|
Vậy mà Xuân Sinh vẫn không nghe lời tôi. Một tháng sau, tôi nghe nói Lưu huyện trưởng đã nhảy xuống giếng tự tử ở trong thành phố. Một con người mạng có to đến mấy, nếu bản thân đã muốn chết, thì cũng không làm sao giữ nổi.
Xuân Sinh chết đã được mấy năm. Phượng Hà vẫn sống ở bên tôi, nhoáng một cái nó đã ba mươi nhăm tuổi. Tôi cảm thấy mình càng ngày càng yếu, một đời cũng coi như đã từng trải biết bao nhiêu sự việc, con người cũng chín được rồi, giống như quả lê đã chín nẫu thì phải rụng khỏi cành. Nhưng tôi cứ áy náy, không yên tâm về phần Phượng Hà. Nó không giống người khác, nó già rồi ai sẽ trông coi đây?
Kể ra thì Phượng Hà vừa câm vừa điếc, song nó cũng là đàn bà, không phải không biết chuyện lấy vợ gả chồng. Trong làng năm nào cũng có người gả đi lấy về, trống phách rôm rả một chầu. Những lúc ấy, Phượng Hà cứ chống quốc ngây người ra đứng nhìn. Mấy thanh niên trong làng chỉ chỉ trỏ trỏ trêu Phượng Hà.
Lúc con trai thứ ba nhà họ Vương trong làng cưới vợ, ai cũng khen cô dâu đẹp. Hôm ấy, cô dâu được dẫn về làng, mặc áo thêu hoa đỏ chói, miệng tươi cười. Tôi đứng ở ruộng nhìn theo, cả người cô dâu đỏ rực, khuôn mặt ửng hồng trông ưa mắt lắm; một đám thanh niên đi bên cạnh cười nói vang vang, chắc là nói những lời bậy bạ khó nghe, cô dâu chỉ cúi đầu cười. Con gái lúc đi lấy chồng, cái gì nhìn thấy cũng dễ chịu, cái gì nghe thấy cũng vui vẻ.
Phượng Hà làm việc ở ngoài đồng, vừa nhìn thấy cảnh tượng đó đã ngây ra, hai con mắt cứ chằm chằm nhìn không chớp, cuốc ôm trong lòng, người không nhúc nhích. Đứng ở một bên nhìn con, lòng tôi cay đắng vô cùng. Tôi nghĩ bụng, nó muốn xem cứ để cho nó xem thoải mái. Phượng Hà số khổ, nó chỉ có một chút hạnh phúc đứng xem người khác lấy chồng. Ai ngờ Phượng Hà nhìn mãi xem mãi liền bước đi luôn, nó đi đến bên cô dâu, cười ngây ngô, cùng đi với cô ta. Phượng Hà chân đất, mặc quần áo vá chằng vá đụp, đi cùng với cô dâu. Cô dâu mặc vừa gọn gàng vừa rực rỡ, người lại xinh, so với Phượng Hà nhà tôi, thì Phượng Hà quả thật lụt cụt xấu xí đáng thương quá. Mặt Phượng Hà không son phấn cũng đỏ ửng như cô dâu. Nó cứ quay sang nhìn cô dâu hoài.
Mấy thanh niên trong làng vừa cười vừa nói:
- Phượng Hà muốn lấy chồng đó mà.
Nói thế tôi còn nghe được, nào ngờ một lát sau, vọng đến những câu chối tai. Có ai đó nói với cô dâu:
- Phượng Hà đã nhìn trúng cái giường của em rồi đó.
Phượng Hà đi kề bên, cô dâu không tươi cười được nữa. Cô ta chê Phượng Hà. Lúc này có người nói với chú rể:
- Cậu trúng quả đậm, lấy một thành hai, một đệm ở dưới, một lợp ở trên.
Nghe xong, chú rể cười hì hì, cô dâu không nín nhịn được nữa, cũng chẳng thèm đếm xỉa đến chuyện mình mới đi làm dâu mà nên tỏ ra xấu hổ một chút, liền gân cổ vênh mặt mắng chú rể:
- Cười gì mà thối thế.
Tôi quả tình không thể đứng nhìn tiếp, liền đi lên bờ ruộng nói với bọn họ:
- Làm người không như thế được, có muốn ức hiếp người thì cũng không được ức hiếp Phượng Hà. Chúng mày có giỏi ức hiếp tao đây này.
Nói rồi, tôi kéo tay Phượng Hà đi về nhà. Phượng Hà là con người thông minh, chỉ nhìn thấy sắc mặt của tôi liền biết vừa có chuyện gì xảy ra. Nó cúi đầu theo tôi đi về nhà, khi về đến cổng thì nó khóc.
Sau đó tôi nghĩ, thế nào thì cũng phải kiếm cho con một tấm chồng. Tôi sắp xuống lỗ đến nơi rồi, sau khi tôi chết đã có Phượng Hà lo liệu. Còn Phượng Hà cứ tiếp tục sống thế này, thì sau khi chết, ai sẽ đứng ra chôn cất cho nó? Nhưng có người đàn ông nào muốn lấy nó cơ chứ? Một số người trong làng vẫn cho rằng tôi giữ rịt Phượng Hà để nó hầu hạ tôi suốt đời, họ bảo nếu Gia Trân còn sống thì Phượng Hà đã đi lấy chồng từ lâu rồi. Tôi nghĩ, họ nói vậy cũng có phần đúng, phận làm bố tôi không làm tròn, Phượng Hà đã ba mươi lăm tuổi vẫn chưa xây dựng gia đình. Tôi đi đến từng nhà cậy nhờ dân làng, đề nghị họ thăm dò bốn phương xem có người nào lấy Phượng Hà không. Họ hỏi tôi:
- Phượng Hà đi, ông không tiếc ư?
Tôi đáp:
- Dù người đàn ông kia có cụt chân què tay, chỉ cần anh ta muốn lấy Phượng Hà, tôi cũng gả.
Nói xong câu ấy tôi thấy đau lòng quá, Phượng Hà có đến nỗi nào, đâu có kém người khác, chỉ có điều không nói được thôi. Đã đến nông nỗi này tôi cũng đành phải thế.
Người đi thăm dò về bảo, ở trong thành phố có một người đàn ông tên là Vạn Nhị Hỷ cần Phượng Hà. Người ấy nói:
- Vạn Nhị Hỷ kém Phượng Hà hai tuổi, lại là người thành phố, làm thợ bốc vác, nhiều tiền lắm.
Tôi vừa nghe điều kiện tốt như vậy liền không tin, cảm thấy anh ta định đùa cợt với Phượng Hà đó thôi. Tôi nói:
- Xin đừng có đánh lừa thằng già này.
Người kia đáp:
- Không nói dối ông đâu. Vạn Nhị Hỷ là một anh vẹo đầu, đầu cứ ngả vào vai, không làm sao thẳng lên được.
Anh ta nói vậy thì tôi tin, tôi vội vàng bảo:
- Anh mau mau bảo hắn ta đến xem mặt Phượng Hà.
Chưa đầy ba ngày, Vạn Nhị Hỷ đã đến nhà, đúng là cậu ta vẹo đầu thật. Khi nhìn tôi, cậu ấy phải vểnh vai trái lên, nhìn Phượng Hà cũng thế. Phượng Hà vừa nhìn bộ dạng ấy đã nhoẻn miệng cười.
Vạn Nhị Hỷ mặc quần áo kiệu Tôn Trung Sơn sạch sẽ, nếu cái đầu không ngả vào vai, thì dáng dấp kia chẳng khác gì cán bộ ở thành phố về. Cậu ấy đặt một chai rượu và một mảnh vải hoa lên bàn, rồi cong vai đi một vòng trong nhà. Cậu ấy đang ngắm nhà tôi. Tôi mời cậu ấy ngồi xuống, cũng không cho Phượng Hà đi làm đồng, mà bảo nó ngồi trên giường. Tôi nói với cậu ấy:
- Đã để cậu phải tốn kém, thật ra mấy chục năm nay tôi không uống rượu.
Nghe xong, Vạn Nhị Hỷ vâng một tiếng, không nói gì, lại cong vai lên, nghiên nghiêng ngó ngó trong nhà, xem tới mức tôi đâm ra hồi hộp. Tôi nói:
- Nghèo thì có nghèo một chút, được cái tôi còn nuôi được một con lợn một con dê, nếu cậu lấy Phượng Hà thì tôi bán lợn bán dê sắm đồ cưới.
Nghe xong, cậu ấy vẫn vâng một tiếng. Tôi chẳng biết cậu ấy đang nghĩ gì. Ngồi một lúc cậu ấy đứng lên bảo phải về. Tôi nghĩ coi như đám này không thành rồi. Cậu ấy chẳng nhìn Phượng Hà bao nhiêu, cứ ngắm nghía cái nhà rách nát của tôi. Đi ra ngoài sân, tôi bảo cậu ấy:
- Không đem lễ ăn hỏi về ư?
Cậu ấy lại vâng một tiếng, rồi cong vai nhìn cỏ tranh trên mái nhà, sau đó gật đầu ra đi.
Vạn Nhị Hỷ vừa đi khỏi, người làng sang hỏi tôi:
- Có thành không?
Tôi lắc đầu nói:
- Nghèo quá, nhà tôi nghèo quá.
Sáng hôm sau, tôi đang ở ngoài đồng, có người bảo:
- Ai ở đằng kia thế?
Tôi ngẩng lên, thấy năm sáu người ở đầu đường đằng kia đang lắc la lắc lư đến, lại còn kéo theo một cái xe cải tiến, chỉ có người đi đầu tiên là không lắc lư, cậu ấy vẹo đầu đi rất nhanh. Nhìn từ xa, tôi đã biết là Vạn Nhị Hỷ, tôi không ngờ cậu ấy lại đến.
Nhìn thấy tôi, Vạn Nhị Hỷ nói:
- Cỏ tranh ở mái nhà nên thay, con chở một xe vôi quét lại tường.
Tôi nhìn vào cái xe cải tiến: có vôi, hai cái chổi quét vôi, lại còn có một miếng thịt lợn rõ to. Tay Vạn Nhị Hỷ cầm hai chai rượu trắng.
Lúc này tôi mới biết, Vạn Nhị Hỷ nhìn nhìn ngó ngó không phải là chê nhà tôi nghèo, ngay đến đống rạ ở trước nhà, cậu ấy cũng để ý đến. Tôi đã định thay nóc nhà từ lâu, chỉ còn chờ hết vụ cày cấy, rảnh rỗi sẽ nhờ bà con lợp giúp.
Vạn Nhị Hỷ dẫn năm người đến, thịt cũng mua về, rượu cũng đem theo, sắp xếp chu đáo tử tế lắm. Ngay tức thì bọn họ dỡ đống rạ, buộc thành từng bó nhỏ. Vạn Nhị Hỷ và một người nữa leo lên nóc nhà, để bốn người ở dưới, lợp lại mái nhà cho tôi. Thoáng nhìn một cái, tôi đã biết những người cậu ấy dẫn về đều là người quen việc này, nhanh chân nhanh tay, người ở dưới dùng gậy xọc bó rạ hất lên, Vạn Nhị Hỷ và người kia ở trên lợp. Đừng tưởng đầu Vạn Nhị Hỷ vẹo xuống vai sẽ vướng víu, cậu ấy làm việc thạo đáo để. Bó rạ vất lên, đầu tiên cậu ấy giơ chân đá một cái, rồi đưa tay đỡ. Người có bản lĩnh này trong làng chúng tôi không tìm đâu ra được một.
Chưa đến trưa đã lợp xong mái nhà. Tôi nấu cho anh em một xô nước trà, khiêng hết bàn ghế ra sân. Phượng Hà rót nước mời bọn họ, chạy trước chạy sau bận tíu tít. Phượng Hà cũng vui, nhìn thấy nhà mình đột nhiên có đông người đến làm việc, nó cứ há mồm cười hoài. Vạn Nhị Hỷ ở trên mái nhà leo xuống, tôi giục:
- Nhị Hỷ ơi, nghỉ giải lao đã.
Vạn Nhị Hỷ đưa ống tay áo lau mồ hôi trên mặt, đáp:
- Không mệt đâu ạ.
Nói xong lại cong vai nhìn chung quanh, nhìn thấy một ruộng rau ở bên trái, liền hỏi tôi:
- Rau nhà mình phải không ạ?
Tôi đáp:
- Phải.
Cậu ấy liền đi vào trong nhà lấy con dao bài ra ruộng chặt mấy cây tươi non đem vào trong nhà. Một lát sau cậu ấy thái thịt ở bên trong. Tôi ngăn cậu ấy, bảo để Phượng Hà làm việc này, cậu ấy lại giơ ống tay áo gạt mồ hôi nói:
- Không mệt đâu ạ.
Tôi không ngăn được Nhị Hỷ, đành sau Phượng Hà đi đốt bếp giúp cậu ấy, còn mình ra ngoài nói chuyện với những người Nhị Hỷ dẫn đến. Mấy lần tôi đi vào ngó thử, thấy hai người như một đôi vợ chồng, một người đun bếp, một người nấu cơm xào rau, anh nhìn chị, chị nhìn anh, há mồm cười. Tôi cũng thấy yên tâm.
Ăn cơm trưa xong, anh em Nhị Hỷ Hỷ lấy vôi quét tường. Nhà tôi tường đất, ngày hôm sau vôi khô nom cứ trắng xóa, giống như nhà ngói ở thành phố. Quét vôi xong, còn sớm sủa, tôi bảo Nhị Hỷ:
- Ăn cơm tối xong hãy về.
Cậu ấy đáp:
- Không ăn đâu ạ.
Nói xong cong cong vai với Phượng Hà. Tôi biết cậu ấy đang nhìn Phượng Hà. Cậu ấy khẽ hỏi tôi:
- Bố ơi, bao giờ con đón Phượng Hà đi?
Vừa nghe câu này, vừa nghe cậu ấy gọi tôi là bố, tôi mừng chảy nước mắt. Tôi đáp:
- Con muốn đón lúc nào thì đón.- Tiếp theo đó tôi lại khẽ bảo – Nhị Hỷ ơi, không phải bố bắt con tốn kém, thật tình là Phượng Hà số khổ, hôm con cưới Phượng Hà, mời đông đông người đến cho vui vẻ ồn ào, cùng là để cho dân làng người ta nhìn vào.
Nhị Hỷ đáp:
- Con biết rồi, bố ạ!
Tối hôm ấy, Phượng Hà vuốt ve tấm vải hoa Nhị Hỷ đem đến, hết ngắm lại cười, cười xong lại ngắm. thỉnh thoảng ngẩng đầu, thấy tôi đang nhìn nó, liền lúng túng đỏ mặt. Phượng Hà biết mình sắp sửa đi lấy chồng. Thấy nó thích Nhị Hỷ, tôi cũng vui, nghĩ thầm Gia Trân cũng có thể an tâm được rồi, khi nào tôi duỗi chân đến chỗ Gia Trân, thì chẳng việc gì phải lo đến chuyện Phượng Hà sống một mình trên đời như thế nào nữa.
Tôi bán luôn một con lợn một con dê, dẫn Phượng Hà lên tỉnh may cho con hau bộ quần áo mới, sắm hau cái chăn mới, mua cả chậu rửa mặt, phàm cái gì con gái khác trong làng có thì Phượng Hà cũng có, tôi không thể để Phượng Hà phải thua kém buồn tủi.
Hôm Nhị Hỷ cưới Phượng Hà, chiêng trống rộn ràng từ xa xa vọng đến. Dân làng túa hết ra đầu làng đứng xem. Nhị Hỷ dẫn theo hơn hai mươi người ở trong thành phố, tất cả đều mặc quần áo kiểu Tôn Trung Sơn. Nếu Nhị Hỷ không gài bông hoa hồng to ở ngực, thì chẳng khác gì cán bộ to nào đó về làng. Nổi bật nhất là ở giữa có một chiếc xe cải tiến trang trí lộng lẫy, chiếc ghế trên xe cũng xanh đỏ rực rỡ. Vừa đi vào làng, Nhị Hỷ đã bóc hai túi thuốc lá Đại Tiền Môn, cứ thấy đàn ông là nhét vào tay, mồm cứ rối rít:
- Xin cảm ơn, xin cảm ơn!
Trong làng, nhà nào cưới vợ gả chồng, thuốc lá ngon nhất cũng chỉ là loại Ngựa Bay, đằng này Nhị Hỷ cứ biếu từng bao từng bao Đại Tiền Môn, oai không nhà nào sánh kịp. Hai mươi người đi sau Nhị Hỷ cũng hăng hái vô cùng, chiên trống khua ầm ĩ, lại còn gân cổ lên hò hét. Người nào túi cũng phồng to, hễ nhìn thấy con gái và em nhỏ trong làng là móc kẹo trong túi ra tung cho họ. Nhìn quang cảnh nhộn nhịp hào phòng ấy tôi cứ bần thần cả người, thầm nghĩ những thứ tung ra đó đều là tiền chứ có phải chơi đâu.
Rất nhiều năm sau, khi những cô gái khác trong làng đi lấy chồng, ai ai cũng bảo chỉ có đám cưới Phượng Hà là oách nhất. Hôm ấy, Phượng Hà mặc quần áo mới từ trong nhà bước ra trong xinh đẹp cực kỳ, ngay đến người làm bố như tôi cũng không ngờ con gái mình lại đẹp như vậy. Những người ở thành phố Nhị Hỷ dẫn về ai cũng khen:
- Vẹo đầu thật là diễm phúc.
Xưa nay chưa bao giờ có nhiều người cùng xem Phượng Hà như thế này. Mặt Phượng Hà đỏ ửng như quả cà chua chín tới. Nó cứ cúi gằm mặt xuống ngực không biết làm thế nào hơn. Nhị Hỷ kéo tay Phượng Hà đến cạnh chiếc xe hoa. Phượng Hà nhìn chiếc ghế trên xe cải tiến cũng không biết phải làm gì nữa. Nhị Hỷ thấy hơn Phượng Hà đã bế nó lên xe, người đến xem vui cười rộ lên, Phượng Hà cũng khúc khích. Nhị Hỷ nói với tôi:
- Bố ơi, con đưa Phượng Hà đi đây.
Nói xong, Nhị Hỷ tự kéo xe đi. Xe vừa chuyển bánh, Phượng Hà đang cúi đầu cười, vội vàng quay lại, sốt ruột nhìn tới nhìn lui. Tôi biết nó tìm tôi, liền vẫy vẫy tay; Phượng Hà nhìn thấy tôi là giàn giụa nước mắt. Nó quay người nhìn tôi rồi khóc. Tôi chợt nhớ năm Phượng Hà mười ba tuổi, khi bị người ta dẫn đi, nó cũng nhìn tôi mà khóc thế này. Hễ tôi đau buồn là nước mắt trào ra, nhưng nghĩ lần này khác, lần này là Phượng Hà đi lấy chồng, nên tôi cười.
Nhị Hỷ rất biết điều, khi kéo xe đi rồi còn cứ quay đầu lại nhìn cô dâu của mình, vừa trông thấy Phượng Hà quay người nhìn tôi khóc, thì dừng xe lại, đứng tại chỗ và cũng quay người lại. Phượng Hà càng khóc càng đau long, hai vai cứ rung rung khiến cho người làm bố như tôi cũng phải mủi lòng. Tôi bảo Nhị Hỷ:
- Nhị Hỷ, Phượng Hà là vợ con rồi, còn không mau mau kéo nó đi.
Gả Phượng Hà cho người thành phố, tôi như người mất hồn. Lúc nào thư thả là cứ ngó trước nhìn sau, dường như Phượng Hà đang nấp ở trong nhà. Nghĩ đến Phượng Hà là bát nước hất đi, tôi đành ngồi xuống, nhưng ngồi cũng không ngồi nổi, lại chạy ra đầu làng trông ngóng. Tôi cũng biết Phượng Hà không trở về, nhưng nhìn ra xa xa như thế cũng thấy vững dạ hơn.
Theo tục lệ, thì sau một tháng Phượng Hà sẽ về thăm. Tôi cũng phải một tháng sau mới đi thăm con được. Nào ngờ được năm hôm, vào lúc chiều tối có người đến nhà bảo:
- Phú Quí ơi, ông ra đầu làng thử xem, hình như con rể đã đến.
Tôi chạy ra đầu làng. Nhị Hỷ đến thật, bả vai bên trái vểnh lên, tay xách một hộp bánh ga-tô, Phượng Hà đi ở bên cạnh, hai đứa tay trong tay, cười tít mắt đang đi tới. Dân làng ai nhìn thấy cũng cười, những năm tháng đó đâu có nhìn thấy đàn ông đàn bà cầm tay nhau đi đường. Tôi nói với họ:
- Nhị Hỷ là người thành phố, người thành phố tự nhiên như Tây.
Phượng Hà trở thành vợ của Nhị Hỷ, tôi cứ hai ba hôm lại lên tỉnh, giống như hồi trẻ, chỉ khác nơi đến. Khi đi tôi ra chỗ đất phần trăm cắt mấy cây rau tươi non để vào làn xách theo, bà con trông thấy liền hỏi:
- Lại đi thăm Phượng Hà phải không?
Tôi gật đầu đáp:
- Phải.
Họ bảo:
- Ông cứ đến xoành xoạch, anh chàng con rể vẹo đầu không đuổi về ư?
Tôi đáp:
- Làm gì có chuyện ấy.
Bà con hàng xóm của Nhị Hỷ đều thích Phượng Hà. Hễ tôi đến là họ khen nó, họ bảo nó vừa chịu khó chăm chỉ vừa thông minh. Khi quét sân thì quét giúp cả trước cửa nhà người ta, hễ quét đường là quét cả nửa dãy phố. Người hàng xóm nhìn thấy Phượng Hà toát cả mồ hôi, liền đến bên vỗ vỗ, bảo đừng quét nữa, lúc này nó mới cười tít mắt quay về nhà mình.
Trước kia Phượng Hà chưa học đan áo len, nhà chúng tôi nghèo, có ai được mặc áo len bao giờ. Phượng Hà thấy vợ người ta ngồi ở trước cửa đan áo, ngón tay cứ thoăn thoắt đưa đi đưa lại, nó thích lắm liền xách ghế đến ngồi xem, hễ xem là xem lâu lắm, cứ ngây người ra đó. Chị vợ nhà hàng xóm thấy Phượng Hà thích đến thế, liền cầm tay hướng dẫn. Hướng dẫn xong, chị hàng xóm mới ngạc nhiên, Phượng Hà học một cái là biết ngay, mới có ba bốn ngày mà Phượng Hà đan áo len nhanh như bọn họ. Gặp tôi, các chị ấy bảo:
- Nếu Phượng Hà không câm không điếc thì hay quá.
Trong lòng họ cũng thương Phượng Hà. Về sau, chỉ cần làm xong việc nhà, Phượng Hà lại ngồi trước cửa đan áo len giúp họ. Trong số chị em của cả dãy phố chỉ có Phượng Hà đan áo len dày nhất chặt nhất. Thế là được rồi, họ đưa len đến nhờ Phượng Hà đan cho. Phượng Hà có mệt đôi chút nhưng trong lòng vẫn vui. Áo len đan xong đưa trả họ, họ giơ ngón tay lên khen nhất. Phượng Hà nhoẻn miệng cười lâu.
Lần nào tôi lên tỉnh thăm con, chị em khu phố gần kề sang chơi cứ xuýt hoa khen Phượng Hà thế này thế khác, toàn là những lời nhận xét tốt đẹp, nghe xong tôi cũng đâm ghen. Tôi nói:
- Người thành phố tốt đấy, ở thôn quê rất hiếm nghe thấy có người khen Phượng Hà tốt như vậy.
Nghe mọi người ai cũng khen Phượng Hà như thế, Nhị Hỷ càng thương yêu vợ, lòng tôi cũng vui vui.
Về làng, hễ gặp ai tôi cũng khoe Phượng Hà ở thành phố tốt như thế nào, được người ta thích ra sao. Nghe xong có một số người còn tỏ ra không vui, nói với tôi:
- Phú Quí ơi, ông mụ mị đầu óc mất rồi, người thành phố chẳng biết điều gì cả, Phượng Hà làm việc cho bọn họ suốt ngày như thế, chẳng chết mệt hay sao?
Tôi bảo:
- Sao lại nỡ nói vậy?
Họ nói:
- Phượng Hà đan áo len cho họ, họ có biếu Phượng Hà chút gì không?
Người nhà quê tâm địa hẹp hòi, rặt nghĩ đến chuyện được hời. Đàn bà thành phố đâu có xấu như họ nói. Tôi đã hai lần nghe họ giục Nhị Hỷ:
- Nhị Hỷ ơi, anh đi mua hai cân len về, cũng để Phượng Hà có một chiếc áo len chứ!
Nhị Hỷ nghe xong cười không nói gì. Nhị Hỷ là người thực tế, lúc cưới Phượng Hà, nghe lời tôi đã chi nhiều tiền, phải đi vay nợ. Khi mọi người về, Nhị Hỷ nói riêng với tôi:
- Bố ạ, con trả xong nợ sẽ sắm áo len cho Phượng Hà.
Cứ sống như thế được mấy tháng, lúc đồng áng bận rộn tôi không thể thường xuyên lên thành phố; được cái là công xã nhân dân, dân làng cùng ra đồng làm việc, tôi chẳng cần phải sốt ruột lo lắng. Phượng Hà về thăm hai ngày giúp bố cơm nước, tôi liền giục nó về. Tôi đưa tay đẩy đẩy nó ra đầu làng. Dân làng có người trông thấy cười hì hì, bảo chưa bao giờ thấy ông bố như vậy. Nghe xong tôi cũng cười hì hì, nghĩ bụng trong làng này chẳng có con gái nhà ai đối xử với bố mẹ tử tế như Phượng Hà. Tôi nói:
- Chỉ có một mình Phượng Hà, chăm nom được bố thì không chăm được con rể vẹo đầu của tôi.
Bị tôi đuổi về thành phố, được mấy hôm Phượng Hà lại về. Lần này cả hai vợ chồng cùng về. Từ xa xa, hai đứa dắt tay nhau đi đến. Tôi đã nhận ra chúng nó từ rất xa, khỏi cần nhìn cái đầu bẹt của Nhị Hỷ, chỉ thấy dắt tay nhau là tôi cũng biết ai rồi. Nhị Hỷ xách một chai rượu nếp, cứ há mồm cười hoài; Phượng Hà xách cái làn tre nhỏ trong tay, cũng cười như Nhị Hỷ. Tôi nghĩ chắc là có việc mừng gì chúng nó mới vui thế. Vào trong nhà, Nhị Hỷ kéo kéo ống tay áo tôi:
- Bố ơi, Phượng Hà đã mang thai.
Phượng Hà có con ư? Tôi há miệng cười. Ba bố con tôi cười một lúc thì Nhị Hỷ chợt nhớ đến chai rượu trong tay, liền đi lấy ba cái bát, Phượng Hà lấy từ trong chiếc làn trẻ một bát hạt đậu. Nhị Hỷ rót đầy rượu cho tôi, lại rót cho Phượng Hà. Phượng Hà giữ chặt chai rượu, lắc đầu rối rít. Nhị Hỷ nói:
- Hôm nay em nên uống.
Phượng Hà như hiểu lời chồng, thôi lắc đầu. Chúng tôi bưng bát lên. Phượng Hà uống một ngụm, chau chau mày, thấy bố và chồng đều nhìn mình, nó mím môi cười. Tôi và Nhị Hỷ hai bố con uống hết. Một bát rượu đã vào bụng, Nhị Hỷ rưng rưng nước mắt, nói:
- Bố ạ, Phượng Hà này, con có nằm mơ cũng không nghĩ mình có ngày như hôm nay.
Tôi cũng rơm rớm nước mắt. Tôi bảo:
- Bố cũng không ngờ, trước đây cứ sợ nhất là mình chết đi thì Phượng Hà sẽ sống thế nào. Con lấy Phượng Hà, bố yên tâm hẳn, nay có con nữa lại càng hay, sau này Phượng Hà có ra đi thì cũng có người lo liệu.
Phượng Hà thấy bố và chồng đều khóc, mắt nó cũng đỏ hoe. Nhị Hỷ lại nói:
- Nếu bố mẹ con còn sống thì tốt quá. Khi mẹ con chết cứ cầm tay con không chịu buông.
Tôi liền nghĩ đến Gia Trân và Hữu Khánh, nói:
- Lúc Gia Trân chết, điều mẹ con không yên tâm nhất là Phượng Hà, còn Hữu Khánh nó lớn lên trong bàn tay bế ẵm của chị nó. Mẹ và em con đều không được chứng kiến hôm nay.
Tôi và Nhị Hỷ càng khóc càng đau lòng. Phượng Hà cũng nước mắt lưng tròng. Khóc một trận xong, Nhị Hỷ lại cười. Nó chỉ chỉ vào bát hạt đậu, nói:
- Bố ăn đậu đi, Phượng Hà rang đấy.
Tôi đáp:
- Bố ăn, bố ăn!
Nói rồi tôi cũng cười. Tôi sắp sửa có cháu ngoại. Chúng tôi khóc khóc cười cười, mãi cho đến khi chiều tối Nhị Hỷ và Phượng Hà mới ra về.
Phượng Hà sẽ có con, Nhị Hỷ càng thương yêu nó. Dạo ấy là mùa hè, trong nhà có nhiều muỗi, lại không có màn, hễ trời tối, Nhị Hỷ liền nằm ra giường cho muỗi đốt, để Phượng Hà ngồi hóng mát ở ngoài phố. Chờ muỗi ở trong nhà đốt no rồi, không còn đốt nữa, mới bảo Phượng Hà đi ngủ. Có vài lần Phượng Hà đi vào nhìn chồng, Nhị Hỷ sốt ruột bế vợ ra. Những chuyện này đều do nhà hàng xóm kể với tôi. Họ giục Nhị Hỷ:
- Anh đi mua một cái màn đi.
Nhị Hỷ vẫn cười, không nói gì. Lúc vắng người nó mới nói với tôi:
- Chưa trả xong nợ, con chưa yên tâm.
Nhìn muỗi đốt sần hết mình mẩy con rể, tôi thương lắm. Tôi bảo:
- Con đừng làm thế.
Nhị Hỷ nói:
- Một mình con, muỗi đốt nhiều một chút không hại gì, nhưng Phượng Hà là cả hai mẹ con.
Phượng Hà ở cữ vào mùa đông. Hôm ấy mưa tuyết to lắm, không nhìn thấy gì ở ngoài cửa sổ. Phượng Hà vào buồng đẻ đã một đêm mà vẫn chưa ra. Tôi và Nhị Hỷ chờ ở ngoài, càng chờ càng sợ. Có một bác sĩ đi ra, liền xô đến hỏi, biết Phượng Hà vẫn còn đang chờ, chúng tôi có phần nào yên tâm. Đến lúc trời sắp sang, Nhị Hỷ nói:
- Bố ơi, bố ngủ trước đi.
Tôi lắc đầu, đáp:
- Sốt ruột ngủ sao được.
Nhị Hỷ khuyên tôi:
- Hai người không thể buộc vào nhau được. Phượng Hà đẻ xong còn phải có người trông nom chứ.
Tôi nghĩ nói thế cũng phải, liền bảo:
- Con ngủ trước đi, Nhị Hỷ ạ.
Hai bố con cứ đùn đẩy nhau, chẳng người nào chịu người ngủ. Đến lúc trời sáng hẳn mà Phượng Hà vẫn chưa ra. Chúng tôi lại sợ, những người đi đẻ sau Phượng Hà đều đã ra hết. Tôi và Nhị Hỷ đâu có ngồi yên được, ghé vào cửa nghe ngóng tiếng động trong phòng, nghe thấy có tiếng đàn bà kêu, chúng tôi mới yên tâm. Nhị Hỷ nói:
- Khổ cho Phượng Hà.
Một lúc sau, tôi cảm thấy không đúng, Phượng Hà câm cơ mà, có biết kêu đâu. Tôi nói lại với Nhị Hỷ, Nhị Hỷ bỗng tái mét mặt, chạy đến cửa buồng đẻ gọi thục mạng:
- Phượng Hà, Phượng Hà!
Một bác sĩ ở trong đi ra bảo Nhị Hỷ:
- Anh gọi cái gì thế, ra đi.
Nhị Hỷ khóc huhu, nói:
- Sao mãi không thấy vợ tôi ra!
Có người ở bên cạnh nói với chúng tôi:
- Đẻ đái cũng tùy người, người thì nhanh, kẻ thì chậm.
Tôi nhìn Nhị Hỷ, Nhị Hỷ nhìn tôi, nghĩ bụng có thể là như vậy, liền ngồi xuống đợi, lòng vẫn hồi hộp lo lắng.
Chẳng bao lâu, một bác sĩ đi ra hỏi chúng tôi:
- Cần mẹ hay là cần con?
Nghe hỏi như vậy, chúng tôi đớ người ra. Bà bác sĩ lại hỏi:
- Nào, trả lời đi.
Nhị Hỷ quì thụp trước mặt bác sĩ, khóc trả lời:
- Thưa bác sĩ, cứu lấy Phượng Hà, tôi cần Phượng Hà.
Nhị Hỷ khóc huh u trên nền nhà. Tôi dìu Nhị Hỷ dậy, khuyên con rể đừng làm thế, làm thế ảnh hưởng đến sức khỏe. Tôi nói:
- Chỉ cần Phượng Hà không sao là được. Tục ngữ nói còn giữ được núi xanh thì sợ gì không có củi đun.
Nhị Hỷ khóc huhu nói:
- Con của tôi chết rồi.
|
|