Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 2399|Trả lời: 17
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Truyện Ngắn] Vụ Bí Ẩn Xác Ướp Thì Thầm (Bộ Truyện Ba Thám Tử Trẻ) | Alfred Hitc

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Tên tác phẩm: VỤ BÍ ẨN XÁC ƯỚP THÌ THẦM (Thuộc bộ truyện Ba Thám Tử Trẻ)
Tác giả: Alfred Hitchcock
Độ dài: 18 chương
Thể loại: Truyện ngắn (trinh thám, hình sự)
Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành
Nguồn: vnthuquan.net

------------------------------

Chương 1

MỘT BỨC THƯ KHÁC THƯỜNG


" Cứu với! cứu với!"

Giọng kêu the thé, kỳ lạ, đầy lo sợ.

Ba Thám tử trẻ. Hannibal Jones, Peter Crentch và Bob Andy không hề chú ý đến, bởi cả 3 quen thuộc với giọng nói ấy: đó là giọng của Râu Đen, con yểng được nuôi để lấy hên. Y hệt như 1 con két, nó thích lập lại những gì nó được nghe.

Bà Mathilda Jones, thím của Hannibal, liếc nhìn lồng yểng.

- Hannibal ơi! Thím gọi. Con không nên cho con yểng của con xem nhiều phim trinh thám ở truyền hình như thế.

- Dạ, Hannibal trả lời. Thím Mathilda ơi, cánh cửa này để ở đâu?

- Tất nhiên là để chung với mấy cánh cửa kia. Này, các cậu ơi, cật lực lên đi chứ! Còn nhiều việc lắm, mà thời gian thì qua nhanh lắm.

Có tiếng lêu, ông phát thư đến, đặt 1 cọc thư vào thùng thơ.

- Chúa ơi! Khi đó thím Mathilda chợi nhớ ra. Hannibal ơi, chú Titus muốn con ra bưu điện gởi 1 bức thư bảo đảm, mà thím quên nói.

Thím rút ra từ túi áo 1 bao thư hơi bị nhăn, rồi đưa cho cháu.

- Con lấy xe đạp chạy ngay ra bưu điện! - Thím ra lệnh. Tiền đây nè.

- Con đi, con chạy, con bay đây, thưa thím Mathilda! - Hannibal mập đáp. Peter và Bob sẽ làm công việc thay chỗ con. Hai bạn ấy than phiền là hơi buồn đấy.

Peter và Bob phẫn nộ nổi giận. Hannibal leo lên xe đạp rồi biến mất. Bà Jones cười:

- Thôi, được rồi, thím thả tự do cho 2 cháu - bà nói. Hai cháu cứ vào cái đống đồ linh tinh mà chơi. Mà thím cũng không biết hai cháu có thể làm gì trong đó.

Bằng 1 động tác, bà chỉ đống đồ phế thải che dấu xưởng sửa chữa của Hannibal và không ai biết - bộ tham mưu của nhóm điều tra.

- Còn thím - bà Jones nói, thím phải lo thư từ đây. Thím sẽ xem ngaỵ Có thể có thư cho Hannibal.

Hai cậu bỏ ngay công việc, không chờ thím Mathilda nói lần thứ nhì. Bà Jones cầm lấy chồng thư từ.

- Không, - bà Jones nói, không có thư cho Hannibal.

Bà giả bộ ra đi, nhưng 2 cậu không lầm khi nhìn ánh mắt tinh nghịch của thím: thím Mathilda rất thích đùa.

- À! Thím vừa nói vừa đứng lại, cũng có 2 lá thư này gởi Ba Chàng Thám tử trẻ. Chắc là cái Câu lạc bộ mới của tụi bây.

Peter cầm lấy hai phong bì, cố kiềm nỗi xúc động, vì đây là lần đầu tiên các cậu nhận được thự Bà Jones ghé qua phòng làm việc của chồng bà. hai bạn chạy thẳng về bộ tham mưu.

- Không được xem thư khi chưa tới chỗ bọn mình, - Peter nói. Công việc là công việc.

- Đồng ý - Bob nói. Từ nay,mình sẽ có thể vào sổ thư từ bọn mình nhận được. Mình đã chuẩn bị sổ rồi, chỉ còn thiếu thư thôi.

Hai cậu luồn lách giữa các chồng vật tư khác nhau, và đến được xưởng của Hannibal.

Xe lán biến mất dưới một đống đồ đạc linh tinh, nên bên trong luôn luôn tối om. Peter bật điện lên, ngay sau khi đóng cửa sập lại. sau đó 2 cậu lấy ghế ngồi và tiến hành mở thư từ của nhóm.

- Úi chà! Peter kêu. Bức thư này của bác Alfred Hitchcock. Bọn mình bắt đầu đọc lá thư này đi.

Bob rất mừng. Ba bạn đã làm quen với ông Hitchcock một cách không bình thường lắm và ông đã hứa báo ngay cho ba bạn biết khi nào ông nghe nói đến một vụ bí ẩn thích hợp để 3 bạn trổ tài. Cho nên rất có thể là đúng như vậy.

- Trái lại - Bob nói, bọn mình phải để dành cái hay nhất cho phần cuối. Mà mình nghĩ nên chờ Babal về, rồi hẵng mở thư ra.

- Sao? - Peter phản đối. Sau cái cách đối xử của cậu ấy à. Cậu đã nghe Babal nói lúc nãy chưa, cậu ấy muốn bắt bọn mình làm phần công việc của cậu ấy. Mà chính cậu là lưu trữ gia, chính cậu phải lo về thư từ.

Bob thấy lý lẽ có tính thuyết phục và lấy dao rọc giấy mở phông bì thứ hai. Tuy nhiên, vì đã để ý nhiều điều, Bob đề nghị.

- Trước khi đọc, bọn mình hãy thử suy luận những gì có thể được. Babal đã dặn bọn mình phải tập suy luận mỗi khi có dịp.

- Chưa đọc thư, làm sao mà suy luận được cái gì? - Peter đa nghi hỏi.

Nhưng Bob đã cúi xuống xem xét phong bì màu tím, thơm mù hoa đinh. Lá thư cũng màu tím và thơm phức, ngoài ra, có hình hai con mèo trang trí ở phần trên cùng.

- Hừm! Bob vừa rên vừa ấn hai ngón tay vào trán để suy nghĩ. Được, nghĩ ra rồi. Tác giả của bức thư này là một phụ nữ khoảng 50 tuổi. Thấp nhỏ và mập mạp. Nói chuyện nhiều. Nhuộm tóc. Rất thích mèo. Tốt bụng, nhưng đôi khi hơi bất cẩn. Thường hay vui tính, nhưng hiện nay đang gặp rắc rối.

Peter mở tròn mắt:

- Hả! Cậu đã nhìn thấy tất cả những điều này mà không cần đọc nội dung à?

- Dễ ợt - Bob ung dung trả lời. Ả! mình quên nói thêm là bà rất giàu có và lo làm việc từ thiện.

Peter nhíu mày cầm lấy phong bì và bức thự dần dần nét mặt Peter sáng lên.

- Hình vẽ mèo, nên bà này thích mèo - Peter phán. Tem bị dán xiên xẹo và thậm chí hơi bị rách: chứng tỏ tính bất cẩn. Nhìn chung lá thư, hàng chữ viết bắt đầu đi lên phía trên, cho thấy tính khí lạc quan; nhưng về cuối, chữ lại đi xuống nên ta có thể kết luận rằng hiện bà đang bất hạnh...

- Đúng - Bob nói. Không có gì dễ hơn suy luận, khi ta cố gắng áp dụng.

- Và khi ta có một Babal để cho ta những bài học - Peter nói thêm. Bây giờ mình rất muốn biết cậu lấy đâu ra tuổi tác, vòng eo, cách nói chuyện, tài sản, việc từ thiện và tóc nhuộm của bà ấy. Nghe cậu nói y như Sherlock Holmes.

- Cậu xem này - Bob mỉm cười nói. Địc chỉ người gởi cho ta biết bà ở Santa Monica, trong một khu nhà rất đắt tiền. Mấy bà sống ở khu đó đều rất giàu có và đều lo làm việc từ thiện, bởi vì không có chuyện gì khác để làm. Mẹ mình nói vậy đấy.

- Đồng ý - Peter đáp. Nhưng còn tuổi, tóc và phần còn lại?

- Giấy viết thư màu tím và thơm phức, mực viết thì màu xanh lá cây. Thường những phụ nữ có tuổi mới xài những thứ này. Nói thật với cậu, mình có mo6t5 bà dì, thấp nhỏ, nói chuyện nhiều, năm mươi tuổi, nhuộm tóc, khá mập, tử tế dễ thương, dùng loại giấy viết y hệt như vậy. Nên mình mới nghĩ rằng bà... Bob nhìn chữ ký - rằng bà Banfry có thể giống dì Hilda của mình, về bề ngoài cũng như về tính tình.

- Giỏi quá! Peter cười và nói. Cậu đoán giỏi y như cậu suy luận. Bây giờ mình hãy đọc xem bà viết gì.

Rồi Peter bắt đầu đọc lớn tiếng:

?? " Gửi ba chàng thám tử trẻ.
Cô Waggoner, bạn tôi, ở Hollywood, đã kể về cuộc điều tra xuất sắc mà các cậu đã tiến hành để trả cho cô ấy chú két bị thất lạc... "

Rõ ràng, bà Banfry đã nghe nói đến những chiến công của Ba thám tử trẻ trong vụ con két cà lăm. Bob giựt lá thư khỏi tay Peter.

- Mình phụ trách lưu trữ - Bob tuyên bố. nên đọc thư là việc của mình, ít nhất là khi Babal vắng mặt.

Peter càu nhàu, nhưng nhượng bộ.

Bob đọc phần tiếp theo. Mà vụ này rất đơn giản. Bà Banfry có con mèo giống Abyssinie, tên là Sphinx, mà bà rất yêu quý. Từ 1 tuần nay, con mèo đã bị mất tích, và cảnh sát không tìm ra được nó. Các lần thông báo trong báo chí địa phương cũng không có kết quả. Bà Banfry chỉ còn biết cầu cứu ba thám tử trẻ, và ba cậu đã trả lại được con két cưng cho cô Waggoner.

- Tốt lắm - Peter nói. Một con mèo mất tích. Đây có vẻ là 1 vụ án nhỏ hiền lành, hợp lý, không có rủi ro cho bọn mình. Mình sẽ điện thoại ngay cho bà Banfry để báo bà biết là bọn mình đồng ý.

- Khoan đã!... Bob trả lời và giữ lại cánh tay của bạn đang đưa về máy điện thoại. Bọn mình chưa đọc thư của bác Hitchcock.

- Đúng, Peter thừa nhận.

Bob rọc phong bì ra, rút một lá thư viết trên loại giấy sang trọng, có khắc tên Alfred Hitchcock. Sau khi đọc lớn những từ đầu tiên, lưu trữ viên không kiềm chế nổi và im lặng đọc thật nhanh phần còn lại. Khi đọc xong, nét mặt Bob vô cùng ngạc nhiên.

- Peter ơi, cậu tự đọc lấy đi. Nếu không, cậu sẽ không tin.

Hết sức tò mò, Peter chụp lấy lá thư và đến lượt cậu đọc. Đọc xong, Peter ngước cặp mắt ngạc nhiên tột độ nhìn Bob.

- Úi chà! Peter khẽ nói. Làm sao một cái xác ướp 3000 năm tuổi lại có thể bắt đầu kể chuyện đời mình?

Rate

Số người tham gia 1Sức gió +5 Thu lại Lý do
JustWendy + 5 Thích trinh thám! Thích Hitcock!

Xem tất cả

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 30-10-2012 09:11:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 2

XÁC ƯỚP THÌ THẦM


Ba thám tử trẻ chưa bao giờ phải lo 1 vụ lạ thường như vụ đang được đề nghị.

Giáo sư Robert Yarborough, nhà Ai Cập học lừng danh, sống trong một hẻm khu dân cư ngay giữa rừng, cách Rocky khoảng 15km. Nhà ông, một ngôi nhà cổ kiểu Tây Ban Nha, đã được chính ông biến thành viện bảo tàng tư nhân.

Một hàng cửa - cửa sổ, nhìn ra một cái sân lót đan, chiếu sáng căn phòng rộng lớn, nơi giáo sư để các kho báu của mình. Buổi chiều, không khí nóng nực một cách kỳ lạ... Giữa các cửa sổ, có những bức tượng, từng trang trí các ngôi mộ cổ xưa tại Ai Cập, đứng thẳng. Một trong những bức tượng ấy, tượng thần Anubis - thân người, đầu chó, chiếu xuống sàn nhà một bóng đen hình thù dễ sợ.

Trên tường có treo những chiếc mặt nạ có nụ cười bí ẩn và sắc sảo. Tủ kính bảo vệ khỏi bụi cho những tấm bảng viết bằng đất sét, cho nữ trang bằng vàng và những con bọ bằng ngọc bích, được chạm khác bởi những người thợ kim hoàn đã chết từ mấy thế kỷ nay.

Dưới đất có cái quách, với hình xác ướp trên phần nổi thấp của nắp. Đó là một cái quách vô cùng giản dị, không có chạm vàng, không có trang trí, nhưng giấu một sự bí ẩn mà chưa ai tìm ra câu giải. Nên chủ nhân, giáo sư Yarborough, một người đàn ông nhỏ nhắn mập mạp, có râu nhọn và đeo kính gọng vàng, khá tự hào về cái quách này.

Thời còn trẻ, giáo sư đã lãnh đạo nhiều chuyến thám hiểm đi đến tận Ai Cập để khai quất tìm kiếm. Ông đã tìm thấy nhiều ngôi mộ đào ngay sườn những ngọn đồi, chứa xác ướp của những vị vua Pharaon, cùng phu nhân và người hầu, chưa kể nữ trang và dụng cụ. Ông cất giữ tại nhà phần lớn những vật tìm ra và đang viết sách về những phát hiện của mình.

Giáo sư đã tìm ra cái quách bí ẩn cách đây 25 năm. Nhưng thời đó, do ông quá bận bịu với những cuộc tìm kiếm khác, ông đã cho một viện bảo tàng ở Caire mượn quách. Nay, khi đã về hưu, ông có ý định tiếp tục nghiên cứu; nên cách đây mấy ngày, xác ướp và quách đã được chở đến bằng tàu lửa.

Bây giờ, ông Yarborough nghĩ, mình sẽ có thời gian khám phá ra bí ẩn của nó...

Chiều hôm đó - hai ngày trước khi Ba thám tử trẻ nhận được thư ông Alfred Hitchcock, giáo sư đang đứng trong viện bảo tàng nhỏ của mình và căng thẳng gõ cây viết chì vào nắp quách. Nắp này có thể tháo ra dễ dàng như nắp của một cái thùng bình thường.

Wiggins, người đã phục vụ cho giáo sư từ nhiều năm nay, kính cẩn hỏi:

- Thưa ông, ông có nghĩ là nên làm lại cuộc thí nghiệm này, sau cuộc xúc động mà ông đã bị ngày hôm qua không ạ?

- Tôi kiểm tra xem việc này có lặp lại hay không - giáo sư cương quyết trả lời. Anh mở giúp một cái cửa sổ. Ở đây ngột ngạt quá.

- Vâng, thưa ông - Wiggins vừa nói vừa mở cửa sổ gần nhất.

Từ khi bị nhốt lại trong ngôi mộ của một vua Pharaon hai ngày liền, do tai nạn, giáo sư bị chứng sợ chỗ kín.

Rồi Wiggins mở nắp lên, và sau khi tháo ra hoàn toàn, cho nắp tựa vào quách.

Hai người đàn ông cúi xuống nhìn vào bên trong.

Mỗi người một sở thích. Có người sẽ không cảm thấy thích thú gì khi ngắm nhìn một cái xác ướp, nhưng giáo sư Yarborough thì khác, ông say mê những thi hài ướp bitum và quấn băng vải. Người Ai Cập cổ xưa tin rằng thân thể con người phải được bảo quản hoàn toàn tốt để có thể trình diện thế giới bên kia. Cũng chính để dự phòng cuộc sống sau này, mà họ đặt vào ngôi mộ quần áo, vật trang trí, dụng cụ và nữ trang của kẻ quá cố.

Xác ướp của giáo sư Yarborough tên là Ra- Orkon. Kén bọc xác đã được mở ra một phần, nên khuôn mặt của Ra- Orkon lộ ra. Đó là khuôn mặt của một người đàn ông lớn tuổi, thông minh, mắt nhắm, môi hơi hé ra như để nói chuyện. Có thể tưởng ông được chạm khắc bằng gỗ mun.

- Thưa ông, trông Ra-Orkon hoàn toàn bình tĩnh - Wiggins nhận xét. Tôi không nghĩ hôm nay ông ấy sẽ giở chứng nữa.

- Hy vọng là không - giáo sư rầu rĩ đáp. Ông ấy đã chết cách đây 3000 năm. Bây giờ ông ấy lại nói chuyện, thì đúng là phản tự nhiên.

- Tất nhiên, thưa ông.

- Nhưng hôm qua, lúc ở một mình với ông ấy, ông ấy đã nói chuyện với tôi! Tôi không hiểu ông ấy nói tiếng gì, nhưng tôi đã hiểu rõ rằng ông ấy nhờ tôi giúp một việc gì đó, rất khẩn cấp.

Giáo sư cúi xuống xác ướp:

- Ra- Orkon, nếu ông có điều gì cần nói với tôi thì ông hãy nói đi. Tôi nghe đây. Tôi sẽ cố gắng hiểu ông.

Một phút trôi qua, rồi một phút khác. Không có tiếng động nào trong phòng, ngoại trừ tiếng ruồi bay.

- Chắc là tôi bị ảo tưởng! Cuối cùng giáo sư thở dài.

- Đó là cách giải thích duy nhất có thể được. Wiggins à, anh làm ơn đi lấy giúp cái cưa tay trong xưởng được không? Tôi sẽ cưa một khúc gỗ quách. Như vậy qua thử nghiệm than phóng xạ, anh bạn Jennings ở đại học tổng hợp Californie của tôi sẽ có thể xác định được chính xác tuổi của cái xác ướp này.

- Vâng, thưa ông, Wiggins nói, rồi bước ra.

Đúng lúc đó, tiếng thì thầm không rõ vang lên, chắc chắn xuất phát từ cái quách. Giáo sư chưng hửng đứng thẳng người dậy. Rồi ông kê tai lại gần miệng xác ướp.

Xác ướp đang thì thầm. Lời nói dường như phát ra từ đôi môi hé mở một nửa, những lời nói được phát âm bởi một người Ai Cập đã chết cách đây 3000 năm.

Ông Yarborough không hiểu những lời nói này. Chúng được cấu tạo bằng những âm tiết khàn và xuýt, nói bằng một giọng gần như không nghe được. Tuy nhiên, những lời nói càng lúc càng gấp gáp hơn, như thê xác ướp hết sức muốn được nói.
Nổi xúc động khủng khiếp chiếm lấy giáo sự Ông nghĩ ngôn ngữ này là tiếng ả Rập cổ xưa. Thỉnh thoảng giáo sư có cảm giác nhận hiểu ra một từ.

- Nói đi, hãy nói đi, Ra-Orkon! giáo sư kêu. Tôi sẽ cố gắng hết sức mình để hiểu ông.

- Xin lỗi, thưa ông!

Giáo sư xoay gót quay lại. Lời nói cuối cùng này do Wiggins, tay cầm cưa mới bước vào, phát âm. Ra- Orkon đã ngưng nói.

- Wiggins ơi! Giáo sư nói. Xác ướp vừa mới thì thầm nữa. Nó đã bắt đầu ngay khi anh mới bước ra ngoài, và nó đã im đi khi anh bước vào.

Wiggins nhíu mày, nét mặt nghiêm trang.

- Thưa ông, dường như nó chỉ muốn nói chuyện với một mình ông thôi. Ông đã hiểu nó nói gì chưa ạ?

- Không - Ông Yarborough kêu lên. Tôi không phải nhà ngôn ngữ học. Có thể Ra-Orkon không nói bằng tiếng ả Rập cổ, nhưng cũng có thể nói bằng tiếng Hittite hay thậm chí tiếng Chaldie.

Wiggins liếc nhìn qua cửa sổ. Trên sườn đối diện của thung lũng có một ngôi nhà màu trắng, mới tinh. Anh ta dùng ngón tay chỉ ngôi nhà.

- Giáo sư Freeman là bạn của ông, thưa ông - Wiggins nhận xét. Ngoài ra ông Freeman còn rất am hiểu về tất cả những gì có liên quan đến các phương ngôn vùng Cận Đông. Chỉ mất 5 phút là ông ấy có thể có mặt ở đây. Và nếu xác ướp chịu nói chuyện với ông ấy, chắc chắn ông ấy sẽ hiểu nó nói gì.

- Rất đúng! Giáo sư la lên. Đáng lẽ tôi phải báo cho cậu ấy biết ngaỵ Dù sao, cha cậu ấy cũng có mặt cùng tôi lúc tôi tìm thấy Ra-Orkon. Nhưng việc phát hiện này không mang lại may mắn cho anh ấy: anh ấy đã bị ám sát một tuần sau đó, ngay giữa chợ. Anh đi gọi cho tôi cậu Freeman đi, Wiggins à, và bảo cậu ấy sang đây ngay.

- Vậng, thưa ông.

Wiggins vừa rời khỏi phòng là tiếng nói thì thầm kỳ lạ tiếp tục trở lại.

Giáo sư lại thực hiện 1 nỗ lực mới để hiểu xem xác ướp nói gì, rồi bỏ cuộc. Ông ra đứng ngay ở cửa sổ, nơi nhìn thấy nhà ông giáo sư trẻ tuổi Freeman, xây trên sườn dốc, dưới mức đường xe chạy nhiều.

Ông Yarborough nhìn thấy người đàn ông trẻ bước ra khỏi nhà qua cánh cửa hông, leo lên cầu thang ngoài, bước vào ga-ra. Sau đó ít lâu, một chiếc xe chạy ra, rẽ vào con đường nhỏ ngoằn ngoèo giữa sườn dốc. Không rời mắt khỏi chiếc xe đang chạy, giáo sứ Yarborough vẫn lắng nghe, hết sức chăm chú, tiếng thì thầm của xác ướp.

Bỗng nhiên, Ra-Orkon im lặng. Nỗi lo sợ chiếm lấy ông giáo sư già. Sao! Chẳng lẽ xác ướp lại ngưng nói đúng vào lúc có thể hiểu ra nó nói gì?

- Nói tiếp đi, Ra- Orkon, ông hãy nói tiếp đi. Tôi van ông. Chúng ta đang chờ thông dịch viên đến. Ông hãy nói đi!...

Một hồi sau, tiếng thì thầm tiếp tục trở lại. Ông Yarborough nghe tiếng xe dừng lại trước cửa nhà. Cánh cửa mở ra. Có người bước vào phòng.

- Cậu đó hả Freeman? ông Yarborough hỏi, nhưng không rời mắt khỏi xác ướp.

- Dạ phải, cháu đây. Bác bị làm sao thế, hả bác Yarborough? Người kia hỏi.

- Cậu đừng làm ồn. Lại đây. Nghe đi.

Rồi nói với xác ướp, ông giáo sư già la lên:

- Hãy nói đi, Ra- Orkon ơi! Nói đi! Bây giờ có người sẽ hiểu ông.

Nhưng xác ướp im lặng. Im lặng y như đã từng im lặng suốt 30 thế kỷ.

- Cháo không hiểu, Freeman nói. Có phải bác nói chuyện với xác ướp không ạ?

Ông Yarborough quay sang người đồng sự trẻ. Ông Freeman là người vóc dáng trung bình, thon thả, nét mặt vui vẻ. Tóc ông chỉ hơi bắt đầu bạc một ít.

- Phải, Yarborough nói. Xác ướp vừa mới nói chuyện với tôi bằng một thứ tiếng mà tôi không hiểu được, và tôi hy vọng cậu sẽ thông dịch cho tôi. nhưng ngay khi thấy cậu, nó...

Nhìn thấy vẻ mặt ngạc nhiên của ông Freeman, giáo sư Yarborough không nói nữa.

- Cậu không tin tôi, phải không? Cậu không tin rằng Ra- Orkon có thể nói chuyện với tôi à?

Freeman gãi cằm.

- Bác hãy thừa nhận rằng đó cũng là chuyện lạ - cuối cùng ông nói. Cháu sẽ dễ tin hơn nếu chính cháu nghe thấy...

- Ta hãy làm thử - Ông Yarborough nói. Ra-Orkon, ông nói đi, chúng tôi nghe đây. Chúng tôi sẽ cố gắng hiểu ông.

Hai người đàn ông chờ đợi. Xác ướp không phản ứng.

- Không chờ nữa - Ông Yarborough thở dài. Ra-Orkon chỉ chịu nói chuyện riêng với tôi thôi. Vậy mà tôi cứ hy vọng cậu sẽ dịch cho tôi nghe những gì ông ấy nói.

Giáo sư cố gắng ra vẻ tin tưởng nhưng không thành công lắm.

- Nếu có thể được, cháu sẵn lòng giúp bác - Ông lễ phép trả lời. Ô kìa! bác định làm gì với cái cưa này? Không lẽ bác tính mổ tử thi Ra-Orkon?

- Không, không. Tôi chỉ muốn cưa một mẫu gỗ để đưa thí nghiệm than hoạt tính và như vậy xác định ngày chính xác khi Ra- Orkon được chôn cất.

- Làm hỏng một cái quách cổ xưa như thế này thì uổng quá.

- Không đâu- Ông Yarborough đáp. Cái quách này không có gì là quí báu hết, và dù sao tôi cũng phải biết được nó có từ năm nào chứ. Nhưng mỗi việc một lúc. Trước khi tìm ra bí mật của Ra-Orkon, tôi muốn làm rõ cái chuyện thì thầm này. Nhưng, cậu Freeman ơi, một cái xác ướp đâu thể nói chuyện được! Mà xác ướp này thì lại nói. Và chỉ nói với một mình tôi mà thôi.

- Hừm! Freeman vừa kêu vừa cố giấu đi nỗi thương hại đối với người đàn ông già. - Hay bác giao cho cháu cái tên già hay đùa này trong vài ngày? Khi về tới nhà cháu, có thể nó cũng sẽ chịu nói chuyện với cháu. Nếu cháu hiểu được nó kể lễ điều gì, cháu sẽ truyền đạt lại chính xác cho bác bức thông điệp của nó.

Giáo sư Yarborough nhìn trừng người đàn ông trẻ.

- Cậu thật là tốt bụng, cậu Freeman à- Ông trịnh trọng nói. Cậu đang nghĩ tôi bị ảo tưởng, và để tránh làm cho tôi buồn, cậu không thành thật nói ra. Thì, cũng có thể cậu đúng. Ra-Orkon sẽ ở lại đây cho đến khi tôi tin chắc về sự việc này.

- Tùy bác thôi - Freeman nói. Nếu anh bạn của ta lại nói nữa, bác cứ báo cho cháu biết. Cháu sẽ đến cấp tốc. Tạm thời cháu xin phép bác. Cháu có tiết giảng ở trường đại học tổng hợp.

Ông Freeman ra khỏi căn phòng. Ông giáo sư Yarborough hoài công chờ xác ướp nói chuyện trở lại. Wiggins xuất hiện.

- Tôi dọn bữa ăn tối cho ông được chưa ạ?

- Dọn đi, Wiggins. Anh có nhớ là anh không được nói cho ai biềt về cụ này không?

- Dạ nhớ, thưa ông.

- Tôi đã nhìn thấy rõ phản ứng của cậu Freeman. Tất cả các đồng sự của tôi cũng sẽ phản ứng như vậy thôi. Nếu họ biết rằng 1 xác ướp kể chuyện cho tôi, họ sẽ nghĩ tôi lẫm cẩm. Anh thử tưởng tượng nếu báo chí nắm được chuyện này: uy tín nhà bác học của tôi sẽ tiêu tan.

- Tất nhiên, thưa ông.

- Tuy nhiên tôi phải xin ý kiến của một người nào đó. Một người nào đó không phải là nhà bác học, và biết rằng thế giới này đầy rẫy bí ẩn... Ồ! tôi biết người nào rồi. Tôi sẽ gọi điện cho anh bạn Alfred Hitchcock của tôi, ít nhất anh bạn này sẽ không cười tôi.

Giáo sư Yarboruogh nghĩ đúng. Alfred Hitchcock không cười ông. Như ta đã biết ở chương trước, ông chỉ báo tin cho Ba Thám Tử Trẻ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 5-11-2012 14:24:12 | Chỉ xem của tác giả
Chương 3

HANNIBAL CẢM TỪ XA


- Làm sao 1 xác ướp có thể nói chuyện được - Peter nói lại.

Bob chỉ lắc đầu.

- Một cái xác ướp - Peter nói tiếp và xoa rối mái tóc nâu, là phải được ướp. Một cái xác ướp, không phải là 1 con người. Nó từng là 1 con người, nhưng không còn là người nữa.

- Đó là một con người đã chết - Bob đồng ý. Và người chết thì không nói chuyện, ai cũng biết điều đó.

- Ai cũng biết, ngoại trừ cái xác ướp - Peter vừa nói vừa lấy lại bức thư để xem cho kỹ hơn. Xác ướp nói chuyện à? Không, không, mình không thích. Bọn mình đã có quá nhiều vụ bí ẩn lạ thường rồi. Tốt nhất bọn mình nên đi Santa Monica giúp bà kia tìm con mèo giống Abyssunie.

Bob nhìn bức thư của bà Banfry.

- Giữa hai vụ, Hannibal sẽ chọn vụ nào? Cậu có đoán được không? Bob hỏi mỉa mai.

- Không đoán được! Peter tức giận đáp. Ngay khi nhìn thấy bức thư của ông Hitchcock, cậu ấy sẽ gọi điện thoại cho hãng thuê xe và xin chiếc xe Rolls cùng bác tài Warrington, để đến gặp giáo sư Yarborough. Nhưng dù sao, bọn mình nắm tuyệt đại đa số số phiếu quy định.

- Hannilbal không phải loại người chịu để bị không đủ số phiếu quy định. - Bob bắt bẻ. Bọn mình đã thử áp dụng với cậu ấy phương pháp dân chủ rồi, thời Lâu đài kinh hoàng ấy. Không thể nói rằng bọn mình đã thành công mỹ mãn lắm.

- Mình biết - Peter buồn bã nói.

- Ủa, mà chuyện gì đã xảy ra với cậu Babal của chúng ta rồi? Đáng lẽ cậu ấy đã về từ lâu rồi mà.

- Đây là dịp sử dụng kính tiềm vọng của ta! Peter kêu lên.

Bộ tham mưu của Ba Thám Tử Trẻ, vô hình đối với những ai không biết, cũng có một khuyết điểm: khi bị nhốt bên trong, Ba Thám Tử Trẻ không thể nhìn thấy những gì xảy ra bên ngoài.

Hannibal đã chữa lại khuyết điểm này bằng cách làm cái kính tiềm vọng, bằng vài mảnh gương đặt ở góc vuông trong ống lò sưởi, trông hoàn toàn vô hại.

Peter Crentch nâng kính tiềm vọng lên, sao cho phần trên nhô lên khỏi đống đầ đạc linh tinh phủ kính nhà lán, rồi xoay kính từ từ, mắt dán vào đầu dưới của ống.

- Bà Jones đang bán sắt vụn cho thợ sửa ống nước - Peter thông báo. Anh Hans đang chất vật tư vào một góc. Ủa, Babal về kìa. Cậu ấy đang dắt xe đạp. Bánh trước bị xẹp.

- Chắc xe đạp bị xì bánh - Bob nói - Có lẽ do vậy mà Babal về trễ. Mình dám cá mặt Babal đang giận dữ.

- Hoàn toàn không - Babal đang cười toe toét. Điều này thì lạ thật, Babal rất ghét bất trắc. Thậm chí thủng xe cũng sẽ làm cho Babal tức điên lên. Babal luôn muốn mọi thứ phải hoạt động một cách hoàn hảo.

- Babal là một người hết xảy, nhất là khi phải dự đoán sự việc, Bob nói. Cậu ấy sẽ dễ gần hơn nếu cậu ấy không nói chuyện giống như từ điển. Đôi khi mình vất vả lắm mới hiểu nổi Babal.

- Đâu phải mình cậu.

Peter xoay kính tiểm vọng.

- Babal đậu xe đạp vào một góc. Cậu ấy đang đưa một vật gì đó cho bà Jones. Thím đang nói chuyện với Babal. Thím chỉ về hướng nhà xưởng. Chắc là thím nói cho Babal biết bọn mình đang ở đâu. Bây giờ cậu ấy đang bước về căn phòng. Sao Babal không chịu đi nhanh hơn nhỉ? A! cậu ấy lại bước trở ra.

- Bọn mình sẽ phá Babal - Bob đề nghị. Mình sẽ dấu đi lá thư của ông Hitchcock. Babal sẽ đọc thư của bà Babfry, và sẽ lên cả một kế hoạch để tìm con mèo. Khi ấy mình sẽ đưa bức thư kia ra...

- Và bọn mình sẽ nói với Babal rằng bọn mình không thể lo vụ xác ướp khi chưa tìm ra con mèo, Peter nói thêm. Này, mình có sáng kiến khác. Mình sẽ cùng suy luận. Cậu chỉ việc nói hùa theo mình.

Tiếng cọt kẹt sắt vào xi-măng báo cho Peter và Bob hay rằng Babal đang chui vào " Đường hầm số 2" và mở tấm lưới ra.

Peter lật đật đưa kính tiềm vọng trở về vị trí thấp, rồi ngồi xuống. Chẳng bao lâu, sau khi nghe tiếng cạ cho biết Hannibal đang bò, cửa sập nâng lên và Hannibal Jones chui vào xe lán.

- Nóng quá! cậu kêu lên.

- Phải - Peter trả lời, không phải lúc để bị xẹp bánh xe chút nào.

Hannibal rất ngạc nhiên nhìn bạn:

- Làm sao cậu biết mình đã bị xẹp lốp xe?

- Vấn để suy luận thuần túy - Peter nói. Cậu đã từng khuyên Bob và mình phải luyện tập suy luận. Đó là việc bọn mình đã làm. Đúng không Bob?

Bob nghiên đầu thở dài:

- Tội nghiệp Babal quá. Thời tiết như vậy, mà phải dắt xe đạp đi bộ thì không hứng thú chút nào.

Hannibal quan sát 2 bạn kỹ hơn.

- Đúng - cậu thừa nhận. Bây giờ mình sẽ rất biết ơn, nếu các cậu giải thích cho mình nghe sự tiến triển quy trình trí tuệ của các cậu.

- Cái gì? - Peter hỏi.

- Cách suy nghĩ của bọn mình - Bob dịch lại. Peter ơi, giải thích cho Babal đi.

- Được - Peter Crentch nói. Babal à, cậu hãy cho mình xem 2 bàn tay cậu đi.

Babal giơ tay ra. Hai bàn tay rất dơ. Trên một tay có dấu in vết bánh xe đạp.

- Rồi sao nữa? cậu hỏi.

- Đầu gối phải của cậu dính đầy bụi, Peter nhận xét. Vậy cậu đã quỳ xuống để nhìn một cái gì đó. tay cậu dơ; tay trái có hình bánh xe đạp. Vậy cậu đã quỳ xuống để xem bánh xe đạp. Để làm gì? Vì cậu bị thủng bánh xe. Giày cậu cũng dính đầy bụi. Vậy là cậu đã cuốc bộ rất lâu. Đơn giản thôi, anh bạn Warson thân mến à, như Sherlock Holmes thường nói.

- Nếu không có kính tiềm vọng, thì sự suy luận này thật xuất sắc - Hannibal có vẻ khâm phục.

- Hoan hô! Hannibal nói thêm. Phung phí tài năng như thế này để đi tìm một con mèo thất lạc, thì uổng wá !

- Hả? Peter và Bob đồng thanh la lên.

- Mình nói - Hannibal làm rõ, rằng hoang phí vô ích những khả năng suy luận phát triển như vậy là uổng wá.

Hannibal đã cố tình nói dài dòng, dùng từ ngữ phức tạp, vì biết rằng Peter rất ghét như vậy.

- Những nhà tâm lý học tài giỏi như các cậu, Hannibal nói tiếp, đáng lẽ nên dùng thời giờ rảnh rỗi để giải những vụ bí ẩn như... chẳng hạn như vụ một cái xác ướp 3000 năm tuổi nói chuyện bằng một phương ngôn chưa được biết đến và truyền đạt những bức thông điệp vô nghĩa cho chủ nhân kinh ngạc của nó...

Peter hét lên:

- Ai kể cho cậu nghe chuyện xác ướp?

- Trong khi hai cậu luyện tập suy luận - Babal trả lời, thì mình luyện tập phương pháp cảm từ xa, tức là sự tryền đạt suy nghĩ. Bob à, cậu đang giữ một bức thư có địa chỉ của giáo sư Yarborough. Mình đã điện thoại đến hãng để xin xe cùng bác Warring ton. Trong 10 phút nữa, chúng ta sẽ đề nghị giúp đỡ nhà Ai Cập học lừng danh làm rõ vụ bí ẩn xác ướp thì thầm.

Peter và Bob kinh ngạc nhìn sếp không nói được lời nào.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 7-11-2012 11:15:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 4

LỜI NGUYỀN RỦA CỦA XÁC ƯỚP


Làm sao cậu biết được ông Hitchcock đã viết thư cho bọn mình bảo rằng giáo sư Yarborough có một cái xác ướp biết nói? - Peter hỏi lần thứ 20.

Hannibal Jones thở dài:

- Nếu cậu không tin mình khi mình nói là mình biết cảm từ xa, thì cậu suy nghĩ một chút đi, cậu suy luận giỏi lắm mà. Cậu cứ làm như vụ bể bánh xe của mình ấy.

Câu trả lời này khiến Peter phải im lặng, nhưng không thỏa mãn được sự tò mò của cậu. Bob Andy ngồi trong góc cười mỉm. Một lần nữa, Babal đã chứng tỏ về tính vượt trội của mình cho hai bạn: sẽ có ngày cậu giải thích cậu đã làm như thế nào. Nhưng tạm thời, thì nên nghĩ đến vụ bí ẩn xác ướp thì thầm hơn.

Đúng vậy, ba cậu đang ngồi trên yên sau của chiếc xe Rolls sang trọng do Warrington lái, đưa ba cậu đến Hunter Canon, nhà giáo sư Yarborough.

- Babal ơi - Bob vừa nói vừa ngồi thoải mái trên nệm xe, khi kết thúc 30 ngày thuê xe mà cậu trúng thưởng, thì bọn mình sẽ làm gì. Bọn mình đã sử dụng hết 14 ngày rồi.

- 15, thưa cậu Bob, tính luôn ngày hôm nay - Warrington đính chính. Và tôi sẽ là người đầu tiên hối tiếc những cuộc phiêu lưu chung của chúng ta, khi tôi không còn được vinh dự và vui thích lái cho các cậu.

Warrington là người Anh Quốc, cao, gầy, ăn mặc và cư xử hoàn hảo. Tình bạn nối liền ông với ba cậu, từ lúc tất cả đã cùng nhau chia sẻ nguy hiểm và chiến thắng.

- Vậy thì chỉ còn có 15 ngày, Peter thở dài.

- Hai công hai không phải lúc nào cũng bằng bốn - Hannibal trả lời bằng một giọng khó hiểu. Còn 15 công 15 không phải lúc nào cũng bằng 30. Chú Warrington ơi, chú dừng xe ở đây được không?

Sau khi kiểm tra tên trên bảng, Hannibal yêu cầu chú Warrington chạy vào lối đi.

- Mình có gọi điện trước, giáo sư đang chờ mình, thám tử trưởng nói rõ. Mình thú nhận là mình rất nóng lòng được làm quen với cái xác ướp biết nói kia.

- Mình thì không! Peter lầm bầm.

- Có thể xác ướp sẽ chịu nói chuyện với tất cả chúng ta?

Hannabal nói thêm.

- Hy vọng là không - thám tử phó đáp. Mình, thì mình không tán thành những xác ướp biết nói!

Giáo sư Yarborough đang ngồi ngoài hiên ăn trưa, rõ ràng ông đang rất lo sợ. Wiggins vưa mới dọn cho ông một tô súp nóng.

- Vậy là thí nghiệm không có kết quả... - giáo sư khẽ nói.

- Phải, tôi đã qua một phần đêm cùng với Ra-Orkon, nhưng... con người đó không hé một lời. Có một lúc, tôi tưởng như nghe thấy được một cái gì đó...

- Rồi sao?

- Nhưng tôi đành thừa nhận là tôi đã lầm.

Wiggins lấy lại cái tô trống không. Giáo sư lấy khăn chùi miệng.

- Không biết tôi bị làm sao Wiggins à - giáo sư nói. Tôi hay bị thức giấc giữa đêm, tim đập như muốn vỡ ra. Bí ẩn, căng thẳng, không thể chịu đựng được nữa.

- Thưa ông, chính tôi cũng rất lo sợ. Hay là ông... ?

- Hay tôi làm gì? Anh cứ nói đi.

- Ông có nghĩ đến việc trả trả xác ướp lại cho chính phủ Ai Cập không ạ? Khi đó ông không còn lo sợ và...

- Không được. Vụ này càng bí ẩn, thì tôi càng kiên quyết muốn làm rõ. Mà tôi đang chờ tiếp viện.

- Ông đã gọi cảnh sát đến phải không ạ? Wiggins hỏi. Tôi tưởng ông không muốn để cảnh sát biết chuyện.

- Không phải cảnh sát, mà là những thám tử gì đó, do anh bạn Alfred Hitchcock giới thiệu.

Đúng lúc đó, tiếng chuộng nhạc ở cửa vang lên.

- Chắc là họ đến đấy, giáo sư nói. Anh làm ơn đi mở cửa, Wiggins nhé. Anh hãy đưa họ đến đây cho tôi.

- Vâng, thưa ông.

Một hồi sau, Wiggins trở về cùng ba cậu con trai. Cậu thứ nhất mập, tóc đen; cậu thứ nhì, cao lớn, đầy cơ bắp; cậu thứ ba thấp nhỏ hơn hai cậu kia, đeo mắt kính và máy chỉnh hình ở chân.

Giáo sư nhíu mày lại khi nhìn thấy ba cậu.

Hannibal Jones không lấy làm ngạc nhiên: ông Yarborough trông chờ ba thám tử người lớn. Thám tử trưởng thẳng người lại ngay và phù nọng dưới cằm ra để tạo cho mình vẻ già dặn hơn. Sau đó, cậu rút ra từ túi áo một tấm danh thiếp chìa cho giáo sư.

Cũng như mọi người, giáo sư hỏi ngay:

- Những dấu chấm hỏi này nghĩa là gì? Có phải để nghi ngờ về khả năng của các cháu không?

- Dấu chấm hỏi - Hannibal tuyên bố bằng vẻ " người lớn" nhất của cậu, là ký hiệu phổ cập của câu hỏi, của câu đố bí ẩn, của vấn đề. Do vậy tụi cháu dùng dấu chấm hỏi làm biểu tượng. Các vấn đề, các câu hỏi bí ẩn, các câu hỏi cần giải quyết, đó là chuyên môn của tụi cháu. Tụi cháu không hứa với bác rằng tụi cháu sẽ thành công, nhưng tụi cháu hứa là sẽ cố gắng.

- Hừm! giáo sư nói, và xem xét tấm danh thiếp với nét mặt đăm chiêu. Nếu cháu không thêm câu nói cuối cùng này và lời tuyên bố nguyên tắc của cháu, thì bác đã yêu cầu Wiggins dẫn cháu ra khỏi nhà rồi. Chỉ có những tên bịp bợm mới hứa hão thành công. Ngược lại, có ý thức cố gắng, ắt sẽ thành công.

Sau 1 hồi im lặng quan sát ba cậu, ông Yarborough gật đầu ra hiệu đồng ý.

- Chính anh Alfred Hitchcock giới thiệu các cháu đến - Ông nói, và bác tin vào sự đánh giá của anh Hitchcock. Rõ ràng là bác không thể nhờ đến cảnh sát hoặc thám tử tư: họ sẽ tưởng bác bị điên. Đồng nghiệp chỉ sẽ cảm thấy thương hại bác mà thôi; có thể người ta sẽ đồn tin bác đã lẩm cẩm rồi. Trong khi ba cậu con trai trẻ giàu trí tưởng tượng và không có thành kiến... Phải, nếu có ai đó giúp được bác, thì đó phải là các cháu.

Ông đứng dậy:

- Mời các cháu đi- Ông nói. Bác sẽ giới thiệu các cháu với Ra-Orkon, rồi chúng ta sẽ có thể bắt tay vào việc.

Hannibal bước theo giáo sư đang đi về phái bên trái ngôi nhà. Bob và Peter định bắt chước, nhưng Wiggins, bằng một động tác, giữ hai cậu ở lại.

- Các cậu thanh niên à, trước khi xen vào vụ này, các cậu phải biết một điều, Wiggins nói.

- Điều gì? Peter lo lắng hỏi.

- Cái xác ướp này bị nguyền rủa, anh ta nói nhỏ. Tất cả những ai đụng đến nó là bị bất hạnh. Hầu như mọi thành viên trong đoàn thám hiểm phát hiện ra nó đã bị chết đột ngột... Giáo sư chưa chịu thừa nhận điều này. Ông không thừa nhận điều gì phi khoa học. Nhưng bây giờ, khi mà xác ướp đã ở trong nhà, thì tôi sợ cho cả ông lẫn tôi. Và cho các cậu nữa... Nếu các cậu xen vào vụ này, sẽ có nguy hiểm.

Hai cậu mở căng mắt ra nhìn anh ta. Nét mặt Wiggins thể hiện một nỗi khiếp sợ đến nỗi không thể nghi ngờ sự thành thật của anh được.

Đúng lúc đó, Hannibal quay lại.

- Đi chứ, các cậu ơi! Hannibal kêu lên.

Hai thám tử đến với sếp.

Qua một cánh cửa, tất cả bước vào phòng bảo tàng. Giáo sư bước thẳng đến quách, mở nắp ra.

- Ra-Orkon đây, ông nói. Bác vô cùng hy vọng các cháu sẽ giúp cho bác hiểu được bức thông điệp mà Ra-Orkon muốn truyền đạt cho bác.

Xác ướp bình yêu nằm dài, tối tăm và cứng đơ. Hai mắt nhắm kín như thường lệ. Tuy nhiên mọi người tự hỏi không biết mắt xác ướp có thình lình mở ra không.

Hannibal bình tĩng xem xét Ra-Orkon. Còn phần mình, Bob và Peter cảm thấy hơi khó chịu. Không phải chính xác ướp tự nó làm cho hai cậu bối rối: mà là ý nghĩ rằng vật đã chết này có thể nói chuyện? Sự nguyền rủa mà Wiggins đã kể càng làm cho hai cậu lo sợ hơn.

Mắt Bob gặp phải ánh mắt nhìn của Peter. Trông Peter vô cùng lo lắng.

- Úi chà! Peter thì thầm. Không biết Babal sẽ lôi bọn mình vào chuyện gì nữa đây...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 8-11-2012 13:55:59 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5

NGUY HIỂM


Hannibal đang cúi xuống chăm chú quan sát xác ướp của Ra-Orkon. Giáo sư Yarborough lấy khăn lau trán.

- Wiggins ơi, giáo sư nói, anh làm ơn mở của ra. Anh biết là tôi không chịu được của đóng kín mà.

- Vâng, thưa ông.

Wiggins mở cửa sổ ra. Một luồng gió thổi qua căn phòng. Các mặt nạ kim loại treo trên tường kêu leng keng...

Hannibal đứng thẳng người dậy.

- Thưa giáo sư, có phải bác đã nghe tiếng động này không ạ? cậu hỏi.

- Không, không, cháu à - Ông Yarborough trả lời. Bác vẫn còn biết phân biệt sự khác nhau giữa tiếng động gây ra bởi luồng gió và âm thanh lời nói của con người. Xác ướp này đã nói chuyện với bác, không có nghi ngờ gì về chuyện này.

- Dạ - Hannibal Jones nói. Vậy là cháu xem như không thể có nhầm lẫn từ phía bác. Tụi cháu sẽ giả thuyết rằng bác đã thật sự nghe xác ướp nói chuyện, hoặc là bằng tiến ả Rập cổ, hoặc là bằng một thứ ngôn ngữ khác nào đó mà bác không biết.

- Thưa ông, ông có cần đến tôi nữa không ạ? Wiggins hỏi. Hay tôi có thể đi làm việc tiếp...

Đột nhiên, Wiggins lao vào giáo sư.

- Coi chừng! Wiggins hét lên.

Hai người đàn ông cùng lăn xuống dưới sàn, ngay sau đó bức tượng khổng lồ bằng gỗ của Anubis, thần đầu chó, dựng ngay bên của sổ, sập ngã xuống ngay chỗ giáo sư đứng trước đó vài giây. Ở dưới đất, đầu chó có một vẻ đe dọa kỳ lạ.

Giáo sư và Wiggins cùng ngồi dậy, toàn thân run rẩy, và cùng nhìn bức tượng ngã dưới đất.

- Thưa ông, tôi thấy nó đang lắc lư, Wiggins giải thích bằng một giọng còn hơi run - Nó sắp ngã trúng ông. Nó có thể đè ông.

Wiggins khó khăn nuốt nước miếng:

- Đó là sự nguyền rủa của Ra-Orkon đi theo ông tận nơi đây, Wiggins ấp úng.

- Wiggins à, anh đừng có nói bậy - giáo sư vừa nói vừa phủi quần áo. Không hề có sự nguyền rủa của Ra-Orkon. Đó là chuyện bịa đặt của báo chí, dựa theo cách dịch sai lầm dòng chữ khắc trên ngôi mộ, do Lord Carter đưa ra. Bức tượng rơi do ngẫu nhiên thôi.

- Bức tượng này đúng vững 3000 năm nay rồi, Wiggins đáp. Tại sao nó lại xém đè ông, nếu không phải là để giết ông, cũng giống chính Lord Carter đã bị giết chết?

- Lord Carter chết do tai nạn ô tô - giáo sư sẵng giọng trả lời. Wiggins, anh lo công việc tiếp đi.

- Vâng, thưa ông.

Wiggins định bước ra, thì Hannibal ngăn lại. Hannibal vừa mới xem xét bức tượng gần hơn và đã đứng dậy.

- Chú nói chú đã thấy bức tượng lắc lư. Chú có thể nói rõ hơn xem nó lắc lư như thế nào không?

- Thưa cậu Hannibal, tượng nghiên về phía trước. Y như là tượng muốn ngã sập vào người giáo sư, có chủ ý, có thể nói y như là tượng đang nhắm vào ông giáo sư...

Wiggins! giáo sư trách móc la lên.

Nhưng wiggins vẫn nói:

- Tôi tin chắc điều này, thưa ông. Anubis đã nghiêng về phía ông, rồi tự rơi xuống. Tôi đã cố gắng phản ứng thật nhanh. Cũng may là tôi đến kịp thời.

- Tôi biết - Ông Yarborough trả lời xẵng giọng, và tôi cám ơn anh. Nhưng xin anh đừng nói đến sự nguyền rủa nữa.
Bất chợt, một chiếc mặt nạ vàng đã bị sút ra và rớt xuống đất...

- Tôi đã nói rồi mà, Wiggins kêu, mặt mày tái xanh hơn.

- Đó là... luồng gió! giáo sư la lên, nhưng không tự tin nữa. Gió đã làm rơi tượng Anubis, rồi chiếc mặt nạ.

Hannibal ngồi chồm hổm xuống gần bức tượng, rồi sờ mó vào đế tượng.

- Thưa bác giáo sư, phải có luồng gió dữ dội lắm mới làm rơi Anubis nổi. Bức tượng rất nặng và tựa trên một bề mặt hoàn toàn bằng phẳng.

- Cậu à - Ông Yarborough trịnh trọng nói, tôi là một nhà khoa học. Tôi không tin vào sự nguyền rủa, cũng như không tin vào ác linh. Nếu cậu có ý địng giúp đỡ tôi, thì xin cậu đừng quên điều này.

Hannibal đứng dậy, nét mặt đăm chiêu.

- Thưa bác, chính cháu cũng đâu có tin. Nhưng ta phải nhìn nhận sự việc: trong vòng có 5 phút, hai sự kiện kỳ lạ xảy ra, mà không có nguyên nhân rõ rệt.

- Ngẫu nhiên thuần túy! Giáo sư khẳng định. Hãy quay lại vụ của tạ Các cháu thừa nhận là bác đã nghe cái xác ướp này nói chuyện, đúng không? Vậy, các cháu có đề nghị nào cách giải thích về hiện tượng này không?

Hannibal véo môi dưới. Bob và Peter biết điều này nghĩa là gì: sếp của hai cậu đang suy nghĩ dữ dội.

- Thưa bác giáo sư, cháu có một giả thuyết! Babal tuyên bố.

- Một giả thuyết khoa học hả? Không phải chuyện tàu lao chứ? Giáo sư vừa hỏi vừa vuốt râu.

- Không thể nào khoa học hơn - Hannibal bảo đảm. Rồi quay sang hai bạn: Peter, Bob, hai cậu hãy ra nói bác Warrington lấy chiếc vali nhỏ trong cốp xe. Ta sẽ tiến hành một cuộc thí nghiệm.

- Được thôi Babal à. Đi, Bob ơi - Peter kêu, vui mừng được rời xa cái xác ướp.

- Để tôi chỉ đường - Wiggins đề nghị.

Peter cầm lấy vali và cùng Bob trở về viện bảo tàng.

- Không biết trong này có gì - Peter nói nhỏ. Cũng khá nặng. Babal đang dành cho bọn mình một điều bất ngờ gì nữa đây.

- Bọn mình đã giả vờ đoán ra là cậu ấy bị xẹp lốp xe - Bob trả lời. Babal đang phục thù đấy.

Trong viện bảo tàng, giáo sư và Hannibal đã cho Anubis trở về chỗ, khá vất vả.

- Phải có một cơn bão táp mới dịch chuyển được cái khối này - Hannibal lưu ý. Chứ không phải một luồng gió nhẹ như khi nãy.

Ông Yarborough đứng thẳng người dậy.

- Vậy theo cháu, thì một lực siêu tự nhiên đã khiến Anubis ngã xuống à? ông hỏi.

- Cháu không biết bản chất của lực này - Hannibal trả lời. Tạm thời, cháu chỉ đề nghị cho bác xem làm thế nào để một xác ướp có thể nói chuyện được.

Hannibal cầm lấy chiếc vali nhỏ từ tay Peter, rồi mở ra. Cậu rút ra 3 vật trông giống như những máy thu radio bán dẫn, nhưng kích thước lớn hơn kiểu bỏ túi.

Hannibal rất ghét đưa ra lời giải thích, khi có thể biếu diễn. Cậu đưa một máy cho Peter. Sau đó cậu vòng cho bạn một sợi nịt da có thêm sợi dây đồng. Cậu cắm vào máy một dây điện nối với dây nịt.

- Cậu hãy ra ngoài vười đi dạo, Hannibal ra lệnh. Cậu hãy kê máy sát vào tai. Thỉnh thoảng cậu hãy bấm nút này và nói chuyện. Sau đó thả nút ra để nghe.

- Cái này là cái gì vậy? - Peter hỏi.

- Bộ đàm, hay nói cách khác máy phát- thu xách tay - Hannibal trả lời. Dây nịt là ăng ten. Tầm xa 800 mét. Chiều dài sóng chọn trong gam dành cho nghiệp dư. Mình đã nghĩ chúng ta thật sự cần đến phương thức liên lạc khi mỗi người hoạt động riêng lẻ, và tuần rồi mình đã nghĩ đến việc hiệu chỉnh mấy cái máy này.

- Được - Peter nói. Mình phải làm gì dây? Mình đi dạo ngoài vườn và nói chuyện một mình. Mình phải kể gì đây?

- Tùy cậu - Hannibal trả lời. Ví dụ cậu hãy mô tả những gì cậu nhìn thấy. Đi!

- Đồng ý! Peter nói - Rồi với ánh mắt tinh ranh, Peter nói thêm: thì ra đây là bí mật về chuyện cảm từ xa!

- Ta sẽ nói lại chuyện này sau - Hannibal mỉm cười nói. Bây giờ là vấn đề biểu diễn cho giáo sư xem. Cậu hãy bắt đầu nói chuyện khi cậu... thám tử trưởng nhìn qua cửa sổ - khi cậu đến gần cái cột có cái quả cầu bằng đá phía trên.

- Được, thưa sếp.

Kê máy sát bên tai, Peter đi qua sân hiên.

- Bây giờ, thưa bác giáo sư, cho phép cháu đụng vào xác ướp... thám tử trưởng bắt đầu nói.

- Cháu cứ làm đi, ông Yarborough nói. Nhưng nhẹ tay nhé.

Hannibal cúi xuống quách, rồi đứng dậy. Trong tay, cậu cầm máy phát- thu thứ nhì; máy thứ 3 đã biến mất.

- Peter ơi, có nghe không? Hannibal hỏi trong máy. Cậu nói đi. Mời bác giáo sư, và cả cậu nữa Bob à, hãy nghe.

Hai khán giả lắng tai nghe. Có tiếng thì thầm vang đến.

- Mời bác đến gần quách - thám tử trưởng ra lệnh, không thả máy radio.

Đến lượt giáo sư và Bob cúi xuống, và cả 2 có cảm giác rằng chính xác ướp đang thì thầm.

Điều lạ là xác ướp thì thầm bằng giọng nói của Peter Crentch.

- Mình vừa mới đi qua bức tường... Mình đang tiến đến một lùm cây.

- Nói tiếp đi - Hannibal ra lệnh.

Rồi cậu quay sang giáo sư và Bob:

- Bác thấy không, làm cho xác ướp nói chuyện được đâu có gì khó.

Hannibal giở miếng băng vải trước kia che mặt Ra-Orkon, mà giáo sư đã tháo ra, máy thu phát xuất hiện ở phía dưới, giọng Peter phát ra từ đó, trong khi tiếng nói y như phát ra từ môi xác ướp.

- Thưa giáo sư, đây là một giải đáp khoa học, Hannibal nói. Một máy thu nhỏ giấu gần xác ướp. Một cái máy phát bên ngoài. Gây ra ấn tượng không thể chối cãi được...

Đúng lúc đó, giọng Peter vang lên, nhỏ hơn:

- Có người đang núp trong bụi cây trước mặt mình... Đó là 1 cậu bé... nó không hay là mình đã nhìn thấy nó... Mình sẽ nhảy vào tóm nó.

- Cậu chờ một chút - Hannibal nói. Bọn mình sẽ ra tiếp tay cậu.

- Nhỡ nó chạy trốn sao, Peter bắt bẽ. Mình sẽ giả bộ đang đi dạo, rồi mình sẽ phóng vào tóm nó. Ngay khi nghe mình la, các cậu hãy đến.

- Được - Hannibal đồng ý. Cậu bắt nó và bọn mình chạy đến giúp.

Hannibal lại quay sang giáo sư:

- Có kẻ lạ mặt đang lảng vảng quanh nhà, - cậu thông báo. Nếu bắt được nó, có thể sẽ làm rõ vụ bí ẩn.

- Peter không nhát nữa - Bob nóng lòng nói. Mình rất muốn biết chuyện gì đang xảy ra ngoài kia.

Tất cả im lặng chờ đợi.

Peter vẫn bước chậm như đang đi dạo, giả vờ như không thấy kẻ núp phía sau bụi cây mà cậu đang vòng qua. Khi nghĩ là không còn đường thoát cho kẻ lạ, Peter đột nhiên lao đến chỗ trốn. Một cậu bé bằng Bob, da nâu, mắt đen nháy, nhảy ra. Peter đè cậu bé nằm xuống đất. Hai cậu chỉ còn là một khối không rõ cuống cuồng, tay chân lẫn lộn.

- Bắt được rồi! Peter gầm lên.

Kẻ lạ cũng la lên, nhưng bằng một thứ phương ngữ không hiểu được. Hai đấu sĩ trẻ này làm đè máy radio mà Peter đã bỏ xuống, máy kêu rắc dưới trọng lượng 2 cậu.

Cậu bé da nâu thon thả và mềm dẻo như con lươn. Ngoài ra, nó giãy dụa kịch liệt. Một lần nó xém thoát khỏi tay Peter, nhưng phút cuối Peter bắt lại nó được. Sau đó, do dốc, 2 tên vật lộn lại lăn, đứa này đè đứa kia, về phía tường đá làm ranh giới nhà với phần bên kia vực hẻm.

Một lần nữa, cậu bé lạ la một tiếng lớn. Còn Peter thì không phí hơi thở qua lời nói. Cậu biết hai bạn đang trên đường đi đến.
Đúng vậy, Hannibal và Bob đang phi nước đại về hướng Peter. Mặc dù hơi bị khập khiễng, nhưng Bob là người đầu tiên lao ra vườn, theo sau là Hannibal và chính giáo sư Yarborough.

Nhưng quân tiếp viện chưa kịp băng qua sân, thì Peter đã nhận được tiếp viện từ hướng khác. Một công nhân mặc áo quần xanh, thả cái cuốc đang cầm trong tay, chạy thật nhanh xuống dốc.

Khi thấy vậy, ông Yarborough giảm tốc độ ngay.

- Đó là Magasay, một trong những người làm vườn của bác - Ông giảu thích. Bác có tất cả 7 người làm vườn. Bảy anh em đều chuyên võ judo, vì họ đến từ Phi Luật Tân. Họ giống nhau đến mức bác không bao giờ biết bác đang nói chuyện với ai. Tuy nhỏ bé, nhưng họ khỏe lắm. Anh này sẽ giúp Peter hiệu quả hơn ta.

Giáo sư không sai. Bằng một cánh tay sắt thép, người làm vườn đã ôm siết cổ cậu bé lạ và đang nâng cậu bé đá đấm giãy dụa lên.

- Tôi bắt được tên du côn! người làm vườn Phi Luật Tân báo. Tôi giữ chắc lắm.

Peter ngồi dậy. Tù nhân, qua nỗ lực tự giải thoát, đã làm cho Magasay xoay.

- Cẩn thận, nó như con beo! - Peter căn dặn.

Cậu bé ấp úng một điều gì đó không hiểu được. Người làm vườn đáp lại bằng tiếng Anh:

- Này đừng động đây. Đừng bắt tao phải làm cho mày bị thương.

Rồi trong cơn xúc động, người làm vườn nói thêm vài từ, nghe giống như lời chửi mắng bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Bỗng nhiên, anh đau đớn la lên một tiếng. Cậu bé thoát khỏi tay anh, chạy xuống dốc, vượt qua tường rồi biến mất trước khi Peter kịp động đậy.

Hannibal, giáo sư và Bob vừa đến.

- Chuyện gì đã xảy ra vậy? ông Yarborough hỏi. Làm thế nào nó chạy thoát được?

Người làm vườn lúng túng quay lại.

- Nó cắn- anh làm vườn nói. Trong võ judo không có chuyện cắn. Tôi không nghĩ nó sẽ cắn.

Anh đưa tay phải ra. Răng của cậu bé vô danh đã ấn sâu vào thịt. Máu chảy.

- Anh đã làm hết sức mình - giáo sư nói. Anh vào nhà sát trùng vết thương đi.

- Tôi xin lỗi - Magasay nói.

Peter chưa thở lại bình thường được.

- Xui wá! Peter hổn hển nói. Mình tưởng là bắt được nó rồi chứ.

- Không biết nó là ai? Bob hỏi. Nó đang làm gì?

- Hình như nó đang rình một cái gì đó - Peter trả lời. Mình thấy nó nhúc nhích trong bụi và mình báo cho các cậu ngay.

- Rõ ràng là nó có thể cung cấp cho ta nhiều thông tin quan trọng - Hannibal vừa véo môi vừa nói.

- Các cháu ơi, khi ấy giáo sư Yarborough nói, có thể là lúc đó, các cháu không để ý, nhưng...

Ba Thám Tử nhìn giáo sư, tự hỏi không biết ông sẽ tiết lộ điều gì.

- Đúng lúc Peter sắp nhào vào thằng bé, nó la lên vài từ. Nhờ cái đài, chúng ta đã nghe được.

- Nó nói tiếng nước ngoài - Peter lưu ý.

- Phải - giáo sư thừa nhận. Bằng tiếng ả Rập hiện đại. Nó nói: " Con van xin thần linh của Ra-Orkon hãy cứu giúp con".

Hannibal định trả lời, nhưng Peter chợt hét lên:

- Coi chừng!

Peter dùng tay chỉ một cái gì đó.

Một trong những quả cầu đá khổng lồ tựa trên các cột ở cổng vào đã rơi xuống và đang lăn nhanh xuống dốc, và chạy càng lúc càng nhanh, dường như nó sắp đâm thẳng vào nhóm người.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 8-11-2012 15:19:59 | Chỉ xem của tác giả
Chương 6

MỘT VỊ KHÁCH BẤT NGỜ


Khi thấy quả cầu đá to tướng lăn về hướng mình, Bob và Peter định nhảy sang một bên. Giáo sư ngăn cản:

- Đừng động đậy! ông ra lệnh.

Hannibal nghĩ rằng ông Yarborough có ánh nhìn tuyệt vời. Trong khoảnh khắc giây, ông đã ước tính được đường lăn và thấy khối đá granit sẽ chạy ngang nhóm người một khoảng cách nào đó.

Quả cầu đá làm đúng như vậy, nó cán nát một nửa bụi cây bạch đàn non đang mọc gần đó.

- Cám ơn bác giáo sư! Bob vừa kêu vừa lấy khăn lau mồ hôi ướt đẫm trên trán.

Cháu định chạy lại bụi cây bạch đàn ấy để trốn chứ.

- Còn cháu - Peter nói, cháu định chạy sang hướng kia. Một khối tròn như vậy có thể cân nặng bao nhiêu nhỉ? Ít nhất một tấn!

- Hơn một chút - giáo sư Yarborough trả lời. Với đường kính như thế này, và tỷ trọng granit bằng...

- Ông giáo sư ơi!...

Đó là giọng của Wiggins. Anh ta vừa chạy tới vừa hoa chân múa tay.

- Tôi đang ở trong nhà bếp! Wiggins hổn hển nói. Tôi đã nhìn thấy tất cả... Thưa, ông giáo sư có bị thương không ạ?

- Anh cũng thấy là không mà - giáo sư trả lời. Tôi cấm không được nói điều mà anh sắp nói.

- Tôi có trách nhiệm phải nói cho ông và tôi sẽ nói - Wiggins đáp. Sự nguyền rủa của Ra-Orkon đã làm cho quả cầu đá này lăn. Sự nguyền rủa của Ra-Orkon sẽ giết chết ông giáo sư và có lẽ sẽ giết cả chúng tôi cùng với ông.

- Sự nguyền rủa của Ra-Orkon à? Hannibal hỏi. Thưa bác giáo sư, xác ướp có lời nguyền không ạ?

- Tất nhiên là không! ông Yarborough la lên. Chắc là cậu quá trẻ để nhớ, nhưng lúc bác tìm thấy Ra-Orkon trong thung lũng Vua Chúa, báo chí đã tuyên truyền một câu chuyện ngu ngốc về một câu khắc nào đó trên tường.

- Câu khắc nói thế này: Bất hạnh sẽ ập xuống đầu ai dám phá rối sự an nghĩ của Ra-Orkon Công Minh - Wiigins ấp úng. Mà từng thành viên một của đoàn thám hiểm đã bị chết hoặc bị trọng thương bằng cách này hay cách khác, bởi vì...

- Wiggins! giáo sư gầm lên.

- Vâng, thưa ông. Tôi xin lỗi ông - Wiggins xúc động nói.

- Câu khắc nói thế này - giáo sư tiếp. Ra-Orkon Công Minh đang an nghỉ tại đây. Thất là bất hạnh nếu sự an nghỉ của ngưòi bị phá rối. Rõ ràng là bất hạnh của Ra-Orkon. Đúng là Lord Carter diễn đạt câu văn này theo kiểu khác, nhưng tôi tin chắc là ông ấy hiểu sai.

Sau khi dừng một hồi, giáo sư Yarborough nói tiếp:

- Tuy nhiên đúng là có một sự bí ẩn nào đó quanh xác ướp Ra-Orkon. Lord Carter và bác gần như tình cờ phát hiện ra ngôi mộ. Ngôi mộ được giấu kín thật sâu trong một đồi đá. Bên trong không hề thấy những đồ vật thường có trong các ngôi mộ của vua chúa. Chỉ có cái quách này, thế thôi. Trong quách có xác ướp của Ra-Orkon và ái miêu của ông, cũng được ướp xác chung với ông. Không có câu khắc nào để nói Ra-Orkon làm gì lúc còn sống, đúng như tục lệ. Có thể nghĩ người ta làm lễ mai táng sao cho không gây chú ý. Có lẽ gia đình dự định sẽ xây mộ xứng đáng cho người sau này? Dù sao, nếu bọn cướp phá mộ, thời đó rất đông, tấn công ngôi mộ này, thì chúng sẽ chẳng tìm được gì.

- Mặt khác, chất lượng xác ướp cho ta thấy rằng người này không phải là thường dân. Thậm chí, ngày chết, chúng ta cũng không biết. Mà cái tên cũng dễ gây nhầm lẫn: phần Ra làm cho ta nghĩ đến vua chúa những triều đại đầu tiên; ngược lại, phần Orkon làm cho ta nghĩ đến ảnh hưởng của Lybie. Dân Lybie đã bắt đầu di cư sang Ai Cập cách đây hơn 3000 năm, và cuối cùng đã cai trị đất nước này. Một khi, nhờ thử nghiệm than phóng xạ, bác tìm ra chính xác ngày đưa vào mộ, bác dự định làm một nghiên cứu thật sâu để xác định nguyên nhân chôn cất kín đáo này - có thể nói là bí mật.

- Còn những chuyện tầm bậy mà Wiggins kể về những bất hạnh xảy ra với các thành viên trong đoàn, các cháu đừng tin. Lord Carter chết trong một vụ tai nạn xe hơi. Còn Alec Freeman, một nhà tự học lỗi lạc làm thư ký cho bác, anh ấy đã bị ám sát trong chợ. Anh ấy là cha của bạn tôi, giáo sư Freeman, ở phía bên kia vực hẻm.

Bob và Peter nhìn nhau. Theo hai cậu, sự việc nghe càng lúc càng tệ hơn, mặc dù Babal có vẻ thích thú trước những vụ bí ẩn chồng chất lên nhau như thế này.

- Thôi - giáo sư nói. Bây giờ ta hãy bỏ qua những chuyện mê tín buồn cười này, và ra xem tại sao quả cầu đá lại rớt ra khỏi trụ.
Ông Yarborough cùng ba thám tử và Wiggins ra xem trụ. Một vòng xi măng có công dụng gắn quả cầu vào đế. Mưa gió đã làm tan rã xi măng. Ngoài ra, do đất bị lún, nên cột hơi bị nghiên theo chiều dốc.

- Hết sức rõ ràng- giáo sư quả quyết. Mưa gió đã ăn mòn mất một phần xi măng.

Wiggins bỏ đi và lắc đầu: anh không tin. Tất cả những người còn lại cùng bước vào phòng bảo tàng, nơi tất cả xúm quanh cái quách.

- Phương án của cháu rất tài tình - Ông Yarborough nói với Hannibal. Tuy nhiên nó không đúng, bởi vì dường như không có cái đài radio nào được giấu trong cái quách.

- Thưa bác giáo sư, bá đã kiểm tra chắc chắn chưa? Hannibal kính cẩn hỏi.

- Thật ra bác chưa kiểm tra - nhà bác học thừa nhận. Có lẽ bác phải nghĩ đến việc kiểm tra.

Ông lấy đài radio mà Hannibal để lại bên cạnh Ra-Orkon. Sau đó ông sờ vào những tấm vải quấn quanh xác ướp, ông hết sức cẩn thận nhấc xác ướp lên: trong quách không có gì hết.

Hannibal có vẻ thắc mắc. Cậu kiểm tra quách, xem xét nắp, nghiêng hòm để nhìn phái dưới.

- Không - Hannibal kết luận. Không có dây, không có máy thu. Cháu xin lỗi thưa bác giáo sư. Hoá ra giả thuyết đầu tiên của cháu sai.

- Đó là chuyện thường hay xảy ra đối với những giả thuyết đầu tiên - Ông Yarborough khoan dung trả lời. Có thể cháu có một giả thuyết thứ hai ?

- Thưa bác, bây giờ thì chưa có. Bác nói rằng xác ướp chỉ nói riêng với bác, phải không ạ?

- Đúng. Ngoài ra, cho đến nay, nó chỉ nói chuyện với bác vào cuối giờ chiều.

Hannibal véo môi.

- Có ai ngoài bác ở trong nhà không, thưa bác?

- Chỉ có mình Wiggins thôi. Anh ấy làm việc cho bác 10 năm nay rồi. Xưa kia, nếu bác không lầm, anh ấy là diễn viên hài... Một bà giúp việc đến đây dọn dẹp ba lần một tuần. Wiggins vừa làm tài xế, vừa làm đầu bếp, vừa làm Wiggins cho bác.

- Thế còn những người làm vườn? Hannibal hỏi.

- Bảy anh em Magasay làm việc tại đây 8 năm rồi. Mà họ không bao giờ vào nhà.

- Phải... Hannibal nói khẽ, vẻ suy tư. Cháu phải nghe xác ướp nói. Chính cháu.

- Rất tiếc, dường như nó chỉ chịu nói chuyện với bác thôi - giáo sư bắt bẻ. Nó không chịu nói chuyện với Wiggins, và cũng không nói chuyện với giáo sư Freeman.

- Còn cậu, Babal, nó hoàn toàn không quen biết gì cậu. Tại sao cậu nghĩ nó sẽ tâm sự với cậu? Bob xen vào.

- Lạ thật! Peter kêu, mình tưởng như xác ướp này biết nhận ra người!

- Phải thú nhận là giả thuyết này phản khoa học - giáo sư nói, tuy nhiên... dường như đúng là như vậy.

Hannibal có vẻ tự tin.

- Cháu nghĩ - Hannibal tuyên bố, rằng xác ướp sẽ nói chuyện với cháu. Như vậy cháu sẽ có thêm thông tin. Thưa bác giáo sư, tôi nay tụi cháu sẽ trở lại thăm bác và chúng ta sẽ tiến hành một cuộc thí nghiệm nhỏ.

***

- Babal lại đi đâu mất rồi? Peter vừa hỏi vừa nhìn đồng hồ điện tử của bộ tham mưu. Sáu giờ 15 rồi, mà bọn mình lại có hẹn lúc 6 giờ.

- Có thể cậu ấy nói cho thím biết cậu ấy đi đâu, Bob trả lời.

Bob vừa ghi lại vào giấy tất cả những yếu tố thu thập được lúc sáng. Cậu đã ở suốt buổi chiều trong thư viện, nơi cậu làm bán thời gian.

- Không - Peter nói. Babal không nói gì với thím hết. Cấu ấy bỏ đi với chiếc Rolls. Để mình thử tìm Babal bằng kính tiềm vọng.
Peter đưa kính lên vị trí cao, rồi kê con mắt vào chỗ nhìn.

- Xe Rolls tới kìa! Một lúc sau, Peter nói. Và Babal đang nhìn qua cửa xe. Có thể Babal đang thử liên lạc với bọn mình bằng radio.

Thám tử phó vội vàng trở về bàn làm việc, nơi có đặt bộ khuếch âm của máy điện thoại.

- Vậy mà Babal tự khoe là biết cảm từ xa! Peter vừa ngồi xuống vừa càu nhàu. Sáng nay, Babal nghe được bọn mình nói chuyện về ông Hitchcock và bà Banfry. Hắn ta vừa dắt xe đạp vừa nghe lén bọn mình!

Peter cúi sang đài cố định, bật nút, rồi thông báo:

- Bộ tham mưu đây. Thám tử trưởng ơi, có nghe không? Nói đi.

Sau đó, Peter thả nút ra và nghe. Lúc đầu có tiếng xuýt, rồi đến giọng của Hannibal:

- Thám tử trưởng đây, sẽ đến ngay khi được. Nhận thấy các cậu đã sử dụng kính tiềm vọng. Hãy để trở về vị trí thấp ngaỵ Hết.

- Hiểu, Peter nói xin cắt mạch.

Vài phút trôi qua, mà Hannibal vẫn không tới.

- Hay là cậu ấy bị kẹt trong " đường hầm số 2"? Bob kêu lên.

Đúng lúc đó, có tiếng gõ vào sàn xe lán theo một nhịp đã thống nhất mà chỉ có Ba Thám Tử Trẻ biết. Rồi cửa sập đựoc nâng lên. Một cái đầu xuất hiện...

Peter và Bob không tin vào mắt mình. Nhân vật đang chui vào xe lán có bộ tóc bạc bù xù, có râu và đeo cặp mắt kính gọng vàng.

- Giáo sư Yarborough! Peter la lên. Làm thế nào bác đến đây được? Chuyện gì đã xảy ra với Babal rồi?

- Babal đã không thèm đếm xỉa đến lời nguyền của Ra-Orkon, ông già vừa trả lời vừa leo qua cửa sập một cách nhanh nhẹn khá lạ so với tuổi tác. Babal đã trở thành tôi!

Trong nháy mắt, Hannibal Jones tháo bộ tóc bạc giả, râu và kính ra.

- Nếu mình đã lừa được các cậu trong một lúc - Hannibal mỉm cười nói, thì mình cũng sẽ làm được như thế với một xác ướp già 3000 năm không mở mắt ra được!

- Babal! Bob kêu lên, vẫn còn không tin.

- Úi chà! Peter nói. Cậu lừa được bọn mình! Nhưng sao cậu lại nghĩ đến chuyện hóa trang thành giáo sư!

- Việc này cần thiết cho cuộc thí nghiệm của mình - Hannibal vừa trả lời vừa cất tất cả vào cái túi đang đeo.

Hannibal xuất hiện ra ánh sáng, và 2 bạn thấy rõ những vết nhăn vẽ trên trán và khoé mắt làm cho Hannibal có vẻ già đi.

- Mình đến gặp chú Grant, làm hoá trang ở trường quay phim - Hannibal giải thích. Mình mô tả giáo sư cho chú ấy, và chú ấy đã làm cho mìnhcái đầu theo ý mình.

- Nhưng để làm gì? Bob hỏi.

- Để lừa xác ướp.

- Lừa xác ướp hả? Peter la lên. Nghĩa là sao?

- Nếu xác ướp tưởng mình là giáo sư Yarborough, có thể nó sẽ nói chuyện với mình, Hannibal trả lời, bởi vì nó không chịu nói chuyện với ai khác nữa hết.

- Khoan đã! Peter vẫn chưa chịu. Nghe cậu nói, tưởng như xác ướp không chỉ biết nói, nó còn biết nhận ra người nữa. Làm sao được! Cái xác ướp đó đã chết cách đây 3000 năm rồi, có đúng hay không? Nếu cậu vẫn xem nó như một người còn sống, thì mình không đồng ý. Mình đề nghị cứ để cái xác ướp nói chuyện một mình nó, tùy thích. Còn bọn mình sẽ đi tìm con mèo của bà Banfry.

Bob định cho ý kiến, nhưng cậu kiềm lại. Hannibal đang véo môi.

- Tóm lại, cậu không đi với bọn mình, phải không? Hannibal hỏi. Cậu không muốn đi nghe tiếng thì thầm của xác ướp à?

Peter phân vân. Cậu đang hối hận vì dám nói dứt khoát như thế. Nhưng do bản năng cũng cứng đầu, Peter vẫn khăng khăng:

- Đúng. Lần sau, có thể cả mái nhà sẽ rớt xuống đầu bọn mình. Sau con chó, mặt nạ và quả cầu, mình đã hiểu rồi. Ra-Orkon không ưa bọn mình, rõ quá.

- Tốt lắm- Hannibal bình tĩnh nói. Chúng ta có 3 người. Không có lý do gì không cho phép chúng ta lo nhiều vụ cùng một lúc. Cậu hãy đi gặp bà Banfrỵ Bob và mình sẽ đi gặp xác ướp như dự kiến. Đồng ý không Bob?

Bob cũng hiểu rõ là Peter cũng không ngờ Hannibal sẽ nghĩ cậu nói nghiêm túc. Nhưng dù sao, thám tử trưởng nói đúng: nhóm có thể điều tra cùng một lúc tại vực hẻm Hunter và tại Santa Monica. Nên Bob gật đầu.

- Tốt - Hannibal quyết định, Peter, cậu vẫn còn kịp đi đến nhà bà Banfry trước khi trời tối. Vì bọn mình cần xe Rolls, nên cậu nhờ anh Hans đưa cậu đến Santa Monica bằng xe tải nhỏ của cửa hàng.

Sau khi phân vân một hồi, Peter lầm bầm:

- Đồng ý, Babal.

Peter mở cửa sập ra, và chui vào " đường hầm số 2". Cậu ra tới xưởng, luồn lách giữa những đồ đạc linh tinh, rồi vào phòng làm việc của ông Jones. Hans đang đóng cửa đi về, nhưng vì nể Hannibal, anh nhận lời chở Peter đến Santa Monica.

" Mọi thứ biến chuyển tốt, Peter nghĩ. Mình sẽ tìm con mèo Abyssinie. Còn sếp và lưu trữ có thể biến mình thành xác ướp, nếu thích".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 12-11-2012 11:58:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7

THẦN ĐẦU CHÓ XUẤT HIỆN


Năm mươi phút sau, Peter chăm chú nghe bà Banfry than thở về chuyện con mèo bị mất.

Đúng lúc đó, Hannibal bước một mình vào phòng bảo tàng của giáo sư Yarborough và bật đèn chùm lên. Ở bên ngoài, trời vẫn còn sáng, nhưng do mặt trời đã lặn sau bờ vực hẻm, ngôi nhà bị chìm trong bóng tối.

Hannibal di chuyển chậm chạp và thận trọng như một ông già. Hannibal bắt đầu bước hướng về các cửa sổ và mở một cánh cửa ra. Sau đó, Hannibal quay lại chỗ cái quách, mở nắp ra và nhìn gương mặt đen của xác ướp.

- Ra-Orkon! Hannibal phát âm lớn tiếng. Hãy nói đi, tôi nghe ông đây. Tôi sẽ cố gắng hết sức mình để hiểu ông.

Tài năng bắt chước của Hannibal được sử dụng rất hợp lúc. Mọi người không biết có thể tưởng Hannibal là ông giáo sư già đang nói.

Thám tử trẻ không những đeo tóc giả, râu giả và mắt kính giống giáo sư, mà còn mượn thêm cái áo vét và chiếc cà vạt của ông Yarborough. Vì ông giáo sư thấp nhỏ và mập mạp, về phần Hannibal, cậu đã từng được đặt bí danh là Mập Thù Lù, nên sự giống nhau giữa nhà Ai Cập học và kẻ sinh đôi của ông thật đáng kinh ngạc.

Trong phòng khách, Bob Andy và ông Yarborough lo lắng chờ đợi kết quả thử nghiệm. Thậm chí Wiggins, có việc dưới bếp, cũng không biết về vụ hóa trang.

Hannibal cúi xuống quách lại và nói bằng một giọng hơi run:

- Hỡi Ra-Orkon vĩ đại, hãy nói chuyện với tôi đi. Hãy truyền bức thông điệp đi.

Khi đó, Hannibal nghe tiếng động. Cậu quay đầu để nghe cho rõ hơn và có cảm giác rõ ràng là nghe từ ngữ phát ra từ cổ họng của một con người. Hannibal chưa bao giờ nghe thứ tiếng khàn khàn, nhiều phụ âm gió, mà xác ướp dùng.

Hannibal nhìn xung quanh mình. Chỉ có một mình cậu, không có gì nghi ngờ được. Cửa dẫn vào phòng khách đóng kín.

Một lần nữa, thám tử trưởng kê tai lại gần môi của xác ướp và nghe thấy cũng thứ âm thì thầm lo sợ và cấp bách.

Khi đó, Hannibal Jones hiểu rằng giáo sư Yarborough không bị ảo tưởng. Xác ướp nói chuyện: điều đó là chắc chắn.

Khi "lăng xê" nhóm điều tra của mình, Hannibal đã hết sức tin tưởng vào sự cần thiết phải trang bị những phương thiện hiện đại nhất. Nên ngay từ đầu, nhóm đã có mọi máy móc và dụng cụ mà 3 thám tử trẻ có thể có được, hoặc bằng cách mua, hoặc bằng sửa chữa những cái đến Thiên Đường Đồ Cổ trong tình trạng hư hỏng. Đó là chưa kể đến những máy chụp hình, kính tiềm vọng, kính hiển vi, máy điện thoại, các đài radio, nhóm còn có máy ghi âm xách tay mà Peter đã đổi bộ sưu tập tem để lấy được.

Bây giờ, máy ghi âm đó sẽ bắt đầu hành động.

Hannibal đã móc máy ghi âm thòng xuống ngay dây thắt lưng, được cái áo vét rộng thùng thình của ông giáo sư che kín. Sau khi bấm nút " thâu", thám tử trưởng nói:

- Ra- Orkon ơi, tôi không hiểu ông. Ông có thể nói lại được không?

Thì thầm đã chấm dứt, bắt đầu lại ngaỵ. Đó là một chuỗi dài những từ thì thầm. Không biết máy có ghi lại được không?
Xác ướp nói chuyện không ngừng suốt một phút. Khi ấy, Hannibal quay đầu để nghe cho rõ, bị mắc râu vào gỗ chẻ của cái quách.

Khi ngẩng đầu lên, Hannibal làm cho râu tróc keo ra, hết sức đau đớn.

- Ái! Hannibal la lên bằng giọng thật của mình, không còn nhớ là phải bắt chước giọng của giáo sư.

Khi cố giữ bộ râu lại, thám tử đáng thương bị mất thăng bằng và té uỵch xuống sàn nhà. Mắt kính bị văng ra xa và bộ tóc giả sụp xuống mắt.

Hannibal mò đứng dậy và cố gắng vô ích để sửa lại đồ hoá trang.

Cánh cửa mở ra. Giáo sư và Bob chạy vào.

- Có chuyện gì vậy Babal? Bob hỏi.

- Chúng tôi đã nghe cháu la, ông Yarborough nói. Có phải cháu đã nhìn thấy được một hiện tượng siêu tự nhiên không?

- Cháu chỉ nhận thấy cái dở của chính mình thôi- Hannibal tức giận trả lời. Có lẽ cháu đã làm hỏng tất cả. Xác ướp đang bắt đầu nói chuyện thì...

- Vậy cậu đã lừa được nó! Bob la lên.

- Mình cũng không biết nữa. Để xem nó có nói lại không.

Hannibal cắm lại micro mà cậu đã làm rớt khi té, rồi cúi xuống xác ướp.

- Hãy nói đi, Ra- Orkon! Hãy nói đi! Hannibal van xin.

Tất cả nín thở chờ đợi. Nhưng Ra-Orkon không nói gì nữa hết.

- Làm nữa cũng vô ích, Hannibal quyết định. Ra-Orkon sẽ không nói nữa. Ta hãy lắng nghe phần băng cháu thu được.
Tất cả bước sang phòng khách. Hannibal cởi phần hoá trang còn lại, đặt máy ghi âm trên bàn, cho quay băng lại, rối ấn nút " đọc".

Lúc đầu chỉ có tiếng nền rất rõ, vì âm thanh vặn tốt đa. Sau đó, nghe tiếng thì thầm không rõ.

- Thưa bác giáo sư, bác có hiểu không ạ? Hannibal hỏi, ngay sau khi nghe giọng nói của chính cậu kêu tiếng "ái!" vang dội.

Ông Yarborough, có vẻ khá xúc động, lắc đầu.

- Thỉnh thoảng hình như bác hiểu được một từ, ông trả lời, nhưng bác không chắc lắm. Hình như là một ngôn ngữ của vùng Cận Đông, cổ đại hoặc hiện đại, và người giỏi nhất vùng Californie này để thông dịch là giáo sư Freeman, mà bác đã nói cho các cháu nghe rồi đó.

Ông Yarborough chỉ ra cửa sổ; phía bên kia vực hẻm ngôi nhà trắng của giáo sư Freeman, vẫn còn thấy được trong hoàng hôn.

- Giáo sư Freeman quen với bác, và ở gần đây,- Ông Yarborough nói tiếp. Gần theo đường chim bay, vì muốn đi qua đó, phải đi xuống vực hẻm rồi leo lên lại. Nhưng nếu tài xế của các cháu chịu chở chúng ta đi, thì sẽ không mất quá 10 phút để đến đó. Các cháu có muốn đi ngay bây giờ không? Chúng ta sẽ nhờ cậu Freeman nghe băng ghi âm này và cho biết ý kiến. Mặc dù không tin câu chuyện của bác, nhưng cậu ấy cũng đã đồng ý giúp bác rồi.

Hannibal cho rằng cách làm như vậy xuất sắc. Giáo sư gọi ngay Wiggins đến.

- Wiggins à, tôi đi cùng 2 cậu này sang thăm giáo sư Freeman. Anh ở nhà nhé. Nếu có chuyện gì bất thường, anh gọi điện thoại ngay cho tôi.

- Vâng thưa ông.

Ba phút sau, giáo sư Yarborough, Hannibal và Bob ngồi trong xe đi đến nhà giáo sư Freeman. Trời gần như đã tối hẳn. Wiggins quay trở vào bếp, nơi anh đã bắt đầu đánh bóng nồi niêu xoong chảo. Anh tiếp tục công việc. Bỗng có tiếng động nhẹ vang lên từ phía bên ngoài.

Mặc dù không nghe tiếng động nữa, nhưng Wiggins đứng dậy, cầm lấy cái mã tấu thuộc bộ sưu tập của ông giáo sư, rồi bước ra phòng bảo tàng. Tại đó, mọi thứ có vẻ bình thường. Nắp quách nằm đúng chỗ của cửa sổ, mà lúc nãy Wiggins đóng kín, vẫn còn đóng. Wiggins mở một cửa ra, rồi bước ra hiên. Đột nhiên một giọng nói khàn khàn vang lên bên tai anh. Wiggins hết sức căng thẳng, quay gót lại, ánh mắt hoảng hốt.

Ngoài vườn, các lùm cây động đây nhẹ. Wiggins hươ mã tấu lên để tự vệ. Một hình bóng kỳ lạ xuất hiện: thân người, đầu chó, mắt nảy lửa nhìn chằm chằm vào Wiggins.

Wiggins tái mặt.

- Anubis! Wiggins nghẹn nhào nói. Thần đầu chó!...

Anubis, vị thần đáng sợ của Ai Cập Cổ Đại, tiến lên một bước rồi chỉ ngón trỏ vào mặt Wiggins, khiến anh bỏ rơi vũ khí và ngã xuống đất bất tỉnh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 12-11-2012 12:13:29 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8

MẮC BẪY


Chiếc Rolls dừng lại ngay trước cây cầu nhỏ nối liền gara nhà giáo sư Freeman, xây trên bờ dốc của vực hẻm, với con đường núi, khá hẹp ở nơi đó. Ngôi nhà nằm ở phía dưới.

- Các cậu ơi - Warrington nói, tôi không thể nào đậu ở đây được. Bất kỳ thằng lái ẩu nào có thể làm trầy mui xe nếu quẹo đột ngột ở khúc cua này. Tôi phải chạy trở xuống một chút, có chỗ làm đường rộng làm sẵn để đậu và ngắm quan cảnh,
Warrington rất tự hào về chiếc Rolls cũ và chăm sóc xe y như là xe mình.

Giáo sư và 2 cậu thám tử bước xuống xe, leo lên cầu thang xi măng dọc theo gara dẫn đến nhà. Khi bấm chuông, chính ông Freeman ra mở cửa.

- Rất vui được gặp bác, bác Yarborough à - Ông nói. Mời vào.

Nhà Ai Cập học không phí nhiều thời gian để giải thích cho vị đồng nghiệp trẻ tuổi rằng ông mang đến băng ghi âm thâu lại tiếng thì thầm của xác ướp.

- Không thể tin nỗi! Freeman kêu lên. Ngồi xuống đi. Chúng ta sẽ nghe thử ngay, và xem tôi có dịch lại được lời nói của ông già Ai Cập kia không.

Phòng làm việc của ông Freeman đầy sách vở, dĩa và máy nghe dĩa mà ông dùng để nghiên cứu ngữ văn học. Ông có rất nhiều máy ghi âm.

Ông Freeman đặt cuộn băng vào một máy. Tiếng thì thầm khàn khàn vang lên, được khuếch đại rất lớn. Nhưng rất tiếc, sự tò mò say mê của nhà ngôn ngữ văn học nhanh chóng chuyển thành sự thắc mắc, rồi sự thất vọng.

- Xin lỗi! Freeman nói. Tôi không hiểu được từ nào hết. Có lẽ là do tiếng nền quá mạnh. Nhưng tôi vừa mới mua một loại máy chống nhiễu, hy vọng là sẽ loại trừ được tạp âm. Để xem như thế? nào.

Ông Freeman rời khỏi phòng, rồi trở về cùng một cái máy nhỏ mà ông gắn vào máy ghi âm khác.

Đó là hy vọng cuối cùng. Tất cả mọi người chuẩn bị lắng nghe.

***


Đúng lúc đó, phía bên kia vực hẻm, xe tải nhỏ của Thiên Đường Đồ Cổ dừng lại trước nhà giáo sư Yarborough. Trời tối om. Chỉ có một cửa sổ sáng đèn.

- Hình như không có ai hết - Hans đang lái xe nói.

Peter nhảy xuống đất.

- Chắc là Wiggins phải có ở nhà chứ? Peter nói. Lúc em gọi điện cho chú Warrington, anh biết là xe Rolls có điện thoại mà, - chú ấy trả lời là chú ấy chở giáo sư, Babal và Bob sang bên kia vực hẻm để gặp một ai đó, nhưng sẽ trở lại đây. Em sẽ vào chơi với chú Wiggins và chờ mọi người.

- Được, Hans đồng tình. Vậy thì anh về. Tối nay Konrad và anh đi xem phim.

Xe tải nhỏ ra về. Peter bước xuống theo lối đi để bấm chuông ở cửa lớn.

Peter vừa bước đi vừa nghĩ đến cuộc gặp gỡ với bà Banfrỵ Bà Banfry, người thấp nhỏ khoảng 50 tuổi - dự đoán của Bob trúng được về một điểm - đã tỏ ra là một người nói chuyện rất nhiều, nhưng rốt cuộc nội dung không có bao nhiêu. Chú mèo quý Abyssinie của bà, thuộc một giống mèo rất hiếm ở Hoa Kỳ, đã bị mất tích hơn một tuần naỵ Khác với đồng loại, chú mèo Sphynx rất hiền lành và quá tin người. Bà Banfry sợ nó bị bắt cóc. Nhưng Ba Chàng Thám Tử Trẻ, đã tìm ra được con két của cô Waggoner, có thể sẽ trả lại được cục cưng cho bà Banfry.

Peter khó khăn lắm mới lái câu chuyện trở về đúng hướng. Cuối cùng Peter cũng xin được nhận dạng của con mèo: bộ lông xám khói, chân trắng, và chi tiết đặc biệt - nhất là đối với con mèo giống Abyssinie, bởi vì giống mèo này thường có mắt màu vàng hoặc cam - mắt hai màu khác nhau, một mắt xanh và một mắt cam.

Bà Banfry nói rõ rằng trường hợp này đôi khi xảy ra. Tất nhiên, khuyết điểm này không cho phép Sphynx tham dự các cuộc thi mèo, nhưng ngược lại làm cho nó có vẻ thông suốt mọi việc một cách khá đáng sợ: có thể tưởng như nó có thể hiểu tất cả những gì người ta nói xung quanh nó và nó có thể trả lời được nếu thích.

Ngoài ra, sự khác biệt đặc trưng màu mắt đã làm cho chú mèo Sphynx được đăng hình chân dung trên báo! Thậm chí, bà Banfry còn đưa cho Peter xem một ảnh màu gốc: đó là một chú mèo xám khói khoẻ mạnh và xinh đẹp, có hai chân trước trắng tinh và màu mắt khác hẳn nhau làm cho nó có một vẻ bí ẩn.

Sau khi thu thập được những thông tin này, Peter nhanh chóng từ giã bà Banfrỵ Cuối cùng, cậu đã quyết rằng nhiệm vụ của mình là đi thách thức xác ướp cùng với bạn.

Khi Peter bấm chuông cửa nhà ông Yarborough, không có ai trả lời hết. Sau khi bấm chuông lần thứ 2, Peter đẩy cửa bước vào.

- Chú Wiggins ơi! Peter gọi. Chú đang ở đâu vậy?

Im lặng.

- Có ai ở nhà không?

Không có tiếng động nào.

Peter bước ra phòng bảo tàng. Cửa mở, đèn chùm sáng trưng, quách đóng kín. Tất cả có vẻ bình thường. Bức tượng thần Anubis đứng ngoan ngoãn đúng vị trí.

Tuy nhiên, Peter cảm thấy hơi khó chịu. Cậu cảm thấy ớn lạnh tủy xương sống, mà không có nguyên nhân rõ rệt.

Một cánh cửa dẫn ra vườn đang hé mở, Peter bước ra ngoài hít thở không khí buổi tối trong lành. Hoàng hôn đang hoà lẫn vào màn đêm. Không có cơn gió nào làm rì rào lá cây. Peter càng lúc càng cảm thấy rùng mình khó chịu hơn. Sao Babal và mấy người kia không chịu đến nhanh hơn một chút?

Chỉ có một việc để làm: gọi điện thoại chiếc xe Rolls và hỏi chú Warrington xem có chuyện gì. Peter vừa mới quyết định như vậy, thì cậu nghĩ là cậu nhìn thấy một vật gì đó bị bỏ rơi trên sân hiên. Theo bản năng cậu đến gần xem. Đó là một cái mã tấu cũ xưa bằng đồng, dường như xuất phát từ trong bảo tàng ông giáo sư. Peter cúi xuống để lượm vũ khí lên. Đúng lúc đó, có tiếng động vang lên phía sau. Peter quay lại đột ngột. Bụi cây động đậy. Tim Peter đập nhanh hơn. Đột nhiên, một con vật nhỏ phóng ra sân hiên, rồi đến cạ vào chân Peter, kêu gừ gừ thích thú.

- Một chú mèo! Peter nhẹ nhõm cười lớn tiếng. Chỉ là một chú mèo!

Peter bỏ mã tấu xuống đất, rồi ẵm con mèo lên. Đó là một chú mèo xám mập mạp, rất dễ thương. Nó vẫn kêu gừ gừ nhè nhẹ khi Peter xém thả nó ra vì ngạc nhiên: nó có một con mắt màu cam và con kia màu xanh.

- Đó là Sphynx! Peter nghĩ ngaỵ Đó là con mèo của bà Banfry mà mình đã tự tìm ra một mình mình. Babal sẽ rất tức khi biết rằng mình đã giải quyết được vụ con mèo mất tích, mà không nhờ đến trí thông minh cao siêu của cậu ấy.

Peter quá vui mừng qua mặt sếp được một lần, đến nỗi cậu không ngạc nhiên về sự ngẫu nhiên dẫn con mèo của bà Banfry đến vườn nhà ông Yarborough. Peter quay lưng lại với vườn, định mang con mèo vào nhà. Ngay lập tức, cậu cảm thấy hai chân bị chụp lấy và cậu ngã về phía trước. Con mèo thoát khỏi tay Peter và chạy vào bụi cây.

Kẻ lạ ôm chân làm Peter ngã nhỏ hơn Peter, nhưng đánh nhau dũng cảm và quyết liệt. Peter phải mất vài giây mới thoát ra được và nhận mặt kẻ tấn công mình: đó chính là cậu bé Peter đã bắt gặp trong vườn sáng nay.

Peter xoay ngươi thật mạnh, quay người lại và lăn vào đối thủ, nó vặn vẹo người dữ dội nhưng vô ích. Peter bẻ cong cánh tay nó ra phía sau lưng và giữ yên. Rồi giữ nó thật chặt, Peter ngồi xuống trước mặt thằng bé.

- Mày là ai? Peter hỏi. Mày làm gì ở đây? Tại sao mày tấn công tao?

Thằng bé da ngâm đen, mắt đen cố cầm những giọt nước mắt tức giận.

- Các người ăn cắp ông cố Ra-Orkon! Cậu bé thét lên. Rồi anh định lấy cắp con mèo của em. Nhưng em, Hamid thuộc bộ lạc Hamid, mạnh hơn anh.

Peter tròn mắt.

- Đừng đùa nữa! Peter trả lời. Anh mà ăn cắp ông cố Ra-Orkon à? Mặt anh thế này mà đi ăn cắp xác ướp à? Còn con mèo của em nữa? Đó không phải là con mèo của em, mà là mèo của bà Banfrỵ Mà anh không hề ăn cắp nó. Chính nó đến kết bạn với anh.

Cậu bé nước ngoài nhíu mày.

- Anh không ăn cắp ông cố Ra-Orkon sao?

- Mà thậm chí anh không biết em nói về ai nữa. Nếu là xác ướp kia, thì tại sao em lại gọi bằng ông cố? Mà nó đâu có bị ăn cắp. Nó nằm trong quách 3000 năm nay.

Cậu bé lắc đầu.

- Ông cố bị ăn cắp. Hai người đàn ông ăn cắp khi không có ai ở đây.

- Người ta đã ăn cắp Ra-Orkon! Peter la lên. Thật không?

- Thật! cậu bé nghiêm trang trả lời. Hamid thuộc bộ lạc Hamid không bao giờ nói láo.

Peter liếc nhìn về hướng phòng bảo tàng. Quách có vẻ còn nguyên vẹn. Nhưng người ta có thể lấy xác ướp ra, mà không để lại dấu vết gì. Vụ này càng lúc càng phức tạp hơn.

- Hamid, em nghe đây: tất cả những gì anh biết là xác ướp nói chuyện với giáo sư Yarborough và bọn anh đang tìm hiểu tại sao. Hay em, em giải thích cho anh nghe tại sao xác ướp lại thì thầm?

Hamid có vẻ ngạc nhiên.

- Ông cố Ra-Orkon thì thầm hả? Em không hiểu. Đó là vụ bí ẩn lớn.

- Em nói rất đúng! Nhưng em có vẻ biết nhiều về vụ bí ẩn lớn này, mà anh cũng biết chút ít, thì ta nên góp chung lại để cùng nhau giải quyết nó. Em hãy bắt đầu kể cho anh nghe em làm gì ở đây lúc sáng nay.

Peter vừa nói vừa suy nghĩ rằng nhờ may mắn và Hamid, có thể cùng lúc cậu sẽ giải quyết được cùng lúc 2 vụ bí ẩn: vụ con mèo và vụ xác ướp. Peter sẽ thắng Babal!

Cậu bé da nâu có vẻ phân vân. Được một hồi cậu bé nói.

- Anh sẽ vinh dự được Hamid thuộc bộ lạc Hamid tin tưởng anh. Anh để cho em đứng dậy, rồi chúng ta sẽ nói chuyện.

Peter thả cậu bé tù nhân của mình ra, rồi đứng dậy phủi quần áo. Hamid cũng làm y hệt như vậy. Sau đó, cậu bé quay sang khu vường tối tăm, nói chuyện bằng một thứ ngôn ngữ lạ.

- Em gọi con mèo - cậu bé giải thích. Hồn của ông cố Ra-Orkon sống trong con mèo và sẽ giúp chúng mình tìm lại được xác ướp.

Hai cậu chờ, nhưng con mèo không thèm xuất hiện.

- Anh đã nói với em là con mèo này là con mèo của bà Banfry - Peter nói. Nó tên là Sphynx. Nó có hai con mắt màu khác nhau, bộ lông màu xám khói và hai chân trước trắng. Không thể nhầm được.

- Có, Hamid trả lời. Có nhầm. Chân trước đen, chứ không trắng. Đen giống như chân ái miêu của ông cố Ra-Orkon được ướp xác cùng ông.

Peter gãi đầu. Rất đúng: Peter quên kiểm tra màu chân. Nên rất có thể, Peter nhầm con mèo của thằng bé này là con Sphynx. Nhưng dù sao cũng lạ thật: đi tìm một con mèo có hai con mắt khác nhau, rồi lại gặp phải một con khác!

- Chuyện này để giải quyết sau - Peter nói. Bây giờ hãy đi xem xác ướp còn đó không. Peter bước vào phòng bảo tàng. Hamid đi theo sau. Cả hai cùng mở nắp quách lên. Quách trống không.

- Đi mất rồi - Peter kêu. Xác ướp này không những nói chuyện mà còn đi chơi nữa!

- Các anh người Mỹ làm cho ông cố em bị bắt cóc! Cậu bé nước ngoài tố cáo.

- Không, Hamid à. Bọn anh hoàn toàn không biết gì về vụ bắt cóc. Bọn anh chỉ thử tìm hiểu xem tại sao xác ướp lại nói chuyện. Thành ra tốt hơn hết là em cho anh biết những thông tin mà em nắm được; anh cũng sẽ nói cho em nghe những gì anh biết, như vậy chúng ta sẽ hiểu được một phần nào đó.

- Em đồng ý, Hamid trả lời sau khi do dự một hồi. Anh muốn biết gì?

- Trước hết anh muốn biết tại sao em gọi cái xác ướp 3000 năm tuổi bằng ông cố!

- Ra-Orkon là tổ tiên của bộ lạc Hamid! Cậu bé hãnh diện giải thích. Cách đây 3000 năm, vua chúa xứ Lybie đi sang cai trị xứ Ai Cập. Ra-Orkon là một ông hoàng vĩ đại. Ông bị giết chết vì ông tốt và công minh. Ông được chôn cật bí mật để kẻ thù không phá ngôi mộ của ông được. Gia đình dòng họ Ông đã trở về Lybie và bây giờ tên là Hamid.

- Phù thuỷ Sardon tiết lộ tất cả chuyện này cho ba em. Phù thủy nói ba em rằng ông cố Ra-Orkon đi sáng xứ man rợ và sẽ không bao giờ ngủ yên giấc, nếu không được chôn cất đàng hoàng. Ba em bị bệnh, nên ba em gởi Ahmed Bey, quản gia, và em, con trai trưởng, để mang ông cố Ra-Orkon về.

Hamid ngưng nói để thở. Mặc dù không thích gọi là man rợ, nhưng Peter không phản đối và bắt đầu có ý niệm rõ rệt hơn về tình hình. Chính giáo sư Yarborough đã nói đến một nhà buôn thảm tên Ahmed đòi lấy xác ướp. Bị đuổi khéo, có lẽ ông đã nghĩ đến cách thức ít đứng đắn hơn...

- Vậy là sáng nay em lảng vảng nơi đây để định ăn cướp xác ướp.

- Giáo sư man rợ không chịu trả ông cố của em, Hamid nói, mắt sáng rực. Nên Ahmed và em quyết định ăn cắp ông cố. Em phải trả lại sự an nghỉ cho ông. Ahmed giả làm người làm vườn và trả tiền cho người làm vườn thật để làm thay họ. Họ mừng, Giáo sư không biết gì hết. Có ai nhìn người làm vườn bao giờ. Ahmed khéo lắm.

- Vậy thì ra lúc sáng nay, chính tên lưu manh Alfred tóm lấy em! Peter la lên.

- Không phải lưu manh. Không phải Alfred. Mà là Ahmed! Ahmed Bey, quản gia của dòng họ Hamid? Ahmed bảo em cắn Ahmed. Giáo sư không biết tiếng ả Rập của Lybie. Em cắn Ahmed, Ahmed thả em. Tất cả bị lừa.

Phải mất vài giây, Peter Cremtch mới hiểu ra rằng người làm vườn trung thành thật ra là một nhà buôn thảm không trung thành, rằng giáo sư Yarborough đã lầm tưởng tiếng ả Rập của Lybie là một thứ phương ngữ Phi Luật Tân, rằng hai tên đồng lõa định ăn cắp xác ướp đã bị những tên bất lương khác đi trước. Peter vẫn còn đang suy nghĩ, thì Hamid la lên:

- Anh có nghe không? Có xe tải dừng lại trên lối đi.

Hai cậu chạy ra cửa sổ nhìn phía lối đi. Hai tên vẻ mặt đáng sợ đang bước xuống một chiếc xe tải. Chúng đi về phía sân hiên.

- Cũng 2 tên đó! Hamid nói khẽ. Chúng ăn cắp ông cố. Em nhìn thấy chúng. Chúng khiêng một gói lên xe cách đây khoảng nửa tiếng. Khi đó em đi xem quách thấy quách trống không. Bây giờ chúng trở lại.

- Dường như chúng đi đến đây, không biết chúng định làm gì, Peter lầm bầm.

- Chúng ta trốn đi - Hamid nói. Có thể chúng muốn ăn cắp một cái gì khác. Ta trốn sẽ nghe được chúng nói gì. Sẽ biết chúng giấu ông cố ở đâu.

- Sáng kiến xuất sắc. Nhưng anh không thấy chỗ nào bọn mình có thể trốn, ngoại trừ vô lùm cây...

- Vậy thì không nghe gì hết! Nhanh lên. Vào trong quách trốn. Không ai có thể đoán chúng ta ở trong đó.

- Phải, Peter thừa nhận.

Cậu bé Lybie đã băng qua phòng và đang chui vào trong quách.

- Có chỗ - cậu bé khẽ nói. Anh lại đây. Linh hồn Ra-Orkon sẽ phù hộ anh.

Lời nói như thế này không làm cho Peter an tâm chút nào. Nhưng Peter không được do dự. Hai tên kia đang bước ngoài sân hiên. Cả hai cùng kéo nắp quách về phía mình, trở về vị trí cũ. Hai cậu đã chú ý chừa lại một khe trong góc để có thể thở và nghe những gì người ta nói.

Hai cậu vừa mới sắp xếp xong, thì cánh cửa mở ra. Tiếng bước chân nặng nề vang lên.

- Mày có dây không Joe? Có tiếng người hỏi.

- Này! một giọng khác trả lời, cũng thô tục như giọng đầu tiên. Mày biết không Harry, tao nghĩ khách hàng này chế giễu chúng ta. Đáng lẽ nó phải nói ngay từ đâu nó muốn gì. Đằng này bắt mình quay lại, chỉ vì cái bao bì! Tao nghĩ trong điều kiện như vậy, ta nâng giá lên!

- Đồng ý, Joe à - giọng đầu tiên trả lời. Ta sẽ cố gắng lấy tối đa... Đưa dây lại đây đi.

Peter và Hamid buồn rầu thấy quách nhanh chóng bị nhấc lên khỏi mặt đất và cột lại. Nếu hai cậu không chừa lỗ hở để thở, thì đã bị ngạt thở chỉ trong vài phút.

- Chúng trở lại để lấy quách, Hamid nói nhỏ. Ta làm gì đây?

Trong bóng tối, Peter trả lời:

- Tốt hơn hết là không nên động đậy. Bọn mình sẽ nhận dạng khách hàng bí mật của bọn chúng. Ngay khi khách hàng mở thùng ra, mỗi đứa chạy trốn một ngả.

- Hamid không bao giờ sợ, cậu bé Lybie tuyên bố, nghiến răng lại.

- Anh cũng vậy - Peter nói khẽ.

Nhưng Peter không yên tâm lắm khi hai gã đàn ông khiêng quách lên để mang đi.

- Vụ này nặng wá! Joe cằn nhằn.

- Tao cũng không ngờ - Harry trả lời. Hò dô!

Bị lắc lư bên này, bên kia, cuối cùng quách cũng được đặt lên xe tải.

- Lên đường! Giọng khoẻ nhất nói. Tao không hiểu tại sao có người lại cần đến một cái xác ướp và một cái thùng gỗ cũ.

- Có người thích sưu tầm đồ tầm bậy, giọng kia trả lời. Dù sao, nó phải trả cho mình hai chuyến đi. Mình chở hàng về nhà và mình chỉ giao hàng nếu nó đồng ý trả tiền. Nếu không thì nó sẽ không nhận được gì hết!

Đùng! Cửa xe đóng lại. Xe tải nổ máy. Peter và Hamid bị nhốt trong quách và đang đi đến một nơi không biết.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 12-11-2012 14:26:03 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9

NHỮNG PHÁT HIỆN BẤT NGỜ


Giáo sư Freeman nghe băng ghi âm lần thứ 20 và tiếng thì thầm của xác ướp vang lên khắp phòng khách. Giáo sư Yarborough, Hannibal và Bob đang chờ đợi ý kiến của nhà bác học.

- Thỉnh thoảng hình như tôi hiểu được một từ - cuối cùng giáo sư Freeman nói.

Ông ngừng máy ghi âm lại và mời giáo sư Yarborough một điếu xì gà.

- Bây giờ - Ông Freeman nói, bác hãy giải thích làm thế nào bác có được băng ghi âm này. Và bác hãy cho cháu biết chi tiết về vụ Anubis rơi và vụ hình cầu tự lăn.

Ông chăm chú nghe giáo sư Yarborough kể lại. Nhà Ai Cập học chưa kể xong, thì có tiếng chuông reng.

- Xin lỗi - Ông Freeman nói. Có người bấm chuông ở nhà xe. Tôi phải đi mở cửa đây. Mà tất cả chúng ta xứng đáng giải lao một chút.

Ông bước ra. Giáo sư Yarborough nói với hai cậu thám tử:

- Bác đã nói với các cháu mà: nếu có ai hiểu được Ra-Orkon, thì đó là cậu bạn Freeman của bác. Mà dường như bác đã nói rõ cho các cháu biết rằng ba của cậu này làm thư ký cho bác lúc bác tìm ra xác ướp Ra-Orkon.

- Người mà đã bị ám sát ít lâu sau đó phải không ạ? Bob hỏi.

- Phải - giáo sư Yarborough buồn bã trả lời. Nhưng bác không muốn các cháu nghĩ rằng anh ấy chết do một sự nguyền rủa nào đó. Ales Freeman là một người liều lĩnh. Anh ấy đã mạo hiểm đi vào khu phố nguy hiểm thành phố Caire, ngay giữa đêm khuya. Anh ấy đã bị đâm ở đó. Còn con trai anh ấy đã trở thành một trong những chuyên gia ngữ văn học vùng Cận Đông giỏi nhất nước ta.

Ông Freeman trở ra, bưng một mâm đầy ly nước chanh.

- Thành viên của một tổ chức từ thiện đến bán vé số - Ông Freeman giải thích. Bây giờ, chúng ta sẽ vừa uống nước vừa nghe băng ghi âm một lần nữa. Tôi sẽ ghi chép dần dần. Ở đây tôi có một từ điển rất quý hiếm, có thể sẽ giúp chúng ta được.

Một lần nữa, tiếng thì thầm của xác ướp lại vang lên. Ông Freeman dùng một tay lật từ điển, dùng tay kia để ghi chép.
Cuối cùng, ông Freeman đứng dậy, ra cửa sổ, vươn vai, hít thở thật sâu rồi quay sang khách.

- Cháu nghĩ mình có thể làm tất cả những gì có thể làm được, ông nói. Dường như bức thông điệp được soạn bằng một dạng ả Rập rất cổ xưa, một dạng chưa được biết tới cho đến naỵ Tuy nhiên, dường như cháu đã nắm được ý chung. Nhưng phải thú nhận cháu phân vân không biết có nên nói cho bác biết hay không.

- Nói đi! Nói đi! Giáo sư Yarborough nài. Dù có là gì đi nữa tôi cũng muốn biết bức thông điệp này.

- Nếu cháu hiểu đúng hay là đoán đúng, vì thật ra cháu thiếu kiến thức, ý chung là như thế này: " Ra-Orkon ở quá xa nhà. Giấc ngủ của Ra-Orkon đã bị phá. Trời tru đất diệt bất cứ kẻ nào tiếp tục quấy phá. Kẻ đó chỉ được bình yên khi chính Ra-Orkon được yên nghỉ. Ra-Orkon phải được trả về với gia đình, nếu không cái chết sẽ ập xuống kẻ phạm thượng".

Bob Andy khó khăn nuốt nước miếng. Hannibal Jones tái mặt đi rõ rệt. Giáo sư Yarborough có vẻ không hài lòng.

- Tôi chưa bao giờ tin vào lời nguyền rủa đó! Giáo sư bướng bỉnh nói. Bây giờ cũng vậy.

- Bác nói đúng - Ông Freeman thừa nhận. Lời nguyền rủa là không khoa học.

- Cậu có thể nói là hết sức vô lý!

- Cháu chỉ thấy có một cơ may duy nhất để làm rõ vụ bí ẩn này. Bác hãy cho cháu mượn kẻ thích đùa đó vài ngày; có thể cháu sẽ làm cho nó nói rõ hơn. Nếu chúng ta hiểu được nó làm thế nào để nói chuyện - bởi đây là điểm lo ngại nhất...

- Tôi đồng ý với cậu - giáo sư Yarborough nói. Đúng là điểm đáng lo ngại nhất. Nhưng dù sao, tôi rất cám ơn cậu đã cố gắng giúp đỡ, nhưng tôi cũng không muốn để cho một xác ướp đe dọa. Hai cháu thám tử đây sẽ giúp tôi, và chúng tôi sẽ cùng nhau làm rõ vụ này.

Sau khi chào nhà ngữ văn học, ông Yarborough và hai người bạn trẻ trở ra chiếc Rolls mà Warrington đã đậu phía trên kia đường một chút.

- Bác không lầm - Ông Yarborough vừa nói vừa ngồi vào xe, cậu Freeman đúng là người chúng ta cần để dịch lại bức thông điệp. Này Hannibal cháu có giả thuyết nào mới về cách thức Ra-Orkon nói chuyện không? Bác quan tân đến điều này hơn là những câu chuyện về nguyền rủa có thể tưởng tượng ra.

- Cho đến lúc này - Hannibal thú nhận, cháu cảm thấy khó hiểu và cháu chưa có giả thuyết nào trình bày cho bác cả.

- Hóc búa thật! Bob khẽ nói.

Warrington dừng xe trước thềm của nhà.

- Thưa ông giáo sư, chúng ta đến rồi - Warringotn thông báo.

- Không thấy xe tải nhỏ đâu hết - Hannibal nhận xét. Chắc Peter đang chờ trong nhà.

Mọi người bước vào nhà. Bên trong, đèn sáng trưng, nhưng rõ ràng là không có ai hết.

- Kỳ wá, - giáo sư nhận xét. Thường, Wiggins ra đón bác khi bác về tới nhà. Wiggins! Wiggins ơi! giáo sư kêu lớn tiếng.

- Peter ơi! Hannibal la lên. Peter! Cậu có đó không?

Chỉ có im lặng hồi âm.

- Lạ thật - Ông Yarborough nói khẽ.

Hannibal có vẻ lo lắng.

- Thưa bác, cháu nghĩ chúng ta nên lục xét ngôi nhà.

- ý kiến haỵ Ta bắt đầu từ phòng bảo tàng.

Tất cả bước vào phòng bảo tàng. Mọi thứ có vẻ gần như đâu vào đó... ngoại trừ quách đã biến mất.

- Ra-Orkon đi rồi! Bob la lên.

Giáo sư Yarborough lao đến chỗ mà vài tiếng trước vẫn có cái quách. Tại đó có vết cào xước trên sàn nhà. Một chiếc khăn màu xanh dương cuộn lại thành một cục nằm phía sau tủ kính. Hannibal lượm lên ngay.

- Người ta đã ăn cắp Ra-Orkon! Giáo sư nói với vẻ hoài nghi. Vết trầy trên sàn gỗ chứng tỏ người ta đã dịch chuyển quách đi. Nhưng không hiểu ai có thể quan tâm đến xác ướp của bác đến mức như thế? Nó đâu có giá trị thương mại...

Đột nhiên giáo sư nhíu mày lại.

- Biết rồi! Ông la lên. Tên Ahmed gì gì đó! Chính hắn đã ăn cắp! Bác sẽ báo công an rượt theo hắn. Nhưng... giáo sư có vẻ phân vân - nếu nhờ đến công an, thì bác sẽ phải kể tất cả. Báo chí sẽ kể lại rằng xác ướp nói chuyện với bác! Người ta sẽ nghĩ bác ngớ ngẩn!

Giáo sư cắn môi. Ông không biết quyết định như thế nào.

- Uy tín của bác đáng giá hơn xác ướp! Ông khẽ nói.

Bob không có đề nghị gì hết. Hannibal hươ chiếc khăn xanh lên.

- Thưa bác phải có ít nhất hai người mới khiêng quách đi nổi - Hannibal nói. Tên Ahmed đó - nếu đúng hắn là thủ phạm - phải có một tên đồng lõa nữa. Điều này có lẽ được xác nhận bởi sự hiện diện của chiếc khăn này. Công nhân thường có khăn giống như vầy. Mà cũng có thể không là ông Ahmed? đó, mà là một người khác mang xác ướp đi.

- Bác không hiểu gì nữa hết! ông Yarborough vừa nói vừa lấy khăn lau trán. Xác ướp bắt đầu nói chuyện với bác, rồi sau đó lại biến mất. Bác không còn hiểu nổi nữa.

Đột nhiên, ông la lên:

- Còn Wiggins! Chúng ta đã quên Wiggins mất! Anh ấy có ở đây mà. Hy vọng bọn cướp không hại anh ấy.

- Trừ phi chú Wiggins làm việc cho bọn cướp? Bob gợi ý, vì cậu đã đọc nhiều chuyện trinh thám trong đó Wiggins là thủ phạm chính.

- Vô lý! Wiggins làm việc cho bác 10 năm nay rồi và bác hoàn toàn tin tưởng anh ấy. Các cháu hãy giúp bác đi tìm Wiggins.
Giáo sư lao ra hiên. Ông nhìn thấy mã tấu rơi trên sân và lượm lên.

- Đây là một vũ khí thuộc bộ sưu tập của bác - Ông nói. Chắc là Wiggins lấy để tự vệ. Bác e rằng chính anh ấy cũng đã bị bắt cóc. Vậy chúng ta sẽ buộc phải gọi công an, điều này hiển nhiên.

Ông Yarborough sắp vào nhà, thì ông nghe tiếng rên nhẹ từ bụi cây dọc theo bờ sân hiên. Hannibal cũng nghe thấy tiếng kêu và chạy ra ngay.

- Đó là chú Wiggins! Hannibal la lên.

Wiggins đang nằm trên cỏ, hai tay chắp lên ngực. Wiggins thở yếu ớt. Bụi cây đã che giấu anh khỏi mắt Peter và Hamid.

- Người ta đã bỏ anh ấy ở đây - giáo sư nói. Anh ấy không thể nào ngã trong tư thế này. Dường như anh ấy đang tỉnh lại. Wiggins ơi! Wiggins! Anh có nghe tôi không?

Nhà bác học đang cúi xuống nhìn gia nhân của mình. Mí mắt của Wiggins chớp nhẹ, rồi bất động trở lại.

- Nhìn kìa! Bob đột nhiên la lên khi nhìn thấy một con vật nhỏ đang đứng liếm lông trong bụi cây. Con mèo! Miêu miêu! lại đây nào!

Con mèo đến cạ ngay vào bàn tay mà Bob đưa ra. Bob ẳm nó lên.

- Lạ quá! Bob nói. Nó có một con mắt màu xanh và con kia màu cam. Cháu chưa bao giờ nhìn thấy một con mèo như thế bao giờ.

- Trời đất! Giáo sư xúc động la lên. Mắt màu khác nhau! Đưa cho bác xem.

Bob đưa con mèo cho ông. Giáo sư xem xét con mèo thật kỹ.

- Mèo Abyssinie có hai màu mắt khác nhau - Ông nói khẽ. Càng lúc càng khó hiểu hơn. Bác đã nói với các cháu rằng lúc Ra-Orkon được chôn, ái miêu của ông cũng được ướp xác cùng ông. Thì đó là một con mèo Abyssinie! Mắt nó màu khác nhau và hai chân trước màu đen. Y hệt con mèo này!

Bob và Hannibal nhìn. Đúng vậy. Con mèo có hai chân trước màu đen hoàn toàn.

- Có thể Wiggins sẽ giải thích cho chúng ta vụ bí ẩn này, nếu anh ấy tỉnh lại - giáo sư nói. Wiggins, anh bạn ơi, anh nói đi! Anh hãy kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra!

Wiggins mở mắt ra nhìn chủ, nhưng không thấy. Hai con ngươi giãn to ra không có cảm xúc gì cả.

- Wiggins! Chuyện gì đã xảy rả Nhà bác học hỏi. Ai lấy cắp Ra-Orkon? Nhà buôn thảm hả?

Wiggins cố gắng để nói.

- Anubis - Wiggins hoảng sợ nói nhỏ. Anubis...

- Sao! Anh nói rằng Anubis, thần đầu chó, đã lấy cắp xác ướp Ra-Orkon à?

- Anubis... anh ta lập lại.

Rồi Wiggins nhắm mắt lại. Giáo sư đặt tay lên trán Wiggins.

- Anh ấy bị sốt - Ông Yarborough nói. Phải chở anh ấy đi bệnh viện.

Warrington giúp đưa Wiggins lên xe, rồi chở đến một bệnh viện tư của một người bạn ông giáo sư Yarborough. Khi giao Wiggins cho bệnh viện xong, hai thám tử trở về bộ tham mưu.

- Này Babal ơi - dọc đường Bob nói, cậu không nghĩ con mèo này có liên quan gì đến chuyện Ra-Orkon biết mất chứ?
Chú mèo nằm trên chân của Bob kêu gừ gừ nhẹ.

- Liên quan hả? Mình chắc chắn là có liên quan. Mà mình rất muốn biết là liên quan như thế nào, - thám tử trưởng trả lời.

- Còn Peter, đâu rồi? Bob hỏi. Bọn mình không có tin tức gì của Peter.

- Đúng! Hannibal giật mình kêu lên. Chúng ta nên gọi điện thoại ngay cho bà Banfry.

Chiếc xe Rolls sang trọng có điện thoại trên xe, nên thực hiện được dự định này rất dễ. Rất tiếc! Bà Banfry trả lời rằng Peter đã đi từ lâu rồi.

Khi đó Hannibal gọi ngay về bộ tham mưu, nhưng không có trả lời.

Chỉ còn việc điện thoại cho chú Titus, chú trả lời rằng Hans đã về nhà khá sớm, nhưng sau đó đi xem phim ngay với Kornad. Xe đạp của Peter vẫn còn đậu trước kho Thiên Đường Đồ Cổ.

- Peter ở đâu? Bob lo lắng hỏi.

- Mình cũng không biết - Hannibal lắc đầu nói. Rõ ràng Peter đi đến nhà giáo sư. Nhưng rồi sau đó chuyện gì xảy ra với Peter? Bí ẩn. Chúng ta sẽ chờ cậu ấy xuất hiện lại. Cậu biết không, mình tin tưởng Peter lắm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 14-11-2012 14:57:55 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10

HAI TÙ NHÂN KHÔNG ĐƯỢC THOẢI MÁI LẮM

Đó là 1 chuyến đi dài. Xe tải nẩy rung lên trên nền đường lót gạch rất đều. Mặc dù nằm sát vào nhau, nhưng Peter và Hamid vẫn bị lắc dữ dội.

Bắt đầu thiếu không khí. Cũng may là khe hở mà Peter đã chừa giữa nắp và quách nằm phía đầu hai cậu, nếu không, hai cậu có thể dễ bị ngạt thở.

Hamid tỏ ra rất dũng cảm, nên Peter buộc phải làm theo.

- Anh nghĩ bọn chúng chở ta đi đâu? Hamid hỏi nhỏ.

Thật ra không cần thận trọng nói nhỏ, vì do tiếng ồn xe chạy, dù hai cậu có la hét hết sức mình, cũng không ai nghe nổi.

- Theo như lời chúng nói - Peter trả lời, chúng sẽ giấu quách ở nhà chúng cho đến khi đi giao hàng, đó sẽ là lúc chạy trốn.

Peter nói một cách tự tin, nhưng trong thâm tâm cậu không hề cảm thấy tự tin chút nào.

Rất có thể hai gã đàn ông sẽ không thèm tháo dây cột quách...

- Chúng nói đi hai chuyến- Hamid nói tiếp. Chúng giận một người nào đó. Nghĩa là sao?

- Có ai đó đã thuê chúng ăn cắp xác Ra-Orkon. Chúng mang xác ướp đi, nhưng chúng thấy quách kềnh quá, nên bỏ lại. Khách hàng giải thích là muốn có có cả cái quách nữa. Chúng đi lấy quách, nhưng chúng quyết định dấu quách trước, để đòi thêm tiền.

- Phải - Hamid nói. Em nghĩ anh nói đúng. Nhưng em không hiểu. Ra-Orkon là ông cố của em, chứ không phải ông cố của ai khác. Tại sao ai lại muốn lấy xác ướp ông cố của em?

- Đó mới là bí ẩn. Bí ẩn xác ướp thì thầm, chắc chắn Bob Andy sẽ đặt tựa cho cuộc phiêu lưu của bọn anh như thế.

- Bob Andy? Bob Andy là ai? - Hamid hỏi.

- Một trong Ba Thám Tử Trẻ.

- Anh giải thích cho em.

Thế là Peter kể cho Hamid câu chuyện về nhóm điều tra do Hannibal Jones thành lập. Cậu bé người Lybie kinh ngạc.

- Khoan đã! Peter la lên. Anh ngu quá. Có máy thu-phát có thể kêu cứu được!

Sau khi vặn vẹo uốn éo người theo chiều này rồi chiều kia, Peter lấy được máy. Sau đó, cậu rút ăngten dấu ở áo ra rồi nhét ra ngoài, từng centimét một, qua khe quách. Cuối cùng Peter nhấn vào nút phát.

- Thám tử phó đây - Peter thông báo. Thám tử trưởng có nghe không? Trả lời đi.

Peter thả nút ra để nghe. Lúc đầu chỉ có im lặng. Sau đó có giọng đàn ông nói, có lẽ là giọng của một tài xế xe tải:

- Tom mày có nghe không? Có ai phát trên đường sóng của chúng ta.

- Có - một giọng khác trả lời. Chắc là thằng nhóc. Này thằng nhóc, mày im đi nhé. Bọn tao đang nói chuyện nghiêm túc đây. Jack, tao nói với mày là tao bị xẹp bánh xe. Tao đang trên đường xa lộ. Thành ra nếu mày...

- Cứu với! Peter ngắt lời. Các chú nghe đây. Cháu tên là Peter Crentch. Nhờ các chú gọi điện thoại cho Hannibal Jones ở Rocky giúp cháu. Đây là trường hợp khẩn cấp.

- Điện thoại gì? Cho ai? Giọng của Tom trả lời. Mày kể gì vậy, hả thằng nhóc?

- Nhờ chú điện thoại cho Hannibal Jones ở Rocky, Peter lập lại. Chú hãy nói rằng Peter đang bị kẹt.

- Kẹt hả? Kẹt ở đâu? Giọng của Jack hỏi.

- Trong một cái quách. Còn cái quách đang ở trên một chiếc xe tải. Cháu không biết xe tải đang chạy đi đâu. Những người lái xe đã ăn cắp xác ướp Ra-Orkon. Hannibal sẽ hiểu. Nhờ chú báo lại giúp.

- Mày nghe không? Jack cười khẩy. Một cái quách trên xe tải! Đúng là phải còn trẻ và không có chuyện gì làm nên mới nghĩ ra những chuyện như thế!

- Cháu xin chú! Đó là sự thật! Chú hãy gọi cho Babal! Peter thét lên.

Sau đó là im lặng. Peter cố tìm, nhưng không tìm ra cách nào để liên lạc lại được.

- Thất bại Hamid ơi - Peter thú nhận. Đáng lẽ anh phải kể mất tiền hay vụ bắt cóc, thì có lẽ họ tin. Còn chuyện một cậu bé bị nhốt trong cái quách, thì khó tin quá.

- Anh đã làm hết khả năng, anh thám tử Peter Crentch à. Ở Mỹ, quách hiếm có. Bị nhốt bên trong cũng hiếm có.

- Em nói đúng. Đó là chuyện 3000 năm mới xảy ra một lần, mà xui cái là xảy ra đúng chỗ anh...

Xe tải vẫn đang chạy. Nếu Hannibal đang ở đây, Peter nghĩ, cậu ấy sẽ không để phí thời gian cậu ấy sẽ suy nghĩ. Ta cũng thử ngồi suy nghĩ xem nào.

- Này Hamid ơi. Em là người Lybie sao mà em nói tiếng Anh giỏi quá. Em làm cách nào vậy?

- Em mừng là em nói tiếng Anh giỏi - Hamid thích thú trả lời. Em có gia sư người Mỹ. Ba em, thủ lĩnh bộ lạc Hamid, muốn em đi khắp thế giới để bán thảm. Nên em học tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha... Anh hiểu không, anh thám tử Peter à. Ở Lybie, bộ lạc Hamid được kính trọng từ nhiều thế hệ lắm. Nhà em mua và bán thảm tốt nhất Phương Đông. Nhưng ba em hay bị bệnh. Cho nên em được đào tạo để thay ba.

- Còn Ra-Orkon, ông ấy có liên quan gì? Em nói là tổ tiên em, nhưng bác giáo sư nói không ai biết gì về Ra-Oron.

- Giáo sư chỉ biết sách, sách và sách, chứ không biết gì nữa hết. Nhiều kiến thức không có trong sách. Cách đây 6 tháng, phù thủy Sardon đến nhà Hamid. Ba em cho Sardon ăn. Sardon lên đồng và nói nhiều ngôn ngữ khó hiểu. Sau đó, thần linh Ra-Orkon nói chuyện qua miệng Sardon.

Ra-Orkon nói ông sắp bị gởi đi đến xứ của những kẻ man rợ da trắng. Sẽ không thể an nghỉ xa quê nhà. Ông là tổ tiên bộ lạc Hamid. Thủ lĩnh bộ lạc Hamid phải cứu ông. Nếu thủ lĩnh bộ lạc sang xứ man rợ, Ra-Orkon sẽ hiện thân dưới dạng một con mèo có 2 mắt màu khác nhau và chân trước màu đen. Khi ấy ba em sẽ hiểu rằng thần linh Ra-Orkon đang phù hộ cho mình.
Sau khi Ra-Orkon nói chuyện xong, Sardon thức tỉnh và không còn biết gì về Ra-Orkon. Phù thuỷ Sardon là một người đàn ông rất già, đi cà nhắc, chột một mắt, tóc dài bạc trắng. Đi chống gậy. Trước khi ra đi, phù thuỷ nhìn vào quả cầu thủy tinh bằng một mắt và nói cho ba em nghe rất nhiều chuyện lạ về quá khứ và tương lai.

- Úi chà! Peter kêu lên - rồi ba em làm gì?

- Gởi quản gia Ahmed sang Caire. Ahmed biết được rằng Sardon đã nói sự thật: xác ướp Ra-Orkon đang ở trong một viện bảo tàng, nhưng sắp đi Hoa Kỳ. Nên ba em phái em, con trai trưởng, và Ahmes sang Californie, đến nhà giáo sư Yarborough để mang ông cố về Lybie. Ahmed cố thuyết phục giáo sư, nhưng không thành công.

- Mà theo anh hiểu, thậm chí giáo sư đã đuổi Ahmed đi thẳng thừng, Peter nói.

- Nên Ahmed giả làm người làm vườn để ở gần xác ướp và lấy đi khi có dịp. Em ở loanh quanh nhà để giúp. Vì vậy sáng nay anh đã bắt em. Bọn em là người nước ngoài, lạ nước, lạ cái, nên phải chuẩn bị kế hoạch thật kỹ.

- Úi chà! Peter kiếp sợ khi nghe Hamid kể. Nhưng sao bọn em không thử mua xác ướp? Có lẽ giáo sư chịu bán nếu bọn em đề nghị thật nhiều tiền.

- Mua tổ tiên bộ lạc Hamid à? Không thể. Không được bán tổ tiên bộ lạc Hamid! Cậu bé người Lybie nghiêm trang trả lời. Chỉ có một hy vọng: ăn cắp xác ướp.

Peter cũng khó hiểu, nhưng cậu nảy ra một ý:
- Hay Ahmed thuê Joe và Harry đi lấy xác ướp? Peter gợi ý. Có thể Hamid làm mà không báo cho em biết.

- Không thể được! Hamid trả lời. Em là thủ lĩnh tương lai của bộ lạc Hamid. Ahmed nói cho em biết tất cả.

- Thì cứ cho là như vậy - Peter trả lời nhưng không tin lắm: Ahmed khôn lắm, có thể ông có những chiến thuật bí mật.

- Thôi - Peter nói tiếp, bây giờ em hãy giải thích tại sao xác ướp lại nói chuyện được?

- Em không biết. Có thể Ra-Orkon giận. Giận em, giận Ahmed, giận giáo sư...

Nghe theo sắc giọng, Hamid có vẻ lo lắng về sự nổi giận có thể xảy ra của xác ướp. Không thể thấy nét mặt cậu bé, vì trong quách tối thui.

- Peter kêu lên. Hình như xe dừng.

Đúng vậy, xe tải đã dừng lại. Một cánh cửa sắt được kéo lên gây tiếng động mạnh. Xe tải lại chạy tiếp, rồi dừng lại hẳn. Có lẽ hai cậu đang ở trong một gara hay một nhà kho nào đó.

Có người mở cửa sau xe. Quách bị kéo, đẩy, nâng, lắc, khiệng, rồi cuối cùng bỏ xuống đất không nhẹ nhàng chút nào.

- Bây giờ yên rồi Joe ơi! giọng Harry nói.

- Không gì phải lo nữa - Joe đồng tình. Sáng mai, ta gọi điện báo cho khách hàng đòi tăng giá gấp đôi. Còn tối nay cứ để đấy đã.

- Ngày mai mình bận rồi. Mình đi làm một vụ Ở Hollywood, mày quên rồi sao?

- Đúng, Vậy thì cứ để họ lo tiếp ngày mai nữa. Đến tối, họ sẽ trong tình trạng mà mình muốn. Khi ấy mình sẽ gọi điện thoại để trình bày quan điểm của mình: trả giá gấp đôi hoặc không giao hàng.

- Hay mình tăng gấp 3 luôn - Harry đề nghị. Các quách này có vẻ quan trọng lắm mà. Thôi đi.

Lại có tiếng cửa sắt, xe tải chạy lui, rồi hai cậu còn lại một mình.

Tim đập thình thịch, hai cậu cố nâng nắp quách lên.

Vô ích. Bọn cướp vẫn để dây cột.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách