Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Xù
Thu gọn cột thông tin

[Viễn Tưởng - Xuất Bản] Chuyện Xứ Lang Biang - Tập 3: Chủ Nhân Núi Lưng Chừng | Nguyễn Nhật Ánh (Chương 25)

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 16-11-2014 02:06:55 | Xem tất
Chương 18. Cuộc chiến bên bờ suối


Bọn trẻ líu ríu kéo đi trong lặng lẽ, thỉnh thoảng lại giật bắn mình bởi những tiếng động lạ trong các bụi cây. Nguyên nhận ra tụi nó đang lạc vào một miền đất quái và một chốc sau thì nó bắt gặp trong lòng mình cảm giác rờn rợn của cái lần tụi nó nửa đêm đột nhập vào trường Đămri.

Rất may là mình chỉ gặp những con thú hiền! Nguyên tự trấn an, sau nhiều lần phát hoảng vì những con quái thú đủ kiểu, đủ cỡ cứ chốc chốc lại ló ra trên các sườn đồi hoặc ung dung lướt ngang trước mặt tụi nó.

-Làm sao biết họa sĩ Yan Dran ở chỗ nào, Suku?

Nguyên sốt ruột hỏi, cảm thấy hai tay đã mỏi nhừ nhưng nó lại không muốn đặt Kăply xuống.

Suku chưa kịp đáp, thiệt tình thì nó cũng không biết đáp như thế nào, bọn trẻ đã ngoặt quanh chân đồi và Nguyên kịp thấy một dãy nhà lá hiện ra trong tầm mắt.

-Chắc là đây rồi.

K’Tub reo lớn và xông lên trước, xăm xăm đi tới.

Chỗ ở của Yan Dran trông giống như một khu nghỉ mát với những căn nhà lá có mái tròn như bát úp, ngăn cách với nhau bằng những thảm cỏ xanh rờn. Từ xa, Nguyên đã nhìn thấy những cây cột chạm khắc các hình thù kỳ lạ với những ô tam giác và hình thoi được sơn đỏ dựng rải rác khắp nơi. Vô số mãnh thú như voi, cọp, sư tử chầu quanh mỗi cây cột và hình ảnh đó quả thực khiến bọn trẻ nổi gai ốc khắp người, chân cẳng tự nhiên dừng phắt lại.

K’Tub nhướn mắt nghiêng ngó một hồi rồi thở phào:

-Hình như đây là những con thú bằng đá.

Nó đá mớ sỏi vụn dưới chân bắn về phía các con vật và cười hì hì khi chẳng thấy bọn chúng nhúc nhích gì hết:

-Thấy chưa!

Một tiếng nói thình lình vang lên từ sau gò đất nhỏ ven đường:

-Ê, chơi trò gì kỳ vậy?

Bọn trẻ giật mình đánh mắt về phía phát ra tiếng nói, ngạc nhiên thấy một thằng oắt chừng bảy tuổi từ sau gò đất bước ra, mắt gườm gườm nhìn K’Tub, trông có vẻ rất tức giận. Nó cầm trên tay một cây cọ vẽ, mặt mày nhem nhuốc nhưng không che lấp được vẻ thông minh lanh lợi.

K’Tub phì cười khi thấy thằng oắt mặc trần xì một cái quần cụt, phơi cái bụng chang bang ra trước mặt mọi người và cái vẻ giận dữ của nó trông thiệt là ngộ nghĩnh:

-Chà, em định làm gì vậy?

Thằng oắt nhận ra ngay K’Tub đang trêu nó. Mặt nó lập tức sa sầm và trong lúc bọn trẻ chưa đoán ra thằng oắt sẽ làm gì thì nó đã nhanh như chớp chĩa cây cọ vào người K’Tub, gầm lên:

-Đứt phựt nè!

Thằng oắt la rất lớn, đứa nào cũng nghe nhưng không hiểu nó bảo cái gì đứt thì hoàn toàn bất ngờ, thằng K’Tub hét lên một tiếng thất thanh và quính quíu dùng cả hai tay giữ chặt chiếc quần lúc này đã tụt xuống tới đầu gối. May mà chiếc áo nó mặc khá dài nên những chỗ kín đáo không đến nỗi phơi ra trước bàn dân thiên hạ nhưng cái hình ảnh lom khom kéo quần của nó cũng đã là cực kỳ khó coi.

Tụi Êmê, Păng Ting, Bolabala và Mua hét lên một tiếng xem ra còn rùng rợn hơn tiếng hét của K’Tub, cả tám bàn tay hấp tấp đưa lên che mặt, bốn cái đầu lật đật ngoảnh đi chỗ khác, nhanh đến mức có cảm tưởng nếu gặp con basilic có lẽ tụi nó cũng không phản ứng thần tốc như vậy.

Bây giờ thì bọn trẻ đã biết thằng oắt dùng thần chú để làm đứt dây lưng quần của đối phương, và khi biết được điều đó rồi thì tụi nó dở cười dở khóc và đưa mắt nhìn nhau, thiệt tình không biết phải nên đánh trả như thế nào.

K’Tub mặt đỏ như gấc, luống cuống thắt lại dây lưng cả buổi vẫn không xong mặt càng chín nhừ. Đã thế, thằng oắt không ngừng hoa tay múa chân, miệng bô bô:

-Lêu lêu, mắc cỡ! Lêu lêu, mắc cỡ!

Dĩ nhiên hành động đầu tiên của K’Tub sau khi đã chỉnh trang y phục đâu vào đấy là hầm hầm chĩa tay vào thằng oắt nghịch ngợm. Nhưng nó chưa kịp hô một câu thần chú nào, Suku đã ôm cứng lấy tay nó:

-Khoan đã, mày!

Suku quay sang thằng nhóc, tươi cười hỏi:

-Em là Yan Jik phải không?

-Sao anh biết tên em? - Thằng oắt giương cặp mắt đen láy nhìn Suku.

Suku chỉ Nguyên:

-Em nhận ra ai đây không?

Bây giờ thằng Yan Jik mới nhìn thấy Nguyên.

-A, anh K’Brăk! - Nó reo lên hớn hở - Lâu nay anh đi đâu vậy? Sao anh không đi học nữa? Ba em nhắc anh hoài!

-Ờ, ờ, anh bị ốm. - Nguyên ấp úng, đã đoán đây là con trai của họa sĩ Yan Dran.

Yan Jik nhìn sững Kăply:

-Anh ôm ai vậy?

-Em họ anh. K’Brêt.

-Anh K’Brêt cũng bị ốm à?

-Ờ, bị ốm. - Nguyên đáp qua loa. Rồi nó chỉ tay vào lũ bạn - Còn đây là những bạn tốt của anh, Yan Jik.

Trong khi Nguyên giới thiệu tên từng đứa, Yan Jik tò mò lướt mắt qua những khuôn mặt, cuối cùng dừng lại ở K’Tub, cười khì khì:

-Xin lỗi chuyện khi nãy nha, anh K’Tub.

-Không có chi. - K’Tub cười gượng gạo - Nhưng thiệt tình anh hổng hiểu em học ở đâu loại thần chú kỳ cục này...

-Anh Pôcô và anh Pôca dạy em đó. - Yan Jik khoe, mặt nó như nở ra vì kiêu hãnh.

K’Tub nhún vai:

-Hai thằng nhóc đó dạy bậy bạ không hà.

-Bậy bạ ư? - Yan Jik nhíu mày, rồi nó lắc đầu lia lịa - Không đâu, anh K’Tub. Câu thần chú này dùng để đối phó với lão Imđi hiệu nghiệm lắm đó. Nếu không có nó, chắc em bị lão làm khổ dài dài.

Nguyên hỏi:

-Lão Imđi là ai?

Yan Jik có vẻ không tin một cái tai nào trong hai cái tai dơ hầy của mình. Nó nhìn sững Nguyên, miệng há hốc:

-Trời đất, anh quên lão rồi sao, anh K’Brăk?

-Ờ, ờ... - Nguyên bối rối đập đập tay lên trán - Vừa rồi anh ốm một trận quá mạng nên đã quên rất nhiều thứ, Yan Jik à.

-Đó là lão quản gia. - Yan Jik quẹt mũi nói, mặt nó nhăn húm khi nhắc đến lão Imđi, y như thể nó đang nói đến một cái giá treo cổ - Ba em thuê lão trông nhà và trông chừng em.

Yan Jik vung cây cọ:

-Chậc, mấy anh chị biết không, lão ta khó chịu cực kỳ. Lúc nào lão cũng lải nhải: Mày không được làm cái này. Mày không được làm cái kia. Thiệt rầu chết được. Đã thế, lão còn sống dai nhách.

Nguyên trố mắt nhìn Yan Jik, không tin trước mặt mình là một thằng nhóc bảy tuổi. Nó nhớ trùm Bastu từng khen Yan Jik rất thông minh, nhưng không nghĩ thằng này lại tinh khôn và láu lỉnh như vậy. Chắc tại nó chơi với hai con ma song sinh Pôcô và Pôca nhiều quá. Nguyên nghĩ bụng và hắng giọng:

-Ba em có nhà không, Yan Jik?

-Có. Tụi anh đi theo em.

Yan Jik nhanh nhẩu đáp và lập tức quay mình đi trước.

Căn nhà họa sĩ Yan Dran ở là căn nhà lớn nhất, nằm mé trái dãy nhà, bên cạnh một con suối hẹp và nhỏ, tiếng nước chảy róc rách khe khẽ, nghe buồn buồn nhột nhột như một vòi nước hỏng.

Trong khi bọn trẻ ngắm nghía mái lá tròn xoe như tán nấm khổng lồ và hiếu kỳ sờ tay vào những cây cột chạm trổ dựng hai bên cổng thì Yan Jik chui tọt vào nhà.

Nhưng nhoáng một cái, nó đã chạy ra:

-Ba em không có đây.

Nó đảo cặp mắt, láo liên nhìn quanh:

-Chắc ba em ở ngoài suối.

Bọn trẻ lại theo chân Yan Jik đi vòng qua căn nhà. Nhưng vừa quanh ra phía sau, tất cả liền khựng lại, mắt trợn lên.

Trước mặt tụi nó, bên này bờ suối, có hai người đàn ông đang đứng. Một người mặc đồ ngắn màu đen với những đường diềm sặc sỡ ở vai và cổ tay, tóc rối bù, tay đang cầm chặt thanh gươm ngắn chĩa về phía trước. Vừa nhác thấy hình dạng người đàn ông này, Nguyên đã nhận ngay ra đó là siêu phù thủy Yan Dran, thầy dạy vẽ của K’Brăk. Đứng bên cạnh Yan Dran là một lão già có khuôn mặt dài như mặt ngựa, những thớ thịt trên hai gò má nổi thành cục, sắc cạnh như đẽo bằng đá. Lão chống cây gậy trắng hếu như ống xương xuống đất, lưng lão hơi bị khòm nên trông như lão đang tựa người lên chiếc gậy cho khỏi ngã.

Lão này chắc là quản gia Imđi! Nguyên nghĩ bụng và quét mắt sang bên kia suối. Ngay lập tức, nó giật bắn mình, mắt chớp liền ba, bốn cái, thậm chí phải kềm chế lắm nó mới không đưa tay xuống đùi véo một cái để xem mình tỉnh hay mơ.

Các chàng trai Bạch kỳ lân tươi tắn trong những chiếc áo chùng đỏ quen thuộc đang đứng cạnh ba hình thù đen thùi lùi với ba con hắc xà ngoe nguẩy trên tay, trông âm u ma quái như vừa chui lên từ hầm mộ. Vừa nhác thấy ba người này, Nguyên đã cảm thấy khó thở, liền vội vã hít vô một hơi, sửng sốt lẩm bẩm: “Sao Bạch kỳ lân lại đi chung với Hắc tinh tinh há?”. Nguyên tự hỏi, nhưng rồi rất nhanh nó nhớ ra: Phải rồi! Bạch kỳ lân không đối phó với phe K’Rahlan, còn Hắc tinh tinh không chống lại phe Hắc Ám, nhưng Yan Dran là người của giáo phái Madagui, không liên quan gì đến những cấm kỵ của bọn họ.

Masari khẽ ve vẩy cây gậy sừng hươu trên tay, mỉm cười nói, trông anh tươi tỉnh như đang trò chuyện với bạn bè:

-Thế nào, Yan Dran? Hổng lẽ đến nước này mà ngươi còn chưa chịu nói ra?

Yan Dran khoa thanh gươm một vòng:

-Ngươi hãy hỏi thanh gươm của ta trước đã, Masari.

Pila lắc đầu làm những lọn tóc xanh thẫm dài tận vai khẽ đong đưa như có gió thổi, nom thật đẹp mắt:

-Ngươi ngoan cố thật đấy, Yan Dran. Ngươi nghĩ ngươi có thể chống lại sự liên thủ của sáu người bọn ta sao?

Yan Dran nhún vai, giọng khinh bỉ:

-Cách đây nhiều năm Bastu đích thân tra hỏi ta còn không có kết quả, lũ đánh thuê như bọn ngươi đừng có nằm mơ!

-Đừng nhiều lời với hắn nữa! - Một giọng nói khè khè phát ra từ chỗ Hắc tinh tinh, không rõ do ai nói - Nếu hắn không chịu mở miệng, bọn ta cho hắn về chầu trời quách!

-Im đi! - Lão quản gia Imđi quát lớn, chiếc lưng còng đột ngột thẳng lên khiến lão tự nhiên cao thêm một tấc - Cho bọn ngươi về chầu trời thì có!

Vừa hét lão vừa giận dữ trỏ cây gậy về phía Hắc tinh tinh, như thể cầu cho sét giáng xuống bọn họ cho rồi.

Yan Jik níu tay Nguyên, sợ hãi:

-Bọn này là ai vậy, anh K’Brăk?

-Đây là bọn sát thủ đánh thuê.

-Đánh thuê à? - Yan Jik cau mày - Thế anh có biết ai đã thuê họ không?

Nguyên tặc lưỡi:

-Chắc là phe Hắc Ám.

Yan Jik đưa cặp mắt lo lắng nhìn qua bên kia suối, băn khoăn:

-Chẳng hiểu họ muốn ba em nói ra điều gì?

Nguyên chưa kịp đáp, một tên trong bọn Hắc tinh tinh đã cất giọng gai gai:

-Ngươi thà chết chứ nhất định không chịu tiết lộ bí quyết vẽ truyền thần ư, Yan Dran?

Yan Dran lắc thanh gươm:

-Bọn ngươi không xứng để nói câu đó đâu.

-Được rồi, bọn ta sẽ cho ngươi biết ngay bọn ta có xứng hay không.

Gần như cùng lúc với câu nói, Tam phù thủy Hắc tinh tinh đồng loạt hất tay ra. Ba con hắc xà trên tay chúng lập tức vọt tới trước như tên bắn, vừa bay trong không vừa rít lên vi vu như tiếng sáo.

Lão Imđi huơ loạn xạ khúc xương trắng nhưng không đánh trúng được con rắn nào, mặt mày có vẻ đã bắt đầu hoảng sợ. Yan Dran vội vã bước lên chắn trước mặt lão quản gia và vung tay một cái: từ mũi gươm, một bầy diều hâu bay ra, xông thẳng vào ba con hắc xà.

-Hay quá! - Bolobala reo lên - Bọn quái xà gặp khắc tinh rồi...

Bolobala chưa nói hết câu, đã thuỗn mặt ra. Ba con rắn của Hắc tinh tinh nhanh như ba tia chớp đen, phóng loằng ngoằng ngó hoa cả mắt, vừa luồn lách né tránh những cái mỏ nhọn của bầy diều hâu vừa tấn công vào những kẽ hở của đối phương từ nhiều hướng. Vừa xông trận, bầy chim chưa mổ trúng địch thủ được cái nào đã thi nhau rơi xuống lộp độp.

Yan Dran thu những con chim về và lầm rầm niệm chú, lần này từ mũi gươm bay vọt ra một con rồng lấp lánh vảy bạc. Rồng là vua của các loại rắn, chưa thèm nhe nanh múa vuốt, chỉ quẫy mình một cái, ba con quái xà đã hấp tấp bay lộn trở về.

Bọn Hắc tinh tinh ré lên, giận dữ:

-Masari! Bọn ngươi chỉ biết trơ mắt ra dòm sao?

Masari khẽ mỉm cười, nhìn Pila và Karăm, hất đầu một cái.

Những chiếc gậy sừng hươu lập tức phun ra ba luồng ánh sáng chói lòa, chia nhau bắn thốc vào đầu, mình và đuôi rồng.

Thấy Bạch kỳ lân đã ra tay, Hắc tinh tinh cũng phất tay áo chùng, làm bay ra một làn khói đen thui và khẳm lặm, tanh tưởi như mùi tử thi, càng lúc càng tỏa rộng, nhanh chóng bao phủ cả một vùng.

Bọn trẻ lính quýnh bước lui cả chục bước để tránh xa cái mùi tử khí đó, mắt vẫn dán chặt vào trận đánh trước mặt, tim thắt lại khi thấy lão Imđi không chịu nổi làn khói đen, ngã đánh huỵch một cái, nằm thẳng cẳng, khúc xương trên tay văng tuốt ra xa.

Con rồng bạc thấy nguy, hả họng phun ra những quả cầu lửa. Những quả cầu va vào những luồng sáng của Bạch kỳ lân, phát ra những tiếng ùng oàng như tiếng đại bác khiến bọn trẻ phải đưa tay bịt chặt hai tai, chân bất giác thối lui liên tiếp.

Lúc này, trời đã hoàng hôn, con rồng bạc quẫy lộn giữa màn khói đen xen lẫn những luồng chớp sáng khiến dãy ráng đỏ phía xa xa rực lên dữ dội, trông như chân trời đang bốc cháy.

Nguyên lo âu thấy con rồng bạc của Yan Dran dường như đuối sức dần, những cú nhào lộn đã chậm chạp hẳn, có lẽ do hít phải làn khói độc của Hắc tinh tinh.

-Thế nào, Yan Dran? - Tiếng một phù thủy Hắc tinh tinh vọng ra từ sau bức màn khói - Đến nước này mà ngươi vẫn bướng bỉnh hay sao?

-Bướng bỉnh là hay chứ sao! - Một giọng nói sang sảng vang lên - Yan Dran, ngươi cứ bướng xem bọn chúng làm gì được ngươi!

Cùng với tiếng nói, một tiếng “bộp” vang lên, nghe như tiếng một quả táo vừa rụng xuống đất.

Bọn trẻ chưa hiểu ra chuyện gì, đột nhiên một làn sương trắng từ dưới đất từ từ dâng lên.

-Tứ bất tử! - Suku khẽ kêu.

Bây giờ thì làn khói đen của Hắc tinh tinh đã bị đẩy lên cao, mỗi lúc một nhạt dần và mọi người sửng sốt nhìn thấy trước mặt Yan Dran một con cóc đỏ to lớn đang ngửa đầu lên trời phun sương một cách say sưa.

-Hay lắm! - Karăm hào hứng - Bọn ta từng nghe nhắc tới Tứ bất tử nhưng chưa có dịp so tài.

-Chẳng có gì là hay hết, Karăm! - Phù thủy Hắc tinh tinh đứng bên trái hừ mũi - Mới có con cóc xuất trận thôi mà đã rắc rối rồi. Hắn đưa thêm ba con vật chết tiệt kia ra là bọn ta mệt đấy.

Bạch kỳ lân không đếm xỉa gì đến Hắc tinh tinh. Ba chàng trai huơ cây gậy sừng hươu một cái, ba luồng sáng tắt phụt.

-Tím hoa cà!

Masari khẽ hô, lập tức những chùm tia sáng tím lóng lánh từ các đầu gậy bắn ra, rực rỡ như pháo bông, trong nháy mắt đã chụp xuống người Yan Dran.

Bọn trẻ điếng hồn nhớ đến lần các chàng trai Bạch kỳ lân đánh nhau với sát thủ Baltalon ở thung lũng phía sau lâu đài K’Rahlan. Lần đó, khi những luồng sáng tím gặp phải sự phản kích của đối phương, đã phát ra một tiếng nổ kinh hồn, đẩy tụi nó ngã rạp và lăn lông lốc như trong một trận bão.

Bây giờ thấy đám mây màu tím của Bạch kỳ lân sắp sửa sa xuống chỗ Yan Dran đứng, tụi nó hoảng hốt ngồi thụp xuống, hai tay ôm lấy đầu. Thằng oắt Yan Jik và con khỉ Chacha ngơ ngác nhìn quanh, thấy đứa nào cũng làm như vậy, liền bắt chước làm theo. Nguyên ôm chặt Kăply vào lòng, loay hoay chọn tư thế sao cho hai tay che kín được khuôn mặt Kăply, tâm trí chỉ nghĩ đến chuyện làm sao cho bạn khỏi trầy xước nếu chẳng may cả hai cùng lăn đi.

Nhưng trái với sự chờ đợi của bọn trẻ, đám mây tím chạm phải làn sương trắng của con cóc đỏ lại không phát ra một tiếng nổ nào, thậm chí không vang lên một âm thanh nhỏ. Như hai mớ bông gòn chạm vào nhau, cả hai nhẹ nhàng đỡ lấy nhau và xô đẩy nhau một cách êm ái.

Một lát sau, con cóc đỏ có vẻ bị thất thế: Làn sương trắng tuôn ra từ miệng nó bị đám mây màu tím ép xuống, càng lúc càng thấp, Nguyên lo lắng thấy bụng nó phồng lên xẹp xuống một cách gấp gáp.

Đúng vào lúc làn sương sắp chạm mặt cỏ, con bọ ngựa vàng, con nhện xanh và con dế trắng đồng loạt nhảy ra, hăng hái giúp sức cho con cóc đỏ. Ngay tức khắc, làn sương tỏa rộng, trở nên dày dặc, và những luồng sáng tím nhanh chóng bị đẩy bắn lên cao.

Hắc tinh tinh thấy không xong, liền giũ tay áo chùng, những luồng khói độc một lần nữa bay ra, lần này hợp với đám mây màu tím của Bạch kỳ lân chống chọi kịch liệt với bốn con vật của Tứ bất tử.

Thế trận bỗng chốc trở nên giằng co, những màn khói sương cứ thay nhau trồi lên hụp xuống, mặc dù không đẹp mắt bằng cuộc đụng độ giữa Tứ bất tử với bàn tay máu của Balibia hôm trước nhưng vẫn khiến bọn trẻ hồi hộp và say mê theo dõi.

-Ba giúp ngài tổng quản một tay đi ba! - Yan Jik sốt ruột kêu lớn.

Yan Dran giật mình ngoái lại, thấy cả đống nhóc tì đang đứng sau hè dòm ra, nhưng ông không đủ thì giờ xem bọn nhóc là ai, chỉ nhận ra thằng Yan Jik đang nhảy tưng tưng, tay huơ qua huơ lại cây cọ vẽ một cách nóng nảy.

-Được rồi, con.

Ông mỉm cười, và quay mặt vô đấu trường, cao giọng:

-Ta phụ với lão, Tứ bất tử!

Vừa nói ông vừa ngoắt thanh gươm một cái, lôi ra từ đâu đó trong không trung một con chim vàng với sải cánh to như một cánh cửa. Con chim vừa xuất hiện đã bay bổng lên cao, vươn đôi cánh dài vỗ phành phạch. Những luồng khói đen từ trong tay áo Hắc tinh tinh tuôn ra bị con chim vàng quạt bay tứ tán.

Nhưng con chim hiện ra từ thanh gươm phép thuật của Yan Dran không làm mọi người kinh ngạc bằng con chim thứ hai bay ra từ cái xác của Kăply. Đây cũng là một con chim vàng, nó bất ngờ vọt lên từ cái xác cứng đờ của Kăply, trong tích tắc đã tới chỗ con chim kia; cả hai con cùng ríu rít kêu lên như chào hỏi rồi thi nhau quạt cánh như một cặp vũ công đang trình diễn màn múa đôi, nhịp nhàng và đẹp mắt không thể tả.

Trong khi Nguyên và tụi bạn há hốc miệng ra trước hiện tượng lạ lùng này thì cuộc chiến trước mặt đã phân thắng bại. Khói độc của Hắc tinh tinh bị hai con chim vàng quạt một hồi đã không còn thấy tăm hơi đâu nữa, đám mây màu tím của Bạch kỳ lân một mình không chống nổi bốn con vật của tổng quản lâu đài Sêrôpôk, càng lúc càng loãng dần.

-Ha ha ha. - Tiếng cười nhạo báng của Tứ bất tử vang lên từ một chỗ bí mật nào đó - Tam phù thủy tài nghệ thiệt ra chỉ có thế...

Đang nói, tổng quản lâu đài Sêrôpôk bỗng nhiên im bặt, như bị ai thình lình giật mất tiếng nói ra khỏi miệng.

Trước mặt mọi người, Tam phù thủy Hắc tinh tinh bỗng nhiên biến mất. Bên kia bờ suối chỉ còn ba chiếc áo đỏ của Bạch kỳ lân.

-Yan Jik, coi chừng! - Chợt hiểu ra, Yan Dran ré lên, lật đật quay phắt ra sau.

Nhưng đã muộn: Hắc tinh tinh đột ngột trồi lên từ dưới đất, sát bên Yan Jik. Chưa ai kịp phản ứng, kể cả bọn Nguyên đứng ngay đó, ba con quái xà trong tay Hắc tinh tinh đã phóng ra, quấn chặt lấy Yan Jik.

Xách bổng thằng oắt như xách một đòn bánh, bọn Hắc tinh tinh khua chân một cái, đã lùi xa cách đó một quãng.

-Ngươi thua rồi, Yan Dran. - Phù thủy Hắc tinh tinh đứng giữa cười khục khục, vẻ đắc ý.

Yan Dran vẫy thanh gươm, thu con chim vàng lại. Ông mất thêm một lúc nữa để nhìn con chim vàng lạ lùng kia chui vào người Kăply mới từ từ quay lại phía Hắc tinh tinh, giọng mỉa mai:

-Bây giờ ta mới biết Tam phù thủy là thứ đầu trộm đuôi cướp.

Phù thủy đứng bên trái khọt khẹt như bị nghẹt mũi:

-Ngươi đừng quên bọn ta sống bằng nghề đánh thuê.

Phù thủy bên phải tiếp lời:

-Với bọn ta, mục đích là trên hết.

-Im đi! - Lão quản gia của Yan Dran lóp ngóp bò dậy sau một hồi nằm xụi lơ, sờ soạng mò tìm cây gậy trắng và câu đầu tiên thốt ra khỏi miệng là tiếng quát quen thuộc.

Lão nhướn mày làm khuôn mặt thêm dài ngoằng:

-Hổng lẽ Tam phù thủy là bọn người bất chấp những thủ đoạn bẩn thỉu?

-Lão đừng có vơ đũa cả nắm, lão Imđi! - Tiếng Masari vang lên từ bờ suối đối diện - Đó là chủ trương của Hắc tinh tinh. Bọn ta không bao giờ làm những trò như vậy.

-Anh nói hay lắm, anh Masari. - Păng Ting bước tới một bước, cao giọng - Vậy anh bảo Hắc tinh tinh thả Yan Jik ra đi!

Bây giờ các chàng trai Bạch kỳ lân mới trông thấy bọn Păng Ting. Cả ba trố mắt lên và Masari mỉm cười nói, nghe giọng điệu thì dường như anh biết trước bọn trẻ sớm muộn gì cũng tới chỗ này:

-Các em đấy à?

Păng Ting gật đầu và lặp lại yêu cầu:

-Các anh cứu Yan Jik ra đi.

-Cái này thì không được, Păng Ting. - Masari cười khổ.

-Nhất định các anh phải cứu Yan Jik. - Păng Ting mím môi - Các anh ra giá đi. Tụi em sẽ trả tiền sòng phẳng, thậm chí trả gấp đôi.

-Păng Ting, em đừng làm khó tụi anh chớ. - Pila nhăn nhó, tay vò vò tấm khăn choàng lông thú trắng tinh trên cổ, vẻ khó xử.

-Masari và Pila nói đúng đấy. - Karăm thở hắt ra - Bọn anh không thể đáp ứng yêu cầu của em được, mặc dù bữa nay anh thiệt là khoái khi thấy em không buồn kỳ kèo giá cả như mọi lần. Hổng lẽ hồi trưa em ăn trúng thứ chi hả Păng Ting?

Suku khẽ giọng:

-Vô ích thôi, chị Păng Ting. Một là, Bạch kỳ lân và Hắc tinh tinh không bao giờ đối đầu với nhau. Hai là Tam phù thủy không thể nhận tiền của người thứ hai để làm ngược lại yêu cầu của người thứ nhất.

-Nhóc ngươi nói đúng đấy, Suku. - Phù thủy Hắc tinh tinh đứng giữa cười khùng khục, Suku nói nhỏ xíu nhưng hắn vẫn nghe được - Còn con nhỏ Păng Ting kia, ngươi qua lại với bọn ta không ít mà không hiểu rõ quy tắc của bọn ta sao?

Păng Ting nhìn thằng Yan Jik đang giãy giụa một cách tuyệt vọng trong tay Hắc tinh tinh, ngực xẹp xuống:

-Làm sao giờ, anh K’Brăk?

Nguyên chưa kịp đáp, Yan Dran đã nhận ra nó:

-Con đó hả, K’Brăk? Con biến đi đâu mấy tháng nay vậy?

-Con bị ốm, thưa thầy.

-Con ôm người nào trong tay vậy?

-Dạ, em họ con.

Phù thủy Hắc tinh tinh bên trái lộ vẻ nóng nảy, hắn sờ tay lên cái mũi lệch, cất giọng lạnh lẽo:

-Cất câu chuyện của thầy trò ngươi vào đi. Yan Dran, bây giờ ta hỏi lại lần chót. Ngươi có chịu nói ra bí mật của ngươi hay không?

Yan Dran nghiến răng:

-Nếu ta không nói thì sao?

Hắc tinh tinh mỗi người cầm một cái đuôi rắn, đong đưa thằng Yan Jik trong không trung như đưa võng làm thằng oắt kêu thét lên.

-Ngươi cũng thấy rồi đó. - Phù thủy bên phải khụt khịt mũi, giọng đe dọa - Nếu ngươi tự hào rằng ngươi là người cha độc ác nhất thiên hạ thì ngươi cứ để thằng bé này chết trong tay bọn ta.

Nguyên sè sẹ đặt Kăply xuống đất, quay nhìn tụi bạn:

-Yan Dran không dám ra tay, nhưng tụi mình có thể liều mạng với Tam phù thủy. Chỉ cần Yan Jik thoát khỏi sự kềm chế của Hắc tinh tinh trong lúc lộn xộn, Tứ bất tử nhất định sẽ can thiệp.

Hắc tinh tinh hoàn toàn bất ngờ khi thấy bọn trẻ chia ra bao vây bọn chúng vào giữa. Chúng liếc nhau như hội ý rồi quay nhìn đối phương, đôi mắt bắt đầu phát ra thứ ánh sáng lập lòe như ma trơi.

-Tụi con lui ra đi. - Yan Dran quát lớn - Tụi con không phải là đối thủ của bọn chúng đâu.

Lúc này Nguyên bị kích động đến nỗi không buồn để ý đến lời cảnh cáo của Yan Dran, vẫn chằm chằm dán mắt vào mặt Hắc tinh tinh, tay từ từ giơ ra phía trước, đầu cố nhớ lại những câu thần chú chiến đấu đã học.

-Đã đến nước này thì bọn anh cũng đành phải vào cuộc thôi!

Tiếng Masari vang lên và gần như cùng lúc, ba chiếc áo đỏ như ba con chim lửa từ bờ suối bên kia bay vọt sang và đáp xuống bên cạnh Hắc tinh tinh.

-Xin lỗi tụi em nhé. - Pila nói, tay chĩa chiếc gậy sừng hươu về phía bọn trẻ.

-K’Brăk, con cãi lời ta sao? - Yan Dran lo lắng và giận dữ rít lên - Làm sao mà tụi con...

Hai vệt sáng một xanh một trắng từ xa lao tới như hai tia chớp cắt ngang câu nói của Yan Dran. Chưa ai kịp nhìn thấy đó là thứ gì, thì hai vệt sáng đã phóng thẳng vào người Hắc tinh tinh, nhanh không tưởng.

Tam phù thủy Hắc tinh tinh tái mặt, vừa kịp né qua một bên đã nghe vang lên những tiếng “phựt, phựt”.

Trước ánh mắt sửng sốt của mọi người, ba con hắc xà trên tay Hắc tinh tinh rũ xuống như ba sợi dây bị đứt, nhùng nhằng một lát rồi rớt bộp xuống đất, nằm cứng đờ.

-A!

Bọn Hắc tinh tinh la lên, hấp tấp vươn tay ra định tóm thằng Yan Jik vừa thoát khỏi ba sợi dây trói thì hai tiếng huýt sáo một bổng một trầm đã vang lên từ xa.

Như nhận được hiệu lệnh, hai vệt sáng nhanh nhẹn chia ra hai bên, cuốn lấy tay phải và tay trái của Yan Jik, rồi “véo” một tiếng, mang thằng oắt bay đi, nhanh đến mức khi Yan Jik đã mất hút rồi, ba cánh tay khẳng khiu của Tam phù thủy Hắc tinh tinh vẫn còn lơ lửng giữa khoảng không như ba nhánh cây khô.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2014 00:57:30 | Xem tất
Chương 19. Họa sĩ Yan Dran


Nguyên quay sang Suku, bắt gặp thằng này cũng đang đưa mắt nhìn mình. Bốn con mắt nhìn nhau trừng trừng, sửng sốt và ngờ vực, rồi như không nén được hai cái miệng cùng bật kêu lên:

-Thanh xà bạch xà!

Masari giật mình một cái rồi khẽ cúi đầu lẩm bẩm:

-Đúng rồi! Là thanh xà bạch xà!

-Ha ha ha! - Từ đâu đó, tiếng cười của tổng quản lâu đài Sêrôpôk chợt vang lên, đầy châm biếm - Hắc tinh tinh, thành thật chia buồn với bọn ngươi nha! Luyện lại ba con rắn khác chắc không dễ chút nào chứ hả?

Hắc tinh tinh ủ rũ nhìn ba xác rắn cứng quèo, vẻ mặt đau khổ và mất mát. Phải mất một lúc lâu, cả ba mới nhấc mắt lên khỏi những con rắn thân yêu, ngoảnh đầu nhìn ra xa, giận dữ gào lên:

-Pôcô, Pôca! Đồ mất dạy! Tụi bay ra đây!

Hắc tinh tinh gào to đến mức ba chiếc mũi lệch rung rinh như sắp rớt.

Nhưng mặc cho bọn chúng gào thét, Pôcô và Pôca vẫn im ru. Hắc tinh tinh vẫn nhìn chằm chằm về phía mà bọn chúng tin là cặp ma song sinh đang ở đó, răng nghiến ken két, cơn phẫn nộ làm những chiếc áo chùng đen phồng lên như sắp phát nổ.

-Thôi, chúng ta về đi. - Masari chống cây gậy sừng hươu xuống cỏ, thở dài nói.

-Về? - Phù thủy Hắc tinh tinh đứng bên trái quay phắt sang Masari, mắt lóe lên rờn rợn - Ngươi điên rồi hả, Masari? Ta chưa từng biết có lần nào Tam phù thủy rút lui khi chưa hoàn thành nhiệm vụ.

-Thiệt vậy sao? - K’Tub nói, giọng châm chọc - Vậy mà tôi tưởng lúc ở lâu đài K’Rahlan mấy ông đã chạy vắt giò lên cổ khi nhìn thấy cấm lệnh của Balibia chớ?

Gương mặt trơ như gỗ của Hắc tinh tinh đột nhiên rung động. Cả sáu ánh mắt rọi thẳng vào mặt K’Tub như muốn dùng tia nhìn giết chết thằng oắt cho rồi.

-Ngươi tưởng bọn ta sợ Balibia ư? - Phù thủy đứng giữa cười khảy - Hừm, nếu ngươi là thằng nhóc có đầu óc thì ngươi phải biết là bọn ta không muốn đối địch với tả hộ pháp của phe Hắc Ám.

-Thằng cha Balibia đó cũng chẳng ra gì. - Phù thủy đứng bên phải nhún vai, cất giọng rin rít - Nếu bọn nhóc lâu đài K’Rahlan còn sống sờ sờ ra đây thì chắc là gã Mustafa cũng đang nhởn nhơ ở đâu đó. Hừm!

Pila mân mê chuỗi cườm trên cổ, chép miệng:

-Nếu bọn ngươi không về thì bọn ta đi trước à.

-Pila! - Phù thủy đứng giữa hét lên điên tiết - Bọn ngươi làm ăn cái kiểu gì lạ vậy hả? Nếu vậy thì đừng nhận tiền của người ta...

-Ngươi đúng là ngu như heo. - Pila cáu kỉnh quát lại - Chúng ta nhận tiền là để đối phó với người sống chứ đâu phải để đối phó với người chết. Làm sao chúng ta giết được hai thằng nhóc Pôcô, Pôca khi mà tụi nó đã chết ngắc từ đời kiếp nào rồi. Hừm, ngay cả chạm vào chúng cũng không được nữa là.

Lý lẽ của Pila làm Hắc tinh tinh cứng họng. Phù thủy đứng giữa sững sờ một thoáng rồi ngửa mặt lên trời, cười ghê rợn:

-Thiệt tức chết đi được! Ta sẽ kiện vụ này lên Hội đồng Lang Biang, yêu cầu họ cách chức ngay tên thối tha nào cai quản hồ Ma. Làm sao mà để cho hai con ma nhóc sẩy ra ngoài đi quậy lung tung như vậy được chớ!

Hắn giận quá, thân hình cao lêu nghêu run bần bật, ngực áo phồng lên xẹp xuống như đang lận trong người một cái ống bơm.

-Về thì về! Cuối cùng, hắn rên lên, bất lực và phẫn nộ. Và gần như ngay lập tức, cả ba biến mất.

Masari quay sang bọn trẻ, vẫy cây gậy sặc sỡ thay cho lời chào:

-Bọn anh đi trước nhé. Hẹn gặp lại.

-Im đi! - Lão quản gia vừa quát vừa vung khúc xương trắng về phía các chàng trai Bạch kỳ lân - Tốt nhất là bọn ngươi đừng bao giờ để cho ta thấy mặt nữa!

Lão Imđi chỉ nói để xả cơn giận, chứ lão cũng thừa biết lời nói của lão rơi tõm vào khoảng không: Ai cũng thấy Tam phù thủy Bạch kỳ lân đã không còn ở đó nữa.

***


Căn nhà của họa sĩ Yan Dran tranh vẽ treo la liệt, ngợp cả mắt. Các vách kín tranh, bức này chồng lên bức kia, có nhiều bức thõng xuống từ trên nóc nhà. Có thể thấy Yan Dran không vẽ gì khác ngoài những con vật. Bọn Nguyên nhìn quanh, có cảm giác tụi nó đang lạc vào trong một vườn thú, rờn rợn vì đó là những con thú sổng khỏi thiên nhiên; trong tranh của Yan Dran không có một cái cây nào.

Trong khi Nguyên tò mò ngắm một con rùa đang bơi một cách sống động trong bức tranh ở sát cùi tay nó, Yan Dran đã cất giọng trầm trầm:

-Tụi con đã làm ta vô cùng cảm động. Chà, - ông đưa tay quẹt mũi để chặn lại một tiếng khịt - không phải ai ở xứ Lang Biang này cũng dám công khai đối địch với Tam phù thủy đâu.

Ông cúi xuống Nguyên, ân cần hỏi:

-Con ốm như thế nào hả K’Brăk?

-Thưa thầy... - Nguyên ngập ngừng - theo như người ta nói, con và K’Brêt bị trúng lời nguyền Tan xác của Buriăk. Bây giờ ký ức của tụi con đã mất sạch.

Yan Dran cúi xuống thấp hơn nữa, chóp mũi của ông suýt quét vào chỏm tóc của đứa học trò:

-Thế những gì ta đã dạy cho con?

-Con cũng đã... quên hết, thưa thầy. - Nguyên đáp bằng giọng biết lỗi.

Yan Dran xộc tay vào mái tóc rối bù và đứng thẳng người lên.

-Không sao. - Ông thở đánh thượt - Từ từ rồi ta sẽ dạy lại cho con.

Ông đưa mắt nhìn một lượt những đứa trẻ trước mặt:

-Hôm nay tụi con đi đến núi Lưng Chừng phải không?

-Dạ, - Nguyên ngạc nhiên - thầy biết rồi hả thầy?

-Ta đã được giáo chủ Ama Êban thông báo. - Giọng ông chuyển qua nghiêm trang - Ta biết con và K’Brêt đã được chọn là chiến binh giữ đền đời thứ ba. Chủ trương của giáo phái Madagui từ xưa đến nay là luôn luôn ủng hộ các chiến binh giữ đền. Hơn nữa, đưa các chiến binh giữ đền đến núi Lưng Chừng là nhiệm vụ mà Hội đồng tối cao xứ Lang Biang đã giao cho ta.

-Ông biết núi Lưng Chừng ở đâu sao? - K’Tub vọt miệng hỏi.

-Ta ư? - Yan Dran đột nhiên trở nên mơ màng, ông nói mà không nhìn K’Tub - Thú thiệt là chính ta cũng không biết núi Lưng Chừng ở đâu.

Câu trả lời của nhà họa sĩ khiến bọn trẻ ngơ ngác nhìn nhau.

-Thế... thế... - Tam ấp úng - thế làm sao...

-Thế làm sao ông có thể đưa K’Brăk và K’Brêt đến đó được? - Bolobala sốt ruột nói tiếp câu nói dang dở của Tam.

Yan Dran như bừng tỉnh. Ông quét mắt qua những gương mặt đang nghệt ra nhìn ông rồi chỉ tay vô tấm tranh bên vách trái căn nhà:

-Tụi con nhìn bức tranh này nè.

Nguyên kinh ngạc khi nhận ra bức tranh này giống hệt bức tranh vẽ ngựa của thằng K’Brăk nó từng nhìn thấy ở đồi Phù Thủy. Chỉ khác là trong bức tranh này có tới hai con ngựa bạch. Hai con ngựa đang phi, bờm tung bay phất phới, vó cất cao, đặc biệt mỗi vó có một cặp cánh nhỏ ở hai bên.

Mua liếm môi, hồi hộp hỏi:

-Hổng lẽ đây là những con ngựa biết bay?

-Đúng thế. - Yan Dran gật đầu - Chính chúng sẽ đưa K’Brăk và K’Brêt đến núi Lưng Chừng. Ta không biết hòn núi này ở đâu nhưng chúng thì biết rõ.

Kan Tô gãi gáy:

-Nhưng đây chỉ là tranh vẽ...

Yan Dran lừ mắt nhìn Kan Tô, cắt ngang:

-Chà, thằng nhóc này. Hổng lẽ con không biết Yan Dran là ai? Hổng lẽ con thiệt tình không biết trùm Bastu tìm hết cách này đến cách khác đe dọa ta để mong ta tiết lộ bí quyết gì sao?

Yan Dran cầm bức tranh ngựa xoay ra ngoài cửa, khẽ phất tay áo một cái. Trước sự sửng sốt của bọn trẻ, từ trong bức tranh, hai con ngựa phi ra, phóng ào qua cửa, đánh một vòng quanh bãi cỏ rộng, ngửa mặt lên trời hí vang, rồi bất thần tung vó bay vọt lên không.

Chúng bay càng lúc càng cao, những chiếc cánh nhỏ ở bốn vó vẫy nhịp nhàng trong ánh hoàng hôn, trông giống như những cánh bồ câu đang bay theo vó ngựa.

Yan Dran thả tay ra, bức tranh lập bập quay về vị trí cũ và bọn trẻ tròn mắt thấy đó chỉ là một tấm vải trống trơn.

Nguyên chợt buột miệng “à” lên một tiếng, nhớ ngay đến những bức tranh quái dị của thằng K’Brăk. Hôm đó, K’Brăk vẽ tất cả là ba bức. Một bức vẽ ngựa, một bức vẽ rồng, bức cuối cùng vẽ thầy nó - họa sĩ Yan Dran. Nhưng do trình độ của K’Brăk có hạn, những sinh vật trong tranh không thoát hẳn ra ngoài được. Con ngựa bạch ló ra được cái đầu, con rồng chỉ quẫy được nửa khúc trên, còn họa sĩ Yan Dran thì thò ra được mỗi cánh tay cầm gươm. “Thầy tao khen tao vẽ đẹp, nhưng ổng bảo tao phải học thêm ít nhất là hai trăm năm nữa họa may mới được phân nửa trình độ của ổng”. K’Brăk nói câu này lúc ngồi vẽ trên sườn đồi Phù Thủy, Nguyên từ từ nhớ lại. Lúc Nguyên và Kăply sợ xanh mặt khi thấy con ngựa bạch thò đầu ra khỏi bức tranh, K’Brăk lại trấn an: “Tụi mày yên chí đi. Trình độ của tao chưa thể khiến các hình vẽ thoát hẳn ra ngoài”. Lúc đó, Nguyên chưa hiểu hết những gì thằng K’Brăk nói.

Bây giờ thì Nguyên đã hiểu. Và nó ngước nhìn họa sĩ Yan Dran, vờ cất giọng buồn bã:

-Thầy ơi, chắc con phải học thêm hai trăm năm nữa may ra mới được phân nửa trình độ của thầy.

-Cái đó là ta nói cho vui thôi. - Họa sĩ Yan Dran mỉm cười - Nếu con cố gắng, ta nghĩ chừng vài năm nữa con cũng có thể làm được như ta.

Ông đưa mắt nhìn Kăply đang nằm trên chiếc ghế dài kê sát vách, tặc lưỡi:

-Ta cũng biết K’Brêt bị trúng độc của sứ giả Basil. Nhưng nếu thằng bé chưa chết thì nó vẫn phải có bổn phận đến núi Lưng Chừng.

-Thế còn tụi con, thưa ông? - K’Tub thấp thỏm hỏi, cái cảm giác sắp sửa bị bỏ rơi khiến bụng nó lạnh ngắt - Tụi con cũng cùng đi với anh K’Brăk và anh K’Brêt chứ?

Một tràng tiếng hí vút lên ngay trước nhà cắt ngang câu chuyện. Mọi người quay ra đúng lúc hai con ngựa phi qua cửa. Bọn trẻ hoảng hốt thót bụng lại và vội vàng nhắm tịt mắt, sau này nghĩ lại tụi nó mới thấy đó là chuyện đại ngu vì khi nhắm mắt dĩ nhiên tụi nó hổng thấy được hai con ngựa đã chui vào lại trong bức tranh như thế nào.

K’Tub ngắm hai con ngựa lúc này đã yên vị trong tranh, vẫn với tư thế cũ không sai một mảy, rồi ngước nhìn Yan Dran, thắc mắc khi nãy vẫn đang lấp đầy miệng nó:

-Thế nào hở ông? Tụi con sẽ đi đến núi Lưng Chừng chứ?

-Không được đâu, con trai. - Họa sĩ Yan Dran gõ gõ thanh gươm vào lòng bàn tay, lắc đầu nói - Tất cả tụi con phải ở nhà. Chỉ có chiến binh giữ đền mới được phép đi đến đó thôi.

-Con cũng không được đi hả ba? - Thằng Yan Jik ré lên bất bình, nãy giờ nó vẫn ngồi thu lu đằng góc nhà với lão Imđi.

-Im đi, Yan Jik! - Lão quản gia bắn tia nhìn răn đe vào mặt thằng oắt, nạt - Trước tiên con phải tự hỏi xem con có phải là chiến binh giữ đền không đã!

-Lão im đi thì có! - Thằng Yan Jik đổ quạu - Tôi có hỏi lão đâu!

Lão Imđi bật lên khỏi ghế như cái cập kênh thình lình bị chổng một đầu.

-Mày nói gì, nhóc? - Lão sùi bọt mép, giận đến mức nửa mặt bên trái đỏ ửng còn nửa mặt bên kia vàng khè - Hổng lẽ mày không hỏi thì tao không được răn dạy mày sao?

Tính nết thằng Yan Jik hóa ra giống hệt K’Tub. Nó cũng đứng phắt dậy, gần như ngay lập tức, mắt lóe lên thứ ánh sáng điên tiết và chĩa thẳng cây cọ vẽ vào người lão quản gia, mặt khùng khùng:

-Lão muốn chơi tay đôi với tôi hả?

Trong khi lão Imđi tái mặt, mắt nhìn chòng chọc cây cọ trên tay thằng oắt, hai tay lật đật giữ chặt lưng quần thì họa sĩ Yan Dran đập thanh gươm đánh chát vào cây cột tròn giữa nhà, xẳng giọng:

-Yan Jik, con có thôi cái trò thô bỉ đó đi không!

Mặt ông phừng phừng:

-Con đi kiếm hai anh em Pôcô, Pôca về đây ta bảo. Ta giữ hai đứa nó ở lại đây cho con có bạn chớ đâu phải để chúng bày trò bá láp cho con hả.

Yan Jik không dám cãi lại ba nó, mặc dù có thể thấy nó là thằng nhóc cực kỳ bướng bỉnh. Nó đùng đùng đi ra cửa, mặt hầm hầm như sắp sửa giết người. Đi ngang qua chỗ Nguyên ngồi, nó tung chân đá đánh “binh” một cái vào bức tranh con rùa, sém tí nữa bức tranh đã rách toạc.

Nhưng Yan Jik vừa thò chân ra khỏi cửa, mọi người ngạc nhiên thấy nó hấp tấp rụt trở vô. Chưa ai kịp hỏi, những cái miệng đã há hốc khi thấy đằng sau Yan Jik là một chòm râu dê đang chĩa vô người nó, trông đe dọa như mũi súng sẵn sàng nhả đạn.

-Hé hé hé.

Thám tử Eakar chưa bước vô cửa đã cất tiếng cười quen thuộc.

-Ủa, bọn nhóc ngươi làm gì mà dồn cục ở nhà lão Yan Dran thế? - Nhà thám tử trố mắt nhìn bọn trẻ, cây gậy phép suýt tuột khỏi tay vì bất ngờ.

Như hình ảnh Nguyên vẫn thấy, sau lưng Eakar là ba phù thủy đeo huy hiệu Cục an ninh. Một phù thủy tiến lên nói:

-K’Brăk và K’Brêt nhà K’Rahlan chuẩn bị đến núi Lưng Chừng, thưa ngài.

-À, ta nhớ rồi. - Thám tử Eakar vung vẩy cây gậy phép - Nhưng dù như vậy, ta cũng không thể không hỏi tội lão Yan Dran.

Eakar quét mắt một vòng qua các bức tranh, không giấu vẻ soi mói, cuối cùng ánh mắt dò xét của ông dừng lại trên khuôn mặt của chủ nhà, nhếch mép hỏi:

-Ông biết tôi chớ, ông Yan Dran?

Họa sĩ Yan Dran vẫn nín thinh kể từ khi bọn người lạ bước vào nhà. Nghe nhà thám tử hỏi, ông khẽ động đậy thanh gươm trên tay:

-Ở xứ Lang Biang đại danh của ngài như sấm rền, thưa ngài Eakar.

Thám tử Eakar không biết Yan Dran đang nhạo báng mình. Ông toét miệng cười, mặt nở ra:

-Hân hạnh, thiệt là hân hạnh.

Đang vui vẻ, mặt ông chợt cau lại, nụ cười thoắt biến mất:

-Vậy thì chắc ông cũng biết tôi đến đây dĩ nhiên là chẳng đem lại điều gì tốt lành cho ông.

Yan Dran nhún vai:

-Tôi cũng nghĩ thế. Nhiều người nói, cũng như bệnh dịch, ông không có thói quen đem lại niềm vui cho người khác.

Lần này thì Eakar biết là nhà họa sĩ đang bỡn cợt mình. Chòm râu dưới cằm ông quặp lại như thủ thế.

-Ông cứ vung vít cho sướng miệng đi, ông Yan Dran. - Eakar gằn giọng, mặt đỏ lên - Ông cứ nói cho đã, rồi bình tĩnh trả lời những câu hỏi của tôi đây.

-Ông cứ hỏi. - Yan Dran nheo mắt, giọng khiêu khích - Tôi tưởng tôi có thể trả lời những câu hỏi của ông mà không cần phải bình tĩnh lắm.

-Được rồi. - Thám tử Eakar nhìn trừng trừng vào mặt nhà họa sĩ - Nếu thế thì tôi cũng không khách sáo. Ông bắt đầu trả lời đi. Ông có biết Hiệp ước Krông Pach cấm tu luyện và sử dụng các loại thần chú giết người hàng loạt không?

-Dĩ nhiên là tôi biết. - Yan Dran dè dặt đáp, cảm thấy thám tử Eakar đang cố tình giăng một cái bẫy để ông chui vào.

Thám tử Eakar hỏi tiếp, vẫn không rời mắt khỏi Yan Dran:

-Thế ông có biết Hiệp ước Krông Pach cũng cấm các phù thủy thực hiện việc biến đổi gien để tạo ra các quái vật không?

-Cái này tôi cũng biết.

-Tốt lắm. - Thám tử Eakar vung cây gậy phép chĩa ngay người Yan Dran - Vậy tôi được phép tuyên bố ông đã phạm vào điều cấm kỵ này.

Trước vẻ mặt hoang mang của mọi người, Eakar khoa cây gậy thành một vòng tròn rồi lại chĩa vào Yan Dran lần nữa, giọng chắc nụi:

-Lời tuyên bố thứ hai trong ngày hôm nay của tôi: Ông đã bị bắt.

Yan Dran vẫn tỉnh bơ trên chỗ ngồi, và nói:

-Ông không thể bảo những con ngựa có cánh của tôi là quái vật, ông Eakar. Thứ nhất, chúng không phải là những con vật được tạo ra để chiến đấu. Chúng không có chức năng đó, vì vậy chúng không làm hại ai. Thứ hai, chúng cũng không phục vụ cho những âm mưu đen tối. Chúng là linh vật, có khả năng siêu nhiên là xác định được núi Lưng Chừng đang tọa lạc ở đâu. Và điều quan trọng nhất, nhờ khả năng này những con ngựa bay của tôi đã có giấy phép sử dụng do Hội đồng Lang Biang cấp, hổng lẽ ông không biết điều này?

-Tôi biết.

Họa sĩ Yan Dran kiêu hãnh dội thêm một tràng:

-Vậy thì ông cũng nên chuẩn bị biết thêm một chuyện nữa: Nếu sáng mai những con ngựa bay của tôi đưa được K’Brăk và K’Brêt đến núi Lưng Chừng thì không chừng chúng sẽ được Hội đồng Lang Biang gắn huy chương đấy.

-Về điều này, tôi tin là ông không khoác lác. - Thám tử Eakar bình tĩnh nói. Đột nhiên, ông đập cây gậy vô cột nhà một cái “bộp”, cao giọng - Nhưng ông vờ vịt như thế là đủ rồi, ông Yan Dran. Ông thừa biết là tôi đâu có ngu đến mức chọc mũi vào mấy con ngựa bay của ông.

Mặt lộ sắc giận, Yan Dran đã bắt đầu không còn nể nang:

-Nhưng nếu ông đã biết vậy mà vẫn kết tội tôi vi phạm Hiệp ước Krông Pach thì cũng đâu có thể gọi là khôn.

Thám tử Eakar nghiến răng trèo trẹo:

-Tôi hỏi ông. Một con sóc có đôi chân vịt và cái đầu cá nhám có thể gọi là quái vật không?

Yan Dran hừ mũi:

-Dĩ nhiên là quái vật.

-Hay lắm. - Thám tử Earkar gật đầu - Thế một con chim có vây của con cá và đầu của con mèo thì gọi là gì?

-Quái vật.

Eakar nheo mắt:

-Còn một con bê có đầu lợn và đuôi rắn?

-Cũng quái vật tuốt. - Họa sĩ Yan Dran đáp nhanh và hậm hực xoáy mắt vào nhà thám tử - Ông còn định tưởng tượng ra những con quái đến bao lâu nữa hở ông Eakar? Ông tưởng tôi rảnh rỗi đến mức có thể ngồi ở đây suốt ngày để trả lời những câu hỏi vớ vẩn của ông sao?

-Tôi chẳng tưởng tượng gì sất. - Thám tử Eakar lại quơ cây gậy phép một vòng - Tất cả những con quái đó đều quanh quẩn trong khu vực này. Và dù trời có sập xuống đầu, tôi cũng quả quyết đó là sản phẩm của ông.

-Láo toét! - Họa sĩ Yan Dran đứng bật dậy, thanh gươm trên tay run lên - Hổng lẽ ông nghĩ là tôi bị mất trí sao, ông Eakar?

Thám tử Eakar thản nhiên:

-Rất tiếc là tôi đang nghĩ như vậy đó.

-Im đi, Eakar. - Lão quản gia gầm lên, gương mặt ngựa của lão đột ngột dài ra - Ông tưởng ông đang nói chuyện với ai chớ?

Thám tử Eakar từ từ xoay người về phía lão Imđi, lặng lẽ ngắm lão một lúc rồi chậm rãi nói:

-Ngay cả lão nữa, lão cũng không nằm ngoài vòng điều tra đâu. Nếu ta mà phát hiện lão có nhúng tay vào vụ này, lão đừng hòng thoát. Thay vì quang quác lên, tốt nhất lão nên ngồi im mà nghĩ cách gỡ tội trước Cục an ninh đi!

-Gỡ cái con khỉ! - Lão Imđi tức đến sùi bọt mép, bất thần lão văng tục - Ông đúng là đồ chó chết, ông Eakar! Những trò vu khống này, ta còn lạ gì.

Họa sĩ Yan Dran môi giần giật:

-Thám tử Eakar! Tôi không thể nghĩ được tại sao ông lại bịa ra những chuyện đó...

Tới nước này, Nguyên tự thấy không thể làm thinh được nữa. Nó bứt rứt kêu lên:

-Ổng không bịa chuyện đâu, thưa thầy.

-Con nói gì, K’Brăk? - Họa sĩ Yan Dran thô lố mắt nhìn đứa học trò, có cảm tưởng ông mới nhìn thấy nó lần đầu.

Nguyên đưa tay dứt một sợi tóc, nhăn nhó nói:

-Trên đường đi tới đây, chính mắt con đã nhìn thấy những con quái đó.

-Không thể nào! - Yan Dran hét to - Không thể nào!

-Ông Yan Dran. - Păng Ting rụt rè nói - Tất cả tụi con đều nhìn thấy.

-Vô lý! - Yan Dran vung gươm, đầy kích động, mái tóc rối bù dựng lên, xù ra mọi hướng - Làm gì có chuyện đó! Ta đâu có điên!

Ông lướt mắt qua từng gương mặt như tìm kiếm sự chia sẻ, giọng khản đặc:

-Các con nghĩ coi. Ta không hề làm chuyện đó. Mà ta tạo ra một đống quái vật lôm côm như vậy làm gì mới được chứ...

Đang nói, Yan Dran bỗng ngưng bặt khi ánh mắt ông dừng lại trên gương mặt bối rối của Yan Jik.

Ông thở hổn hển, mắt chợt tối sầm:

-Mày? Như vậy là mày? Đúng là mày rồi!

Yan Jik lúng túng miết cây cọ vẽ lên bắp đùi trần, ấp úng:

-Con... con...

-Mày giết tao rồi, Yan Jik! - Yan Dran rên lên, phẫn uất và chán chường, lưng còng xuống như thân cây bị bão uốn cong.

-Không phải con! - Yan Jik hoảng sợ la lên - Chính Pôcô và Pôca xúi con...

Lão Imđi hình như không còn hơi để quát “Im đi”. Lão tước lấy cây cọ trên tay Yan Jik, cáu kỉnh liệng ra ngoài cửa.

-Ra vậy. - Thám tử Eakar gật gù - Thì ra thủ phạm vụ động trời này là đứa con trai bảo bối của ông.

Ông ném cho Yan Dran đang rũ người trên ghế một cái nhìn tinh quái:

-Nhưng Yan Jik còn vị thành niên, chưa đủ tuổi để chịu trách nhiệm trước pháp luật...

-Ông khỏi cần nói nữa, ông Eakar. - Họa sĩ Yan Dran mệt mỏi cất tiếng - Tôi sẽ theo ông về Cục an ninh.

-Không! - Yan Jik mếu máo ré lên - Con sẽ đi theo mấy ổng. Việc này chẳng liên quan gì tới ba.

-Im đi, nhóc con! - Lần này thám tử Eakar quát thay lão quản gia câu nói ưa thích của lão - Việc quyết định ai đi ai ở cũng chẳng liên quan gì tới ngươi hết.

Ông quay về phía các phù thủy Cục an ninh, hất hàm:

-Các ngươi tước năng lượng pháp thuật của họa sĩ Yan Dran rồi giải ông ta về Cục!

Nhưng ba phù thủy Cục an ninh vừa nhích chân, Suku đã thét:

-Không được! Họa sĩ Yan Dran còn phải thực hiện nhiệm vụ đưa các chiến binh giữ đền đến núi Lưng Chừng.

Bị phá bĩnh, thám tử Eakar sôi gan, ông quay sang Suku, mắt lóe lên điên tiết:

-Câm mồm! Ai cho phép ngươi xen vô chuyện của người lớn!

Thứ ánh sáng đỏ quạch thoáng rực lên trong đáy mắt nhà thám tử rồi tắt phụt nhưng cũng đủ để Suku nhận ra. Nó gào tướng lên:

-Ngươi không phải là thám tử Eakar!

-Cái gì? - Cả đống cái miệng vụt hỏi.

Eakar nghiến răng ken két:

-Ngươi nói năng vớ vẩn gì thế hả?

Suku đứng phắt dậy:

-Ngươi lộ tẩy rồi, Balibia!

Như một tiếng sét, câu nói của Suku dựng bật mọi người lên khỏi ghế. Sau một thoáng sững sờ, hàng loạt cẳng chân hấp tấp lùi lại, quây thành một vòng tròn quanh Balibia, tay run run chĩa ra phía trước. Đằng sau Balibia, các tay chân của hắn trong lốt phù thủy Cục an ninh cũng lập tức cho tay vào túi áo chùng. Không khí trong căn nhà của Yan Dran đột nhiên căng như một sợi dây đàn.

-Ha ha ha! - Balibia ngửa mặt lên trần nhà, cười khành khạch - Balibia thì sao nào! Dù Tứ bất tử có ở đây, hắn cũng đâu có đụng đến được một sợi lông chân của ta.

Balibia ngừng bặt, để người nghe có thì giờ nghĩ ngợi và run sợ trước sự thật hắn vừa nói.

Đúng là không ai trong những người có mặt có thể chống lại tả hộ pháp Hắc Ám, Nguyên lo lắng nghĩ. Siêu phù thủy Yan Dran giỏi lắm là ngang tay với các sứ giả của Bastu, hoặc trội hơn một chút. Còn muốn thắng được Balibia là chuyện không tưởng. Tổng quản lâu đài Sêrôpôk mà còn bỏ chạy trước bàn tay máu của Balibia thì Yan Dran gần như hoàn toàn không có cơ hội.

-Thế còn Đại phù thủy Păng Sur thì sao? - Bolobala thình lình hỏi.

Balibia giật bắn:

-Păng Sur hả... ả...?

Bolobala trả lời bằng cách lập tức biến mất. Trong khi Balibia há hốc miệng chưa kịp ngậm lại, Bolobala đột ngột hiện ra trở lại nhưng thằng Tam bên cạnh nó lại tan vào không khí.

-Thiệt là xúi quẩy! Rút!

Balibia mặt xanh rờn, phất tay một cái và vọt ra cửa. Ba tên phù thủy nhép hối hả co giò chạy theo.

Yan Dran sau thoáng ngỡ ngàng, liền cúi đầu cung kính:

-Thiệt không ngờ Nhị tiên xuất hiện...

-Bà của con không có ở đây, ông Yan Dran. - Păng Ting cười nói.

Yan Dran nhìn sững Păng Ting:

-Con là cháu của Đại phù thủy Păng Sur à?

-Đúng rồi. - Păng Ting chỉ tay vào Suku - Còn nhóc này là cháu của Pi Năng Súp.

-Ồ! - Yan Dran gại gại mũi gươm lên cằm, mặt rạng ra. Nhưng cặp lông mày ông lập tức cau lại - Con vừa bảo sao? Đại phù thủy Păng Sur đã bỏ đi rồi ư?

-Bà của con không hề đến đây.

Yan Dran quay sang Tam và Bolobala, ánh mắt ông đi qua đi lại giữa hai đứa trẻ, dò xét và nghi hoặc:

-Thế sao...

-Vừa rồi Tam và Bolobala đã độn thổ, thưa thầy. - Nguyên mỉm cười, giải thích - Bạn con không độn thổ đi xa được nhưng chui xuống rồi chui lên thì dễ như trở bàn tay.

Trong khi Yan Dran ngẩn ra thì lão Imđi vỗ đùi đánh đét:

-Hà hà, không ngờ tả hộ pháp Balibia lại bị mắc lỡm bởi trò trẻ con này.

Bọn trẻ không muốn làm lão Imđi cụt hứng nên không nhắc tới chuyện cách đây mấy ngày Balibia đã tận mắt nhìn thấy Đại phù thủy Păng Sur làm Tam và Bolobala biến mất nên bây giờ thấy hai đứa này biến mất lần nữa, hắn hấp tấp chuồn ngay, không còn tâm trí đâu để suy xét thực hư.

-Làm sao con biết hắn là Balibia hở Suku? - Lão Imđi kéo dài sự hào hứng bằng cách quay nhìn Suku, khoái trá hỏi.

-Chính ánh mắt hắn đã tiết lộ điều đó. - Suku lắc khẽ mớ tóc trước trán - Lúc giận quá, ánh mắt hắn rợn lên màu đỏ. Đó là ánh mắt của Balibia.

Yan Dran không có được vẻ hơn hớn như lão Imđi. Mặt sụp xuống, ông buồn bã nhìn cậu quý tử, thở dài nói:

-Nhưng dù có thoát được Eakar giả, mai mốt Eakar thật mò đến đây, ta cũng đành bó tay.

-Ba đừng lo! - Thằng Yan Jik vung cây cọ vẽ không biết nó đã nhặt lại từ hồi nào, bô bô - Thám tử Eakar mà dẫn xác tới đây, con sẽ cho ổng đứt phựt luôn!

-Đứt phựt cái đầu mày! - Yan Dran nổi cộc - Ta bảo mày đi kiếm hai thằng Pôcô, Pôca về đây sao mày còn đứng đó hả? Lần này mà ta không tống cổ hai thằng ôn đó về hồ Ma thì ta không phải là người!

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2014 20:07:41 | Xem tất
Chương 20. Bạn đồng môn


Nguyên ôm Kăply trên tay, loay hoay cả buổi không leo lên được lưng ngựa. Đơn giản vì từ bé đến giờ, nó chưa bao giờ cỡi ngựa. Ngay cả khi Kan Tô đỡ giùm Kăply, Nguyên vẫn hết sức lúng túng trước con ngựa bạch cao lớn. Nó cứ trườn người lên lại tuột xuống, như vậy cả chục lần.

-Sao thế con? - Họa sĩ Yan Dran tặc lưỡi - Con đã quên cách cỡi ngựa rồi sao? Trước đây, những ngày con học vẽ, chính nó đã đưa con đi đi về về mà.

Nguyên không biết đáp như thế nào. Điều duy nhất nó có thể làm trong lúc này là đỏ mặt lí nhí:

-Sau khi trúng lời nguyền Tan xác...

-Thôi, được rồi. Ta sẽ giúp con.

Không đợi Nguyên nói hết câu, họa sĩ Yan Dran ôm ngang người Nguyên, quăng nó lên lưng ngựa, nhẹ nhàng như liệng một chiếc gối.

-Đỡ này! - Kan Tô nói, và bế Kăply đưa lên.

Nguyên ẵm bạn vào lòng bằng một tay, tay kia nắm chặt bờm ngựa, khi bắt gặp ánh mắt của tụi bạn đang ngước nhìn mình, nó nhe răng lẩn thẩn cười, dĩ nhiên nụ cười gượng gạo của nó không thể che đậy một thực tế là nó đang bị sự hồi hộp nhấn chìm.

Đến khi con ngựa bạch rời vó khỏi mặt đất, Nguyên lập tức nằm phục xuống, điếng người vì sợ hãi, đến mức nó nghe họa sĩ Yan Dran và cả đống cái miệng gào lên “Ê, leo xuống đi!” nó cũng không có thì giờ ngoảnh đầu lại nhìn. Nó chỉ tự hỏi tại sao mọi người lại bảo nó leo xuống khi mà nếu làm theo lời họ, nó sẽ té gãy cổ là cái chắc. Chắc tại bọn họ thấy mình căng thẳng quá! Nguyên nghĩ thầm, càng cố sức níu chặt túm lông bờm mềm và dày trước mặt, cảm thấy bữa ăn sáng lúc nãy nằm yên trong bụng bây giờ cựa quậy dữ dội như đòi ọc ra.

Lúc này đang là buổi sáng, ánh nắng rực rỡ và ấm áp. Nguyên bình tĩnh dần khi nhận ra con ngựa bạch bay êm như ru, chiếc thảm bay của gã Mustafa chưa chắc đã êm bằng, đến nỗi có lúc nó nghĩ không nhất thiết phải nằm mọp xuống và mím môi mím lợi níu lấy bờm ngựa làm gì.

Nguyên từ từ thẳng lưng lên. Nó và Kăply, dĩ nhiên cả con ngựa bạch nữa, lúc này đang bay xuyên qua những đám mây nõn như bông, ở xa xa trước mặt những đám mây khác vừa tắm vừa đùa giỡn trong ánh nắng ban mai để tự biến mình thành những đám mây nhiều màu, hình ảnh kỳ diệu đó làm nó rơi vào cảm giác lâng lâng một lúc lâu cho đến khi nó giật mình nghe tiếng ngựa hí bên tai.

Thoạt đầu, Nguyên nghĩ đó là tiếng hí của con ngựa nó đang cỡi. Nhưng đến khi tiếng hí cất lên một lần nữa, nó bàng hoàng nhận ra âm thanh đó phát ra từ phía sau lưng. Nó ngoái nhìn qua vai, kinh ngạc thấy một con ngựa khác đang mải miết bay phía sau, lẽ ra Nguyên cũng không đến nỗi sửng sốt lắm vì nó đã biết trong bức tranh của họa sĩ Yan Dran có một cặp ngựa bay, nhưng điều làm nó trợn mắt lên lúc này chính là con Chacha đang ngồi chễm chệ trên lưng con ngựa thứ hai và hí hửng cất tiếng khọt khẹt khi thấy Nguyên quay lại dòm.

Thì ra lúc mọi người hét ầm “Leo xuống” là để quát con khỉ nghịch ngợm này. Nguyên sực hiểu và bất giác phì cười. Từ lúc tả hộ pháp Balibia xuất hiện rồi bỏ đi, cho đến suốt đêm hôm qua, tụi nó không thấy Chacha đâu, mặc dù Suku sục sạo khắp nơi và gào khản cả giọng. Chắc con khỉ tinh quái này cố tình trốn trong các bụi cây và tờ mờ sáng, nó đã nấp sẵn trên mái nhà để bất ngờ phóng lên lưng ngựa khi hai con phi mã của Yan Dran bắt đầu cất vó.

Nhưng Nguyên không có cơ hội nghĩ ngợi lâu hơn. Con ngựa bạch thình lình chồm lên rồi bắt đầu phóng giật cục như gặp phải ổ gà khiến Nguyên một lần nữa lại mọp xuống, nơm nớp tóm lấy chòm lông bờm trước mặt, tay kia ôm chặt Kăply vào người, cứ thon thót sợ bạn mình bất thần văng ra.

Đã vậy, con ngựa bạch đột nhiên quay ngang và xoay tít, mỗi lúc một nhanh, như thể rơi vào giữa cơn lốc xoáy. Nguyên nhắm nghiền mắt, cảm thấy một nỗi khiếp hãi đang xuyên thẳng vào tim. Nó không biết phải làm gì trong hoàn cảnh này, hai tay bận bịu, muốn gào lên nhưng không thể thốt được lời nào.

Sau này nghĩ lại, Nguyên không hiểu tại sao lúc đó nó không rớt ra khỏi lưng ngựa, cả con khỉ Chacha nữa. Chỉ biết một lúc thì đầu nó thôi choáng váng, đà xoay của con ngựa có vẻ chậm lại, tiếng gió vù vù bên tai dịu dần rồi im hẳn. Đợi đến khi ruột gan thôi nhộn nhạo, Nguyên mới từ từ mở mắt ra, ngạc nhiên thấy nó đã ở giữa một thảo nguyên bát ngát. Hoa, rất nhiều hoa, có thứ nó biết tên có thứ nó mới nhìn thấy lần đầu nhưng tất cả đều một màu vàng với sắc đậm nhạt khác nhau, hoa mọc xen lẫn với cỏ đuôi chồn trải dài trước mắt như một tấm thảm xinh đẹp của nhiên nhiên. Ở làng Ke của nó cũng có những thung lũng đầy hoa nhưng không nhiều và đẹp như thế này.

Nguyên thầm so sánh và đưa mắt nhìn ra xa. Cuối cánh đồng hoa là dãy đồi trọc, cây xanh rải rác nằm xen kẽ với đất đỏ khiến những ngọn đồi trông như những cái đầu bị hói. Xa hơn nữa là núi đá, xanh màu da trời với những làn mây trắng uốn éo lững lờ trên đỉnh như những tấm voan trắng mềm mại.

Có lẽ đây là núi Lưng Chừng? Nguyên tự hỏi và cúi đầu nhìn con ngựa bạch đang ung dung gặm cỏ, bụng thầm nghĩ giá như mà con ngựa này biết nói.

Lóng ngóng một lát, Nguyên cũng tuột được khỏi lưng ngựa. Nó ngồi bệt xuống cỏ, với Kăply trên tay và con Chacha ngồi xổm bên cạnh, loay hoay không biết phải làm gì và nên bắt đầu mọi thứ từ đâu. Nó ngỡ ngàng nhận ra nó luôn nung nấu đến được núi Lưng Chừng nhưng khi đã đến được đây rồi thì nó bỗng thấy tất cả những gì hiện ra trong đầu giống như một cái nút vừa rối nùi vừa mơ hồ đến mức không thể gỡ nổi.

Kể từ ngày lạc đến xứ Lang Biang, chưa bao giờ Nguyên rơi vào cảnh một thân một mình như thế này. Trước đây, nó luôn luôn có K’Tub, Êmê bên cạnh, lại được sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình của Suku và Păng Ting. Nếu không có ai thì ít ra nó cũng có Kăply, nghĩa là cũng có một đứa bên cạnh để bàn bạc, trao đổi, tệ lắm thì cũng có chỗ để bày tỏ và chia sẻ ý nghĩ của mình.

Nguyên cứ ngồi thần ra, mặc ánh nắng trượt dần xuống vai rồi xuống đùi nó. Lòng Nguyên ngập tràn lo lắng khi nó nghĩ đến chủ nhân núi Lưng Chừng.

Nếu còn sống đến ngày nay, hẳn chủ nhân núi Lưng Chừng đã hơn bảy trăm tuổi rồi. Không biết ngài là đàn ông hay đàn bà và tính nết có quái dị lắm không. Chủ nhân núi Lưng Chừng là chiến binh giữ đền đời thứ nhất, Nguyên rất hy vọng ngài là người tốt, hiển nhiên rồi, chiến binh giữ đền không thể là người xấu được. Nó nhớ lại những gì sử gia Ama Pô ghi chép về cuộc đối đầu dai dẳng giữa chủ nhân núi Lưng Chừng và trùm Hắc Ám Bajaraka Đầu Bự hồi sáu trăm năm trước, mường tượng lại những trận ác chiến chắc là rung trời chuyển đất giữa hai phù thủy kiệt xuất. Nghĩ ngợi lan man một hồi, Nguyên lại ngạc nhiên không hiểu sao gần đây trùm Bastu lại học được thần chú kim cương vốn đã thất truyền và điều đó bỗng nhiên làm nó hoang mang ghê gớm. Nếu trùm Bastu có dính dáng đến chủ nhân núi Lưng Chừng thì hổng biết số phận xứ Lang Biang sẽ ra sao, có lẽ là banh ta lông hết cả đám, và số phận của nó nữa, chắc là nó bỏ xác tại đây mất.

Giả dụ điều đó xảy ra thì nó sẽ không còn cơ hội đem xác Kăply về làng Ke, nếu chẳng may thằng bạn thân yêu của nó qua đời sau thời hạn ba ngày kể từ lúc bị con basilic mổ trúng. Nguyên buồn rầu nghĩ, rồi tự nhiên nó chợt nhớ đến con chim vàng bay ra từ cái xác Kăply chiều hôm qua, đầu óc bỗng chốc rối bời, cảm thấy cuộc sống càng ngày càng kỳ quặc, không thể giải thích nổi, nói chung là tất cả giống như thi nhau tuột khỏi tầm hiểu biết của nó.

Lâu thật lâu, lâu lắm, Nguyên mới ôm cái xác Kăply lọ mọ đứng lên, rảo bước tiến về phía trước, giữa cánh đồng hoa, tin rằng bước đi như vậy sẽ giúp làm dịu đi cơn bão trong lòng hoặc ít ra là không nghĩ đến nó nữa. Trong khi hai con ngựa bạch vẫn thản nhiên gặm cỏ, hoàn toàn không quan tâm Nguyên làm gì hay đi đâu thì con Chacha theo sát sau lưng Nguyên, vẫn nhảy nhót nhưng không luôn mồm khọt khẹt như mọi khi, có vẻ như nó cũng linh cảm được nó và Nguyên đang lạc vào một chốn vô cùng thần bí.

Nguyên ngập ngừng đi tới, thận trọng dò dẫm từng bước, mắt dáo dác nhìn quanh, cố đoán xem những cây táo vàng người ta đồn đãi mọc ở hướng nào, mặc dù nó thừa biết nếu phát hiện ra, nó cũng không có cách nào hái được những quả táo kỳ diệu đó. Păng Ting đã nói rồi, đang canh giữ những quả táo vàng trên núi Lưng Chừng là con rồng Ouroboros, mà nọc độc chứa trong móng của con rồng này được liệt vào ba loại kỳ độc của thế gian, ngang với nọc độc của con basilic và nhựa độc của quả hiến sinh.

Nhưng dù thế nào thì mình cũng phải tìm cho ra những cây táo vàng đã. Nguyên nghĩ, cố xốc lại can đảm và tiếp tục lần tới. Chẳng mấy chốc nó đã vượt qua cánh đồng hoa và bắt gặp mình đang đứng lớ ngớ dưới chân ngọn đồi trọc gần nhất. Vẫn không có một bóng người hay bóng thú vật nào. Bên tay trái nó, kẹp giữa hai ngọn đồi là con đường nhỏ, hai bên mọc một loại cây như cây thông nhưng thấp chùn chụt, lá dày và dài quét đất.

Nguyên lần theo con đường nhỏ đi xuôi xuống, chẳng bao lâu trông thấy trước mặt một thung lũng hẹp, không có các loại cây lớn, một bãi cỏ xanh mượt lốm đốm hoa dại li ti trải từ chân đồi bên này đến vách đá đối diện như một tấm thảm bằng nhung.

Gọi là vách đá nhưng thực ra sườn núi cuối thung trông như một bức tranh ghép từ những phiến đá lớn, giữa các khe đá và trên mặt đá, suối róc rách tuôn xuống từ trên cao tạo thành một thác nước mảnh mai và hiền hòa.

Đang ngồi trên phiến đá chính giữa, mặc nước bắn tung tóe trên đầu, mê mải khua chân vào làn nước trắng xóa để đùa nghịch, là một thằng nhóc khoảng mười tuổi. Nguyên chới với khi nhận ra thằng nhóc đó chính là thầy Akô Nô.

Nguyên hoàn toàn không ngờ có người trong thung, càng bất ngờ hơn khi người đó lại là vị giáo-sư-nhóc-tì này. Nó hoảng hốt thụt người vào sau cây thông lùn, trố mắt ngó ra, tim dộng binh binh.

Nguyên bắt gặp hàng đống câu hỏi nảy ra trong óc nhưng nó không trả lời được câu hỏi nào. Đầu nó tự nhiên trống rỗng như một chiếc hộp đã dốc hết đồ chứa bên trong. Tại sao thầy Akô Nô lại đến đây? Đến đây bằng cách nào và để làm gì? Và làm sao mà thầy biết được núi Lưng Chừng nằm ở đâu nếu không có con ngựa bay của Yan Dran dẫn đường? Thầy đã gặp chủ nhân núi Lưng Chừng chưa và có đúng là thầy vẫn sống sót sau khi gặp ngài? Nguyên nhớ là khi tụi nó chuẩn bị rời khỏi trường Đămri để bắt đầu cuộc hành trình gian khổ đến núi Lưng Chừng, thầy Akô Nô cũng có mặt ở đó, cùng với thầy N’Trang Long và thầy Haifai, thậm chí nó còn nhớ thầy hét om sòm, chúc Păng Ting lên đường bình an, ờ mà thầy cũng ngộ thiệt, cả đống đứa ra đi mà thầy chẳng chúc ai, chỉ chúc mỗi con nhỏ Păng Ting. Như vậy hổng biết thầy có biết là mình đã có mặt ở hòn núi huyền bí này chưa? Ờ, biết đâu thầy cố tình đi tìm mình? Nguyên lại chìm vào những suy nghĩ miên man, chuyện nọ xọ chuyện kia, suốt một lúc lâu nó bần thần vắt óc như người ta vắt một múi chanh nhưng hổng chảy ra được chút nước nào.

Ở trên tảng đá trước mặt, thầy Akô Nô vẫn hồn nhiên đùa giỡn, hoàn toàn là một đứa bé, quần áo và mái tóc trái đào ướt đẫm, những tràng cười thích thú chốc chốc lại vang lên, ngân nga không dứt do đập vào vách đá rồi dội ngược trở ra, lan dài trong gió.

Nguyên nghe tim mình nhảy tưng tưng. Nó biết thầy Akô Nô vẫn có tính cách của một đứa trẻ con, dù thầy là một siêu phù thủy và đang giảng dạy lớp Cao cấp 1 trường Đămri. Mà một đứa trẻ con khi đã vui chơi thì bất kể trời đất. Suốt một lúc lâu, thầy Akô Nô cứ cười như nắc nẻ trên phiến đá, trong khi Nguyên bụng giật thon thót, cứ phải đảo mắt nhìn quanh, sợ tiếng cười của thầy đánh động chủ nhân núi Lưng Chừng hoặc khiến con rồng Ouroboros mò tới.

Nguyên nhìn quanh quất như vậy cả chục lần. Đến lần thứ mười một thì nó không nhúc nhích cái cổ được nữa. Cổ nó cứng đơ và miệng há ra khi nhìn thấy ba cái chấm màu đỏ hiện ra ở bên tay trái, trên một con đường khác dẫn vào thung. Chết rồi, rồng Ouroboros?

Từ lúc đó, đôi mắt của Nguyên không nhắm lại được nữa. Sự sợ hãi như một cái que chống giữa hai mí mắt nó. Nó trừng trừng nhìn ba chấm đỏ đang di động về phía nó, ruột gan tan ra, cái xác Kăply trên tay bỗng nhiên nặng như chì.

Nguyên chỉ hơi dễ thở một chút khi ba cái chấm đỏ đến gần và nó thấy những cái chấm đó ngó không giống rồng cho lắm.

Bây giờ thì Nguyên đã biết đó là ba người mặc áo chùng đỏ. Và khi họ lướt ngang qua chỗ nấp của nó để tiến về phía tảng đá thầy Akô Nô ngồi thì nó sửng sốt nhận ra đó là Tam phù thủy Bạch kỳ lân. Lẽ ra khi nhác thấy ba chấm đỏ di động đằng xa, Nguyên phải lập tức nghĩ ngay đến các chàng trai tuấn tú này, nhưng thiệt tình dù có nằm mơ nó cũng không thể hình dung Tam phù thủy Bạch kỳ lân lại xuất hiện ở chốn này. Theo truyền thuyết ở xứ Lang Biang, núi Lưng Chừng là một huyền thoại, đó là ngọn-núi-không-tùy-ý-muốn, là nơi không ai đến được, thậm chí không biết nó ở đâu và nếu đúng như những gì Nguyên nghe được thì tự cổ chí kim chỉ có Đại tiên ông Mackeno là người duy nhất đến được nơi đó mà thôi. Vậy mà bây giờ, ngoài nó và Kăply ra, còn cả đống người có mặt ở đây, biểu làm sao nó không ngỡ ngàng cho được.

Rúc chặt trong bụi, Nguyên thò lỏ mắt dòm ra, mồ hôi chảy ướt trán, cảm thấy sự việc sắp đến hồi quan trọng. Ai đã thuê Bạch kỳ lân đi tìm thầy Akô Nô? Hổng lẽ trùm Bastu cho rằng thầy đến đây để giúp đỡ mình hái những quả táo vàng và tìm cách ngăn chặn? Nhưng khi dùng chiếc mặt nạ thần hộ mệnh để kéo dài mạng sống cho Kăply, Bastu chẳng đã tuyên bố hắn tò mò muốn coi thử chiến binh giữ đền là thứ quái vật gì đó sao? Thiệt ra hắn có sợ cóc gì những chiến binh giữ đền cỡ như mình và Kăply! Những câu hỏi không ngừng gợn lên lăn tăn trong đầu Nguyên, câu này nối tiếp câu kia, tất cả xoắn vào nhau như mớ bòng bong, càng lúc càng rối tít mù.

Tam phù thủy Bạch kỳ lân đã đến trước tảng đá thầy Akô Nô ngồi, đứng thành một hàng ngang, gậy sừng hươu nắm chặt trên tay. Nguyên hồi hộp muốn nín thở khi thấy thầy Akô Nô dường như không hay biết có người đến bên cạnh, vẫn cắm đầu đùa giỡn, hai chân vừa đập ầm ầm vừa đá vung làm nước văng tung tóe.

Nước bắn cả lên đầu cổ các chàng trai Bạch kỳ lân, những chiếc áo chùng đỏ bị dây nước, thẫm lại như tiết gà, cả mái tóc đẹp lẫn tấm khăn choàng trắng tinh bằng lông thú lúc này cũng ướt nhẹp, khiến họ trông giống như vừa từ dưới sông lên.

Nguyên như ngồi trên đống lửa. Nó đinh ninh những chàng trai đỏm dáng Bạch kỳ lân sẽ nổi giận đùng đùng trước những trò quá quắt của thầy Akô Nô, nhưng rồi nó thuỗn mặt ra khi trông bộ tịch của bọn họ nguội ngắt. Họ không phản ứng gì đã đành, hình như cũng không dám cả lấy tay chùi, cứ để mặc nước chảy ròng ròng trên mặt.

Gì thế nhỉ? Nguyên thầm hỏi. Hay là họ biết họ không phải là đối thủ của thầy Akô Nô? Nhưng nếu vậy thì họ nhận lời của trùm Bastu làm gì?

Tam phù thủy Bạch kỳ lân giải đáp các thắc mắc trong đầu Nguyên bằng cách đồng loạt cúi đầu thật thấp trước tảng đá, cất giọng lễ phép:

-Chào thầy...

Đôi môi Nguyên lập tức vẽ thành hình chữ O. “Thầy???”, Nguyên khẽ thốt lên, tay chân tê đi, đầu kêu vo vo như có ai vừa đánh rơi một cái chong chóng trong đó.

Thầy Akô Nô bây giờ mới từ từ quay mặt lại.

-Tụi con đấy à? - Thầy nhìn các chàng trai Bạch kỳ lân bằng vẻ mặt tươi cười.

Tam phù thủy Bạch kỳ lân không trả lời, chỉ đưa cặp mắt lo lắng nhìn thầy Akô Nô.

-Tụi con vừa ăn trúng thứ gì mà á khẩu cả đám vậy hả? - Thầy Akô Nô cười hì hì - Lại đánh thua người ta chứ gì?

Câu hỏi của thầy làm các chàng trai cụp mắt xuống, trông họ tiu nghỉu như các học trò đang chờ trách phạt.

Ra họ là thầy trò thật! Nguyên nhấp nhổm trong bụi cây, lạ lùng nghĩ và cố mở to mắt hơn nữa.

-Đứng thẳng người lên xem nào! - Thầy Akô Nô cao giọng - Tụi con đánh thua Baltalon thì việc gì phải rầu rĩ chớ. Bộ tụi con tưởng tên đó là đồ rác rưởi sao?

Masari lí nhí:

-Ngay cả Tứ bất tử tụi con cũng không làm gì nổi hắn, thưa thầy. Tụi con phải liên thủ với Hắc tinh tinh mới đánh ngang tay với hắn.

-Chẳng sao hết. - Thầy Akô Nô khoát tay - Tứ bất tử là tổng quản lâu đài Sêrôpôk, tài nghệ không phải tầm thường.

Thầy nhỏm người dậy, đứng thẳng người trên phiến đá, thò tay cốc đầu Masari một cái:

-Con ngu quá! Nếu tụi con xuống núi đánh đâu thắng đó, chẳng hóa ra cái xứ Lang Biang là một đống giẻ rách à.

Một thằng nhóc mười tuổi gõ đầu và lên giọng dạy đời một thanh niên hăm bốn, hăm lăm tuổi trông hoạt kê đến mức Nguyên suýt phì cười, nhờ vậy mà nó cảm thấy bớt căng thẳng được một chút.

Thầy lại giơ tay đập bốp lên đầu Pila và Karăm:

-Hai đứa con cũng vậy. Vui vẻ lên. Ta sẽ dạy thêm cho tụi con vài câu thần chú đủ để tụi con đánh cho Baltalon lăn bò càng.

Pila nuốt nước bọt, vẫn cúi gằm đầu:

-Hắn chết rồi, thưa thầy.

-Hắn chết rồi thì kệ hắn. - Thầy Akô Nô gầm gừ - Còn cả đống tên khác nữa chi. Rồi Tứ bất tử nữa. Tụi con phải bẻ giò mấy con vật bẩn thỉu của hắn để trả thù chớ...

Như một đứa trẻ hiếu thắng, thầy Akô Nô càng nói càng hăng, tay huơ loạn xị, đến nỗi Nguyên có cảm tưởng nếu các chàng trai Bạch kỳ lân không kịp thời ngăn lại, thầy sẽ đứt hơi mất.

Thầy Akô Nô tiếp tục tuôn một tràng nữa, cho tới khi tít đằng xa, trên con đường Tam phù thủy Bạch kỳ lân vừa đi qua thình lình xuất hiện ba chấm đen.

Lần này thì Nguyên đoán ra ngay đó là Tam phù thủy Hắc tinh tinh và một lần nữa nó có cảm giác nó vừa trúng phải bùa Ngốc, đầu óc cứ ngu dần từng phút một.

Năm phút sau, Nguyên còn ù ù cạc cạc hơn nữa khi ba thân hình cao lêu nghêu của Hắc tinh tinh đứng nghiêm trước thầy Akô Nô, khom mình cung kính:

-Chào thầy...

Nguyên đứng lặng người trong bụi cây, mắt nhìn trân trối ra phía trước và hoàn toàn không tin những gì nó đang trông thấy. Nguyên biết mình không phải là đứa ngu ngốc, nó tin nó có thể nghĩ ra nhiều chuyện trên đời nhưng chắc chắn không bao giờ nó nghĩ ra được rằng Bạch kỳ lân và Hắc tinh tinh đều là học trò của thầy Akô Nô. Đó là sự thật không ai có thể tưởng tượng ra hoặc mơ thấy, ngay cả khi không còn gì để mà mơ nữa. Bây giờ nó mới nhớ đến những gì thằng Suku nói với nó trên đường đến trường trong ngày đi học đầu tiên. Thằng oắt khoe trường đào tạo tài năng Đămri là nơi sản sinh ra những pháp sư và phù thủy lừng danh nhất xứ Lang Biang trong vòng một ngàn năm nay. Giáo chủ Ama Êban, vợ chồng pháp sư K’Rahlan - Ka Ming, pháp sư K’Srêgơl, pháp sư K’Tul, bà Êmô, kể cả trùm Bastu và các sứ giả khét tiếng của hắn cũng xuất thân tại đây. Chỉ có Tam phù thủy Hắc tinh tinh và Bạch kỳ lân là không phải học sinh trường này. Bữa đó thằng Suku thú nhận là chính nó cũng không biết bọn Tam phù thủy học hành ở đâu. Hóa ra họ là học trò của thầy Akô Nô! Nguyên thở hắt ra, đầu tưng tưng, hơi lo lo khi thấy mình có vẻ bắt đầu giống thằng Mom hết sức.

Tam phù thủy Hắc tinh tinh sau khi cất tiếng chào, lập tức đứng im thin thít, tay chân thẳng đuột như càng cố giống thân cây khô hơn nữa.

Thầy Akô Nô lừ lừ nhìn ba tên học trò mới đến, không nói tiếng nào. Nguyên ngạc nhiên thấy thầy có vẻ ác cảm với bọn Hắc tinh tinh nếu so với thái độ tươi cười lúc thầy gặp các chàng trai Bạch kỳ lân.

-Hay lắm! Hay thiệt là hay!

Mãi một lúc thầy mới nhếch mép, giọng bèn bẹt không rõ khen ngợi hay chế giễu và Nguyên thấy rõ Tam phù thủy Hắc tinh tinh đang run lên trong những chiếc áo thụng đen.

Thầy chống hai tay vô hông, hừ giọng:

-Sao? Tụi bay trở về thân tàn ma dại như thế này à?

Tam phù thủy Hắc tinh tinh trả lời bằng cách cúi đầu thấp hơn nữa.

Thầy Akô Nô tung chân đá vào phù thủy đứng giữa, rít lên giận dữ:

-Ngước mặt lên, đồ khốn!

Thầy đá bồi thêm một cái nữa:

-Nói nghe coi! Mấy con giun thổ tả của tụi bay đâu rồi?

Lúc đầu Nguyên không hiểu thầy muốn ám chỉ điều gì, đến khi phù thủy Hắc tinh tinh đứng giữa lắp bắp đáp, nó mới biết thầy muốn nói đến ba con hắc xà:

-Thưa thầy... thưa thầy... bọn chúng chết rồi...

Thầy Akô Nô gật gù, lặp lại câu nói đầu tiên bằng giọng đe dọa:

-Hay lắm! Hay thiệt là hay!

-Thưa thầy...

-Thưa cái con khỉ! - Thầy Akô Nô quát ầm - May mà thiên hạ không biết tụi bay là học trò ta, nếu biết, chắc ta treo cổ tự tử vì nhục mất.

Phù thủy bên trái lấy hết can đảm ngước mặt lên:

-Thưa thầy... tụi con đụng phải thanh xà bạch xà... mà thầy cũng biết rồi, đó là linh xà...

-Linh cái đầu mày! - Thầy Akô Nô đá đứa học trò vừa lên tiếng một cái “bịch” vào giữa ngực, xẳng giọng - Biết hai con rắn đó là linh xà thì tránh xa ra, ai bảo tụi bay cậy giỏi sấn vào. Hổng lẽ học trò của Akô Nô ngu đến mức không biết hai con ma nhóc Pôcô Pôca đang ở nhà gã Yan Dran sao! Hừm, thiệt tức chết được!

Bị mắng xối xả, Tam phù thủy Hắc tinh tinh im như thóc, lại cúi mặt xuống.

Nhưng thầy Akô Nô không có vẻ gì là sắp buông tha cho ba tên học trò tội nghiệp.

-Thế còn Balibia thì sao? - Thầy gừ gừ - Hắn đâu có phải là linh xà linh xiếc gì, nhưng vừa thấy cấm lệnh của hắn, tụi bay đã chạy vắt giò lên cổ là sao? Lại là cấm lệnh giả nữa mới nhục chớ!

Phù thủy đứng giữa ấp úng phân trần:

-Balibia là tả hộ pháp của Bastu. Mà... thầy... thầy Ôkô Na không cho tụi con đối đầu với phe Hắc Ám...

Nghe nhắc đến Ôkô Na, thầy Akô Nô thở đánh thượt, giọng buồn bực:

-Ôi, cái lão chết tiệt đó! Vừa ngu ngốc, vừa độc ác, vừa xấu xí, lão chẳng dạy cho học trò được điều gì tử tế. Thiệt tình!

Đang than thở, mắt thầy bỗng quắc lên:

-Thế còn Tứ bất tử? Tụi bay gặp hắn, chưa đánh đã són ra quần rồi phải không?

Nguyên càng nghe, đầu óc càng quay cuồng: Thầy Ôkô Na nào nữa? Hổng lẽ bọn Tam phù thủy có tới hai vị sư phụ? Làm thầy của Tam phù thủy chắc chắn trình độ pháp thuật phải ngang cỡ thầy Akô Nô, thế sao mình chưa bao giờ nghe ai nhắc đến cái tên Ôkô Na lạ hoắc này? Ờ, nhưng tài nghệ siêu đẳng như thầy Akô Nô, trước khi thầy về trường Đămri, mình cũng có nghe tiếng tăm gì đâu!

Mải nghĩ ngợi, Nguyên không nghe những đối đáp sau đó giữa thầy trò Tam phù thủy. Khi nó dứt ra khỏi mớ bòng bong trong đầu, ngước lên, đã thấy bọn Hắc tinh tinh người nào người nấy đang ôm mặt nhăn nhó. Còn thầy Akô Nô thì cười nhạt:

-Lần này ta cho mũi tụi bay lệch qua bên phải. Phạt như vậy là nhẹ tay lắm rồi. Lần sau ta mà ngứa mắt, ta sẽ cho cái mũi tụi bay rụng luôn xuống đất. Liệu hồn đó.

Thầy đá chân vào không khí:

-Cút!

Tam phù thủy Hắc tinh tinh cúi gập mình chào rồi lủi thủi quay lại đường cũ, mũ trùm lệch hẳn một bên, tay người nào người nấy vẫn bụm chặt lấy mũi.

-Tụi con cũng về nghỉ đi! - Thầy quay sang các chàng trai Bạch kỳ lân, giọng dịu dàng như thể thầy có thể nói bằng hai thứ giọng khác nhau trong một phút.

Masari có vẻ như chẳng hào hứng gì trước sự trừng phạt thầy Akô Nô dành cho bọn Hắc tinh tinh. Anh nhìn theo ba chấm đen đang thất thểu đằng xa, nhăn nhó:

-Thầy ơi, thầy nặng tay quá...

-Hề hề, ta tưởng ta ra tay như vậy là nhẹ hều đó chớ. - Thầy Akô Nô cười nói, tay xua xua trước mặt như muốn bảo Masari đừng ca cẩm nữa.

Masari không dám hé môi, khẽ liếc sang Pila và Karăm rồi quay lại phía thầy Akô Nô, ngoan ngoãn:

-Thưa thầy, tụi con đi.

Chân mỏi nhừ, Nguyên ngồi bệt xuống cỏ, đưa mắt nhìn theo các chàng trai Bạch kỳ lân đang nối gót Hắc tinh tinh ra khỏi thung trên con đường khi nãy, bụng phân vân không biết nên ngồi lì trong bụi hay chạy ra chào thầy.

Đang lưỡng lự, nó bỗng giật bắn khi nghe tiếng thầy Akô Nô vang lên rất rành rọt:

-Ta nghĩ là ngươi chui ra được rồi đó.

Thoạt đầu Nguyên không nghĩ là thầy nói với nó. Nó hồi hộp quay đầu nhìn quanh nhưng chẳng thấy một bóng người nào quanh đó. Hay là mình? Hổng lẽ thầy biết mình nấp trong này?

-Ngươi nhớn nhác cái gì vậy! Ta nói ngươi đó, K’Brăk! - Tiếng thầy Akô Nô lại oang oang.

Lần này thì Nguyên vội vàng bước ra khỏi chỗ nấp.

Nó chưa kịp lên tiếng chào thì ánh mắt của thầy Akô Nô đã trượt từ mặt nó xuống cái xác của Kăply, mày cau lại:

-Làm gì mà ngươi ôm nó cứng ngắc vậy. Thả nó chỗ bụi cây kia đi!

Nguyên cúi xuống Kăply rồi ngước nhìn thầy Akô Nô, ngơ ngác:

-Thả xuống hả thầy?

-Thì thả xuống chớ ngươi ôm làm gì cho mỏi tay.

Nguyên liền ngồi xổm và sè sẹ đặt Kăply xuống cỏ, chưa kịp buông tay, thầy Akô Nô đã quát giật:

-Ta bảo ngươi đặt nó chỗ bụi cây kia kìa. Chỗ ngươi nấp từ sáng đến giờ đó.

Nguyên không hiểu tại sao thầy Akô Nô lại bắt mình đặt Kăply chỗ đó nhưng nó không hỏi lại, cắm cúi ôm Kăply đi tới chỗ bụi cây khi nãy, thận trọng đặt xuống. Lúc ngẩng lên, nó bắt gặp cặp mắt của con khỉ Chacha lấp ló sau cành lá nhìn ra.

-Cứ để con khỉ con ở trong đó. Ngươi lại đây ta bảo.

Tiếng thầy Akô Nô vang lên và cái cách thầy nhìn thấy hết mọi thứ làm Nguyên muốn nổi da gà.

Đợi thằng nhóc lại gần, thầy Akô Nô nghiêm trang nói:

-K’Brêt chỉ kéo dài tính mạng được đến trưa mai, và tối nay nếu ta không thuyết phục được lão Ôkô Na ra tay giúp đỡ, nó sẽ vĩnh viễn không còn nhìn thấy mặt trời nữa.

Nguyên cúi đầu:

-Dạ, con hiểu.

Và ở tư thế giống như cam chịu đó, một câu hỏi đột ngột xì ra từ cổ họng nó:

-Ủa, Ôkô Na là ai vậy thầy?

Câu hỏi của Nguyên làm thầy Akô Nô nhăn mặt như vừa nhai phải một hạt sạn:

-Lão đó ư? Hừm, đó là một lão già thổ tả nhất mà ta được biết. Có thể nói tóm tắt, lão là một cái túi chứa đủ mọi thứ xấu xa. Nói chung là con không nên biết nhiều về lão ta làm gì!

Nguyên tính hỏi có phải Ôkô Na cũng là thầy của Hắc tinh tinh và Bạch kỳ lân không, nhưng nghe thầy Akô Nô nói vậy, nó đành nuốt câu hỏi trở lại vào bụng.

-Ngươi đừng có nghĩ ngợi lung tung, hãy ráng nhớ những gì ta dặn đây nè. - Thầy Akô Nô hắng giọng, mắt nhìn Nguyên chằm chằm như để kiểm tra xem nó có tập trung hay không - Chiều nay, ngay khi trời vừa tắt nắng, lão Ôkô Na sẽ xuất hiện. Lão sẽ ngồi ngay trên phiến đá ta đang ngồi đây. Bạch kỳ lân và Hắc tinh tinh sẽ đến gặp lão, nghe lão răn dạy, mắng nhiếc và trừng phạt, đại khái là bằng khoảng thời gian mà ta trừng phạt, mắng nhiếc và răn dạy tụi nó. Trong thời gian đó, ngươi cứ nấp trong bụi cây khi nãy, không được lên tiếng, cũng không được cử động gì hết.

Nguyên nín thở:

-Thế lão có biết con đang nấp trong đó không hả thầy?

-Ngươi nấp ở đâu mà lão chả biết, cái lão tà đạo đó. Nhưng nếu ngươi cứ nín thinh, cũng không có bất cứ hành động gì thì lão sẽ không động đến ngươi. Đó là điều mà ta sẽ thỏa thuận với lão.

Nguyên lại thấp thỏm:

-Thế con phải nấp đến bao lâu hả thầy?

Thầy Akô Nô lừ mắt nhìn Nguyên một cái, thản nhiên tiếp:

-Sau khi lũ học trò giải tán, lão Ôkô Na sẽ tự biến thành con basilic. - Chỗ này, Nguyên hoàn toàn không nghe mình thở, nó vểnh tai lên, ước chi có thêm vài cái tai nữa để nghe cho rõ - Con basilic sẽ bò đến chỗ K’Brêt để hút nọc độc ra.

Giọng thầy Akô Nô chuyển qua dặn dò:

-Suốt trong thời gian đó, kể từ lúc lão Ôkô Na hóa ra con basilic, ngươi nhớ đeo cặp kiếng pháp thuật của thằng oắt Suku vào.

Nguyên liếm môi:

-Con sẽ nhắm tịt mắt lại cho chắc ăn.

-Điều này mới quan trọng nè. - Thầy Akô Nô đột ngột cao giọng - Khi con basilic hút xong nọc độc trong người K’Brêt và bỏ đi, con khỉ Chacha phải nhào ra ôm K’Brêt chạy đi liền...

-Sao vậy thầy?

-Nếu không đem K’Brêt đi, khi con basilic tiêu hóa xong nọc độc mà nó vừa hút, chắc chắn nó sẽ quay lại tấn công. - Thầy Akô Nô nhìn cái miệng há hốc của Nguyên, thở dài giải thích - Lão Ôkô Na nếu đã hứa sẽ hút nọc độc cho K’Brêt thì dĩ nhiên lão sẽ làm, nhưng lão coi chuyện sau đó lão mổ chết K’Brêt hay biến nó thành đá là một chuyện hoàn toàn khác, không liên quan gì đến lời hứa kia. Lão ôn dịch này tính khí rất kỳ quặc, vì vậy ngươi phải nhớ kỹ lời ta dặn.

Nguyên dứt mạnh một sợi tóc:

-Thầy ơi, thế con không tự mình ôm K’Brêt chạy đi được sao? Con khỉ Chacha chắc gì đã cẩn thận...

Thầy Akô Nô sờ tay lên đầu Nguyên, nắn tới nắn lui một lúc rồi hừ mũi:

-Ta thấy đầu ngươi cũng mềm đó chớ, đâu có giống cục gạch.

Thầy bỏ tay xuống, “xì” một tiếng:

-Lúc nãy ta nói gì, hổng lẽ ngươi quên sạch rồi sao? Ta nói là ngươi không được làm bất cứ hành động gì, nghĩa là không động đậy gì hết, chỉ khi nào con Chacha cắp thằng nhãi K’Brêt chạy đi thì ngươi mới được co giò chạy theo, và cố mà chạy cho xa, hiểu chưa?

-Dạ hiểu.

Nguyên gượng gạo đáp, trong khi nó nghĩ là nó không hiểu cái quái gì hết. Đã vậy, nó còn khổ tâm hết sức khi bị đem ra so sánh với cục gạch, tự nhiên nó thấy nó giống thằng Kăply dễ sợ và ý nghĩ đó làm miệng nó như bị ai kéo lệch đi.

-Hiểu rồi thì đi đi. - Thầy Akô Nô phẩy tay về phía bụi cây - Ta cũng đi đây.

Nguyên nói nhanh, như sợ thầy Akô Nô biến mất:

-Thế tối nay thầy có tới đây không hả thầy?

Nó hối hả nói thêm, khi thấy thầy Akô Nô có vẻ như sắp sửa lắc đầu:

-Thầy tới nha thầy. Có thầy bên cạnh chắc con sẽ đỡ sợ hơn.

-Có lẽ là ta không tới được, K’Brăk à. - Trong khoảnh khắc, giọng thầy Akô Nô chợt chùng xuống, nghe trầm và buồn hiu hắt, thứ giọng không thể nhầm lẫn của người chất chứa nhiều tâm sự nặng nề, và khi thầy thốt ra những lời đó, Nguyên thấy rõ đôi mắt của thầy bỗng nhiên trở nên xa vắng và có vẻ thầy cố tình nhìn đi đâu đó phía trên đầu Nguyên như không muốn nó nhận ra nỗi buồn thăm thẳm của thầy - Hừm, ta không muốn giáp mặt với lão Ôkô Na. Ngươi biết không, lão và ta giống như là nước với lửa, thậm chí còn hơn thế nữa. Ở đâu có người này thì không có người kia.

Thầy đặt tay lên vai Nguyên, một động tác giống như để sưởi ấm đứa học trò và lấy giọng điềm tĩnh:

-Nhưng ngươi chẳng việc gì phải lo lắng. Nếu ngươi làm đúng theo những gì ta dặn, mọi chuyện ắt sẽ tốt đẹp. Lão Ôkô Na tuy độc ác nhưng dẫu sao lão cũng biết giữ lời. Hà, nếu một ngày nào đó lão thực sự trở thành con người táng tận lương tâm thì ta sẽ liều với lão. Bất quá cả hai đều chết là cùng!

Những câu cuối cùng, giọng của thầy Akô Nô lại trở lại âm sắc ban đầu, ấm ức và phiền muộn, có lẽ hoàn toàn không ý thức, cái kiểu của người tự nhiên rơi vào trạng thái độc thoại với chính mình.

Cái cách thầy cắt ngang câu chuyện cũng rất đáng chú ý. Đang cúi đầu suy tư, Nguyên bỗng nghe vai mình nhẹ hẫng. Nó ngẩng phắt lên, chớp mắt liền hai, ba cái, bàng hoàng thấy phiến đá trước mặt trống trơn.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 21-11-2014 15:08:40 | Xem tất
Chương 21. Lão quái Ôkô Na


Nguyên lại chui vào trong bụi cây, ngồi bệt xuống cỏ, vừa moi lương khô ra nhai, đợi trời tối, vừa vẩn vơ nghĩ về những điều xảy ra trong nửa ngày qua, kể từ khi nó đặt chân đến núi Lưng Chừng. Mặt trời chiếu ngay đỉnh đầu nhưng gió thổi luồn vào từ các khe núi khiến không khí trong thung không quá oi bức.

Bây giờ, khi đã bình tĩnh, Nguyên mới nhận ra có cả đống chuyện nó quên hỏi thầy Akô Nô. Nó quên hỏi làm sao thầy tới được hòn núi này và tới làm gì. Nó nhớ lại, và ngay lập tức nó trả lời được một nửa: Hiển nhiên là thầy tới đây để giúp nó và Kăply, nếu không, việc gì thầy phải cạy cục nhờ cái người mà thầy ghét cay ghét đắng là lão Ôkô Na cứu mạng cho Kăply. Nó chỉ không biết thầy tới đây bằng cách nào thôi. Nguyên nghĩ quanh nghĩ quẩn một hồi, óc chợt lóe lên: Đúng rồi, ngay từ đầu thầy đã biết là mình đến núi Lưng Chừng, chính thầy và bọn Tam phù thủy đã bí mật bám theo sau hai con ngựa bay của Yan Dran để lần được đến đây.

Nguyên dần dần nhớ lại, mắt nó sáng lên từng giây một. Những sự kiện đã trải qua tự động xâu thành chuỗi trong tâm trí nó. Ờ, như vậy là rất nhiều người biết đầu mối dẫn đến núi Lưng Chừng nằm ở họa sĩ Yan Dran. Trùm Bastu và các bộ hạ của hắn không ngừng ép buộc Yan Dran tiết lộ bí quyết vẽ truyền thần dĩ nhiên là nhằm mục đích tạo ra những con phi mã dẫn đường đến hòn núi huyền bí này. Vợ chồng thầy Haifai cũng biết bí mật đó, khi còn là Krazanh và Kim họ đã từng dùng chuyện này để đánh lừa trùm Bastu. Thầy N’Trang Long cũng thế, nếu không thầy đã không nhờ Suku dẫn tụi nó đến chỗ họa sĩ Yan Dran. Cả vợ chồng K’Rahlan - Kaming nữa, khi họ làm một chuyện tréo ngoe là cho con trai mình đến thụ giáo một họa sĩ thuộc giáo phái Madagui hẳn là họ đã tính đến mối lợi này. Và cuối cùng là thầy trò Tam phù thủy - những người được lợi nhất trong chuyến đi của Nguyên.

Nguyên chỉ lấy làm lạ là tại sao không ai chịu hé môi cho nó biết về sự liên quan giữa Yan Dran và núi Lưng Chừng. Ngay cả Tam phù thủy Bạch kỳ lân cũng vậy, khi bị Păng Ting gặng hỏi, họ chỉ nói úp úp mở mở, cứ như thể đó là điều cấm kỵ và họ sẽ bị thụt lưỡi nếu nói thẳng ra. Hổng lẽ đó là quy định của Hội đồng Lang Biang: chiến binh giữ đền phải tự tìm đường đến núi Lưng Chừng?

Nguyên cũng phát giác ra mình quên hỏi thầy Akô Nô về những quả táo vàng và ngạc nhiên là ngay cả thầy cũng quên mất chuyện đó trong khi chính thầy thừa biết những quả táo đó đối với nó và Kăply có ý nghĩa quan trọng như thế nào. Thế nào rồi mình cũng sẽ gặp lại thầy, tới lúc đó nhất định mình sẽ hỏi. Nguyên nhủ thầm, lúc lắc đầu như cố ghim chặt dự tính đó vào trí nhớ.

Những cây thông lùn vẫn thấp chủn, nhưng lúc này Nguyên thấy những bóng cây trên cỏ đã dài ra gấp đôi. Nó nhìn lại chỗ Kăply nằm, phập phồng không biết bạn mình có sẽ sống lại như thầy Akô Nô nói hay không. Tự nhiên thấy thương bạn, nó bẻ mấy nhánh lá, chạy lại đắp trên người Kăply rồi chạy về chỗ cũ, bó gối ngồi nhìn trời nhìn đất.

Suốt một hồi lâu, Nguyên chẳng biết làm gì cho bớt sốt ruột. Nó cứ ngồi như vậy, lặng lẽ nhìn nắng, nhìn cây lá, nhìn bóng chiều, lòng bất giác cảm thấy vô cùng tịch mịch.

Trời dần nhạt nắng, sương bắt đầu đùn lên từ mặt cỏ và gió thổi mạnh hơn. Ở bên trên những ngọn núi đá, những đám mây bị gió xô đẩy, tơi ra và gầy rạc hẳn đi so với buổi sáng.

Nguyên và con Chacha thu lu trong bụi cây, nôn nao chờ đêm xuống. Nguyên đã nói chuyện với Chacha rồi, và mặc dù ánh mắt con Chacha nhìn Nguyên với vẻ rất chi là hiểu biết, Nguyên vẫn không chắc con khỉ nghịch ngợm này có hiểu những gì nó nói hay không.

Có lúc Nguyên nhận ra mình vừa ngủ. Nó vội vàng đập hai tay vô má để cho tỉnh táo nhưng một lát sau những làn gió chiều cù mơn man lên lưng lên cổ nó, y như hồi ở làng Ke bà nó vẫn cù như thế để giúp nó dễ ngủ, làm nó thiếp đi lúc nào không hay.

Nguyên lại giật mình mở mắt ra, lại vỗ lên má, lát sau thì véo tai và ngắt lên đùi, để rồi lại chìm vào giấc ngủ dễ dàng hơn, nhiều lần như vậy.

Tới lần không biết thứ bao nhiêu, khi Nguyên mở mắt ra thì bóng đêm đã nhả xuống thung lũng những mảng tối cuối cùng. Nó giật mình đánh mắt về phía vách núi đối diện, thấy lão Ôkô Na đã ngồi trên phiến đá từ hồi nào.

Nguyên ngẩn ra khi thấy những phiến đá chung quanh chỗ lão ngồi đều phát sáng, thứ ánh sáng xanh lè, gây cảm giác lạnh lẽo và rờn rợn. Trong thứ ánh sáng ma quái lập lòe đó, lão Ôkô Na hiện lên như một phiên bản của thần chết. Lão gần như không có thịt, cái đầu lão giống như đầu lâu với hai hốc mắt đen ngòm, xương gò má nhô cao trong khi má lõm vào, hai cánh tay thò ra dưới tay áo thụng của lão rõ ràng là hai khúc xương; nói chung trông lão âm u và tăm tối đến mức nếu trong tay lão là chiếc lưỡi hái của thần chết thì Nguyên cũng không thắc mắc chút nào.

Lẽ ra Nguyên đã ngất đi nếu không biết trước lão là Ôkô Na, người sẽ cứu mạng cho Kăply trong lát nữa. Nhưng cái hình thù gớm ghiếc của lão vẫn khiến Nguyên không dám nhìn lâu, thậm chí có lúc nó phải nhắm mắt lại như thể cầu nguyện cho mình có đủ gan dạ để không hét lên một cách ngu ngốc hoặc bất thần lăn ra xỉu nửa chừng.

Như những bóng ma lướt qua mặt Nguyên, Tam phù thủy Hắc tinh tinh câm nín tiến về phía vách đá từ con đường ban sáng và khi cả ba đứng ngay ngắn trước mặt lão Ôkô Na, bốn thầy trò họ nom giống nhau đến mức trong phút chốc Nguyên như quên cả sợ hãi, chỉ thấy trong bụng đang trồi lên một cảm giác gì đó như là sự buồn cười khiến nó phải trấn áp một cách khổ sở.

-Các con đấy ư?

Tam phù thủy Hắc tinh tinh chưa kịp cất tiếng, lão Ôkô Na đã hỏi, giọng ngọt ngào như phát ra từ một hũ đường.

-Thưa thầy...

Phù thủy đứng giữa nói, giọng nghèn nghẹt như vẫn còn uất ức về chuyện thầy Akô Nô trừng phạt hắn.

-Ta biết. - Lão Ôkô Na hắng giọng - Nhìn thoáng qua ta đã biết. Chắc lão Akô Nô vừa làm khổ tụi con phải không?

Bọn Hắc tinh tinh không nói gì nhưng vẻ ủ rũ của bọn họ có giá trị còn hơn cả ngàn lần xác nhận.

-Lão đó thiệt chẳng ra gì, chỉ được mỗi cái thù vặt. Mà thiệt ra các con cũng có gây ra chuyện gì phiền phức đâu. - Ôkô Na cười khảy, càng nói càng cao giọng, đến câu cuối cùng thì gần như lão hét lên - Lẽ ra lão phải khen thưởng tụi con mới phải chớ!

-Thầy Akô Nô trách tụi con không làm gì được Tứ bất tử...

-Lão thiệt là bá láp. - Lão Ôkô Na hừ mũi, bất bình - Tứ bất tử đâu phải là thứ dễ xơi.

Tam phù thủy Bạch kỳ lân xuất hiện ngay vào lúc lão Ôkô Na đang nổi quạu. Và khi bọn họ bước đến trước phiến đá lão ngồi thì cả bọn tá hỏa hứng lấy một cơn bão những lời rủa xả đột ngột dội xuống đầu:

-Mấy thằng khốn kiếp này, tụi bay đi đâu mà bây giờ mới vác mặt tới hả? Hừm, áo đỏ khăn trắng, bảnh bao gớm! Lại còn đeo chuỗi ngọc nữa chớ! Nói thiệt, tụi bay chẳng làm chuyện gì ra trò ngoài chuyện làm ta xốn mắt kinh khủng.

-Thưa thầy... tụi con...

Thủ lĩnh Masari bối rối nói, trong khi Pila và Karăm rúm người lại.

-Ba đứa bay thiệt chẳng ra gì. - Như không nghe Masari, hoặc nghe mà không thèm hiểu, lão Ôkô Na tiếp tục phun ra những lời đao búa, trông lão hằn học đến mức Nguyên tự hỏi tại sao lão không phun lửa ra quách cho rồi - Nói thiệt, lão Akô Nô chỉ đào tạo ra toàn đồ cóc nhái. Hừ, Bạch kỳ lân, cái biệt hiệu hay ho gớm! Bạch kỳ lân mà để cho tên nhãi nhép Baltalon đánh văng tuốt lên mây như những cái lông vịt. Thiệt tình!

Masari cười khổ:

-Hắn đã luyện được thần chú Phân thân, thưa thầy.

-Phân thân là cái quái gì chớ! Học trò của Ôkô Na mà sợ loại thần chú lôm côm đó sao! - Đầu lão Ôkô Na lắc lư đầy giận dữ, người yếu bóng vía có thể phát hoảng nghĩ lão là một hài cốt từ dưới mộ đang cựa quậy chui lên và cái cách lão nhe gần đủ ba mươi hai chiếc răng trắng nhởn nom ấn tượng đến nỗi Nguyên phát run lên đằng sau bụi cây.

Lão Ôkô Na tiếp tục hành hạ Bạch kỳ lân, theo kiểu cách mà xét cho cùng thì giống một cách đáng kinh ngạc với thái độ ác cảm mà thầy Akô Nô dành cho bọn Hắc tinh tinh lúc ban ngày:

-Cả lão Tứ bất tử nhăng nhít kia mà tụi bay cũng đánh không lại nghĩa là sao?

Masari khẽ liếc Tam phù thủy Hắc tinh tinh, liếm môi với vẻ chịu đựng:

-Thưa thầy, Tứ bất tử đã luyện bốn con vật đến độ xuất thần...

Một lần nữa lão Ôkô Na không để Masari nói hết câu. Lão nhanh nhẩu cướp lời, cái cách chặn họng đầy sốt sắng của lão cho thấy lão không hề chờ đợi các chàng trai Bạch kỳ lân trả lời, lão chỉ dựng lên câu hỏi như người ta dựng một chiếc bục sân khấu để từ trên đó lão trút xuống đầu các tên đệ tử bất cứ lời lẽ cay độc nào mà lão chợt nghĩ ra:

-Xuất thần cái đầu tụi bay. Mấy con vật nhí nhố đó mà tụi bay đánh không lại thì còn mong gì đối đầu với ai. - Lão nghếch mặt nhìn Tam phù thủy Bạch kỳ lân, từ trong bụi cây ngó ra Nguyên nghĩ là lão đang nheo mắt nhưng đôi mắt của lão chỉ là hai cái hốc nên nó chỉ có thể phỏng đoán qua cái nghiêng đầu khinh khỉnh của lão - Ta không đến nỗi quá khắt khe nhưng thiệt sự là ta thấy tụi bay giống y chang ba con gà trống.

Nếu cuộc đối thoại này diễn ra ban ngày và nếu không nấp xa quá, Nguyên tin rằng nó sẽ thấy gương mặt của các chàng trai Bạch kỳ lân đang chuyển màu gạch cua. Điều đó càng dễ tin hơn khi một trong ba phù thủy Hắc tinh tinh đột ngột “híc” lên một tiếng, một dấu hiệu cho biết nếu không vất vả kiềm chế hắn đã phá ra cười trước so sánh đầy nhạo báng của lão Ôkô Na.

Tam phù thủy Bạch kỳ lân đứng im như tượng, vẻ biết thân biết phận. Nhưng lão Ôkô Na vẫn không để yên. Những cái mũi lệch của đám đệ tử thân yêu phơi ra trước mặt, hễ lão không nhìn thì thôi, cứ mỗi lần chạm mắt vào bộ mặt dị dạng của bọn họ, lão như bị đánh thuốc độc.

-Tụi bay sử dụng mấy câu thần chú mèo quào của tụi bay cho ta coi thử nào! - Lão đột ngột rít lên, cánh tay khẳng khiu trỏ vào Bạch kỳ lân như sẵn sàng đâm thủng bụng lũ học trò.

Masari tính hỏi lại nhưng không dám. Anh vung cây gậy sừng hươu vào tảng đá bên cạnh, những luồng ánh sáng chói lọi từ đầu gậy phụt ra, chạm vào tảng đá kêu đánh “bùng” một tiếng; trong tích tắc khi luồng sáng lịm đi, Nguyên nhìn rõ tảng đá đã tan thành bụi.

-Cái đó kêu là thần chú gì? - Lão Ôkô Na nhếch mép, mặt không lộ cảm xúc, mà nếu có thì không ai có thể nhận ra trên khuôn mặt như ác quỷ của lão.

Masari lí nhí:

-Vàng hoa cúc, thưa thầy.

-Pila. - Lão Ôkô Na hất hàm - Tới phiên ngươi múa may đi.

Một chùm tia sáng tím lóng lánh từ đầu gậy của Pila bắn ra, chói lòa, rực rỡ và cũng như luồng sáng của Masari trước đó, trong nháy mắt đã làm biến mất một tảng đá lớn trên vách núi.

Lão Ôkô Na cười khảy, nghe giọng cười đó Nguyên tin nếu lão có một khuôn mặt bình thường như mọi người chắc chắn nó đã thấy môi lão trề ra:

-Cái này là cái gì?

Pila rụt rè:

-Dạ, thần chú Tím hoa cà, thưa thầy.

Cây gậy trên tay Karăm khẽ rung động, rõ ràng anh đang hồi hộp chờ lão Ôkô Na kêu đến mình. Nhưng lão không thèm liếc mắt đến Karăm. Lão ngửa mặt lên trời, cười ha hả:

-Thiệt là chưa từng thấy. Phải nói là lão Akô Nô dạy học trò hay thiệt... Ha ha ha...

Lão chợt ngưng cười, ánh mắt rớt bộp xuống bọn Bạch kỳ lân, mắc lại ở những khuôn mặt đang giần giật vì lo lắng, nói giọng khinh miệt:

-Hừ, Vàng hoa cúc, Tím hoa cà! Đúng là thần chú của lũ gà trống! Còn gì nữa hả tụi bay? Chắc thế nào cũng có ba cái tên õng ẹo như Trắng cọng mây, Xanh cọng cỏ chớ hả?

Lão thình lình vỗ mạnh tay lên chỗ ngồi làm tảng đá xịt khói tùm lum và mẻ mất một miếng lớn, cất tiếng mắng:

-Tụi bay ăn mặc thì đỏm dáng, thần chú thì ủy mị, gậy phép cũng bày đặt màu mè, lúc nào cũng nghĩ đến chuyện ra đòn phải đẹp, tên gọi phải kêu, ba cái thứ nhố nhăng đó chỉ hữu dụng để đi tán gái chứ đánh đấm cái cóc khô gì. Hừ, tụi bay thiệt giống lão Akô Nô quá sức. Thầy thì lãng mạn, trò thì chải chuốt, đúng là một lũ vừa hâm vừa ngớ ngẩn.

Nghe lão Ôkô Na mắng sa sả như tát nước, Tam phù thủy Bạch kỳ lân ngậm tăm không dám nói, cũng không cả thở. Nhưng khi lão nói đến câu cuối cùng thì Masari ngẩng phắt lên:

-Thầy chửi tụi con te tua thế nào cũng được, xin thầy đừng nói động đến thầy Akô Nô.

-Ha ha ha... - Phản ứng bất ngờ của Masari khiến lão Ôkô Na giận đến mức chỉ biết bật ra một tràng cười dài, những khớp xương trong người lão kêu lên cót két như tấm ván bị uốn cong - Hay lắm! Hay lắm! Thầy trò bênh nhau, đúng là cùng một giuộc. Bộ ta không phải là thầy tụi bay chắc?

Lão Ôkô Na vung tay áo thụng lên, hoàn toàn không báo trước:

-Hỗn láo nè!

Một luồng khói đen từ tay áo lão phụt ra, đập thẳng vào mặt Tam phù thủy Bạch kỳ lân. Nguyên giật mình nghe các chàng trai kêu lên một tiếng đau đớn và bắn tung ra xa, ngã chổng gọng trên cỏ như những con diều đứt dây, gậy trên tay văng mỗi nơi một chiếc.

Khi Tam phù thủy Bạch kỳ lân lóp ngóp bò dậy, Nguyên hoảng hồn thấy trên mặt họ máu trào ra như suối từ hai lỗ mũi.

-Hà hà, - lão Ôkô Na cười sằng sặc - Tím hoa cà thì được tích sự gì! Ta cho tụi bay thấy thế nào là Trào máu mũi nè.

Bây giờ Nguyên mới hiểu tại sao Tam phù thủy Bạch kỳ lân lộ vẻ lo lắng khi thấy thầy Akô Nô trừng phạt Hắc tinh tinh. Hẳn họ biết thế nào thầy Ôkô Na cũng sẽ điên lên mà trút giận lên đầu họ.

-Tụi bay còn đứng xớ rớ ở đó hả? - Lão Ôkô Na gầm lên - Lượm mấy cây gậy đánh chó của tụi bay lên rồi xéo đi cho rảnh!

Như chỉ chờ có thế, các chàng trai Bạch kỳ lân vội vàng nhặt nhạnh những chiếc gậy sừng hươu vương vãi trên cỏ, cúi đầu chào lão Ôkô Na rồi quay mình rảo bước, điệu bộ hấp tấp như cố chạy xa một bãi mìn sắp nổ.

Lão Ôkô Na nhìn theo những chàng trai Bạch kỳ lân, phun một bãi nước bọt rồi quay sang bọn Hắc tinh tinh nãy giờ vẫn im lìm theo dõi mọi diễn biến, giọng hài lòng:

-Ta ra tay như vậy là còn nể mặt lão Akô Nô lắm đó.

Phù thủy Hắc tinh tinh đứng bên trái đưa tay mân mó chiếc mũi lệch, bất bình nói:

-Con nghĩ hình phạt thầy dành cho Bạch kỳ lân chưa tương xứng với những gì tụi con nhận lãnh ở thầy Akô Nô.

-Tại tụi con chưa biết đó thôi. - Lão Ôkô Na an ủi học trò bằng thứ giọng người ta thường dùng để dỗ trẻ con - Tụi con bị vẹo mũi chỉ là chuyện vặt. Hơn nữa, dù mũi tụi con có thẳng thớm thì ta nghĩ cũng không nhờ thế mà tụi con trở nên đẹp trai hơn.

Lão bật cười hiểm độc:

-Còn bọn Bạch kỳ lân sau khi bị ta dùng thần chú đánh trào máu mũi, tụi nó sẽ mất đi khoảng một phần mười năng lượng pháp thuật. Cái đó mới đáng gọi là trừng phạt.

Lão lại bật cười khan một hồi; nhìn vẻ hoan hỉ của lão Nguyên nghĩ chắc là lão đang tự cho mình điểm mười về cái âm mưu thâm hiểm vừa rồi.

-Nói cho chính xác thì trình độ của tụi con so với Bạch kỳ lân thì ai hơn ai kém? - Lão chợt hỏi, giọng trở lại nghiêm trang.

-Con không biết, thưa thầy. - Phù thủy đứng giữa trầm ngâm đáp.

-Con nghĩ chắc là ngang nhau. - Phù thủy đứng bên phải dè dặt bổ sung.

-Hừm, sao lại có thể như thế được. - Lão Ôkô Na lại đập tay xuống tảng đá và làm mẻ thêm một miếng nữa - Tài nghệ của tụi con phải cao hơn Bạch kỳ lân chớ.

Thấy ba tên học trò không nói gì, lão Ôkô Na có vẻ bực mình:

-Dĩ nhiên là tụi con và Bạch kỳ lân không được phép so tài trực tiếp với nhau. Nhưng như vậy không có nghĩa là không so sánh được. - Cái khung xương của lão lại cựa quậy một cách nóng nảy trong chiếc áo thụng làm phát ra những tiếng răng rắc - Phe Hắc Ám lúc này như thế nào rồi? Gần đây tụi con có giúp trùm Bastu được chuyện gì đáng kể không? Cứ đem thành tích của tụi con và Bạch kỳ lân ra đọ với nhau là biết ngay tụi con cao hơn tụi nó bao nhiêu cái đầu chớ.

-Dạ.

Phù thủy đứng giữa mơ hồ đáp. Nguyên có cảm giác hắn cố tình né tránh những câu trả lời cụ thể, nhất là vụ ba con hắc xà bị tiêu tùng, sợ lão Ôkô Na thêm cáu.

Như nhìn xuyên qua đầu học trò, lão Ôkô Na bỗng nói:

-Ta sẽ dạy cho tụi con loại thần chú để đối phó với hai con linh xà ở hồ Ma. Chẳng có gì phức tạp hết. Thậm chí muốn thắng gã tổng quản lâu đài Sêrôpôk cũng không phải là chuyện khó. Nói chung, những gì Bạch kỳ lân không làm được thì tụi con phải làm bằng được.

Trước ánh mắt vui mừng của bọn Hắc tinh tinh, lão Ôkô Na đột ngột tặc lưỡi thay cho dấu chấm hết:

-Bây giờ thì tụi con đi đi. Ta có việc phải làm.

***


Ở trong bụi cây, Nguyên hồi hộp nhìn theo những bước chân của Tam phù thủy Hắc tinh tinh rồi lại quay về phía tảng đá lão Ôkô Na đang ngồi, cảm thấy trái tim như muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Suốt cả buổi chiều, Nguyên chờ đợi giây phút này nhưng khi lão Ôkô Na chuẩn bị hóa thành con basilic thì dạ dày nó quặn lại.

Nguyên cuống quít lôi cặp-kiếng-chống-hóa-đá trong túi ra tròng lên mắt, cảm thấy run sợ hơn nó nghĩ. Thậm chí khi lão Ôkô Na bắt đầu lắc lư trên tảng đá, Nguyên xấu hổ bắt gặp mình đang cố thu nhỏ người lại mặc dù nó thừa hiểu lão biết tỏng nó đang nấp trong này.

Trong một thời gian ngắn, Nguyên thấy rõ lão Ôkô Na bắt đầu phình lên và dài ra, chẳng mấy chốc một con rắn lớn thế chỗ của lão che kín cả tảng đá.

Con rắn uốn éo trườn xuống, lừ lừ bò về phía bụi cây. Mặc dù biết con basilic đang đến chỗ cái xác của Kăply để hút nọc độc, Nguyên vẫn dựng tóc gáy khi thấy những khúc mình vàng khè của nó mỗi lúc một quăng đến gần, cứ mỗi lần như thế lại làm phát ra những tiếng lạch bạch như một người đang vỗ tay vào bụng.

Nguyên phải cố hết sức để khỏi ọc ra những gì nó nhét vô bao tử hồi trưa khi ánh mắt nó chạm phải hai cái cánh quái dị trên mình con basilic, cái mào đỏ như máu và dưới đó một chút là cặp mắt hình tam giác đang không ngừng quét tới phía trước những tia sáng trắng như hai chiếc đèn pha.

Con basilic vừa trườn tới chỗ Kăply vừa lúc lắc đầu, ánh mắt nó thỉnh thoảng lại chiếu ngay bụi cây khiến Nguyên khiếp hãi tưởng như cả người đang bị phơi ra trước luồng sáng chói lòa kia. Cuối cùng, Nguyên nhắm nghiền mắt lại, hoàn toàn không tự chủ, răng trên cắn chặt môi dưới để khỏi bất thần bật ra một tiếng rên, tay nắm chặt tay con khỉ Chacha đang co ro bên cạnh.

Nguyên ngồi rúm người trong bụi cây, không trông thấy con basilic đã hút nọc độc cho Kăply như thế nào, chỉ đến khi nghe tiếng quăng mình của con basilic mỗi lúc một xa, nó mới dám he hé mắt nhìn.

Không đợi Nguyên nhắc, con Chacha nhào ra khỏi chỗ nấp, ẵm lấy Kăply lúc này vẫn chưa động đậy, quay mình vọt đi như tên bắn trên con đường dẫn ra khỏi thung. Vắt giò lên cổ, Nguyên hối hả chạy theo, nhìn những cây thông lùn lùi vùn vụt lại sau lưng, nó nhớ ra từ bé tới giờ chưa bao giờ nó chạy nhanh đến thế.

Vừa đến chân ngọn đồi trọc, Nguyên tái mặt nghe những tiếng lộp bộp sau lưng, biết con basilic đã tiêu hóa xong chất độc và đang điên cuồng rượt theo.

Người run bắn, Nguyên lao thục mạng về phía trước, chân dẫm bừa lên cánh đồng hoa, cố bám sát con Chacha đang ôm Kăply phóng như gió trước mặt.

Nguyên chạy và chạy, băng suốt chiều dài cánh đồng, đầu óc gần như mụ đi. Tiếng thở phì phì của con basilic càng lúc càng lớn ở sau lưng khiến chân Nguyên đôi lúc như quíu lại, đã mấy lần nó vấp té nhưng gượng dậy được và cắm cổ chạy tiếp, lòng dậy lên ao ước cháy bỏng là được mọc thêm đôi cánh ở dưới chân như mấy con ngựa của Yan Dran.

Từ trong thâm tâm, Nguyên cũng trông chờ sự xuất hiện của thầy Akô Nô, mặc dù nó thừa biết đó là hy vọng hết sức mong manh.

Cho đến khi Nguyên trượt chân té thêm một lần nữa, không biết là lần thứ mấy, người lăn lông lốc, cặp kiếng của Suku văng đi đâu mất trong khi tiếng khè khè gấp gáp của con basilic đã gần như ở ngay sau gáy thì thiệt tình mà nói, Nguyên đã nghĩ rằng nó không còn sống nữa.

Đúng vào lúc Nguyên không còn nuôi nấng một tia hy vọng nào, thậm chí còn đang nghĩ nên tròng bộ mặt nào để đón nhận cái chết thì nó thấy tay nó bị ai đó nắm chặt và người nó thình lình bị nhấc bổng lên.

Thầy Akô Nô? Nguyên reo lên trong đầu và ngước mắt nhìn lên, cảm động muốn khóc khi thấy kẻ đang lôi nó bay trong không là con Chacha. Bây giờ Nguyên mới biết là nó đã té ngay ở nơi bắt đầu cánh đồng hoa và trước mặt nó lúc này là hai con phi mã đang bồn chồn dậm chân thình thịch trên mặt cỏ ra chiều thúc giục.

Trên lưng một con phi mã, Kăply đang nằm vắt ngang. Bằng một sức mạnh phi thường so với thân hình nhỏ thó của nó, Chacha liệng Nguyên lên lưng con ngựa thứ hai rồi nó tự mình nhảy lên ngồi đằng sau Kăply.

Hai con ngựa lập tức cất mình bay lên không, vừa kịp thoát cú mổ đầy giận dữ của con basilic trong tầm một phân không hơn không kém.

Đêm đó, Nguyên bám lấy cổ ngựa, đánh một giấc mê man, không mộng mị. Thoạt đầu, nó không muốn chợp mắt, với niềm tin nếu hai con phi mã cao hứng bay vòng quanh núi Lưng Chừng như kiểu phi thuyền bay quanh mặt trăng, nó sẽ được tận mắt nhìn thấy một hòn núi nằm lơ lửng giữa trời là như thế nào. Nhưng hoặc là nó quá mệt mỏi sau những gì vừa trải qua, hoặc là có một sức mạnh huyền bí nào đó kéo sụp mí mắt nó, Nguyên đi vào giấc ngủ một cách nhanh chóng, hoàn toàn ra ngoài sự nhận thức của nó nhưng phải nói là hết sức thỏa thuê.

Khi Nguyên bị những tia nắng sớm bò trên mặt đánh thức, nó mở mắt ra và sợ đến líu lưỡi khi thấy có người đang nhìn mình mỉm cười.

Thấy nó định nhảy bắn lên, người đó chận tay lên vai nó, cười hì hì:

-Mày làm gì vậy? Tao đây mà.

Phải một lúc Nguyên mới thôi sửng sốt và khi đã hoàn hồn thì đột ngột nó làm một cái chuyện mà không bao giờ nó nghĩ có ngày nó sẽ làm là òa ra khóc. Nó khóc nức nở, khóc ngon lành, vừa khóc vừa rưng rức nói:

-Tiên sư mày, Kăply!

Kăply ôm choàng lấy bạn và đến phiên nó rưng rưng:

-Kể tao nghe đi. Tụi mình đang ở đâu? Và tại sao mà tụi mình ở đây?

-Mày... mày... - Nguyên hinh hích - lẽ ra thì mày đã chết rồi... thằng cà chớn...

Kăply đã định trêu bạn, vì thiệt sự thì nó thấy thằng Nguyên bữa nay lạ quá. Đối với Kăply, thằng bạn đại ca của nó mà chịu xì ra nước mắt trông còn hoang đường hơn là con nhỏ trùm sò Păng Ting chịu xì tiền. Nhưng nghe Nguyên nói vậy, mặt Kăply đuỗn ra:

-Mày nói sao? Tao đã chết rồi ư?

Nguyên lấy tay áo quẹt nước mắt lẫn nước mũi, trông nó dơ dáy y như thằng K’Tub nhưng vì đang nóng lòng nghe nó trả lời, Kăply cố dìm câu chế nhạo bằng một tiếng khịt mũi ầm ĩ.

-Mày còn nhớ lúc tụi mình ở thung lũng Plei Mo không? - Nguyên nhìn bạn bằng cặp mắt đỏ hoe, sụt sịt hỏi.

-À, à, nhớ. - Kăply gãi đầu - Nhớ chứ. Lúc đó tụi mình nhìn thấy mấy pho tượng bằng đá.

-Rồi con basilic xuất hiện... - Nguyên nhắc.

-Ờ, đúng rồi, con basilic thình lình hiện ra từ phía sau và rượt theo tụi mình. - Kăply vỗ đùi một cái “bốp”, la lên - A, tao nhớ rồi, nó đã mổ tao một phát đau điếng ngay đùi.

Kăply vén vạt áo lên, ngoái cổ quan sát xem vết cắn nằm ở đâu.

-Đây nè. - Nó xoa xoa tay lên vết thương vẫn còn bầm tím, nhe răng cười - May mà nọc con basilic không độc...

Nguyên nhìn bạn, thở một hơi dài:

-Nghe đây nè, đồ ngốc. Ở xứ Lang Biang có ba thứ tuyệt độc. Đó là nhựa độc của quả hiến sinh, chất độc trong móng rồng Ouroboros và nọc độc của con basilic. Đó là những loại độc không có thuốc giải. Những ai bị con basilic mổ trúng, chỉ có thể kéo dài mạng sống tối đa là một ngày...

-Cái gì? - Kăply lắp bắp, mặt xám ngoét - Hổng lẽ tao sắp chết rồi ư?

-Sắp chết cái con khỉ. - Nguyên mỉm cười - Từ lúc mày bị con basilic mổ trúng đến nay đã gần ba ngày rồi...

Trước vẻ ngỡ ngàng của Kăply, Nguyên từ từ thuật lại những gì đã xảy đến với tụi nó trong mấy ngày qua.

Xếp bằng trên cỏ, Kăply nghệt mặt hả họng nghe, vẻ đăm đăm như đang nghe một vở kịch truyền thanh với vô số những cung bậc và cao trào: hấp dẫn, căng thẳng và rất nhiều bi lụy, nhất là sau cái chết của chính nó. Kăply cố không ngắt lời bạn, che giấu sự ngứa ngáy bằng cách nóng nảy bứt những cọng cỏ trong tầm tay và đến khi Nguyên kết thúc câu chuyện thì quanh chỗ Kăply ngồi chỉ còn là mảnh đất trụi.

-Tao không thể hiểu được tại sao trùm Bastu lại tốt với tao như vậy? - Kăply nhăn nhó vò đầu.

-Nghe tao nói đây, Kăply. - Nguyên nghiêm mặt - Về nguyên tắc, trùm Hắc Ám không bao giờ đối xử tốt với các thành viên của lâu đài K’Rahlan, đặc biệt khi người đó được chọn làm chiến binh giữ đền. Bastu hành động tuy khó hiểu nhưng tất cả đều phục vụ cho những âm mưu thầm kín của hắn thôi.

-Thế mẹ của K’Brêt còn sống à? - Kăply chợt nhớ đến câu chuyện kỳ quái ở hồ Ma.

-Mày cũng biết rồi đó, chim đầu người là một dạng sống dở chết dở. Nếu tụi mình đem về được những quả táo vàng thì lúc đó mới có thể nói tới chuyện bà Ka Lên còn sống hay không.

Kăply quay đầu nhìn quanh:

-Thế đây là núi Lưng Chừng sao? Sao tao hổng thấy một cây táo nào hết vậy?

Nguyên đặt tay lên vai Kăply:

-Ngay bây giờ, tao và mày sẽ đi lòng vòng thăm dò. Dẫu sao, mày sống lại mới là điều quan trọng nhất đối với tao. Còn những quả táo vàng, tao nghĩ sớm muộn gì tụi mình cũng sẽ tìm thấy. Chỉ có điều đáng lo là làm sao vượt qua được sự canh giữ của con rồng Ouroboros, và nhất là đừng chạm trán với lão Ôkô Na thổ tả kia.

Kăply vụt hỏi:

-Mày có nghĩ lão Ôkô Na chính là chủ nhân núi Lưng Chừng không?

-Tao cũng từng nghĩ về điều này. - Nguyên nhún vai - Nhưng có lẽ là không phải. Chủ nhân núi Lưng Chừng là chiến binh giữ đền đời thứ nhất, có bổn phận trấn áp các thế lực hắc ám. Trong khi đó, lão Ôkô Na không những cho bọn Hắc tinh tinh đi giúp trùm Bastu mà bản thân lão có thể hóa thành con basilic, một khả năng chỉ có ở các phù thủy hắc ám.

-Hay là thầy Akô Nô? - Kăply cắn môi và trừng trừng nhìn Nguyên, có vẻ sẵn sàng lăn ra xỉu nếu thằng bạn đại ca của nó gật đầu.

-Cũng không phải nốt. - Nguyên thò tay dứt một sợi tóc, lắc đầu nói - Nếu thầy Akô Nô là chủ nhân núi Lưng Chừng thì với trách nhiệm và trình độ pháp thuật cao tột bậc của thầy không đời nào thầy lại để cho lão Ôkô Na tự tung tự tác như vậy. Có thể thấy thầy cực kỳ căm ghét và ghê tởm lão này nhưng rõ ràng thầy không làm gì được lão. Mày nhớ coi, trong lịch sử xứ Lang Biang, ngoài Tam tiên ra, làm gì có nhân vật nào được coi là ngang ngửa với chủ nhân núi Lưng Chừng. Hoàn toàn không có, đúng không?

-Ờ, đúng... đúng...

Kăply ấp úng đáp, thấy trong những trường hợp cần suy luận rắc rối như thế này, nghĩ ngợi bằng cái đầu của thằng bạn mình vẫn là tốt nhất. Nhưng rồi một thắc mắc chợt chớp lên trong đầu nó:

-Thế chủ nhân núi Lưng Chừng đâu?

-Tại sao bọn ngươi không nghĩ ngài đang đi chơi đâu đó và hiện nay không có mặt ở hòn núi này?

Tiếng thầy Akô Nô vang lên bên trái cánh đồng khiến Nguyên và Kăply quay phắt về phía phát ra tiếng nói, mừng rỡ:

-Chào thầy ạ.

Thầy Akô Nô nhìn Nguyên, cười khì khì:

-Tối hôm qua, ta rất tiếc không làm gì để giúp ngươi được mặc dù biết là ngươi bị con basilic làm cho sợ vãi mật.

Nguyên chớp mắt:

-May mà tụi con đã được hai con phi mã cứu đi, thưa thầy.

-Tốt! Tốt lắm! - Thầy Akô Nô đưa mắt nhìn Kăply, câu nói vừa rồi chính xác là dành cho nó, rồi như thấy chưa đã, thầy lại gục gặc đầu - Tốt! Tốt lắm! Rất tốt!

Kăply cúi đầu, giọng xúc động:

-Con không biết phải nói sao để cảm ơn thầy...

-Cảm ơn cái con khỉ! - Thầy Akô Nô sầm mặt - Nếu ngươi không phải là chiến binh giữ đền đời thứ ba, ta cứu ngươi làm cái cóc gì chớ. Hừm, giả dụ ngươi chỉ là một thằng nhóc bình thường thì ta để ngươi chết ngắc từ lâu rồi, hổng việc gì phải quỵ luỵ lão Ôkô Na cho nhục.

Rõ ràng cứ nhắc đến lão Ôkô Na là thầy nổi xung. Thầy giãy đùng đùng trên hai chân, nói như tát nước vào mặt khiến không chỉ Kăply mà cả Nguyên cũng phát hoảng đến đờ mặt ra.

-Thôi, bỏ qua đi. - Thầy Akô Nô phẩy tay, làm như lão Ôkô Na là một con ruồi đang vo ve đâu đó và thầy đang ra sức đuổi lão đi - Bây giờ chuyện cần kíp là bọn ngươi phải đi hái mấy quả táo vàng rồi chuồn lẹ khỏi núi Lưng Chừng trước khi chủ nhân hòn núi này kịp tóm cổ bọn ngươi.

Nguyên như người ngủ mê choàng tỉnh:

-Những cây táo đó ở đâu hả thầy? Từ hôm qua đến giờ con hổng thấy chúng đâu hết.

-Bọn ngươi đi theo ta.

Thầy Akô Nô nói và băng băng xông vào giữa cánh đồng hoa.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 28-11-2014 00:01:41 | Xem tất
Chương 22. Rồng Ouroboros


Cuối cánh đồng là những ngọn đồi trọc, nơi Nguyên đã đến rồi. Nhưng thầy Akô Nô không rẽ theo con đường có những cây thông lùn dẫn đến thung lũng hôm qua.

Thầy băng băng quẹo phải, nơi không hề có lối đi. Trong khi Nguyên tò mò chưa biết thầy làm cách nào để vượt qua những bụi rậm toàn loại cây cao ngang ngực với những chiếc lá cứng, dài và nhọn như mũi giáo thì nó bỗng trợn tròn mắt lên: Thầy Akô Nô đi tới đâu, những bụi rậm tự động tách ra tới đó, rất giống với cái cách nhường đường của dãy hàng rào ở công viên Các Thứ Kẹo mà nó và Kăply từng chứng kiến.

Nguyên, Kăply và con Chacha lẽo đẽo bám theo, đến khi những tia nắng mặt trời gần như xuyên thẳng xuống từ trên đỉnh đầu, mọi người đã vòng ra phía sau ngọn đồi. Nguyên ngạc nhiên thấy một vườn cây xanh um đập vào mắt, chưa kịp hỏi, thầy Akô Nô đã quay lại, nói nhỏ:

-Đây là vườn táo.

Vẻ bình tĩnh tuột khỏi gương mặt Nguyên và Kăply. Hai đứa kiễng chân, căng mắt cố nhìn xem những quả táo vàng nằm ở đâu trên cây nhưng khoảng cách quá xa, tụi nó chẳng nhìn thấy gì.

-Bọn ngươi có thấy bờ đê bao quanh khu vườn không? – Thầy Akô Nô bỗng hỏi.

-Dạ thấy.

-Bọn ngươi có biết đó là cái gì không?

-Dạ không. – Kăply nín thở – Đó là cái gì hả thầy?

-Rồng Ouroboros đó.

Như bị nhét một đống cá pha lê vô họng, Nguyên và Kăply đột nhiên ú ớ:

-Rồng… Ouro… ro… bo… ros…?

Hai đứa mặt mày xanh lè, kích thước và chiều dài khủng khiếp của con rồng khiến tụi nó thấy tay chân tự nhiên lạnh ngắt như rơi vào một hố băng.

-Một ngàn năm trăm năm trước, con quái này từng canh giữ bộ Lông Cừu Vàng ở xứ Mũi Lõ. – Thầy Akô Nô nghiêm trang giải thích – Nó có hai đầu, khi đầu này ngủ thì đầu kia thức, do đó không ai đột kích hoặc đánh lừa nó được. Chất độc trong móng chân nó lại cực kỳ lợi hại, ai để nó chộp trúng coi như chết chắc.

-Thế làm sao tụi con… tụi con…

Kăply lắp bắp hỏi, vừa nói nó vừa sè sẹ lùi ra phía sau.

-Ngươi yên tâm, nó chưa phát giác ra chúng ta đâu. – Thầy Akô Nô nhìn Kăply qua khóe mắt, vẻ chế nhạo – Rồng Ouroboros đến nay đã già khọm rồi. Trong vòng hai trăm năm trở lại đây, thị lực và thính lực của nó đã không còn bén nhạy nữa. Hiện nay nó chỉ phát hiện được vật lạ trong vòng bán kính năm mươi mét thôi.

Nguyên lo lắng:

-Thầy ơi, ngay cả như vậy tụi con cũng hầu như không có cơ hội nào.

-Ngươi câm mồm lại đi, đồ thỏ đế! Thế mà cũng gọi là chiến binh giữ đền! – Thầy Akô Nô thình lình nổi quạu – Ta đã nói hết đâu! Nghe cho kỹ nè! Rồng Ouroboros thực ra cũng có nhược điểm. Đây là một trong những bí mật lớn nhất của xứ Lang Biang.

Nguyên và Kăply hồi hộp dán mắt vào mặt thầy Akô Nô, dường như không cả thở. Thậm chí tụi nó tập trung đến mức không biết cả hai đều đưa tay vò đôi tai đến đỏ tấy như muốn sàng lọc lại bộ nghe nhằm chộp bắt vận may mà thầy Akô Nô sắp cung cấp cho tụi nó, dù có thể cái vận may đó nhỏ xíu, không đủ cho một muỗng cà phê.

-Ouroboros là một con rồng bị dị tật bẩm sinh. – Thầy Akô Nô chậm rãi – Nó chỉ thuận bên trái. Nửa mình bên phải của nó không linh hoạt bằng.

-Con hiểu rồi, thưa thầy. – Nguyên nói, mặt rạng dần ra – Có phải thầy muốn tụi con xông vào vườn táo lúc cái đầu bên trái của con rồng Ouroboros đã ngủ?

Thầy Akô Nô toét miệng cười:

-Hì hì, ta nghĩ là ta muốn nói vậy đó. Khi bị con quái rượt, bọn ngươi lập tức chạy về bên phải. Và nhớ chạy vòng tròn. Vòng tròn càng nhỏ càng tốt.

-Chi vậy thầy? – Kăply thắc mắc.

-Đừng hỏi nhiều. – Thầy Akô Nô khoát tay – Nếu bọn ngươi làm đúng theo lời ta, đến một lúc con quái sẽ bất động. Nhưng nó chỉ bất động trong một thời gian ngắn thôi, do đó vừa thấy con quái đứng im, bọn ngươi phải nhanh chóng thoát thân liền.

-Thế còn những quả táo vàng, thưa thầy? – Nguyên chưng hửng – Tụi con còn phải hái táo nữa chớ!

Thầy Akô Nô bĩu môi:

-Có khoảng hai chục đứa cỡ bọn ngươi cũng đừng hòng rớ vào những quả táo đó được.

Trước ánh mắt dò hỏi của Nguyên và Kăply, thầy chỉ tay vào những tán lá trước mặt, thủng thỉnh nói:

-Dĩ nhiên là những quả táo vàng đang ở trên cây. Nhưng chúng dính rất chặt vào cuống lá, chặt đến mức không một ai, cũng không một loại thần chú nào trên thế gian này có thể bứt chúng ra khỏi cây được.

-Sao kỳ vậy thầy? – Kăply lại láu táu hỏi.

Thầy Akô Nô đưa tay xoa xoa chỏm tóc loe hoe, tặc tặc lưỡi:

-Bọn ngươi không biết đó thôi. Cây táo vàng ở núi Lưng Chừng còn gọi là cây Đời. Số lá cây trong khu vườn này bằng với số người sống ở xứ Lang Biang. Trên mỗi chiếc lá đều có ghi tên một người. Ai chết đi thì dĩ nhiên chiếc lá có ghi tên người đó sẽ rụng xuống. Ai sắp chết thì chiếc lá của họ sẽ khô gần hết, chỉ còn một góc nhỏ còn xanh. Thời gian còn được sống càng ngắn thì phần xanh càng nhỏ.

Nguyên và Kăply há hốc miệng ra nghe, sững sờ và khiếp hãi.

-So với những vận mạng mà vườn táo này nắm giữ, khu rừng tiên tri trên mặt đất chỉ là trò trẻ con. – Thầy Akô Nô vung tay, hào hứng tiếp – Mỗi cây táo vàng chỉ sinh một quả, được gọi là quả của tri thức, ma thuật và sức mạnh, hạt táo có hình ngôi sao năm cánh, bỏ hạt táo trong túi áo có thể bảo vệ được mạng sống trước mọi hiểm họa.

Lòng Nguyên chùng xuống theo từng câu nói của thầy Akô Nô. Sự thật về vườn táo ở núi Lưng Chừng có lẽ là một bí mật rất ít người biết và dĩ nhiên không ghi trong sách, bằng chứng là nhà thông thái Suku cũng chẳng biết mô tê gì về những điều thầy Akô Nô vừa kể. Và những điều đó khiến Nguyên gần như bị sốc. Nó nhìn thầy Akô Nô, nặng nề hỏi:

-Thế tụi con không có cách gì hái được những quả táo kia hả thầy?

Thầy Akô Nô chưa kịp đáp, Kăply đã ré lên bằng thứ giọng phải nói là xẳng hết sức:

-Thầy nói sao ấy chứ. Nếu những quả táo vàng không thể rời khỏi cây thế sao trước đây Đại tiên ông Mackeno đem về được một quả?

-Hỏi hay lắm! – Thầy Akô Nô nheo mắt nhìn Kăply – Nhưng ta nhớ ta đâu có nói là không hái được những quả táo đó. Ta chỉ nói là không người nào có khả năng bứt chúng ra khỏi cây thôi. Không một người nào, ngươi hiểu chưa?

-Chưa hiểu! – Khuôn mặt Kăply vẫn khuất sau chiếc mặt nạ quạu quọ, nó nói như gây gổ – Thầy nói vậy hổng lẽ Đại tiên ông Mackeno không phải là người?

-Ngươi cóc biết gì mà cũng làm om sòm. – Kăply quạu khiến thầy Akô Nô đâm quạu theo – Lão Mackeno đâu có tự tay hái quả táo đó.

-Vậy là ai hả thầy? – Nguyên vội vã cất tiếng, vừa tò mò vừa muốn dập tắt bầu không khí căng thẳng Kăply vừa khuấy lên.

-Đó chính là bầy khỉ Manibum, còn được biết dưới biệt danh những kẻ cướp vui tính. Mỗi ngày, trước khi mặt trời lặn, bao giờ bọn khỉ này cũng kéo đến vườn táo đùa giỡn và hái quả trên cây chơi trò ném nhau. Theo truyền thuyết, bọn khỉ Manibum từng có ơn với phúc thần Kalăm và được ngài ban cho một quyền năng đặc biệt. Đó là trở thành sinh vật duy nhất có thể bứt rời những quả táo vàng ra khỏi cây Đời.

Kăply nhăn nhó:

-Ngày nào bọn chúng cũng kéo tới quậy tưng như vậy, chắc vườn táo trụi lủi từ đời tám hoánh rồi…

Thầy Akô Nô nhếch môi:

-Nếu nói như ngươi thì cây Đời là loại cây tầm thường sao? Ngươi phải biết, cứ mỗi quả táo rụng xuống đất thì ngay ở chỗ cuống cũ một quả táo khác lại mọc ra.

Thầy cười hì hì:

-Trước đây, lão Mackeno lợi dụng lúc nhá nhem hóa thành một con khỉ lẳng lặng chui vào vườn táo, rình bắt được một quả…

Nguyên reo lên:

-Ra là thầy muốn tụi con cầm chân con rồng Ouroboros để con Chacha có thì giờ trà trộn vào bọn khỉ Manibum?

-Chính xác là ta đang nghĩ như vậy đó. – Thầy Akô Nô gật gù, vẻ hài lòng. Chợt thầy trở nên nghiêm trọng, gương mặt trẻ con nhăn lại như làm nũng nhưng nội dung lời dặn dò của thầy khiến Nguyên và Kăply không cảm thấy buồn cười chút nào – Trước khi bọn ngươi bắt đầu, ta lưu ý một điều tối quan trọng. Đó là bọn ngươi phải kết thúc mọi chuyện trước khi trời sập tối rồi chạy lẹ tới chỗ hai con phi mã, quay về ngay. Nếu bọn ngươi để lão Ôkô Na bắt gặp, mọi chuyện coi như hỏng bét bè be.

Kăply ngó quanh:

-Lão ta hiện đang ở đâu hả thầy?

-Lão là loại người sống về đêm. – Thầy Akô Nô chép miệng – Cho đến chừng nào trời chưa tối hẳn, lão không đáng sợ với bọn ngươi đâu.

Thầy Akô Nô tự nhiên biến mất trong khi hai đứa trẻ còn bao nhiêu điều chưa kịp hỏi, y như thình lình độn thổ giữa chừng câu chuyện để làm người đối thoại cụt hứng là thói quen ưa thích của ông thầy trẻ con này.

***


Nguyên và Kăply cùng con Chacha giấu mình trong bụi rậm dưới chân đồi, thấp thỏm chong mắt nhìn về phía khu vườn táo. Ở trên cao, mặt trời uể oải nhích xuống từng nấc một như chẳng có việc gì đáng làm hơn là chọc cho bọn trẻ sốt ruột chơi.

-Tao chẳng hiểu tại sao chạy vòng tròn lại làm cho con rồng Ouroboros bất động? – Kăply hắng giọng, tin rằng tán gẫu là cách tốt nhất để đốt cháy thời gian.

-Tao cũng hổng biết. – Nguyên đăm chiêu, không quên dứt một lúc hai, ba sợi tóc – Nhưng tao nghĩ khi nói như vậy, thầy Akô Nô đã tính toán hết rồi.

Kăply lại băn khoăn:

-Nếu không thuận bên phải, con quái đó có thể không chộp được tụi mình, nhưng nếu nó nổi hứng phun lửa ra thì sao? Chắc tao và mày thành tro quá hà.

-Thầy Akô Nô không nói gì về chuyện này có nghĩa là con rồng Ouroboros sẽ không phun lửa.

-Hổng có con rồng nào là không phun lửa. – Kăply phản đối – Nhất là với một con rồng có nhiệm vụ canh giữ khu vườn đặc biệt này. Rồng mà không phun lửa chẳng khác nào chó mà không biết sủa.

Nguyên so vai, giọng không tự tin lắm, giống như nó đang thử cắt nghĩa xem tại sao con Ouroboros không xài tới lửa:

-Có thể chính vì vai trò quan trọng của những cây Đời mà rồng Ouroboros không dám phun lửa. Nó sợ sức nóng ảnh hưởng đến đời sống của vườn cây.

Nguyên nói thêm bằng giọng cao hơn:

-Hơn nữa, nó cần quái gì dùng tới lửa khi mà những móng chân cực độc của nó đã là thứ vũ khí hết sức ghê gớm rồi.

Kăply không hỏi nữa, nó thấy sự phân tích của Nguyên không thuyết phục lắm nhưng quả thực thì nó cũng không thấy cách giải thích nào khá hơn.

Kăply ngồi im, lắng nghe gió đi trong bụi cây, mắt nhìn đau đáu vào chỗ con rồng Ouroboros đang nằm bao quanh khu vườn táo, thử hình dung lát nữa con quái vùng dậy và rượt đuổi tụi nó như thế nào. Kăply càng tưởng tượng bụng càng thót lại, bất giác nó nhìn đăm đăm xuống hai cẳng chân mình, như thể nuôi dưỡng một hy vọng mơ hồ về một cặp cánh sẽ bất thần mọc ra ở chỗ nào đó cạnh đầu gối hay nhích xuống một chút về phía dưới, gần gót chân.

“Mọc ra!”, có lúc Kăply bắt gặp mình đang lẩm bẩm như thể đọc thần chú, và dĩ nhiên vì nó chưa học qua một câu thần chú nào như vậy nên chẳng có gì mọc ra ở dưới chân nó hết, và nó lại buồn phiền đưa mắt ngắm nghía bóng những chiếc lá nhọn in xuống đất thoạt dài thoạt ngắn do nhánh cây sau lưng nó đong đưa trong ánh nắng chiều.

-Gần đến giờ rồi!

Kăply giật bắn khi nghe tiếng Nguyên vang lên bên tai. Nó bừng tỉnh và lật đật quét mắt về phía khu vườn táo, phát hiện nhiều bóng đen đang nhảy nhót trên các cành cây và nếu nó không nhìn thấy thì những tiếng khọt khẹt văng vẳng trong gió cũng đủ cho nó biết bọn khỉ Manibum đã xuất hiện.

-Tụi mình phải làm gì đây? – Kăply hỏi, cố giữ giọng đừng run.

Nguyên đứng dậy, nói như ra lệnh:

-Phải đến gần con rồng Ouroboros hơn nữa. Con quái đó mà chưa ngóc đầu lên thì tụi mình hổng biết hiện nay cái đầu nào của nó đang thức.

Kăply gần như bị Nguyên lôi về phía trước, mặc dù nếu thằng bạn đại ca buông tay nó ra thì chắc chắn nó sẽ không bỏ chạy. Nó vẫn đi, chắc thế, nhưng có lẽ là đi từng bước rất ngắn, như kiểu di chuyển của người bị trói chặt hai chân.

Đầu rồng Ouroboros nằm ở mé phải khu vườn, Nguyên và Kăply chỉ nhận ra điều đó khi con quái bất thần ngóc đầu lên. Mặc dù nhận ra cái đầu bên trái đã ngủ, sự mừng rỡ đó vẫn không giúp hai đứa trẻ bớt run khi nhìn thấy vẻ dữ tợn của cái đầu còn lại.

Đó là một cái đầu lân với bờm sư tử. Cặp sừng ngắn, nhọn, cái trán dồ, đến đôi mắt tròn quay, to như lục lạc, cái mũi bự chảng, tiếp theo là cái miệng đang há rộng, đỏ lòm viền quanh bởi chòm râu vàng, dài thậm thượt, toàn bộ ngó giống như cái đầu của một quái nhân nghiện rượu, trông càng đáng sợ hơn với một cái đầu khác đang ngáy khò khò ở bên cạnh.

Con Ouroboros đứng vươn mình trên hai chân trước, kéo lên cả một khúc mình dài ở phía sau với những chiếc vảy trắng lóa như dát bạc và hai đứa trẻ điếng hồn thấy cả khu vực chung quanh kêu ầm ầm khi nó đứng dậy.

Con rồng quay đầu về phía Nguyên và Kăply, khịt khịt mũi, hơi thở của nó nóng đến mức hai đứa phải liếc mắt xem vạt áo trước ngực mình đã cháy thành tro hay chưa.

Kăply cảm thấy sự sợ hãi của mình phản chiếu trong ánh mắt của con rồng Ouroboros và điều đó càng làm nó hãi sợ hơn, đến mức gần như không đứng vững nổi. Nó thêm run vì nghĩ rằng con quái dường như cũng đọc được tâm trạng của nó.

-Nhớ chạy về bên trái…

Kăply nghe tiếng Nguyên thì thào bên tai. Nó chưa kịp hiểu ra tại sao thầy Akô Nô dặn tụi nó chạy về bên phải mà Nguyên lại kêu nó chạy qua bên trái thì con Ouroboros đã bắt đầu tấn công.

Khúc mình dài ngoằng và to lớn của con Ouroboros không hề là gánh nặng đối với nó. Nó chỉ quăng mình một cái là cái đầu dữ tợn đã ở cách bọn trẻ chừng hơn mười mét.

Hoàn toàn không nhận thức được mình đang làm gì, Kăply quýnh quáng lao người về phía tay phải và ngay lập tức nó bị Nguyên tóm tay kéo lại.

-Đồ ngu! Bên phải của nó tức là bên trái của mình!

Nguyên gầm gừ và lôi Kăply phóng ngược lại, vừa kịp thoát một cú chụp của con quái, mạnh đến mức đất cỏ bay tứ tung.

Kăply lúc này không biết hồn vía của mình ở đâu. Sự khiếp đảm khiến nó đáng lẽ phải nhanh nhẹn hơn bao giờ hết, lại đột nhiên trở nên mụ mị và chậm chạp như một con gấu vừa thức dậy sau kỳ ngủ đông. Nó máy móc chạy theo Nguyên, như bị cột chặt vào thằng này bằng dây cáp, chuyển động hoàn toàn theo quán tính.

Nguyên kéo Kăply chạy loanh quanh, khổ tâm vì không làm sao thu nhỏ vòng tròn lại trong một thời gian ngắn.

Ở phía sau, con rồng Ouroboros tiếp tục tung ra những cú chụp mãnh liệt bằng chân trước, suýt vồ trúng bọn trẻ mấy lần, trong chốc lát đã cày nát cả một vùng rộng, và khúc mình của nó theo đà rượt đuổi mỗi lúc một dài ra, đến khi Nguyên và Kăply bắt đầu chạy qua vòng thứ hai thì toàn bộ thân mình của con quái đã hiện ra hoàn toàn.

Nguyên và Kăply chạy bán sống bán chết, không dám nhìn thẳng vào con rồng khổng lồ, cũng không đủ thì giờ để quan sát xem con Chacha đã lẩn vào khu vườn táo hay chưa.

Nguyên vừa chạy, vừa né trái né phải, tay vẫn không dám buông Kăply ra. Mồ hôi dầm dề, chảy vô mắt cay xè nó cũng không dám lấy tay lau. Nếu con rồng Ouroboros thuận bên phải, có lẽ mình và Kăply đã bị chụp trúng cả chục lần rồi, Nguyên phập phồng nghĩ và cố thu vòng tròn nhỏ lại, mặc dù cho đến lúc này nó vẫn không hiểu tại sao thầy Akô Nô dặn dò như thế. Vòng tròn càng nhỏ có nghĩa tụi nó càng lúc càng bị con quái vây chặt, đến lúc đó chẳng cần vồ trúng, chỉ cần cuộn tụi nó vào giữa những khúc mình, ép mạnh một cái, con Ouroboros sẽ nghiến tụi nó thành bột một cách dễ dàng.

Đang hoang mang trước viễn ảnh u ám đó, Nguyên bỗng nghe vang lên một tiếng “sực”, cảm thấy bầu không khí chung quanh đột ngột lặng đi, những tiếng động điếc tai do những cú chụp và những cú quất đuôi của con rồng Ouroboros cũng tự nhiên im bặt, giống như một cuộn phim thình lình bị mất tiếng.

Nó đánh mắt ra bốn phía, mừng rỡ thấy con rồng Ouroboros đã đứng sững từ hồi nào, móng chân phải đang cắm phập vào khúc đuôi, từ chỗ đó máu đang tuôn ra từng giọt.

-Hay quá! Chạy mau!

Nguyên reo lên, và hấp tấp kéo Kăply len qua những khoảng trống chật hẹp giữa những khoanh mình đồ sộ của con Ouroboros, chạy ra ngoài.

Đến khi cả hai chạy được một đỗi xa, đôi môi Kăply mới bắt đầu tìm lại được cảm giác:

-Chuyện gì thế mày?

-Con quái đã chụp trúng chính nó. – Nguyên hổn hển giải thích – Theo như những gì thầy Akô Nô nói thì có lẽ nọc độc của nó đã làm cho nó bị tê liệt trong một lúc.

Kăply ngoái đầu ra sau, lo lắng:

-Thế con Chacha đâu?

-Yên tâm đi! Con khỉ đó còn thông minh, tinh quái gấp mấy lần mình.

Nguyên vừa đáp vừa đánh liều lao vào giữa những bụi cây lá nhọn dưới chân đồi, sung sướng khi thấy chúng tách ra hai bên chừa lối cho tụi nó.

Kăply khâm phục:

-Mày học thần chú này từ hồi nào thế?

-Tao có biết cóc gì đâu. Chắc là thầy Akô Nô đã phù phép sẵn rồi.

Đang nói, Nguyên chợt nghiêm giọng:

-Đừng hỏi nữa. Chạy lẹ đi. Trời bắt đầu tối rồi.

Kăply rùng mình một cái rồi nín thinh, lầm lũi chạy. Nó biết Nguyên đang nghĩ đến lão Ôkô Na. Kăply chưa nhìn thấy lão Ôkô Na bao giờ nhưng qua những gì Nguyên kể, nó vẫn có thể hình dung được lão phù thủy đó nham hiểm và độc ác như thế nào. Tối hôm qua, nếu Nguyên không kịp chạy đến chỗ hai con ngựa bay của họa sĩ Yan Dran, bây giờ chắc chiếc lá bổn mạng của thằng K’Brăk trong khu vườn táo đã rụng mất rồi. Chiếc lá ghi tên K’Brăk nhưng người chết lại là Nguyên!

Ý nghĩ đó như một cây gai nhọn ghim vào ngực Kăply, làm ruột gan nó muốn tan ra và nó mím chặt môi, cố rảo bước nhanh hơn.

***


Khi Nguyên và Kăply băng hết cánh đồng hoa, trời đã tối mịt, bóng đêm loang ra rất nhanh như có một con bạch tuộc khổng lồ đang nấp đằng sau những đám mây không ngừng phun mực xuống. Dưới ánh sao mờ, tụi nó thở phào thấy con khỉ Chacha đang ngồi thù lù một đống trên lưng con phi mã.

Không kịp hỏi đến những quả táo vàng, hai đứa vội vàng trèo lên con ngựa thứ hai, lần này thì Nguyên và Kăply ngồi chung với nhau.

Ngay lập tức, hai con phi mã hí lên một tràng dài và cất bổng bốn vó. Nguyên ngoái đầu nhìn xuống, không thấy con rồng Ouroboros đâu, ngay cả thầy Akô Nô và lão Ôkô Na cũng không thấy xuất hiện. Thế còn Bạch kỳ lân và Hắc tinh tinh, bọn họ đang ở đâu há?

Như hôm trước, Nguyên sợ hãi phát hiện con phi mã đang bắt đầu phóng giật cục. Giống như bị một con đê chắn ngang đầu, Nguyên không còn nghĩ ngợi gì được nữa, hai tay bám chặt lấy bờm ngựa trong khi ở phía sau Kăply đang xanh mặt ôm cứng lấy hông nó. Và đến lúc con phi mã chuyển qua kiểu xoay vòng tròn thì cả Nguyên lẫn Kăply đều nhắm tịt mắt.

-Đừng lo. Cứ ôm tao chặt vào!

Nguyên trấn an Kăply bằng giọng lập bập và bị gió đánh bạt đi nên rất khó nghe, nhưng chỉ cần cảm nhận được hơi ấm truyền sang từ tấm lưng rắn chắc của bạn, Kăply vẫn hiểu hết và vòng tay của nó càng siết chặt hơn.

Không biết trải qua bao lâu, tốc độ xoay của con phi mã dần dần chậm lại, như động cơ đến hồi cạn xăng. Kăply hoàn hồn nhận ra nó vẫn chưa rớt khỏi lưng ngựa và nhất là đầu nó vẫn chưa văng khỏi cổ. Nó sung sướng ngúc ngoắc đầu, và nói:

-Ghê quá!

-Lúc đến đây cũng vậy. – Nguyên thở hắt ra – Đến và đi khỏi núi Lưng Chừng đều phải trải qua những thử thách khủng khiếp này. Có lẽ đó là một kiểu mê lộ…

Kăply xuýt xoa:

-Tao không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra nếu tụi mình không ngồi vững trên lưng ngựa…

Nói chưa dứt câu, Kăply bỗng rú lên thất thanh, và Nguyên điếng hồn, trái tim như ngừng đập khi thấy con Chacha không hiểu nhảy nhót như thế nào mà rớt khỏi lưng con ngựa bay phía trước, lao vùn vụt xuống đất như một mảnh thiên thạch.

Trong khi Nguyên và Kăply còn chưa thoát khỏi nỗi bàng hoàng kinh sợ, con phi mã đã phản ứng rất thần tốc: nó gần như để tự mình rơi xuống và vì con ngựa to gấp mấy chục lần con Chacha nên tốc độ rơi của nó ghê gớm hơn rất nhiều.

Nguyên và Kăply ngoái đầu nhìn xuống nhưng trong thoáng mắt đã không thấy Chacha lẫn con ngựa đâu nữa, cả hai đã hoàn toàn chìm lẫn vào mây mù. Lúc này Nguyên và Kăply không có ao ước nào cháy bỏng hơn là hạ thấp xuống để xem con ngựa kia có cứu được Chacha hay không nhưng con phi mã chở tụi nó dường như chẳng thèm quan tâm đến chuyện vừa xảy ra, vẫn thản nhiên bay tà tà về phía trước.

Đến khi nó luồn qua một, hai rồi năm, sáu đám mây và hạ dần độ cao thì Nguyên và Kăply mới thở ra nhẹ nhõm khi thấy con phi mã khi nãy đang bay lững lờ trước mặt và trên lưng nó con Chacha đang nằm bẹp, hai tay níu chặt túm lông bờm, và vì Chacha là một con khỉ tinh nghịch nên bộ dạng chết nhát của nó lúc này trông thiệt là kỳ cục.

Từ trên cao, từng phút một, Nguyên và Kăply trông thấy những ngọn đồi thấp hiện dần ra trong tầm mắt và khi màu tím của hoa sim và những mái nhà tròn như bát úp nổi rõ lên giữa đám lá xanh thì phải nói là hai đứa thấy hồi hộp hết sức.

Êmê, Mua, Păng Ting, Suku, K’Tub, Bolobala, Kan Tô, Tam, Yan Jik và cả lão quản gia Imđi túa hết ra ngoài sân khi hai con phi mã vừa chạm đất.

Trừ lão Imđi và Yan Jik, cả đám lao như bay về phía Nguyên và Kăply và cùng reo lên một tiếng gì đó nghe như tiếng “a” bị kéo dãn:

-… aaaa… aaa… aa… a… a… a… a…

Bây giờ thì bọn trẻ không buồn tò mò xem hai con phi mã chui vào lại trong bức tranh như thế nào nữa, đứa nào đứa nấy tíu tít thi nhau rờ chân nắm tay hai nhà thám hiểm, với lo lắng rằng những kẻ vừa trở về từ hòn núi huyền thoại kia nếu không mất miếng thịt nào thì chắc là phải tróc vài miếng da.

Mua lao vào vòng tay Kăply như một hòn đạn, không còn biết mắc cỡ là gì nữa, khóc lên rưng rức:

-Hu hu… K’Brêt, thế là bạn đã sống lại… hu hu…

Kăply đỏ bừng mặt, nhưng nó cũng biết đẩy Mua ra trong lúc này là một hành động cực kỳ ngu ngốc. Hơn nữa, lòng nó cũng đang mềm nhũn, thậm chí nó đang nghĩ giá như mỗi ngày nó có thể chết đi sống lại vài chục lần thì hay biết mấy.

Kăply trân mình chịu trận, bối rối và sung sướng, cùng một lúc.

K’Tub chắc cũng rất muốn ôm lấy Kăply nhưng đã bị Mua nhanh tay giành mất. Nó vòng ra phía sau, đấm thùm thụp vào lưng ông anh, miệng mếu xệch:

-Anh K’Brêt! Anh K’Brêt!

Kăply ngượng ngùng khi bao nhiêu cặp mắt đang dồn vào nó, cảm giác như nó nếu không dính lọ nồi trên mặt thì cũng mọc thừa ra một cái tai nhưng lạ lùng là nó bắt gặp mình đang muốn trải qua cảm giác đó càng lâu càng tốt.

Ở bên cạnh, như thi đua với Mua, Êmê cũng đang bám cứng lấy Nguyên, chôn sống thằng này trong vòng tay của nó và ngước chiếc mũi hếch lúc này đang xì nước ra tùm lum vào mặt Nguyên, vừa khóc vừa cười:

-Anh đã trở về rồi… hic hic… may quá… hic hic…

Một lát sau, vừa thở vừa giãy giụa và hổn hển đáp những câu hỏi không đầu không đuôi của lũ bạn, Nguyên và Kăply đã thấy tụi nó ở trong căn nhà của họa sĩ Yan Dran mà thiệt tình thì hai đứa cũng không nhớ tụi nó đã di chuyển bằng cách nào để vào tới đây.

-Chúc mừng tụi con thắng lợi trở về. – Họa sĩ Yan Dran ngồi trên chiếc ghế quen thuộc, cười nói khi nhìn thấy bộ mặt đỏ lơ đỏ lưỡng của Nguyên và Kăply. Ông vừa cất tiếng vừa vung cây gươm ngắn như thể giơ tay chào.

-Thắng lợi hả thầy? – Nguyên ngơ ngác, bây giờ nó mới nhớ ra nó chưa kịp kiểm tra xem con Chacha có bắt được quả táo nào không – Thiệt ra tụi con vẫn chưa nhìn thấy những quả táo vàng, thầy ơi.

Tất cả những người có mặt trong nhà lập tức đứng phắt dậy như chiếc ghế dưới mông thình lình phát hỏa.

-Trời đất ơi! Con vừa nói gì, K’Brăk? – Họa sĩ Yan Dran cào tay lên đầu như muốn làm cho mái tóc bù xù của ông giống tổ quạ hơn nữa – Tại sao lại như thế được?

Ông rũ người xuống như một miếng cao su, giọng ỉu xìu, hoàn toàn mất hết hơi sức:

-Những con ngựa bay của ta đưa tụi con tới núi Lưng Chừng là để hái táo chứ đâu phải để đi du lịch hả?

Nguyên bối rối đáp, không được tự tin lắm:

-Không phải thế, thưa thầy. Những quả táo vàng có lẽ… đang nằm trong tay con Chacha.

-Chacha, mày trốn đâu rồi, con ranh? – Suku đánh mắt ra cửa, hét ầm – Có đưa những quả táo ra đây không!

Từ trên mái nhà, một cái đầu thò xuống. Con Chacha kêu khèng khẹc, đưa tay gãi đầu sồn sột rồi vung mạnh một cái, hai quả táo vàng bay vù vào trong nhà, rớt ngay dưới chân Nguyên và Kăply.

-Đây rồi, hay quá!

Nguyên reo lên. Nhưng khi nó cúi xuống định nhặt lấy thì một cánh tay khẳng khiu và nhợt nhạt bất thình lình mọc lên từ dưới nền nhà, nhanh nhẹn quơ lấy hai quả táo rồi lặn nhanh như chớp.

-Baltalon!

Cả đống cái miệng ré lên. Nguyên bất ngờ đến líu cả lưỡi, muốn hét lên nhưng âm thanh không bật ra được, tiếng nói của nó hoàn toàn đã tuột khỏi miệng.

Họa sĩ Yan Dran cũng kinh ngạc đến nhảy dựng. Ông ném cho bọn trẻ một cái nhìn sửng sốt:

-Cái gì thế? Chẳng phải Baltalon đã chết rồi sao?

-Hắn chết rồi, thưa thầy. – Nguyên khó khăn nói, mắt nó tối đi từng giây – Nhưng một cánh tay của hắn vẫn còn sống.

-Là cánh tay vừa rồi hả con? – Lão Imđi há hốc miệng, khuôn mặt ngựa của lão như vừa bị ai kéo dãn.

-Ta hiểu rồi. – Yan Dran thở phì một tiếng – Ta quên là Baltalon đã luyện thành công thần chú Phân thân.

Nguyên sụm người xuống ghế, nhìn bộ dạng của nó tưởng như nó sắp lăn ra xỉu tới nơi:

-Thế này thì làm sao tụi con dám quay về trường Đămri…

Suku lướt mắt qua những khuôn mặt đưa đám của tụi bạn, tỉnh khô nói:

-Đừng lo, anh K’Brăk. Em sẽ lấy lại những quả táo vàng cho tụi anh.

-Em vừa nói gì? – Kăply quay phắt sang thằng oắt, kích động tuôn một tràng – Em sẽ lấy lại giùm tụi anh? Chừng nào hở Suku?

-Ngay bây giờ, anh K’Brêt.

Bất chấp ánh mắt nghi ngờ của mọi người đang xoáy vào mình, Suku đáp chắc nịch, y như đó là chuyện quá sức nhỏ nhặt và ngày nào nó cũng làm vài chục lần.

Nói xong, Suku chúm môi huýt sáo một tiếng, rất giống cái cách anh em thằng Pôcô Pôca gọi hai con linh xà.

Gần như ngay lập tức, cánh tay gớm ghiếc của Baltalon trồi lên ngay chỗ Suku đứng, những ngón quắt queo vẫn đang nắm chặt hai quả táo lúc nãy.

Trước vẻ mặt thuỗn ra của tụi bạn, Suku thản nhiên đón lấy hai quả táo vàng đưa qua cho Nguyên và Kăply, miệng cười hì hì:

-Nhớ cất kỹ à nha.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-1-2015 16:16:58 | Xem tất
Chương 23. Dì Ka Lên


Lúc bọn trẻ rời khỏi nơi ở của họa sĩ Yan Dran, trời bắt đầu hửng sáng. Không đứa nào cảm thấy mỏi mệt mặc dù đêm hôm trước tụi nó gần như không chợp mắt phút nào, cả bọn túm tụm lại một chỗ ngồi nghển cổ nghe Suku kể chuyện nó đã bí mật thu phục và huấn luyện cánh tay của Baltalon như thế nào, và nhất là nghe Nguyên và Kăply thuật lại những gì tụi nó đã trải qua ở núi Lưng Chừng, vừa nghe vừa luôn miệng dặm vào những tiếng hít hà như cái kiểu thêm gia vị vào thức ăn để câu chuyện thêm đậm đà, hấp dẫn.

Sự xuất hiện của thầy Akô Nô và Tam phù thủy ở núi Lưng Chừng khiến bọn trẻ rất ngạc nhiên, nhưng dĩ nhiên không ngạc nhiên bằng mối quan hệ giữa bọn họ với nhau. Đặc biệt, câu chuyện về lão quái Ôkô Na gây cho tụi nó một cảm giác rờn rợn, mặc dù lão đã nhận lời thầy Akô Nô cứu chữa cho Kăply nhưng cứ mường tượng đến cảnh lão biến thành con basilic với đôi cánh quái dị và chiếc mào đỏ như máu trên trán, cả bọn như tắm mình trong nỗi sợ hãi, và một cách tự nhiên tụi nó nhớ ngay tới sứ giả Basil ở thung lũng Plei Mo và những hình ảnh ghê rợn đó rõ ràng đã khiến tụi nó thấy người gây gây như phát ốm.

Yan Jik dẫn hai con ma nhóc Pôcô, Pôca đi theo bọn Kăply tới tận ngọn đồi nơi hôm trước các vị khách nhìn thấy con sóc có đôi chân vịt và cái đầu cá nhám.

-Em về đi, Yan Jik. – Nguyên nhìn thằng oắt, trìu mến nói – Em tiễn bọn anh tới đây là được rồi.

-Mai mốt anh sẽ đi học lại chứ, anh K’Brăk? – Yan Jik hỏi, mắt nó đỏ hoe.

-Dĩ nhiên rồi. – Nguyên nói.

-Yan Jik nè. – Êmê nghiêm mặt – Câu thần chú gì gì đó, em đừng bao giờ đem ra xài nữa nha.

Yan Jik hồn nhiên hỏi lại:

-Câu thần chú gì gì đó là câu thần chú gì hở chị Êmê?

Trong khi Êmê đỏ bừng mặt thì K’Tub cau mặt nạt:

-Mày đừng có giả vờ, Yan Jik. Câu thần chú gì gì đó tức là câu thần chú mà mày dùng để long trọng đón chào tao hôm đầu tiên đó.

-À, đó là thần chú Đứt phựt anh em Pôcô Pôca dạy cho em. – Yan Jik kêu lên, tay vung vẩy cây cọ vẽ. Mặt nó nhăn nhó như thể bị ai đó nắm tai kéo lên – Không được đâu, chị Êmê. Lão Imđi làm tàng ghê lắm. Em mà không xài câu thần chú đó, lão sẽ đì em sói trán mất.

Nguyên đưa mắt nhìn anh em song sinh Pôcô Pôca đang đứng sau lưng Yan Jik một quãng. Hai con ma nhóc khoảng mười tuổi, mặt mày láu lỉnh, tay mỗi đứa đều cầm một con rắn, Nguyên nhận ra đó là thanh xà và bạch xà.

-Pôcô, Pôca này. – Nguyên chép miệng nói, không biết đứa nào là Pôcô đứa nào là Pôca – Tụi em đừng có bày vẽ cho Yan Jik những trò nghịch ngợm nữa nghe chưa. Đừng xúi Yan Jik vẽ những con vật dị dạng nữa. Nếu không, thám tử Eakar sẽ tìm tới đây đó.

Pôcô, Pôca cùng lúc xịu mặt xuống. Và một trong hai đứa nói:

-Tụi em có được ở lại đây nữa đâu. Họa sĩ Yan Dran đuổi tụi em đi rồi.

Păng Ting chớp mắt:

-Thì tụi em quay về hồ Ma.

-Không. – Lần này cả hai đứa đều giãy nảy – Tụi em sợ lắm. Hồ Ma toàn ma không hà. Tụi em không muốn sống chung với những con ma nữa đâu.

Câu nói của anh em Pôcô Pôca khiến bọn trẻ bất giác đưa mắt ngó nhau. Hổng lẽ Pôcô, Pôca không biết tụi nó là hai con ma? Kăply cắn môi nghĩ, mắt nhìn chằm chằm hai đứa nhỏ.

-Trời đất! – K’Tub phì cười – Bộ tụi em tưởng tụi em là…

Nguyên ho một tiếng to như sấm để cắt lời K’Tub, và nói nhanh:

-Không muốn về hồ Ma thì cứ ở lại đây. Nếu tụi em không xúi Yan Jik những chuyện bá láp nữa, thầy Yan Dran sẽ không đuổi tụi em đâu…

-Pôcô Pôca nè. – Bolobala khụt khịt mũi – Nói thiệt chị hổng biết làm sao phân biệt được đâu là Pôcô, đâu là Pôca…

Thằng bé đứng bên trái huơ con bạch xà một vòng, toét miệng cười:

-Chị nhìn vào con rắn trên tay tụi em ấy. Em là Pôcô, chủ nhân con rắn trắng. Còn đứa cầm con rắn xanh là Pôca, em trai của em…

-Em trai cái đầu mày, Pôcô! – Thằng Pôca ré lên giận dữ – Tao là em mày hồi nào vậy hả?

Pôcô cười giả lả :

-Không chịu làm em thì thôi, làm gì mày la lối điếc tai vậy!

Pôca dường như chưa hết bực. Mặt nó quạu đeo:

-Lần sau em mà còn xưng hô lung tung như vậy, anh sẽ không bỏ qua đâu đấy.

-Ha ha, buồn cười quá! – Thằng Pôcô hai tay ôm bụng, gập người cười sặc sụa – Nếu tao không làm anh mày thì mày cũng đừng hòng làm anh tao, Pôca à.

Hai con ma nhóc cãi qua cãi lại sùi bọt mép, đến khi ngước lên đã không thấy bọn Kăply đâu nữa.

-Bọn họ đâu rồi, Yan Jik? – Pôcô ngơ ngác nhìn thằng oắt.

-Họ đi rồi. – Yan Jik buồn bã đáp, mắt vẫn nhìn chăm chăm con đường mòn lượn quanh chân đồi bây giờ đã vắng hoe, không một bóng người.

Nó chép miệng, cảm khái:

-Không biết bao giờ em mới gặp lại họ.

-Tao biết chỗ họ ở, Yan Jik. – Pôca quay tít con rắn trên tay thành một vệt màu xanh, hãnh diện khoe – Họ ở trường Đămri. Ngài hiệu trưởng N’Trang Long đã mời tụi tao đến đó một lần.

-Thiệt á? – Yan Jik ngẩn người nhìn Pôca.

Pôca ưỡn ngực ra phía trước:

-Tao xạo mày làm chi. Lần đó nếu tụi tao không ra tay, thằng cha Buriam gì đó đã quậy nát bét cái trường Đămri rồi.

Pôcô hăng hái tiếp lời:

-Mày yên chí đi, Yan Jik. Hôm nào tụi tao sẽ lén dẫn mày đến đó chơi.

Pôcô vừa nói vừa hào hứng vỗ vai Yan Jik và khi nhận ra bàn tay nó bị trượt vào khoảng không, Pôcô mới sực nhớ nếu không có hai con thanh xà bạch xà làm phương tiện, anh em nó không thể chạm vào cơ thể của bất cứ ai và cũng không ai chạm vào người tụi nó được. Còn tại sao lại như vậy thì tụi nó hoàn toàn không hiểu nổi.

***


Hồ Ma buổi sáng không đến nỗi quá buồn tẻ như bọn Êmê từng chứng kiến. Nắng dát từng mảnh vàng lên cây cỏ và gió vẫn thổi qua đám lau sậy rậm rạp ven hồ làm phát ra những tiếng sáo vi vu nhưng âm điệu đã không còn nỉ non như chiều mưa hôm trước. Hơn nữa lần này đi ngang hồ Nguyên đã không còn bế cái xác lạnh ngắt của Kăply trên tay, trong túi hai đứa lại có thêm hai quả táo vàng quí giá.

Lúc tụi nó đến nơi, nước hồ Ma vẫn đen kịt và con rùa khổng lồ vẫn kiên trì thi hành nhiệm vụ bằng dáng nằm bất động trên hòn đảo giữa hồ.

Nguyên nói nhỏ vào tai Kăply:

-Lát nữa thế nào tụi mình cũng gặp bà Ka Lên, mẹ của K’Brêt. Mày không được sơ suất đấy…

Nguyên chưa dứt lời, một giọng nói ồm ồm đã mừng rỡ cất lên:

-A, tụi bay đã về rồi đấy à? Có hái được quả táo vàng nào không?

-Có đây.

Nguyên đáp và vui vẻ cho tay vào túi, lấy quả táo của mình ra, vừa nghe tiếng Bolobala thì thầm ngay sau gáy:

-Anh K’Brăk… chúng ta chỉ có hai quả…

Nguyên làm như không nghe thấy cô bạn gái, tiếp tục chìa quả táo ra trước mặt:

-Một quả có đủ cho các người không?

Ba con chim đầu người phấn khích đến mức không còn đứng hoài trong bụi cây nữa. Cả ba vội vã liệng ra khỏi chỗ nấp, cánh vỗ rào rào và đáp xuống nhánh cây thấp trước mặt bọn trẻ.

Con chim có cái đầu ông già giương mắt nhìn quả táo trên tay Nguyên, vẻ kích động:

-Đúng là nó rồi. Ta có nghe nói về quả táo này.

Gương mặt người nữ sáng lên:

-Cảm ơn con. Theo ta biết thì một quả táo thừa sức cứu sống tất cả số chim đầu người quanh hồ Ma này.

-Vậy thì các người cầm lấy đi. – Vừa nói Nguyên vừa vươn dài tay ra, gí quả táo vào sát nhánh cây.

Con chim có gương mặt dữ tợn háo hức vươn cổ ra và há miệng định ngoạm lấy quả táo nhưng đến phút chót không hiểu sao nó lại rụt cổ lại.

-Sao thế? – Nguyên thắc mắc.

-Không được. Bọn ta không thể dùng quả táo này được. – Con chim đưa chân lên gãi gãi bộ râu quai nón, ngập ngừng nói – Nếu không còn quả táo này, nhóc mày không thể trở thành chiến binh giữ đền thực thụ được đâu.

Nguyên sững người ra, chớp chớp mắt và nhìn sang hai con chim bên cạnh. Bắt gặp cái nhìn của Nguyên, cái đầu ông già thở hắt ra, giọng trầm hẳn đi:

-Hắn nói đúng đấy. Nhóc mày giữ lấy mà dùng.

Ánh mắt người nữ nhìn Nguyên long lanh:

-Bọn ta thiệt sự rất cảm kích tấm lòng tốt của con. Nhưng con cũng biết rồi đó, số phận của bọn ta không quan trọng bằng số phận của xứ Lang Biang…

Bolobala lúc đầu có ý ngăn cản Nguyên tặng quả táo vàng cho những con chim đầu người, bây giờ chợt bắt gặp một cảm giác gì đó rất khó tả đang nảy mầm trong lòng mình. Nó nói, hoàn toàn không tự chủ:

-Tụi này còn một quả nữa.

-Ta biết. – Gương mặt dữ tợn cất giọng ồm ồm – Nhưng trong bọn ngươi có đến hai chiến binh giữ đền kia mà.

Ông già ngúc ngoắc khuôn mặt đỏ au, Kăply thấy ông làm một động tác gì đó giống như là nhún vai:

-Hổng lẽ bọn ngươi không biết mỗi chiến binh giữ đền phải ăn trọn một quả táo sao?

Nguyên không ngờ mình lại rơi vào một tình huống khó xử như thế. Nó cứ ngỡ một quả táo là đủ cho cả nó lẫn Kăply. Nó quay sang Êmê, cảm thấy bối rối hơn nó nghĩ:

-Làm sao đây, Êmê?

Êmê trả lời Nguyên bằng cách không trả lời gì cả. Nó nhìn Nguyên nhưng ánh mắt hoang mang của nó dường như trượt đi đâu đó.

Nguyên khẽ liếc K’Tub, tặc lưỡi:

-Nếu không có quả táo này thì những con chim đầu người quanh hồ Ma, cả dì Ka Lên nữa…

-Ai nhắc đến tên ta đó?

Một giọng nói lanh lảnh vang lên kèm theo tiếng cánh vỗ phành phạch. Bọn trẻ ngẩng phắt lên, giật mình thấy một con chim đầu người từ xa bay vù tới, đáp mạnh xuống cạnh ba con chim kia làm nhánh cây rung lên bần bật.

Con chim mới đến có gương mặt của một phụ nữ sắc sảo với đôi mắt nhỏ và cặp môi mỏng nhưng những vết hằn trên trán khiến bà trông héo hắt và có vẻ già trước tuổi.

Trong bọn, chỉ có K’Tub và Êmê là biết mặt bà Ka Lên. Khi bà Ka Lên bị sứ giả Badd bắt đi, Êmê mới ba tuổi còn K’Tub vừa chào đời. Nhưng trong phòng bà Êmô có treo những bức chân dung của vợ chồng K’Srêgơl và vợ chồng K’Rahlan nên dù bà không lên tiếng, chỉ nhìn thoáng qua, hai đứa nó đã nhận ngay ra bà.

Bà Ka Lên dĩ nhiên không nhận ra bất cứ đứa trẻ nào trong lâu đài K’Rahlan, kể cả K’Brăk và K’Brêt – con trai bà. Bà quét mắt qua những gương mặt, nôn nao lặp lại câu hỏi:

-Ai vừa nhắc đến tên ta, phải không? Ta vừa nghe như thế mà.

Êmê chĩa chiếc mũi hếch về phía bà Ka Lên, kêu lên bằng giọng xúc động:

-Dì Ka Lên…

-Dì Ka Lên? – Bà Ka Lên tròn xoe mắt, những chiếc móng bấu chặt lấy cành cây – Ngươi kêu ta là dì Ka Lên?

Êmê mếu máo:

-Con là Êmê đây mà.

-Êmê? – Bà Ka Lên há hốc miệng – Cha mẹ ơi, con là con gái chị Êmô ư?

-Vâng ạ. – Êmê chỉ tay sang các bạn, giới thiệu bằng giọng nghèn nghẹt – Đây là K’Tub, con trai cậu K’Tul. Còn đây là K’Brăk, con trai pháp sư K’Rahlan…

-Ồ, con đã lớn như thế này rồi sao, K’Brăk. – Bà Ka Lên mừng rỡ reo, đôi cánh vỗ liên hồi như muốn bay bổng lên – Thiệt là hay quá!

Ngón tay Êmê ngừng lại chỗ Kăply:

-Thưa dì, còn đây là K’Brêt…

Êmê vừa nói vừa hồi hộp quan sát bà Ka Lên, hoảng hồn thấy bà như bị một chứng nhức đầu đột ngột. Bà nhăn mặt một cái, những thớ thịt trên gò má giật giật rồi hoàn toàn không báo trước, bà òa ra khóc như mưa:

-Ôi, con trai ta…

Đôi cánh dang rộng, bà chúi tới trước như muốn ôm lấy Kăply khiến con chim ông già phải xòe cánh cản bà lại để bà khỏi té nhào xuống đất.

Kăply liếc Nguyên, bắt gặp cái trừng mắt như muốn ăn tươi nuốt sống của thằng này, liền lật đật nhích tới trước một bước và run run mở miệng:

-Mẹ…

-Dì Ka Lên, – Êmê vọt miệng – anh K’Brăk và anh K’Brêt hiện là chiến binh giữ đền đời thứ ba của xứ Lang Biang đó.

Thông tin kịp thời của Êmê ngay lập tức làm dịu đi cơn bão cảm xúc của bà Ka Lên. Bà sụt sịt giơ chân lên tính quẹt nước mắt nhưng sực nhớ bà đang sống trong lốt của một con chim, liền hạ chân xuống, hỏi giọng phấn khích:

-Thật thế sao, Êmê?

-Thật mà, thưa mẹ. – Êmê chưa kịp đáp, Kăply đã vọt miệng, tay hớn hở lôi quả táo trong túi áo chìa ra – Con đem quả táo này về cho mẹ và…

-Không được ăn quả táo đó, bà Ka Lên. – Con chim ông già cuống quít nói – Đó là những quả táo vàng có tác dụng tăng năng lượng pháp thuật cho các chiến binh giữ đền. Chúng ta không thể đụng tới được.

-Ta biết mà. – Bà Ka Lên gật đầu, vui vẻ nói – Khi nghe Êmê bảo hai đứa nhỏ là chiến binh giữ đền, ta đã biết đây là những quả táo gì rồi…

Bà quay nhìn Kăply, ôn tồn:

-Con không được phung phí như thế, K’Brêt. Ta biết con là đứa con hiếu thảo nhưng đối phó với phe Hắc Ám là chuyện cần thiết hơn.

Bà chớp chớp mắt:

-Con phải ăn quả táo này, rồi sau đó cùng với ba con…

Kăply nói nhanh, làm như thể nói như vậy thì bà Ka Lên sẽ hiểu ngược lại:

-Ba con mất tích mười hai năm nay rồi, thưa mẹ.

-Thế ư? – Trái với sự lo lắng của bọn trẻ, bà Ka Lên lẩm bẩm, vẻ cam chịu, có vẻ như bà đã sẵn sàng đón nhận hung tin này từ lâu – Ông ấy mất tích à? Mất tích kể như chưa phải là xấu lắm, đúng không con? Dù sao thì mất tích không có nghĩa là đã chết. Ta cũng mất tích mười hai năm nay đó thôi.

Kăply rụt rè chìa quả táo ra lần nữa:

-Vì vậy mà mẹ nên ăn quả táo này. Lúc đó, mẹ sẽ giúp đỡ con và anh K’Brăk…

-Con im đi, K’Brêt! – Rõ ràng là Kăply đã thất bại thảm hại khi cố nhắc lại đề nghị của mình. Bà Ka Lên giận dữ nạt, làm như Kăply vừa xúc phạm bà ghê gớm – Nếu con thông minh như ta tưởng thì con phải hiểu điều này: Nếu con không ăn quả táo này thì dù có sống lại, ta cũng không giúp được gì cho con đâu. Con và K’Brăk phải trở thành những chiến binh giữ đền thực thụ thì mới có thể báo thù cho ba mẹ, cho vợ chồng K’Rahlan – Kaming và đem lại thanh bình cho xứ Lang Biang…

Một bầu không khí ngột ngạt kéo dài sau câu nói của bà Ka Lên. Ba con chim đầu người đứng cạnh bà suốt một lúc lâu không tham gia vào cuộc tranh cãi giữa hai mẹ con, bây giờ con chim ông già mới thủng thỉnh lên tiếng:

-Con nên nghe lời mẹ con, K’Brêt à.

Kăply cúi đầu xuống, cố sàng lọc lại những cảm xúc trong lòng. Nó không phải là thằng K’Brêt, vì vậy mẹ của K’Brêt hẳn nhiên không phải là mẹ nó. Nhưng không hiểu sao nó vẫn bắt gặp trong lòng mình một cảm giác là lạ. Có thể vì nó đã ở trong vai thằng K’Brêt quá lâu, đã gắn bó với lâu đài K’Rhalan nói riêng và số phận xứ Lang Biang nói chung chặt chẽ đến mức tự nhiên nó mang trong người một phần tình cảm của thằng K’Brêt. Kăply biết nếu bây giờ bà Ka Lên và những con chim đầu người khác không ăn quả táo này thì có thể họ sẽ không còn cơ hội nào để trở lại thành người được nữa, cũng có nghĩa chẳng bao lâu họ sẽ chết hẳn và trở thành những cư dân của hồ Ma. Ý nghĩ đó khiến Kăply cảm thấy bất nhẫn, lòng nó dâng lên một nỗi xót thương mà từ trước đến giờ nó chưa từng trải qua.

Một cái gì rơi trên vai đánh “bộp” làm Kăply choàng tỉnh. Nó quay đầu nhìn quanh quất, há hốc miệng khi trông thấy một quả táo vàng đang lăn lóc trên mặt đất.

Kăply đánh mắt qua bên cạnh, thấy quả táo trên tay Nguyên vẫn còn đó. Như vậy đây là quả táo khác. Mọi người giương mắt ra nhìn quả táo, sửng sốt đến mức không ai nghĩ đến chuyện nhặt lên cho tới khi thằng Suku chợt ré lên một tiếng và ngước mắt lên ngọn cây trên đầu, hét ầm:

-Chacha! Mày lén lút làm trò gì đấy hả?

***


Bọn trẻ đi theo đường cũ đến giữa trưa thì tới thung lũng Plei Mo. Vẫn những vách đá xanh đen phủ đầy dây leo và các loại rêu xám bao quanh bước chân khiến tụi nó rùng mình bắt gặp lại cái cảm giác đang rơi vào một thế giới bị ruồng bỏ. Lúc đi qua con đường dẫn ra khỏi thung lũng, mặc dù không muốn, bọn trẻ vẫn hồi hộp đưa mắt nhìn pho tượng mụ Basil đứng cheo leo bên vách núi. Trông mụ hoàn toàn cô độc, nhưng cái tư thế đứng chồm trên hai chân như gợi lại một thời gieo rắc kinh hoàng khiến mụ vẫn toát ra một nét gì đó thật đáng sợ.

Bà Ka Lên không theo Kăply trở về lâu đài K’Rahlan dù bà đã thoát khỏi tay thần chết và trở lại hình dáng bình thường trước sự reo mừng của bọn trẻ. Những con chim đầu người khác cũng vậy. Sống quá lâu trong lốt chim, họ không thể hoạt động giống như người bình thường ngay được. Bọn ta cần ít nhất là một tháng để hồi phục và thích nghi trước khi quay về nhà. Không giấu được vẻ buồn rầu, bà Ka Lên đã thở dài cho biết như vậy lúc bọn trẻ rời khỏi hồ Ma.

Bây giờ nhớ lại, Kăply vẫn cảm thấy lâng lâng sung sướng và thiệt tình lúc nhìn sự hân hoan trên mặt từng người sau khi trút bỏ lốt chim, Kăply nghe rất rõ trái tim nó đang tưng bừng ca hát. Nó biết ơn vô cùng sự láu cá của con Chacha mặc dù sau khi ném quả táo vàng xuống đất, con khỉ con đã trốn mất tiêu, mặc cho Suku gào đến toạc cả cuống họng.

Suốt dọc đường đi, bọn trẻ cứ bàn tán mãi về con Chacha, không biết thiệt ra thì nó đã hái bao nhiêu quả táo vàng, và lo lắng liệu sự tham lam quá quắt của nó rốt cuộc có sẽ khiến nó bị Hội đồng tối cao Lang Biang treo cổ lên hay không.

Nóng lòng về nhà, bọn trẻ đi rất nhanh, dù vẫn không ngừng trò chuyện. Lúc đi ngang khu rừng tiên tri, Kăply sực nhớ đến chiếc lá màu đỏ hôm nọ, liền cho tay vào túi mò mẫm.

-Hà hà. – Kăply huơ qua huơ lại chiếc lá trên tay trước mặt Suku, cười nhạo – Suku nè. Em cứ khăng khăng đây là khu rừng tiên tri thật nhưng theo anh, khu rừng này chắc cũng là khu rừng giả quá hà.

Suku lúc lắc lọn tóc trước trán cho nó chạy qua chạy lại:

-Trận động đất hôm nọ không thể là giả, anh K’Brêt.

Kăply dài môi ra:

-Uy tín của một khu rừng tiên tri không phải ở chỗ nó động đất hay không động đất mà ở chỗ nó tiên tri có chính xác hay không thôi.

Kăply đưa chiếc lá lên sát mắt, cười khì khì:

-Chắc em quên rồi. Để anh đọc lại cho em nghe nha: “Trong bọn ngươi, có kẻ sẽ chết trước khi đến được núi Lưng Chừng… nhưng… nhưng…”.

Như bị một quả táo chẹn ngang họng, Kăply kẹt cứng ở chỗ chữ “nhưng”, không làm sao phun nốt câu nói ra được.

-Gì thế, K’Brêt? – Mua trố mắt nhìn Kăply, tò mò xen lẫn lo âu.

-Lạ quá, Mua à. – Kăply ngẩn ngơ đáp, vẫn không rời mắt khỏi chiếc lá – Mua còn giữ chiếc lá của Mua không. Mua lấy ra xem đi.

Không chỉ Mua, cả đống đứa hấp tấp cho tay vào túi sau câu nói của Kăply. Tất nhiên không phải đứa nào cũng tìm thấy chiếc lá của mình. Chỉ có Nguyên, Êmê, Păng Ting và Bolobala là còn giữ lại chiếc lá hôm nọ. Chiếc lá của Mua đã rơi khỏi tay nó ngay phút đầu tiên, lúc nó sợ hãi nhìn thấy dòng chữ tiên tri u ám. Còn bọn con trai, trừ Nguyên và Kăply, hoặc là đã làm mất hoặc đã ném chiếc lá đi đâu đó và thiệt tình là tụi nó cũng không nhớ đã ném ở đâu.

Cũng như Kăply khi nãy, Nguyên và tụi Êmê tròn xoe mắt khi nhìn vào chiếc lá trên tay. Những chiếc lá vẫn đỏ tươi như vừa rời khỏi cành, nhưng điều đó không đáng kinh ngạc bằng những gì tụi nó đọc thấy trên mặt lá. Vẫn dòng chữ cũ “Trong bọn ngươi, có kẻ sẽ chết trước khi đến được núi Lưng Chừng” nhưng bây giờ bỗng có thêm một đoạn phía sau “nhưng sẽ sống lại sau khi rời khỏi hòn núi đó”.

-Lạ thiệt đó nha. – Păng Ting sửng sốt nói – Hôm trước đâu có dòng chữ này.

Thằng K’Tub nhảy tưng tưng và hấp tấp chìa tay ra:

-Chị Păng Ting! Đưa em mượn xem đi!

Nó gí mắt vào chiếc lá, hét ầm:

-Đúng rồi, hôm trước không hề có câu này.

Một phút sau, tất cả những đứa còn lại đều được xem dòng chữ kỳ lạ trên những chiếc lá tiên tri.

Kan Tô bĩu môi “xì” một tiếng:

-Nếu dòng chữ này hiện ra sau khi K’Brêt sống lại thì đâu có thể gọi là tiên tri.

-Không hẳn thế đâu, anh Kan Tô. – Suku đong đưa đôi mắt sáng – Có thể dòng chữ đó hiện ra trước khi anh K’Brăk và anh K’Brêt đặt chân lên núi Lưng Chừng nhưng chúng ta đã không lấy ra xem.

-Trời đất, mày nói gì thế, Suku! – K’Tub ré lên – Hổng lẽ lâu lâu mình phải lôi chiếc lá ra nghiên cứu, xem nó có nổi hứng thêm thắt gì không hay sao?

-Đúng là vậy đó, K’Tub. – Suku gật đầu, thản nhiên – Mày sẽ không ngạc nhiên nếu mày nhớ ra kẻ cai quản khu rừng tiên tri chính là ác thần Mituyn, một vị thần có tính khí kỳ quặc nhất trong các vị thần…

Đang nói, Suku phải dừng lại để gỡ những sợi tóc vướng ngang miệng. Rồi nó hất mạnh đầu để những lọn tóc trước trán không đâm vào mắt, nhưng ngay lập tức nó cảm thấy hết sức bối rối khi lần đầu tiên trong đời những lọn tóc bỗng nhiên không thèm trượt qua một bên mà cứ đâm thẳng vào mắt nó một cách ngang ngạnh.

K’Tub khoái chí nhìn thằng Suku loay hoay với mớ tóc, chưa kịp mở miệng trêu đã cảm thấy cổ nhột nhạt, liền đưa tay lên mò mẫm và nhặt được một túm tóc.

Ở bên cạnh, tụi Kăply cũng đang luống cuống gỡ những lọn tóc không biết từ đâu bay tới dính đầy đầu, ngực, bụng và cả hai chân.

Nguyên hét lên, hai tay vẫn đang sờ soạng khắp người:

-Balibia.

Bọn trẻ giật mình ngước lên, hãi hùng thấy tóc bay đầy trong không trung. Và khi ánh mắt tụi nó chạm phải những bàn tay máu đỏ tươi, đầy sát khí, được khảm vào những thân cây to bên đường không biết từ bao giờ thì đứa nào đứa nấy cảm thấy trái tim gần như muốn vọt ra ngoài.

Cả bọn đứng tụm vào nhau, nhớn nhác dòm quanh. Êmê níu tay Nguyên và Kăply, giọng căng thẳng:

-Hai anh phải cẩn thận với hai quả táo. Hắn sẽ đánh cướp đấy.

Giọng Êmê nhỏ xíu, còn tệ hơn một lời thì thầm nhưng vẫn không lọt khỏi tai Balibia.

-Ta đã đến đây rồi thì bọn ngươi có muốn cẩn thận cũng không được đâu.

Giọng cười hăng hắc của hắn vọng ra từ trong rừng và cùng với tiếng nói, tả hộ pháp Hắc Ám lừ lừ tiến ra, lần này trong hình dáng thật của hắn, với chiếc áo choàng bằng tóc quấn bên ngoài áo thụng đen, xâu chuỗi răng người trên cổ lúc lắc theo từng bước đi.

Bolobala trừng trừng nhìn Balibia:

-Bộ ngươi hổng sợ Đại phù thủy Păng Sur sao mà đón đường bọn ta?

Balibia nhếch mép, chân vẫn không ngừng bước:

-Bọn ngươi đừng có đem Nhị tiên ra dọa ta! Khôn hồn thì đưa hai quả táo vàng ra đây!

Suku rón rén bước tới sau lưng Nguyên và Kăply, nói khẽ:

-Hai anh ăn quách hai quả táo đi. Lúc đó, chẳng sợ gì tên Balibia này nữa.

-Nhưng thầy N’Trang Long bảo hái đem về mà. – Nguyên phân vân đáp – Thầy có bảo tụi anh ăn dọc đường đâu.

Đằng trước mặt, Balibia lại buông ra một tràng cười rờn rợn:

-Bọn ngươi xì xầm cái gì đó. Hừm, bây giờ có muốn nhét hai quả táo đó vô bụng cũng đã muộn rồi.

Nói xong, Balibia vung tay lên, lập tức một bàn tay máu khổng lồ xuất hiện ngay trên đầu hắn, chờn vờn đầy đe dọa.

Trong khi bọn trẻ chĩa tay ra phía trước chuẩn bị một trận sống mái thì Balibia khẽ rung người một cái. Bàn tay máu thay vì chụp xuống thì lại quạt ngang. Một cơn lốc dậy lên, mạnh đến mức những thân cây quanh đó bị uốn cong đi, lá rụng rào rào, còn bọn trẻ gần như bị lột truồng khi những vạt áo chùng bị cuốn lên kêu phần phật, và từ trong khung cảnh hỗn loạn đó, hai quả táo vàng trong túi Nguyên và Kăply rơi ra, lăn tròn trên cỏ.

Bọn trẻ chưa kịp nhìn thấy gì thì Balibia đã phẩy tay. Hai quả táo như bị một sức hút vô hình, bay vọt về phía Balibia đang xòe tay đợi sẵn.

-Chết rồi! Hai quả táo!

Thoáng thấy hai chấm màu vàng bay về phía đối phương, Suku hốt hoảng ré lên. Lúc này nó muốn sai cánh tay của Baltalon đi giật lại hai quả táo cũng không còn kịp nữa. Kêu lên một tiếng, nó đứng đực ra, mặt héo đi, cảm thấy rõ rệt trái tim nó đang rơi xuống đâu đó chỗ dạ dày, nhưng cũng có thể là vẫn còn rơi xuống nữa.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 4-3-2015 22:26:19 | Xem tất
Chương 24. Thủ lĩnh ánh sáng



Hai tay xòe ra trước ngực, Balibia ngửa mặt lên trời cười sằng sặc. Hắn khoái chí quá. Khoái chí đến mức nhắm tịt hai mắt lại mà cười cho đã. Hắn không nghĩ việc đoạt lấy hai quả táo vàng lại dễ dàng đến thế. Hắn cười, cười mãi, vai rung rung, cái đầu trọc cũng rung rung.

Nhưng rồi đột nhiên hắn ngưng cười. Đang phấn khích, hắn chợt lạnh người nhận ra không có quả táo nào bay vào tay hắn. Cái gì thế nhỉ? Lẽ ra mình đã chộp được hai quả táo trong tay rồi mới phải chớ!

Balibia mở choàng mắt ra, thấy cách đó một quãng có một lão già gầy khẳng gầy kheo, mặt mày nhăn nheo héo úa như quả táo khô, đang đứng tựa lưng vào gốc cây nhìn hắn mỉm cười. Tay lão rõ ràng đang cầm hai quả táo vàng.

-Badd! – Balibia ré lên, tức muốn xịt khói lỗ tai – Trả hai quả táo lại cho ta.

Sứ giả Badd khẽ cựa quậy cánh tay phải. Lập tức cả chục quả cầu pha lê xuất hiện bay lòng vòng quanh thân hình ốm nhom của lão, vừa bay vừa phát ra những tia sáng lóng lánh.

-Hà hà, đâu có đơn giản thế. – Badd cười khùng khục – Ngươi hỏi những quả cầu của ta xem chúng có đồng ý không.

-Đồ phản phúc! – Balibia nghiến răng trèo trẹo – Lát nữa thế nào ngài cũng đến đây róc thịt ngươi.

Badd cười hề hề:

-Chẳng ăn thua gì rồi. Ta gầy như cái que thế này, làm gì có thịt mà róc với chả róc!

-Thế thì ta bẻ xương ngươi!

Balibia gầm lên. Tiếng gầm chưa dứt bàn tay máu của hắn đã chụp xuống đầu Badd như một tia chớp đỏ.

-Ngươi chẳng làm gì được ta đâu, Balibia!

Sứ giả thứ nhất của phe Hắc Ám cười khảy, khinh khỉnh nói, cùng lúc hai trong cả chục quả cầu của lão tách ra, vọt thẳng lên cao, đâm sầm vào bàn tay máu của đối phương.

Bàn tay máu gặp khắc tinh, không sa xuống được, cứ ngúc ngoắc cách đầu Badd vài mét, dùng dằng một lúc rồi bị đẩy dần lên cao.

Bọn Kăply nín thở theo dõi trận quyết đấu giữa hai tay tổ Hắc Ám, trán từ từ dãn ra. Tụi nó đã từng chứng kiến tả hộ pháp Balibia và sứ giả Badd đối đầu cách đây mấy ngày, biết chắc Balibia không thể thắng nổi thần chú Nảy nở từa lưa của Badd. Nhưng dù kết quả cuối cùng có thế nào đi nữa, khả năng thu hồi hai quả táo vàng của tụi nó cũng rất mong manh. Viễn ảnh đó khiến lòng dạ tụi nó rối bời, niềm vui thoát chết dưới bàn tay máu bỗng chốc nguội ngắt.

-Làm sao đây, Suku? – Kăply cụng đầu vào tai thằng nhóc, lo lắng hỏi.

-Em chưa nghĩ ra cách nào, anh K’Brêt. – Suku tặc lưỡi – Cánh tay Baltalon không thể lọt qua hàng rào những quả cầu pha lê của sứ giả Badd được.

-Nhưng với lão Badd, chúng ta còn hy vọng thương lượng. Nếu Balibia đoạt được hai quả táo đó thì chúng ta vô phương lấy lại.

Nguyên nói xen vào, mắt vẫn không ngừng theo dõi cuộc quyết đấu trước mặt. Da xám như chì, bộ mặt của Balibia giống như đeo mặt nạ, không lộ cảm xúc gì nhưng hai hàm răng hắn cứ chốc chốc lại nghiến vào nhau ken két cho thấy hắn đang điên tiết tột độ.

-Hà hà. – Sứ giả Badd thốt lên một tràng cười dài, giọng nhạo báng – Bàn tay máu của ngươi có vẻ thích hợp với chuyện rửa bát hơn là đánh nhau…

-Chưa chắc!

Có tiếng đáp trả nhưng tiếng nói đó rõ ràng không phải phát ra từ miệng tả hộ pháp Balibia. Cả sứ giả Badd lẫn bọn Kăply hấp tấp quay phắt lại phía bìa rừng, sửng sốt khi thấy một Balibia khác đang lững thững bước ra.

Balibia thứ hai vừa đến nơi, phất tay áo một cái làm hiện ra trên đầu một bàn tay đỏ lòm y hệt bàn tay máu của gã Balibia đến trước.

-Sao lại có đến hai Balibia, K’Brăk? – Tam trố mắt – Hay là trong này có một người do Buriăk hóa ra?

Kan Tô nhìn Nguyên, ngơ ngác:

-Hôm trước chính mày bảo Balibia và Buriăk là một người kia mà!

-Có lẽ là tao nhầm. – Nguyên lẩm bẩm, ánh mắt đi qua đi lại giữa hai gã Balibia, đầu xoay như chong chóng.

-Thế ai mới là Balibia thật hở anh? – K’Tub níu tay Nguyên, giọng háo hức.

Nguyên cắn môi:

-Có lẽ gã Balibia xuất hiện trước là Balibia thật…

Êmê hắng giọng:

-Ánh mắt của Balibia thật lúc bình thường trông không có gì khác lạ, chỉ khi nào giận dữ mới phát ra màu đỏ. Còn ánh mắt của Balibia giả, tức là Buriăk, lúc nào cũng đỏ rực.

-Không đúng đâu, chị Êmê! – Suku tặc lưỡi – Em đã quan sát kỹ rồi. Từ khi xuất hiện đến giờ, ánh mắt của Balibia không hề có chút sắc đỏ. Nếu em đoán không lầm thì Balibia thật bao giờ cũng xuất hiện với cấm lệnh bàn tay máu và những lọn tóc đi kèm.

Mua há hốc miệng:

-Hổng lẽ đến hôm nay chúng ta mới lần đầu gặp Balibia thật, còn trước giờ chỉ gặp toàn Balibia giả?

Như để xác nhận sự phỏng đoán của bọn trẻ, gã Balibia xuất hiện trước phẫn nộ hét vang:

-Buriăk! Ta chỉ dẫn ngươi cách tu luyện bàn tay máu đâu phải để ngươi giả dạng ta mọi lúc mọi nơi hả?

-Ủa, – gã Balibia thứ hai, tức Buriăk, cười hềnh hệch – ta tưởng vụ này bọn ta đã thỏa thuận với nhau rồi kia mà. Ngay cả ngài cũng đồng ý là khi nào ngươi bận việc ta sẽ dùng thân phận tả hộ pháp…

-Câm mồm! – Balibia hét sùi bọt mép – Ta đang ở thù lù trước mặt ngươi đây mà ngươi còn muốn làm Balibia, thế là cái quái gì hả?

-Thôi được rồi. Hừ, ta nghĩ làm Balibia thì có gì là hay kia chớ.

Buriăk đấu dịu và cùng với câu nói, hình dáng hắn từ từ biến đổi, trong chốc lát đã hiện nguyên hình một con người nhỏ thó, da dẻ và quần áo mốc thếch, dơ hầy như một tên ăn xin, nhìn hắn bao giờ bọn trẻ cũng có cảm giác như nhìn qua một tấm kính bẩn. Chỉ có bàn tay máu là vẫn còn chập chờn trên đầu hắn.

Hắn chiếu ánh mắt đỏ rực vào Balibia, đanh giọng nói:

-Để ta giúp ngươi xóa sổ tên phản bội này!

Nhanh như chớp, bàn tay máu của hắn quật mạnh xuống đầu sứ giả Badd. Như đã đề phòng từ trước, hai quả cầu khác của Badd bay vụt lên, chặn bàn tay máu của Buriăk lại. Từ khi Buriăk xuất hiện, Badd không hề mở miệng để tập trung năng lượng cho cuộc tử chiến mà lão biết là rất gay go.

Quả như Badd lo lắng, lần này bốn quả cầu của lão không thể chống nổi hai bàn tay máu của Balibia và Buriăk, mắt lão trợn trừng khi thấy bốn quả cầu bị ép xuống từng tấc một.

Lại hai quả cầu nữa bay lên, rồi hai quả nữa, nhưng bọn trẻ thấy rõ Badd vẫn không sao lấy lại được thế cân bằng. Lão chỉ trì hoãn được sự thất bại nhưng không thể ngăn được sức ép càng lúc càng mãnh liệt của hai bàn tay máu lúc này bỗng nặng như hai quả núi.

Và đến khi thấy lão tung nốt hai quả cầu cuối cùng lên không mà vẫn không có vẻ gì sẽ cầm cự nổi với Balibia và Buriăk, vóc người gầy gò hom hem của lão rung bần bật như một cái que sẵn sàng gãy ngang bất cứ lúc nào, bọn Kăply bắt đầu cảm thấy hoang mang.

Êmê ném cho Nguyên một cái nhìn u ám:

-Badd có sẽ lật ngược tình thế được không, anh K’Brăk?

Câu hỏi của Êmê như cái kẹp dây phơi, kẹp chặt đôi môi Nguyên lại. Nó lúng túng đánh mắt sang Suku.

Bắt gặp cái nhìn dò hỏi của Nguyên, thằng oắt thở một hơi dài thượt:

-Badd coi như tiêu tùng rồi. Khi Balibia và Buriăk liên tay, nhất là cùng sử dụng bàn tay máu, ở xứ Lang Biang này chỉ có các đại phù thủy như thầy N’Trang Long hay thầy Akô Nô họa may mới chống cự nổi.

K’Tub nhíu mày:

-Thế sao khi nãy lão Badd chỉ cần hai quả cầu đã có thể đánh lui được bàn tay máu của Balibia?

Suku nhìn K’Tub bằng ánh mắt của thầy giáo nhìn đứa học trò chậm hiểu:

-Bởi vì lúc đó toàn bộ năng lượng của lão dồn cả vào hai quả cầu. Bây giờ nhìn bề ngoài, chúng ta thấy lão huy động đến mười quả cầu, chia ra chống đỡ mỗi bên năm quả, tưởng là mạnh hơn, trong khi thực ra sức mạnh của năm quả bây giờ chỉ ngang với một quả hồi nãy thôi.

Tràng cười đắc ý của tả hộ pháp Balibia cất lên cắt ngang tiếng thì thầm của bọn trẻ:

-Ha ha ha. Đến lúc này mà ngươi còn chưa chịu đưa hai quả táo ra để chuộc mạng mình sao?

Êmê nhìn ra, thấy lão Badd tóc tai rối bù, hơi thở gấp và cạn, như sắp đứt hơi tới nơi. Nó nôn nóng lướt mắt qua tụi bạn:

-Hay chúng ta cùng xông vào giúp lão Badd một tay!

-Việc quái gì phải giúp lão, chị Êmê! – K’Tub phản đối – Bộ chị quên lão là thủ phạm hãm hại ba mẹ anh K’Brêt rồi sao?

-Bây giờ không phải là lúc nhắc đến chuyện đó, K’Tub. – Êmê tặc lưỡi – Chúng ta phải nghĩ đến việc đoạt lại hai quả táo vàng đã!

-Đồ ngu! – Bọn trẻ cãi nhau chưa ngã ngũ, đã nghe lão Badd quát ầm – Tụi bay muốn chết hết cả lũ hay sao mà định xông vào!

Bọn trẻ ngớ ra, không ngờ lão Badd đang chống đỡ cật lực với đối phương mà vẫn nghe thấy những gì tụi nó nói tận đằng xa. Tụi nó chưa hết ngạc nhiên, bỗng nghe Badd quát tiếp:

-Đón lấy này!

Hai chấm màu vàng thình lình vọt ra khỏi tay lão, bay vèo về phía bọn Kăply. Lão Badd nhanh, Balibia còn nhanh hơn. Như đã đoán ra hành động này của Badd từ trước, hắn quơ tay một cái, bàn tay máu trên không đột ngột dài ra, chụp xuống hai quả táo.

Ngay lúc đó, tất cả những người ở hiện trường chợt thấy mắt mình hoa lên. Một tấm lưới bạc không biết từ đâu bay tới, cuộn lấy hai quả táo. Tả hộ pháp Balibia ré lên thảng thốt khi bàn tay máu của hắn vừa chạm vào tấm lưới bạc đã văng ngược trở lại như chạm phải vách sắt:

-Thần chú kim cương!

***


Một bóng người đứng sững ở bìa rừng không biết từ lúc nào. Căn cứ vào vóc dáng tầm thước, chiếc áo chùng màu mỡ gà khoác bên ngoài và tấm sa mỏng màu xanh ngọc che ngang mặt, bọn trẻ khiếp hãi nhận ra đó là trùm Hắc Ám. Cả bọn bất giác thối lui một bước, cả người tê dại như vừa bị ai đóng một cây cọc xuyên từ đỉnh đầu đến gót chân. Kăply cảm thấy đầu óc mình lúc này rất giống một miếng bọt biển thấm đẫm nỗi kinh hoàng mà nó không biết làm cách nào để vắt cho khô. Điều duy nhất mà nó có thể làm trong lúc này là bước lui một bước, đứng nấp sau lưng thằng bạn đại ca của nó.

-Tiêu rồi, anh K’Brêt. – Tiếng thằng K’Tub sợ hãi xát vào tai Kăply càng làm nó thêm quíu – Những quả táo này mà rơi vào tay trùm Bastu thì tai họa không biết đâu mà lường.

Như bị thôi miên, Kăply mở to mắt, trừng trừng nhìn trùm Hắc Ám qua khe hở giữa Nguyên và K’Tub, cố nhớ lại câu chuyện Nguyên đã kể cho nó nghe về chiếc mặt nạ thần hộ mệnh. Trùm Bastu đã luyện được thần chú kim cương thì đâu có coi chiến binh giữ đền ra cái đinh gì. Hắn đã từng kéo dài mạng sống cho Kăply, dĩ nhiên hắn cũng chẳng thèm tước đoạt những quả táo vàng này làm gì. Chắc là hắn sẽ trả những quả táo này lại cho nó và Nguyên, đợi hai đứa nó trở thành những chiến binh giữ đền thực thụ rồi, lúc đó hắn mới ra tay để tỏ rõ oai phong. Kăply thắc thỏm nghĩ, cảm thấy trái tim trong ngực nó không nhúc nhích gì hết, y như cánh bướm bị ép chặt vào giữa hai trang sách.

Ở phía trước, trùm Bastu vẫn không nói một tiếng nào từ khi xuất hiện. Hắn chỉ khẽ vẫy tay thu tấm lưới bạc về, trông hắn làm chuyện đó nhẹ nhàng như ngoắt một cánh chim.

Sau thoáng bàng hoàng, sứ giả Badd đột ngột ngửa mặt lên trời cười thê lương:

-Những tên đầu sỏ đã đến cả đây rồi… ha ha ha…

Balibia và Buriăk quát to, gần như cùng một lượt:

-Hỗn xược!

-Khép cái miệng hôi thối của ngươi lại!

Badd lừ lừ quét mắt qua Balibia, Buriăk và trùm Bastu, đáy mắt của lão lóe lên thứ ánh sáng thù hận, căn cứ vào ánh mắt đó có thể tin là lão đang ước gì có thể dùng tia nhìn giết chết tươi đối thủ cho rồi:

-Hà hà, bữa nay nếu ta bỏ mạng tại đây thì trong bọn ngươi ít nhất cũng sẽ có một, hai tên nằm lại với ta…

Balibia cười nhạt:

-Ngươi nằm mơ hả Badd?

Bọn Kăply nín thở chăm chú nhìn cảnh tượng trước mặt, lòng khấp khởi mừng thầm khi thấy sự xung đột giữa các tay tổ Hắc Ám gay cấn và quyết liệt đến mức gần như không thể nào cứu vãn.

Tấm khăn che mặt của trùm Bastu khẽ lay động và từ bên trong một giọng nói nhẹ nhàng đưa ra:

-Trong vòng năm phút, hai ngươi phải giết chết tên khốn kiếp này cho ta!

Trùm Hắc Ám ra lệnh giết người bằng một giọng mượt mà đến khó tin. Chứng kiến thái độ của hắn, bọn trẻ bất giác run lên. Nghĩ đến số phận của mình sau khi trùm Bastu thanh toán xong sứ giả Badd, đứa nào đứa nấy cảm thấy toàn thân căng thẳng như sợi dây đàn, tưởng như bất cứ ai hoặc bất cứ vật gì đụng vào cũng có thể ngân lên thành tiếng.

Ở trên không, hai bàn tay máu của Balibia và Buriăk dần dần phồng to ra, lần này áp lực dữ dội đến mức chung quanh Badd cỏ tróc lên từng mảng, đá vụn bay tứ tung, còn bọn Kăply đột nhiên cảm thấy gần như không thở nổi.

-Lùi lại nhanh! Buriăk có lồng cả lời nguyền Tan xác trong cú đánh này…

Suku rối rít nói và hấp tấp lùi ra xa, kéo theo nguyên cả đám bổ nháo bổ nhào về phía sau.

-Đến nước này ta cũng chẳng buồn giữ kẽ với các ngươi làm gì nữa…

Sứ giả Badd rít lên và trước vẻ mặt sửng sốt của mọi người, những quả cầu pha lê chung quanh lão biến mất, thay vào đó một luồng khói trắng bất ngờ vọt ra từ trong tay áo lão. Luồng khói tuôn ra không ngừng, càng lúc càng dày, chẳng mấy chốc tụ lại thành một đám mây có hình một con bạch mã đang sải vó trên không.

Cả đống cái miệng cùng lúc ré lên:

-Thần chú sát tinh!

-Trời ơi! – Êmê mặt mày tái nhợt – Làm sao lão ta biết thần chú Mã sát tinh?

K’Tub chồm qua tóm lấy vai Suku, lắc mạnh:

-Suku! Vụ này là sao?

Mã sát tinh vừa xuất hiện đã lao thẳng vào bàn tay máu của Buriăk, tức khắc làm phát ra những tiếng nổ vang như sấm rền và đẩy bắn bàn tay máu của Buriăk lên cao. Tiếng động còn âm u trong gió chưa dứt, con ngựa trắng đã nhanh như chớp quay sang tấn công bàn tay máu của Balibia, tiếp tục làm dậy lên một tràng âm thanh đì đoàng nhức óc đến mức bọn trẻ phải hoảng hốt đưa tay bịt chặt hai tai.

Như thể một cuộc đấu pháo, Mã sát tinh một mình quần thảo với hai bàn tay máu trên cái nền những tiếng nổ mỗi lúc một kinh hồn. Nếu còn đủ bình tĩnh, Kăply sẽ nhận thấy chỉ trong một phút mà nó đã đưa tay chặn ngực tới năm lần. Hai bàn tay nó, và những đứa khác cũng vậy, đi qua đi lại giữa tai và ngực liên tục như đang thực hiện những chuyến bay khứ hồi gấp gáp.

Balibia và Buriăk có vẻ như không chống chọi nổi với Mã sát tinh. Hai bàn tay máu cứ bợt đi sau mỗi cuộc tấn công hung hãn của con ngựa trắng, bây giờ đã bắt đầu nhợt nhạt giống như bàn tay của xác chết.

-Khoan đã!

Thình lình, Balibia hét lên. Và hắn bắn vọt người ra xa, hổn hển hỏi:

-Thực ra ngươi là ai?

Sứ giả Badd nheo mắt:

-Thế ngươi nghĩ ta là ai?

-Chắc chắn ngươi không phải là Badd.

Buriăk tranh thủ cơ hội hai bên đối đáp cũng thu bàn tay máu lại, lẩn tuốt ra sau một gốc cây to. Hắn thò gương mặt mốc thếch ra khỏi gốc cây, hoang mang nói:

-Trên đời này chỉ có một người duy nhất biết sử dụng thần chú Mã sát tinh. Đó là K’Rahlan.

Balibia hừ giọng:

-Nhưng K’Rahlan đã chết mười ba năm nay rồi.

-Ngươi xem đây, Balibia.

Badd nhếch môi ngạo nghễ nói và lão khẽ rùng mình. Trước những ánh mắt chăm chú đang đổ dồn vào lão, thân hình Badd từ từ mập ra, cao lên, những nếp nhăn trên mặt biến mất, từ một lão già ho hen như sắp chui vô quan tài, lão bỗng hóa thành một người đàn ông cường tráng, mũi to, mày rậm, cái miệng rộng với đôi môi dày toát ra vẻ quả quyết, cương nghị.

Đôi mắt Balibia như đứng tròng. Hắn hỏi, môi run run:

-Hổng lẽ ngươi… còn… còn sống sao, K’Rahlan?

Đằng xa, bọn Kăply hoàn toàn không tin vào mắt mình. Thủ lĩnh phe Ánh Sáng bị trùm Bastu và năm tên phù thủy hắc ám vây đánh và giết chết mười ba năm về trước bây giờ bất thần xuất hiện dưới lốt của sứ giả thứ nhất phe Hắc Ám quả là chuyện không ai tưởng tượng nổi, ngay cả trong những giấc mơ táo tợn nhất.

Êmê và K’Tub sau thoáng ngỡ ngàng, cùng hoan hỉ reo:

-Cậu K’Rahlan!

Tiếng kêu của hai bạn khiến Nguyên sực tỉnh, ngay lập tức nó biết nó phải làm gì.

-Ba. – Nguyên ngoác miệng cố rống thật to.

K’Rahlan từ từ quay mặt về phía bọn trẻ, giọng cố nén xúc động:

-Con giỏi lắm, con trai ba. Cả các bạn con nữa, các con thật là tuyệt.

Giọng ông chợt nghiêm lại:

-Nhưng bây giờ thì các con chạy đi. Nghe lời ta, chạy nhanh đi…

Balibia hét lên, cắt ngang lời K’Rahlan:

-Ngươi đã làm gì Badd rồi, K’Rahlan?

-Badd ư? – K’Rahlan nhún vai – Hắn đã đến một nơi thật yên tĩnh…

-Ngươi không định nói hắn đã chết đó chớ?

-Rất tiếc là ta định nói như vậy đó, Balibia. – Giọng thủ lĩnh phe Ánh Sáng lạnh lùng – Badd hiện đang ở cùng một chỗ với Baltalon và Basil.

Balibia quay phắt sang Bastu, mặt xám như tro:

-Thưa ngài…

Trùm Hắc Ám giơ một cánh tay lên:

-Ta biết ta phải làm gì, Balibia.

Hoàn toàn ra ngoài tiên liệu của mọi người, nói xong Bastu đột ngột quay sang phía bọn trẻ, ánh mắt sáng quắc của hắn chiếu thẳng vào mặt Nguyên và Kăply như hai ngọn đèn khiến hai đứa bất giác bủn rủn cả tay chân.

Chưa kịp nghĩ ra nên làm gì, Nguyên và Kăply đã thấy Bastu phất tay một cái, ngay lập tức hai đứa cảm thấy quai hàm của mình như bị ai kéo mạnh. Hai đứa há hốc miệng ra, hoàn toàn không tự chủ.

-Bastu! Ngươi dám…

K’Rahlan thét lên và Mã sát tinh lao xuống đầu trùm Hắc Ám nhanh như điện xẹt.

Trước cú bổ nhào khủng khiếp của con ngựa trắng, Bastu chỉ ve vẩy mấy ngón tay một cách hờ hững. Như một trò ảo thuật, hai quả táo vàng từ trong tấm lưới lăn gọn vào lòng bàn tay hắn, còn tấm lưới thì phình to ra như một bức màn bằng bạc, bay lên chắn ngay trên đầu.

Bọn Kăply quên mất nguy hiểm, hồi hộp căng mắt dòm. Thầy N’Trang Long từng nói cho tụi nó biết thần chú sát tinh là thần chú siêu đẳng nhất của phe Ánh Sáng, phe Hắc Ám và giáo phái Madagui, chỉ lãnh tụ tối cao của mỗi phe phái mới được phép tu luyện. Qua tấm gương lưu trữ, nhiều đứa trong tụi nó đã được chứng kiến sức tàn phá khủng khiếp của Điểu sát tinh, thủ phạm biến các siêu phù thủy Krazanh và Kim thành một cặp vợ-chồng-hai-trong-một. Uy lực của Mã sát tinh nếu không hơn thì chắc chắn cũng không kém Điểu sát tinh, Kăply hồi hộp nhủ bụng, nếu không thần chú này vừa rồi đã chẳng làm cho tả hộ pháp Balibia và sứ giả Buriăk xiểng liểng đến thế. Nhưng lần này, thần chú sát tinh đụng phải thần chú kim cương, xưa nay vẫn được truyền tụng là thần chú vô địch. Hổng lẽ… Kăply không dám nghĩ tiếp, và cũng không có thì giờ để nghĩ tiếp: Ở trước mặt nó, con ngựa trắng đã chạm vào tấm lưới bạc.

Tất cả bọn trẻ đều cuống quýt bụm chặt hai tai, chờ một tiếng nổ kinh thiên động địa để lăn tròn ra đất. Nhưng rốt cuộc chẳng có một âm thanh nào phát ra sau cú va chạm kia. Như trong một cuốn phim câm, Mã sát tinh vừa va phải tấm lưới đã lộn ngược một vòng và văng tuốt ra xa, êm ru như va phải một bức tường bằng bông.

“Thôi rồi!”, Kăply vừa than thầm trong bụng đã sửng sốt thấy hai quả táo vàng từ tay trùm Bastu bắn tới như hai hòn đạn và chui tọt vào hai cái miệng há rộng từ nãy đến giờ của nó và Nguyên.

Kăply cảm nhận rất rõ quả táo vừa chun vô miệng liền bốc lên một mùi thơm kỳ lạ nhưng nó chưa kịp hít hết mùi thơm đó vào lồng ngực thì quả táo đã lật đật lăn qua cuống họng, chui tọt xuống dạ dày, trơn tuột và nhanh như thể đó không phải là quả táo mà là một con thằn lằn đang cuống cuồng chạy trốn.

Cùng lúc đó, Kăply phát hiện ra quai hàm của nó đã cử động được. Nó tính buột ra một tiếng kêu, bỗng thấy có vật gì vương vướng nơi cổ. Nó lo lắng thò hai ngón tay vào mò mẫm và lôi ra thứ gì đó giống như một ngôi sao năm cánh. Nó chưa kịp ngạc nhiên đã nhớ ngay tới lời nói của thầy Akô Nô: Hạt của quả táo vàng có hình ngôi sao năm cánh, bỏ hạt táo trong túi áo có thể bảo vệ được mạng sống trước mọi hiểm họa.

Kăply lập tức nhét hạt táo vào túi áo chùng, quay sang bên cạnh thấy Nguyên cũng vừa rút tay ra khỏi túi.

-Chúc mừng hai anh nha. – Suku toét miệng cười nói – Như vậy thì thầy N’Trang Long đâu có trách hai anh về vụ này được.

Thằng K’Tub vỗ tay bôm bốp:

-Hay quá! Bây giờ thì hai anh có thể giúp pháp sư K’Rahlan một tay để đối phó với trùm Hắc Ám được rồi.

-Ủa, – Êmê ngúc ngoắc chiếc mũi hếch, giọng như mơ ngủ – tại sao trùm Hắc Ám lại giúp anh K’Brăk và anh K’Brêt nuốt hai quả táo há?

-Chị quên trùm Bastu đã nói gì hôm trước rồi sao, chị Êmê. – Păng Ting nhún vai – Hắn nói hắn muốn coi thử chiến binh giữ đền là thứ quái vật gì. Hắn bảo Bajaraka và Pô Palay sợ chiến binh giữ đền chứ hắn cóc sợ.

-Hắn ngạo mạn như vậy có lẽ do hắn ỷ vào thần chú kim cương. – Bolobala rầu rĩ tiếp lời – Mã sát tinh của thủ lĩnh K’Rahlan còn không làm gì nổi hắn thì K’Brăk và K’Brêt có ăn hai quả táo này vào cũng chẳng ăn thua gì.

Nguyên và Kăply nghe hết những lời bàn luận của tụi bạn nhưng không cách gì mở miệng được. Cơ thể tụi nó thoạt nóng thoạt lạnh như đang ngâm mình trong một cái bồn tắm mà nhiệt độ thay đổi đột ngột và liên tục từ 0° qua 100° rồi ngược lại.

Mồ hôi vừa túa ra trên trán, cả hai đã tức khắc run cầm cập. Mặt mày nhăn nhúm và trắng bệch, nom Nguyên và Kăply đau đớn như đang bị một chất độc cực mạnh hành hạ.

Balibia, Buriăk và K’Rahlan thoạt đầu không hiểu hành động của trùm Hắc Ám có dụng ý gì, cứ trố mắt ra nhìn Nguyên và Kăply.

Bây giờ thì K’Rahlan đã có vẻ hết kiên nhẫn. Môi ông run run:

-Bastu… ngươi vừa cho bọn trẻ ăn… quả gì vậy?

Buriăk cười hiểm độc:

-Ta thì ta nghĩ đó là quả hiến sinh.

Như bị rắn mổ, K’Rahlan và bọn trẻ gần như nhảy dựng lên.

-Ngươi vừa nói gì, Buriăk? – K’Rahlan cắn môi muốn bật máu, ánh mắt như xuyên thủng gã Buriăk đang thò nửa người ra sau gốc cây.

-Ngươi cũng biết rồi mà, K’Rahlan. – Buriăk cười hê hê – Chỉ có nhựa độc của quả hiến sinh mới có thể làm lục phủ ngũ tạng của con người ta nát bét và mặt mày thoạt xanh thoạt đỏ thế thôi. Hà hà, đây là một trong ba thứ độc bất trị…

-Nói láo! – Suku vung nắm tay nhỏ xíu về phía Buriăk, quát lớn – Ngươi cóc biết gì về các loại độc mà cũng bày đặt nói lung tung.

-Thằng nhãi ngu ngốc kia! – Buriăk trợn đôi mắt đỏ khé nhìn Suku – Nếu ngươi thiệt sự chưa mất hết thần trí thì ngươi thử quay nhìn hai đứa bạn của ngươi đi. Có phải là chúng sắp chết rồi không?

Hắn quét mắt qua Nguyên và Kăply, sung sướng kêu lên:

-Đó, nhìn gương mặt chúng kìa! Chúng đã… đã…

Buriăk không có cơ hội nói hết câu. Ngay lúc đó, giống như kẻ thình lình ra khỏi một trận ốm, khuôn mặt của Nguyên và Kăply sáng bừng lên, cơ thể cũng thôi co giật. Và đến khi hai đứa mở mắt ra thì mọi người đều nhận thấy ánh mắt của tụi nó hoàn toàn khác hẳn trước đây mấy phút. Êmê mừng rỡ khi thấy đôi mắt của Nguyên và Kăply lúc này sáng lấp loáng, trông oai phong không kém gì đôi mắt của pháp sư K’Tul. Nó lắp bắp, mừng mừng tủi tủi:

-Suku nói đúng… Không phải là quả hiến sinh… không phải…

-Tôi đã biết là Buriăk nói xạo mà.

Bolobala hoan hỉ vọt miệng, vừa nói nó vừa thò tay nắm chặt tay Nguyên như thể mục đích của cuộc đời không có gì khác hơn là chọc cho nhỏ bạn Êmê phát khùng lên chơi. Nhưng con nhỏ Êmê lúc này nguội ngắt, nó không quan tâm đến chuyện gì ngoài chuyện chà tay lên chiếc mũi hếch để ém lại những tiếng sụt sịt cứ chực xì ra.

Mua và K’Tub cũng đâm bổ vào người Kăply từ phía bên kia, trông cái cảnh tụi nó giành nhau để được tóm Kăply, thằng này bỗng rất giống một thứ có thể ăn được.

Nhìn cái cảnh nhí nhố trước mặt, Buriăk hoàn toàn không tin vào mắt mình. Hắn ngơ ngác quay sang trùm Hắc Ám:

-Thưa ngài… hổng lẽ… đó là những quả táo ở núi Lưng Chừng thật…

Trùm Bastu lạnh nhạt đáp:

-Ngươi không tin ư?

Đột ngột, hắn gằn giọng:

-Để ta chứng thực cho ngươi thấy.

Quay về phía bọn trẻ, Bastu cất cao giọng:

-K’Brăk, K’Brêt! Hai ngươi thử đánh nhau với Balibia và Buriăk xem nào!

-Đánh nhau với họ? – Kăply hoang mang hỏi lại, lưng bất chợt nổi đầy gai ốc. Chưa bao giờ nó nghĩ sẽ có ngày nó dám đối địch với Balibia hay Buriăk.

Bastu hừ mũi đằng sau tấm khăn che mặt:

-Bọn ngươi đã ăn quả táo tri thức, sức mạnh và ma thuật đó rồi, còn sợ sệt gì nữa.

Nguyên liếc về phía K’Rahlan, bắt gặp cái gật đầu khe khẽ của ông, liền bước tới một bước:

-Thử thì thử.

-Thưa ngài… – Balibia lấm lét liếc trộm trùm Hắc Ám, rụt rè cất tiếng.

-Đánh đi! – Giọng Bastu ráo hoảnh – Không lẽ bọn ngươi sợ mấy đứa nhóc?

-Nhưng…

Balibia ấp úng, nhưng hắn mới nói được một tiếng, những sợi lòi tói từ phía Nguyên đã phóng tới trước mặt. Biết không thể né tránh cuộc đánh nhau vô vị này, đôi mắt Balibia lập tức lóe lên sát khí. Bàn tay máu của hắn xuất hiện, chụp xuống làm những sợi dây đứt phựt.

Bắt chước Nguyên, Kăply lật đật chĩa tay về phía Buriăk, lẩm bẩm niệm thần chú chiến đấu số 6 Trói gô, và nó há hốc miệng khi thấy từ tay mình những sợi dây loằng ngoằng bắn thốc ra, dữ dội đến mức làm phát ra những tiếng veo véo ghê hồn.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 11-4-2015 19:12:35 | Xem tất
Chương 25. Trở về trường




Kăply nhìn xuống, như thể kiểm tra xem bàn tay đánh ra cú đòn vừa rồi có phải là bàn tay của nó hay không. Nhưng Kăply vội ngẩng đầu lên ngay, khi tiếng reo hò của tụi bạn đập mạnh vào tai.

Trước mặt nó, Buriăk đang cuống quít cố bứt đứt sợi dây đang quấn lấy chân hắn.

-Tuyệt lắm, K’Brêt. – Tam bô bô, mặt mày hớn hở như chính nó vừa tung ra câu thần chú vừa rồi.

-Hắn đang lúng túng. Đánh tiếp đi, K’Brêt. – Kan Tô hối hả giục, hai tay tóm chặt lấy mái tóc xù, hành động không thể nhầm lẫn của một kẻ đang vô cùng sốt ruột.

Thấy Kăply đứng nghệt mặt ra, Tam đoán bạn mình quên béng bài học, liền nhắc:

-Đánh thần chú số 10 ấy.

Kăply bối rối:

-Thần chú số 10 là thần chú gì?

Bolobala nhanh nhẩu:

-Thần chú Siết cổ ấy mà.

Kăply “à” lên một tiếng rồi láu táu niệm chú. Lần này, Buriăk đã kịp chuẩn bị. Bàn tay máu của hắn nhanh chóng phình to ra gấp đôi, hạ xuống và dựng đứng ngay trước mặt như một bức bình phong, hóa giải câu thần chú số 10 của Kăply một cách dễ dàng.

-Thần chú số 7! – Tam lại nhắc, và nó hấp tấp nói thêm – Tức thần chú Sụm bà chè.

Kăply tung ra thần chú Sụm bà chè. Nhưng cũng như vừa rồi, Buriăk vẻ như chẳng hề hấn gì. Những câu thần chú của Kăply đụng phải bàn tay máu chỉ phát ra những tiếng nổ lốp bốp, hoàn toàn vô hại.

-Hà hà. – Buriăk cười khành khạch – Thì ra chiến binh giữ đền cũng chẳng phải thứ gì ghê gớm lắm!

Cùng với tràng cười, Buriăk bắt đầu phản công. Bàn tay máu của hắn bay vút lên cao và như một con ó lửa khổng lồ, hung hãn chụp xuống đầu Kăply.

Buriăk ra tay nhanh đến mức Tam và Bolobala không kịp mở miệng mách nước. Kăply quýnh quáng đành tung ra thần chú Sụm bà chè một lần nữa. Và nó thở phào khi thấy câu thần chú của nó lập tức chặn đứng được bàn tay máu của Buriăk. Bàn tay đỏ lòm khựng lại một chỗ, không sa xuống được nhưng cũng không chịu rút về, treo lơ lửng trên đầu bọn trẻ.

Ở bên cạnh, Nguyên và Balibia cũng đang rơi vào thế bất phân thắng bại. Trong khi ai nấy đinh ninh cuộc quyết đấu giữa hai chiến binh giữ đền và hai siêu phù thủy sừng sỏ của phe Hắc Ám sẽ tiếp tục giằng co thêm một lúc lâu nữa thì bọn Kăply cảm thấy lồng ngực tự nhiên tức nghẹn. Không khí chung quanh như đặc lại khiến tụi nó nghe máu trong người chảy rần rật và hai bên thái dương bắt đầu tưng tức.

K’Rahlan lẩm bẩm:

-Lời nguyền Tan xác!

Ông hất tay một cái, luồng khói trắng từ tay áo lại vọt ra. Mã sát tinh hiện hình rất nhanh và phóng thẳng vào bàn tay máu của Buriăk. Một tràng sấm rền nổi lên và cũng như khi nãy, Buriăk dạt tuốt ra xa, thân hình nhỏ thó của hắn lắc lư không ngừng như một chiếc thuyền con gặp bão.

Sau khi đẩy lùi Buriăk, Mã sát tinh tiếp tục tấn công Balibia. Tả hộ pháp Hắc Ám đang loay hoay đánh nhau với Nguyên, thấy Mã sát tinh đâm bổ tới, liền kêu lên thất thanh:

-Thủ lĩnh Ánh Sáng đã ra tay rồi, xin ngài hãy…

Dĩ nhiên, bọn trẻ biết Balibia đang cầu cứu trùm Hắc Ám và điều đó khiến tụi nó nhận thức rất rõ hiểm họa đang tới gần. Lúc phát hiện Nguyên và Kăply sau khi ăn quả táo vàng, năng lượng pháp thuật đột nhiên tăng tiến vượt bậc, có thể chống chọi ngang ngửa với các siêu phù thủy phe Hắc Ám, đứa nào đứa nấy như cởi được mối lo. Nhưng bây giờ thì sự sợ hãi nhanh chóng quay trở lại với cả bọn. Tụi nó đã tận mắt chứng kiến uy lực của thần chú kim cương, biết rằng nếu trùm Bastu quyết định tham gia vào trận chiến hôm nay, cả K’Rahlan lẫn tụi nó không một ai có cơ may thoát nạn.

-Vậy thì có lẽ ta không thể đứng yên được nữa rồi.

Trùm Bastu chậm rãi cất tiếng, giọng vẫn ôn tồn như mọi khi nhưng lần này bọn Kăply cảm thấy trong giọng nói nhẹ nhàng của hắn có giấu những cây kim tẩm độc và tụi nó không khỏi run lên vì ý nghĩ đó.

Trước vẻ mặt khiếp đảm của bọn trẻ, tấm lưới bạc lại bay lên theo tiếng nói của trùm Hắc Ám, lượn về phía Mã sát tinh đang đánh nhau với tả hộ pháp và sứ giả thứ năm của phe Hắc Ám, êm ái sa xuống.

Chuyện xảy ra lạ lùng đến mức bọn Kăply đứa nào đứa nấy tròn xoe mắt: Trong khi Mã sát tinh không hề hấn gì thì hai bàn tay máu của Balibia và Buriăk tắt phụt, hai tên loạng choạng lùi lại cả chục bước, cuối cùng như không gượng nổi, ngã bệt xuống đất, giương cặp mắt thất thần ra nhìn trùm Bastu.

Trong đấu trường bây giờ chỉ còn lại hai người đối diện nhau. Cả trùm Bastu lẫn K’Rahlan đều không hé môi, cả hai câm nín nhìn nhau như thể người này cố đọc ý nghĩ trong đầu người kia, không khí căng như sắp phát nổ.

K’Rahlan nhìn chằm chằm vào tấm khăn che mặt của trùm Hắc Ám một hồi lâu, hắng giọng một cái rồi khẽ mấp máy môi:

-Ngươi muốn tự tay giết ta à?

Thật khó mà biết Bastu đang nghĩ gì đằng sau tấm khăn. Hắn không đáp lời thủ lĩnh Ánh Sáng nhưng tấm khăn rung lên dữ dội. Nguyên và Kăply vội vã bước tới vài bước, tay chĩa về phía trùm Hắc Ám, vẻ như sẵn sàng liều mạng nếu hắn ra tay lấy mạng K’Rahlan.

-Sau khi thoát chết dưới sự đột kích hèn hạ của bọn ngươi mười ba năm về trước, thiệt tình là ta chưa nghĩ đến chuyện giết Badd. – Thủ lĩnh Ánh Sáng cất giọng trầm trầm – Nhưng khi hắn điên cuồng tấn công vợ chồng K’Srêgơl – Ka Lên, ta quyết định không tha cho hắn. Rồi đến cái ngày ngươi đặt ra chức vị sứ giả và chiêu dụ năm sát thủ tham gia cuộc đột kích lâu đài K’Rahlan về với ngươi thì ta lập tức nghĩ đến chuyện hóa ra Badd để tiện bề hành động.

K’Rahlan nhún vai, buông ra một tiếng thở dài đầy tiếc nuối:

-Chỉ tiếc là trong suốt thời gian đó ta vẫn chưa tìm ra cách tiếp cận để hạ sát ngươi được. Đến khi biết ngươi luyện được thần chú kim cương thì ta nhận ra ta không còn hy vọng báo thù được nữa rồi.

Thủ lĩnh Ánh Sáng khẽ phất tay áo:

-Bây giờ thì chúng ta buộc phải sống mái với nhau thôi. Dù sao thì trong những kẻ vây đánh vợ chồng ta, Badd, Basil, Baltalon đã chết, Buriam thì bị bắt. Chừng đó cũng đủ làm ta thỏa mãn rồi. Còn ngươi, Buriăk, tả hữu hộ pháp Balibia và Balikem, vào một ngày đẹp trời nào đó con ta sẽ thay thế ta để đòi nợ.

K’Rahlan đột ngột bắn tia nhìn vào mặt trùm Bastu, cao giọng:

-Ta chỉ có một đề nghị nhỏ: Nếu ngươi tỏ ra xứng đáng với tư cách lãnh tụ Hắc Ám, hôm nay ngươi phải để cho bọn trẻ rời khỏi nơi đây an toàn.

Trùm Hắc Ám vẫn không nhích môi. Từ nãy đến giờ, mặc cho K’Rahlan nói, hắn không ngắt lời, không hỏi lại, từ đằng sau tấm khăn đôi mắt sáng như sao của hắn vẫn lặng lẽ dán vào mặt thủ lĩnh Ánh Sáng, có vẻ như hắn đang suy tính một âm mưu cực kỳ nham hiểm để trả thù cho thuộc hạ.

-Thế nào? – Thái độ của trùm Bastu khiến K’Rahlan cảm thấy chột dạ. Ông hỏi, giọng bồn chồn – Ngươi không dám nhận lời à?

-Ngài đừng nghe lời hắn. – Balibia rên lên từ dưới đất, hắn vẫn nằm mọp chưa bò dậy được – Chúng ta không thể để sổng bọn chiến binh giữ đền được.

Buriăk hùa theo:

-Balibia nói đúng đó. Ngài nên giết sạch bọn chúng. Giết không còn một ngoe nào hết.

Như không nghe thấy hai tên thuộc hạ, trùm Bastu thu tấm lưới bạc về, nhìn K’Rahlan, khoan thai nói:

-Ta giấu tấm thảm bay mượn của lão Alibaba trong mé rừng bên phải. Lát nữa, ngươi lái tấm thảm đưa bọn trẻ về trường Đămri, càng nhanh càng tốt.

Gần như không ai hiểu trùm Hắc Ám nói gì. Kăply nhìn sững gương mặt bị che khuất của hắn, bắt đầu nghĩ hắn đã không còn tỉnh táo.

-Bastu! Ngươi nói nhăng gì thế? – K’Rahlan kêu lên bằng cái giọng của kẻ đang cố gắng kéo Bastu trở lại với vấn đề thiết thực mà ông vừa đề nghị.

Nhưng trùm Bastu vẫn tiếp tục nói chuyện với vẻ khùng khùng:

-Các ngươi có biết tại sao Baltalon bị tiêu tùng không?

K’Rahlan nhăn mặt nhưng vẫn nhẫn nại trả lời:

-Hắn bị banh ta lông bởi lời nguyền Không tha thứ.

-Nhưng tại sao hắn lại chết dưới lời nguyền của chính hắn?

Lần này không để thủ lĩnh Ánh Sáng kịp đáp, thằng K’Tub láu táu cướp lời:

-Tại hắn nặn tượng theo bức chân dung tự họa của anh K’Brăk nên bị lộn tay trái với tay phải.

-Thế các ngươi có biết hắn lấy bức tranh đó từ đâu không?

Kăply không biết trùm Hắc Ám định dẫn dắt câu chuyện tới đâu nhưng vẫn vọt miệng trả lời:

-Dĩ nhiên là pháp sư K’Tul đã đưa cho hắn để gài hắn vào bẫy.

-Sai rồi. – Trùm Hắc Ám khụt khịt mũi – Chính ta đã đưa bức tranh đó cho Baltalon.

Tiết lộ của Bastu khiến Balibia và Buriăk hoang mang đưa mắt nhìn nhau, còn bọn Kăply có bao nhiêu cái miệng đều há hốc cả ra.

K’Rahlan nhíu đôi mày rậm:

-Ta không tin. Hổng lẽ ngươi lại cố tình hại chết sứ giả của mình?

-Đúng là như vậy đó. – Trùm Bastu thản nhiên – Tiếc là bọn khốn nạn đó chưa chết sạch như ta muốn.

Lúc nói câu này, giọng Bastu hoàn toàn thay đổi. Và đứa đầu tiên nhận ra điều đó là K’Tub. Nó ré lên như thể gặp người quen:

-A, tôi nhận ra rồi. Ông là người cỡi chổi bay bên cạnh tấm thảm của bọn tôi hôm trước. Giọng ông nghe rất giống giọng anh K’Brăk.

Êmê ngơ ngác:

-Hổng lẽ chính ông là người bảo bọn tôi muốn đến núi Lưng Chừng phải tìm cho bằng được Tam phù thủy?

-Đúng là ổng rồi, Êmê. – Nguyên thở hắt ra – Hôm đó nhìn ổng phóng chạy trên cây chổi, chúng ta thấy giống như một chấm màu vàng lướt đi trong không trung. Màu vàng đó, chính là chiếc áo ổng đang mặc.

Bọn trẻ rọi mắt vào chiếc áo chùng màu mỡ gà trên người trùm Hắc Ám. Trừ Mua, Bolobala, Kan Tô và Tam, những đứa còn lại đều nhớ lại mồn một trong đầu chuyến bay kinh hoàng hôm nọ. Và khi phát hiện ra Bastu chính là người đã mách nước cho tụi nó về cách hỏi đường đến núi Lưng Chừng, đứa nào đứa nấy choáng váng như bị đá rớt trúng đầu.

-Vậy chính ông là người đã cứu Đam Pao và bắt sống Buriăk ở thung lũng phía sau lâu đài K’Rahlan? Và cũng chính ông dùng chiếc mặt nạ thần hộ mệnh kéo dài mạng sống cho anh K’Brêt? – Suku ngẩn ngơ nhìn trùm Hắc Ám.

-Ngươi nói đúng rồi đó.

Mặc dù đoán trước được câu trả lời, bọn Kăply vẫn không tin vào tai mình khi chính Bastu thừa nhận một cách quá đơn giản. Tụi nó sững sờ chìa bộ mặt đần đần vào mắt nhau rồi lại quay nhìn K’Rahlan, xem thủ lĩnh Ánh Sáng phản ứng như thế nào trước sự cố bất ngờ này.

Và cả đống cặp mắt như hoa lên khi thấy K’Rahlan đang xiêu vẹo bước về phía trùm Hắc Ám, hai tay giơ ra phía trước như muốn ôm chầm lấy kẻ thù, miệng mếu xệch đi.

-Tỉnh lại đi, cậu K’Rahlan! – Êmê hoảng sợ la lên.

Nhưng K’Rahlan hoàn toàn không nghe thấy Êmê, như người mất hết lý trí, ông vẫn lảo đảo bước tới, bước tới nữa và đúng như sự lo lắng của bọn trẻ, hai cánh tay dang rộng của ông ôm choàng lấy trùm Bastu, cái hành động mà dưới mắt bọn Kăply cũng nguy hiểm ngang với việc ôm lấy một khối thuốc nổ.

Bọn trẻ nhắm nghiền mắt, chờ một tiếng kêu thét đau đớn của thủ lĩnh Ánh Sáng nhưng một lúc lâu vẫn không nghe thấy gì, liền mở choàng mắt ra.

Và tụi nó như đứng tròng khi thấy trong tay K’Rahlan bây giờ là một phụ nữ xinh đẹp nhưng khắc khổ, mái tóc màu xanh lá cây phủ xuống ngang lưng, đặc biệt trông bà giống Nguyên như đúc.

-Dì Ka Ming. – Êmê và K’Tub đồng loạt reo lên, sau đó một chút là tiếng Kăply.

-Mẹ. – Nguyên hét lên và đâm bổ lại, sà vào người phụ nữ.

-Tội nghiệp con tôi. – Ka Ming vuốt tóc Nguyên, âu yếm và thương cảm, nước mắt nhỏ tong tong trên đầu trên cổ nó.

K’Rahlan buông vợ ra, đặt tay lên đầu Nguyên, giọng chưa hết xúc động:

-Lúc ta và mẹ con bị nạn, con mới ba tuổi nên dĩ nhiên con không nhận ra giọng của mẹ con. Nhưng ngay từ câu đầu tiên, khi mẹ con lấy lại giọng nói bình thường, ta đã biết trùm Bastu đang đứng trước mặt ta là ai rồi. Hà hà, đúng là trời cao có mắt.

Bọn trẻ nhanh chóng xúm xít lại quanh vợ chồng K’Rahlan – Ka Ming, sung sướng chứng kiến niềm hạnh phúc rạng ngời trên gương mặt của vợ chồng con cái thủ lĩnh phe Ánh Sáng trong ngày đoàn tụ.

-Mẹ. – Nguyên ngước mắt nhìn bà Ka Ming – Hóa ra cả ba lẫn mẹ đều còn sống trên đời. Làm sao mà ba mẹ thoát chết trong cuộc tấn công mười ba năm trước được hở mẹ?

-Chuyện đó ta sẽ kể cho tụi con nghe sau, K’Brăk. – Bà Ka Ming vỗ vai con trai, dịu dàng nói – Còn bây giờ tụi con phải theo ba con rời khỏi chỗ này đã. Trùm Bastu có thể sẽ đến đây ngay đó.

-Mẹ đã luyện được thần chú kim cương hổng lẽ còn sợ hắn?

Bà Ka Ming chép miệng:

-Thần chú kim cương có tất cả bảy câu. Ta luyện được ba câu đầu, Bastu luyện được ba câu sau. Mà so với ba câu đầu thì ba câu sau lợi hại hơn nhiều, con à.

-Dì phải xử lý tả hộ pháp và sứ giả thứ năm của trùm Bastu đã chứ.

K’Tub vội vàng nhắc nhưng khi nó nhìn về phía Balibia và Buriăk thì hoảng hồn không thấy bọn chúng đâu.

-Dì Ka Ming! Cậu K’Rahlan! – K’Tub hét ầm – Hai tên đó trốn rồi!

Ka Ming nhìn chồng, tặc lưỡi:

-Chỉ có thần chú kim cương mới giải được thần chú kim cương, trùm Hắc Ám đã đến rồi. Anh đưa bọn trẻ đi đi!

-Thế còn em? – K’Rahlan lo âu hỏi.

-Em sẽ cản hắn. Anh đừng lo cho em. Em không làm gì được hắn nhưng hắn cũng không dễ gì gây nguy hiểm cho em đâu.

-Ngươi tự tin quá đấy, Ka Ming. – Một giọng nói mượt mà vẳng tới, thoạt gần thoạt xa – Hừm, mấy năm qua ta cứ tự hỏi không biết ai đã cả gan giả danh ta, không ngờ là ngươi. Nếu ta không ẩn nhẫn để luyện thành công thần chú kim cương, ngươi đã tàn đời từ lâu rồi, Ka Ming.

Ka Ming hừ mũi:

-Nếu chưa luyện xong thần chú kim cương, ngươi tìm ta cũng vô ích thôi.

Giọng trùm Bastu tiếp tục ngân nga trong gió:

-Thiệt tình thì ta không hiểu nổi tại sao vợ chồng ngươi có thể sống sót dưới sự liên thủ của tám người bọn ta. Thực sự thì chỉ cần ta và hai hộ pháp của ta cùng lúc ra tay, không ai ở xứ Lang Biang này có thể thoát chết được. Đằng này, ta cẩn thận mời thêm năm đại sát thủ nữa, vậy mà vợ chồng ngươi hiện giờ đang đứng sờ sờ ra đây, thiệt quái đản hết sức!

-Ngươi còn không ngờ nhiều chuyện nữa, Bastu à.

Giọng Ka Ming khiêu khích nhưng trùm Hắc Ám vẫn không tỏ vẻ gì tức giận. Giọng hắn vẫn đều đều:

-Lẽ ra, khi có kẻ giả danh ta để tập họp Badd, Basil, Baltalon và anh em Buriam, Buriăk vào dưới trướng, sau đó bọn họ lần lượt bị tai họa, ta phải nghĩ ngay đến vợ chồng ngươi. Chỉ kẻ nào hận bọn ta đến tận xương tủy mới nghĩ ra cách trả thù cay độc như vậy. Nhưng tiếc là ta đã quá chủ quan. Ta từng chứng kiến không ít chuyện kỳ quặc trên đời nhưng có lẽ chuyện vợ chồng ngươi thoát chết là chuyện kỳ quặc nhất trong những chuyện kỳ quặc.

Lợi dụng lúc trùm Hắc Ám đang say sưa với câu chuyện trong đầu hắn, K’Rahlan hối hả dẫn bọn trẻ đi men theo bìa rừng. Như để trợ giúp cho sự đào thoát của họ, Ka Ming tìm cách thu hút sự chú ý của Bastu:

-Có phải ngươi đang rất muốn biết vợ chồng ta đã thoát chết bằng cách nào không?

Bastu thở phì phì trong chỗ ẩn mình:

-Đúng vậy, Ka Ming à. Ta nghĩ là bây giờ ước muốn biết được điều bí mật đó ở trong lòng ta còn cao hơn ước muốn giết ngươi hay ngăn cản K’Rahlan và bọn nhóc tì chạy trốn.

-Hắn là một con quỷ. – K’Rahlan nói khẽ vào tai bọn trẻ – Hắn vẫn đang để ý đến chúng ta đó. Tụi con phải cẩn thận.

Tấm thảm bay cuộn mình đằng sau một bụi cây rậm và đầy gai.

-Đây rồi. – K’Rahlan mừng rỡ lôi nó ra và trải rộng trên mặt cỏ – Ngồi vào đi, tụi con.

Trong nháy mắt, tất cả chen chúc trong tấm thảm đã trở nên quá chật. Cả buổi, con Chacha biến đâu mất tăm, bây giờ vẫn kịp nhào vào giữa tấm thảm, ngọ nguậy tứ tung khiến tấm thảm đã chật càng thêm chật. K’Rahlan ngồi vào chỗ gã tài xế Mustafa thường ngồi, vội vã niệm chú cho tấm thảm bay lên.

Trùm Hắc Ám không thèm truy cản, chỉ có tiếng nói của hắn vang lên lồng lộng:

-K’Rahlan! Hôm nay ta chưa thèm tính sổ với ngươi. Nhưng ngươi và hai tên chiến binh giữ đền lóc chóc kia đừng hòng mơ đến chuyện thoát khỏi tay ta.

* * *


Tấm thảm do K’Rahlan điều khiển lao vút lên không, êm ái lướt đi trong ánh nắng chiều. Cánh rừng và con đường mòn lùi lại phía sau và càng lúc càng bé đi khi K’Rahlan cho tấm thảm hướng tới những đám mây trên đầu. Lần đầu tiên kể từ lúc rời khỏi trường Đămri, bọn Kăply cảm thấy tâm trạng của tụi nó không bị cột chặt vào nỗi lo lắng. Nhưng khi niềm hân hoan lắng xuống, bọn trẻ bắt đầu cảm thấy ái ngại cho bà Ka Ming.

-Mẹ có sao không hả ba? – Nguyên hỏi, cố hết sức để làm quen với cách xưng hô mà nó cảm thấy vô cùng ngượng ngập.

-Ta nghĩ trùm Bastu không làm gì được mẹ con đâu. – Thủ lĩnh Ánh Sáng vừa đáp vừa cúi đầu nhìn xuống mặt đất phía dưới như không tự tin vào sự khẳng định của mình lắm.

-Cậu K’Rahlan ơi. – K’Tub vùng hỏi – Cậu kể cho tụi con nghe chuyện cậu thoát chết mười ba năm trước đi!

Mười tám con mắt còn lại đồng loạt xoáy vào tấm lưng của thủ lĩnh K’Rahlan sau câu hỏi của K’Tub, hồi hộp chờ nghe câu trả lời. Nhưng thủ lĩnh K’Rahlan đã nhanh chóng làm tụi nó thất vọng.

-Chuyện đó hả? – Ông “e hèm” một tiếng, phân vân nói – Chuyện đó sau này tụi con sẽ biết.

-Thế cậu nói ra bây giờ không được hả cậu? – Êmê khịt khịt mũi, cái động tác mà nó chỉ làm những khi phật ý.

-Không được đâu, tụi con à. – K’Rahlan quay đầu lại như muốn dùng ánh mắt làm dịu đi nỗi bất bình của bọn trẻ – Chuyện tại sao vợ chồng ta thoát chết dưới tay trùm Hắc Ám và đồng bọn của hắn là điều tuyệt mật.

Ông nói thêm, bằng cái giọng mà một đứa tinh tế như Nguyên hiểu ngay là thay cho lời kết thúc:

-Đến một ngày nào đó tụi con sẽ biết, nhưng không phải là bây giờ.

Nói xong, ông quay lưng lại, ngồi rất ngay ngắn, cái thế ngồi như muốn bảo bọn trẻ nếu lịch sự thì chớ có hỏi thêm gì về chuyện đó nữa.

Thái độ của K’Rahlan y như một thứ keo thượng hạng. Nguyên cảm thấy miệng mình bị dán lại và nó không thể phủ nhận là ngồi im như vậy thì ngứa ngáy kinh khủng.

-Nhưng chắc chắn là sau khi thoát khỏi tay trùm Bastu và đồng bọn, cậu không biết dì Ka Ming đi đâu phải không cậu? – K’Tub vọt miệng bô bô, rõ ràng nó không giỏi nhịn như Nguyên.

-Không, con à. Ta biết là bà ấy cũng thoát chết giống như ta. Nhưng bà ấy lưu lạc chốn nào thì quả tình ta không biết. Ta cất công dò la suốt mười năm nay nhưng vẫn công cốc.

Thủ lĩnh Ánh Sáng đưa tay xoa gáy, làm như tại cái gáy mà ông bất lực trong việc khám phá ra chân tướng của vợ ông:

-Không ngờ bà ấy lại đội lốt trùm Hắc Ám.

Giọng ông chợt méo đi:

-Thiệt buồn cười. Suốt bao nhiêu năm trời, bà ấy cũng không nhận ra ta. Nếu ta không cảnh giác, ta đã bị bà ấy hại chết mấy lần rồi.

Kăply vụt nói:

-Thế thì ba con cũng có thể đang sống trong diện mạo của một ai đó, phải không cậu?

-K’Srêgơl ư? – K’Rahlan nhìn lên những đám mây trôi ngang đầu – Ta cũng hy vọng là như vậy. Nếu Ka Lên còn sống thì rất có thể chú ấy cũng đang ở đâu đó.

-Ủa, – Êmê ngạc nhiên – cậu biết rõ chuyện dì Ka Lên…

-Hầu như chuyện gì liên quan đến tụi con, ta đều biết. Trong thời gian qua, mỗi khi có dịp ta vẫn thường bí mật ở bên cạnh tụi con.

Bọn trẻ còn bao nhiêu thứ để hỏi nữa nhưng tấm thảm bay đã đáp xuống khu rừng thưa bên ngoài trường Đămri.

-Tạm biệt tụi con nha. – K’Rahlan nói trong khi nhìn bọn trẻ lục tục bước ra khỏi tấm thảm.

-Ba không về nhà hả ba? – Nguyên giương mắt nhìn thủ lĩnh Ánh Sáng.

-Ta còn phải quay lại chỗ mẹ con.

K’Rahlan đáp và tấm thảm vọt lên như một cánh chim khổng lồ, lao nhanh về hướng cũ. Như lúc ra đi, Suku vượt lên trước tụi bạn, dẫn đầu. Tụi nó chui qua cánh cổng phía bắc rồi rẽ trái để vào đúng cánh cổng phía đông của lớp tường thành bên trong, nơi tụi nó đã từ đó ra đi.

Lão Chu đón bọn trẻ ngay sau cổng với chiếc muỗng bự chảng trên tay, trông lão như nấp sẵn ở đó từ tối hôm qua.

-Tụi bay đi theo ta.

Lão nói nhanh khi bọn Kăply vừa đút đầu qua cổng rồi không đợi tụi nhóc hỏi đi hỏi lại, lão quay mình đi về phía ngọn tháp.

Lúc này trời đã tối, ở trên cao những vì sao đã lấp đầy bầu trời và trên đỉnh tháp viên bích ngọc đang tỏa ra thứ ánh sáng xanh lơ nhàn nhạt.

-Sáu đứa tụi con đã về rồi đấy à?

Thầy N’Trang Long đứng lù lù như một hòn núi ngay chỗ bậc thềm dẫn vô dãy nhà lá nằm quanh chân tháp, vui vẻ hỏi.

-Dạ. – Nguyên lí nhí đáp, nhớ đến hai quả táo mà nó và Kăply đã lỡ nuốt vô bụng, cổ họng nó tự nhiên khô rang.

Đột ngột, Kăply kêu lên:

-Ủa, tụi con tất cả là mười đứa mà thầy.

Thầy N’Trang Long giương đôi mắt to cồ cộ ra nhìn Kăply:

-Vậy là mắt mũi ta kèm nhèm mất rồi, con ơi. Con nói mười đứa mà hổng biết sao ta đếm đi đếm lại cũng chỉ thấy có sáu đứa hà!

Bọn trẻ ngoảnh phắt lại phía sau, điếng người khi không thấy Tam, Bolobala, Mua và Kan Tô đâu trong khi nãy giờ tụi nó đinh ninh là bốn đứa này vẫn đi sau lưng tụi nó.

-Lạ thiệt đó nha. – K’Tub dáo dác nhìn quanh sân trường, mặt thộn ra – Lúc leo xuống thảm bay, con vẫn còn nhìn thấy các anh chị đó mà.

-Thôi rồi. – Suku đấm hai tay vào nhau, buột ra một câu nghe rất giống tiếng than – Bọn họ bị mắc kẹt lại rồi.

-Là sao hở mày? – K’Tub nhìn bạn, mắt nheo lại – Sao tụi mình không kẹt mà họ lại kẹt?

Suku lúc lắc món tóc trước trán, giọng rầu rĩ:

-Chắc chắn là lúc đuổi theo tụi mình, họ rời khỏi trường không theo cánh cổng phía đông. Tụi mình đi về mất bảy tiếng đồng hồ nhưng Kan Tô, Tam, Bolobala và Mua có lẽ phải bảy ngày sau mới về tới nơi.

Nó ngước đôi mắt sáng nhìn thầy hiệu trưởng:

-Có đúng vậy không hở thầy?

-Ta rất tiếc phải công nhận là con nói đúng chóc, Suku à. – Thầy N’Trang Long nhìn thằng oắt bằng ánh mắt trìu mến, bàn tay thầy đưa lên xoa xoa vầng trán rộng – Hồi trưa lúc nghe tin tụi con sẽ đi thung lũng Plei Mo, trò Tam liền co giò chạy như bị ma đuổi, kéo theo mấy đứa ngốc nghếch khác, không thèm nghe ta dặn dò lấy một tiếng. Thiệt tình!

Thầy lim dim mắt, lẩm bẩm như nói với chính mình:

-Ngoài lão Bolorađam ra, hổng biết ba mẹ mấy trò kia có ai hung dữ không há?

-Con nghĩ…

Nguyên định nói vài lời an ủi thầy hiệu trưởng nhưng nó mới nói được hai tiếng, đã giật mình thấy thầy mở bừng mắt ra và rọi tia nhìn sáng quắc vô mặt nó:

-Ủa, tụi con có hái được quả táo vàng nào không mà nãy giờ hổng nghe con nói gì hết vậy hả?

Trong một thoáng, Nguyên cảm thấy máu trong người đông lại, y như Buriăk đang đứng ở đâu đó trên cao dùng lời nguyền Tan xác đánh xuống.

-Dạ… có, thưa thầy. – Giọng nói của Nguyên nghe bèn bẹt như phát ra từ một chiếc ống nhựa.

-Có thì con phải phấn khởi lên mới phải chớ. Sao ta thấy con nói năng như người bị bóp miệng vậy?

Nguyên đỏ bừng mặt, cảm thấy như có ai đang bóp miệng mình thiệt. Khó khăn lắm nó mới tách được cặp môi ra, vất vả rặn từng tiếng:

-Nhưng… nhưng con và Kăply lỡ… lỡ… ăn dọc đường rồi, thưa thầy.

-Hay lắm. – Thầy N’Trang Long bật cười ha hả – Ta bảo đem về thì tụi con lại ăn mất. Tụi con đã là chiến binh giữ đền rồi thì đâu có coi lão già gần đất xa trời này ra gì nữa!

Nguyên chưa kịp phân trần, thầy đã hất tay ra. Tay áo của thầy phồng lên như một cánh diều và từ trong đó một luồng gió thoang thoảng đưa ra. Luồng gió thổi hiu hiu, nhè nhẹ nhưng khi chạm vào nó, Nguyên và Kăply cảm thấy mất hết tự chủ, hai chân từ từ cất rời khỏi mặt đất. Lạ nhất là luồng gió trong tay áo thầy N’Trang Long quét tới cả sáu đứa học trò nhưng chỉ có Nguyên và Kăply là bị nhấc bổng lên cao, những đứa còn lại chẳng hề hấn gì, chỉ thấy một làn gió nhẹ mơn man da thịt như ngọn gió mùa hè mát mẻ.

Không nhanh không chậm, Nguyên và Kăply cứ tà tà bay mỗi lúc một cao, có vẻ như trong cơn hoảng loạn, tụi nó sẵn sàng để mình bay tuốt lên mây như những quả bóng bay.

-Đồ ngu! Bộ mấy trò không biết sử dụng thần chú Té xuống hay thần chú Lộn mèo hả?

Tiếng thầy Haifai gầm gừ, vừa nói thầy vừa bước lên mấy bước, đến lúc đó bọn trẻ mới biết nãy giờ thầy vẫn đứng im lìm sau lưng thầy N’Trang Long.

Té xuốngLộn mèo là hai câu thần chú phổ thông, Nguyên và Kăply vẫn nghĩ loại thần chú sơ đẳng đó chắc chẳng có ích lợi gì trong thực tế. Hơn nữa, hai câu thần chú này thường dùng để đối phó với kẻ địch chứ đâu phải để tác động lên chính mình. Nghe thầy Haifai quát ầm, hai đứa vội vã mấp máy môi, ngay cả lúc đó tụi nó vẫn không từ bỏ ý nghĩ rằng tụi nó không thể chống lại luồng gió quái dị của thầy N’Trang Long.

Nhưng sự thật lại diễn ra đúng là không mơ thấy nổi: sau khi niệm chú, Nguyên và Kăply thấy rõ cơ thể mình không còn bay lên nữa. Hai đứa hạ xuống, từ từ, từng giây một, giống như hai quả khinh khí cầu bị xì hơi.

Tụi bạn mặt dãn ra, hân hoan dán mắt vào Nguyên và Kăply, hơi giật mình một chút khi hai đứa này tiếp đất bằng một cú loạng choạng suýt ngã.

-Vậy là tốt rồi.

Thầy N’Trang Long tươi cười nói, tay mân mê chòm râu cằm, có vẻ như thầy muốn xoắn lấy một cọng râu nào đó nhưng chưa tìm thấy cọng râu ưng ý.

Nguyên ngước mắt lên nhìn thầy, giọng vẫn chưa hết sốc:

-Cái gì tốt hả thầy?

-Con chẳng thấy có gì tốt hết! – Kăply xẳng giọng, không quan tâm đến việc đang tỏ ra thô lỗ – Nếu thầy Haifai không kịp nhắc, chắc giờ này tụi con đã bị thầy đẩy tuốt lên mặt trăng rồi.

-Đừng quang quác lên thế, K’Brêt! – Thầy N’Trang Long nheo mắt – Tụi con đã nuốt hai quả táo vàng vô bụng mà vẫn bị ta đẩy lên mặt trăng thì hổng lẽ đó là hai quả táo giả?

-Ủa, – Kăply há hốc miệng – vậy là khi nãy thầy muốn thử sức tụi con hả thầy?

-Ta tưởng là ta đang muốn làm như vậy đó. – Thầy N’Trang Long nói giọng khoái chí, không biết vì Kăply đoán đúng ý thầy hay vì thầy vừa tóm được cọng râu ưa thích – Hừm, trừng phạt tụi con thì có gì là thích thú chớ!

-Thầy ơi, – Nguyên kêu lên bứt rứt – thiệt ra thì tụi con không cố tình ăn hai quả táo đó. Chẳng qua…

Thầy N’Trang Long giơ một bàn tay lên:

-Ta biết, K’Brăk. Dĩ nhiên là chính mẹ con đã làm chuyện đó.

Nguyên dựng mắt lên:

-Thầy biết hết rồi sao?

Thầy N’Trang Long nhìn đi đâu đó phía trên đầu bọn trẻ, không trả lời thẳng câu hỏi của Nguyên mà đột ngột nói sang chuyện khác:

-Năng lượng pháp thuật của hai đứa con bây giờ đã có thể đương đầu với những phù thủy hạng nhất của phe Hắc Ám. Những ngày sắp tới, ta muốn hai đứa con phải thiệt tập trung vào môn Thần chú chiến đấu của thầy Haifai.

Ánh mắt xa vắng của thầy rơi trở xuống mặt lũ học trò:

-Còn bây giờ ta nghĩ tụi con nên lập tức trở về nhà. Tụi con đừng quên tụi con đã đi mất bảy ngày, tức là về trễ một tiếng đồng hồ so với dự tính của ta.

Nguyên thấp thỏm:

-Thế còn các bạn Tam, Bolobala…

-Không có gì đáng lo về tụi nhóc đó. – Thầy N’Trang Long nhún vai – Nhưng ngay cả ta cũng không có cách nào đưa tụi nó về sớm hơn được, con à.

Bọn trẻ kéo nhau ra cổng, lòng không ngớt lo lắng về tụi bạn còn kẹt lại ở đâu đó giữa cuộc phiêu lưu. Đám trẻ nhà K’Rahlan còn lo thêm chuyện khác: hổng biết lát nữa ông K’Tul và bà Êmô sẽ đón tụi nó bằng bộ mặt như thế nào khi tụi nó đi làm sổ sách suốt bảy tiếng đằng đẵng, đến tối mịt mới mò về tới nhà.

Một tiếng thét khủng khiếp thình lình bay ra từ phía sau khiến cả đám giật mình ngoảnh phắt lại. Đằng trước thềm, thầy N’Trang Long và thầy Haifai đã biến mất.

Tim đánh lô tô trong ngực, bọn trẻ nhớn nhác nhìn quanh, không biết tiếng thét rờn rợn vừa rồi phát ra từ đâu.

Đang sục mắt vào các khoảng tối, một lần nữa tóc gáy của cả bọn lại dựng lên khi tiếng thét khi nãy lại cất lên chói tai, lần này nghe rõ là phát ra từ trong ngọn tháp.

-Gì thế hở mày? – K’Tub níu tay Suku, hỏi bằng giọng lập bập.

-Tao không biết.

Êmê run run nói:

-Hổng lẽ lại có ai đó sa vào thuật Quỷ mộng?

-Quay lại xem!

Nguyên nói và nó lao lên dẫn đầu cả bọn tiến về phía ngọn tháp.

Nhưng bọn trẻ vừa đi được vài ba bước, bốn, năm bóng người đột ngột trồi lên từ dưới đất, đứng chắn trước mặt tụi nó.

Mụ Gian chọc đôi đũa to đùng ngay mặt bọn trẻ:

-Tụi bay định làm loạn hả? Cút!

Lão Chu thở phì phì, tay giơ cao chiếc muỗng trên đầu như định giáng xuống:

-Ngài hiệu trưởng đã kêu tụi bay về sao tụi bay còn lảng vảng ở đây hả?

Nguyên tính niệm chú, nó biết lần này nó sẽ đánh cho đám bảo vệ này lăn lông lốc, nhưng đến phút chót nó kịp thu ý định điên rồ đó lại. Nó liếc mắt qua đám bạn, đưa tay véo môi, xoay chuyển ý nghĩ rồi thở hắt ra một cái:

-Về thôi!

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Đăng lúc 13-5-2016 22:09:25 | Xem tất
THÔNG BÁO


Xin chào bạn!

Trước tiên, cám ơn sự đóng góp của bạn dành cho box.

Hiện nay, box đang tiến hành sắp xếp lại để gọn gàng hơn.

Trong quá trình sắp xếp, bọn mình thấy bạn đã ngừng thread hơn 2 tháng và không có bất cứ thông báo nào đến độc giả.

Vậy nên 5 ngày sau thông báo này, nếu vẫn không có chương mới, bọn mình sẽ tiến hành các biện pháp xử lý thích hợp.

Mong bạn hiểu và thông cảm!

Thân mến!

Mod
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Đăng lúc 1-9-2016 21:20:01 | Xem tất
Chương 26. Tiếng thét


Cho đến trưa hôm sau, bộ mặt ông K’Tul và bà Êmô vẫn còn chầm dầm. Cả hai lặng lẽ múc đồ ăn vô chén, lặng lẽ nhai, lặng lẽ nuốt, không nói một tiếng. Trông họ lầm lì y chang hai người máy, ngó phát ớn.

Êmê, Nguyên, Kăply và K’Tub ngồi chụm lại ở đầu bàn đối diện, trao đổi với nhau bằng mắt và liên tục đá chân nhau dưới gầm bàn.

Bữa ăn trôi qua trong không khí ngột ngạt khủng khiếp, giống như bữa ăn của các tử tội trước khi ra pháp trường.

Tối hôm qua, suýt chút nữa thằng K’Tub đã làm tung tóe mọi thứ khi nó chìa bộ mặt hớn hở vô bộ mặt quạu quọ của ông K’Tul, định khoe chuyện nó đã gặp bà Ka Lên lẫn vợ chồng K’Rahlan để mong lấy cái tin vui đó dập tắt cơn cáu giận của ba nó. Lúc đó nếu Nguyên không kịp hắt hơi một tiếng to như sấm và kín đáo thúc khuỷu tay vô lưng thằng nhóc, nó đã phun ra tất tần tật về chuyến đi bí mật của tụi nó rồi.

Bây giờ nhớ lại, Nguyên còn thấy lạnh toát sống lưng. Nguyên liếc qua K’Tub, thấy thằng này đang tọng một nùi cá pha lê vô họng nhai ngốn ngấu như muốn dùng thức ăn thay cho cái nút nhét miệng mình lại để khỏi xì ra những lời lẽ mà nó biết chắc là nó không kiểm soát được.

Nhưng K’Tub là đứa không có khả năng kiềm chế được tính khí của mình. Lạ một điều là nó ít khi giữ được bình tĩnh khi đối diện với ba nó. Nguyên nghĩ chắc là tại ông K’Tul nuông chiều nó quá, kể từ khi mẹ nó qua đời.

Lần này cũng vậy, K’Tub chỉ bắt mình làm thinh được đến giữa bữa ăn. Sau khi liếc nhìn ông K’Tul rồi nhìn bà Êmô rồi lại nhìn ông K’Tul, thấy hai người cương quyết đeo bộ mặt bằng đá để gây căng thẳng cho tụi nó, K’Tub bắt đầu xì mũi đùng đùng.

Ba đứa Nguyên, Kăply và Êmê đều né người qua một bên, nhăn mặt nhìn thằng nhóc làm trò. K’Tub vốn là đứa ở dơ nổi tiếng, giờ nó cố tình xì mũi văng tùm lum, ngó càng dơ bạo.

Ông K’Tul thoạt đầu chủ trương phớt lờ. Ông cắm mặt vô đĩa thịt khoanh, hổng hé môi tiếng nào, làm như ta đây bị điếc đột xuất. Nhưng nhìn quai hàm của ông bạnh ra một cách bất thường khi nhai thức ăn, Nguyên biết là ông đã muốn bóp cổ thằng con lắm rồi.

Nguyên nơm nớp giật tay K’Tub ra hiệu cho nó xì-tốp nhưng ngay lập tức bị thằng nhóc hất văng ra một cách thô bạo.

- Níu, níu cái gì! - K’Tub rống lên. - Bỏ tay ra, anh K’Brăk!

Bộ mặt của thằng K’Tub trông khùng khùng đến mức thằng Đam Pao và con Chơleng cứ lấp ló mãi chỗ cửa bếp, không dám bưng thức ăn ra.

- Câm mồm đi! - Ông K’Tul hết chịu nổi, quát lên, đôi mắt lấp loáng của ông xoáy vào mặt K’Tub như hai lưỡi gươm. - Mày đi lông nhông suốt cả ngày hôm qua mà bây giờ bày đặt gây sự hả?

- Lông nhông? - K’Tub nhìn trừng trừng vào mặt ba nó, chẳng sợ gì hết, ánh mắt của hai cha con đấu nhau như người ta đấu gươm. - Chính thầy hiệu trưởng gửi giấy về nhà, rồi cũng chính ba và dì Êmô cho phép tụi con đi, vậy mà bây giờ ba nói vậy hả?

- Nhưng ta đâu có nghĩ tụi con đi đến tối mịt như thế? - Bà Êmô đứng về phía ông K’Tul. - Đi lang thang ngoài đường vào ban đêm, điều đó thật chẳng hay chút nào với những đứa trẻ nhà K’Rahlan, tụi con à.

- Mẹ sợ gì hả mẹ? - Êmê thận trọng lên tiếng. - Baltalon đã chết, còn Buriam và Buriăk thì bị bắt rồi.

Chỗ này Êmê cố tình giấu nhẹm chuyện sứ giả thứ năm của phe Hắc Ám đã trốn thoát khỏi Cục an ninh. Nó còn định nói ngay cả sứ giả thứ hai Basil cũng đã tiêu tùng nhưng may mà nó ngậm miệng lại kịp.

Bà Êmô nhún vai:

- Hổng lẽ tụi con không biết Buriăk đã chạy thoát?

Ông K’Tul phụ họa với bà Êmô bằng cách nhặt tờ Tin nhanh N, S & D cạnh cùi tay liệng đánh “xoạch” trước mặt bọn trẻ, bữa nay trông ông cáu đến mức không thèm điều khiển cho tờ báo lượn từ từ như mọi lần.

Bọn trẻ chụm đầu đọc, sởn gai ốc trước tin tức nhanh nhạy của Ama Đliê:

CHUYỆN GÌ ĐANG ĐƯỢC CHE GIẤU Ở TRƯỜNG ĐĂMRI

Có quá nhiều điều để phụ huynh học sinh trường Đămri lo ngại trong những ngày này. Tin tức về vụ vượt ngục của Buriăk, sứ giả thứ năm của trùm Bastu, chưa kịp lắng xuống, hàng loạt tin chấn động khác đã khiến tất cả những ai quan tâm đến tình hình an ninh của xứ Lang Biang đều cảm thấy vô cùng hoang mang. Đặc biệt những tin xấu nhất đều liên quan đến trường Đămri, đứng đầu là hiệu trưởng N’Trang Long. Theo một nguồn tin thông thạo, tối hôm qua đã có nhiều tiếng thét hãi hùng phát ra từ ngọn tháp trong khuôn viên trường Đămri. Trả lời phỏng vấn của phóng viên bản báo, cô Kemli Trinh, người từng là nạn nhân của thuật Quỷ mộng trước đây, khẳng định tiếng thét đó không phải là của cô. Khi được hỏi tiếp rằng vậy đó là tiếng thét của ai và nguyên nhân nào gây ra tiếng thét đó thì cô Kemli Trinh đã không trả lời. Các giáo viên khác cũng từ chối các câu hỏi tương tự của chúng tôi. Thái độ bất hợp tác của đội ngũ giáo viên trường Đămri với báo chí quanh sự kiện này có lẽ xuất phát từ lệnh cấm của hiệu trưởng N’Trang Long. Đây vốn là cách thức ông thường áp dụng mỗi khi gặp rắc rối.

Những tin tức tệ hại nhất chưa dừng lại ở đó: Sáng nay có ít nhất là bốn học sinh trường Đămri không tới trường. Đó là các học sinh Kan Tô, Mua ở lớp Cao cấp 1 và Tam, Bolobala ở lớp Cao cấp 2. Cho đến trước khi bài báo này lên khuôn, chúng tôi vẫn chưa nghe nhà trường và phụ huynh của bốn học sinh này có phản ứng gì, nhưng bằng linh cảm nghề nghiệp, chúng tôi tin rằng đây là một vụ mất tích tập thể.

Hiện nay Cục an ninh đã vào cuộc, Bộ giáo dục đang lo lắng theo dõi và buộc ông N’Trang Long gửi báo cáo khẩn cấp. Đặc biệt, Hội đồng tối cao Lang Biang cũng đang rất quan tâm đến những gì chúng tôi vừa đề cập. Mời quý độc giả đón đọc các số báo tới để được biết những thông tin nóng, sốt và dẻo nhất quanh những sự kiện bí ẩn này.

- Thế nào hả, tụi con? - Ông K’Tul nói ngay khi bọn trẻ vừa rời mắt khỏi tờ báo, hàng ria mép rung rung một cách đắc ý. - Ta và dì Êmô lo lắng cho tụi con có gọi là thừa không hả?

Lần này thì tụi nhóc im ru. Bốn đứa đưa mắt nhìn nhau, không biết phải trả lời giọng điệu khiêu khích của ông K’Tul như thế nào. Tụi nó tất nhiên không thể nói huỵch toẹt về sự thật đằng sau chuyện biến mất của tụi thằng Tam, nhưng như vậy có nghĩa là tụi nó buộc phải thừa nhận sự phỏng đoán của tờ Tin nhanh N, S & D mà nói cho cùng thì không phải là không có lý.

Rồi còn tiếng thét tối hôm qua tụi nó nghe thấy trong sân trường nữa. Bây giờ thì Nguyên tin chắc lúc đó thám tử Eakar đang quanh quẩn đâu đó trên mái nhà và chính ông đã xì cái vụ này ra cho Ama Đliê.

- Thiệt là đáng sợ. - Bà Êmô khẽ nhắm mắt lại như không muốn nhìn thẳng vào sự thật mà bà đang nói. - Nguy hiểm vẫn còn trùng trùng ở chung quanh mà tụi con thì như một lũ ngựa non, hổng biết trời cao đất dày là gì hết. Bộ con tưởng sau khi Baltalon và Buriam một tên tiêu tùng một tên bị bắt thì phe Hắc Ám không còn ai hỏi thăm sức khỏe của con nữa hả, K’Brăk?

- Dạ, con không nghĩ thế, thưa dì. - Nguyên cúi đầu lên chén canh, lí nhí đáp, tâm trí mải nghĩ đến tiếng thét tối hôm qua, hổng biết đó là tiếng thét của ai mà nghe rùng rợn quá sức.

Ông K’Tul gườm gườm nhìn bọn trẻ, giọng không giấu vẻ ngờ vực:

- Thiệt tình ta không hiểu tụi con làm cái quái gì trong trường từ hồi chiều tới giờ. Lão N’Trang Long có xúi tụi con làm chuyện bậy bạ gì không hả?

- Tụi con làm sổ sách thiệt mà ba. - K’Tub nói dối, nhưng cố hét to bằng giọng của người vừa bị tòa kết án oan.

- Hừm. - Ông K’Tub bực dọc giựt phắt chiếc khăn rằn ra khỏi cổ, rồi không biết làm gì với nó, ông lại vắt trở lại lên vai, quạu quọ nói. - Ta thì ta chẳng tin lão ta chút xíu nào hết. Ngôi trường của lão cứ xảy ra hết chuyện này đến chuyện khác…

Kăply ngứa miệng:

- Những chuyện đó là do trùm Bastu và tay chân của hắn gây ra chứ chẳng liên quan gì đến thầy N’Trang Long hết, bố à.

Bà Êmô liếc hàng ria đang cựa quậy dữ dội của ông K’Tul, khéo léo lái câu chuyện qua hướng khác:

- Thế khi còn ở trong trường, tụi con có nghe thấy tiếng thét mà tờ Tin nhanh N, S & D nói không?

- Không, mẹ à. - Êmê nói, làm hết sức để tỏ ra hồn nhiên. - Tụi con chẳng nghe thấy gì hết. Hổng biết đám phóng viên của Ama Đliê lấy những tin tức lôm côm này từ đâu ra.

- Con nói nhăng gì thế, Êmê. - Ông K’Tul hét to, phải khó khăn lắm ông mới không đứng bật lên khỏi ghế. - Xưa nay, những thông tin trên tờ Tin nhanh N, S & D luôn luôn chính xác. Con hãy cố bắt cái đầu của con ghi nhớ điều đó đi.

Bữa ăn đầy tiếng quát tháo, nhưng bọn trẻ cảm thấy như vậy thì dễ chịu hơn. Ít ra tụi nó cũng được nói, cũng như nghe ông K’Tul và bà Êmô nói và nhờ vậy tụi nó biết được họ đang nghĩ gì.

Tụi nó chỉ không thoải mái lúc bà Êmô đưa ra đề nghị vào cuối bữa ăn:

- Hay là tụi con nghỉ học một vài bữa. Chờ Cục an ninh làm rõ mọi chuyện đã.

- Việc gì phải sợ dữ vậy, dì! - K’Tub nhăn nhó. - Bây giờ anh K’Brăk và anh K’Brêt đâu có giống như…

Đang leo lẻo, một cú đá muốn gãy ống quyển khiến K’Tub câm bặt. Nó không biết đứa nào vừa đá nó dưới gầm bàn, nhưng nó không quan tâm đến điều đó bằng việc suýt chút nữa nó đã làm vỡ lở mọi chuyện.

Nhưng ông K’Tul đã kịp rọi cặp mắt sáng quắc vào mặt Nguyên và Kăply, theo cái cách nhà thám hiểm rọi đèn pin để thăm dò hang động, và ông bỗng ngờ ngợ khi thấy đôi mắt của hai thằng nhóc lấp lánh một cách khác thường.

- Con định nói gì về K’Brăk và K’Brêt thế, K’Tub? - Ông nhìn thằng con qua khóe mắt, giọng căng thẳng.

- À, ờ… - Thằng K’Tub cào tay lên tóc, bụng rủa thầm mình tơi tả - ý con muốn nói là bây giờ anh K’Brăk và anh K’Brêt đâu có giống như… những con giun nữa.

Nguyên vọt miệng:

- Con nghĩ những câu thần chú chiến đấu mà tụi con đã học dù sao cũng có thể giúp tụi con tự bảo vệ được mà, bố.

- Chẳng ăn thua gì đâu, con. - Bà Êmô khẽ nhún vai, cái nhún vai của bà trông rất điệu so với mọi người. - Nếu gặp Buriăk, Badd hay Basil, thần chú của con không chống lại chúng nổi đâu. Đó là chưa kể nếu chạm trán các hộ pháp Balibia hay Balikem, coi như con không còn đường thoát.

Mặc dù đã no kềnh, K’Tub vẫn cố tọng thêm một khúc thịt khoanh vô họng, nếu không làm vậy nó biết nó sẽ ấm ức xì ra chuyện Nguyên và Kăply đã từng đánh ngang tay với Balibia và Buriăk như thế nào.

Bữa đó, không chỉ K’Tub tự bịt miệng mình bằng cách đó. Ba đứa còn lại cũng ăn ngập họng đến mức khi đứng dậy tụi nó có cảm giác tụi nó đang bị neo chặt vào ghế và đến khi nhổ mông lên được, tụi nó cảm thấy như người bị tước hết năng lượng. Chỉ có điều an ủi duy nhất là cho đến khi tụi nó rời khỏi bàn, bà Êmô không nhắc đến chuyện nghỉ học thêm một lần nào nữa.

* * *

Buổi chiều Suku và Păng Ting lao vô lâu đài K’Rahlan với vẻ mặt hớt hải:

- Các anh chị đã đọc báo Tin nhanh N, S & D trưa nay chưa?

- Rồi. - K’Tub sa sầm mặt. - Ba tao là cái loa của tờ báo cà chớn đó mà, Suku.

Păng Ting lo lắng ngọ nguậy mái tóc đã kịp nhuộm đỏ hoe từ tối hôm qua:

- Chắc chắn ngày mai ba mẹ của tụi Bolobala sẽ xộc vô trường quậy tưng cho coi.

- Cứ nhớ đến ông Bolorađam là anh phát rét, Păng Ting à. - Kăply rụt cổ.

- Cứ cho họ quậy. - Êmê thản nhiên. - Đằng nào thì bốn đứa tụi nó cũng sẽ trở về mà. Tới khi tụi nó về tới trường thì mọi chuyện sẽ lập tức êm xuôi.

- Em nói đúng lắm, Êmê. - Nguyên khen Êmê làm cô nàng ửng mặt lên vì sung sướng. - Điều đáng lo hiện nay không phải là sự mất tích của tụi thằng Tam mà chính là bí ẩn quanh tiếng thét trong trường Đămri.

K’Tub liếc Suku:

- Mày có đoán ra đó là chuyện gì không, Suku?

- Không. - Suku thở dài. - Từ hôm qua tới giờ tao nghĩ về chuyện đó hoài nhưng vẫn không lần được chút xíu manh mối nào hết.

- Quỷ mộng? - Nguyên thì thầm như nói với chính mình, đôi mắt nó đột nhiên trở nên xa vắng.

- Người duy nhất biết thuật Quỷ mộng là Buriam đã bị bắt rồi, anh K’Brăk. - Suku phản đối.

- Ờ, - Nguyên mơ màng nói - và thay thế Buriam dạy môn Thần giao cách cảm ở lớp Cao cấp 1 là thầy Akô Nô…

- Nhưng thầy Akô Nô chắc chắn không biết thuật Quỷ mộng. - Suku đưa tay véo môi. - Anh cũng biết mà, anh K’Brăk. Chỉ những phù thủy hắc ám mới luyện tà thuật này.

Đôi mắt Nguyên đột ngột rực lên. Nó chiếu tia nhìn vào Suku làm thằng oắt bất giác thấy hai gò má nóng bỏng:

- Vấn đề là chúng ta làm sao biết được thầy Akô Nô có phải là một phù thủy hắc ám hay không?

- Thầy Akô Nô không thể là phù thủy hắc ám được. - Kăply ré lên. - Một phù thủy hắc ám không bao giờ giúp chúng ta hái những quả táo vàng.

- Anh K’Brêt nói đúng đó. - Păng Ting cao giọng, mái tóc đỏ của nó có vẻ sẵn sàng xù ra bốn phía. - Theo em, không nên đặt ra câu hỏi đó về thầy Akô Nô.

Nguyên ném cho Păng Ting một cái nhìn bối rối, rồi quay sang Suku:

- Em còn giữ những chiếc áo tàng hình…

- Chẳng ăn thua gì đâu, anh K’Brăk. - Suku biết ngay Nguyên đang nghĩ gì trong đầu. - Trước đây nhờ thầy Hailixiro…

- Buriam. - Êmê nhắc.

- Ờ, Buriam. - Suku tặc lưỡi. - Nhờ Buriam vô hiệu hóa bùa Bất khả xâm phạm, tụi mình mới đột nhập vô trường Đămri được…

- Ờ há. - Nguyên dứt một lúc hai, ba sợi tóc, mặt ngẩn ra.

Suốt từ lúc đó cho đến xế chiều, ngay cả khi Suku và Păng Ting đứng dậy ra về, bọn trẻ vẫn chẳng nghĩ được điều gì hay ho, mặt đứa nào đứa nấy héo đi từng phút một và tâm trạng tụi nó đã bắt đầu giống tâm trạng của những kẻ bị nhốt trong hầm mà không biết bao giờ nắp hầm mới mở ra.

Đêm đó, trong khi Kăply ngủ khò, Nguyên mở mắt thao láo nhìn lên trần nhà, nằm day qua trở lại không sao dỗ giấc được. Lòng rối bời, nó có cảm giác như nó đang nằm trên một miếng sắt nóng. Có quá nhiều sự kiện trọng đại chụp xuống đầu nó trong những ngày qua khiến nó thấy nó giống y chang một con ruồi sa vào tấm lưới nhện bùng nhùng khó bề thoát ra. Sự quay về của bà Ka Lên và vợ chồng K’Rahlan. - Kaming dĩ nhiên làm nó vui mừng nhưng đồng thời cũng khiến nó cảm thấy lo lắng hết sức. Cho đến lúc này, mọi người đã mặc nhiên coi nó và Kăply là K’Brăk và K’Brêt. Nhưng với bà Ka Lên và vợ chồng K’Rahlan thì điều đó không có gì là chắc chắn. Tuy không sống gần con nhiều năm nay nhưng với linh cảm của người làm cha làm mẹ, có thể họ sẽ phát hiện ra sự giả mạo của tụi nó, mặc dù tụi nó biết là tụi nó không hề cố ý.

Khi Nguyên mở miệng kêu ông K’Rahlan bằng tiếng ba hay kêu bà Kaming bằng tiếng mẹ, nó đã bộc lộ niềm vui một cách thành thật nhưng xét cho cùng vẫn thiếu một điều gì đó như là sự thiết tha cảm động của một đứa con thực sự. Nguyên nhận ra thiếu sót đó của mình, thiếu sót mà nó biết có cố đến mấy nó cũng không thể sửa được, vì vậy mà nó rất đỗi hoang mang. Nguyên biết chắc sớm muộn gì bà Ka Lên và vợ chồng K’Rahlan cũng sẽ trở về lâu đài và từ nay đến đó nó buộc phải sống trong tâm trạng phập phồng của kẻ đột nhập trái phép chờ bị bắt quả tang.

Thẫn thờ một hồi, Nguyên lại ái ngại nghĩ đến số phận hiện nay của nó và Kăply. Đã ăn hai quả táo vàng rồi, đã chính thức trở thành chiến binh giữ đền đời thứ ba rồi, những ngày sắp tới hẳn tụi nó phải trực tiếp và công khai đương đầu với trùm Hắc Ám. Như chiến binh giữ đền đời thứ nhất và đời thứ hai đã làm. Nhưng khổ nỗi tụi nó lại không có được trình độ như chủ nhân núi Lưng Chừng hay Đại phù thủy Mackeno. - những chiến binh giữ đền trước đây. Nguyên biết hiện nay năng lượng pháp thuật của nó và Kăply đã tăng tiến vượt bậc, nhưng cũng chỉ đủ để giữ gìn tính mạng trước sự tấn công của các hộ pháp và sứ giả của phe Hắc Ám. Còn nếu để đối phó với trùm Bastu, Nguyên biết tụi nó không có khả năng. Ngay cả thần chú Điểu sát tinh, tụi nó cũng không chống nổi, nói gì tới thần chú kim cương.

Rồi còn tiếng thét trong tòa tháp ở trường Đămri? Rồi hành tung mập mờ của ông K’Tul? Rồi báu vật gì gì đó được cấu giấu ngay trong lâu đài K’Rahlan mà bao nhiêu người tìm kiếm? Rồi con chim vàng quái quỉ bất ngờ bay lên từ cái xác Kăply? Liệu tất cả những chuyện đó có liên quan gì đến số phận của nó và thằng bạn nó? Rồi còn làng Ke nữa, bao giờ tụi nó mới được trở về quê hương đích thực của mình?

Nguyên nghĩ và nghĩ, càng nghĩ bụng càng thắt lại, phần lớn thời gian trong đêm nó tắm trong lo âu và mệt mỏi. Đến gần sáng, nó mới mơ màng thiếp đi, và trong giấc ngủ chập chờn hình như nó thấy gương mặt thần chết của lão Ôkô Na hiện ra như một viên đạn, bắn xuyên qua đầu nó, nhức buốt.

* * *

- Kỳ này banh ta lông hết cả lũ rồi!

Sáng hôm sau, vừa đặt chân qua cửa lớp, Nguyên và Kăply đã nghe thằng Amara bô bô. Thằng nhãi chìa bộ mặt hí hửng vô mặt Nguyên và Kăply, khoái trá một cách độc ác:

- Báo cho hai đứa mày một tin vui là thằng Tam và con nhỏ Bolobala nhiều chuyện đã biến khỏi cuộc đời rồi.

- Tin vui cái đầu mày, Amara! - Kăply nghiến răng ken két. - Mày đối với bạn bè như thế đấy hả?

- Việc quái gì mày phải tru tréo lên thế, K’Brêt! - Amara nhăn nhở. - Tao biết hai đứa đó là bạn thân của tụi mày. Nhưng với tao thì hai đứa đó chỉ là đồ cóc nhái. Tao muốn tụi nó biến lâu rồi nhưng tiếc là mãi đến hôm nay ý muốn của tao mới thành sự thật.

- Chính mày mới là đồ cóc nhái!

Kăply gầm lên và vung nắm đấm vào giữa mặt Amara. Thoáng thấy gương mặt bạn mình đổi sang màu tím, Nguyên hoảng hốt chộp tay Kăply nhưng không kịp.

“Bốp” một tiếng, Amara ngã bật ngửa ra sau, bong bóng máu phì ra cùng lúc từ hai lỗ mũi giữa tiếng thét the thé của thằng Y Đê lẫn tiếng hoan hô rầm trời của những đứa lâu nay vốn không ưa thằng Amara.

Trong khi Kăply ngỡ ngàng nhìn xuống bàn tay mình, ngạc nhiên về sức mạnh bất ngờ của cú đấm, Amara đã kịp vùng dậy. Mặt xạm đi, nó chĩa tay ngay người Kăply, rống lên:

- Trói gô mày lại nè, đồ khốn nạn!

Hàng loạt sợi dây màu trắng bắn ra từ tay Amara bay tua tủa về phía Kăply, nhanh đến mức dù đứng sát bên cạnh Nguyên cũng không kịp ra tay can thiệp.

Thằng Hailibato dậm chân lạch bạch, tay huơ tít, quát tướng:

- Ê, ai cho mày dùng thần chú chiến đấu đánh nhau trong lớp hả Amara? Tao sẽ méc thầy Hai…

Chưa nói hết chữ “Haifai”, miệng mồm Hailibato đã há hốc ra như thể thấy ma. Trước mặt nó, những sợi lòi tói của Amara vừa chạm vào người Kăply đã bay ngược trở lại, nhanh chóng trói nghiến lấy Amara, thoáng mắt đã biến thằng này thành một đòn bánh khổng lồ.

Cả lớp đực mặt, chưa kịp hiểu chuyện gì vừa xảy ra thì thầy Haifai đã xuống tới.

- Cái quái gì thế này hả? - Thầy gầm lên khi nhìn thấy thằng Amara đứng trơ giữa lớp với mớ dây nhợ chằng chịt quanh người.

Thằng Y Đê vội vã ton hót:

- Bạn K’Brêt vừa trói bạn Amara, thưa thầy.

Thầy Haifai lập tức quay cái trán dồ về phía Kăply, mấy chục chiếc răng nhe hết ra ngoài:

- Trò chơi ngon quá há, K’Brêt. - Thầy càng nói càng nổi điên, cái đầu lưa thưa tóc lắc lư dữ dội. - Ta dạy câu thần chú chiến đấu số 6 đâu phải để mấy trò đem ra đánh nhau loạn xà ngầu trong lớp như bọn đầu đường xó chợ vậy hả?

- Thưa thầy…

Kăply ấp úng, chưa nói hết câu phân trần, thầy Haifai đã quát:

- Câm mồm! Trò định nói câu thần chú trò vừa sử dụng không phải là thần chú chiến đấu số 6 chứ gì!

- Con không sử dụng bất cứ một câu thần chú nào hết, thưa thầy. - Kăply nói một lèo như gió để thầy Haifai không thể chặn họng nó lần thứ hai.

- Láo toét! - Thầy Haifai dộng tay lên cánh cửa đánh “rầm” một cái. - Bộ trò cho rằng ta bị đui hả K’Brêt!

- Thưa thầy, bạn K’Brêt nói thật đấy ạ. - Hailibato bênh bạn, vừa nói nó vừa lấy cườm tay chùi mồ hôi đang tươm ra đầy mặt vì hồi hộp.

Thằng Lung cũng nhanh nhẩu hùa theo:

- Bạn K’Brêt chỉ thụi vô mặt Amara thôi ạ. Thế là bạn Amara dùng thần chú chiến đấu số 6 đánh trả nhưng không hiểu sao… không hiểu sao những sợi dây bay ngược trở lại và… và trói chính bạn Amara…

- Có gì đâu mà không hiểu. Đó là hiệu ứng phản nguyền…

Như biết mình lỡ lời, thầy Haifai khịt khịt mũi mấy cái rồi đùng đùng đi thẳng vô chỗ ngồi để khỏi phải nói tiếp câu nói dang dở.

- Hiệu ứng phản nguyền là gì hả thầy? - Bọn học trò nhao nhao.

- Hiệu ứng phản nguyền hả? - Thầy Haifai lúng túng gãi những móng tay sặc sỡ lên trán, rồi không biết làm sao để dập tắt những ánh mắt đau đáu của học trò đang nhìn mình, thầy nổi khùng nạt ngang. - Đó là cái gì thì sau này các trò sẽ được học tới. Còn bây giờ thì lũ ngu ngốc tụi bay mau giở tập ra!

Trong lớp, dĩ nhiên chỉ có Nguyên và Kăply biết hiệu ứng phản nguyền là gì. Suku đã từng giải thích cho tụi nó biết nếu dùng thần chú hoặc lời nguyền đối phó với người có năng lượng pháp thuật cao hơn mình nhiều lần, đòn đánh đó sẽ văng ngược lại, đánh vào chính mình. Chính Bolobala đã từng lãnh đủ hiệu ứng phản nguyền khi dùng lời nguyền rủa thầm đánh lén Baltalon và trùm Bastu.

Như vậy là năng lượng pháp thuật của mình bây giờ đã cao ghê gớm! Kăply mừng rỡ nhủ bụng, nhưng liền sau đó nó lại bắt đầu lo lắng nghĩ đến chuyện làm sao đừng để xảy ra đánh nhau với tụi bạn trong lớp.

Hôm nay thầy Haifai dạy đến thần chú chiến đấu số 14 và số 15. Hai câu thần chú này là một cặp, lúc nào cũng đi chung với nhau, thầy bảo thế. Kăply suýt nữa phá ra cười khi nghe tên của hai câu thần chú. Thần chú số 14 là Chụp ếch, thần chú số 15 là Lạng qua lách lại.

Kăply cố dán miệng mình lại nhưng những tiếng rúc rích vẫn vang lên khắp lớp.

- Im lặng! - Thầy Haifai quát lên và đứng phắt dậy, đôi mắt sâu hút như hai đường hầm của thầy lừ lừ quét dọc các dãy bàn khiến bọn học trò rúm lại như bị quất roi. - Chẳng có gì đáng để các trò rúc lên như chuột hết.

Thầy vừa nói vừa vung vẩy hai cánh tay, như thể để cho đỡ mỏi sau khi thụi rầm rầm lên bàn, lên cửa:

- Đây là hai câu thần chú chiến đấu duy nhất nghiêng về phòng thủ. Gặp đối phương quá mạnh, các trò phải dùng hai câu này để té lăn ra và trượt đi.

- Đang đánh nhau mà trượt đi đâu thầy? - Thằng Amara giả bộ ngờ nghệch.

- Trượt đi đâu thì kệ trò! - Thầy Haifai mím môi lại và Kăply nghe tiếng thầy rít qua kẽ răng. - Miễn làm sao cái xác của trò đừng có bị nát bét trước đòn tấn công của đối phương là được rồi.

Nguyên cụng đầu vô đầu Kăply, thì thầm:

- Thầy cố tình dạy hai câu thần chú này là vì tao và mày đó.

- Vì tao và mày? - Kăply ngơ ngác.

- Không phải sao! Hôm qua thầy chứng kiến tụi mình bị trúng đòn của thầy N’Trang Long một cách dễ dàng. Nếu đã học qua hai câu thần chú này có phải tụi mình đã tránh được rồi không?

- Ờ há.

Kăply lại thốt lên câu quen thuộc và đưa mắt nhìn ra sân, hồi hộp chờ phụ huynh của tụi thằng Tam xuất hiện.

Nhưng suốt buổi sáng hôm đó chẳng có tiếng ầm ĩ nào cất lên giữa sân trường, thậm chí không có một người lạ mặt nào bước qua khỏi cổng.

Kăply liếc mắt về phía Amara ngồi, thấy thằng này thấp tha thấp thỏm suốt từ đầu giờ đến cuối giờ, đầu tóc xoăn tít của nó không ngừng ngọ nguậy và nó ngồi học mà cặp mắt ti hí cứ đảo lia ra ngoài cửa sổ, và đến khi biết chắc sáng nay chẳng có trò hay nào để xem, nó xịu mặt xuống như thể trường Đămri mà không náo loạn thì đời chẳng có gì vui.

Ở trên bảng, thầy Haifai cứ lần lượt kêu hết cặp này đến cặp khác lên thực hành hai câu thần chú mới học, mặc dù tiếng ngã oanh oách vang lên mỗi lúc một nhiều và đặc biệt là cứ mỗi lần trượt người đi để né câu thần chú của đối phương, hầu hết bọn học trò đều húc đầu rầm rầm vào vách tường hay chân bàn chân ghế vì lố đà, và kết quả của tiết học phòng thủ đầu tiên là đầu đứa nào đứa nấy sưng bốn, năm cục to tổ chảng.

Nguyên và Kăply cũng bị kêu lên bảng nhưng rõ ràng thầy Haifai chỉ dám cho tụi nó thực hiện các câu thần chú Chụp ếch và Lạng qua lách lại. Có lẽ đánh giá được năng lượng khủng khiếp hiện nay của Nguyên và Kăply nên thầy tuyệt nhiên không sắp xếp hai đứa nó vào vai trò tấn công để tránh xảy ra những tổn thương mà thầy biết chắc là rất nghiêm trọng.

Khi tiếng chuông hết giờ reo lên, Nguyên và Kăply đang phân vân nhìn nhau, chưa biết có nên tìm cách lân la lại gần thầy Haifai để hỏi về tiếng thét vang lên đêm đêm trong ngọn tháp hay không thì thầy đã chọc ngón tay khẳng khiu và màu mè vào mặt tụi nó, giọng khô khốc:

- Các trò đi theo ta!

Kăply giương mắt ếch:

- Đi đâu vậy thầy?

- Lên văn phòng hiệu trưởng! - Giọng thầy Haifai vẫn ráo hoảnh. - Ngài N’Trang Long sẽ cho tụi bay biết thế nào là dộng bạn bè sặc máu mũi ngay trong lớp!

- Thầy thiệt là công minh đó thầy!

Thằng Amara nhìn Nguyên và Kăply lẽo đẽo theo chân thầy Haifai đi về phía ngọn tháp, hét lên khoái chí. Nó còn rống thêm một câu nữa mà Kăply biết chắc là thầy nghe rõ mồn một nhưng không thèm trả lời:

- Càng ngày thầy càng học tập ở cô được nhiều tính tốt rồi đó thầy!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách