Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 3645|Trả lời: 26
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Truyện Ngắn] Tuyển Tập Truyện Ngắn | Nguyễn Thị Châu Giang

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Tuyển tập truyện ngắn của Nguyễn Thị Châu Giang :

1. Đèn Lồng Treo Cao

2. Những ngày cuối năm

3. Chợ Hoa

4. Chuyến tàu tuổi thơ

5. Biển Trên Núi

6. Bữa Tiệc

7. Nhà trọ

8. Mùa của năm

9. Mùa thu vàng

10. Vợ chồng ngâu

11. Vẻ đẹp nước Mỹ

12. Uống cà phê ở Mỹ

13. Những Ngày Hạnh Phúc

14.Bên Bờ Biển  

15.Người đàn ông hát trong chiều

16. Người đàn bà ngồi nhìn tuyết rơi

17. Những người đàn bà cuối năm





Nguyễn Thị Châu Giang không còn là gương mặt lạ trong làng văn và làng vẽ nước nhà. Cầm bút và thành công từ rất sớm, giờ đây, cập kề tuổi tam thập, văn và tranh của Giang cũng lớn dần lên và mang màu sắc thiếu phụ đa đoan ngày càng đậm nét.Nữ họa sĩ trẻ, biên tập viên văn học NXB Kim Đồng, từng liên tục "ẵm" các giải thưởng văn học ở khắp trong Nam ngoài Bắc. Năm 1990, mới 15 tuổi, Nguyễn Thị Châu Giang đã đoạt giải nhì trong cuộc thi Sáng tác và bình luận văn học. Hai lần cô được giải nhất trong cuộc thi Hương đầu mùa (1993 và 1994). Cũng trong năm 1994, cô được nhận giải Tác phẩm tuổi xanh do Báo Tiền phong tổ chức.... Rồi cô được lĩnh giải thưởng cuộc thi sáng tác cho thiếu nhi do NXB Trẻ tổ chức. Tiếp theo, trong cuộc vận động sáng tác cho thiếu nhi do NXB Kim Đồng tổ chức, Nguyễn Thị Châu Giang lại được nhận giải nhờ truyện Tóc ngắn. Một câu chuyện sinh động và đằm thắm về lứa tuổi học trò những năm cuối cấp.Văn Nguyễn Thị Châu Giang hóm hỉnh, dung dị nhưng lại đậm đà những suy tư của một nữ tính hay nghĩ ngợi. Câu chuyện cô kể có nhiều tình tiết dường như lấy từ chính những ký ức thơ ấu vẫn còn tươi rói trong tâm hồn hay rung động và dễ cảm nhận của chính cô. Đọc truyện của cô, độc giả nhỏ tuổi như đang thấy mình, còn người lớn tuổi bỗng dưng ngậm ngùi như chợt thấm thía cái cõi thơ cũ đã quá xa rồi...Rồi cùng năm tháng, văn và tranh của Nguyễn Thị Châu Giang cũng lớn dần lên và mang màu sắc thiếu phụ đa đoan ngày càng đậm nét. Đặc biệt, tập truyện ngắn Trở về tình yêu mới được NXB Phụ nữ ấn hành năm 2004 đã "hội tụ" những trải nghiệm đa chiều của một người phụ nữ giàu khát khao và nghĩ ngợi, biết mọi sự rồi nhưng vẫn muốn làm cho cuộc đời đổi khác: "Em tự hỏi vì sao em lại yêu anh dù biết chuyện tình của chúng mình sẽ không đi đến đâu. Dù trái đất có nhỏ lại thì anh vẫn xa em... Em cứ tự hỏi sao em lại nhớ anh dù biết thế giới rộng lớn này không còn chỗ nào dành riêng cho hai ta..." (truyện ngắn Trở về tình yêu).Dường như khi đã yên bề gia thất, tâm hồn nhiều hứng khởi của Nguyễn Thị Châu Giang lại càng dễ hồi hộp hơn với những tín hiệu đôi khi xa vắng của tình yêu. Cô vẫn không muốn tin rằng, hạnh phúc yên bình của hôn nhân thực sự chỉ ảo tưởng đối với người nghệ sĩ...Trên phương diện mỹ thuật, Nguyễn Thị Châu Giang cũng đã gặt hái không ít thành công. Cô là một trong không nhiều họa sĩ trẻ từng không chỉ một lần được mời đi sáng tác và triển lãm ở nước ngoài. Tranh của cô vừa chân thực vừa dễ gây "chấn động" bởi cái nhìn vừa non xanh vừa bạo dạn vào tình yêu và hạnh phúc. Những gam màu chói chang của cô đôi khi lùa người xem tới những thiên đường không có thực của thị giác, buộc chúng ta phải ngậm ngùi mà cố gắng vươn lên theo những giai điệu vĩ cầm da diết và đôi khi thảng thốt

Thanh Đa


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 14:58:52 | Chỉ xem của tác giả
Nguyễn Thị Châu Giang

Đèn Lồng Treo Cao



Khu vườn bé tẹo, đầy dây dại âm u. Chúng tôi dựa xe vào một gốc mận èo uột với những túm hoa trắng lèo tèo, đi ngang qua vuông sân nhà. Con Lô ốm nhóc nhách hục hặc trong cỏ, đưa mắt nhìn chúng tôi ai oán. Hân đá nhẹ vào hông con Lô lẩm bẩm "Mày lúc nào cũng thế, không khá lên nổi." Rồi tiếp tục ư ử một bài hát vui nhộn. Tôi quay lại cười "Sao hôm nay lạ thế". Hân mủm mỉm "Vừa kiếm được mối làm ăn" và chìa trước mặt tôi tấm giấy đỏ in đầy chữ Tây Tàu xanh đỏ. "Vẽ bảng quảng cáo một hiệu bánh của Tàu". "Rồi sao nữả". "Phải nghỉ học mấy ngày nhưng sống thêm được mấy tháng". Hân lại cười đưa tay cài cúc áo ngực. Tôi nhăn mặt. Tôi không thích Hân thế này. Bụi đời, bất cần. Như thế hợp với Hân nhiều hơn.
Ông giáo đứng đợi ở cửa, áo quần là phẳng phiu, nhưng cũ mèm và tiều tụy. Chúng tôi chào "Thưa Thầy", kéo ghế ngồi lọc xọc. Mỗi lần đến đây học, vào tối thứ bảy, tôi như bị hút vào bàn thờ đặt ở góc nhà. Lúc nào cũng tối tăm, mờ mịt khói. Với tấm hình chụp chân dung người thiếu phụ trẻ nhìn thẳng, mắt to mày dài. Một vẻ đẹp dài dại và lạnh lẽo. Hân bảo "Bà ấy bị điên". Rồi lơ mơ nhìn qua cửa sổ "Như thế lại tốt. Chẳng phải lo gì, nghĩ gì". Tôi cười "Phải không?". Tự nghĩ thầm, chẳng thể nào là phải được. Người ta ít khi nào bằng lòng với bản thân, chỉ thích đứng núi này trông núi nọ và mơ ước những điều rất viễn vông.
Ông giáo viết bài lên bảng, tiếng phấn cạ vào thớ gõ ken két. Hân quay sang hỏi: "Tối nay học xong đi đâu?" "Không, chỉ về nhà". "Vậy cà phê nhé. Có thằng bạn mới mở quán dưới Thanh Ða. Thời buổi này người ta làm ăn kinh lắm". Ông giáo gõ thước lạch cạch "Anh chị đọc đi". Chúng tôi ê a đọc những câu tiếng Pháp, cảm thấy thời gian như dài mãi ra. Và căn nhà này ngày càng trở nên nhỏ bé, thanh bình.
Khoảng bảy giờ Lam vào lớp, mồ hôi nhỏ nhểu nhảo. Thầy hỏi, giọng ấm áp, chậm rãi "Trông anh có vẻ mệt. Bận nhiều công việc lắm à?" Lam mở túi lấy ra cuốn tập nhàu nát dính đầy vệt sơn dầu "Em có một cuộc hẹn Thầy ạ". Hân hấp háy mắt "Với em Ngần phải không?". Lam gật đầu, mặt rạng rỡ, đầy tự tin. Tôi cúi gầm mặt vào hàng chữ nghiêng ngả, tự nhiên thấy cay đắng. Một nỗi chua xót dâng dần trong lòng giống như mình vừa ráng hết sức chạy xong một cuộc marathon, mà khi về đến nơi, mọi người đã về đến đích tự lúc nào. Tôi lắc mạnh đầu. Chuyện tình cảm, yêu đơn phương là một điều thật vô lý và vô vọng. Vậy mà người ta vẫn cứ chạy theo và chờ đợi để làm gì?
Ông giáo ra bài luận "Tả chân dung người bạn của anh (chị)". Hân hớn hở nhìn tôi "Tụi mình tả lẫn nhau nhá". "Không – Lam lắc đầu – tả người mình yêu nhất. Tao muốn tả Ngần". Tôi im lặng. Nếu thế, chắc tôi sẽ tả Lam. Lam tóc quăn, mặt trắng, dáng thư sinh, luôn tỏ ra nhạt nhẽo với mọi thứ. À, nhưng có lẽ bây giờ đã khác. Ngần đến thay đổi tất cả trong Lam. Kể cả ánh mắt thờ ơ đến một mục đích sống không rõ rệt. Tôi lén nhìn Lam, bỗng nhiên thấy chưa bao giờ tội nghiệp Hân thế này. Lúc nào Hân cũng muốn tôi vui. Cho dù niềm vui ấy không mang lại gì cho tình cảm của chúng tôi cả.
Mất điện. Ông giáo mò mẫm đốt cây đèn dầu bé xíu trên bàn thờ, thở dài "Ðợi thêm vài phút, chắc có điện lại". Chúng tôi kéo nhau ra ngồi ngòai sân. Gió thổi như bão. Lá khô rụng cuốn vào sân lào xào. Tôi hỏi khẽ "Ngần đẹp không Lam?" Lam cười "Không đẹp nhưng dễ thương. Mình có vẽ Ngần mấy bức. Hôm nào lại xem". Tôi gượng gạo "Ờ, tất nhiên". Trong bụng lại nghĩ "Tôi ư, chắc chắn là không thể xem được rồi. Anh ngốc lắm, anh chẳng hiểu gì cả". Hân khịt mũi, kéo mạnh áo tôi "Xem kià". Tôi giương mắt nhìn theo hướng Hân chỉ. Ở góc vườn hiện lên một bóng trắng vật vờ. Nom cô đơn, lạc lõng. Nó đi lom khom dưới những tàn cây, tiến lại gần chúng tôi. Hệt như bức chân dung trên bàn thờ, mắt to mày dài lạnh lẽo và ngây dại, cô nhìn chúng tôi cười ngơ ngẩn. Dưới ánh trăng mới lờ mờ tôi mới tin đó là người thật. Cổ họng đắng nghét vì sợ hãi, tôi chụp vội tay Hân "Ai thế". Lam cười nhẹ "Con gái ruột của Thầy". Hân thêm, giọng không tỏ một thái độ Nào "Cô ấy bị điên, điên bẩm sinh, giống như bà mẹ". Cô gái lại cười. Lần này nụ cười có vẻ tỉnh táo hơn. Nó như được soi rọi bằng một thứ ánh sáng vô cùng ấm áp lên gương mặt tiều tụy, đờ đẫn của cô. Tôi quay lại. Ông giáo đứng sau lưng, tay cầm ngọn đèn lồng đỏ và cười "Con gái của tôi. Hai mươi lăm tuổi rồi. Vẫn thế", giọng không hề mệt mỏi, buồn bã. Ông giáo cầm tay con dẫn vào nhà. Cô gái đi, ngây thơ như trẻ con. Tôi nhìn theo ứa nước mắt, lờ mờ hiểu ra con người sống với nhau không phải chỉ vì những duyên nợ kiếp trước mà còn vì một chữ tình người ẩn sâu đâu đó tận tâm hồn. Mà đôi khi vì cuộc sống gạo tiền xô đẩy, bỗng trở nên nhạt nhẽo và thay đổi gần hết.


Quán cà phê của người bạn Hân mới mở, sơ sài, lèo tèo khách. Chúng tôi ngồi sát bờ sông, nghe rõ tiếng nước vỗ vào bờ róc rách. Tôi yêu không khí tĩnh lặng như thế. Cảm giác như mình đang lần mò về thời thơ ấu, xa hẳn những ồn ào của thành phố.
Hân nhìn tôi dè dặt "Hiên đi hai tháng rồi . Có thư từ gì không?". "Hiên than buồn - tôi ngọ ngoạy người - Biết sao được… ở nước ngòai đâu cũng thế cả". Chúng tôi im lặng. Trên mặt sông, một đàn dơi bay qua. Chúng mất hút vào đem và không để lại một cái gì.
Lam bảo "Thứ bảy tuần sau mình nghỉ. Mà có lẽ cũng nghỉ luôn. Cả tuần chỉ còn ngày thứ bảy để chơi". "Ừ phải - Hân gật gù - Bây giờ tối thứ bảy cũng phải kiếm sống. Dù sao cũng nên nói với Thầy một tiếng". Tôi nhìn ra sông chán ngán. Phía bên trái, cầu Bình Triệu lô nhô những bóng đèn xe bé xíu. Kinh thật, cuộc sống thì vĩ đại đến thế, mà con người li ti như kiến, luẩn quẩn loanh quoanh không thể định hướng được cuộc đời của mình. Họ bám đuôi nhau, cắm cúi hòa mình vào những bon chen của cuộc sống. Chúng tôi ngồi đây, vẫn đau đớn nhận ra mình đang bị chìm dần trong dòng lũ đó.
Tôi khẽ thở dài, những người như con gái của ông giáo, có lẽ Hân đã đúng phần nào, khi cho rằng họ đã thật hạnh phúc. Cô như một chiếc đèn lồng treo cao, sống trong cuộc sống đó mà tách rời tất cả. Vô tư, ngơ ngác. Cảm nhận về cuộc sống với cô, vẫn mãi chỉ là cái tình nơi người cha già của mình mà thôi.
Mấy tuần sau tôi đến lớp học một mình. Ông giáo vẫn chỉnh tề trong bộ quần áo cũ, say mê giảng cho tôi những bài tập đọc vỡ lòng cảm động. Tôi ngồi nhìn qua khung cửa sổ bé tẹo, lâu lâu lại thấy con gái Thầy đi qua, tay cầm chiếc đèn lồng, mặt mày ngơ ngẩn và thanh thản. Tôi nghĩ, giờ này chắc Lam đang đèo Ngần lang thang qua các phố có nhiều cây và người. Còn Hân đang gò lưng hòan thành nốt bảng hiệu bánh Tàu xanh đỏ. Ðể ngày kia vào lớp, mặt võ vàng "Vừa nhận thêm mối mới. Ðành phải nghỉ thêm mấy ngày nữa để sống thêm được mấy tháng".
Rồi cuộc sống những ngày sau nữa vẫn chỉ tiếp theo như vậy.
Học thêm hai tuần, tôi xin nghỉ. Ngày xưa tôi đến lớp vì có Lam. Hoặc vì tôi luôn muốn giết thời giờ bằng những công việc khởi sự từ sự tò mò. Cuối cùng thì đã chẳng có gì níu chân tôi lại.
Ngày giáp Tết, Hân chở tôi đến thăm Thầy. Cây mận èo uột đậu vài chùm trái teo quắt. Một người đàn ông ngồi tỉa lá mai, nhìn chúng tôi dò xét. Hân hỏi, nhã nhặn "Thưa ông, chủ nhà này đâu ạ?". Người đàn ông cau có cắm mặt vào những móng tay đen sì: "Tai nạn giao thông. Chết từ hồi Noel. À, con gái hả? Vào nhà thương điên lâu rồi".
Tôi bủn rủn tay chân. Không khóc, không nói được. Chỉ thấy như mình đang bồng bềnh trôi trên một dòng nước không có bến đậu.
Buổi tối, tôi tắt đèn, mở cửa trông xuống đường. Về khuya Sài Gòn yên tĩnh hẳn. Một vẻ bình yên rất thật lòng. Trong mơ màng, tôi lại nhìn thấy bóng trắng nhỏ bé của con gái thầy tôi, bơ vơ giữa những tòa nhà bệnh viện, đi tìm chiếc đèn lồng bằng giấy màu đỏ. Chiếc đèn lồng bằng giấy mà có lần tôi đã thấy thầy nâng niu treo lên đầu nhà vào đêm Trung Thu. Một ngôi nhà ẩm mốc và cũ kỹ. Từ nơi đó, tôi đã học được câu tiếng Pháp vỡ lòng đầu tiên trong đời đầy vui sướng. "Bonjour monsieur. Comment çavả" Chào thầy. Thầy khoẻ không ạ?

Nguyễn Thị Châu Giang
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 15:03:00 | Chỉ xem của tác giả
Nguyễn Thị Châu Giang

Câu chuyện ngày cuối năm


Trời đã bắt đầu lạnh cắt da cắt thịt. Buổi chiều muộn lại thấy một lớp băng mỏng phủ trên hè phố, cống rãnh. Cứ chỗ nào có nước thì sẽ có một lớp băng xám mỏng manh và rất dễ vỡ như thế, tạo thành những tiếng loạt soạt trên khắp lối đi. Quê lau hai bàn tay dính đầy máu vào chiếc tạp dề treo ở tấm bảng gỗ rồi mặc áo khoác, quấn khăn, đội nón bước ra ngoài, sau khi dặn Othenlo nhớ khóa cửa trước khi về. Trông Quê lúc này giống một con gấu xám to béo và xù xì với khuôn mặt hiền lành của một đứa con nít. Quê rẽ qua toa-lét, ngắm mình trong gương một chút và cố gắng nhét mớ tóc quăn chỉ chực xổ tung ra vào lại trong chiếc mũ dạ. Một con bé tóc hung mặc juýp ngắn đi tất len màu đen suýt đâm sầm vào Quê. Nó cau mặt, chui tọt vào một góc, rút thuốc ra châm lửa rồi khạc nhổ ầm ĩ như ở chỗ không người. Nhìn nó, Quê lại nhớ hồi mới vô trường, cô cũng học đòi như thế cho ra vẻ dân nghệ sĩ của thành Pari hoa lệ. Nhưng chỉ được vài ngày thì thấy chán, thấy cuộc sống vẫn tiếp tục vô vị nhạt nhẽo lại tốn tiền quá nên thôi.
Hành lang tử phòng học dẫn ra sân chính đã bắt đầu thắp đèn, những cái đèn vàng tròn xoay lắp trên đầu những tượng thần bằng thạch cao gắn lơ lửng trong các hốc tường. Mỗi lần đi qua đây, Quê không khỏi cảm thương cho kiếp đội đèn của các vị thần. Sự cam chịu và sầu não đông cứng trong những cơ bắp cuồn cuộn và đường nét thanh tú trên khuôn mặt họ. Sự sầu não đó trong những ngày mưa ướt át và ảm đạm lan sang cả Quê. Cô thường đến trường với bộ mặt dàu dàu và bị bọn bạn chọc quê với cái tên “Chổi ướt”.
Ở ngoài cổng Quê gặp nhóm sinh viên nam lớp trên ăn mặc lôi thôi lếch thếch, tóc tai dài thậm thượt và phun khói thuốc lá như những đầu tàu. Một thằng trông thấy Quê liền huýt một tiếng sáo chói tai. Hắn nhào tới và làm như vô tình phả một luồng khói khét lẹt vào mặt Quê: “Ê, Chổi ướt, về sớm thế? Tối nay đi với bọn anh không? Có party ở nhà thằng Chanes...”. Cả bọn quây lấy Quê chọc ghẹo, tuồng như cô vừa từ trên trời rớt xuống với mặt xanh nanh vàng quái dị. Nhưng như thế này dễ chịu hơn, Quê nghĩ thầm. Chứ hôm đầu vô trường, bọn sinh viên chỉ nhìn Quê bằng con mắt lạnh lẽo có phần khinh miệt. Chúng không tin một đứa con gái châu Á da vàng mũi tẹt lại có quyền đặt chân lên mảnh đất thánh vốn chỉ dành riêng cho chúng. Điều này nhiều lần làm Quê suýt mất bình tĩnh. Cho đến một ngày bức tranh của Quê được treo trang trọng trong phòng triển lãm của trường, bọn chúng mới kiêng dè Quê hơn một chút. Bây giờ Quê đã có thể ngước đôi mắt mí lót đen láy của mình lên, nhìn thẳng vào chúng và cười nụ cười của Đức Mẹ: “Xin lỗi, tối nay tôi bận rồi”. Cô quay lưng vội vã bỏ đi. Hai ống tay dài thõng thượt xuống tận đầu gối. Cái túi bằng vải nỉ đeo trước bụng có lẽ nặng lắm nên cả người cô cứ chúi về trước, nom khổ sở hết sức.
*
* *
Tan sở lúc sáu giờ chiều, Tam mới sực nhớ hôm nay là thứ sáu. Theo lịch, chiều thứ sáu Tam không phải nấu cơm mà sẽ ghé qua quận Mười Ba, vào quán Hoà để dùng một tô phở nóng, một tô xí quách và hai li rượu nếp than. Trời rét cắt da cắt thịt. Băng vỡ lạo xạo dưới giày Tam. Chỉ cần nghĩ đến tô phở và những cái xí quách to tướng bám đầy thịt vớt ra từ thùng nước lèo. Tam đã thấy nóng ra cả mặt. Tam nhìn đồng hồ, chí ít thì cũng phải một tiếng nữa Tam mới có mặt ở đó.
Trong toa tàu điện ngầm vẫn còn thưa khách nên Tam chọn ngay được một chỗ ngồi. Nhưng đến trạm Lees Halis thì người đã ngồi đầy trên các ghế và đứng chen chúc ở bất kì chỗ nào còn trống trên sàn toa. Tam nới cổ áo để cho dễ thở hơn. Anh muốn ngủ một chút nhưng tiếng ồn cứ âm ỉ bên tai khiến anh không tài nào chợp mắt được. Anh lấy tờ báo ra giả vờ đọc kì thực là để quan sát những gương mặt đang bao quanh lấy anh lúc này đây. Bọn họ đều ra vẻ thờ ơ với thế giới xung quanh để toan tính một chuyện riêng nào đó của mình trong cái nhăn trán, nhíu mày đầy suy ngẫm. Nhưng chỉ cần anh chuyển động người một chút là người đàn ông béo ị đội mũ nồi đỏ ngồi trước mặt sẽ nhìn anh để dò xét và cho hai tay vào túi quần để giữ chặt cái bóp tiền ngay lập tức. Hoặc bà già khô đét như một con cá khô có cái mái tóc giả màu tím ngồi sát cạnh Tam sẽ thu tay ôm chặt cái túi da căng phồng vào trong lòng. Tam cười khẩy, tôi thừa biết các người nghĩ gì rồi. Vì màu da vàng của tôi, vì đôi mắt một mí màu đen và vì cái mũi tẹt của tôi mà các người mới sợ hãi đến thế phải không? Đừng có vơ đũa cả nắm như thế. Thốt nhiên Tam thấy quá chừng là buồn bã. Mình không thể trách họ được, vì dạo gần đây có rất nhiều vụ trộm cướp, trên các chuyến tàu điện ngầm do dân Châu Á và Ả Rập gây ra. Những tin tức loại này đăng nhan nhản trên khắp các báo.
Tam xuống sớm một trạm. Anh nghĩ mình nên đi bộ để lát nữa ăn ngon hơn. Chân Tam vẫn đạp trên băng lạo xạo. Người Tam nóng dần lên. Chỗ ghế đá trong công viên nhỏ, dưới một cây phong trơ trụi, một ông già trùm tấm mền rách đang ngồi chơi violon. Những bản nhạc run rẩy vì những ngón tay già nua run rẩy. Trong chiếc mũ dạ để trước mặt, lá vàng nhiều hơn tiền xu người ta bố thí cho ông. Khung cảnh này làm Tam nhớ đến công viên Luxembourg một ngày mùa thu chín ủng và mọng nước, có ông già ngồi gõ hết bản nhạc này sang bản nhạc khác trên chiếc piano cũ mèm. Lâu lắm rồi Tam không ghé qua công viên kể từ khi chia tay Nathalie. Người ta chỉ đến đó khi có đôi có cặp. Và rất có thể sau đợt nóng hổi tháng bảy vừa rồi, ông già chơi piano, cũng như rất nhiều ông già bà cả khác, đã vĩnh viễn không còn ra đó nữa. Tam lắc đầu thật mạnh, tưởng như để làm văng hết kỷ niệm ra ngoài cho nhẹ nhõm bớt. Quái quỷ, Tam cáu kỉnh nghĩ, hôm nay là ngày gì mà mình uỷ mị thế. Thật không đúng là mình chút nào.
*
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 15:05:43 | Chỉ xem của tác giả
* *
Hai người gặp nhau ở đầu đường. Đúng ra là Quê nhận ra Tam trước. Cái dáng lêu đêu, hai vai suôn đuột và mái tóc hoe chĩa ngược cứng như một bụi cỏ khô của anh. không thể lẫn vào đâu được. Quê bỏ bao tay vẫy anh bằng những ngón tay nhỏ xíu có những móng đỏ hồng. Cô cười, hai mắt tít lại:
- Chào anh. Anh khỏe không?
- Cảm ơn em, anh vẫn thường. Công việc của em ra sao?
- Cảm ơn anh, vẫn vậy thôi.
- Chà, năm nay rét nhỉ. Chỗ em người ta đã bật máy sưởi chưa”
- Dạ chưa. Năm ngoái cuối tháng một họ mới bật kia.
Đó là những câu xã giao thông thường họ vẫn nói với nhau mỗi khi gặp mặt. Mỗi tuần gặp nhau một lần vào chiều thứ sáu, những câu hỏi khô khan đó không bao giờ thừa vì một tuần có thể xảy ra biết bao chuyện cho sức khỏe, công việc, tình cảm...
- Em phải cẩn thận đó. Thời tiết này dễ bị bệnh.
- Dà...
Họ bước vào quán. Không khí ấm sực mùi hành trần mùi bánh phở trụng và mùi nước lèo. Ông chủ Trần hồ hỏi chạy ra: “A, anh Tam. Đến hẹn lại lên đấy à” rồi quay sang Quê, mặt cau lại. “Sao cô đến muộn thế?”. Quê ấp úng: “Cháu kẹt bài ở trường”. Ông Trần giục: “Nhanh chân lên, khách đang đợi kìa. Buổi nào cũng kẹt bài thế thì còn làm ăn cái gì nữa”. Quê tất tưởi đi vô trong thay tạp dề, vừa đi vừa nghĩ, gớm cái ông Trần này có khách nào đâu mà bảo khách đang đợi. Chỉ muốn làm khó cho mình thì có.
Tam chọn một cái bàn kê sát cửa sổ. Quê cũng vừa bước ra, cổ đeo tạp dề trắng, mái tóc quăn vấn cao trông rất nữ tính hỏi: “Anh vẫn dùng như cũ chớ?” Rồi không đợi Tam trả lời, cô biến vào bếp rất nhanh. Chẳng cứ gì cô, mà ngay cả ông chủ Trần cũng rất rành tính anh. Hôm nay ông bê nguyên cả chai Mai Quế Lộ tới và ngồi xuống bàn cùng Tam. Tam ngó quanh, hỏi: “Hôm nay rảnh dữ hả ông Trần. Chiều thứ sáu mà cũng vắng thế này sao?” Ông Trần gọi với vào trong: “Nhớ làm tô xí quách đặc biệt cho cậu Tam nghe mày”, rồi nhướng mắt ngó Tam: “Cha, cậu cả này, ở Tây lâu quá riết thành Tây rồi hả? Hôm nay ngày gì cậu đoán thử coi”. “Ngày gì ông Trần?” Tam thờ ơ hỏi. “Cậu cứ đoán thử đi”. Tam nhún vai, im lặng có vẻ không thích trò đánh đố này lắm. Ông Trần bật cười ha hả: “Tôi biết ngay mà, bọn trẻ các cậu chỉ có nhớ mấy cô đầm tóc vàng chân dài thôi. Hôm nay là Ba mươi, Ba mươi Tết ta, cậu hiểu chưa”. “Thì sao?” Tam dửng dưng hỏi.
Khái niệm về Tết ta đối với Tam là một cái gì đó quá đỗi mơ hồ. Gia đình Tam sang Pháp khi Tam còn bé xíu. Những ngày Tết ta gói gọn trong một tô miến, tô măng hoặc một miếng bánh chưng bé bằng vuông bàn tay hấp vội bằng lò vi sóng. Sau khi cha mẹ mất vì tai nạn, bánh chưng hay măng cũng không còn có mặt trong nhà Tam nữa. Anh ăn đồ Tây riết vì nhanh và tiện, chỉ dành mỗi tối thứ sáu để xuống tiệm ông Trần làm tô phở cho đỡ thèm. Tết ta hay Tết tây gì cũng thế, ngủ dậy buổi sáng là thấy mình đã già đi một tuổi. Có sung sướng gì. Nghe anh nói thế, ông Trần nhăn nhó: “Tôi già rụng răng còn chưa nói gì nữa là cậu. Ô là là, các cậu bây giờ mất gốc hết. Nhưng mấy đứa con tôi thì không đâu à nghe. Khuya nay tôi bắt chúng phải tụ tập đông đủ ở nhà. Bận gì cũng phải bỏ. Cứ tính theo mười hai giờ khuya của mình mà cúng tổ tiên thôi. Chà chà, Đêm ba mươi mà...”.
Quê bê phở cho Tam. Cô ngó thấy má anh đã bắt đầu ửng đỏ. Mớ cỏ khô trên đầu có vẻ như đang từ từ ngả xuống. Trông anh ta cũng bảnh đó chớ, dù có hơi khô khan một chút.
- Của anh đây.
- Cảm ơn em - Tam ngẩng lên nhìn Quê. Có lẽ anh đã hơi quá chén, vì hôm nay anh thấy Quê đẹp và dịu dàng lạ thường.
“Quê này, hôm nay tiệm nghỉ sớm. Ngày kia cháu hãy đi làm lại nhé” - Ông Trần bảo Quê. Cô ngạc nhiên hỏi: “Sao vậy bác? Mai thứ bảy là ngày đông nhất trong tuần mà”. Ông Trần nhướng nhướng mắt nhìn Tam tuồng như bảo, đó cậu thấy chưa, tôi nói cấm có sai bao giờ. Tam bảo:
- Hôm nay là Ba mươi Tết ta, cả em cũng không biết sao?
Quê xịu mặt, không nói gì. Cô lẳng lặng kê ghế ra ngồi ngó qua cửa kính. Tam và ông Trần đang bàn cãi chuyện gì ghê lắm, nhưng cô không để ý. Những bông tuyết nhỏ xíu đậu vào cửa kiếng rồi chảy tan thành nước. Lòng Quê rười rượi buồn. Cô tự trách mình sao đuểnh đoảng. Cả năm có một ngày duy nhất mà cũng quên. Hẳn cha mẹ và em trai cô đã mong ngóng điện thoại của cô ghê lắm. Hai năm trước, năm nào Quê cũng canh đúng giao thừa Việt Nam để gọi điện về. Vài ba tháng cô lại gọi về nhưng đêm giao thừa, dường như mọi thứ trở nên thiêng liêng hơn, nên chỉ mới nghe giọng Quê, mẹ cô đã khóc nức nở. Quê tủi thân, cũng nức nở khóc. Hai mẹ con khóc tu tu qua điện thoại, đến khi đầu dây báo tít tít vì thẻ điện thoại hết tiền mới thôi.
Mãi suy nghĩ, Quê không để ý Tam đang nhìn mình chăm chăm. Vừa ăn vừa nghe ông Trần nói chuyện, Tam vừa nghĩ, cô bé Quê lạ thật. Chẳng nhẽ câu nói của mình làm cô ta giận sao. Trông cô ta kìa, mũi cứ nhăn lại, miệng trề ra như sắp khóc vậy. Mình có lỗi gì đâu cơ chứ. Con gái Việt Nam đến là lạ. Cứ thẳng tính như con gái Tây có hay hơn không. Tam băn khoăn mãi cho đến khi ông Trần bảo đóng cửa tiệm và Quê đột nhiên bảo:
- Anh Tam rảnh không, tối nay mình lang thang chút đi.
*
* *
Hai người lặng đi bên nhau một đoạn đường dài. Băng vỡ dưới chân lạo xạo. Gió thổi rít qua tai. Tới cột điện thoại, Quê bảo Tam đợi một chút để cô gọi về nhà. Nhà ở Việt Nam kìa. Tam đợi lâu lắm, lối đâu chừng mười lăm phút mới thấy Quê bước ra, mũi đỏ rựng lên và mắt nhoe nhoét nước. Tam hỏi:
- Ba mẹ em khỏe chứ?
- Em không biết.
- Ở nhà ăn Tết vui không
- Em không biết.
- Có đi đâu chơi xa không?
- Em không biết.
- Sao cái gì em cũng không biết hết vậy? - Tam kinh ngạc kêu lên - Em vừa nói chuyện với họ mà.
- Nhưng em không biết - Quê chớp đôi mắt mọng nước nhìn Tam - Hai mẹ con đều khóc nên có nói được gì đâu
Đấy đấy, lại sụt sịt muốn khóc rồi. Tam ghét nhất là thấy người ta khóc. Mẹ bảo Tam từ lúc đẻ ra cho đến lớn, không bao giờ khóc. Đau hay không vừa ý thì chỉ gào lên chứ cấm không có giọt nước mắt nào rơi ra. Ngày ba mẹ mất cũng vậy. Tam không khóc được, chỉ thấy đau rát ở mắt và ngực. Nhưng với Quê, tự nhiên Tam thấy thương cô quá. Cảm giác muốn được bao dung, che chở cho cô khiến cổ họng Tam đau thắt lại. Tam choàng qua vai cô, âu yếm bảo:
- Nhớ nhà à? Rồi sẽ quen thôi.
Anh định bảo rồi cũng sẽ quen như anh quen sống một cuộc sống không có gia đình vậy. Nhưng lại sợ cô nghĩ ngợi gì nên thôi.
- Giao thừa nhà em vui lắm. Bốn ba con thắp nhang bàn thờ rồi nổ sâm panh, cắt dưa hấu. Năm nào dưa hấu đỏ là năm đó tốt lành - Quê có vẻ vui trở lại. - Mà mẹ em khéo lựa dưa, nên năm nào cũng bổ đúng trái dưa ngon.
- Thế còn đốt pháo thì sao?
- Xưa rồi anh ơi. Cái trò đó giờ đâu còn nữa.
- À vậy cũng mất vui nhỉ?
-Cũng có hơi buồn một chút. Nhưng bù lại người ta cho bắn pháo bông. Bắn tới mười lăm phút lận - Quê hoan hỉ như cô sắp sửa được trông thấy pháo bông bắn lên trời vậy - Sau giao thừa cả nhà đi chùa hái lộc.
- Lộc là gì?
- Ờ, anh không biết thiệt sao? Ờ, mà tại anh rời Việt Nam sớm quá, không biết là phải. Lộc là... ừm...
Tiếng Quê bị át đi trong tiếng gió.
- … Ỏ đây rét quá, cây cối chẳng có tí lộc nào để mà hái, anh nhỉ?
Vì không nghe rõ lời giải thích của Quê nên Tam chỉ ậm ừ, chỉ sợ là mình trả lời lại làm cô cười thêm một trận. Quê líu ríu kể chuyện này sang chuyện kia, làm Tam cuốn theo câu chuyện cũng thấy vui lây. Tam lan man nghĩ, mình thật thiệt thòi. Có những điều tốt đẹp nhường kia mà sao không bao giờ mình có được. Kí ức chỉ là những chuyện đau lòng. Còn những ngày đang sống sao khó khăn vất vả. Đến ngay cả bọn Tây cũng chê mình là khô khan. Ước gì mình có được một chút niềm vui từ Quê, hẳn mình sẽ sống khác đi nhiều.
Quê bỗng dưng đột ngột dừng lại hỏi:
- Anh này, thế đêm giao thừa anh làm gì?
- Có lẽ là đi làm, nếu không phải ngày cuối tuần.
- Thế ba mẹ anh có làm lễ cúng tổ tiên không? Giao thừa như đêm No-el bên Tây, mọi người đều phải tụ họp về nhà. Gia đình anh không vậy sao?
- Họ mất rồi - Tam trả lời, giọng khô khan.
- Em xin lỗỉ - Quê nói khẽ. Cô chủ động cầm tay Tam, bàn tay thô ráp và lạnh. Cái chạm bất ngờ ấy làm Tam kinh ngạc. Chưa bao giờ anh nghĩ sẽ có lúc mình và Quê gần gũi đến mức này.
Họ ngồi xuống một ghế đá trên đại lộ Champs Elisées. Mặt Quê kề sát mặt Tam. Ánh đèn màu từ các quán cà phê soi rõ khuôn mặt tròn nhỏ nhắn và đôi mắt trong veo của Quê. Tam nghe tiếng Quê thì thầm: “Cảm ơn anh. Chúc một năm mới hạnh phúc” và cảm giác một cái hôn nhẹ phảng phất qua má. Một nụ hôn ẩm ướt còn thơm mùi phở làm Tam xúc động quá. Tam muốn hỏi cô cảm ơn anh về cái gì và thật lòng Tam cũng muốn nói cảm ơn cô, nhưng cổ họng nghẹn lại. Lần đầu tiên trong những năm tháng sống không gia đình trên đất khách quê người, Tam thấy mình thật sự muốn khóc./.

Nguyễn Thị Châu Giang

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 15:07:45 | Chỉ xem của tác giả
Nguyễn Thị Châu Giang

Chợ Hoa


Có tiếng kẹt cửa khẽ. Hơi lạnh phủ vào đỉnh đầu buôn buốt. Tôi kéo chăn trùm hết lên đầu như một con cún. Tiếng mợ Nhân nhỏ nhẹ “Út ơi, dậy con. Bốn giờ rưỡi rồi”. Tôi làu bàu “Còn sớm chán. Con ngại lắm.” Mợ xốc bổng tôi dậy: “Con bé này, hẹn người rủ đi xem chợ hoa mà giờ này còn nằm đây. Chị Huế đứng đợi ngoài cửa kia mà.” “Chết" , tôi bừng tỉnh , "hôm nay Chủ nhật hả mợ?” Mợ ngán ngẩm lắc đầu đi ra phòng khách. Tiếng mợ phân trần ồn ã: “Em nó mới ra chưa quen lạnh nên ngại dậy sớm. Cháu thông cảm đợi em nó một chút.” “Vâng ạ!” Tiếng chị thanh nhẹ như tiếng chuông.
Tôi mặc một áo thun cao cổ, một áo dài tay, hai áo len, một chiếc áo dạ dài đến gối lại thêm khăn len quấn đùm đụp quanh mặt mà vẫn thấy lạnh. Chị nhìn tôi cười rũ: “Ôi, trông em như một con gấu bông ấy.” Tôi ngỏn ngoẻn cười. Ngó lại thấy chị chỉ khoác một chiếc áo len mỏng. Tôi ngạc nhiên: “Chị không thấy lạnh à?” Chị so vai: “Còn nhiều thứ khác đáng sợ hơn. Đùa thôi, chị con nhà nông mặc thế là ấm lắm.”
Nhưng chị không phải là con nhà nông. Chị họ Lê, dòng dõi vua chúa, cùng nhánh họ với bà Lê Ngọc Hân. Ông cố ngoại của chị giàu có nhất nhì Hà Thành, nhà cửa chiếm hết một vùng đất lớn sát chợ Hàng Da bây giờ. Dạo trước, ba chị làm tổng giám đốc một công ty trách nhiệm hữu hạn nào đó, nhà chị giàu bạc vạn. Chị sống đời sống của một bà hoàng với những cái đuôi nhũng nhẵng theo sau. Người ta có được chiếc xe đạp Diamăng đã quý, chị có hẳn xe Cub, thậm chí xe ô tô đưa đón. Người ta dè xẻn từng đồng ăn sáng để đóng tiền học, chị có cả bạc triệu để chỉ thuần mua sắm. Nhưng sự đời lúc lên voi khi xuống chó. Công ty vỡ nợ, ba chị vào tù. Ngôi nhà lớn trên phố Đường Thành bị mất. Của cải bán tống bán tháo lấy tiền cho ông được miễn giảm nhưng vô ích. Bốn mẹ con chị chuyển về ở ngôi nhà ẩm thấp và bé bằng hộp diêm trên đường Bưởi. Nhà cứ thế sa sút dần. Mỗi lần tôi ra Hà Nội lại thấy chị hanh hao đi nhiều.
Chị gò lưng chở tôi trên chiếc xe đạp không còn phân biệt màu sắc, mỗi lần nhấn bàn đạp lại kêu lên ken két. Chị bảo “Vui nhỉ, lại được cả nhạc để nghe.” Tôi ôm chặt eo lưng chị: “Em nặng thế này chị chở nổi không?” “Thừa, chị còn thồ được cả sáy bảy chục cân gạo nữa là em. Em xem chị gầy, nhưng hôm nào cũng được tập thể dục nên dai sức lắm.” Ừ, tôi quên mất. Chị bây giờ khác. Bỏ học, chị nhảy từ bà quý phái xuống bà lam lũ một cách dễ dàng, không đau đớn. Buôn thúng bán bưng thêm tiền chợ bây giờ đã là nghề của chị rồi.
“Đến chưa chị?”. Tôi nhấp nhổm. “Còn đoạn nữa.” Gần đến đê gió càng thổi mạnh. Cái loại gió từ sông sao mà buốt giá, cứ thuôn thuốn vào người ta làm nổi đủ các loại da gà da vịt. Chị bảo “Ngày xưa chị cũng hay lên đây. Đó là thói quen duy nhất còn giữ lại được kể từ...”. Chị ngưng lời, thắng xe đánh két: “Tới rồi” và nhảy xuống đất. Tôi ngơ ngác nhìn lên đê, chỉ thấy lố nhố những đám người xám xịt, khăn quấn kín mặt, nón lá sùm sụp trên đầu. “Em có thấy gì đâu?”. “Ngốc ạ, đi theo chị thì thấy.” Chúng tôi lúc lắc trèo lên đê.
Được một quãng tôi đã lạc vào xứ sở thần tiên. Xung quanh bạt ngàn hoa. Buổi sớm, những cánh hoa còn e ấp, mơn mởn tươi. Trong màu xám của trời và đất, của những khối người bán lao xao, màu hoa càng rực lên. Người ta quây thành từng mẹt hồng nhung lớn, từng rổ cúc đại đoá và violet tím thẫm xen kẽ với các loại hoa vườn rồi chuyền tay nhau, đặt lên những chiếc xe thồ hoặc gánh về thành phố. Tiếng nói lao nhao, tiếng cười giòn giã rơi qua màn sương mỏng ướp đầy hương, chảy xuống dòng sông mờ mịt hơi lạnh. Tôi không thể hình dung được một vài giờ nữa, những tiếng cười sẽ biến thành những tiếng thở mệt nhọc trên khắp đường phố hà Nội.
Tôi bảo: “Đẹp quá chị ạ.” Chị cười, dẫn tôi đi dọc các hàng hoa: “Đẹp cũng chỉ để ngắm thôi mmạ” “Nhưng có ích chứ chị.” “Người ta xấu đẹp gì muốn sống có ích thì cũng dễ dàng thôi.” Chị nói “Em có vẻ không tin.” Mấy bà ngồi sắp hoa vào thúng nhìn chị Huế, bỏm bẻm: “A, cô Huế. Lại dẫn khách Sài Goòng đi chơi à?”. “Vâng.” Chị quay sang giải thích: “Mấy người bạn chị ở trong kia ra thế nào cũng phải lên đây.” Tôi tiếc rẻ: “Đáng lẽ phải mang bảng vẽ lên đây.” Chị xoa đầu tôi: “Còn ở đây dài ngày, lo gì.” Chị nhìn tôi thăm dò “Lại đằng nhà bạn chị chơi nha."
Nhà bạn chị Huế nằm sát mé sông. Một quán nước lợp bằng mái tranh với mấy bộ bàn ghế gỗ đen kịt, vài lọ kẹo lạc và một bà già mặt đầy nếp nhăn, lần mò ngồi đan một chiếc khăn quàng lớn màu mận chín. Chị chào: “Bác ạ” và kéo tuột tôi vào trong. Căn phòng tối lờ mờ, chỉ toàn mùi ẩm và mùi sơn dầu. Giọng người đàn ông ồm ồm cất lên: “Huế à?”. Ngọn đèn vàng bật sáng soi rõ người đàn ông ngồi sau bàn đội chiếc mũ len với cục bông đỏ chót trên đỉnh như một anh hề. Một người đàn ông với chiếc miệng cười duyên dáng chìa chiếc răng khểnh sau bộ râu quai nón rậm rịt. Xung quanh tường, treo dày đặc tranh. Chị Huế giới thiệu: “Đây là em của Huế ở trong kia ra”. “Rất hân hạnh.” Anh chìa tay mời tôi ngồi. Trên tường, có những bức tranh khá đẹp. Cái lớn nhất độ khoảng sáu ô gạch hoa ghép lại. Anh phân trần: “Mình chẳng có đủ màu để vẽ.” Tôi trịnh trọng: “Cái khó mới ló cái tài.” Tôi cảm giác tất cả các bức tranh anh vẽ đều có môt tông màu hơi u ám. Tôi thích nhất bức anh vẽ cô thiếu nữ ngồi tựa cửa sổ, mắt đầy nước. Hai bàn tay thon dài đặt trên đùi như sắp cử động. Khuôn mặt bị chìm một nửa trong bóng tối rất quen thuộc. “Đấy là bức tươi nhất của phòng tranh.” Tôi nhận xét. “Em thấy rất quen.” Anh cũng đồng ý: “Anh và chị Huế cũng thích nó nhất”, miệng mỉm cười ý nhị.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 15:14:01 | Chỉ xem của tác giả
Anh quay lại chị Huế: “Sao lâu không thấy Huế lên chơi. Bà cụ nhắc mãi.” Chị che miệng cười: “Chỉ bà cụ thôi à?”. Anh lảng “Huế này, hồi bữa có mấy thằng Tây đòi mua bức tranh này nhưng anh không bán. Mấy bức tranh khác trả rẻ nhưng mình túng nên đành phải bán.” “Anh đã ra triển lãm riêng chưa?”. Tôi chen ngang. “Chưa có tiền đâu em.”
Tôi lẩm nhẩm: “Tiền là tiên là phật. Là sức mạnh tuổi trẻ.” Gớm thật, bây giờ muốn làm việc gì lớn cũng phải có tiền.
Chị Huế đứng dậy: “Thôi Huế về đây.” Anh nhìn chị đau đáu “Sớm thế?”. Chị gằm mặt: “Còn phải chở hàng nữa chứ?”. “Anh quên mất.” Anh chìa tay cho tôi bắt. Tay anh ấm và mềm mại. Mắt anh cũng buồn như mắt chị Huế.
Anh bảo: “Anh không ra tiễn nhé.” Chị lặng lẽ gật đầu, lặng lẽ cầm tay anh và lặng lẽ bước ra ngoài. Chúng tôi vòng xuống đê. Những gánh hàng hoa đã tan. Trên đường vương vãi những bông hoa giập hết lá nom thật thảm. Một vầng mặt trời trắng nhạt như chiếc bánh tráng treo lơ lửng trên nền trời đã hơi ấm hồng lên một chút.
Tôi bảo: “Anh ấy nhìn hay nhỉ.” Chị vẫn cắm cúi đạp. Nhìn điệu e ấp của chị, thật không thể là bạn thường. Tôi lại nói to: “Chị với ảnh nhìn đẹp đôi lắm.” “Anh ấy bị liệt sau một tai nạn. Không có tiền nên không giải phẫu được” - chị nói khẽ. Còn tôi nghĩ mình nghe lầm nên hỏi lại: “Ai tai nạn cơ?”. “Anh Nguyên. Không có tiền mời bác sĩ giỏi. Không có tiền thuốc thang. Bây giờ chỉ ngồi một chỗ. Anh ấy tài lắm.”
Tôi thấy nhột nhạt nơi cổ. Tôi ôm chặt chị an ủi: “Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn chị a.ï . Chị quàng tay ra sau, siết lưng tôi: “Vớ vẩn. Ôi con bé này vớ vẩn quá đi mất.” Tôi nghe giọng chị nói đến khúc cuối thì nghẹn đi mất.
Tôi đi thực tế hai tháng trên Tây Bắc. Cùng với mấy đứa bạn lang thang khắp Sapa, Bắc Hà, quên bẵng mất ở Sài Gòn mình có một ngôi nhà ấm cúng với ba mẹ, và người yêu đang chờ mình. ngày tháng ở đây mù sương nhưng lại là những mãng màu đậm không thể quên được trên bảng màu vốn lợt nhợt của tôi.
Buổi trưa về đến Hà Nội tôi phóng thẳng đến nhà chị Huế. Cửa đóng then cài. Đợi mãi mới thấy thằng em chị Huế ra mở cửa, mũi đỏ tấy như quả nhót vì lạnh, khệ nệ xách cái làn to. Nó thông báo: “Chị Huế đi lấy chồng từ đầu tháng rồi, chị ạ" Tôi tái mặt: “Sao nhanh thế?”. “Em không biết.” Nó hục hặc ho: “Bây giờ em phải vào bệnh viện với mẹ em.” Nó leo vụt lên chiếc xe đạp cũ kỹ chị Huế thường đi thồ gạo, nhón người đạp xe đi mất, không kịp để tôi hỏi câu gì.
Mợ Nhân kể: “Con Huế tới đây đưa thiệp cưới cứ khóc ròng. Khổ thân, nó lấy chồng để trả nợ cho ông bà già, chứ có yêu đương gì. Nghe bảo nó yêu thằng nào dưới bến sông...”. “Vâng, con biết.” “Con biết à?” - Mắt mợ sáng lên. Tội nghiệp, bản năng người phụ nữ trong mợ lúc nào cũng mạnh mẽ. Bắt gặp ánh mắt của tôi, mợ lúng túng: “Thì tao cũng chỉ hỏi cho biết.” “Chị ấy ở đâu hả mợ?”. “Sài Gòn. Nhà này, phố này. Con vào tìm chắc gặp được nó.”
Tôi lóc cóc đạp xe ra bến sông. Trời Hà Nội đã ấm hơn. Cây cối cũng bớt xanh hơn. Thật tình Hà Nội chỉ đáng đam mê khi mùa đông tới. Nhưng mùa đông đã qua rồi. Nước mắt tôi tự nhiên nhòe nhoẹt chảy. Trên đê vắng hoe. Chiều, nắng vắt những dãi vàng nhạt trên vệ cỏ, trên những cánh hoa bị bầm giập từ sáng. Thỉnh thoảng mới có một người gánh hàng đi qua, mắt cắm xuống đất, chưa nhoi nhói đi không để ý gì đến xung quanh.
Tôi xuống quán nhà anh Nguyên. Bà cụ vẫn ngồi đan chiếc khăn len to tướng màu mận chín dù đã hết mùa đông. Trong quán nồng mùi thuốc lào. Một ông già ngồi tựa cột, đầu lắc lư theo điệu nhạc ông tưởng tượng trong đầu. Tôi hỏi: “Anh Nguyên có nhà không ạ?”. Bà đáp: “Ra bến sông rồi”, không ngẩng đầu lên. Tôi ra bến, thấy anh ngồi trên xe lăn, mặt quay ra hướng nam. Tôi vui vẻ “Chào đồng nghiệp.” Anh quay lại. Suýt nữa tôi không nhận ra anh. Bộ râu quai nón được cạo gọt cẩn thận, để lộ khuôn mặt hình trái xoan. Tính theo tướng số, con trai như thế là không hợp cách. Mắt anh rạng rỡ nhưng một ánh mây đen đã vội vàng bay tới bao phủ. “A, chào em. đi thực tế có vui không?”. “Vui chứ.” Tôi liến thoắng kể chuyện, cười đùa. Chỉ sợ dừng lại một chút là tôi hoặc anh sẽ bật khóc lên mất.
Chúng tôi về nhà. Tranh trong phòng anh đã hạ xuống xếp đầy một góc. Trên tường chỉ còn treo bức chân dung người thiếu nữ với đường nét quen thuộc mà vì bóng tối lờ nhờ không làm tôi nhận ra ai được. Anh bảo: “Chị Huế đấy”. Tôi chúi đầu lại gần. Lúc này tôi mới nhận ra. Chị Huế thật. Nhận ra cả những vầng ánh sáng hạnh phúc tỏa ra từ đôi mắt đẫm ướt của chị, từ nụ cười mủm mỉm của chị. “Chị Huế đi rồi nhưng chị ấy không xa anh” - Anh tâm sư “Chị ấy là một cô gái tuyệt vời. Anh phục và yêu chị ấy.” “Em cũng vậy.” Tôi nói thế và tự hỏi, có bao giờ tôi dám hy sinh hạnh phúc riêng tư của mình để làm một việc có ích không? Im lặng một lúc rồi tôi bảo: “Chị ấy cũng yêu anh. Còn em, em rất phục anh.” Tôi thấy lòng mình trào lên một cảm giác khó tả, chạy lên mũi cay xè.
Tôi đạp xe chậm rãi trên đê, chỉ sợ cán phải những bông rớt trên đường. Màn đêm đã buông xuống, nhấp nháy những vì sao như những chiếc đinh bằng kim cương. Ven sông lờ mờ những vạt cải trổ hoa vàng. Tôi rùng mình vì gió, nhủ thầm, mai tôi phải lên đây thật sớm, như hôm nào chị đã dẫn tôi đi, và mua một bó violette mang vào tặng chị. Chị sẽ ôm nó vào lòng, sẽ mỉm cười tư lự, mắt đẫm ướt như bức tranh treo ở nhà anh Nguyên. Rồi chị sẽ bảo: “Chị hạnh phúc lắm em ạ. Mọi thứ đến như giấc mơ đẹp đã qua chỉ còn là kỷ niệm. Bây giờ mình phải sống vì hiện tại và tương lai phải không em?”
Hệt như tôi giờ đây, những ngày tháng vừa qua đã đang trôi dần vào kỷ niệm
NGUYỄN THỊ CHÂU GIANG

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 15:18:18 | Chỉ xem của tác giả
Nguyễn Thị Châu Giang

Chuyến tàu tuổi thơ


"Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ... "
(Robert Rojdestvensky)
Những người đàn ông ngồi xuống một chiếc ghế bằng gỗ dưới mái hiên. Những con tàu đã rời gạ Những đám người đưa tiễn và những đám người đi đã rời gạ Trên sân chỉ còn lại những ngọn đèn dầu nhỏ hắt những cái bóng tròn như trứng vịt xuống đất. Mấy bà bán hàng ngoẹo đầu ngủ, vùi mặt trong những tấm khăn bông xám.Vẳng lại xa xa tiếng róc rách như tiếng nước chảy từ rô-bi-nệ Người đàn ông trải báo xuống ghế và ngả người nằm ngủ, một chân gác lên chiếc bị lác căng phồng, đầu kê lên chiếc túi mầu xanh nước biển. Một lát đã nghe tiếng ngáy nhè nhẹ. Khi tiếng nước róc rách ngưng lại, từ phía sau bức tường ngăn bầu trời đầy sao với sân ga, một cậu bé bước ra. Mái tóc cậu phủ dài qua mắt, xoăn thành từng món nhỏ. Trong bóng đèn mờ mờ, chỉ hình dung như cậu nhỏ con và trắng trẻo. Cậu đi qua những dãy quán, chân bước nhẹ nhàng như lướt trên đất, tay thọc sâu trong túi. Cậu dừng lại dưới cột đèn cao áp, gõ chân nhịp nhàng theo một điệu nhạc nào đó, đảo mắt nhìn quanh rồi bước tới chỗ nằm của người đàn ông. Cậu dùng hết sức kéo bật chiếc giày ra khỏi chân anh ta, miệng nở một nụ cười tinh quái. Người đàn ông ngồi bật dậy, tiện chân hất cái bị xuống đất làm những quả ổi xanh văng ra, cáu kỉnh. Cái thằng này, mày làm cái gì thế. Cậu bé cúi lượm một quả ổi lên lau cho đến khi nó bóng lưởng rồi cắn một miếng nhai rau ráu, thong thả hỏi lại, thế ông làm cái gì ở đây thế? Kinh ngạc đến cực độ, miệng anh cứ há hốc ra. Cái cách thằng bé kéo chiếc giày, cái cách nó cắn ổi quá đỗi quen thuộc. Thậm chí cái câu nó hỏi cũng làm anh lờ mờ nhớ đến một khung cảnh xa xưa, trong một buổi sáng yên lành, anh cũng đã bật ra một câu hỏi như thế với một người đàn ông đến từ xa lại. Anh hắng giọng, tự nhiên thấy lòng chùng lại. Nào, ngồi xuống đây. Cháu con cái nhà ai mà đêm hôm khuya khoắt còn ra đây chơi? Cậu bé không ngồi xuống, lấy từ trong túi ra một tờ giấy gấp tư, chìa trước mắt anh. Tôi đi bán vé tuổi thợ Nó liếc anh một cái rất nhanh. Bán vé đi tuổi thợ Thế ông có muốn trở về thế giới tuổi thơ không? Là sao? Anh bật cười. Tôi như thế này làm sao trở về tuổi thơ được. Nhưng ông có thật sự muốn không? Cậu bé nhìn như xuyên qua người anh, vẻ không để ý đến ý châm chọc của anh. Nó mở tờ giấy. Anh đọc được những dòng chữ mầu đỏ "Vé đi tuổi thơ" viết loằng ngoằng như chữ trẻ con, phía dưới đóng một cái dấu xanh hình chiếc lá nằm phía góc trái. Cậu bé sốt ruột nhìn đồng hồ. Anh nheo mắt cười, thôi được rồi, cho tôi một vé đi tuổi thợ Khi anh cầm chiếc vé trong tay, xa xa có tiếng còi tàu vọng lại. Bóng tối loãng dần, một con tàu tiến lại gần. Anh hơi nhỏm dậy. Con tàu quét sơn xanh nước biển với những cửa kiếng mầu vàng và cửa sắt mầu chàm hình ô-van rất đẹp. Lúc dừng lại ga, không có hành khách nào bước xuống. Cậu bé kéo tay anh. Nào, chúng ta đi thôi. Anh rời ghế, bước đi lững thững theo cậu bé. Lúc quay nhìn lại, anh vẫn như nhìn thấy mình đang nằm gối đầu ngủ trên ghế gỗ. Anh lắc đầu thật mạnh. Và mọi thứ chậm chạp tan đi.
Trong toa đã khá đông hành khách. Trên mỗi ghế đều có một đứa nhỏ ngồi cặp với một người đứng tuổi. Gái theo gái. Trai theo trai. Trong tay họ nắm chắc những chiếc vé có dấu hình chiếc lá xanh. Một hoặc hai người ngẩng lên cười với cậu bé và người đàn ông vẻ thân thiện. Còn hầu như tất cả những người khác đều đã ngủ saỵ Cậu bé và người đàn ông chọn chỗ ngồi sát ô cửa sổ. Ở đây nhìn thấy một vầng trăng bằng vảy trấu vàng và vô vàn những vì sao xám bạc. Chúng cứ lần lượt trôi qua trên nền trời tím thẫm với những đám mây mầu hồng nhạt. Gió thổi khe khẽ, lùa qua ô cửa mùi lúa đòng đòng ngọt ngào, mùi rơm khô ngái và mùi phân trâu bò ải mục. Cậu bé bảo, bây giờ ông nhắm mắt ngủ đi. Lúc nào đến nơi cháu sẽ gọi. Nhưng ông nhớ không được nói một tiếng nào, kể cả với tôi, dù thấy bất kỳ chuyện gì nhé. Nếu không, ông sẽ bị đá văng ra khỏi quá khứ ngaỵ Anh gật đầu, hỏi, thế tên cháu là gì? Như tên của ông ấy. Cậu bé nháy mắt láu lỉnh. Nhưng lúc đó tiếng tàu chạy êm êm tựa như tiếng hát ru của bà anh từ ngày thơ vọng lại đã làm anh ngủ, ngủ rất saỵ Mái tóc xoăn cứ bệt thành từng món nhỏ trên trán, xòa xuống che khuất cả hai mắt. Miệng anh nhoành ra thành một nụ cười.
* * *
Lúc giật mình mở mắt ra, anh đã thấy mình đi dọc theo con đường nhỏ phủ đầy cỏ. Bóng cậu bé thấp thoáng đằng trước mặt. Trời trong đến nỗi anh như thấy cả những bọt không khí đầy mầu sắc bay lượn tung tăng. Mùi hương của những bông cúc dại tỏa ra ngào ngạt. Anh muốn ngồi nghỉ một lát nhưng cậu bé đã ra hiệu cho anh đi tiếp. Họ đi qua đồng cỏ dại, đi qua những mô đất ẩm với những con bọ đang cong đít đùn lên những viên đất tròn và mịn. Họ đi đến bờ sông. Đất ở bờ sông trơn trượt. Trên bãi cỏ còn đọng đầy sương, dưới một tán cây mầu ngọc bích, một ông lão đang ngồi câu cá. Trước mặt ông, vầng dương đang lên hồng rực. Chiếc phao bạc thở phập phồng trên mặt nước. Nghe tiếng động, ông lão quay lại. Anh gần như ngã chúi xuống vì kinh ngạc. Đó chính là ông nội của anh. Ông đã mất từ năm anh mười lăm tuổi. Vậy mà giờ đây ông lại hiện ra bằng xương bằng thịt. Anh muốn chạy đến với ông nhưng cậu bé đã vượt lên trước. Nội à, cậu bảo, nội ra đây sớm làm gì. Bệnh rồi làm sao? Anh nghĩ, cậu bé này buồn cười thật. Không có họ hàng gì sao lại gọi ông của anh là ông nội nhĩ? Nội về đi. Cậu bé nhắc lại. Sáng giờ mẹ kiếm nội mãi. Ờ, ờ... Ông ậm ừ. Thì cháu cứ về nói với me... Cháu có rảnh đâu. Cậu bé lại cằn nhằn. Mà cái trò câu cá này thật vô bổ. Tốn không biết bao nhiêu là thời giờ. Ông vẫn nói như không nghe thấy gì. Cháu ngồi xuống đây với ông đi. Câu cá là cách để tập tính kiên nhẫn hay nhất đấy. Nhưng cậu bé đã bỏ chạy mất. Chân cậu đạp lên những cọng hoa cỏ mầu trắng loang loáng. Anh muốn ngồi lại với ông. ít nhất là để nói với ông rằng, anh rất tiếc, cái khung cảnh thanh bình này, cái công việc nhàn nhã này, từ khi bước chân vào đời, anh không hề gặp lại nó một lần nào nữa. Tất cả mọi chuyện đối với anh đều buồn và rối rắm. Rất có thể nếu anh tập được tính kiên nhẫn từ bé thì cuộc sống của anh bây giờ đã khác. Có nghĩa là anh đủ can đảm và bình tĩnh để ngồi gỡ rối từng nốt buộc của đời mình. Anh tiến lại gần ông, ngồi xuống trước mặt ông nhưng đầu ông vẫn cúi xuống, mắt nhìn đăm đắm vào chiếc phao. Những sợi tóc bạc bung ra, bay lơ phơ trong gió như những sợi cước. Anh quờ tay nhưng ông vẫn không ngửng lên. Ông hoàn toàn không biết có người đang ở bên cạnh. Điều đó làm anh chạnh lòng. Tự nhiên thấy buồn da diết. Thấy mình như đang ở bên ngoài cuộc sống của mọi người. Anh ngồi ngả vào một thân cây, chân vục sâu vào cỏ và lớp đất ẩm ướt. Những con kiến nhỏ luồn qua ống quần, bò trên cẳng chân anh nhồn nhột. Ông nội vặn mình, những khớp xương kêu răng rắc. Ôi, ôi... Ông nội lầm bầm. Cái lưng chết tiệt này. Mà cái thằng bé chẳng hiểu gì cả. Nó chẳng chịu hiểu mình gì cả. Mình già rồi, mình còn biết làm gì nữa. Ở nhà à, lại chẳng quẩn chân mẹ nó lên, làm cho mẹ nó khó chịu thì được gì. Từ ngày bà nó mất đi, tôi thật chẳng còn lúc nào vui vẻ nữa. Ngực tôi cứ đau thắt lại khi nhớ đến bà. Chúng ta đã già rồi, đáng lẽ ra chúng ta nên ở cùng nhau, ngay cả khi chúng ta không còn ở trên cõi đời này. Những lúc này mới là những lúc chúng ta cần ở bên nhau nhất, bà biết không. Ôi, ôi... Bà đừng có trách tôi những chuyện cũ. Chỉ riêng nỗi cô đơn tôi phải chịu đựng bây giờ cũng đã quá đủ để trừng phạt tôi rồi. Ông nội ôm ngực họ Hai giọt nước mắt ứa ra như hai giọt thủy ngân. ánh nắng chiếu vào làm nó ánh lên lấp lánh. Để mặc cho hai dòng nước mắt chảy, đôi tay cháy sạm của ông nội ấp trên đầu gối khẽ run lên. Anh cũng thấy tim mình run lên. Sống mũi cay xè. Anh muốn ngay lúc này gọi cậu bé lại. Cậu sẽ ngồi đó bên cạnh ông, không cần làm gì cả, chỉ để cho ông thấy là mình không bị cô độc, và để khi cậu lớn lên, cậu sẽ không như anh lúc này. ân hận mà không làm gì được nữa. Nhưng anh sực nhớ là mình không được nói, không được quyền nói bất cứ điều gì. Vừa ngay lúc đó cậu bé quay lại. Cậu đi men theo bờ sông. Nắng làm tóc cậu hoe đỏ. Cậu kéo tay anh khá mạnh. Ông nội hỏi, cháu có muốn câu cá không? Câu cá thú vị lắm. Nhưng cậu bé chỉ bĩu môi, cái trò đó nhạt phèo mà ông. Rồi cậu lôi anh đi xềnh xệch. Anh đi. Lúc quay lại vẫn thấy ông nội ngồi gục đầu xuống, càng nhỏ bé và già nua giữa trời nước mênh mông một mầu xanh ngát. Cậu bé đã vượt lên trước, quờ chân đá một hòn sỏi mầu xám. Nó lăn mấy vòng rồi rơi xuống nước, làm tung lên những bọt nước nhỏ. Anh như nghe từ đâu xa lắm một điệu nhạc dịu dàng vẳng lại. Có tiếng gió, tiếng nước vỗ, tiếng cười trong trẻo của lũ trẻ con và mùi hương ngọt ngào của những bờ cỏ. Anh thấy lòng ấm áp trở lại. Bây giờ anh đã có thể tự lần mò được đường về nhà. Bao nhiêu năm trôi qua, mọi thứ không thay đổi và mọi thứ trong anh cũng không thay đổi. Bố mẹ đã mất nhưng anh biết lúc này, họ đang đợi anh ở nhà. Chiếc vé nằm trong tay nóng ran.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 15:19:47 | Chỉ xem của tác giả
Cánh cổng gỗ mở ra, hiện rõ cái sân gạch Tàu bám đầy rêu. Trên bậc thềm ra vào có một tấm thảm bằng xơ dừa. Mẹ anh là một người đàn bà khá kỹ tính. Ai bước vào nhà mà không chùi chân đều bị bà cằn nhằn có đến hàng giờ, thậm chí cả khi đã lên giường ngủ. Và trong bất kỳ mọi chuyện trái ý bà, bà cũng tỏ vẻ ra như thế. Anh với cậu bé đều nhớ điều đó. Họ dừng lại, chùi chân cẩn thận, để dép vào phía trái của bậc thềm rồi mới bước lên hiên. Ở cuối hiên có kê một cái ghế dài bằng gỗ tạp lỗ chỗ những vết mọt. Mưa gió và thời gian đã làm nó xỉn mốc. Hôm nay, nó không nằm đó một mình. Một người đàn ông đang nằm ngủ trên ghế. Chiếc nón mầu đen ấp trên mặt, vì thế tiếng ngáy có vẻ nặng nề và đứt quãng. Chiếc ghế không đủ chiều dài cho thân hình ông. Hai cẳng chân xọc trong đôi giày ba-ta dính đầy bùn thò ra khỏi ghế. Cậu bé đứng nhìn một lúc, môi hơi trề ra rồi đưa tay kéo mạnh chiếc giày. Người đàn ông bật dậy. Đất khô rơi đầy xuống sàn. Bên mép ông ta có vệt nước miếng trắng nhờ. Cái thằng này, người đàn ông hỏi, mày làm cái gì thế? Cậu bé cũng hỏi, thế ông ở đây làm cái gì thế. Người đàn ông ngập ngừng. Vừa lúc đó mẹ anh hiện ra ở bậc cửa. Cổ họng anh tự nhiên giật thót. Quai hàm cứng lại. Anh nghĩ mẹ anh đã phải già lắm nhưng không phải thế. Mẹ còn rất trẻ. Mẹ mặc một chiếc áo mầu xanh điểm hoa trắng và một cái quần âu mầu xám, tóc vấn tròn sau gáy. Mẹ nhìn mọi người bằng đôi mắt nâu tọ Cả anh và cậu bé đều nghĩ rằng mẹ sẽ nhăn mặt và sẽ nói ồn ào về những miếng bùn rơi trên sàn. Nhưng mẹ lại cười làm cả hai sửng sốt. Nụ cười làm gương mặt mẹ rạng rỡ lên hẳn. Mẹ bảo, chào chú đi con. Chú ấy là bạn của mẹ từ hồi đi học. (Anh cũng không hiểu tại sao mẹ lại gọi cậu bé là con). Nhưng cả anh và cậu bé đều không thích ông tạ Mùi mồ hôi oi oi và đôi môi đẹp như vẽ của ông ta làm họ thấy khó chịu. Cậu bé lí nhí một câu gì đó rồi đâm bổ vào nhà.
Vài tiếng sau họ ngồi vào bàn ăn. Ông nội đã trở về và trên bàn có món cá chiên giòn của ông. Hôm nay mẹ không cằn nhằn vì thức ăn ông làm rơi vãi ra bàn. Không cằn nhằn vì hơn tháng nay chưa thấy bố đi công tác về. Không cằn nhằn bất cứ một thứ gì mà chỉ cười. Cười và nói rất nhiều với người đàn ông. Ông ta ngồi chỗ ghế của bố ở đầu bàn, rồi đến mẹ, đến cậu, đến ông nội. Những chiếc ghế sắt sơn mầu hồng. Cái bàn gỗ sơn mầu hồng. Cậu bé đã cảm thấy thoải mái trước sự có mặt của người đàn ông. Thậm chí còn thấy thích vì được tự do chơi những trò chơi của mình. Cậu thọc muỗng khuấy tung tô canh hoặc lén thả xuống đất những mẫu xương còn bám đầy thịt cho Cún, làm sàn nhà chẳng mấy chốc nhơ nhớp mỡ. Chỉ đến khi cậu gõ đũa vào thành chén ồn ỉ quá, mẹ mới quay lại bảo, con ăn nhanh đi. Anh ngồi trên bậc thang lên phòng ngủ của bố mẹ. Anh muốn dự phần vào bữa ăn nhưng không thể được, đành chỉ ngồi nhìn và nuốt nước miếng ừng ực. Dạ dày cứ đau quặn từng cơn vì đói. Hai cẳng chân anh đong đưa, mới đầu còn chầm chậm sau lại khoắng lên loạn xị trong không khí. Một lần nữa anh lại thấy chạnh lòng. Thấy mình đã được trở về nhưng hoàn toàn ở bên ngoài cuộc sống của mọi người. Anh rời bỏ những bậc thang, xuống ngồi vào ghế của cậu bé. Mọi người không ai nhìn thấy anh. Còn cậu bé ngồi xích ra, chừa cho anh một ít chỗ. Cậu cứ nhìn anh chằm chằm và cười, tay vẫn liên tục gõ đũa vào thành chén. Những ngón tay của anh cũng ngọ ngoạy Anh nhón tay nhặt một con tép rang nhỏ nhưng nó nhảy tuột ra khỏi tay anh. Anh không nén được tiếng thở dài. Ông nội cũng thở dài. Chiếc ghế kêu lên ken két. Ông nội đứng dậy, đi ra ngoài. Anh chuyển sang chỗ ngồi của ông. Anh nghĩ, mọi chuyện thật đúng như ngày xưa. Ông lại ra bờ sông ngồi. Và bây giờ mẹ sẽ bảo mình đi ngủ đây.
Nhưng mẹ không nói với anh mà nói với cậu bé, con làm gì ầm ĩ quá. Ăn xong rồi thì đi chơi đi. Anh và cậu bé đưa mắt nhìn nhau. Miệng cậu bé hơi vo lại thành vòng tròn. Cậu đứng bật dậy. Điều đầu tiên cậu nói là cám ơn chú. Nhờ có chú mà mẹ cho cháu đi chơi. Chứ thường ăn trưa xong, bao giờ mẹ cũng muốn cháu đi ngủ. Chú ở đây chơi lâu lâu nhé. Ở với cháu đi nhé. Người đàn ông cười lớn, thế còn bố cháu thì sao? Cậu bé lại bảo, bố hay đi công tác. Nhà cháu lại rộng lắm, chú ở thoải mái, phải không mẹ? Mẹ nghiêng người quay mặt đi chỗ khác. Mẹ không trả lời. Vai mẹ rung rung. Sao mẹ lại cười? Cậu bé hỏi. Con nói thật lòng đấy. Thế mẹ cho con đi chơi thật phải không? Cậu len lén chụp chiếc mũ lưỡi trai lên đầu và phóng ra cửa. Anh cũng bước ra ngoài theo cậu. Anh đứng trên hàng hiên, dựa vào một cây cột gỗ. Trời xanh ngắt không một gợn mây. Những con bọ nhỏ xíu bay èo èo trong không khí làm mắt anh díp lại. Mồ hôi chảy dấp dính trên lông mị Anh nghe tiếng trầm trầm của người đàn ông và tiếng cười đáp lại của mẹ. Tiếng chén bát đụng vào nhau lanh canh. Tiếng chiếc quạt cũ quay rè rè trong góc phòng. Lại tiếng cười vui vẻ của mẹ. Chưa bao giờ anh thấy mẹ vui như thế, cười nhiều như thế kể cả khi bố về. Cậu bé không được nhìn thấy điều đó. Cậu đã bỏ chạy đi rất xa, qua tận phía bên kia bờ sông, chỗ có mấy đứa trẻ đang đứng đợi cậu bày trò đá bóng. Anh cảm thấy tiếc cho cậu kinh khủng.
Buổi tối mọi chuyện lại diễn ra như vậy trong bữa ăn. Chỉ có mẹ và người đàn ông cười nói với nhau. Cậu bé thấy mình hạnh phúc. Chưa bao giờ cậu thấy mình được tự do như vậy. Cậu vãi thức ăn ra đầy sàn và lén đổ chén cơm còn hơn một nửa vào thùng rác mà không sợ mẹ mắng. Chỉ có anh là vẫn đói mềm người. Đã làm hết mọi cách nhưng anh đói vẫn hoàn đói.
Anh lẻn trước vào phòng bố mẹ. Anh ngồi trong một hốc tối để mẹ không nhìn thấy anh (anh luôn quên là mẹ không thể nhìn thấy anh). Anh muốn được nhìn ngắm mẹ suốt đêm. Ngày thơ bé, mẹ bao giờ cũng xa lạ và thường làm anh sợ hãi vì sự khó tính của mẹ. Nhưng từ khi anh lớn lên thì anh càng yêu thương mẹ nhiều hơn, gần gũi mẹ nhiều hơn. Thật ra là từ khi người đàn ông đó ra đi thì mẹ trở nên dịu dàng và dễ chịu hơn với mọi người. Nhưng quãng thời gian đó chẳng được bao lâu thì mẹ mất. Bây giờ anh muốn được ngắm mẹ để những cảm xúc ấy được kéo dài ra.
Mẹ bước vào lúc đã gần giữa đêm. Mẹ vừa mới tắm xong, những sợi tóc ướt vẫn còn quấn quanh cổ. Mẹ mở cửa sổ. Đêm nay trời rất nhiều sao. Một làn gió mát thổi vào phòng mang theo mùi hoa nhài và mùi ẩm ướt của bầu trời đêm. Anh muốn đứng dậy ôm mẹ, gục mặt vào mái tóc của mẹ, như từ xa xưa lắm một vài lần anh đã được làm như vậy. Nhưng anh lại ngồi thụp xuống. Có tiếng động ở cửa. Người đàn ông bước vào. Ông mặc một chiếc may- Ô xanh nước biển, quần thun xanh có hai nẹp trắng dài ở hai bên hông, chân đi đôi dép nhựa của bố. Ông khép chặt cửa và đi về phía mẹ. Mẹ dịu dàng bảo, anh lại đây mà xem. Hệt như ngày xưa vậy. Cổ họng anh tự nhiên đau buốt như bị viêm họng. Anh chống tay xuống đất, suýt ngã bổ chững khi thấy mẹ gục đầu vào vai ông ta, tay mẹ Ôm ngang qua eo lưng ông chặt cứng. Họ đứng rất lâu bên cửa sổ. Thậm chí anh còn nghe cả tiếng họ hát chung một bài hát buồn buồn nào đó. Thỉnh thoảng người đàn ông cúi xuống hôn mẹ. Nụ hôn như một cái dùi dùi vào ngực anh từng cái ra dáng. Họ vừa khóc vừa cười, thốt ra những lời đầy âu yếm. Người đàn ông hỏi, thế em sẽ sống như vậy mãi sao? Anh thấy rõ ràng là em không hạnh phúc. Một cuộc sống tĩnh lặng, một người chồng chỉ biết đến công việc không hợp với em. Nhưng em và anh ấy đã có thằng bé, mẹ thút thít, em bây giờ già rồi. Nó bây giờ giúp em chịu được những gì mà em nghĩ là em không bao giờ chịu đựng được. Em yêu anh nhưng em không thể. Mẹ lại khóc. Nước mắt chảy lấp lánh dưới ánh trăng. Người đàn ông bảo, phải, ước chi chúng ta được quay về quá khứ. Mọi thứ sẽ bắt đầu lại từ đầu và chúng ta có đủ nghị lực để vượt qua mọi rào cản đến với nhau. Chúng ta sẽ sống hạnh phúc bên nhau chứ không phải như bây giờ... Anh cũng khổ mà em cũng khổ. Chẳng gì khổ bằng chung sống với một người lại đi yêu một người khác. Tiếng người đàn ông nghẹn đi. Mẹ gần như lả đi trong vòng tay của ông. Anh muốn nhảy bổ tới để tống ông ta ra cửa nhưng đồng thời một tình thương, gần như sự đau xót dâng lên, nghẹn ngang ngực. Nước mắt chảy thành dòng trên má anh lúc nào không biết.
Khi họ quay về giường mẹ thì anh không chịu nổi nữa. Anh lao ra khỏi cửa, chân vấp phải bậc cửa nằm ngã sõng xoài. Mặt áp xuống đất, anh khóc rất lâu. Khóc vì thương thân, thương bố mẹ và thương cả người đàn ông kia nữa. Anh vùng dậy, chạy thẳng vào phòng của cậu bé. Cậu đang ngủ, tay chân dang rộng. Miệng nhoành ra thành một nụ cười. Mái tóc xoăn phủ xuống mắt, xuống gối. Anh dựng đầu cậu bé dậy, thiểu não, này, mày có biết chuyện gì không. Me... Chưa nói dứt câu anh đã thấy người nhẹ bổng. Hai bàn chân từ từ bốc lên khỏi mặt đất. Cậu bé bật dậy, ngơ ngác. Chuyện gì thế? Đó là do tôi. Anh phân trần trong khi vẫn tiếp tục bay lên cao. Tôi muốn nói là... Ai khiến ông nói. Cậu bé cắt ngang. Ông không nhớ lời tôi dặn thì đành chịu thôi. Thời hạn của ông ở tuổi thơ đã hết rồi. Anh vội vã hỏi, thế tên cháu là gì? Cháu là ai trong gia đình của tôi? ông thật không nhận ra à. Cậu bé cười lớn. Tôi chính là ông ở tuổi thơ đây.
Anh muốn nói điều quan trọng nhất nhưng những đám mây đã đưa anh đi xạ Qua dòng sông. Qua những cánh đồng. Qua những bờ cỏ dại. Anh cứ bay đi mải. Phía dưới, ngôi nhà có hàng hiên với những cây hoa nhài và khoảng sân gạch Tàu phủ đầy rêu biến mất. Nước mắt anh lại chảy tràn ra. Anh kêu to "Mẹ Ơi, tạm biệt me... ".
* * *
Mẹ Ơi... Anh giật mình tỉnh dậy, thấy vẫn đang nằm trên chiếc ghế sân gạ Đã có rất nhiều người vào ga đợi tàu. Anh ngồi dậy, lắc mạnh đầu. Thật may mọi chuyện chỉ là một giấc mợ Tuổi thơ của anh đã đẹp hơn gấp vạn vạn lần như thế. Mặc dù bây giờ những cảm giác ân hận và nuối tiếc vẫn thường ngự trị trong anh, như anh đã từng nuối tiếc cho cậu bé vậy.
Anh đứng dậy, vặn mình răng rắc. Anh thọc tay vào túi kiếm điếu thuốc. Cuối cùng anh chỉ móc ra được một tờ giấy mầu trắng nhàu nát. Anh đặt nó lên đùi, vuốt khẽ, nghĩ chắc đây là lời nhắn hẹn của ai đó. Khi tờ giấy đã được vuốt thẳng thớm, anh chỉ nhìn thấy một vệt mầu vàng nằm phía góc trái. Nhìn kỹ, hóa ra đó là một cái dấu mang hình chiếc lá. Một chiếc lá đã úa vàng.
1999
Hết
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 15:21:54 | Chỉ xem của tác giả
Nguyễn Thị Châu Giang

Biển Trên Núi


Tôi sinh ra ở biển. Lớn lên ở biển. Và sau này rồi cũng sẽ ra đi từ biển. Suốt những năm thơ ấu, tôi đứng trên bờ. Chân trời rất có thể là tấm khăn lụa xám trong đêm mù. Cũng có thể là chiếc cầu tuổi nhỏ không bao giờ tôi qua hết được.
Cha tôi ngồi còng lưng tỉa lá sâu trên bụi hoa chưa lúc nào ra hoa, trầm ngâm: "Cuộc đời có rất nhiều... Sau lưng và trước mặt bao giờ cũng có những chiếc cầu như vậy!" Tiếng sóng vội vào vách đá như tiếng mưa rào. Một lát lại buồn buồn như tiếng ai khóc hờ trong gió. Tôi hỏi cha câu hỏi cũ như tiếng băng cassette quay lại cũ mèm: "Thế cây này không ra hoa hả chả Thế cha đã qua được bao nhiêu chiếc cầu rồi hả chả". Cha không trả lời. Mẹ cũng không trả lời. Chỉ có tiếng một con chim lạ bay vụt qua mái nhà. Kêu những tiếng khàn, đục như tiếng đêm.
Một đêm tôi nhìn ra cửa sổ. Trăng lấp liếm sau bóng mây, tỏa một thứ ánh sáng mờ xuống góc vườn. Mùi hương dại ở đâu ngào ngạt, thấm vào môi, vào lưỡi ngòn ngọt. Tựa như lần đầu mình được ăn chiếc kẹo bi màu xanh đỏ. Chao ôi là thơm và ngọt. Tôi giật mình kinh ngạc. Từ bụi hoa không bao giờ ra hoa, một quầng sáng lung linh xuất hiện. Đó là một bông hoa màu đỏ rực lên như lò than, nở bung trên cành khẳng khiu. Cổ họng tôi nghẹn lại. Nỗi vui sướng vỡ ra dần thành những giọt nước mắt trong suốt. Chuyện gì xảy ra như trong mơ, như trong chuyện cổ tích thần tiên của tuổi thợ Bởi vì sớm mai bụi hoa vẫn xanh ngắt một màu lá. Tôi ngẩn ngơ đi giữa những bụi cây. Mọi người nhìn tôi thương hại. Riêng mẹ bảo: "Con gái lớn rồi. Đi với me lên Đà Lạt. Ở với dì Ba năm bữa nửa tháng, thay đổi khí hậu!". Tôi ôm mẹ, cười mà lòng vẫn ngơ ngẫn "Thế nào cũng được. Nhưng rõ ràng đêm qua một bông hoa đã nở. Rõ ràng là mình đã thấy nó. Mình không quên là mình đã nhìn thấy nó!" Rồi tôi nghĩ, hẳn Đà Lạt cũng sẽ đẹp như quầng sáng lung linh trong đêm trăng non. Những tiếng lá thông hồn nhiên và những bờ sương mù tỏa khói. Những kỷ niệm khó quên. Nhưng quan trọng nhất, hẳn rằng Đà Lạt sẽ vui hơn vùng biển của tôi.
Nhưng Đà Lạt thì khác hẳn! Cả thành phố như được ướp trong nước đá. Mỗi buổi chiều những tảng đá được hun nóng, nhỏ nhễu nhão vài giọt lên mái tôn. Khoảng bốn giờ chiều, đã thấy âm u và buồn. Nhất là buồn, thấy nhà dì Ba ai cũng nằm thở dài trên tràng kỷ. Con út bảo: "Hồi nào em xuống biển chắc vui hơn!" Tôi cười trừ trong bụng "Vui gì! Cũng thế thôi. Chỉ được cái tưởng tượng... " Tôi lấy xe đạp của con út, đạp vòng quanh thành phố. Đất gì bé bằng lòng bàn tay mà bao nhiêu là cây cối. Lá thông réo như tiếng nước sôi. Nhiều lúc giật mình tưởng mưa rào đang trút xuống. Đạp xe ngược dốc, gió thổi muốn bay cả xe mà nghe mồ hôi ra ướt đẫm áo. Tôi thò đầu qua một lỗ rào nhỏ. Cơ man nào là hoa mọc với dây tơ hồng. Những bông hoa to bằng cái bát. Sương buổi chiều bâu trên cành hoa như những giọt hương tiết ra từ nhụy. Tôi rụt người suýt nữa bị gai hàng rào cào toạc áo. Bỗng dưng thấy muốn khóc. thấy lòng nao nao. Thấy nhớ quay quắt bụi hoa không bao giờ ra hoa của cha, lúc nào cũng xanh ngắt một màu tội tội. Hẳn lúc này cha cũng đang còng lưng ngồi nhổ lá sâu vào bảo thầm: "Sau lưng và trước mặt bao giờ cũng có những chiếc cầu như vậy!" Mà cha thì chưa bao giờ thấy được bông hoa đỏ rực đã nở vào một đêm nào đó của tháng Năm. Chưa bao giờ cha được sống với một đêm kỳ ảo như thế của tháng Năm.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2011 15:22:59 | Chỉ xem của tác giả
Tôi nằm dài trên bãi cỏ. Không nghĩ gì, không buồn gì. Chỉ thấy lòng đương rất dễ chịu. Nắng đã làm tan hết giá, mặt đất ấm lên và tỏa mùi nhựa thông nồng nồng.
"Mùi đất thật quen thuộc - Tôi thầm nghĩ - Nó gợi mình nhớ đến điều gì nhỉ? à, những miền đất thơ ấu. Mình đã từng nghĩ đến, càng lớn mình càng hay nghĩ về những miền thơ ấu ấy. Dù sao điều đó cũng không vô ích... ". Tiếng con út vang lên lảnh lót như những bóng nắng chạy trên lá:
"Anh mang hoa gì ra chợ vậy?"
"Bông mặt trời".
"Xạo hoài, bông bất tử đấy!".
Tiếng cười bật lên trầm và hóm. Tôi ngóc đầu dậy. Con út đã biến mất. Một thằng con trai với đôi mắt đen nháy nhìn tôi không chớp.
"Chị Ở đâu lên vậy?".
Tôi cười: "Dưới biển".
"Tốt rồi" - Nó cũng cười. Nụ cười ngộ nghĩnh. Nhưng đẹp. "Tôi cũng thích biển".
"Thế lại khác - tôi nghĩ - Ở dưới biển với thích biển thì khác nhau xạ Khác rất xa... ".
"Biển đẹp lắm phải không chị?"
"Ừ, chắc là thế! Biển rất xanh và rộng, và có nhiều sóng tung bọt trắng xóa. Buổi trưa trên biển đầy vàng!".
"Tôi biết rồi! Tôi đã thấy rồi!"
"Ở đâu?". Bổng dưng lòng tôi như có sóng trào lên. Tôi nhớ những dải cát ướt mịn. Nhớ và thương những buổi chiều ngồi đợi sóng hồn nhiên đưa mặt trời vào bờ. Và những chân cầu tuổi thợ "Đó, chị thấy chưa?" Nó đưa tay chỉ lên trời. "Biển rất xanh và có nhiều sóng. Những đám mây trắng là sóng. Sóng xô thuyền bồng bềnh". Tôi nheo nheo mắt. Đúng là biển, biển thật rồi! Chỉ có điều chiếc cầu tuổi thơ đã biến mất. Hay chính là tôi đã bước qua hết chiếc cầu tuổi nhỏ ấy? Hay chắc là chiếc cầu ấy đã ở sau lưng? "Chị ngồi chắc vào! Thuyền đang trở buồm. Và chúng mình sẽ trôi đi mãi!" Tôi cười sung sướng như đang được tung mình trong biển cả. "Chúng mình sẽ trôi đi mãi. Thấy chưa, biển rất xanh và nhiều sóng to trắng xóa". "Biển có nhiều mặt trời nữa!". "Thật à? Vậy mà tôi không biết!". Nó cười, nhìn thúng hoa bất tử. "Mỗi bông hoa là một mặt trời. Rất nhiều mặt trời". Tôi mơ màng: "Hai chúng mình cũng là hai mặt trời. Những mặt trời không sợ bão!".
Nắng lên được một ngày nữa rồi mưa tầm tã suốt ba ngày. Tôi đứng ở cửa sổ nhìn ra ngoài. Cây cối làm mình làm mẩy trong mưa. Vật gì cũng bị bạc màu phân nửa nom ảm đạm và buồn bã. Dì Ba nhìn tôi tội nghiệp: "Năm nay trở trời mưa hoài!" Tôi cười xòa để dì vui lòng: "Cũng tốt dì ơi. Đỡ mỏi chân... ". Mà thật ra lòng bứt rứt khó chịu. Tôi thò cổ ra ngoài. Lạnh ngắt như kim châm. Biển đã chuyển sang màu xám chì và lạnh ngắt như kim châm.
"Dì với út về đi. Mai mốt con lại lên!" Bóng mẹ con dì khuất dài sau màn mưa trắng như bụi, càng lúc càng nặng hạt. Tôi đứng chần chừ dưới mưa, rụt người trong tấm áo phông màu nước biển. Tôi không hiểu mình đang chờ đợi gì ở những con người bước lầm lũi dưới mưa kia! Chỉ biết rằng tôi mong chờ lắm như vào những đêm tháng Năm xa xôi. Có ai đó níu vai tôi rất mạnh, hơi thở phả ấm gáy: "Tặng nè". Nó đưa cho tôi một bộc hoa gói kín, cặp mắt đen buồn buồn.
"Hoa gì vậy?".
"Bất tử".
"Không phải - tôi cười - Hoa mặt trời. Bông mặt trời nhỏ".
Tôi ngó lên trời. "Hôm nay không có biển".
"Khỏi, Biển trên áo đây rồi. Cần gì... " Nó mím miệng bước đi.
Tôi áp mặt vào cửa kính, thấy buồn, thấy thương nó liêu xiêu trên con đường xanh ngắt một màu cỏ và cây. Mới chợt hiểu ra mình chờ đợi điều gì từ bấy đến giờ. Mai này có thể quên - Tôi nhắm mắt thầm nghĩ - Nhưng những ngày này, những kỷ niệm này đã thật đẹp hơn điều mình nghĩ!
Tôi lại ra đứng trước biển. Thấy chân trời là chiếc cầu bằng lụa xám chưa bao giờ tôi qua được. Tôi lại ngồi nhìn cha tỉa lá sâu trên bụi hoa không bao giờ ra hoa và đêm đêm ra đứng ở cửa sổ để chờ mong một điều kỳ diệu nào đó sẽ xảy ra. Lúc ấy gió bắt đầu lên và thổi lanh như gió Đà Lạt. Tiếng cha trở mình trên chõng và nói mê: "Cuộc đời có nhiều... ".
Một buổi chiều dọn dẹp nhà cửa, bỗng nhiên một bông bất tử lăn ra từ góc tủ. Sắc vàng của nó ánh lên như một quầng lửa đỏ. Tôi nắm chặt mặt trời nhỏ trong tay, thẫn thờ. Vì tôi chợt nhớ rằng , hình như có một lần nào đó, tôi đa đi qua và để lại sau lưng mình chiếc cầu bằng lụa xám của tuổi thợ Và chắc chắn là đã có một lần như thế...
Hết


http://vnthuquan.net/truyen/tacpham.aspx?tacgiaid=455

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách