Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 3425|Trả lời: 26
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Truyện Ngắn] Nhà Tuck Bất Tử l Natalie Babbitt

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Tên tác phẩm: Nhà Tuck bất tử
Tên tác giả: Natalie Babbitt
Tên dịch giả: Đan Linh
Thể loại: Truyện ngắn
Độ dài: 25 chương
Tình trạng sáng tác: đã hoàn thành
Nguồn tác phẩm: Bookaholic Club
Link download ebook( .prc và .pdf):
http://www.mediafire.com/download.php?ytmjnj2zmyn
------------------------------------------
Giới thiệu sơ lược:
Vào một ngày đầu tháng Tám ngọt ngào năm 1880, cô bé Winnie Foster tình cờ phát hiện ra dòng nước trường sinh trên mảnh đất của gia đình. Tám mươi bảy năm về trước người nhà Tuck đã uống dòng nước đó và cứ thế chứng kiến cuộc sống trôi đi mà chẳng hề già thêm. Và Winnie Foster được đặt trước lựa chọn có nên giữ bí mật về dòng suối đó? Có nên cũng uống nước trường sinh, lớn lên sẽ cưới Jesse Tuck bất tử và cùng tham gia chuyến du hành bất tận xuyên thời gian?
Nhà Tuck bất tử là câu chuyện tựa như cổ tích với một dòng suối thần, một nhân vật nữ chính bị bắt cóc, một gia đình bất tử, một gã mặc đồ vàng bí hiểm và một đoạn kết không hẳn quá hoàn mỹ nhưng vô cùng ý nghĩa về cuộc sống và cái chết. Ngôn ngữ đẹp và giàu hình ảnh, cuốn sách từng nhận giải thưởng của Hiệp hội Thư viện Mỹ, được xếp vào hàng kinh điển của thể loại văn học thiếu nhi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 23-10-2011 19:27:13 | Chỉ xem của tác giả
LỜI MỞ
Tuần đầu tiên của tháng Tám treo mình trên đỉnh điểm của mùa hè, đỉnh điểm của cả năm dài sôi động, như chỗ cao nhất của bánh xe đu quay khổng lồ đang dừng nghỉ trong vòng quay của nó. Những tuần lễ đến trước đó chỉ là chuyển động đi lên từ mùa xuân êm dịu. Còn những tuần sau này là sự đi xuống mùa thu lạnh lẽo, nhưng tuần đầu tiên của tháng Tám thì bất động và nóng. Tĩnh lặng đến kỳ lạ, với những buổi bình minh trắng lóa trống trải, những ban trưa chói chang, và những hoàng hôn lem luốc sắc màu quá thẫm. Ban đêm thường có chớp lóe, nhưng thảy chỉ là những tia run rẩy đơn độc mà thôi. Bầu trời không sấm động, không có những cơn mưa cho dịu mát. Đó là những ngày kỳ lạ và ngột ngạt những ngày tồi tệ nhất, xui khiến con người ta làm những việc mà chắc chắn sau này họ sẽ phải hối tiếc.
Một ngày ở thời điểm đó, cách đây không lâu lắm, đã diễn ra ba sự việc thoạt trông chẳng có vẻ gì liên quan đến nhau cả.
Vào lúc bình minh, bà Mae Tuck cưỡi ngựa lên đường đến khu rừng ven làng Treegap. Bà đến đó, như vẫn làm vậy cứ mười năm một lần, để đón hai cậu con trai Miles và Jesse.
Vào lúc giữa trưa, Winnie Foster, thành viên của gia đình sở hữu khu rừng Treegap, sau cùng đã mất hết kiên nhẫn và quyết định nghĩ đến chuyện bỏ nhà đi.
Và vào lúc hoàng hôn, một người lạ mặt xuất hiện ở cổng nhà Foster. Ông đang tìm ai đó nhưng lại chẳng cho biết đó là ai.
Chẳng có liên hệ gì cả, phải công nhận là vậy. Nhưng các sự việc có thể kết hợp lại với nhau theo cách thật lạ đời. Khu rừng ở tâm điểm, giống như chiếc trục bánh xe. Mọi chiếc bánh xe đều phải có trục. Bánh xe đu quay cũng có một cái trục, tựa như mặt trời là tâm điểm của bánh xe thời gian. Chúng đều là những điểm cố định, và tốt hơn hết là để yên đừng quấy rầy, bởi vì không có chúng thì không có gì gắn kết nổi với nhau. Nhưng đôi khi người ta nhận ra điều này quá trễ.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 23-10-2011 19:28:21 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 1
Đã từ lâu rồi con đường dẫn vào Treegap do đàn bò trông còn hơn cả nhàn nhã giẫm đạp lên mà thành. Chúng thơ thẩn theo những đường cong và hơi dích-dắc, đung đưa thân mình leo ngược lên cao tạo thành một mặt phẳng sinh động nối với đỉnh ngọn đồi nhỏ, rồi lại thong dong đi xuống giữa hai bờ cỏ ba lá rập rờn ong lượn, sau đó băng ngang qua mé đồng cỏ. Tại đây, đường viền của mặt phẳng ấy mờ đi. Chúng tản ra rồi như dừng hẳn lại, bắt đầu những cuộc dã ngoại yên bình theo kiểu bò: chậm rãi nhai cỏ và trầm tư về cái vô hạn. Gặm cỏ xong chúng lại tiếp tục lên đường và cuối cùng cũng đến được khu rừng. Nhưng vừa chạm vào bóng râm dưới những hàng cây đầu tiên, chúng đột nhiên đổi hướng, lượn theo một vòng cung rộng, cứ như thế đây là lần đầu tiên chúng có lý do để suy nghĩ xem mình đang đi đâu, và vượt qua ở bên cạnh .
Bên kia khu rừng, cảm giác nhẹ nhõm vô ưu tan biến. Con đường không thuộc về đàn bò nữa. Thay vào đó, hơi đột ngột, nó biến thành tài sản của con người . Và cùng lúc trời trở nên nóng bức khó chịu, bụi bốc mù ngột ngạt, còn bờ cỏ lơ thơ dọc bên đường có phần xơ xác tiêu điều. Bên trái đường xuất hiện căn nhà đầu tiên, một ngôi nhà thôn dã vuông vắn và vững chãi mang dáng vẻ đừngđụng-vào-tôi nằm giữa một bãi cỏ bị cắt trụi sát sạt cho nhanh và được quanh bởi một hàng rào thép chắc chắn cao đến hơn một mét rõ ràng là muốn nói rằng, “ Đi tiếp đi - chúng tôi không muốn bạn ở đây.” Thế là con đường khiêm nhường nép mình đi tiếp, mỗi lúc lại qua thêm nhiều ngôi nhà nhưng càng lúc càng bớt đáng sợ, cứ thế mà dẫn vào làng. Nhưng ngôi làng không có ý nghĩa gì, ngoại trừ nhà giam và cái giá treo cổ. Chỉ có ngôi nhà đầu tiên là quan trọng; ngôi nhà đầu tiên, con đường, và khu rừng.
Khu rừng có cái gì đó thật lạ. Nếu vẻ ngoài của ngôi nhà đầu tiên gợi ý rằng tốt hơn hết ta nên bỏ qua nó, thì cái vẻ của khu rừng cũng vậy, nhưng là vì một lý do hơi khác. Ngôi nhà nom có vẻ tự đắc đến mỗi bạn chỉ muốn làm náo động ầm ĩ lên khi đi ngang qua, hoặc thậm chí choảng cho nó dăm ba cục đá. Nhưng khu rừng thì mang dáng vẻ mơ màng thiếp ngủ, như thuộc về một thế giới khác, đến nỗi bạn chỉ muốn nói thầm thì. Đó ít ra cũng là những gì đàn bò hẳn phải nghĩ: “Để nó yên; chúng ta sẽ không làm phiền nó.”
Khó mà biết được con người có cảm thấy như thế về khu rừng hay không. Có lẽ là có vài người nghĩ vậy thật. Nhưng phần lớn mọi người đều đi theo con đường vòng ra khu rừng bởi vì đó là đường có sẵn. Không có đường xuyên qua rừng. Và dù sao đi nữa, đối với con người, còn có một lý do nữa khiến họ để cho khu rừng được yên: nó thuộc về gia đình Foster, chủ nhân ngôi nhà đừngđụng-vàotôi, và do đó là tài sản cá nhân dù nó có nằm bên ngoài hàng rào và có dễ vào đến đâu đi chăng nữa.
Quyền sở hữu đất là một thứ thật kỳ quặc nếu bạn để tâm nghĩ đến. Sau cùng thì người ta có thể sở hữu đất sâu đến mức độ nào? Nếu một người là chủ mảnh đất, thì người ấy có được sở hữu hoàn toàn cả bên dưới, hiểu theo khía cạnh hẹp nhất, cho tới tận từng mảnh tâm trái đất không? Hay là quyền sở hữu ấy chỉ bao gồm các lớp vỏ mỏng manh mà bên dưới nó mấy chú giun thân thiện chưa từng nghĩ đến chuyện vượt qua?
Dù gì đi chăng nữa thì khu rừng nằm bên trên, dĩ nhiên là ngoại trừ rễ cây, thuộc về gia đình Foster trong ngôi nhà đừngđụng-vàotôi đến từng cành cây ngọn cỏ, và nếu họ chưa từng vào đây, chưa từng thả bộ dưới những tán cây, thì đó là chuyện của họ. Winnie, đứa trẻ duy nhất trong nhà, chưa bao giời đến đấy, dù đôi khi cô bé thường đứng bên trong hàng rào, lơ đễnh gõ nhịp một cái que lên những thanh hàng rào, và ngắm nhìn khu rừng. Nhưng Winnie chưa từng tò mò về nó. Khi đã thuộc về mình thì mọi thứ xem ra chẳng hề thú vị - chỉ thú vị khi chúng không phải là của mình thôi.
Mà khoảnh rừng cây rộng có vài mẫu này thì có gì thú vị cơ chứ? Đó chỉ là một không gian lờ mờ với những vệt nắng xuyên qua, một lũ sóc và chim, một lớp nệm lá ẩm trên nền đất và tất tật những thứ quen thuộc khác dù chẳng dễ chịu bằng – những thứ như nhện, gai và dòi.
Tuy vậy, nói cho cùng, đàn bò chính là thủ phạm làm cho khu rừng trở nên tách biệt, và đàn bò, bằng đôi chút thông thái mà chúng không đủ khôn ngoan để biết rằng mình sở hữu, thưc ra đã rất thông minh. Vì nếu chung đi xuyên qua rừng thay vì đi đường vòng thì con người chắc đã theo đó mà đi rồi. Người ta hẳn sẽ để ý ngay đến cây tần bì khổng lồ nằm ngay chính giữa khu rừng, và rồi, theo thời gian, họ sẽ để ý thấy cả con suối nhỏ đang sùi bọt trào lên giữa đám rễ cây tần bì bất chấp đống đá cuội đã được lấp xuống để giấu nó đi. Và sẽ là một thảm họa khủng khiếp nếu quả đất già nua mệt lử này, dù cho có bị sở hữu đến tận phần lõi nóng bỏng của nó hay không, bỗng rung quanh trục như con bọ trên chiếc đinh ghim.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 23-10-2011 21:42:23 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 2
Và thế là vào rạng sáng một ngày trong tuần đầu tháng Tám, bà Mae Tuck thức dậy rồi nhưng vẫn nằm thêm một lúc nữa, mỉm cười với đám mạng nhện trên trần nhà. Sau cùng bà nói thật to, “ Ngày mai tụi nhỏ về nhà rồi!”
Ông chồng của bà Mae đang nằm ngửa bên cạnh không hề nhúc nhích. Ông hãy còn say ngủ, những nếp nhăn sầu muộn hằn sâu cả ngày trên khuôn mặt chùng xuống và dịu đi. Ông ngáy nhè nhẹ, và trong khoảnh khắc hai khóe miệng ông hơi nhếch lên thành một nụ cười. Ông Tuck hầu như chưa bao giờ cười trừ trong lúc ngủ.
Bà Mae ngồi dậy lên giường, nhìn chồng nhẫn nhịn rồi lặp lại hơi to tiếng hơn một chút, “Ngày mai tụi nhỏ về nhà rồi.”
Ông Tuck giật mình và nụ cười vụt biến mất. Ông mở mắt. “Bà đánh thức tôi chi vậy?” ông thở dài.” Tôi lại đang mơ giấc mơ đó, giấc mơ tuyệt vời khi chúng ta đã được lên thiên đàng và chưa từng nghe nói đến Treegap.”
Bà Mae ngồi đó cau mày, một phụ nữ mập mạp với khuôn mặt tròn trịa thông minh và đôi mắt nâu trầm tĩnh. “Mơ như vậy chẳng được tích sự gì cả,” bà nói. “Chẳng có gì thay đổi hết.”
“Ngày nào bà cũng nói tôi như vậy,” ông Tuck đáp rồi trở mình nằm xoay lưng lại. “Dù sao đi nữa thì tôi đâu thể ngăn mình mơ cái tôi mơ được.”
“Có thể là không,” bà Mae nói. “Nhưng cũng vậy thôi, đến giờ đáng lẽ ông phải quen với mọi việc rồi mới phải chứ.”
Ông Tuck rền rĩ, “Thôi tôi ngủ lại đây.”
“Tôi thì không,” bà Mae đáp. “Tôi đi lấy ngựa xuống chỗ cánh rừng gặp tụi nhỏ đây.”
“Gặp ai?”
“Tụi nhỏ, ông Tuck à! Mấy thằng con mình. Tôi đi ngựa xuống rừng gặp tụi nó.”
“Tốt hơn hết bà đừng có đi,” ông Tuck nói.
“Tôi biết,” bà Mae đáp, “nhưng tôi chờ gặp chúng hết nổi rồi. Dù sao đi nữa thì cũng mười năm rồi tôi chưa đến Treegap. Sẽ chẳng có ai nhớ nổi tôi đâu. Khoảng chiều tối tôi mới đến đó, chỉ đến khu rừng thôi. Tôi không vào làng đâu. Nhưng mà, ngay cả khi ai đó thấy tôi đi chăng nữa thì họ cũng chả nhớ nổi. Hồi nào tới giờ có ai nhớ đâu, giờ không lẽ họ lại nhớ?”
“Bà thích thì cứ làm đi,” ông Tuck nói, mặt úp xuống gối. “Tôi đi ngủ đây.”
Bà Mae Tuck bò ra khỏi giường và bắt đầu mặc đồ: ba cái váy lót dài, chiếc váy màu nâu đỏ có cái túi to sụ, chiếc áo vest cũ vải bông và cái khăn choàng đan bằng len mà bà choàng quanh ngực và ghim lại bằng cây ghim cài áo kim loai đã xỉn màu. Tiếng sột soạt của quần áo thân quen với Tuck đến nỗi ông có thể nói mà không cần mở mắt ra, “Bà không cần choàng cái khăn đó ngay giữa mùa hè đâu.”
Nhưng bà Mae phớt lờ nhận xét của chồng. Thay vì đáp trả lại, bà nói, “Ông ở nhà một mình có sao không vậy? Chắc phải tối muộn ngày mai tôi mới về đến nhà.”
Ông Tuck xoay người lại và làm mặt thảm não nhìn vợ. “Cái quỷ quái gì trên đời này có thể cho tôi cơ chứ?”
“Ừ ha,” bà Mae đáp. “Tôi cứ quên hoài.”
“Tôi thì không,” ông Tuck nói. “Đi vui vẻ nhé.” Và liền ngay đó ông lại chìm vào giấc ngủ.
Bà Mae ngồi trên mép giường mang vào chân đôi ủng da ngắn mòn vẹt và mềm rũ vì năm tháng đến nỗi thật lạ là chúng vẫn chưa mất chiếc nào. Rồi bà đứng dậy và lấy từ giá rửa mặt canh giường ra một vật nhỏ hình vuông, một chiếc hộp nhạc vẽ hình hoa hồng và hoa lan chuông. Đó là vật xinh xắn duy nhất bà có và bà chưa từng đi đâu mà không mang nó theo. Ngón tay bà vô tình chạm đến chỗ chìa khóa lên dây cót ở đáy hộp nhưng liếc thấy ông Tuck đang say ngủ, bà lắc đầu, vỗ nhẹ lên chiếc hộp rồi thả nó vào túi. Cuối cùng bà chụp xuống quá tai chiếc mũ rơm màu da trời có cái vành rũ rượi mệt mỏi.
Nhưng, trước khi đội mũ lên, bà không quên chải lại mái tóc màu nâu xám và bới thành búi đằng sau gáy. Bà làm việc này nhanh chóng và khéo léo mà không cần liếc vào gương một lần. Mae Tuck chẳng cần gương, dù bà có dựng một chiếc trên giá rửa mặt. Bà biết rõ mình sẽ thấy gì trong đó; đã từ lâu lắm rồi bóng mình trong gương không còn khiến bà quan tâm. Đối với Mae Tuck, với chồng bà và cả hai con trai Jesse và Miles, vẻ ngoài của họ đã không hề thay đổi trong vòng tám mươi bảy năm qua.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 23-10-2011 21:44:12 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 3
Buổi trưa cùng cái ngày trong tuần đầu tháng Tám ấy, Winnie Foster ngồi trên bãi cỏ lởm chởm ngay bên trong hàng rào chuyện trò với con cóc to sụ đang chồm hỗm cách dó vài mét bên kia đường. “Dù sao đi nữa thì tao cũng sẽ làm. Rồi mày sẽ thấy. Có lẽ là ngay sáng sớm mai trong lúc cả nhà vẫn còn ngủ.”
Khó mà biết được con cóc đó có lắng nghe lời Winnie nói hay không nữa. Dĩ nhiên, Winnie đã cho nó một lý do chính đáng để phớt lờ cô bé. Cô đã đi đến bên hàng rào, điên tiết, tức muốn bốc khói, trong một ngày cũng nóng muốn bốc khói, và lập tức chú ý đến chú cóc ấy. Nó là vật thể sống duy nhất tồn tại trong tầm nhìn ngoài lũ muỗi mắt vo ve bay loạn xạ thành đám lửng lơ trong làn hơi nóng trên mặt đường. Winnie kiếm được mấy hòn sỏi dưới chân hàng rào và, vì không còn cách nào hơn để xả giận, cô lấy một viên ném vào con cóc. Cú ném trật lất, vì cô đã cố tình nhắm như vậy, nhưng dù gì cô cũng phải biến đó thành trò tiêu khiển: ném sao để hòn sỏi bay xuyên qua đám muỗi mắt đến chỗ con cóc. Tuy vậy, đàn muỗi đang rối rít nhặng xị nên chẳng buồn quan tâm đến sự phá bĩnh này, và vì hòn sỏi nào cũng trật đích cả nên cóc ta vẫn cứ tiếp tục nhăn nhở ngồi chồm hỗm đó, chẳng thèm giật mình hoảng sợ. Có lẽ nó đang quá bực bội. Hoặc cũng có thể nó đang ngủ. Dù thế nào thì nó cũng không thèm liếc Winnie lấy một cái cho tới tận khi cô ném sạch bách đống sỏi và ngồi xuống kể cho nó nghe mấy câu chuyện phiền muộn của mình.
“Nghe nè, cóc,” cô vừa nói vừa thò tay qua song rào bứt cỏ dại mọc bên ngoài. “Tao nghĩ là tao chịu hết nổi rồi.”
Ngay lúc đó cánh cửa sổ trước nhà bật mở và một giọng nhỏ nhẹ - của bà nội cô - vang lên, “Winnifred! Đừng có ngồi lên bãi cỏ dơ bẩn ấy. Con sẽ làm lấm hết ủng và vớ mất thôi.”
Và một giọng nói khác, kiên quyết hơn - của mẹ cô - chêm vào, “Vào nhà ngay Winnie. Ngay lập tức. Trời nóng như vậy mà ở ngoài là cảm nắng bây giờ. Đồ ăn trưa của con xong rồi đây.”
“Mày thấy chưa?” Winnie nói với chú cóc. “Tao tính kể cho mày nghe như vậy đó. Bà với mẹ lúc nào cũng thế. Nếu mà tao có anh chị em thì đỡ rồi, sẽ có thêm ai đó cho họ trông chừng. Nhưng mà, kiểu nó thế đấy, có mỗi mình tao thôi. Tao chán bị quản thúc mọi lúc mọi nơi rồi. Tao muốn được ở một mình để thay đổi.” Cô tì trán vào song rào rồi im lặng giây lát trước khi nói bằng cái giọng suy tư. “Mày biết không, tao cũng không rõ là mình sẽ làm gì nữa, nhưng chắc phải làm một cái gì đó thú vị - cái gì đó của riêng tao thôi. Một cái gì đó làm nên sự khác biệt trên thế giới này. Để bắt đầu thì chắc là tao sẽ có tên mới, một cái tên sẽ không bị hư hao vì bị kêu quá nhiều. Rồi thậm chí có khi tao tính nuôi con gì đó nữa. Có thể là một con cóc già to sụ, như mày, con gì đấy tao có thể nuôi trong một cái lồng thật đẹp với quá trời cỏ, và…”
Đến lúc này cóc ta mới chịu động đậy và chớp chớp mắt. Nó gồng mình lên và phi cái thân hình nặng nề như trái banh nặn bằng bùn của mình văng ra xa cô bé thêm chút nữa.
“Mày đúng đó,” Winnie nói. “Nếu làm vậy thì mày sẽ y hệt như tao bây giờ. Sao lại bắt mày cũng phải bị nhốt trong lồng chứ? Tao ước gì được như mày, tự do tự tại thích làm gì thì làm. Mày có biết là họ đâu khi nào để tao ra khỏi cái sân này một mình không? Tao sẽ chẳng bao giờ làm được cái gì trọng đại nếu cứ ở riết đây hoài. Tao nghĩ tốt nhất là tao bỏ trốn.” Nói đến đây cô bé dừng lại và săm soi lo lắng nhìn con cóc xem nó tiếp nhận cái ý tưởng gây choáng váng này như thế nào, nhưng cóc ta chẳng hề tỏ ra quan tâm chút nào. “Mày nghĩ tao không dám chứ gì?” cô nói với vẻ cáo buộc. “Dù sao đi nữa tao cũng sẽ làm. Rồi mày xem. Có thể là ngay sáng mai trong lúc cả nhà còn đang ngủ.”
“Winnie!” giọng kiên quyết lại vang lên bên cửa sổ.
“Nghe rồi! Con vào đây!” cô la lên, cáu kỉnh, rồi vội nói thêm. “Ý con là, con vào liền đây, thưa mẹ.” Cô đứng dậy, phủi mấy mảnh cỏ ngứa bán đầy trên vớ.
Chú cóc, như thể nhận ra buổi trò chuyện giữa họ đã kết thúc, bèn động đậy, thu mình lại và vụng về lóc cóc nhảy vào rừng. Winnie nhìn nó. “Nhảy đi, cóc, “ cô gọi với theo. “Rồi mày xem. Cứ chờ đến sáng mai nhé.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 23-10-2011 21:45:52 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 4
Vào lúc hoàng hôn cùng cái ngày dài lê thê ấy, một người lạ mặt xuất hiện, đủng đỉnh từ dưới làng đi lên rồi dừng chân trước cổng nhà Foster. Winnie lại một lần nữa ở trong sân, lần này đang định chơi trò bắt đom đóm, và thoạt tiên cô bé không để ý thấy gã. Nhưng sau một hồi quan sát cô bé, gã lên tiếng, “Chào con!”
Gã rất cao và khẳng khiu, cái người lạ đang đứng đó ấy. Chiếc cằm dài của gã mờ dần đi dưới mớ râu lưa thưa gọi là có, nhưng bộ đồ của gã thì vàng chóe đến gần như hơi rực lên trong nắng nhạt. Một tay gã treo toòng teng chiếc mũ đen, và khi Winnie tiến lại, gã đưa tay kia lên vuốt lại mái tóc khô xám cho mượt. “Chà,” gã nói bằng giọng nhỏ nhẹ. “Con đang bắt đom đóm đấy à?”
“Dạ,” Winnie đáp.
“Bắt đom đóm vào một buổi chiều hè như thế này thật là đáng yêu,” người lạ tán dương. “Một trò chơi dễ thương làm sao. Hồi bác bằng tuổi con bác cũng thường chơi như vậy lắm. Nhưng tất nhiên là lâu lắm lắm rồi.” Gã vừa cười vừa đưa mấy ngón tay mảnh khảnh lên che miệng. Thân hình lênh khênh của gã động đậy liên tục; một chân gõ nhịp, một bên vai giật giật. Nó chuyển động xiên xẹo, khá nhát gừng. Nhưng đồng thời ở gã có một kiểu duyên dáng, như một con rối được điều khiển khéo léo. Quả thực nom gã gần như lơ lửng ở đó trong bóng chiều nhá nhem. Nhưng Winnie, dù đã gần như mê mẩn, bỗng giật mình sực nhớ đến mấy dải băng đen lạnh lùng trên cửa nhà từ hồi đám tang ông nội. Cô bé cau mày rồi nhìn người lạ kỹ hơn. Nhưng nụ cười của gã trông vẫn hết sức tự nhiên, dễ mến và thân thiện.
“Đây là nhà con phải không?” người đàn ông hỏi, hai tay giờ đã khoanh lại và tựa mình vào cổng.
“Dạ phải.” Winnie đáp . “Bác có muốn vào gặp ba con không ạ?”
“Có lẽ có. Một chút thôi,” gã nói. “Nhưng bác muốn nói chuyện với con trước. Con và cả nhà ở đây lâu chưa?”
“Dạ lâu rồi “ Winnie trả lời. “Con và cả nhà đã sống ở đây từ ngày xửa ngày xưa.”
“Từ ngày xửa ngày xưa,” người đàn ông trầm ngâm lặp lại.
Đó không phải là một câu hỏi, nhưng Winnie lại quyết định dù sao cũng phải giải thích. “À, tất nhiên không phải là từ ngày xửa ngày xưa, nhưng cũng phải từ khi có người sống ở đây. Bà nội con sinh ra ở đây. Bà nói có thời ở đây toàn cây không à, khắp quanh đây chỉ là một cánh rừng lớn, nhưng mà giờ người ta chặt gần hết rồi. Còn có mỗi khu rừng kia thôi.”
“Bác biết rồi,” gã vừa nói vừa ngắt râu. “Vậy là chắc con quen hết mọi người, và biết hết mọi chuyện xảy ra quanh đây phải không?”
“Dạ cũng không hẳn,” Winnie nói, “Ít nhất thì con không biết. Nhưng mà sao ạ?”
Người lạ nhướng mày. “À, bác đang kiếm một người, một gia đình.”
“Con không biết nhiều người lắm,” Winnie vừa đáp vừa khẽ nhún vai. “Nhưng mà chắc ba con quen. Bác hỏi ba con thử xem.”
“Phải hỏi chứ,” gã nói. “Bác chắc là phải hỏi rồi.”
Ngay lúc ấy cánh cửa nhà xịch mở, và bà của Winnie xuất hiện trong ánh đèn hất lên bãi cỏ. “ Winnifred, đang nói chuyện với ai đó con?”
“Bà ơi có một ông,” Winnie đáp với lại. “Ông ấy nói là đang kiếm người.”
“Cái gì?” bà cụ nói. Bà nhấc váy lên rồi bước xuống lối đi ra cổng. “Con nói ông này muốn gì?”
Lúc này người đàn ông đứng bên ngoài hàng rào khẽ cúi đầu. “Chào bà ạ,” gã nói. “Thật vui khi thấy bà vẫn khỏe mạnh.”
“Vì lý do gì mà tôi lại không khỏe cơ chứ?” bà độp lại, săm soi nhìn người lạ qua làn ánh sáng lờ mờ. Bộ đồ màu vàng của gã hình như khiến bà ngạc nhiên, và bà nheo mắt ngờ vực. “Tôi nhớ chưa gặp ông bao giờ. Ông là ai? Ông đang tìm ai?”
Người đàn ông không trả lời câu nào. Thay vì vậy gã nói, “ Quý cô trẻ tuổi này cho tôi hay là bà sống ở đây lâu lắm rồi cho nên tôi nghĩ chắc là bà biết hết những người đến và chuyển đi ở đây.”
Bà cụ lắc đầu. “Tôi không quen hết mọi người,” bà nói, “mà tôi cũng không muốn biết. Và tôi không đứng ngoài trời tối nói tới nói lui ba cái chuyện này với người lạ. Winnie cũng vậy. Nên là…”
Nói đến đây bà đột nhiên ngừng lại. Vì, xuyên qua tiếng dế buổi chiều và tiếng hàng cây thở dài, một điệu nhạc kỳ lạ, mơ hồ văng vẳng đến chỗ họ, và cả ba người đều ngoái đầu về phía nó phát ra, về phía khu rừng. Đó là một giai điệu nhẹ nhàng pha lẫn những tiếng leng keng, vang lên vài phút rồi dừng lại.
“Trời đất quỷ thần ơi!” bà nội Winnie thốt lên, trón xoe mắt. “Chắc là nó quay trở lại rồi, qua bao nhiêu năm trời!” Bà ấn mạnh hai bàn tay nhăn nheo vào nhau, quên khuấy đi mất người đàn ông mặc bộ đồ màu vàng. “Con có nghe thấy không, Winnifred? Nó đó! Khúc nhạc yêu tinh mà bà kể cho con nghe đó. Sao vậy trời, phải lâu lắm rồi bà mới được nghe lại. Còn con mới nghe lần đầu phải không? Đợi đó để kể cho ba con nghe mới được!” Nói rồi bà túm lấy tay Winnie quay vào trong nhà.
“Xin chờ chút!” người đứng ở cổng nói. Gã đã ngây cả người, và giọng nói thì thật hào hứng. “Bà nói là trước đây từng nghe bản nhạc đó rồi phải không ạ?”
Nhưng trước khi gã kịp nhận câu trả lời thì điệu nhạc ấy lại cất lên và tất cả họ đều dừng sững lại lắng nghe. Lần này tiếng leng keng mơ hồ vang lên trong giai điệu nhẹ nhàng ba lần rồi lụi tắt.
“Nghe giống như phát ra từ hộp nhạc ấy,” Winnie nói sau khi nhạc đã tắt.
“Vớ vẩn. Là yêu tinh đấy!” bà của cô kích động reo lên. Rồi bà quay qua nói với người lạ vẫn đứng ở cổng, “Còn giờ thì xin phép ông nhé.” Nói xong bà cài cái then cửa lại ngay trước mũi gã, xem đã khóa kỹ chưa rồi vừa nắm tay Winnie vừa rầm rập đi vào nhà, đóng sập cửa sau lưng.
Nhưng người đàn ông trong bộ đồ vàng vẫn đứng đó một mình rất lâu sau đó, chân nhịp trên đường, nhìn về phía khu rừng. Gã vẫn đứng đó khi những vệt nắng cuối cùng của buổi hoàng hôn đã tan biến, và ánh tà dương cũng đã tắt lịm, dù tàn dư của nó vẫn lưu luyến vương trên mọi thứ nhạt màu - những viên đá sỏi, con đường lầm bụi, và thân hình của gã đàn ông - biến chúng thành màu thiên thanh mờ ảo.
Sau đó trăng lên. Người đàn ông sực tỉnh và thở dài. Vẻ mặt gã hết sức hài lòng. Gã đội mũ lên, và dưới ánh trăng sáng mấy ngón tay dài của gã trở nên thanh mảnh, trắng bệch. Rồi gã quay người đi khuất xuống con đường tối, lúc đi gã còn huýt sáo, rất khẽ, theo cái điệu nhạc nhẹ nhàng leng keng phát ra từ khu rừng ấy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 23-10-2011 22:19:18 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 5
Sáng hôm sau Winnie thức dậy thật sớm. Mặt trời chỉ mới vừa hé mắt nơi đường chân trời phía Đông và ngôi nhà vẫn im phăng phắc. Nhưng cô bé nhớ ra là suốt đêm qua đôi lúc cô đã quyết định: hôm nay sẽ không bỏ trốn nữa. “Rốt cuộc rồi mình sẽ đi đâu cơ chứ?” cô tự nhủ. “Đâu có chỗ nào khác mình thật sự muốn đi đâu.” Nhưng tại một phần khác trong đầu cô bé, cái phần tăm tối nơi những nỗi sợ hãi xa xưa nhất của cô trú ngụ, cô biết rằng còn có một lý do nữa khiến cô muốn ở lại: cô sợ phải đi xa một mình.
Mong muốn được ở một mình, được làm những việc trọng đại là một chuyện, còn có gan làm chuyện đó khi có cơ hội hay không lại là chuyện khác. Nhân vật trong những câu chuyện cô đọc đều rũ áo ra đi m à không cần suy tính hay vướng bận, nhưng ngoài đời thì… ừm, thế gới bên ngoài đầy rẫy hiểm nguy. Mọi người luôn nói với cô như vậy. Cô sẽ chẳng thể nào xoay sở nếu không được che chở bao bọc. Họ cũng luôn nói với cô điều đó nữa. Chẳng ai chịu nói rõ cho cô biết những chuyện cô không thể tự mình xoay xở là chuyên gì. Nhưng Winnie cũng chẳng cần hỏi. Tự mình cô bé đã tưởng tượng ra biết bao nhiêu điều kinh khủng rồi.
Dù vậy, thật là bực mình khi phải thú nhận rằng mình sợ. Rồi cô cảm thấy còn nản lòng hơn nữa khi nghĩ đến con cóc. Nếu ngày hôm nay nó lại đến bên hàng rào nữa thì sao? Nếu nó âm thầm cười nhạo và cho rằng cô nhát gan thì sao chứ?
Thôi được, kiểu gì thì ít nhất mình cũng có thể vù ra ngoài, ngay bay giờ, cô quyết định, và đi vào rừng. Để xem cô có thể khám phá ra cái gì thật sự phát ra điệu nhạc tối hôm qua không. Chắc phải có cái gì đó chứ. Cô không cho phép mình xem xét cái ý tưởng muốn làm nên đôi chút khác biệt trên thế giới thì cần phải liều lĩnh mạo hiểm. Cô chỉ đơn giản tự an ủi bản thân rằng, “Dĩ nhiên, lúc ở trong rừng nếu mình quyết định không bao giờ quay trở lại nữa thì mới phải mạo hiểm thế.” Cô tin được điều đó vì cô cần như vậy; và, niềm tin ấy lại một lần nữa trở thành người bạn đường chân thật, đầy hứa hẹn.
L ại là một buổi sáng nặng nề nữa, chưa gì đã nóng bức và ngột ngạt rồi, nhưng không khí trong rừng thì mát mẻ hơn và có vẻ ẩm ướt khó chịu. Winnie mới rụt rè đi dưới những cành lá đan xen chưa đầy hai phút thì đã tự hỏi sao trước kia mình chưa từng vào đây bao giờ. “Tại sao vậy nhỉ, ở đây dễ chịu quá mà!” cô kinh ngạc nghĩ.
C ả khu rừng ngập tràn ánh nắng, khác xa thứ ánh nắng mà cô từng biết. Nó có màu xanh lá và vàng hổ phách, sống động, rung rinh từng vệt lấp loáng trên đất mềm, luồn vào khe hở giữa những thân cây khỏe khoắn. Đây là những bông hoa bé nhỏ cô chẳng biết tên, màu trắng và phớt xanh; kia là hằng hà sa số dây leo xoắn xuýt; và đây đó lại có một cành cây gãy đã mục nát phân nửa nhưng mềm mại với hàng mảng rêu nhung xanh mướt mượt mà.
Và ở đó chỗ nào cũng có sinh vật. Những hoạt động lúc tinh mơ của chúng khiến bầu không khí trong rừng chộn rộn hẳn lên: bọ hung, chim chóc, sóc, kiến, và còn vô vàn những sinh vật khác không nhìn thấy được, tất cả chúng đều hiền lành, cắm cúi vào việc của mình và chẳng hề đáng sợ chút nào cả. Ở đó thậm chí còn có, cô sung sướng khi trông thấy, chú cóc đó. Nó đang ngồi chễm chệ trên một gốc cây cụt và đáng lẽ cô đã không nhận ra, vì trông giống cây nấm hơn là một sinh vật sống đang ngồi đó. Tuy nhiên, khi cô đi đến bên nó, cóc ta liền chớp mắt và cử động đó khiến cô trông thấy nó.
“Mày thấy chưa?” cô reo lên. ”Tao đã nói với mày là ngay sáng nay tao sẽ đến đây mà.” Chú cóc lại chớp mắt và gập đầu. Hoặc cũng có thể chẳng qua nó đang nuốt một con ruồi. Nhưng chú ta bỗng lùi dần ra ngoài gốc cây và mất dạng trong tầng cây thấp.
“Chắc là nó chờ mình nãy giờ đây, “ Winnie tự nhủ, trong lòng cảm thấy hết sức vui.
Cô bé đi vơ vẩ n loanh quanh một lúc lâu, nhìn ngắm mọi thứ, lắng nghe mọi thứ, tự hào vì đã quên được cái thế giới chật chội bị tỉa tót ở bên ngoài, miệng khe khẽ ư ử theo trí nhớ điệu nhạc hồi tối. Và rồi, ngay trước mắt, ở một chỗ nơi ánh sáng dường như rực rỡ hơn và mặt đất dường như thoáng đãng hơn, có cái gì đó đang động đậy.
Winnie d ừng ngay lại và thụp người xuống. “Nếu đó là yêu tinh thật,” cô nghĩ, “thì mình có thể xem chúng.” Thế là, dù bản năng, mách bảo hãy quay lui và bỏ chạy, cô hài lòng nhận ra trí tò mò của mình còn mạnh hơn cả nỗi sợ hãi. Cô bắt đầu rón rén tiến lên phía trước. Sẽ chỉ đến gần vừa đủ nhìn thôi, cô tự nhủ. Chỉ đến gần vừa đủ trông thấy thôi. Và sau đó cô sẽ quay lại và chạy. Nhưng rồi khi đã đến gần, núp sau một thân cây, và hé mắt nhìn ra, miệng cô há hốc kinh ngạc còn mọi ý nghĩ chạy trốn đều tan biến đi đâu mất.
M ột khoảng rừng quang trải ra trước mắt cô, chính giữa là một cây cổ thụ khổng lồ, đám rễ mập mạp của nó làm nhàu mặt đất xung quanh đến gần ba mét về mọi hướng. Đang ngồi thư thả đó, lưng tựa vào thân cây là một cậu con trai, gần như đã là một người đàn ông . Và Winnie thấy cậu ta tuấn tú đến nỗi cô bé phải lòng ngay lập tức.
C ậu trông gầy và rám nắng, cái chàng trai tuyệt vời ấy, với mái tóc nâu quăn bù xù rậm rạp. Cậu mặc cái quần cũ kỹ hơi tả tơi và chiếc áo sơ mi cáu bẩn, rộng thùng thình nhưng dáng vẻ thì trông tự tin thoải mái như thể đang mặc đồ bằng lụa hay xa tanh vậy. Dây đeo quần màu xanh của cậu ta, để trang trí hơn là để xài, là phụ kiện cuối cùng trên bộ trang phục, vì chân cậu không mang giày, và giữa các ngón chân thò lên một mẩu cành. Cậu ngồi đó lơ đễnh phe phẩy nhánh cây, mặt ngửa lên đăm đăm nhìn tán lá trên cao. Nắng sớm vàng óng như rực sáng xung quanh cậu, và khi cành lá trên đầu câu rung rinh, bóng nắng rơi xuống đậu lên đôi bàn tay nâu rắn rỏi, lên mái tóc và khuôn mặt cậu.
Cậ u lơ đễnh xoa xoa tai, ngáp, và vươn vai. Khi dịch chuyển vị trí, cậu để ý thấy một đống đá cuội nhỏ kề bên. Trong khi Winnie vẵn nhìn đến nín cả thở, cậu ta cẩn thận dời đống đá sang bên, từng viên từng viên một. Bên dưới đóng đá, nền đất lộ ra ướt loáng. Cậu nhấc viên đá cuối cùng lên và Winnie trông thấy một dòng nước trào ra, tuôn vồng lên rồi trở lai thấm ngược vào trong lòng đất, giống như một đài phun nước vậy. Cậu cúi xuống, ghé môi vào dòng nước, lặng lẽ uống, rồi ngồi dậy đưa ống tay áo lên quệt ngang miệng. Khi làm thế, cậu day mặt về phía Winnie – và mắt họ gặp nhau.
H ọ im lặng nhìn nhau một hồi lâu, tay cậu ta vẫn đang đưa lên miệng. Không ai nhúc nhích. Sau cùng cậu bỏ tay xuống. “Em ra ngoài đây được rồi đấy,” cậu nói, cau mày.
Winnie đứng dậy, xấu hổ, và vì xấu hổ nên bực bội ra mặt. “Em không cố ý nhìn anh đâu,” cô quả quyết nói khi bước ra khoảng rừng trống. “Em không biết là lại có người ở đây.”
Cậu lom lom nhìn cô bước tới. “Em làm gì ở đây vậy?” cậu lạnh lung hỏi.
“Đây là rừng nhà em.” Winnie đáp ngạc nhiên vì câu hỏi. “Em có thể vào đây bất cứ khi nào em muốn. Trước đây em chưa đến đây bao giờ, nhưng đáng lẽ em phải vào rồi mới phải, lúc nào mà chẳng được.”
“À,” cậu nói, nghe thoải mái hơn một chút. “Vậy em là con nhà Foster.”
“Em tên là Winnie,” cô nói. “Còn anh là ai?”
“Anh là Jesse Tuck,” cậu nói. “Chào em.” Rồi cậu chìa tay ra.
Winnie bắt bàn tay ấy và nhìn cậu chằm chằm. Nhìn gần trông cậu còn đẹp trai hơn nữa. “Anh sống gần đây à?” sau cùng cô mới nặn ra một câu, miễn cưỡng buông tay cậu. “Trước đây em chưa từng gặp anh. Anh có thường đến đây không? Nhưng mà đâu có ai được phép vào đây. Đây là rừng nhà em mà.” Rồi cô thêm vào thật nhanh, “Nhưng anh đến đây thì không sao. Ý em là với em thì không sao.”
Cậu cười toe toét. “Không, anh không sống gần đây và cũng không đến đây thường xuyên. Anh chỉ đi qua đây thôi. Và cám ơn em, anh mừng là với em thì không sao.”
“Tuyệt lắm,” Winnie nói, không ăn nhập lắm. Cô lùi lại và đoan trang ngồi xuống cách xa cậu một chút. “Mà anh bao nhiêu tuổi vậy?” cô hỏi, nheo mắt nhìn cậu.
Yên lặng một chút. Sau cùng cậu lên tiếng, “Tại sao em muốn biết vậy?”
“Em chỉ băn khoăn thế thôi,” Winnie nói.
“Được rồi, anh một trăm lẻ bốn tuổi,” cậu nghiêm trang đáp.
“Không phải, ý em là tuổi thật của anh kìa,” cô khăng khăng.
“Vậy thì,” cậu nói, “nếu em cứ khăng khăng muốn biết, anh mười bảy tuổi.”
“Mười bảy à?”
“Đúng rồi.”
“Ôi,” Winnie thất vọng nói. “Mười bảy tuổi. Già thật.”
“Em không tưởng tượng nổi đâu,” cậu gật đầu đồng ý.
Winnie có cảm giác là cậu đang cười nhạo mình, nhưng rồi cô lại tự cho rằng đó là một kiểu cười nhạo thật đáng yêu. “Anh lấy ai chưa vậy?” cô hỏi tiếp.
Lần này thì cậu cười phá lên. “Chưa, anh chưa. Còn em?”
Giờ đến lượt Winnie bật cười. “Dĩ nhiên là chưa rồi,” cô nói. “Em mới mười tuổi. Nhưng sẽ lên mười một sớm thôi.”
“Sau đó em sẽ lấy chồng,” cậu gợi ý.
Winnie lại cười nữa, đầu cô nghiêng sang một bên, ngưỡng mộ nhìn cậu. Rồi cô chỉ vào dòng nước. “Cái đó uống có ngon không vậy anh?” cô hỏi .”Em khát.”
Khuôn mặt của Jesse Tuck đột nhiên nghiêm trang. “Ồ, nước đó hả? Không – không, không ngon đâu,” cậu nói thật nhanh. “Em không được uống nước đó. Phun thẳng từ dưới đất lên. Chắc là dơ lắm.” Và cậu bắt đầu lấp đá lên che lại.
“Nhưng anh uống nó mà,” Winnie nhắc.
“Ơ, em thấy rồi à? “ Cậu nhìn cô lo lắng. “À, anh thì cái gì cũng uống được hết. Ý anh là anh quen rồi nhưng mà nó không tốt cho em đâu.”
“Sao lại không?” Winnie nói. Cô đứng bật dậy. “Dù sao đi nữa, nước đó là của em, nếu nó ở trong rừng. Em muốn uống. Em khát khô cả cổ rồi nè.” Và cô đi đến chỗ cậu ngồi, quỳ xuống bên đống đá cuội.
“Tin anh đi mà Winnie Foster,” Jesss nói, “em mà uống một chút xíu nước này thôi là kinh khủng cho em lắm. Kinh khủng thật mà. Anh không để em uống đâu.”
“Nhưng mà em không hiểu sao lại không được,” Winnie rầu rĩ nói. “Càng lúc em càng khát. Nếu anh uống được thì em cũng uống được. Ba em mà có ở đây thì ba sẽ cho em uống ngay.”
“Em sẽ không kể cho ba em biết chứ?” Jesse nói. Mặt cậu tái nhợt đi dưới lớp da rám nắng. Cậu đứng dậy và kiên quyết đặt một bàn chân trần len đống đá. “Mình biết việc này sớm muộn gì cũng xảy ra mà. Giờ minh phải làm gì đây?”
Cậu nói đến đây thì một tiếng ầm vang lên giữa những hàng cây và có tiếng gọi, “Jesse à?”
“Nhờ trời!” Jesse nói, thở phào nhẹ nhõm. “Mẹ và anh Miles tới rồi. Họ sẽ biết phải làm gì.”
Ngay lúc đó một người phụ nữ to lớn nhưng trông có vẻ dễ chịu xuất hiện, dẫn theo sau một con ngựa già mập mạp, bên cạnh bà cũng là một thanh niên cũng tuấn tú như Jesse. Đó là bà Mae Tuck và đứa con trai còn lại, anh trai của Jesse. Vừa nhác thấy bóng hai người, Jesse đang đứng đạp chân lên đống đá còn Winnie thì quỳ gối bên cạnh, bà đã lập tức hiểu ra ngay. Cánh tay bà vung lên ngực giữ chặt chiếc ghim cài áo cũ kỹ trên tấm khăn choàng còn khuôn mặt trở nên u ám.” Mấy đứa à,” bà nói, “nó đây rồi. Điều tồi tệ nhất cuối cùng đã đến.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 23-10-2011 22:21:00 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 6
Sau này, cứ mỗi lần hồi tưởng lại, Winnie thấy những gì diễn ra mấy phút sau đó dường như chỉ còn là một khoảng mờ. Đầu tiên cô nhớ mình đang quỳ trên đất, khăng khăng đòi uống dòng nước ấy, và điều tiếp theo cô biết là cô bị ai đó túm lấy và ném đi, trong khi vẫn đang há hốc mồm kinh ngạc, rồi thấy mình đang ngồi trên cái lưng nhấp nhô của con ngựa già béo ú đó. Miles và Jesse lóc cóc chạy theo hai bên, còn bà Mae thi hổn hển nắm dây cương chạy đằng trước.
Trước đó Winnie thường bị ám ảnh với những giấc mơ cô bị bắt cóc. Nhưng chưa từng có giấc mơ nào giống như thế này, khi mà những kẻ bắt cóc trông cũng hãi hùng không khác gì cô cả. Cô lúc nào cũng tưởng tượng ra cảnh một đoàn gồm toàn gã đàn ông lực lưỡng để ria mép dài đen nhánh cuốn cô vào một cái chăn rồi vác đi như vác một bao khoai tây trong khi cô van xin cầu tha mạng. Nhưng thay vì thế, người cầu xin đây lại chính là họ, bà Mae Tuck, Miles và Jesse.
“ Làm ơn, con… cưng, cưng à… đừng sợ.” Đó là tiếng bà Mae vừa chạy vừa ngoái đầu gọi với ra sau. “Chúng ta… sẽ không làm hại con đâu…dù có đổi cả thế giới này cũng vậy.”
“Nếu em… gào lên hay làm gì đó” - tiếng Jesse “Ai đó sẽ nghe thấy và… nguy hiểm lắm.”
Và Miles nói, “Tụi anh sẽ giải thích cho em biết… nhưng phải đi xa đã.”
Winnie không nói nổi nên lời. Cô bé bám chặt vào yên ngựa kinh ngạc nhận ra rằng dù tim mình đang đập thình thịch còn sống lưng thì cứng đờ và lạnh toát như một cái ống đầy nước đang chảy, tâm trí cô vẫn bình tĩnh phát sợ. Những suy nghĩ rời rạc lần lượt nối đuôi nhau xuất hiện, cứ như nãy giờ chúng vẫn đang xếp hàng chờ đến phiên mình vậy. “Thì ra cưỡi ngựa là như vậy đằng nào thì mình cũng định bỏ nhà đi hôm nay - cả nhà sẽ nói gì khi thấy mình không xuống ăn sáng nhỉ - mình ước gì con cóc đó thấy mình lúc này - bà ấy đang lo lắng cho mình Miles còn cao hơn cả Jesse - mình cúi xuống thì hơn nếu không muốn bị cành cây kia quật ngã.”
Lúc này họ đã đến được bìa rừng, nhưng không có vẻ gì là sẽ đi chậm lại cả. Con đường, đoạn nó bẻ góc cắt qua đồng cỏ, đã ở ngay trước mặt, sáng lóa mắt trong ánh nắng tràn trề, Và đứng đó, ngay trên đường, là gã đàn ông tối hôm trước, người mặc đồ vàng chóe, đội mũ đen.
Nhác trông thấy gã, thấy vẻ ngạc nhiên trên khuôn mặt gã, và lập tức được đặt trước sự chọn lựa, tâm trí cô lại đột nhiên trống rỗng một cách ngang ngạnh. Đáng lẽ phải kêu gào cầu cứu thì cô bé chỉ cứ giương mắt nhìn khi họ đi ngang qua chỗ gã đang đứng. Mỗi mình bà Mae Tuck lên tiếng, và cái cớ khá nhất bà có thể bịa ra là: “Dạy con gái út.. cách cưỡi ngựa!” Chỉ sau đó Winnie mới nghĩ ra mình phải la lên, vẫy tay, hay làm một cái gì đó. Nhưng lúc bấy giờ gã đàn ông đã biến mất sau lưng rồi, và cô bé sợ phải buông yên ngựa ra, sợ quay người lại sẽ bị ngã. Lại một lát nữa trôi qua, quá trễ rồi. Họ đã tăng tốc lên đồi rồi xuống đến mé sườn bên kia, cơ hội đã vụt đi mất.
Vài phút sau, con đường dẫn họ đến một nơi mé trái có con suối nông quanh co chảy gần kề, xung quanh là bóng liễu rủ và những bụi cây rậm rạp um tùm. “Dừng lại!” bà Mae la lên. “Mình dừng lại ở đây!” Miles và Jesse vội chộp lấy dây cương khi con ngựa đột ngột lồng lên suýt chút nữa là hất Winnie lộn nhào qua cổ nó. “Mang đứa trẻ tôi nghiệp xuống đây,” bà Mae thở hổn hển, ngựa bà phập phồng. “Mình lại chỗ con suối ngồi nghỉ lấy hơi và nói cho rõ mọi chuyện trước khi đi tiếp.”
Thế nhưng lời giải thích, khi họ loạng choạng tới bên bờ suối, không đến dễ dàng. Bà Mae có vẻ bối rối, còn Miles và Jesse thì bồn chồn không yên liếc nhìn mẹ. Chẳng ai biết phải bắt đầu thế nào. Về phần mình, giờ đây khi cuộc trốn chạy đã kết thúc, Winnie mới mường tượng được việc gì đang diễn ra, và việc hiểu ra điều này khiến cổ họng cô thít chặt còn miệng khô khốc. Đây không phải là giấc mơ. Đây là chuyện thật. Những người lạ mặt này đã bắt cóc cô; họ có thể làm bất cứ điều gì; có thể cô sẽ không bao giờ được nhìn thấy mẹ nữa. Nghĩ đến mẹ, cô thấy mình mới nhỏ bé, yếu ớt và vô dụng làm sao, thế là cô bé chợt òa lên khóc nức nở, nửa buồn bực nửa choáng váng đến tuyệt vọng.
Khuôn mặt tròn trịa của bà Mae Tuck nhăn nhó khổ sở. “Chúa ơi, xin con đừng khóc! Làm ơn xin đừng khóc mà cưng!” bà nài nỉ. “Chúng ta không phải là người xấu, chắc chăn không phải. Chúng ta buộc phải mang con đi - con sẽ hiểu tại sao ngay thôi mà - và chúng ta sẽ đưa con về ngay khi có thể. Ngày mai. Bác hứa đấy.”
Vừa nghe bà Mae nói, “Ngày mai,” Winnie càng thổn thức to hơn nữa. Ngày mai! Tiếng đó nghe như thể cô sẽ bị bắt đi mãi mãi vậy. Cô muốn về nhà, ngay bây giờ, muốn được lao trở vào khoảng an toàn bên trong cái hàng rào ấy và nghe giọng nói của mẹ vọng ra từ cửa sổ. Bà Mae dang tay về phía cô, nhưng cô quay ngoắt đi, hai tay che mặt, và cô lại nấc lên nức nở.
“Kinh khủng quá!” Jesse nói. “Mẹ không thể làm gì sao? Tội nghiệp con bé.”
“Đáng lẽ mình phải nghĩ ra cái cách nào khá hơn cách này rồi mới phải chứ,” Miles nói.
“Đúng vậy,” bà Mae nói trong vô vọng. “Chúa biết rằng chúng ta có quá đủ thời gian nghĩ ra cách giải quyết vì chuyện này chẳng chóng thì chầy cũng xảy ra. Trước giờ chưa có là phúc đức lắm rồi. Nhưng mẹ chưa từng nghĩ đó là một đứa trẻ.” Nói rồi bà lơ đãng thò tay vào túi váy lấy ra chiếc hộp nhạc, rồi không cần suy nghĩ bà vặn dây cót bằng mấy ngón tay run rẩy.
Khi cái giai điệu ấy lanh canh nhẹ nhàng ấy vang lên, tiếng nức nở của Winnie chợt dịu đi. Cô bé đứng bên con suối, mặt vẫn úp vào hai bàn tay, và lắng nghe. Đúng rồi, đó chính là bản nhạc mà cô nghe thấy tối hôm trước. Bằng cách nào đó nó khiến cô bình tĩnh trở lại. Nó giống như một dải băng vô hình ràng buộc cô với những thứ thân thương. Cô nghĩ, “Về nhà mình sẽ kể cho bà biết đó chẳng phải là nhạc yêu tinh gì cả.” Rồi cô lấy hai bàn tay ướt mèm chùi mặt cho thật sạch và quay về phía bà Mae. “Đó là điệu nhạc con nghe tối qua,” cô cố nói nên lời giữa những tiếng sụt sịt trước khi nín khóc hẳn. “Lúc con ở trong vườn. Bà nội nói đó là yêu tinh.”
“Cưng à, không phải đâu,” bà Mae nói, chăm chú nhìn cô bé đầy hy vọng. “Chỉ là cái hộp nhạc của bác ấy mà. Bác không biết là có người lại nghe thấy.” Rồi bà đưa nó cho Winnie. “Con muốn xem thử không?”
“Đẹp quá,” Winnie nói, tay cầm lấy hộp nhạc và lật nó lên. Chìa khóa lên dây cót vẫn xoay tròn, nhưng càng lúc càng chậm lại. Giai điệu lụi tàn dần. Vài nốt nhạc nữa vang lên cách quãng rất xa, rồi tắt.
“Con thích thì cứ vặn nó lên,” bà Mae nói. “Theo chiều kim đồng hồ.”
Winnie vặn chìa khóa. Nó khẽ kêu lách cách. Và rồi, sau vài lần vặn như thế nữa, nhạc lại cất lên, rộn rã vì mới được lên dây cót, và tươi vui. Chẳng ai sở hữu một vật như thế này lại đáng ghét cả. Winnie vừa nghĩ vừa ngắm nghía hình vẽ hoa hồng và hoa lan chuông, rồi bất giác mỉm cười. “Nó đẹp quá,” cô lặp lại, trả nó cho bà Mae.
Chiếc hộp nhạc ấy đã khiến tất cả mọi người nhẹ nhõm. Miles lấy từ túi sau ra chiếc khăn tay lau mặt, còn ba Mae thì nặng nhọc ngồi phịch xuống một tảng đá, giật chiếc mũ rơm xanh trên đầu xuống làm quạt mát.
“Nhìn đây, Winnie Foster,” Jesse lên tiếng. “Chúng ta là bạn, thật sự là như vậy. Nhưng em phải giúp bọn anh. Lại đây ngồi xuống đi, và bọn anh sẽ giải thích cho em hiểu tai sao.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 23-10-2011 22:22:31 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 7
Đó là câu chuyện lạ kỳ nhất mà Winnie từng nghe. Cô nhanh chóng ngờ rằng họ chưa kể chuyện này cho ai nghe ngoại trừ trò chuyện với nhau - có nghĩa cô chính là vị thích giả thật sự đầu tiên của họ; vì họ quây quần quanh cô như trẻ con bu quanh gối mẹ, người nào cũng cố làm cô chú ý, đôi khi cả ba còn nói cùng một lúc, cướp lời nhau một cách hào hứng.
Tám mươi bảy năm về trước, gia đình nhà Tuck đã đi một quãng đường dài tới miền Đông để tìm nơi định cư. Ngày ấy khu rừng không như bây giờ, nó là một cánh rừng rộng lớn như lời bà nội kể vậy: trải dài xa tít mù tắp. Họ tính sẽ dựng một nông trại ngay khi đến chỗ cánh rừng kết thúc. Nhưng cây cối chẳng có vẻ gì là sẽ hết cả. Lúc đến được chỗ khu rừng ngày nay và rời khỏi đường mòn đi tìm nơi cắm trại, họ vô tình đứng trên dòng suối ngầm ấy. “Nơi đó đẹp lắm,” Jesse nói cùng tiếng thở dài, “Trông giống hệt như bây giờ. Một khoảng rừng trống, ngập tràn ánh nắng, với cái cây to có những đốt rễ sần sùi ấy. Cả nhà dừng lại đó và mọi người cùng uống nước suối, cả con ngựa nữa.”
“Không hẳn,” bà Mae lên tiếng. “Con mèo không uống nước. Chuyện này quan trong lắm đấy.”
“Đúng vậy,” Miles nói, “đừng bỏ đi chi tiết đó. Tất cả chúng ta đều uống, trừ con mèo.”
“Được rồi, dù sao đi nữa,” Jesse tiếp tục, “nước đó có vị hơi lạ. Nhưng bọn anh vẫn cắm trại qua đêm ở đó. Rồi ba anh khắc một chữ T lên thân cây để đánh dấu chỗ đã đến. Rồi cả nhà anh tiếp tục lên đường.”
Sau cùng họ cũng ra được khỏi cánh rừng và cách đó hàng dặm về phía Tây, họ tìm thấy một thung lũng vắng người và bắt tay vào dựng nông trại. “Bọn anh dựng một căn nhà cho ba mẹ,” Miles kể, “và một căn lều gỗ cho Jesse và anh. Tụi anh đã nghĩ đến chuyện sớm lập gia đình nên cần phải có nhà riêng.”
“Lần đầu tiên mọi người nhận ra có điều gì đó bất thường,” bà Mae nói, “ là lúc Jesse bị té khi trèo cây…”
“Anh đang trèo lên đến khoảng giữa,” Jesse xen vào, “cố gắng cưa đứt mấy cành cây lớn trước khi chặt cả cây thì bị mất thăng bằng và anh té…”
“Nó rớt xuống u một cục trên đầu,” bà Mae vừa nói vừa rùng mình. “Chúng ta chắc là nó gãy cổ rồi. Nhưng lại xem mới thấy là nó chẳng bị sây sát tẹo nào.”
“Không lâu sau đó,” Miles tiếp tục, “có mấy người thợ săn đi ngang qua nhà lúc sẩm tối. Con ngựa này đang gặm cỏ dưới mấy gốc cây thì họ bắn nó. Nhầm nó là nai, họ nói vậy. Em tin nổi không chứ? Nhưng vấn đề là họ không giết được nó. Viên đạn xuyên qua mình nó mà không để lại một vết xước.”
“Rồi ba bị rắn cắn…”
“Và Jesse ăn phải nấm độc…”
“Rồi mẹ bị đứt tay nữa chứ,” bà Mae nói “Nhớ không? Lúc cắt bánh mì ấy.”
Nhưng thời gian trôi qua mới chính là yếu tố khiến gia đình Tuck lo lắng hơn cả. Họ đã dựng nên nông trại, định cư ở đó và kết bạn với mọi người xung quanh. Nhưng mười năm, rồi hai mươi năm, họ buộc phải đối diện với sự thật rằng đã có điều gì đó cực kỳ không ổn đã xảy ra. Chẳng ai trong gia đình họ già đi cả.
“Lúc đó anh đáng lẽ ngoài bốn mươi rồi,” Miles buồn rầu nói, “Anh đã lấy vợ, có hai con. Nhưng bề ngoài thì trông vẫn như hai mươi hai. Vợ anh cuối cùng cũng cho rằng anh đã bán linh hồn cho quỷ. Cô ấy bỏ anh đi. Cô ấy bỏ đi mang theo cả hai con.”
“Anh mừng là mình chưa từng lấy vợ,” Jesse chêm vào.
“Bạn bè nhà bác cũng vậy,” bà Mae tiếp lời. “Họ xa lánh gia đình bác .Có tin đồn về trò phù thủy. Phép thuật hắc ám. Thật ra cũng không trách họ được, nhưng cuối cùng rồi thì nhà bác cũng phải rời bỏ nông trại. Cả nhà không biết phải đi đâu về đâu nên đành trở lại con đường đã đến, chỉ đi lang thang vô định thế thôi. Giống như là dân Digan vậy đó. Lúc đến được tận đây thì mọi thứ dã thay đổi, dĩ nhiên. Cây cối bị chặt gần hết. Có người dọn đến ở và cả một ngôi làng mới xuất hiện - đó là Treegap. Con đường vẫn còn đây nhưng ngày trước nó chỉ là lối mòn do bò tạo ra mà thôi. Cả nhà đi vào khu rừng nhỏ còn sót lai để cắm trại, rồi khi đến chỗ khoảng rừng trống có cái cây và con suối đó, gia đình bác nhớ lại hết mọi chuyện.”
“Nó chẳng thay đổi gì cả. cũng giống như bọn anh vậy,” Miles nói. “Và cũng nhờ đó mà bọn anh khám phá ra mọi chuyện. Ba anh đã khắc một chữ T lên thân cây, nhớ chứ, hai mươi năm về trước, nhưng chữ T đó vẫn nằm ngay vị trí mà ba anh đã khắc. Cái cây đó chẳng cao thêm được chút xíu nào trong suốt quãng thời gian dài. Trông nó vẫn y hệt như vậy. Còn chữ T thì mới nguyên như thể chỉ vừa mới được khắc lên đó .”
Rồi họ nhớ lại chuyện đã uống nước. Cả nhà họ - và con ngựa. Còn con mèo thi không. Con mèo sống thật lâu và hạnh phúc ở nông trại, nhưng đã chết khoảng mười năm trước rồi.Thế là sau cùng họ nhất trí rằng con suối chính là nguồn gốc mọi sự trẻ mãi không già của họ.
“Khi chúng ta rút ra kết luận này,” bà Mae tiếp tục. “Ông Tuck - chồng bác, Angus Tuck
- nói ổng muốn biết chắc một lần cho dứt khoát. Ổng lấy ra khẩu súng ngắn và nhằm thẳng vào mình, và trước khi mọi nhười kịp can ngăn, ổng bóp cò.” Bà Mae dừng lai một lúc lâu, mấy ngón tay đặt trên lòng đan vào nhau, xoắn chặt cùng sự tâp trung căng thẳng vì cố nhớ. Sau cùng bà lên tiếng, “Phát đạn vật ổng ngã xuống. Xuyên qua tim. Nhất định phải thế vì ổng cố tình nhắm như vậy mà. Rồi viên đạn bay xuyên qua người ổng. Nó thậm chí chẳng để lại một vết xước. Giống như là - con biết đấy như viên đạn vô nước. Và trông ổng không hề suy suyển, như thể ổng chưa từng bắn mình vậy .”
“Sau chuyện đó nhà anh giống như phát điên lên vậy,” Jesse vừa nói vừa cười toe toét nhớ lại. “Quỷ quái thiệt, chúng ta sẽ sống bất tử. Em có hình dung ra nổi bọn anh cảm thấy như thế nào khi khám phá ra chuyện đó không?”
“Nhưng rồi tụi anh lai ngồi xuống và bàn bạc…” Jesse lại chêm vào.
“Và chúng ta nhận ra mọi chuyện rồi sẽ tệ hại vô cùng nếu mọi người biết về con suối đó,” bà Mae nói. “Chúng ta bắt đầu thấy trước thế nghĩa là sao.” Bà nhìn Winnie dò hỏi. “ Con hiểu không cưng? Thứ nước đó - nó làm cho con ngưng lại ngay tại chỗ. Nếu con mà uống nó ngày hôm nay thì con sẽ mãi mãi là một cô bé gái. Con sẽ không bao giờ lớn lên được, không bao giờ.”
“Bọn anh không hiểu nổi nó hoạt động như thế nào, hay thậm chí tai sao lại như vậy,” Miles tiếp.
“Ba anh nghĩ đó là thứ còn sót lại ừm, từ một kế hoạch khác về cách thế giới này nên trở thành,” Jesse nói.” Một kế hoạch đem lai kết quả không mấy tốt đẹp. Và thế là mọi thứ đều bị thay đổi. Chỉ có điều con suối đó đã bị bỏ quên. Có lẽ là ông đúng. Anh cũng không biết nữa nhưng mà em thấy đó, Winnie Foster, lúc mà anh nói với em anh một trăm lẻ bốn tuổi là nói thật đó. Nhưng nhìn anh thật sự chỉ mới mười bảy và theo chỗ anh biết thì chắc anh sẽ mười bảy tuổi cho đến ngày tận thế.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 23-10-2011 22:30:00 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 8
Winnie không tin vào cổ tích. Cô bé chưa từng khao khát có được cây đũa thần, không hề ao ước sánh duyên cùng hoàng tử, và còn coi thường - hầu như lúc nào cũng vậy - những con yêu tinh của bà nội. Vì thế mà giờ cô ngồi đây, miệng há hốc, mắt mở to, không biết bình phẩm gì về câu chuyện hoang đường này. Chuyện này không thể nào - một chút cũng không - là sự thật.
"Thật dễ chịu khi kể được với ai đó!" Jesse reo lên. "Nghĩ mà xem, Winnie Foster, em là người duy nhất trên đời này ngoài bọn anh ra, biết được chuyện này!"
"Từ từ đã nào," Miles thận trọng nói. "Cũng có thể không phải thế. Có thể có cả đống người khác nữa, có thể thế lắm, từng lang thang qua đây giống tụi mình."
"Có thể. Nhưng mình đâu biết họ đâu," Jesse chỉ ra. "Tụi mình chưa từng biết ai ngoài chính tụi mình mà kể chuyện này cho nghe. Winnie - em thấy chuyện này có kỳ quặc không? Và tuyệt vời nữa chứ? Hãy nghĩ đến tất cả những thứ bọn anh từng nhìn thấy trên thế giới này! Cả những thứ mà mình sắp được thấy nữa chứ!"
"Em nói kiểu đó sẽ khiến cô bé muốn quay ngay trở lại để uống cả thùng thứ nước đó đấy," Miles cảnh báo. "Em biết đấy, có nhiều thứ nảy sinh từ đó hơn là mấy lúc vui vẻ của Jesse Tuck."
"Ôi giời, lại ba cái chuyện đó nữa," Jesse vừa nói vừa nhún vai. "Đã không thay đổi được gì thì cứ vui sống đi. Anh đừng có lúc nào cũng như cha đạo nữa."
"Anh chẳng phải cha đạo gì cả," Miles nói. "Anh chỉ cho rằng em nên nghiêm túc hơn thôi."
"Thôi đuợc rồi, mấy thằng bây," bà Mae nói. Lúc này bà đang quỳ gối bên cạnh con suối, té nước mát lên rửa mặt và tay. "Úi chà! Thời tiết gì vậy trời!" bà la lên, lại ngồi xốm xuống. Bà mở đồ cài áo ra, tháo khăn choàng lau khuôn mặt tong tỏng nước. "Thế đấy, cưng à," bà vừa nói với Winnie vừa đứng dậy. "Giờ con đã biết bí mật của nhà bác rồi đó. Một bí mât lớn và nguy hiểm. Chúng ta cần con giúp giữ bí mật này. Con chắc là còn nhiều chuyện cần phải hỏi lắm, nhưng mình không thể ở lại đây lâu hơn được nữa." Nói rồi bà cột chiếc khăn choàng quanh thắt lưng, và thở dài. "Nghĩ đến ba mẹ con phải lo lắng thế nào mà đau lòng, nhưng thiệt tình không còn cách nào khác. Phải đưa con về nhà chúng ta thôi. Kế hoạch là như vậy. Ông Tuck ổng chắc là sẽ muốn nói cho con rõ để con hiểu tại sao mà không được kể chuyện này cho ai biết hết. Nhưng ngày mai chúng ta sẽ đưa con về. Được không?" Và cả ba ngươi họ nhìn cô tràn trề hy vọng.
"Dạ được," Winnie đồng ý. Vì cô biết rằng mình chẳng còn chọn lựa nào khác cả. Cô phải đi theo họ thôi. Vả lại họ cũng có thể bắt cô theo, bất kể cô nói gì. Nhưng cô cảm thấy chẳng có gì đáng sợ, thật là như vậy. Bởi họ trông có vẻ hiền lành. Hiền lành và - theo một cách kỳ lạ - thật trẻ con. Họ làm cô cảm thấy mình lớn bổng lên. Và cái cách họ trò chuyện cùng cô, cách họ nhìn cô, làm cô bé thấy mình thật đặc biệt. Quan trọng. Đó là một cảm giác ấm áp và lan tỏa, hoàn toàn mới lạ. Cô thích cái cảm giác đó và dù có tin hay không vào câu chuyện ấy thì cô vẫn thấy thích họ, đặc biệt là Jesse.
Nhưng Miles mới là người nắm lấy tay cô và nói, "Thật tuyệt khi có em bên cạnh, dù chỉ một hay hai ngày thôi cũng được."
Lúc này Jesse chợt reo to lên một tiếng rồi nhảy ùm xuống suối, tạt nước bắn tung tóe cả lên. "Mẹ đem đồ ăn sáng gì vậy?" cậu la lên "Mình ăn trên đường đi được không? Con sắp chết đói rồi nè!"
Thế là giờ khi mặt trời đã lên cao trên bầu trời, họ lại khởi hành, vừa đi vừa ăn bánh mì với pho mát, làm náo động cà không gian tĩnh lặng tháng Tám. Jesse hát ầm ĩ mấy bài hát xưa vui nhộn và còn đu như khỉ trên mấy cành cây, khoe mẽ không biết ngượng trước mặt Winnie, gọi với theo cô, "Ê, Winnie Foster, xem anh nè!" và "Xem anh làm được gì này!"
Và Winnie, khi cười trước trò đó, đã xóa tan nỗi sợ hãi sau cùng của mình. Họ là bạn, bạn của cô. Cuối cùng cô cũng đã bỏ nhà ra đi, nhưng không hề cô đơn. Khi đóng sập cánh cửa ngăn những nỗi sợ hãi xa xưa nhất như vẫn đóng cổng hàng rào, cô đã khám phá ra đôi cánh mà mình hằng ao ước. Và ngay lập tức lòng cô ngập tràn vui sướng. Đâu rồi những điều kinh khủng mà người ta bảo cô sẽ gặp phải? Cô chẳng nhận ra bóng dáng chúng ở đâu cả. Măt đất đầy hương thơm cỏ ngọt trải rộng bốn phương trời trước mắt cô như cánh một bông hoa đang chờ bàn tay người hái, tất cả lung linh đầy ánh sáng và cơ hội làm cô choáng váng. Giọng nói của mẹ, cảm xúc về mái ấm gia đình, trong phút chốc bỗng lùi xa, và suy nghĩ của cô hướng về phía trước. Tai sao lại không nhỉ, cả cô nữa cũng có thể bất tử trong cái thế giới tuyệt vời mà cô chỉ vừa mới khám phá ra chứ! Câu chuyện về con suối - có thể là sự thật! Vì thế mà khi cô không còn ngồi lắc lư trên mình con ngựa già béo ấy nữa - lần này là do tự nguyện - cô vừa chạy vừa hét vang trên đường, hai cánh tay vung lên, ồn ào hơn hết thảy.
Thật là tuyệt. Tuyệt thật đấy chứ vì trong suốt thời gian đó, chẳng ai trong số họ để ý thấy người đàn ông họ đã gặp trên đường, ngưòi mặc đồ màu vàng, đã rón rén nấp vào mấy bụi cây bên bờ suối và nghe thấy hết, toàn bộ câu chuyện hoang đường này. Cũng chẳng ai trông thấy gã giờ đây đang bám theo họ, bên lề đường tít phía sau, cái miệng trên bộ râu xám mỏng khẽ nhếch thành một nụ cười.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách