- Cái cậu này, chưa ai dám nhận xét vua bầu trời là hàm hồ đâu đấy.

Bác Chiron gợi ý:

- Lần sau cháu hãy dùng từ "kết luận vô căn cứ" nhé. Để bác nói tiếp. Ngày xưa, có lần Poseidon định lật đổ Zeus nhưng không thành. Chắc cháu còn nhớ câu hỏi số ba mươi tám trong bài thi cuối kỳ môn Latinh...

Bác nhìn tôi chằm chằm, mong tôi nhớ câu hỏi số ba mươi tám nào đó, nhưng tôi không còn tâm trí đâu để nhớ.

Sao có người bảo tôi trộm vũ khí của thần thánh được nhỉ? Đến lấy trộm mẩu bánh pizza trên sới bạc của dượng Gabe, tôi còn bị bắt quả tang nữa là.

Tôi moi óc nhớ được một ít:

- Hình như chuyện lưới vàng phải không ạ? Thần Poseidon liên kết với nữ thần Hera và mấy thần khác... Họ nhốt thần Zeus, bắt thần hứa sẽ thay đổi thành bậc quân vương đức độ rồi mới thả, đúng không?

- Chính xác. Từ đó Zeus không bao giờ tin Poseidon nữa. Tất nhiên, thần Poseidon không nhận tội trộm tia chớp. Cha cháu cực lực phản đối lời buộc tội ấy. Suốt mấy tháng trời họ cãi nhau không ngớt, ai cũng sợ sắp có binh biến. Sự hiện diện của cháu là giọt nước tràn ly.

- Nhưng mới từng này tuổi đầu, sao cháu dám?

Grover xen vào:

- Percy, nếu ở địa vị thần Zeus, người có định kiến là anh trai định lật đổ mình, sau đó lại nghe tin anh mình phá vỡ lời nguyền cách nay mấy mươi năm... biết anh mình có con với người trần và nghi anh dùng đứa con ấy làm công cụ chống đối mình... cậu có cảnh giác không?

- Nhưng tớ có làm gì đâu. Chắc thần Poseidon, cha tớ... không sai người ăn cắp tia chớp đâu nhỉ?

Bác Chiron thở dài:

- Bất cứ ai biết suy xét đều đồng tình rằng Poseidon không có tính táy máy. Nhưng Vua Biển quá kiêu hãnh, không thèm thanh minh với Zeus. Vì thế, Zeus lệnh cho Poseidon phải trả báu vật trước ngày Hạ chí. Đó là ngày hai mươi mốt tháng Bảy. Từ nay đến đó chỉ còn mười ngày. Về phần mình, thần Poseidon cũng muốn đúng ngày Hạ chí, Zeus phải xin lỗi vì đã gán tội ăn cắp hèn hạ cho ông. Ta hy vọng tài ngoại giao sẽ cứu nguy thiên hạ: Hera, hay Demeter hay Hestia(1) sẽ thuyết phục anh em họ nhìn ra lẽ phải. Nhưng sự xuất hiện của cháu như đổ thêm dầu vào lửa, khiến Zeus nổi cơn thịnh nộ. Nếu ta không tìm tia chớp trả Zeus trước ngày Hạ chí, nhất định sẽ có chiến tranh. Chắc Percy cũng đoán được cuộc chiến này sẽ thế nào rồi chứ?

- Tàn khốc lắm ạ?

- Hãy tưởng tượng một thế giới hỗn loạn song hành chuỗi thảm hoạ thiên nhiên. Cư dân đỉnh Olympus bắt buộc, hoặc đứng về phía Zeus, hoặc ủng hộ Poseidon. Sẽ có huỷ diệt, tắm máu, hàng triệu người chết... Thế giới văn minh phương Tây thành bãi chiến trường. So với nó, cuộc chiến thành Troy chỉ như trận đấu bóng nước.

Tôi lẩm bẩm:

- Ghê gớm quá!

- Và Percy Jackson sẽ là mục tiêu trút giận đầu tiên của Zeus.

Mưa rơi. Nhóm chơi bóng chuyền kinh ngạc ngẩng mặt nhìn trời.

Chính tôi gieo rắc mưa bão lên Đồi Con Lai. Vì không ưa một mình tôi, Zeus trừng phạt cả trại hè.

Nghĩ đến đây, tôi giận sôi lên. Tôi không thể chống mắt đứng nhìn.

Tôi bảo:

- Vậy cháu phải tìm tia chớp ngớ ngẩn đem trả cho Zeus ư?

- Còn đề nghị hoà giải nào hay hơn việc con trai Poseidon trả báu vật cho Zeus?

- Nếu bố cháu không lấy, giờ tia chớp đó ở đâu?

Bác Chiron đăm chiêu:

- Cái đó bác biết... đó cũng là một đoạn trong lời sấm của ta cách nay mấy chục năm... Giờ ngẫm lại, bác thấy chí lý. Nhưng trước khi bác nói cháu hay, cháu phải chính thức nhận nhiệm vụ, sau đó nghe Nhà Tiên Tri phán bảo.

- Sao bác không nói chỗ giấu tia chớp trước?

- E rằng nghe xong, cháu sợ đến độ không dám đi nữa.

Tôi nuốt khan:

- Bác nói đúng.

- Vậy nhận lời nhé?

Thấy tôi quay sang nhìn, Grover gật lia lịa.

Nó thì lo nỗi gì. Chúa tể các thần muốn lấy mạng tôi chứ có lấy mạng nó đâu.

- Đồng ý. Thà nhận còn hơn bị biến thành cá heo.

- Vậy đến gặp Nhà Tiên Tri luôn đi. Percy Jackson, hãy lên cầu thang, đến gác xép ấy. Nếu khi trở xuống cháu chưa phát điên, ta sẽ bàn tiếp.

-0-



Chú thích:

(1) Hestia: Vị thần của bếp lửa, sự quây quần của mọi thành viên trong gia đình, sức khoẻ gia đình và nội trợ...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

35#
 Tác giả| Đăng lúc 20-7-2013 13:45:21 | Chỉ xem của tác giả
Cầu thang lên bốn tầng lầu kết thúc trước cánh cửa sập từ trần nhà màu xanh lá.

Tôi kéo sợi dây. Cửa hạ xuống, thang dây bằng gỗ lách cách hạ xuống.

Không khí nực nội bên trong có mùi mố, mùi gỗ mục và một mùi khó tả... mùi gợi nhớ môn sinh vật thực hành. Đó là mùi của loài bò sát, rắn rết.

Tôi nhịn thở bám thang dây leo lên.

Căn gác xép bừa bộn đồ đạc hư hỏng của chiến binh Hy Lạp cổ: bộ giáp trụ vùi trong đống mạng nhện, vài cái khiên rỉ sét, mấy hòm xiểng lớn bằng da nhằng nhịt giấy dán những chữ như: Ithaka, Quần Đảo Vòng và Vùng Đất Của Các Nữ Vương. Một chiếc bàn dài xếp đầy hũ thuỷ tinh đựng đồ ngâm giấm: vài móng thú đầy lông, đống tròng mắt vàng khè, to như chén tống và nhiều bộ phận cơ thể của quái vật. Một chiếc cúp bám đầy bụi treo trên tường trông giống đầu rắn nhưng lại có sừng, miệng đầy răng cá mập. Tấm bảng đồng bên dưới đề: Đầu thứ nhất của Hydra, Woodstock, NY. 1969.

Cạnh cửa sổ, chễm chệ trên ghế đẩu gỗ có ba chân là vật lưu niệm đáng sợ nhất: một xác ướp. Không phải loại quấn vải kín từ đầu đến chân, nó là xác của một phụ nữ đã khô quắt. Người này mặc váy sặc sỡ, loang lổ và đeo rất nhiều chuỗi hạt. Mái tóc dài có ruy băng cột ngang đầu. Người này, nếu không phải da đỏ, chắc chắn là dân hippy. Chỉ có điều bà ta chết rất lâu rồi. Da mặt nhăn nheo bám trực tiếp vào xương. Hai hốc mắt trắng dã như thể mắt thật được thay bằng hai viên bi đá trắng.

Nhìn bà ta, sống lưng tôi lạnh buốt.

Nhưng thế vẫn chưa sợ bằng lúc cái xác đứng lên há miệng ra.

Tôi luống cuống tìm cách chạy ra cửa, nhưng cửa khoá chặt.

Màn sương màu xanh lá cây tuôn ra từ miệng xác ướp, uốn lượn trên sàn nhà trông như những tua vải mỏng. Tiếng rít chói tai như có hàng ngàn con rắn bò quanh.

Có tiếng nói luồn thun thút vào tai, cuộn tròn quanh bộ não tôi:

- Ta là linh hồn của Delphi, người phát ngôn mọi tiên đoán của thần tiên tri Apollo, là người triệt hạ Python hùng mạnh. Kẻ tìm lời giải cho số phận kia, hãy lại đây và hỏi ngay đi.

Tôi chỉ muốn bảo: "Không, cảm ơn. Tôi đi vệ sinh nhưng vào lộn phòng" rồi chạy biến.

Nhưng tôi tự bắt mình bình tâm lại.

Xác ướp không sống lại. Có thứ gì đó đội lốt bà ta. Giờ sức mạnh của nó theo màn sương mỏng bao vây tôi. Dù thế, nó không độc ác. Sự hiện diện của nó không làm tôi có cảm giác như lúc ở bên cô Dodds quỷ quyệt hoặc khi đánh nhau với quỷ đầu bò. Cảm giác bây giờ giống lúc tôi thấy ba Nữ thần Báo Thù ngồi đan trước tiệm trái cây bên lề xa lộ: không phải người, cổ xưa và đầy quyền lực. Tuy nhiên, họ không có ý định lấy mạng tôi.

Tôi cố gom hết can đảm:

- Xin cho biết số phận của cháu?

Màn sương dày đặc hơn, thu lại trước mặt tôi rồi đi vòng quanh mặt bàn bày hũ thuỷ tinh ngâm các bộ phận quái thú. Thốt nhiên, bốn người hiện ra quanh bàn. Họ đang chơi bài. Mặt họ rõ dần. Đó là Gabe Cóc Chết và bạn ông ta.

Tôi nghiến răng, nắm chặt hai tay dù biết sới bạc này không có thực, chỉ là ảo ảnh.

Gabe quay sang tôi nói bằng giọng khàn khàn của Nhà Tiên Tri:

- Ngươi sẽ đi theo hướng Tây, gặp vị thần tráo trở.

Người ngồi bên phải nhìn lên cũng nói bằng giọng đó:

- Ngươi sẽ tìm được vật bị đánh cắp và trả nguyên vẹn cho khổ chủ.

Người ngồi bên trái ném hai quân bài ra giữa bàn:

- Ngươi sẽ bị phản bội bởi người tự xưng là bạn.

Chú Eddie, quản lý chung cư phán câu cuối:

- Cuối cùng, ngươi sẽ không cứu nổi người quan trọng nhất của đời mình.

Bốn người vụt biến mất.

Lúc đầu tôi quá kinh ngạc nên không nói được gì, mãi đến lúc màn sương thu nhỏ, tuồn trở lại miệng xác ướp, tôi mới kêu lên:

- Gượm đã! Người vừa nói gì? Ai tự xưng là bạn? Cháu không cứu được ai?

Đuôi con rắn nước biến mất trong miệng xác ướp. Bà ta lại ngồi dựa tường như khi nãy.

Miệng xác ướp khép lại như thể cả trăm năm nay chưa động đậy.

Gác xép lại im lặng, hoang vắng, chẳng có gì ngoài đống kỷ vật bụi bặm.

Tôi biết dù có đứng lỳ đến khi mạng nhện chăng đầy người, tôi cũng chẳng biết gì hơn.

Giờ lắng nghe Lời Sấm Truyền của tôi kết thúc.

-0-


Bác Chiron hỏi:

- Thế nào cháu?

Tôi ngồi phịch xuống ghế trước bàn Ngài D. thường chơi bài:

- Bà ấy bảo cháu sẽ lấy lại được vật bị mất cắp.

Grover nhoài người, háo hức nghe, miệng rau ráu nhai vỏ lon nước ngọt:

- Tuyệt quá.

Bác Chiron gặng hỏi:

- Nhắc lại nguyên văn Lời Sấm Truyền xem nào. Quan trọng lắm đấy.

Tai tôi vẫn ù đặc:

- Bà ấy… bảo cháu đi về hướng Tây, gặp vị thần tráo trở. Cháu sẽ lấy lại vật bị đánh cắp và trả lại nguyên vẹn cho khổ chủ.

Grover bảo:

- Tớ biết thừa.

Bác Chiron vẫn chưa hài lòng:

- Còn gì nữa?

Tôi không muốn nói nốt.

Bạn nào phản bội tôi? Bạn tôi đếm trên đầu ngón tay. Vậy mà ai nỡ…

Câu cuối mới ghê: tôi không cứu được người quan trọng nhất của đời mình. Nhà Tiên Tri này thật lạ đời: giao nhiệm vụ, bắt tôi làm rồi bảo: ”Tao nói trước. Thể nào mày cũng thất bại”.

Tôi không thể thú nhận sẽ thất bại trước khi lên đường.

Tôi bèn nói:

- Hết rồi ạ.

Bác nhìn tôi chăm chú:

- Thế thì tốt. Nên nhớ Lời Sấm Truyền chỉ nước đôi. Đừng quá tin tưởng. Sự thật chỉ phơi bày sau khi mọi sự kết thúc.

Tôi đoán bác Chiron biết tôi giấu tin xấu nên cố an ủi thế thôi.

Tôi chỉ muốn nói sang chuyện khác:

- Giờ cháu đi đâu? Thần nào ở phương Tây vậy bác?

- Động não đi, Percy. Nếu hai thần Zeus và Poseidon tự suy kiệt vì chinh chiến, ai là kẻ đục nước béo cò?

- Kẻ muốn chiếm ngai vàng.

- Giỏi lắm. Người ấy ôm hận đã hàng tỷ năm, không bằng lòng với phần được chia sau lần rút thăm chia quyền cát cứ. Quyền lực của người ấy càng lúc càng mạnh bởi triệu triệu người chết đều gia nhập đội quân của ông ta. Một người căm ghét anh em mình vì đã ép mình thề không được sinh thêm con cái trong lúc cả hai đều không giữ lời, đều lén sinh thêm con.

Tôi nhớ những giấc mơ và giọng nói vang lên từ trong lòng đất:

- Hades, thần cai quản địa ngục.

- Phải. Thần Chết đáng nghi nhất.

Mảnh nhôm rơi ra từ miệng Grover:

- Gượm đã! Bác mới nói gì?

Bác Chiron nhắc:

- Thế cháu không nhớ Nữ thần Báo Thù đuổi theo Percy à? Bà ta theo dõi Percy rất lâu. Sau khi biết số phận của nó, bà định giết luôn. Nữ thần Báo Thù chỉ thờ một chúa là Hades thôi.

Grover phản đối:

- Nhưng Hades vốn căm ghét tất cả các anh hùng. Nếu ông ta biết Percy là con thần Poseidon thì chết…

- Thế cháu còn nhớ con chó địa ngục không? Giống ấy chỉ có dưới địa ngục và nhất định có người xấu trong trại gọi nó đến. Từ đó suy ra Hades cài gián điệp vào đây. Ông ta lường trước khả năng Poseidon nhờ con trai minh oan và muốn giết chàng con lai trẻ tuổi này trước khi cậu ta lên đường làm nhiệm vụ.

Tôi lẩm bẩm:

- Hay thật. Cả hai vị thần hùng mạnh nhất đều nhăm nhe giết cháu.

Grover nuốt khan:

- Nhưng biết tìm đâu… Giá tia chớp đó đang ở Maine nhỉ? Mùa này thời tiết ở Maine dễ chịu lắm.

Bác Chiron khẳng định:

- Nhất định Hades sai tay chân ăn trộm tia chớp. Ông ta giấu nó dưới âm ty và biết thể nào Zeus cũng nghi oan cho Poseidon. Dù không biết chính xác động cơ của vua cai quản địa ngục và lý do ông ta gây nên cuộc chiến phi nghĩa sắp tới, nhưng ta dám chắc một điều. Percy phải xuống âm ty, tìm cho ra tia chớp và phơi bày sự thật ra ánh sáng.

Bụng tôi thắt lại. Nhưng lạ nhất là tôi không sợ. Đó là cảm giác lo lắng pha lẫn sự nôn nóng trả thù. Tính đến nay, Hades đã ba lần định giết tôi bằng cách mượn tay Nữ thần Báo Thù, quỷ đầu bò và chó địa ngục. Chính ông ta làm mẹ tôi biến thành tia sáng vàng, giờ còn định gắp lửa bỏ tay người, đổ vấy trọng tội lên đầu cha con tôi.

Nhất định tôi phải dạy cho ông ta biết phải quấy.

Với lại, mẹ tôi đang ở dưới đó…

Phần trí não sáng suốt của tôi lên tiếng: ”Này này. Cậu mới tí tuổi đầu. Nên nhớ Hades là thần đấy nhé”.

Grover run như dẽ. Nó bắt đầu ăn bộ bài như ăn khoai tây bào mỏng chiên giòn.

Cậu bạn tội nghiệp phải theo tôi hoàn thành nhiệm vụ lần này nếu muốn được công nhận là Người Trông Nom. Nhưng sao tôi có thể nhờ nó giúp làm nhiệm vụ nguy hiểm này, nhất là khi Lời Sấm Truyền bảo rốt cuộc tôi sẽ thất bại? Đi với tôi có khác nào tự sát.

- Nếu biết rõ thủ phạm là Hades, sao ta không báo cho các thần khác? Thần Zeus hoặc thần Poseidon dư sức xuống địa ngục trừng trị vài kẻ xấu cơ mà.

- Ta chỉ “nghi”, chưa “biết rõ”. Ngoài ra, nếu các thần nghi ngờ Hades, họ cũng không tự đi lấy tia chớp về được. Nếu không được mời, thần này không vào được lãnh thổ của thần kia. Đó là luật có từ thời khai thiên lập địa. Ngược lại, con lai có đặc quyền riêng. Họ được đi lại tự do, thách đấu với bất cứ ai, miễn là có can đảm và đầy đủ sức mạnh. Không thần nào dám đứng ra chịu trách nhiệm về hành vi của anh hùng, tức con lai. Theo cháu, sao các thần đều hành động thông qua người phàm?

- Vì họ thích lợi dụng.

- Bác không có ý đó. Bác chỉ muốn nói không phải ngẫu nhiên Poseidon chọn thời điểm này để nhận con, dù biết làm thế rất mạo hiểm. Nhưng ông quá tuyệt vọng, không còn cách nào khác. Ông đang cần cháu đấy.

Cha cần ta.

Cảm xúc trong tôi tựa kính vạn hoa xoay thật nhanh. Hờn dỗi, biết ơn, hạnh phúc và tức giận đan xen. Suốt mười hai năm qua, thần Poseidon coi như không có tôi trên đời. Bây giờ ông lại cần tôi giúp ngay lập tức.

Tôi nhìn thẳng mắt bác Chiron:

- Ngay từ đầu bác đã biết cháu là con thần Poseidon, đúng không?

- Bác có lý do để đoán già đoán non. Lúc nãy bác đã nói… bác cũng từng nghe Lời Sấm Truyền.

Biết bác Chiron giấu nhiều chi tiết của lời tiên đoán tương lai đã nghe lúc trước, nhưng tôi quyết định tạm gác chuyện đó lại. Nói cho cùng, chính tôi cũng không nói hết cơ mà.

- Tóm lại, cháu sẽ phải xuống địa ngục gặp trực tiếp thần chết.

- Cháu hiểu đúng rồi đấy.

- Tìm vũ khí mạnh nhất khắp vũ trụ không đâu có.

- Phải.

- Phải xong việc trong mười ngày rồi trở lại đỉnh Olympus đúng hôm Hạ chí.

- Đúng thế.

Tôi quay sang Grover. Nó đang trợn mắt nuốt lá bài Át Rô. Xong xuôi, bạn tôi thều thào:

- Tớ có nói cậu thời tiết mùa này ở Maine dễ chịu chưa?

- Cậu không muốn đi cũng không sao. Việc nguy hiểm thế, tớ không đòi cậu phải làm đâu.

Nó sợ sệt đổi tư thế ngồi:

- À, tớ không sợ nguy hiểm… chẳng qua thần rừng không hợp ở chốn âm ty… Nhưng…

Nó lấy hết can đảm đứng dậy, phủi vụn bìa cứng và mảnh lon nhôm rơi trên áo thun:

- Percy à, cậu đã cứu mạng tớ. Nếu cậu thực sự muốn tớ đi cùng, tớ sẽ không để cậu thất vọng.

Tôi sung sướng đến độ nước mắt rưng rưng dù trong lòng biết con trai mà khóc không anh hùng gì cho lắm.

Grover là người bạn duy nhất ở bên tôi lâu hơn vài ba tháng. Tôi không biết thần rừng có “bí kíp” gì khiến các thế lực cõi âm phải chùn tay hay không, nhưng biết có nó đi cùng, tôi vững dạ đôi chút.

- Chúng mình sẽ luôn có nhau, Grover ạ. – Tôi quay sang bác Chiron – Lời Sấm Truyền chỉ bảo nên đi hướng Tây. Cụ thể là đi đâu ạ?

- Lối vào cõi âm luôn ở hướng Tây. Giống đỉnh Olympus, nó cũng chuyển địa điểm theo thời gian. Tất nhiên lúc này nó ở Mỹ.

- Chính xác là chỗ nào?

Bác Chiron có vẻ ngạc nhiên:

- Ta tưởng ai cũng biết, đâu cần phải hỏi. Cửa ngõ địa ngục ở Los Angeles.

- Ra vậy. Thế mà cháu không biết. Vậy tụi cháu sẽ ra sân bay…

Grover thét lên:

- Đừng! Cậu bị sao vậy? Từ bé đến giờ, cậu đã đi máy bay chưa mà nói?

Tôi ngượng ngập lắc đầu. Mẹ chưa bao giờ cho tôi đi máy bay. Lý do luôn là nhà mình nghèo khó, không có tiền mua vé. Với lại, ông bà ngoại tôi mất vì tai nạn hàng không nên mẹ sợ.

Bác Chiron giải thích:

- Nghĩ một chút đi nào. Cháu là con Thần Biển, đối thủ đáng gờm nhất của Zeus, Thần Bầu trời. Người thận trọng như mẹ cháu không bao giờ phó mặc mạng con mình cho ngành hàng không đâu. Lên máy bay tức cháu đến lãnh địa thần Zeus và không bao giờ còn sống đến lúc hạ cánh.

Trên trời chớp rạch sáng loè.  Xa xa có tiếng sấm ì ầm vọng tới.

Tôi quyết không nhìn lên đám mây dông.

- Thì đi đường bộ vậy.

- Nên thế. Hai người khác sẽ đi cùng cháu. Grover là một. Người kia xung phong từ trước, chỉ chờ cháu chấp nhận.

Tôi giả vờ như không hay biết gì.

- Ngạc nhiên chưa. Ai khờ đến độ xung phong làm chuyện này chứ?

Không khí sau lưng bác Chiron lay động.

Annabeth hiện ra. Lần này mũ lưỡi trai của đội bóng chày NY nhét trong túi quần sau.

- Đồ óc đầy tảo biển kia, tớ chờ được giao việc từ lâu lắm rồi. Nữ thần Athena không sùng bái thần Poseidon nhưng nếu cậu quyết đi vì việc nghĩa, người giúp cậu không làm hỏng chuyện chính là tớ.

- Quân sư quạt mo đã nói thế, chắc phải có diệu kế?

Annabeth đỏ mặt:

- Này, có muốn tớ giúp hay không vậy?

Sự thật là: Tất nhiên tôi muốn. Phải tranh thủ mọi sự giúp đỡ chứ.

- Vững như kiềng ba chân, đúng chưa nào? Số ba là số đẹp đấy.

Bác Chiron bảo:

- Tốt quá rồi. Chiều nay, ta đưa các cháu đến bến xe buýt ở Manhattan. Sau đó, ba đứa tự lo cho nhau nhé.

Chớp lại loé sáng. Lát sau, mưa như thác đổ xuống cánh đồng cỏ chưa bao giờ biết thời tiết xấu là gì.

Bác Chiron nói nhanh:

- Đừng chần chừ phí thời gian. Các cháu về chuẩn bị hành lý đi thôi.


* * *


HẾT CHƯƠNG 9
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

36#
 Tác giả| Đăng lúc 14-8-2013 11:12:35 | Chỉ xem của tác giả
10. TÔI PHÁ HỎNG CHIẾC XE BUÝT CỰC TỐT



Việc thu xếp hành trang của tôi chẳng lâu la gì.

Grover tìm ba lô cho tôi. Quyết định để sừng quỷ đầu bò ở nhà, tôi chỉ việc nhét thêm một bộ quần áo để thay đổi và bàn chải đánh răng vào đó là xong.

Cửa hàng của trại hè cho tôi vay một trăm đô la tiền thường và hai mươi đồng tiền vàng drachma. Tiền này to bằng bánh bích quy, một mặt dập nổi hình các vị thần, mặt kia là toà nhà Empire State. Bác Chiron bảo để tiện thanh toán trong những giao dịch không thuộc thế giới phàm trần. Tôi chẳng hiểu kiểu giao dịch gì lạ vậy.

Bác đưa tôi và Annabeth mỗi người một bình rượu thần và một bịch lớn bánh hình vuông và dặn chỉ dùng trong trường hợp cấp cứu, tức là có ai trong chúng tôi bị thương nặng. Bác dặn đi dặn lại phải dùng cẩn thận vì là thức ăn của thần thánh. Hễ con lai bị thương, ăn uống hai thứ đó sẽ khỏi. Nhưng người trần ăn sẽ chết ngay. Con lai nếu ăn quá nhiều cũng ốm sốt. Dùng quá liều lượng, chúng tôi sẽ cháy ruột cháy gan, hiểu theo nghĩa đen.

Annabeth mang theo nón lưỡi trai thần mẹ bạn ấy tặng con gái nhân sinh nhật lần thứ mười hai. Ngoài ra, bạn ấy còn mang cuốn sách kiến trúc bằng tiếng Hy Lạp cổ để đọc khi buồn chán và giấu trong ống tay áo con dao dài bằng đồng. Tôi chỉ ngại máy dò kim loại ngoài bến xe phát hiện và đuổi cổ cả ba.

Grover đeo bàn chân giả, mặc quần dài cho giống người trần và đội nón tròn không vành nhỏ xíu che chỏm đầu. Sở dĩ như vậy vì mỗi khi đi mưa, tóc bết xuống sẽ để lộ cặp sừng bé. Ba lô màu cam của Grover đựng đầy mẩu kim loại và táo để ăn vặt cho đỡ buồn miệng. Grover giắt túi áo bộ sáo bằng ống sậy do cha nó tự tay đẽo. Tuy nhiên, nó chỉ biết chơi hai bài: bản Concerto thứ mười hai của Mozart và "Giã Từ Dĩ Vãng" của Hilary Duff. Cả hai đều không hợp với nhạc cụ sáo.

Vẫy tay chào tạm biệt mọi người, ngắm bãi dâu, biển cả và Nhà Lớn lần cuối, chúng tôi nhắm cây thông vốn là Thalia, con gái thần Zeus, trên đỉnh đồi Con Lai thẳng tiến.

Bác Chiron ngồi xe lăn đợi sẵn.

Cạnh bác là anh chàng dáng thể thao tôi từng gặp khi nằm ở phòng bệnh. Grover bảo anh ta là trưởng ban an ninh của trại hè. Anh ta cần có mắt khắp cơ thể để không có gì làm anh ta bất ngờ. Tuy nhiên, hôm nay anh ta mặc quần áo của tài xế nên tôi chỉ thấy mắt trên mu bàn tay, mặt và cổ anh ta.

Bác Chiron giới thiệu với tôi:

- Argus đây sẽ lái xe đưa các cháu vào thành phố, đồng thời để mắt đến mọi thứ.

Chợt có tiếng chân tiến đến gần.

Luke cầm đôi giày thể thao chạy lên đồi.

Anh thở dốc:

- May anh đuổi kịp mấy đứa.

Mỗi khi đứng gần Luke, Annabeth lại đỏ mặt. Lần này cũng thế.

Luke quay sang tôi:

- Anh chỉ muốn chúc các em may mắn. Anh định... em cầm cái này xài đỡ.

Anh trao cho tôi đôi giày trông không có gì khác thường. Thậm chí nó cũng bốc mùi như mọi đôi giày cũ khác.

Luke kêu lên:

- Maia!

Cặp cánh chim trắng mọc ra từ gót giày. Tôi giật bắn mình buông tay. Đôi giày bay là là mặt đất một vòng, sau đó cánh cụp lại, biến mất.

Grover reo:

- Thích quá.

Luke tủm tỉm:

- Cái này đã giúp anh rất nhiều hồi anh truy tìm quái vật. Quà của cha anh. Chắc em cũng biết hồi này anh có dùng đến nó mấy đâu...

Anh chợt buồn hiu.

Tôi xúc động không nói nên lời. Luke tình cảm thật, còn đến giã biệt chúng tôi. Mấy ngày gần đây, tôi chỉ ngại anh chạnh lòng vì dù tôi không cố ý, mọi người vẫn để ý đến tôi thay vì tập trung vào anh như trước. Nhưng nhìn xem, anh còn tặng tôi quà quý... Nghĩ đến đây, mặt tôi đỏ không kém mặt Annabeth.

- Ôi, em cảm ơn anh.

Luke ngần ngừ, như thể không muốn mọi người nghe thấy:

- Percy này, bao hy vọng dồn cả vào chú đấy. Vậy nên... chú ráng hạ đo ván vài tên quái vật cho anh, nhớ chưa?

Anh bắt tay tôi, xoa mảnh đầu giữa hai sừng của Grover và ôm hôn tạm biệt Annabeth làm cô bé suýt ngất vì sung sướng.

Luke đi rồi, tôi bảo Annabeth:

- Trông cậu thở ghê chưa kìa.

- Tớ đâu có.

- Hôm thứ Sáu, cậu nhường cho anh ấy đi giành cờ phải không?

- Này Percy, tớ hết chịu nổi cậu rồi đấy.

Annabeth vùng vằng xuống chân đồi, chỗ có chiếc SUV trắng đậu bên lề đường. Anh Argus vung vẩy chùm chìa khoá theo sau tôi.

Tôi cúi xuống nhặt đôi giày bay, đột nhiên tôi cảm nhận có một điều gì đó thật xấu sắp xảy đến.

Tôi nhìn và hỏi bác Chiron:

- Cháu không thể sử dụng nó đúng không ạ?

Bác ấy lắc đầu bảo:

- Luke có ý tốt. Nhưng nói về bầu trời... Đối với cháu mà nói sử dụng nó chẳng khôn ngoan chút nào.

Tôi thất vọng nhưng phải công nhận rằng bác ấy nói đúng. Chợt tôi nảy ra một ý:

- Grover này, cậu thích giày có phép màu không?

Mắt nó sáng rỡ:

- Cho tớ à?

Chúng tôi bèn xỏ ngay giày vào chân nó. Chuyến bay đầu tiên của anh chàng người dê sắp bắt đầu.

Grover hô:

- Maia!

Lúc cất cánh không hề hấn gì, nhưng chỉ lát sau nó lật nghiêng, ba lô trên vai trượt dài trên cỏ. Hai cặp cánh bé xíu cứ chồm lên nhào xuống như con ngựa bất kham.

Bác Chiron nói với theo:

- Phải luyện tập. Cháu cần tập ít bữa mới thành thạo được.

- Ahhhhhh!...

Grover bay nghiêng xuống đồi tiến về chiếc xe trông như máy cắt cỏ bị ma nhập. Tôi định chạy theo nhưng bác Chiron đã kéo tay lôi lại.

- Nếu có thời gian, bác sẽ huấn luyện kỹ cho cháu. Hercules và Jason đều tập tành rất lâu.

- Không sao đâu ạ. Cháu chỉ ước...

Tôi im bặt, biết mình vừa suy nghĩ như đứa con hay vòi vĩnh. Tôi ước cha cho tôi một vật màu nhiệm có thể giúp tôi thực hiện nhiệm vụ này: một món đồ hữu dụng như giày biết bay của Luke hay mũ tàng hình của Annabeth.

Bác Chiron kêu lên:

- Bác đang nghĩ vớ vẩn gì vậy nhỉ? Bác không thể để cháu đi mà thiếu vật này được.

Ông lấy cây viết bi trong túi áo đưa cho tôi. Nó bình thường giống cây viết dùng một lần rồi bỏ: mực đen, có nắp đậy giá khoảng ba mươi xu.

- À... ừm. Cảm ơn ạ.

- Đó là quà của cha cháu, bác giữ lâu lắm rồi. Lúc đó bác không biết người bác chờ đợi là cháu. Nhưng giờ bác đã hiểu trọn vẹn Lời Sấm Truyền. Cháu chính là nhân vật đặc biệt Nhà Tiên Tri nói tới.

Nhớ trong chuyến tham quan Viện Bảo tàng Metropolitan, trước khi cô giáo bốc hơi trước mặt tôi, bác Chiron có ném cho tôi cây viết, sau đó nó biến thành thanh kiếm. Liệu có phải...

Tôi mở nắp. Cây bút dài ra, nặng trĩu. Chưa đầy nửa giây sau, trong tay tôi là thanh kiếm đồng sáng loáng hai lưỡi đều sắc ngọt. Chuôi kiếm bằng da có cẩn vàng ròng trang trí.

Lần đầu tiên có thanh kiếm vừa tay tôi như vậy.

Bác Chiron bảo:

- Có một lịch sử dài bi tráng gắn liền với cây kiếm này. Nhưng thôi, cháu không cần biết làm gì. Tên nó là Anaklusmos.

Tôi dịch ngay:

- Nghĩa là Thuỷ Triều.

Chính tôi cũng ngạc nhiên vì vốn tiếng Hy Lạp cổ của mình.

- Khi nào cần lắm hẵng dùng. Kiếm chỉ tác dụng với quái vật. Tất nhiên anh hùng không nên hại người phàm nếu không thật cần thiết. Nhưng kiếm này đặc biệt, nó không hại người trần trong mọi trường hợp.

Tôi nhìn lưỡi kiếm sắc chắc chắn chém sắt như chém bùn:

- Kiếm sắc thế này sao nó không làm người phàm bị thương được?

- Đây là kiếm thần. Sản phẩm từ chính tay người Cyclopes, được tôi trong lòng núi Etna rồi nhúng xuống sông Lethe. Với nó, cháu có thể giết được quái vật hay bất cứ cơ thể sống nào dưới địa ngục, miễn là chúng chưa kịp ra tay trước. Nhưng lưỡi kiếm chỉ lướt qua cơ thể người phàm như ảo ảnh. Lý do đơn giản là người phàm quá chất phác nên thanh kiếm không giết. Ta nhắc cháu nhớ một điều: Vì là á thần nên cả vũ khí nhà trời lẫn phàm trần đều lấy mạng cháu được. Cho nên cháu phải cẩn thận gấp đôi.

- Cảm ơn bác nhắc nhở.

- Thôi đậy nắp bút lại đi.

Vừa chạm nắp bút, thanh kiếm rút lại thành bút bi như cũ. Tôi ngại ngần cất bút vào túi áo. Chả là hồi đi học, tôi chúa hay đánh mất bút.

- Không có chuyện đó đâu.

- Chuyện gì cơ?

- Bút này không mất được. Nó có bùa chú nên sẽ trở về túi cháu. Cháu thử đi.

Bụng chỉ sợ mất bút quý nhưng tôi cũng thử ném xuống chân đồi. Bút lẩn ngay vào đám cỏ.

- Đợi chút đi. Giờ lục túi xem có chưa.

Đúng là cây bút có trong túi tôi thật.

Tôi thú nhận:

- Công nhận bút cực kỳ lợi hại. Nhưng nhỡ người phàm nhìn thấy thì sao ạ?

Bác mỉm cười:

- Đã có Màn Sương, đừng lo.

- Bác nói sao, cháu chưa hiểu.

- Trong sử thi Iliad nói rất nhiều về nó. Mỗi khi vật hay thần thánh trà trộn trong thế giới người phàm, họ tạo ra Màn Sương để người phàm không nhận ra. Dù cùng nhìn một sự vật hiện tượng, người phàm nhận thức khác hẳn á thần như cháu. Người phàm chỉ loanh quanh trong cái thực tại bị hạn chế bởi nhận thức của họ.

Tôi cất Thuỷ Triều vào túi.

Đến lúc này, tôi mới hiểu hết việc mình sắp làm. Tôi sắp rời Trại Con Lai thật rồi. Cắm cúi nhằm phương Tây thẳng tiến, tôi không thể dựa dẫm vào ai vì không có người lớn giám sát, không kế hoạch cứu viện, thậm chí điện thoại di động cũng không (bác Chiron bảo quái vật sẽ lần theo sóng điện thoại di động để tìm ra tôi. Dùng điện thoại di động chẳng khác nào "lạy ông tôi ở bụi này"). Để xua đuổi quái vật nhằm đến được Địa ngục, tôi chẳng có thứ gì khác ngoài thanh kiếm giắt trong người.

- Bác Chiron này... nếu nói các thần bất tử, có nghĩa lịch sử hình thành trước khi có họ, phải không ạ?

- Thật ra trước họ có bốn kỷ nguyên. Thời của người khổng lồ Titan là kỷ nguyên thứ tư. Có người nhầm gọi đó là Thời kỳ Hoàng kim. Thời ta đang sống trong nền Văn minh phương Tây dưới sự trị vì của thần Zeus là kỷ nguyên thứ năm.

- Vậy trước khi có các thần thì... thế nào ạ?

Bác Chiron mím môi:

- Dù hồi đó chưa ra đời, bác cũng biết người phàm sống trong u tối và man rợ. Kronos, chúa tể các Titan gọi thời ông trị vì là Thời kỳ Hoàng kim bởi con người vô tư, không cần tri thức. Nhưng đó chỉ là luận điệu tuyên truyền. Vua của người khổng lồ không hề quan tâm đến loài người trừ khi ông ta cần họ làm món khai vị hoặc cần giải trí. Chỉ khi Zeus lên nắm quyền và người khổng lồ nhân hậu là Prometheus mang lửa cho loài người, giống loài của cháu mới tiến bộ. Tuy nhiên sau đó Prometheus bị thần Zeus trừng phạt nặng. Theo thời gian, các thần mới thương yêu loài người. Nhờ đó mới có nền Văn minh phương Tây.

- Nhưng các thần không chết. Khi nào nền Văn minh phương Tây còn, các thần cũng còn tồn tại. Thế nên... nếu chẳng may cháu thất bại cũng không phương hại gì lắm, đúng không ạ?

Bác Chiron nhìn tôi cười buồn:

- Không ai biết Kỷ nguyên của phương Tây kết thúc khi nào. Thần bất tử, khổng lồ Titan cũng sống mãi. Hiện chúng vẫn tồn tại dù phải chui nhủi trong tù ngục, mãi chịu đau đớn và trừng phạt. Chúng suy yếu nhưng chưa chết hẳn. Lạy trời đừng để các thần chịu số phận tàn khốc như bọn Titan bây giờ. Nếu không chúng ta sẽ lại sống cảnh tăm tối và hỗn mang như trong quá khứ. Cháu ạ, ta chỉ có thể tuân theo số phận thôi.

- Số phận ư... giá biết số phận đưa ta đến đâu thì hay biết mấy.

- Bình tĩnh nào. Giữ cho đầu óc sáng suốt, tỉnh táo. Hãy nhớ cháu sắp ngăn chặn cuộc chiến tranh lớn chưa từng thấy của nhân loại đấy.

- Bác nói thế, cháu bình tĩnh sao nổi.

Đến chân đồi, tôi quay đầu nhìn lại. Dưới gốc cây thông từng là Thalia, con gái thần Zeus, bác Chiron hiện nguyên hình nhân mã, tay giơ cao cây cung chào tạm biệt. Đúng là nghi lễ tiễn đưa kiểu mẫu của thầy giáo nhân mã.

-0-
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

37#
 Tác giả| Đăng lúc 5-9-2013 19:53:59 | Chỉ xem của tác giả
Argus lái xe đưa chúng tôi qua vùng quê thanh bình tiến vào khu vực phía tây Long Island.

Dù bên cạnh có Annabeth và Grover trông bình thường như bạn đi chung xe khác, tôi vẫn thấy lạ lẫm khi ra đến đường cái. Sau hai tuần ở Trại Con Lai, tôi đi giữa thế giới thực mà tưởng mình nằm mơ. Tôi trố mắt ngắm nghía từ cửa hàng thức ăn nhanh McDonald's, từ em bé ngồi sau xe cha mẹ, đến mọi biển quảng cáo và khu mua sắm.

Tôi bảo Annabeth:

- Chưa thấy gì, cậu nhỉ? Đi hơn mười dặm vẫn chưa gặp quái vật nào.

Nó khó chịu nhìn tôi:

- Đúng là óc tảo biển. Nói thế xui xẻo lắm đấy.

- Làm ơn nhắc lại giùm. Sao cậu ghét tớ thế?

- Đâu ai ghét bỏ gì cậu đâu.

- Lại chối rồi.

Annabeth cuộn mũ lưỡi trai trong tay:

- Nghe này... Đúng ra ta không nên đi với nhau. Cha cậu với mẹ tớ là địch thủ mà.

- Nhưng vì sao mới được?

Cô bạn chán nản:

- Cậu muốn bao nhiêu lý do, tớ có đủ bấy nhiêu. Một là, mẹ tớ từng bắt gặp thần Poseidon đưa người tình vào đền Athena. Hành động như thế cực kỳ thiếu tôn trọng. Hai là mẹ tớ và cha cậu từng tỉ thí, ai thắng sẽ là thần bảo trợ cho thành Athen. Cha cậu tặng dân chúng suối nước biển ngu ngốc, mẹ tớ tặng cây ôliu. Người ta thích quà của mẹ tớ hơn nên họ lấy tên bà đặt cho thành phố.

- Chẳng qua họ thích cây ôliu thôi.

- Thôi, bỏ đi.

- Nếu mẹ cậu hoá phép ra bánh pizza, tớ ủng hộ liền.

- Đã bảo không nói nữa cơ mà.

Ngồi sau vô lăng, anh Argus cười toe toét. Anh không nói gì, nhưng một con mắt xanh lơ mọc sau gáy anh nhìn tôi nhấp nháy.

Đến khu Queens, đường đông khiến xe chạy chậm. Mãi đến hoàng hôn, xe mới vào địa phận Manhattan. Trời bắt đầu mưa.

Anh Argus dừng xe trước bến xe buýt Greyhound ở khu thượng Manhattan, gần căn hộ của mẹ tôi và dượng Gabe.

Tờ bướm ẩm ướt dán trên thùng thư có in hình tôi và dòng chữ: BẠN CÓ THẤY CẬU BÉ NÀY ĐÂU KHÔNG?

Tôi nhanh tay xé nó đi trước khi Annabeth và Grover để ý đến.

Xách hành lý xuống, đứng xem chúng tôi mua vé xong, anh Argus đánh xe về. Lúc đưa xe khỏi bãi đậu, con mắt trên mu bàn tay anh còn mở to nhìn chúng tôi.

Nhà tôi ngay gần đây. Nếu như mọi khi, mẹ tôi đi làm về rồi. Ngay lúc này đây, có lẽ Gabe Cóc Chết đang chơi bài và chưa chắc đã nhớ đến bà.

Grover đeo ba lô lên vai. Nó nhìn theo hướng tôi đang nhìn:

- Thắc mắc lý do mẹ cậu lấy ông Gabe chứ gì?

Tôi ngạc nhiên nhìn nó:

- Cậu biết đọc suy nghĩ người khác à?

Nó nhún vai:

- Tớ chỉ biết đọc cảm xúc thôi. Chắc tớ quên chưa thông báo với cậu rằng thần rừng có tài đó. Cậu đang nghĩ về mẹ và cha dượng, đúng không?

Tôi gật đầu tự hỏi Grover còn quên kể với tôi những gì nữa.

- Vì cậu, bà mới lấy ông Gabe. Cậu vô tình gán tên Gabe Cóc Chết cho ông ta nhưng không hiểu cái gì cũng có nguyên do của nó. Ông ấy hôi thật... rùng cả mình. Đứng đây tớ còn ngửi thấy nữa là. Dù cậu không ở bên ông ta cả tuần, tớ vẫn thấy mùi của ông ta ám trên người cậu.

- Cám ơn lời nhắc nhở. Cảm phiền chỉ giùm nhà tắm công cộng gần nhất.

- Cậu nên biết ơn vì điều đó. Cha dượng cậu hôi đến lợm giọng, đủ nguỵ trang cho mọi á thần. Chỉ cần ngửi mùi hôi của ông ta trong chiếc Camaro, tớ biết nhờ ông ấy nên cậu không bị phát hiện. Nếu mỗi mùa hè, cậu không ở cạnh ông ta, chắc chắn quái vật lần ra cậu lâu rồi. Mẹ cậu ở với ông ấy để bảo vệ con trai. Bà ấy cực kỳ khôn ngoan đấy. Hy vọng cậu vui khi biết mẹ hẳn yêu mình lắm nên mới ngậm bồ hòn làm ngọt sống chung nhà với ông ta.

Tôi không vui, nhưng cố ngăn xúc cảm lộ ngoài mặt.

Tôi nghĩ thầm: ”Mẹ chưa chết. Mẹ con sẽ còn gặp nhau”.

Cảm xúc tôi lẫn lộn thế, không biết Grover còn đoán được không.

Tuy vui vì có hai bạn đi cùng, nhưng tôi biết mình có tội vì không thẳng thắn với họ. Tôi đã không nói thật lý do chính khi nhận nhiệm vụ khó khăn này.

Sự thật là tôi không quan tâm đến tia chớp của thần Zeus hay cứu thế giới hoặc thậm chí giúp cha trong lúc khó khăn. Càng nghĩ tôi càng giận cha vì ông chưa bao giờ nhìn mặt con, hay giúp mẹ tôi, hay thực hiện trách nhiệm tài chính bằng cách gửi tiền đóng góp nuôi con. Ông chỉ nhận tôi là con khi cần người giúp việc cho mình.

Tôi chỉ quan tâm đến mẹ mà thôi.

Nếu Hades không biết phải trái, cố tình bắt mẹ tôi, ông ta phải trả mẹ cho tôi.

Lời Sấm Truyền văng vẳng bên tai: Ngươi sẽ bị phản bội bởi người tự xưng là bạn. Cuối cùng, ngươi sẽ không cứu nổi người quan trọng nhất của đời mình.

Tôi thầm ra lệnh: “Câm đi”.

-0-


Mưa vẫn rơi như trút.

Sốt ruột chờ xe chạy, chúng tôi lấy mấy quả táo của Grover chơi tung hứng. Annabeth khéo không thể tả. Bạn ấy có thể dùng đầu gối, khuỷu tay, vai… hất táo lên cao. Tôi chơi cũng không tồi.

Trò chơi kết thúc khi tôi ném trái táo về phía Grover. Nó bay đến gần miệng cậu ta. Chỉ một cái há miệng thật to của Grover, trái táo biến mất, cả cuống lẫn lõi đều không còn.

Grover đỏ mặt tính xin lỗi nhưng tôi và Annabeth mải cãi nhau nên không để ý.

Cuối cùng, xe buýt trờ tới.

Lúc xếp hàng lên xe, Grover nhìn quanh hít hà. Tôi hỏi:

- Sao thế?

Nó căng thẳng:

- Tớ không biết. Chắc chẳng có gì đâu.

Nhưng tôi thấy bất an nên cũng ngoái cổ nhìn.

Cuối cùng, lên được xe, tìm được chỗ ngồi phía dưới, tôi thở phào nhẹ nhõm. Chúng tôi lúi húi cất đồ đạc lên giá hành lý. Annabeth bồn chồn vỗ vỗ lưỡi trai của mũ lên đùi.

Khi mấy hành khách cuối cùng lên xe, cô bạn bấu chặt đầu gối tôi:

- Percy, trông kìa.

Bà già vừa lên xe mặc váy nhung nhàu nhĩ, đeo găng tay viền đăng ten, xách túi in hoa, đội sùm sụp mũ len màu cam đan lạ kiểu che gần hết khuôn mặt. Lúc bà ta ngẩng mặt lên, cặp mắt đen loé sáng khiến tôi hoảng sợ.

Chính là cô Dodds, tuy già hơn, nhăn nheo hơn nhưng khuôn mặt độc ác đó tôi không sao nhầm được.

Tôi ngây mặt như bị thôi miên trên ghế.

Lên sau bà còn hai bà nữa, người đội mũ xanh lá cây, người kia mũ tím. Họ giống hệt cô Dodds: tay xương xẩu, đeo túi hoa, mặc váy nhung nhàu nát. Chính là bộ ba Nữ thần Báo Thù độc ác.

Ba bà ngồi hàng đầu, ngay sau bác tài. Hai người ngồi hai bên lối đi duỗi thẳng chân ra giữa đường làm thành chữ X. Thoạt trông giống họ duỗi chân đỡ mỏi, nhưng tôi hiểu họ muốn nói: “Đừng hòng ra khỏi đây”.

Xe rời bến, lăn bánh trên những con phố mưa trơn của Manhattan.

Tôi cố giữ để giọng không bị run:

- Cô Dodds hồi phục nhanh quá. Sao cậu bảo nằm liệt cả đời?

Annabeth cãi:

- Tớ có nói nếu cậu gặp may. Nhìn họ đủ biết cậu không gặp may rồi.

Grover rên rỉ:

- Gặp ba bà một lúc thì mình chết chắc.

Annabeth suy nghĩ rất lung:

- Đừng lo. Nữ thần Báo Thù, ba quái vật kinh khiếp nhất địa ngục. Không sao. Không sao. Ta cứ chui ra cửa sổ là xong.

Grover nhăn nhó:

- Cửa không mở.

- Hay cửa hậu vậy?

Xe không có cửa hậu. Thậm chí nếu có, chúng tôi cũng không thoát được. Đúng lúc đó, xe chạy qua đại lộ số Chín, sắp vào đường hầm Lincoln.

- Họ sẽ không tấn công trước mặt mọi hành khách trên xe.

Annabeth nhắc:

- Mắt người phàm không tinh. Não họ chỉ xử lí thông tin căn cứ những gì nhìn thấy qua Màn Sương mà thôi.

- Nhưng nếu ba người kia giết chúng mình, họ cũng phải thấy chứ.

Annabeth trầm ngâm:

- Khó nói lắm. Nhưng ta không nên trông cậy người phàm giúp đỡ. Biết đâu có lối thoát hiểm trên trần xe.

Đến đường hầm Lincoln, trong xe tối sầm, chỉ còn đèn phía trên lối đi. Tự nhiên, tiếng mưa rơi im bặt.

Cô Dodds đứng dậy. Bằng giọng đều đều như tập từ trước, cô nói với mọi người trong xe:

- Tôi phải đi vệ sinh.

Bà thứ hai lên tiếng:

- Tôi cũng vậy.

Bà thứ ba nói theo:

- Tôi cũng đi.

Họ theo nhau lần theo lối đi.

Annabeth bảo:

- Để đó cho tớ. Percy, đội nón của tớ vào.

- Cái gì?

- Chỉ mình cậu là mục tiêu của họ. Tàng hình rồi theo lối đi lên đầu xe. Cứ mặc họ đi xuyên qua cậu. Biết đâu cậu lên được cửa trên và đi thoát.

- Nhưng còn hai cậu thì sao?

- Rất có thể họ không nhận ra bọn tớ. Nhưng cậu là con của một người trong Bộ Tam Vĩ Đại. Mùi của cậu át hết mùi bọn tớ.

- Tớ không bỏ bạn như thế được.

Grover bảo:

- Đừng lo cho tụi tớ. Đi ngay đi!

Tay tôi run bần bật, thấy mình hèn nhát quá. Nhưng tôi vẫn cầm mũ đội lên đầu.

Khi nhìn xuống, tôi không thấy người mình đâu nữa.

Tôi lò dò đi lên. Sau khi qua được mười hàng ghế, tôi ghé ngồi ghế trống đúng lúc ba Nữ thần Báo Thù đi qua.

Cô Dodds ngừng lại, hít hít và nhìn thẳng vào tôi. Tim tôi đập loạn xạ.

Rõ ràng bà ta không thấy gì.

Bà ta và hai người em của mình tiếp tục đi.

Không bị phát hiện, tôi đi tiếp lên đầu xe.

Xe sắp ra khỏi đường hầm Lincoln. Tôi sắp nhấn nút “Dừng xe khẩn cấp” thì nghe tiếng hét rợn người sau lưng.

Ba người kia không còn là ba bà lão già nua nữa.

Mặt họ giữ nguyên (chắc không thể xấu hơn được) nhưng toàn thân họ đổi thành màu nâu, da dày lên và mọc cánh dơi. Bàn tay bàn chân họ mọc vuốt như thú dữ. Ba túi xách biến thành ba roi da bốc lửa.

Ba Nữ thần Báo Thù vây quanh Grover và Annabeth, vừa quật roi vun vút vừa rít lên:

- Nó đâu rồi? Vật đó đâu?

Hành khách trên xe thét lên, co rúm trên ghế. Đúng là họ có nhìn thấy chuyện bất thường.

Annabeth hét lên:

- Cậu ấy không có ở đây. Đi mất rồi.

Ba nữ yêu quái mình người cánh dơi giơ roi lên.

Annabeth rút dao bằng đồng, còn Grover vơ can nhôm trong túi chuẩn bị ném.

Điều tôi làm tiếp theo thật khá bốc đồng và nguy hiểm đến độ đáng được có mặt trên tấm áp phích vinh danh trẻ em hiếu động của năm.

Bác tài mất tập trung. Ông nhìn gương chiếu hậu trong xe cố xem chuyện gì.

Vẫn tàng hình, tôi nắm vô lăng trong tay ông giật mạnh sang trái. Mọi người kêu la, nghiêng hết sang phải. Tôi hy vọng tiếng vừa nghe thấy chứng tỏ ba Nữ thần Báo Thù vừa va mạnh vào cửa sổ.

Bác tài hét lên:

- Ấy chớ! Đừng. Trời ơi.

Chúng tôi giành nhau vô lăng. Sườn xe va mạnh vào tường trong đường hầm, tia lửa bắn tung toé cả dặm sau xe.

Xe lao nhanh khỏi đường hầm, trở lại màn mưa tầm tã. Người và yêu quái bị quăng quật trong xe. Xe hơi chạy dạt sang hai bên lề đường.

Không hiểu bằng cách nào, bác tài tìm được đường thoát cho xe. Xe buýt lao vút trên xa lộ, vượt qua năm sáu ngã tư, cuối cùng lăn bánh trên đường đất vùng nông thôn New Jersey. Không ai tin ngay cạnh New York có loại đường vừa bé, lổn nhổn như vậy.

Bên trái đường là rừng, bên phải là sông Hudson. Lúc này, hình như bác tài đang mất tay lái khiến xe gần lao xuống sông.

Tôi có thêm sáng kiến mới: Kéo thắng dành riêng cho trường hợp khẩn cấp.

Xe buýt rít lên, xoay tròn giữa mặt đường nhựa ướt rượt và tông vào gốc cây. Đèn cấp cứu chớp nháy liên tục. Cửa xe bật mở. Bác tài chạy khỏi xe đầu tiên, hành khách cũng chen lấn nhau ra cửa. Tôi nép sau lưng ghế tài xế cho họ ra hết.

Ba Nữ thần Báo Thù hoàn hồn. Họ quật roi về phía Annabeth lúc bạn tôi rút dao hét lên bằng tiếng Hy Lạp cổ, ra lệnh cho họ lùi lại. Grover ném lon rỗng lia lịa.

Có lối ra trống trải cho tôi dư sức chạy thoát. Nhưng tôi không bỏ bạn bè.

Tôi cởi mũ tàng hình:

- Này!

Ba Nữ thần Báo Thù quay lại, nhe nanh đe doạ. Lúc này, chạy ra cửa xe là thượng sách. Cô Dodds lom khom đi giữa lối đi, giống hệt lúc đến bên trao bài kiểm tra điểm F cho tôi. Mỗi khi bà ta vụt roi, lửa lại phụt từ dải dây da có gai lởm chởm.

Hai người em xấu xí của bà ta nhảy cóc trên hai dãy ghế hai bên, bò về phía tôi như hai con thằn lằn khổng lồ gớm guốc.

Cô Dodds nói giọng lè nhè của người miền nam, vùng nào đó phía dưới bang Georgia:

- Perseus Jackson. Ngươi đắc tội với các thần. Ngươi phải chết.

- Trông bà ghê quá. Sao, hồi này hết dạy toán rồi à?

Bà ta gầm lên.

Annabeth và Grover rón rén theo sau ba Nữ thần Báo Thù tìm lối ra. Annabeth cầm dao đi trước nhưng tôi không để bạn ấy làm cái việc đáng lý tôi phải làm.

Tôi rút bút bi trong túi áo và mở nắp. Thuỷ Triều vươn dài thành thanh kiếm hai lưỡi sáng loáng.

Ba yêu quái khựng lại.

Cô Dodds từng nếm mùi lợi hại của Thuỷ Triều nên không thích lần “tái ngộ” này.

Mụ rít lên:

- Nộp ngay ra đây. Nếu không, ngươi sẽ bị hành hạ đến muôn đời.

Tôi khích bác:

- Ta không sợ đâu.

Annabeth thét:

- Percy, coi chừng!

Cô Dodds vung roi quấn quanh kiếm Thuỷ Triều, còn hai bà em hai bên cùng lúc nhào vào tôi.

Tay nóng rẫy như bị nhúng vào chì nấu lỏng nhưng tôi quyết không buông kiếm quý. Tôi thúc chuôi kiếm sang trái khiến yêu quái ngã chổng kềnh trên ghế, sau đó chém sang phải. Ngay khi kiếm chạm vào cổ, yêu quái nổ tung, biến thành bụi. Annabeth vật ngửa cô Dodds còn Grover thừa cơ xông vào tước roi da.

Nó kêu oai oái:

- Ối! Nóng… Nóng quá.

Yêu quái bị tôi đánh bằng cán kiếm lại xông đến nhưng tôi đã vung kiếm chém xuống xẻ đôi người mụ.

Cô Dodds ráng vùng khỏi vòng tay Annabeth siết từ phía sau. Bà ta vừa đấm đá, vừa cào cấu và rít lên kinh khiếp. Nhưng Annabeth không chịu buông tay, còn Grover dùng ngay roi trói chân bà ta. Xong xuôi, cả hai xô bà ta ngã sóng soài giữa lối đi. Bà ta cố gượng dậy nhưng lối đi hẹp không giang cánh được nên đành nằm vật xuống.

Bà ta rủa xả:

- Thần Zeus sẽ huỷ diệt ngươi. Hades sẽ bắt linh hồn ngươi cho xem.

Tôi hét lên bằng tiếng Latinh dù không biết mình học những từ ấy khi nào:

- Họ đừng hòng làm gì tôi.

Sấm vang rền làm rung chuyển xe buýt. Tôi nổi da gà, tóc dựng ngược.

Annabeth gào to:

- Ra ngoài! Mau!

Không cần nhắc, tôi cũng hết muốn ở trong này.

Ba chúng tôi vội nhao ra cửa và thấy hành khách, người thì sợ hãi đi tới đi lui, người thì cãi cọ với bác tài. Có người bấn loạn chạy quanh, miệng gào lên:

- Thế này thì chết thôi, sống làm sao được.

Trước khi tôi kịp đậy nắp bút, một hành khách mặc áo sơ mi hoa sặc sỡ giơ máy chụp hình về phía tôi bấm lia lịa.

Grover nhắc:

- Hành lý! Tụi mình quên trên…

ĐÙNG!

Xe buýt phát nổ, lửa phụt từ cửa sổ vỡ hết kính. Hành khách chạy tứ tán tìm nơi ẩn nấp. Sét đánh trúng nóc xe, nhưng tiếng rên căm tức từ trong xe phát ra cho thấy cô Dodds chưa chết.

Annabeth bảo:

- Chạy thôi. Bà ta gọi cứu viện. Mình đi ngay mới kịp.

Ba đứa lao thẳng vào rừng dưới trời mưa tầm tã. Sau lưng xe buýt cháy rừng rực nhưng phía trước trời tối như bưng lấy mắt.


* * *


HẾT CHƯƠNG 10
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

38#
 Tác giả| Đăng lúc 17-7-2014 23:04:17 | Chỉ xem của tác giả
11. CỬA HÀNG BÁN TƯỢNG



Đôi khi, biết trên đỉnh Olympus có mười hai vị thần cũng tốt vì khi gặp chuyện xui xẻo, cứ việc đổ lỗi cho họ sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều.

Ví dụ, lúc bỏ xa chiếc xe buýt bị phù thuỷ tấn công và bị sét đánh bốc lửa dưới màn mưa dày đặc mịt mù, ai cũng bảo họ gặp vận rủi. Tuy nhiên, nếu là con lai, ta biết chắc có thế lực siêu nhiên bám theo ta quậy phá.

Với suy nghĩ đó, Annabeth, Grover và tôi lủi thủi xuyên cánh rừng rậm thuộc miền duyên hải Jersey, bỏ lại sau lưng đô thị New York sáng đèn và nhịn thở để không phải ngửi mùi hôi thối bốc lên từ dòng Hudson ô nhiễm nặng.

Grover run bần bật, miệng rên be be. Nỗi kinh hoàng làm đồng tử trong đôi mắt dê của nó co lại thành đường kẻ nhỏ:

- Ba Nữ thần Báo Thù. Cả ba đến cùng lúc.

Chính tôi cũng hoảng sợ không kém, tai chưa hết lùng bùng do tiếng nổ xe buýt vừa rồi. Nhưng Annabeth kéo tay chúng tôi, giục giã:

- Nhanh lên! Càng đi xa càng tốt.

Tôi nhắc bạn:

- Có bao nhiêu tiền ta để cả trên xe. Cả quần áo, thức ăn nữa. Ta mất hết rồi.

- Thế sao? Nếu cậu không nhào tới đánh nhau thì đâu đến nỗi…

- Thế muốn tớ làm gì đây? Đứng nhìn chúng giết các cậu chắc?

- Percy, cậu không cần bảo vệ tớ. Tớ có sao đâu.

Grover chen ngang:

- Nếu không có cậu, chắc chắn yêu tinh xắt mỏng tụi tớ làm bánh kẹp. Dù thế, tụi tớ vẫn ổn.

Annabeth quát:

- Dê con, im đi!

Grover be lên tiếc rẻ:

- Vỏ lon nhôm… Đầy túi lon rỗng giờ mất hết.

Ba đứa lội bì bõm trong bùn đặc quánh, xuyên qua rặng cây vặn vẹo bẩn nhơ nhớp có mùi chua như quần áo đẫm mồ hôi chờ giặt.

Mấy phút sau, Annabeth đi sát bên tôi, ngập ngừng:

- Này, tớ… cảm kích vụ cậu quay lại vì chúng tớ. Cậu dũng cảm thật đấy.

- Chúng ta cùng hội cùng thuyền mà.

Annabeth đi thêm mấy bước trong im lặng:

- Có điều, nếu cậu thiệt mạng… không những mình cậu hẩm hiu mà nhiệm vụ cũng không hoàn thành. Cậu nên nhớ rất có thể đây là cơ hội ra đời cuối cùng của tớ.

Cuối cùng, sấm thôi ì ầm. Ánh đèn thành phố lùi xa, mờ dần chỉ còn lại chúng tôi với đêm tối. Nhìn Annabeth, tôi chỉ thấy mái tóc vàng óng. Ngoài ra, không thấy gì khác.

- Từ hồi lên bảy đến giờ, cậu chưa rời Trại Con Lai ư?

- Chưa… trừ vài lần tham quan ngắn ngủi. Cha tớ..

- À, giáo sư môn lịch sử.

- Phải. Tớ không ở nhà với cha được. Trại Con Lai mới là nhà tớ. – Annabeth nói nhanh như sợ ai cướp lời. – Trại cho học quanh năm suốt tháng. Thế cũng vui, nói chung gì cũng thích. Nhưng ngoài đời thực mới có quái vật. Chỉ đến lúc ra đời, ta mới được thử sức. Chỉ lúc ấy, ta mới biết khả năng của mình đến đâu.

Nếu không biết Annabeth từ trước, tôi sẽ tưởng cô bé chỉ nói miệng, trong bụng cũng sợ chết đi được.

- Cậu múa dao điêu luyện ghê.

- Thật không?

- Tớ phục lăn mấy người dám cưỡi lên lưng Nữ thần Báo Thù.

Tôi đoán Annabeth mỉm cười trong bóng tối.

- Để tớ kể cho nghe… lúc trên xe buýt buồn cười lắm cơ…

Chẳng biết chuyện bạn ấy định kể buồn cười cỡ nào, nhưng Annabeth buộc phải im lặng vì có tiếng kêu “tút tút” vang lên nghe như tiếng chim cú bị đánh đau.

Grover kêu lên:

- Các cậu ơi, bộ sáo của tớ còn dùng được. Chỉ cần nhớ bài “Tìm đường đi”, ta sẽ thoát khỏi khu rừng này.

Nó thổi vài nốt, nhưng giai điệu kỳ khôi lắm.

Đã không tìm được đường ra, tôi thình lình va đầu vào gốc cây, trán nổi cục u to tướng.

Vậy nên thêm một dòng vào danh sách những khả năng siêu nhiên tôi không hề có: tài nhìn xuyên thấu màn đêm.

Sau bao lần ngã vùi ngã dập, tôi vừa chửi rủa vừa đi thêm khoảng hai cây số trong tâm trạng buồn khổ chán ngán trước khi thấy ánh đèn phía trước. Đèn màu từ biển quảng cáo hẳn hoi. Mùi thơm bay đến. Đâu đó có đồ ăn chiên béo ngậy, thơm lừng. Từ khi đến Trại Con Lai, tôi chưa được ăn mấy món bác sĩ khuyên không nên dùng. Hai tuần ở đó, tôi sống lay lắt bằng nho, bánh mì và thịt nướng khô xác vì mỡ béo đã bị các đầu bếp Nữ Thần Cây lọc hết. Tôi đang thèm bánh hamburger phô mai nhiều thịt gấp đôi bánh thường.

Chúng tôi đi tiếp thì gặp con đường nhỏ hai làn xe trống trải chạy giữa rừng. Bên kia đường có trạm xăng đóng cửa, biển quảng cáo cỡ lớn rách bươm quảng bá cho bộ phim chiếu từ thập niên 90 của thế kỷ trước và một cửa hiệu còn sáng đèn. Chính nó phát ra mùi thơm và ánh đèn màu mời gọi.

Dó không phải quán thức ăn nhanh như tôi hình dung. Nó giống mấy cửa hàng ven đường chuyên bán tượng lạ mắt dùng bài trí trong vườn hay bãi cỏ trước nhà, chẳng hạn cây xén tỉa thành hình hồng hạc, tượng người da đỏ bằng gỗ, hay tượng gấu xám bằng xi măng v.v… Nhà chính dài, thấp giống nhà kho nằm giữa vài sào đất bày tượng mẫu. Tôi không đọc nổi chữ uốn bằng đèn neon trên biển hiệu. Vì tôi bị bệnh khó đọc nên chữ tiếng thường đã làm tôi khốn đốn, huống hồ dòng chữ bằng đèn màu nhấp nháy này lại viết hoa rất cầu kỳ.

Với tôi, trông nó như sau: ATYU MES GDERAN GOMEN MEPROUM.

Tôi bối rối:

- Chữ quái gì kia?

Annabeth lắc đầu:

- Tớ không biết.

Thấy Annabeth cực kỳ chăm đọc sách, tôi quên bạn ấy cũng mắc chứng khó đọc với chữ thường.

Grover dịch:

- CÔ E.M CHUYÊN BÁN TƯỢNG TRANG TRÍ VƯỜN.

Như minh chứng cho biển quảng cáo, cạnh cửa ra vào bày tượng hai chú lùn giữ cửa bằng xi măng. Họ xấu xí, lùn tịt, râu xồm xoàm, vừa cười vừa vẫy tay như sắp chụp ảnh.

Bị mùi bánh hamburger dẫn dụ, tôi nhanh nhảu sang đường.

Grover cảnh giác:

- Hượm đã…

Annabeth quan sát:

- Bên trong có đèn, chắc còn mở cửa.

Tôi thèm thuồng:

- Có đồ ăn.

Annabeth đồng tình:

- Ừ, ăn chút cho đỡ đói.

Grover cực lực phản đối:

- Hai cậu điên à? Nhìn chỗ này xem, ớn chết đi được.

Chúng tôi bỏ ngoài tai.

Tượng xi măng chen chúc trên khoảnh sân phía trước: nào chim thú, nào trẻ con… thậm chí có cả tượng thần rừng thổi sáo. Grover mới nhìn đã sởn da gà.

Nó kêu be be:

- Be… be… be… Giống cậu Ferdinand nhà tớ quá!

Đến cửa nhà chính, chúng tôi dừng lại. Grover van vỉ:

- Đừng vào. Tớ ngửi thấy mùi yêu quái.

Annabeth gắt:

- Cậu nghẹt mũi từ lúc ngửi mùi Nữ thần Báo Thù rồi. Tớ chỉ thấy mùi bánh thôi. Thế cậu không đói à?

Grover khinh thị:

- Toàn mùi thịt. Tớ ăn chay mà.

Tôi nhắc:

- Chay gì đâu. Tớ toàn thấy cậu ăn phô mai enchiladas và lon rỗng.

- Không sát sinh là chay rồi. Thôi nào các cậu, ta biến khỏi đây đi. Mắt mấy bức tượng này… cứ nhìn tớ chằm chằm.

Rồi cánh cửa được mở ra. Trước mặt chúng tôi là một phụ nữ cao ráo người Trung Đông. Tôi đoán thế vì bà ta mặc váy đen dài từ đầu đến chân chỉ chừa hai bàn tay, tấm mạng lớn trùm kín cả đầu lẫn mặt. Mắt bà lấp lánh sau làn vải mỏng. Hai bàn tay da bánh mật của bà trông già nua nhưng được làm móng rất kỹ và sơn màu trang nhã. Từ đó tôi đoán chắc bà là hoa khôi một thời.

Giọng nói bà chủ mang chút âm hưởng của người Trung Đông:

- Trời khuya thế này, sao các cháu còn tự ý ra ngoài? Cha mẹ các cháu đâu?

Annabeth mở lời:

- À… Cha mẹ chúng cháu…

Tôi đỡ lời:

- Chúng cháu mồ côi ạ.

Bà ta lấy làm ngạc nhiên lắm:

- Mồ côi ư? Trời ơi, không thể nào!

- Tụi cháu tách khỏi đoàn. Chúng cháu làm cho gánh xiếc mà. Ông chủ dặn nếu đi lạc, cứ đến cây xăng này, ông sẽ đợi. Nhưng chắc ông ấy quên, hoặc dặn trạm xăng khác nhưng cháu hiểu lầm. Dù ông ấy có nói gì thì giờ chúng cháu bị lạc rồi. Có phải mùi thức ăn không ạ?

- Ôi, cháu tôi! Tội nghiệp quá, nhất định các cháu phải vào nhà ta nghỉ chân đã. Cứ gọi ta là cô Em. Giờ đi thẳng ra sau nhà nhé. Phòng ăn ở đó đấy.

Chúng tôi cảm ơn rồi vào cửa.

Annabeth thì thào:

- Cậu làm cho gánh xiếc khi nào vậy?

- Thì cũng phải nghĩ ra thứ gì chứ.

- Đầu cậu nhồi tảo bẹ hay sao thế?

Trong nhà chất thêm nhiều tượng nữa. Tượng người ở đây có nhiều tư thế và trang phục, còn nét mặt bộc lộ đủ loại cảm xúc. Tượng chỉ hợp với vườn cực rộng vì chúng toàn to bằng người thật.

Nhưng đầu óc tôi chỉ chăm chăm nghĩ đến ăn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

39#
 Tác giả| Đăng lúc 18-7-2014 20:10:00 | Chỉ xem của tác giả
Đúng là ngớ ngẩn mới vào nhà lạ chỉ vì đói, nhưng quả thực tính tôi hay nhanh nhảu đoảng. Với lại, mùi bánh nhà cô Em thơm quá thể. Mùi ấy giống hơi thuốc mê ở phòng nha: nó khiến bệnh nhân quên hết sự đời. Tôi mê mụ đến nỗi không nghe Grover rên rỉ, không để ý mắt tượng như dõi theo mình và không biết khách vừa vào, cô Em đã vội khoá chặt cửa.

Tôi chỉ rốt ráo tìm phòng ăn. Đúng như chủ nhà giới thiệu, nó nằm sau nhà kho dài. Ở đó có quầy thức ăn nhanh cùng lò nướng thịt, máy pha sôđa, dụng cụ nướng bánh quy xoắn và máy chế biến khoai tây chiên pho mát… nói chung đầy đủ như tiệm bán thức ăn nhanh bình thường. Còn nữa, phía trước có kê vài bàn gấp bằng kim loại.

Chủ nhà mời mọc:

- Các cháu ngồi tự nhiên đi.

Tôi trầm trồ:

- Thích quá.

Grover ngại ngần:

- Nhưng… tụi cháu không có tiền.

Vừa định thúc khuỷu tay vào sườn, bắt nó im lặng, tôi đã nghe cô Em ngọt ngào:

- Không, các cháu đừng ngại. Cô không lấy tiền. Đây là trường hợp đặc biệt, đúng không? Cô mời. Các cháu mồ côi mà ngoan ngoãn quá đi thôi.

Annabeth cảm động:

- Cháu cảm ơn cô ạ.

Cô Em bất ngờ đứng im phắc như thể bạn tôi vừa làm gì sai. Nhưng ngay sau đó, bà ta cười xoà như không có chuyện gì xảy ra khiến tôi tưởng mình lầm.

- Annabeth ngoan lắm. Mắt cháu tôi màu xám đẹp quá nhỉ?

Mãi sau này tôi mới tự hỏi sao bà ta biết tên Annabeth, vì từ lúc vào chúng tôi chưa tự giới thiệu lần nào.

Chủ nhà biến ra sau quầy nấu nướng. Nháy mắt sau, bà bưng ra ba khay nhựa ú hụ bánh hamburger, sữa hương vani và ly đựng khoai tây chiên cỡ lớn nhất.

Tôi ngấu nghiến ăn bánh đến độ không kịp thở.

Annabeth mê mải uống sữa.

Grover tay bốc khoai tây chiên, mắt liếc tờ giấy nền lót khay như muốn ăn tươi nuốt sống nó. Chỉ tội nét mặt cậu ấy sợ sệt thế nào.

Grover hỏi:

- Cái gì kêu xì xì vậy?

Tôi lắng nghe nhưng không thấy gì. Annabeth lắc đầu. Cô Em vội nói:

- Chắc tiếng mỡ sôi xèo xèo đấy mà. Tai cháu thính quá.

- Cháu uống nhiều loại vitamin trợ giúp thính lực mà.

Chủ nhà khen:

- Chịu khó chưa? Mới bé đã biết tự chăm sóc sức khoẻ rồi. Yên tâm đi cháu, không có gì đâu.

Cô Em không ăn cũng không bỏ khăn trùm đầu và mặt ngay cả khi nấu nướng. Cô ngồi bên bàn, lồng các ngón tay vào nhau nhìn chúng tôi ăn. Nhai nhồm nhoàm khi có người ngó mình lom lom thật ngại quá, nhất là khi chúng tôi không nhìn rõ mặt cô. Tuy nhiên, ăn xong cái bánh to tướng, tôi thấy mãn nguyện, hơi buồn ngủ và nghĩ đến chuyện hỏi thăm chủ nhà vài câu cho phải phép.

Tôi tỏ vẻ quan tâm:

- Hình như cô bán… tượng thì phải?

- Phải phải. Tượng người, tượng thú vật… nói chung cô có đủ loại tượng trang trí vườn. Tượng theo đơn đặt hàng cũng có. Hồi này tượng bán chạy lắm.

- Dọc đường nhỏ này có nhiều hàng quán không ạ?

- Không nhiều lắm. Từ hồi họ làm đường cao tốc ngoài kia…hầu như xe cộ không đi ngả này nữa. Cô phải chiều khách lắm mới trụ lại được đấy.

Gáy tôi ngứa ngáy, hình như có người đang nhìn từ phía sau. Ngoái đầu trông, tôi thấy tượng một bạn gái xách giỏ trứng Phục sinh. Chi tiết của tượng hoàn hảo, không giống tượng trang trí vườn thông thường. Nhưng nghệ nhân tạc khuôn mặt bị lỗi thì phải. Trông bạn ấy như đang giật mình, hoặc kinh hoàng.

Cô Em buồn xo:

- Chắc cháu cũng thấy vài tác phẩm của cô không đẹp. Khá nhiều tượng lỗi. Hàng phế phẩm cô không bán. Khuôn mặt là phần khó nhất cháu ạ.

- Tự tay cô tạc tượng ư?

- Ừ. Ngày xưa cô có hai em gái giúp kinh doanh, nhưng họ vắn số nên cô đành sống cô quạnh. Giờ cô chỉ biết lấy tượng làm vui. Chính vì vậy cô làm tượng. Có tượng như có bạn trong nhà.

Giọng nói nghe thê lương sầu thảm đến nỗi tôi thấy thương cô ta. Tôi không hình dung nổi cảnh sống một mình giữa những bức tượng kỳ quái này.

Annabeth ngừng ăn, chăm chú hỏi:

- Cô có hai em gái ư?

- Chuyện khủng khiếp lắm, trẻ con không nên nghe. Annabeth biết không, cách đây lâu lắm rồi, ngày cô còn trẻ, có người đàn bà xấu bụng ghen tức cô. Cô có… người yêu, còn con mụ xấu bụng kia định chia duyên rẽ thuý. Mụ bày ra vụ tai nạn khủng khiếp. Hai em gái quyết ở bên cô lúc hoạn nạn nhưng cuối cùng họ phải chết. Nói đúng hơn là biến mất. Mình cô sống sót, nhưng phải trả giá quá đắt cho sự sống còn của mình.

Dù không hiểu cặn kẽ câu chuyện của chủ nhà, tôi vẫn thương bà ta. Ăn uống no nê xong, mi mắt tôi nặng dần, đúng là “căng da bụng, chùng da mắt”. Tội nghiệp hai cô em. Ai nỡ hại những người tốt như vậy chứ?

Annabeth giật tay gọi tôi tỉnh lại:

- Percy, chắc mình đi thôi. Tớ e ông chủ gánh xiếc đang đợi.

Giọng bạn ấy căng thẳng. Tôi không hiểu tại sao.

Grover nhai giấy lót khay ngon lành. Không hiểu cô Em có thấy lạ không, chỉ biết cô im lặng coi như không biết.

Chủ nhà lại khen:

- Mắt xám đẹp mê hồn. Lâu lắm rồi cô mới gặp người mắt xám đẹp giống cháu.

Bà ta vươn tay định vuốt má Annabeth nhưng bạn ấy đứng vụt dậy:

- Chúng mình không nên ở đây.

Grover nuốt chửng miếng giấy nến, đứng lên:

- Ông chủ đang đợi. Đúng rồi.

Tôi không muốn đi. Tôi no nê, dễ chịu. Cô Em rất dịu dàng, tử tế. Tôi muốn ở lại chơi thêm chút nữa.

Cô Em van nài:

- Đừng mà, các cháu. Hiếm khi cô có khách trẻ con đến chơi nhà. Trước khi đi, các cháu ngồi yên cho cô chụp tấm hình nhé?

Annabeth cảnh giác:

- Hình gì ạ?

- Chỉ một tấm thôi. Ta dùng ảnh các cháu để nặn bộ tượng mới. Tượng trẻ con bán đắt như tôm tươi. Ai cũng thích con nít mà.

Annabeth thấy bất an:

- Chắc không được đâu ạ. Percy, đi thôi…

Tôi khó chịu vì Annabeth giục hoài và không chiều lòng bà chủ tiệm vừa đãi chúng tôi một bữa không lấy tiền.

- Được cô ạ. Annabeth này, chỉ đứng cho cô chụp hình, có hại gì đâu?

Bà kia hùa theo:

- Bạn cháu nói phải. Có hại gì đâu nào.

Tôi biết trong bụng Annabeth thầm phản đối, nhưng bạn ấy vẫn để cô Em dẫn cả ba ra sân bày tượng trước nhà.

Cô bảo chúng tôi ngồi xuống ghế đá cạnh tượng thần rừng bằng đá.

- Để cô sắp đặt vị trí sao cho đẹp. Cháu gái đứng giữa đi, hai thanh niên đứng hai bên.

Tôi nhận xét:

- Trời tối thế sao chụp được ạ?

- Đủ sáng đấy chứ. Cô vẫn nhìn rõ mặt các cháu đấy thôi.

Grover hỏi:

- Máy chụp hình đâu ạ?

Cô Em lùi lại, ngắm nghía:

- Khuôn mặt bao giờ cũng khó nhất. Các cháu cười lên nhé! Cười tươi nào.

Liếc bức tượng thần rừng bên cạnh, Grover lẩm bẩm:

- Giống cậu Ferdinand quá đi mất.

Cô Em nạt nộ:

- Grover, quay ra đây!

Cô vẫn chưa cầm máy chụp hình.

Annabeth thì thầm:

- Percy…

Linh tính bảo tôi nên nghe lời Annabeth. Nhưng tôi còn mải gắng sức xua cảm giác buồn ngủ. Mắt tôi díp lại vì ăn no và vì giọng nói êm dịu, du dương của chủ nhà. Cô Em bảo:

- Xong ngay đây. Bực mình mạng che mặt này ghê, làm ta nhìn không rõ…

Annabeth khăng khăng:

- Percy, không ổn rồi.

Cô Em sắp lật tấm mạng mỏng trùm kín cả đầu lẫn mặt:

- Không sao đâu cháu. Tối nay rồng đến nhà tôm, thật tuyệt cú mèo. Có gì đâu mà không ổn?

Grover thở hổn hển:

- Đúng là cậu Ferdinand rồi.

- Ngoảnh mặt đi, đừng nhìn bà ta!

Annabeth hét lên, đội ngay mũ lưỡi trai của đội bóng chày New York lên đầu. Hai cánh tay tàng hình của bạn ấy cùng lúc xô tôi và Grover ngã nhào.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

40#
 Tác giả| Đăng lúc 19-7-2014 19:46:35 | Chỉ xem của tác giả
Tôi dán mặt xuống đất nhìn đôi chân đi xăng đan của cô Em.

Tai có nghe tiếng Grover và Annabeth mỗi người bò sang một hướng, nhưng tôi quá mê mụ, đờ đẫn đến độ không thể nhúc nhích.

Có âm thanh xì xì, sột soạt lạ tai ngay phía trên chỗ tôi nằm. Tôi lần lần nhìn lên hai bàn tay cô Em tự nhiên biến thành xương xẩu, sần sùi. Móng tay thay bằng vuốt bằng đồng sắc nhọn tự lúc nào.

Ánh mắt tôi sắp tiến lên, cao hơn nữa thì Annabeth thét lên:

- Đừng! Chớ có nhìn!

Tôi lại nghe tiếng sột soạt… tiếng của cả bầy rắn bé xíu ngay phía trên đầu tôi… nó phát ra từ chỗ đáng lẽ phải là đầu cô Em.

- Chạy đi!

Grover kêu lên. Tôi nghe tiếng nó vừa chạy ngang bãi cỏ vừa niệm bùa chú: “Maia!” để khởi động đôi giày.

Tôi bất động. Nhìn trừng trừng bàn tay xương xẩu của cô Em, tôi cố thoát khỏi trạng thái thôi miên mà cô ta đã lôi tôi vào.

Mụ nói êm như ru:

- Phải huỷ hoại khuôn mặt đẹp như tượng này thật uổng phí. Hãy ở lại với ta, Percy. Chỉ cần ngươi ngước nhìn lên là xong.

Tôi cưỡng lại ý muốn vâng lời. Thay vì nhìn mụ, tôi dán mắt vào quả cầu pha lê, loại người ta hay bày trong vườn để bói cầu. Bóng đen của “cô Em” hiện trên mặt thuỷ tinh màu cam. Đầu mụ biến mất, mặt mờ đi thành hình cầu nhợt nhạt. Tóc mụ là bùi nhùi rắn uốn éo, lắc lư.

Cô Em.

Có nghĩa cô “M”.

Sao tôi đần độn thế không biết.

Tôi thầm nhủ: ”Nhớ lại đi. Trong cổ tích, Medusa chết như thế nào?”

Dù đầu óc mê mụ, ký ức mách bảo tôi rằng: Trong cổ tích, Medusa bị Perseus tấn công lúc ngủ say. Nhưng giờ mụ tỉnh như sáo. Nếu muốn, mụ ta đủ sức dùng móng vuốt cào rách mặt tôi.

Giọng Medusa cất lên nghe không giống phù thuỷ. Giọng mụ mời mọc tôi hãy ngẩng lên nhìn, hãy thương hại một bà già tội nghiệp:

- Percy ơi, tại ả Mắt Xám cả đấy. Mẹ Annabeth, mụ Athena chết giẫm biến ta từ cô gái xinh đẹp thành thứ gớm guốc này.

Annabeth núp trong rừng tượng, nói với ra:

- Đừng nghe lời mụ. Chạy đi, Percy!

Medusa gầm gừ:

- Câm miệng! – Giọng mụ lập tức mượt như nhung. – Percy, ngươi cũng hiểu tại sao ta phải huỷ hoại con nhóc ấy. Nó là con kẻ thù của ta. Ta sẽ nghiền nát tượng nó thành cát bụi. Nhưng Percy yêu quý, riêng ngươi không tội tình gì phải thế.

Tôi thều thào, cố động đậy đôi chân:

- Đừng.

- Nói thực đi, ngươi có muốn giúp các thần không? Ngươi có biết làm nhiệm vụ ngu xuẩn này, cái gì đang chờ ngươi phía trước không? Có biết ngươi sẽ ra sao khi đến được địa ngục không? Đừng làm con tốt đen trên bàn cờ của đỉnh Olympus, ngốc ạ. Làm tượng sướng hơn nhiều. Ít đau đớn hơn nhiều. Thật đấy.

- Percy, tớ đây!

Tôi nghe tiếng vè vè quái đản trên đầu. Hình như có con chim ruồi to đùng, nặng cả trăm ký sắp lao chúi xuống.

- Cúi xuống!

Tôi ngoái đầu nhìn. Grover bay giữa trời đêm, cánh trắng mọc từ gót giày chấp chới. Tay nó lăm lăm cành cây dài bằng gậy vụt bóng chày. Mắt nhắm tịt, Grover hết nghiêng đầu sang trái lại sang phải như thể nó đoán đường bay chỉ bằng mũi và tai.

Nó lại hét inh ỏi:

- Cúi xuống! Tớ sẽ hạ mụ ta!

Nghe vậy, tôi quyết định phải hành động ngay. Tôi biết Grover lắm mà: Thể nào nó cũng vụt trượt Medusa và phang gậy trúng đầu tôi. Hoảng hồn, tôi lăn người tránh.

RẮC!

Nếu không nghe Medusa gầm lên tức tối, tôi đã tưởng Grover đập trúng gốc cây.

Mụ gầm gừ:

- Đồ thần rừng hèn mọn, tao sẽ thêm mày vào bộ sưu tập của tao.

Grover hét lên đáp trả:

- Ta đánh mụ để trả thù cho cậu Ferdinand.

Tôi lồm cồm bò ra xa, nấp sau bức tượng. Vừa lúc Grover sà xuống phang tiếp.

- Ái!

Medusa la lối, bộ tóc rắn kêu xì xì, nhổ tứ tung.

Tiếng Annabeth vang lên ngay bên tôi:

- Percy!

Giật bắn mình, tôi nhảy dựng lên suýt đá đổ tượng thần lùn giữ của.

- Trời đất! Đừng thế chứ.

Annabeth cởi mũ, hiện ra trước mặt tôi:

- Cậu phải chặt đứt đầu mụ.

- Cái gì? Cậu điên à? Ta đi ngay thôi.

- Medusa rất độc ác, tàn bạo. Tớ muốn tự tay lấy mạng mụ… nhưng – Cô bé nuốt khan như thể sắp thú nhận một chuyện khó khăn - … nhưng vũ khí của cậu lợi hại hơn. Với lại, nếu tớ đến gần sẽ bị mụ băm vằm vì thù mẹ tớ. Cậu… dễ tiếp cận hơn. Giờ là cơ hội của cậu đấy.

- Sao cơ? Tớ không thể…

- Này, thế cậu muốn mụ biến người vô tội thành tượng ư?

Annabeth chỉ tượng đôi tình nhân đang ôm nhau, nạn nhân bị yêu quái biến thành đá.

Annabeth nói đúng. Thậm chí nếu Medusa không chết hẳn, tôi vẫn có khả năng làm mụ dừng bàn tay tội ác ít lâu, cứu mạng vài người vô tội, bắt mụ rời xứ New Jersey, nơi người dân đã quá khổ vì tệ nạn.

Annabeth lấy quả cầu thuỷ tinh màu xanh lá cây bày trên bệ gần đó. Cô bé nhìn kỹ trái cầu:

- Dùng vật che chắn bề mặt bóng là tốt nhất. Tuy nhiên, mặt cong sẽ làm hình méo mó. Độ chênh lệch sẽ không còn nếu có yếu tố…

- Này, cậu có biết nói tiếng người không thế?

Annabeht ném cho tôi trái cầu:

- Đừng đùa nữa. Cứ nhìn bóng mụ hiện trên mặt thuỷ tinh. Đừng bao giờ nhìn trực diện.

Grover hét toáng lúc bay lơ lửng trên đầu chúng tôi:

- Các cậu ơi! Mụ ấy bị ngất.

Medusa gầm lên:

- Chúng mày chết chắc rồi!

Grover nói chữa:

- À, chưa ngất.

Nói xong, nó bay đi thực hiện thêm cú vụt nữa.

Annabeth giục:

- Cậu đi ngay đi. Mũi Grover thính thật, nhưng thể nào cũng có lúc lao nhầm chỗ.

Tôi lấy bút mở nắp. Lưỡi kiếm đồng dài ra trên tay tôi.

Tôi nhằm hướng có tiếng sột soạt và tiếng rắn nhổ phì phì trên đầu phù thuỷ Medusa lao tới.

Tôi căng mắt nhìn trái cầu thuỷ tinh vì bóng Medusa rất mờ, khó hơn nhìn thẳng mụ.

Kia rồi, tôi đã thấy hình phù thuỷ phản chiếu trên mặt thuỷ tinh màu xanh lục.

Grover quay lại chiến đấu tiếp, nhưng lần này nó bay hơi thấp. Thừa cơ, Medusa lôi đầu gậy của Grover, khiến nó lảo đảo. Nó lộn nhào trên không, va chạm mạnh và ngã lăn vào vòng tay gấu bị hoá đá. Đau quá, nó kêu la:

- Úi da!

Thấy Medusa định nhào tới chỗ nó, tôi kêu lên:

- Này!

Mụ quay lại nhìn thẳng tôi.

Tôi khó nhọc tiến đến, vì một tay xách thanh kiếm dài, tay kia cầm trái cầu dễ vỡ. Nếu mụ tấn công tôi không dễ gì chống đỡ.

Nhưng mụ phù thuỷ mặc tôi rút ngắn khoảng cách: hai mươi bước rồi mười bước.

Đến đây, tôi nhìn rõ mặt mụ in trên quả cầu xanh. Nói đúng ra, mụ không xấu lắm. Chỉ tại mặt cong của quả cầu làm mặt mụ dị dạng, xấu xí hơn.

Mụ ngọt ngào:

- Percy ơi, người tốt ai nỡ hại bà già. Ta biết cháu tốt bụng, không bao giờ làm thế.

Tôi chần chừ, ngây thộn nhìn khuôn mặt quái dị trên mặt thuỷ tinh. Hai con mắt như có lửa rực cháy khiến hai tay tôi mềm nhũn.

Vẫn nằm trong tay tượng gấu, Grover rên rỉ:

- Percy, chớ nghe lời mụ.

Medusa đắc thắng:

- Quá muộn rồi.

Mụ giơ móng vuốt lao thẳng vào tôi.

Vung kiếm phạt ngang, tôi nghe tiếng “XOẠT!” rợn người, kèm theo âm thanh nghe như tiếng gió hút vào lòng hang đá sâu thẳm: tiếng thân xác yêu quái tan rã.

Trên mặt đất có cái gì đó lăn lông lốc chạm vào chân tôi. Tôi phải gồng mình, gắng sức kiềm chế để không nhìn xuống. Tôi đứng yên, mặc thứ chất lỏng ấm ộc ra thấm vào vớ dưới chân, mặc mấy đầu rắn tí xíu rỉa dây giày.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách