Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: blue.smile
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Truyện Ngắn] Lại Thằng Nhóc Emil | Astrild Lindgren

[Lấy địa chỉ]
21#
 Tác giả| Đăng lúc 15-9-2011 17:06:33 | Chỉ xem của tác giả
Chủ nhật, ngày 14 tháng Mười một,
ngày diễn ra cuộc vấn đáp về tín ngưỡng ở trang trại Katthult và Emil nhốt bố nó trong buồng Trisse


Ở trang trại Katthult, làng Lönneberga cùng khắp vùng Smăland, ban ngày trời mỗi lúc một xám xịt hơn, tối tăm hơn. Tiết thu ngày càng rõ.

- Úi, mưa lạnh thế chứ! – cô Lina kêu ca khi hàng ngày cứ năm giờ sáng là cô phải mò mẫm trong bóng tối xuống chuồng bò. Tất nhiên cô có xách theo chiếc đèn dầu nhưng ngọn đèn cháy bập bùng trông đến cô độc và nhỏ nhoi giữa những cái màu xám xịt ấy. Suốt mùa thu chỉ một màu xám xịt, tựa một ngày dài duy nhất đằng đẵng và xám xịt. Chỉ thi thoảng một vài bữa tiệc và cuộc vấn đáp về tín ngưỡng mới lại lóe lên như những đốm sáng khiêm tốn và nhỏ nhoi trong bóng tối.

Hẳn như tôi có thể đoán, bạn không biết gì về cuộc vấn đáp về tín ngưỡng. Nhưng thời đó mọi người ít nhiều đều phải viết những gì ghi trong kinh thánh và sách giáo lý đại cương. Vì vậy mà thỉnh thoảng ông mục sư phải tiến hành một cuộc vấn đáp để nắm được mọi người biết đến đâu. Không riêng gì bọn trẻ con, những đứa mà đằng nào người ta cũng quen hành hạ bằng một lô câu hỏi, mà tất cả mọi người trong giáo xứ, già trẻ lớn bé đều có thể bị hỏi.

Những cuộc vấn đáp này lần lượt diễn ra ở tất cả các trang trại của làng Lönneberga, và nếu bản thân cuộc vấn đáp chẳng có gì vui, thì bữa tiệc sau đó lại thật vui. Ai trong giáo sứ cũng có quyền tham dự, kể cả các cụ ở trại tế bần. Những cụ nào còn đủ sức lê chân đến đó, đều góp mặt đủ. Là bởi sau mỗi cuộc vấn đáp, mọi người thỏa sức chè chén đến vỡ bụng thì thôi, và phần đông mọi người cho rằng đây là một phong tục tốt đẹp.

Vào một ngày trong tháng Mười một sẽ diễn ra một cuộc vấn đáp về tín ngưỡng tại trang trại Katthult. Điều này khiến ai nấy đều hân hoan, đặc biệt là cô Lina, vì cô rất khoái các cuộc vấn đáp như thế.

- Vâng, mặc dù cháu không thích tất cả các câu hỏi ấy, – cô nói. – Đôi lúc cháu chẳng biết phải trả lời như thế nào.

Và chắc chắn cô Lina không đặc biệt thuộc kinh thánh rồi. Ông mục sư cũng biết vậy, nên thường đặt cho cô những câu hỏi rất dễ, vì ông vốn là người thân thiện. Sau khi ông mục sư đã kể rất lâu và rất kỹ về Adam và Eva, những người từng sống trên vườn địa đàng và sau đó là hai người đầu tiên có mặt dưới trái đất, thì tất nhiên ông đinh ninh rằng tất cả mọi người, thậm chí cả cô Lina, đã nắm được nội dung cả câu chuyện. Và vì bây giờ đến lượt cô Lina, nên ông rất ân cần hỏi cô:

- Nào, Lina, vậy tổ tiên chúng ta tên là gì? – Thor và Freya ạ, – cô Lina liền đáp không chút đắn đo, làm mẹ Emil đỏ mặt vì tức giận trước câu trả lời ngu ngốc đó. Thor và Freya là hai vị thánh già mà cách đây trên cả ngàn năm người Thụy Điển – khi còn chưa biết tý gì về kinh thánh – đã từng tin vào.

- Cô vẫn cứ là một kẻ ngoại đạo, – sau này mẹ bảo cô Lina, nhưng cô chống chế:

- Tại họ cứ trộn nháo nhào đủ thứ vào nhau như thế! Sao cháu lại phải là người sắp xếp lại tất cả cơ chứ!

Nhưng bao giờ ông mục sư cũng khoan dung trong các cuộc vấn đáp. Ông lờ đi, coi như cô Lina không trả lời sai, mà tiếp tục kể Đức Chúa đã tạo ra trái đất và tạo ra tất cả những con người sống trên trái đất như thế nào, và sự sáng tạo của Người mời tuyệt vời làm sao.

- Này Lina, con đúng là một tạo vật kỳ diệu của Chúa, – ông mục sư khẳng định và hỏi cô Lina xem liệu cô đã bao giờ suy nghĩ về chuyện đó chưa và liệu cô có tin rằng việc Chúa đã tạo ra cô là một cái gì đặc biệt hay không.

Cô Lina bèn đáp rằng cô có tin như thế, nhưng rồi cô bỗng nghĩ lại.

- Vâng, tất nhiên ạ, nhưng làm ra còn chắc chẳng có gì là đặc biệt. Trừ tất cả những đường xoắn ở hai vành tai của con, con nghĩ là gom chúng lại với nhau như thế nhất định là một công việc khó chịu lắm!

Thế là mẹ Emil lại đỏ mặt, vì bà có cảm giác cả trang trại Katthult này bị ô danh vì câu trả lời thậm ngu ngốc đó của cô Lina. Đã thế ở tít góc đằng xa, nơi Emil đang ngồi, lại vang lên tiếng cười lanh lảnh trong thoáng chốc. Bà mẹ đáng thương, bà biết trong các cuộc vấn đáp về tín ngưỡng không ai được phép cười. Mẹ Emil ngồi đó mà vô cùng xấu hổ, bà chỉ cảm thấy nhẹ nhõm trở lại khi cuộc vấn đáp cuối cùng kết thúc và người ta có thể bắt đầu với bữa tiệc.

Mẹ Emil chuẩn bị một bữa tiệc thịnh soạn và ngon lành như xưa nay mẹ vẫn làm mỗi khi đãi khách, mặc dù bố Emil tìm cách ngăn mẹ.

- Ở đây hẳn kinh thánh và sách giáo lý đại cương mới là quan trọng. Thế mà mình lại cứ lan man sang thịt băm viên với cái bánh pho mát!

- Cái gì cũng có thời điểm của nó, – mẹ Emil đáp. – Sách giáo lý đại cương có thời điểm của sách giáo lý đại cương, bánh phô mát có thời điểm của bánh phô mát.

Phải, đã đến giờ của bánh phô mát, và tất cả mọi người đã tham gia cuộc vấn đáp tín ngưỡng ở trang trại Katthult đều ăn thật ngon lành và cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Emil cũng ăn một miếng tướng bánh pho mát, phết thêm cả mứt nhừ và kem tươi. Đúng lúc nó vừa ăn hết thì mẹ đến bảo:

- Này Emil, chóng ngoan, chạy xuống đóng cửa chuồng gà cho mẹ đi!

Cả ngày đàn gà được thả rông. Tối đến phải nhốt chúng lại kẻo ban đêm cáo mò vào vồ mất.

Lúc này trời đã sắp tối, lại mưa nữa, nhưng Emil vẫn thấy dễ chịu khi được ra ngoài một lát, thoát khỏi không khí ngột ngạt trong nhà với những tiếng nói cười huyên náo và bánh trái. Gần như cả đàn gà yên vị trong chuồng, còn mỗi con Lotta Què và vài con nữa đã ăn no căng diều đang loăng quăng ngoài trời mưa. Nhưng Emil lùa chúng vào chuồng và cài then cẩn thận. Bây giờ con cáo cứ việc đến nếu muốn. Cạnh chuồng gà là chuồng lợn. Emil ghé qua ngó Nhóc Lợn và hứa tối nay sẽ khao Nhóc Lợn một bữa ra trò.

- Khi nào bọn người tham ăn ấy đã ních no căng bụng, thì vẫn thừa một ít ở đĩa, – Emil nói, và Nhóc Lợn ủn ỉn đầy hy vọng.

- Tao sẽ sớm quay lại, –Emil hứa, đoạn cũng kéo then cài chắc chắn.

Phía sau chuồng lợn là nhà tiêu, như cách người xưa vẫn gọi. Có thể bạn sẽ cho rằng từ này không được lịch sự lắm, nhưng bạn phải biết chú Alfred gọi như thế nào cơ. Chú Alfred gọi thẳng toẹt là chuồng…….. mà thôi, tôi không cần phải dạy cho bạn từ này. Nhưng nhà tiêu ở trang trại Katthult cũng có cái tên sang trọng hơn. Nó được gọi là “buồng Trisse”, theo tên của bác Trisse, đầy tớ từ thời ông nội Emil còn làm chủ trang trại, chính bác ta đã dựng lên căn nhà nhỏ không thể thiếu được này.

Emil đã cài then chuồng gà, cài then chuồng lợn, và vì đang tiện thể cài then, nó cài luôn then bên ngoài cửa buồng Trisse. Lẽ ra nó phải nghĩ đến chuyện nhỡ đâu có ai đang ngồi trong đó, vì then bên ngoài cửa không cài. Nhưng Emil vốn có bao giờ suy nghĩ chuyện gì cho thấu đáo đâu. Loáng cái nó đã cài chặt then cửa và vừa tưng tưng nhảy chân sáo bỏ đi vừa hát nghêu ngao:

“Mình đã cài then, đã cài then tất tần tật!”

Đang ngồi trong buồng Trisse, bố Emil nghe tiếng hát hoan hỉ của ông con mà giật mình lo sợ, vội cuống cuồng đứng dậy và thử lay cánh cửa.

- Biết ngay mà! Cánh cửa không thể được cài then chắc hơn thế nữa. Thế là ông gầm lên:

- Emil! Nhưng Emil đã nhảy chân sáo rời khỏi đó và gân cổ hát bài “Mình đã cài then” to đến nỗi nó hầu như chẳng nghe thấy gì.

Ông bố tội nghiệp, ông tức giận đến nghẹn thở. Thật là quá quắt! Làm cách nào thoát ra được đây? Ông đập cửa như hóa rồ, vừa đấm vừa xô rầm rầm. Nhưng ích gì? Cuối cùng ông bắt đầu co chân đạp. Ông đạp hăng đến nỗi tưởng dập các ngón chân, thế nhưng cái nhà bác Trisse ngày xưa đã làm cánh cửa quá tốt và chắc chắn nên nó không hề bị suy suyển. Mỗi lúc bố Emil càng điên tiết. Ông bắt đầu thọc tay vào túi tìm con dao nhíp. Ông nghĩ ít nhất ông cũng sẽ khoét được một cái lỗ nho nhỏ, đủ để thò mũi dao nhíp ra và đẩy cái then lên. Nhưng con dao nhíp lại để trong túi quần mặc hàng ngày, mà hôm nay ông lại diện bộ cánh Chủ nhật. Bố Emil đứng đó một lúc, giận sôi người. Không, ông không chửi rủa, vì ông vốn rất mực ngoan đạo, nhưng ông rít lên mắng Emil và mắng cả bác đầy tớ Trisse vì nỗi ngày đó bác ta không chịu lắp trong căn buồng này một cái cửa sổ cho ra hồn, mà chỉ để mỗi một ô thông gió bé tí tẹo ở phía trên cửa ra vào. Bố Emil tức giận ngó lên ô thông gió quá hẹp đó và đạp thêm mấy cú thật mạnh vào cánh cửa. Đoạn ông ngồi xuống chờ đợi.

Trong buồng Trisse không có quá ba chỗ ngồi, ông bèn ngồi phịch xuống một chỗ. Ông cứ ngồi thế mà nghiến răng trèo trẹo, sốt ruột sốt gan chờ xem rốt cuộc sẽ có ai đó mò xuống, do có nhu cầu giải quyết bức xúc trong buồng Trisse.

Khốn nạn cho kẻ nào đó ló mặt đầu tiên, ta sẽ giết chết tươi, ông tự nhủ. Bố Emil nghĩ thế thật không công bằng và không được tử tế cho lắm, nhưng cũng phải thông cảm là ông đang cực kỳ tức giận.

Bóng tối phủ xuống buồng Trisse. Bố Emil cứ thế ngồi đợi, đợi mãi – nhưng chẳng có ai mò xuống. Ông nghe tiếng mưa rào rào trên mái, một tiếng động không hề an ủi mà còn làm ông mỗi lúc càng thêm tức giận. Không thể nào, trong khi ông phải ngồi đơn độc trong bóng tối nơi này, thì tất cả những kẻ khác lại ngồi quây quần vui vẻ dưới ánh đèn trong kia và thả sức đánh chén trên túi tiền của ông. Không, giờ phải chấm dứt chuyện này! Ra khỏi đây, ông phải ra khỏi đây bằng mọi giá! Cho dù phải chui người qua lỗ thông gió!

- Vì mình đang tức điên lên đây, – ông nói to và nhổm dậy khỏi chỗ ngồi.

Trong buồng Trisse có một thùng đựng báo cũ. Bố Emil dựng đứng cái thùng, rồi trèo lên. Phải, cái thùng đủ cao. Cho tới lúc này tất cả đều ổn, vì ông dễ dàng mở cánh cửa lỗ thông gió và thò đầu ra xem có ai quanh đấy để kêu cứu không.

Chẳng có ai, thay vào đó ông lại bị nước mưa xối xả tuôn thẳng xuống gáy. Bao nhiêu nước mưa cứ thế tràn qua cổ áo xuống người ông. Nhưng giờ đây không gì có thể phanh nổi bố Emil nữa. Dù một trận đại hồng thủy có trút xuống đầu ông lúc này – ông vẫn phải thoát ra khỏi đây cho kỳ được!

Gắng hết sức, ông lách được hai cánh tay và vai ra khỏi lỗ thông hơi, rồi ông cố toài người ra từng tí từng tí một.

Khi người ta thực sự tức giận thì sẽ vượt qua được tất, ông nghĩ. Nhưng đúng lúc đó ông đột nhiên bị mắc kẹt! Thậm chí mắc kẹt hoàn toàn! Ông cố tới mức tím bầm cả mặt mũi, vừa đạp mạnh hai chân ông vừa vung tay loạn xạ, rồi kết quả là cái thùng gỗ đổ bật ra đất, khiến hai chân ông không còn điểm tựa, cứ chới với hết đu ra trước lại đạp ra sau – khốn khổ thân ông!

Một người sùng đạo bậc nhất sẽ làm gì khi nửa thân trước phơi dưới trời mưa và nửa thân sau thì treo trong nhà tiêu? Ông sẽ kêu cứu chăng? Không, ông không kêu cứu! Không đời nào, vì ông quá biết dân làng Lönneberga. Ông biết chính xách nếu chuyện này đến tai dân làng thì họ sẽ cười ông thối mũi, và sẽ không chịu dừng lại, chừng nào còn có dù chỉ một người sống sót ở làng Lönneberga, và nói chung ở cả vùng Smăland. Ông không kêu cứu!

Trong lúc đó, sau khi vui vẻ và hài lòng trở lại bữa tiệc. Emil đã gắng hết sức mua vui cho bé Ida. Cô bé thấy cuộc vấn đáp thật là buồn tẻ, vì vậy Emil kéo em ra hành lang, nơi hai anh em thử sờ chân vào những đôi giày của khách. Những đôi giày to có nhỏ có xếp thành dãy ngay ngắn ở đó, và bé Ida cười khúc khích khi Emil vừa kéo lê đôi giày to tướng của ông mục sư vừa nói năng y như ông mục sư, nào là “cũng vì lẽ đó”, nào là “hơn thế nữa”. Kết quả là những chiếc giày nằm vung vãi trong hành lang. Nhưng vốn là đứa trẻ ngăn nắp. Emil bèn xếp chúng thành một đống thù lù như trái núi ngay chính giữa hành lang.
Rồi Emil sực nhớ ra đã hứa sẽ mang đồ ăn ngon ra cho Nhóc Lợn. Nó lượn một vòng trong bếp, vét một số đồ ăn còn thừa vào trong liễn, đoạn tay bưng lên, tay xách đèn dầu, nó đội mưa đi ra màn đêm để đem niềm vui đến cho con lợn nhỏ của mình.

Và rồi – ồ, tôi phát run khi nghĩ đến điều này! – rồi Emil trông thấy bố! Bố cũng nhìn thấy Emil! Ôi, ôi, ôi, sao lại có thể xảy ra tất cả những chuyện này được!

- Gọi chú Alfred ngay! – Bố Emil rít lên. – Bảo chú ấy đem ra đây một cân thuốc nổ, ta sẽ cho nổ tung cả cái buồng Trisse này lên trời!

Emil chạy đi và chú Alfred tới. Chú không mang theo thuốc nổ – hẳn bố Emil tức giận quá dọa thế thôi – , nhưng đem ra một cái cưa. Vâng, phải cưa cánh cửa để cứu bố Emil thôi, ngoài ra chẳng còn cách nào khác.

Trong khi chú Alfred cưa thì Emil đứng trên một cái thang nhỏ và chu đáo giương ô che mưa cho ông bố đáng thương của mình. Chắc bạn hiểu rằng Emil chẳng sung sướng gì khi phải đứng trên thang như thế. Suốt thời gian đó bố cứ tức giận đùng đùng dưới cái ô và dọa sẽ xử lý Emil chừng nào thoát được khỏi đây. Bố cũng không hề biết ơn Emil vì nó đã chu đáo che ô cho bố. Che bây giờ phỏng còn ích lợi gì chứ, một khi bố đã ướt sũng từ ngoài vào trong và thế nào cũng bị cảm lạnh, thậm chí hoàn toàn chắc chắn rằng bố sẽ bị viêm phổi!

Nhưng Emil bảo:

- Không, bố cảm lạnh thế nào được. Cái chính là giữ được hai bàn chân khô!

Chú Alfred cũng nghĩ vậy.

- Đúng vậy, cái chính là giữ hai bàn chân khô.

Và tất nhiên hai bàn chân bố vẫn khô, điều mà bố không thể chối cãi, nhưng còn lâu bố mới chịu hài lòng vì thế. Emil run sợ trước giây phút bố được tự do.

Chú Alfred cưa hăng đến nỗi hạt cưa văng tung tóe, còn Emil sẵn sàng ù té quyền. Đúng lúc chú Alfred cưa xong và bố Emil rơi phịch xuống đất, thì Emil quăng chiếc ô đi và co giò chạy thục mạng xuống xưởng mộc. Một tích tắc trước khi bố tóm được Emil, nó kịp lao vụt xuống xưởng mộc và chốt cửa lại.

Tất cả bọn họ – kể cả vợ chồng ông mục sư – cùng ngồi xổm xuống và lần tìm giày của mình suốt hai giờ đồng hồ. Cuối cùng họ nói khá là bực bội câu “cảm ơn” và “chào tạm biệt”, rồi biến vào trong màn mưa.

Họ không thể nói lời “chào tạm biệt” Emil, vì nó đang ngồi trong xưởng mộc đẽo hình nhân thứ một trăm tám mươi tư của mình.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 16-9-2011 17:22:56 | Chỉ xem của tác giả
Chủ nhật, 18 tháng Mười hai,
ngày Emil có một hành động anh hùng, khiến cả làng Lönneberga hoan hô và tha thứ cũng như quên hết những trò nghịch ngợm của nó


Sắp tới lễ Giáng sinh. Một tối nọi mọi người ở trang trại Katthult ngồi quây quần trong bếp, ai làm việc người nấy. Mẹ Emil quay guồng kéo sợi, bố Emil vá giày, cô Lina chải bông, Emil và chú Emil đẽo những chiếc răng mới cho cái cào bằng gỗ, còn bé Ida chơi trò bò ngón tay đầy thích thú trên lưng cô Lina. Nó cứ lì lợm tiếp tục chơi trò này, mặc dù cô Lina bị quấy rối trong lúc cô đang làm việc.

- Nhưng phải là lưng của ai có máu buồn mới được, – bé Ida nói, thế thì nó chọn cô Lina là đúng rồi.

Bé Ida vừa cho hai ngón tay bé nhỏ từ từ bò lên cao dọc theo lưng cô Lina, vừa đọc mấy câu vè của trò chơi:

“Bố yêu ơi, mẹ yêu ơi
hãy đổ muối và bột cho tôi,
tôi sắp mổ lợn Giáng sinh rồi,
nó sẽ kêu eng éc điếc tai tôi.”


Cứ đến câu “eng éc” là bé Ida lại ngoáy ngoáy ngón tay trỏ vào sườn cô Lina, khiến lần nào cô Lina, khiến lần nào cô cũng kêu ầm ĩ và cười với Ida với vẻ hết sức hài lòng.

Bố Emil ngồi đó và nghe câu “tôi sắp mổ lợn Giáng sinh rồi”. Hẳn câu đó gợi cho ông suy nghĩ, nên ông đột nhiên nói ra một điều khủng khiếp.

- Đúng, sắp Giáng sinh rồi. Đã tới lúc mổ thịt con lợn của con rồi đấy, Emil.

Emil buông rơi con dao đẽo gỗ trên tay, trân trối nhìn bố.

- Mổ thịt Nhóc Lợn ấy ạ! Không đời nào! – nó nói. – Đó là con lợn của con, Nhóc Lợn của con, bố quên rồi à?

Tất nhiên bố Emil không quên. Nhưng ông nói rằng khắp vùng Smăland này chưa có ai nghe câu chuyện nuôi lợn như nuôi chó cưng cả, là một nông dân sành sỏi lẽ ra Emil phải biết người ta chăn nuôi và vỗ béo lợn cốt để mổ thịt chứ.

- Con không biết điều đó sao? – bố Emil ngạc nhiên hỏi.

Phải, tất nhiên Emil biết điều đó, nhưng thoạt đầu nó không biết trả lời thế nào. Rồi nó bỗng nảy ra một ý hay.

- Đúng, con là một nông dân sành sỏi tới mức biết rằng một số con lợn giống được phép tiếp tục sống, để con gây giống. Và chính là con định nuôi Nhóc Lợn thành lợn giống đấy chứ.

Emil biết điều mà có lẽ bạn chưa biết, là lợn giống chính là một con lợn sẽ trở thành bố của rất nhiều lợn con. Đấy là phao cứu sinh cho Nhóc Lợn, Emil nghĩ, vì Emil đâu có ngốc. Rồi nó sẽ kiếm được cho Nhóc Lợn một con lợn nái, và cho dù con lợn nái ấy còn bé, thì nó vẫn giải thích cho bố rằng Nhóc Lợn và vợ Nhóc Lợn rồi dây sẽ sinh được hàng đàn lợn con suốt ngày quấn quít quanh chúng.

- Nghe được đấy, – bố Emil nói. – Nhưng chắc chắn ở trang trại Katthult này sẽ có một kỳ Giáng sinh chỉ toàn rau dưa.

Không đùi lợn muối, không dồi tiết, không gì hết!

“Hãy đưa bột đưa muối cho tôi
Tôi muốn nấu ngay cái món dồi.”


Bé Ida tiếp tục đọc, nhưng Emil đã quát lên:

- Im mồm, dồi diếc gì! Emil biết món dồi tiết đâu chỉ cần bột và muối, mà còn cần lòng lợn và tiết canh nữa.

Nhưng nhất định không phải là lòng và tiết của Nhóc Lợn! Không, chừng nào Emil còn sống thì đừng ai hòng đến Nhóc Lợn!

Trong bếp im lặng hồi lâu, một sự im lặng nặng nề. Bỗng chú Alfred văng một câu chửi thề. Con dao đẽo gỗ sắc lẻm cắt vào ngón tay cái của chú khiến máu chảy ra ròng ròng.

- Chú chửi thề thì có đỡ hơn đâu, – bố Emil nghiêm khắc nói. – Tôi không muốn nghe chửi thề trong ngôi nhà của mình.
Mẹ Emil lấy một miếng vải lanh sạch quấn quanh ngón tay cái của chú Alfred.

Rồi chú Emil đẽo tiếp. Đây là một công việc nên làm trong mùa đông, vì mọi cái cào đều cần được thay răng mới cho những răng đã hỏng, và công việc sửa chữa này phải xong trước mùa xuân.

-– Như đã nói….. Giáng sinh năm nay ở Katthult sẽ chỉ ăn toàn rau dưa thôi, – bố Emil nói, mắt rầu rĩ nhìn đăm đăm ra phía trước.

Tối ấy Emil nằm thao thức mãi, sáng ra nó đập vỡ con lợn đất và lấy từ chỗ tiền tiết kiệm ba mươi lăm đồng. Đoạn nó thắng con Lukas vào một cỗ xe trượt và đi đến trang trại Bastefall. Ở đó họ nuôi nhiều lợn, và Emil chở về một con lượn béo tròn rất đẹp mã, thả vào chuồng với Nhóc Lợn. Xong đâu đấy nó tìm bố và nói:

- Nào, bây giờ trong chuồng nhà mình đã có hai con lợn rồi. Bố giết thịt một con đi! Nhưng bố chớ có thịt nhầm đấy, kẻo lại trách con không đe trước!

Cơn thịnh nộ khủng khiếp đang chế ngự Emil đôi khi khiến nó không cần biết người mà nó đang nói chuyện là bố mình nữa. Ý nghĩ chỉ có thể mua được cuộc sống cho Nhóc Lợn bằng cách giết một con lợn khác, khiến Emil cảm thấy bàng hoàng. Nhưng nó không còn cách lựa chọn nào khác, và cũng biết rõ ràng nó sẽ chẳng yên thân được với bố, người không chịu hiểu rằng trên đời này có một người có thể coi một con lợn như chó cưng.

Hai ngày liền Emil không bén mảng đến chuồng lợn, mà để cô Lina mang thức ăn cho cả hai con lợn. Tinh mơ ngày thứ ba, nó chợt thức giấc, cho dù bên ngoài trời vẫn tối đen như mực. Nó nghe tiếng lợn kêu như bị chọc tiết. Tiếng kêu thống thiết, chói tai, nhưng đột nhiên im bặt.

Emil phà hơi vào ô kính cửa sổ bị đóng băng bên ngoài, để tạo một lỗ con nhòm ra. Nó thấy ánh đèn đầu phía chuồng lợn và những bóng đen đi đi lại lại. Giờ con lợn đã chết, nó biết thế. Giờ cô Lina đang đứng đấy mà quấy chỗ tiết đang ộc ra từ cổ con lợn. Bố và chú Alfred sắp dội nước sôi để cạo lông và xả thịt. Bà Krösa–Maja sẽ đến để cùng cô Lina làm sạch bộ lòng. Và thế là chấm dứt cuộc đời con lợn mà Emil đã mua về từ trang trại Bastefall.

“Tôi sắp mổ lợn Giáng sinh rồi, nó sẽ kêu eng éc điếc tai tôi,” Emil lẩm bẩm, đoạn lại chui lên giường nằm khóc hồi lâu.

Nhưng con người là thế: Emil cũng vậy thôi. Chiều ấy nó ngồi trong chuồng một lát với Nhóc Lợn và vừa gãi lưng cho Nhóc Lợn vừa nói đầy suy tư.

- Nhóc Lợn ơi, mày vẫn sống! Cho dù trên thế gian này có chuyện gì xảy ra chăng nữa, thì mày, mày cứ vẫn sống!

Rồi Emil định bụng sẽ cố quên con lợn của trang trại Bastefall. Nhưng hôm sau, khi bà Krösa–Maja và cô Lina chăm chỉ ngồi trong bếp thái mỡ lợn, còn mẹ thì nhào thịt xay nhuyễn làm xúc xích, luộc dồi và ướp đùi lợn vào nước muối và khi cô Lina hát “Gió thổi từ biển vào sao mà lạnh” còn bà Krösa–Maja kể chuyện con ma không đầu ở nhà mục sư, thì Emil lại cảm thấy sao mà khoan khoái. Nó không còn nhớ đến con lợn xấu số của trang trại Bastefall, mà chỉ còn khấp khởi nghĩ đến chuyện lễ Giáng sinh sắp đến rồi và thật tuyệt biết bao khi cuối cùng tuyết cũng đã bắt đầu rơi.

- Tuyết rơi rồi, nhiều tuyết ghê, nhiều tuyết ghê! – Bé Ida reo lên.

Và tuyết rơi mới dữ dội làm sao. Suốt ngày tuyết rơi, mỗi lúc một dày, đã thế lại còn gió mạnh. Tuyết xoáy mù mịt khiến trong nhà nhìn ra hầu như không còn thấy nổi khu chuồng trại.

- Phải, bây giờ gió đang góp thành bão, sẽ có bão tuyết mất thôi, – bà Krösa–Maja nói. – Làm sao tôi về nhà được đây.

- Đêm nay bà cứ ngủ lại, – mẹ Emil bảo. – Bà có thể ngủ chung với cô Lina trên chiếc ghế dài dưới bếp.

- Được, nhưng hãy biết điều mà nằm yên như con lợn chết đấy! Đừng quên là tôi có máu buồn, – cô Lina nói.

Trong bữa ăn tối chú Alfred than phiền về ngón tay cái của chú. Chú kêu đau. Mẹ Emil bèn tháo băng ra xem xem tại sao ngón tay vẫn chưa lành.

Trông không đẹp mắt tí nào. Vết thương tấy đỏ và mưng mủ, từ ngón tay cái có những vệt đỏ chạy dài lên quá cổ tay. Mắt bà Krösa–Maja bắt đầu sáng lên.

- Nhiễm trùng máu rồi, – bà nói. – Bệnh này nguy đấy.

Mẹ Emil đi lấy lọ cồn, xoa khắp bàn tay và cánh tay chú Alfred rồi băng lại.

- Nếu đến mai vẫn không đỡ, thì cậu phải đến ông bác sĩ ở Mariannelund thôi, – mẹ nói.

Đêm đó tuyết và gió bão quần khắp vùng Smăland, không ai nhớ nổi đã có khi nào thời tiết tệ hại tới mức đó chưa. Sáng hôm sau, khi những người ở trang trại Katthult ngủ dậy, thì thấy cả trang trại bị phủ kín bởi một lớp tuyết dày trải rộng. Và bão tuyết vẫn lồng lộn, dữ tợn tới mức người ta hầu như không thể ló đầu ra khỏi nhà, còn gió thì hú thành tiếng trong ống khói – ui chao, thật đúng là chưa từng thấy!

- Hôm nay anh Alfred cứ gọi là xúc tuyết suốt ngày nhá, – cô Lina nói. – Mà cứ để mặc như thế cũng được, vì xúc sao cho xuể.

Nhưng ngày hôm đó chú Alfred không xúc xẻng tuyết nào cả. Khi đến bữa ăn sáng, chỗ của chú ở trong bếp trống không, mà cũng chẳng thấy chú dặn ai cái gì. Emil đâm ra lo lắng. Nó chụp cái “mú” lên đầu, khoác chiếc áo vải len dày, vớ lấy cái xẻng xúc tuyết gác cạnh cửa bếp, đoạn xúc tuyết dọn cho mình một con đường đi sang lán đầy tớ nằm sát vách xưởng mộc.

Cô Lina ngó qua cửa sổ bếp dõi theo Emil, rồi gật gù vẻ hài lòng.

- Cái thằng Emil khôn thế chứ, lo dọn sẵn tuyết để có thể chạy cho nhanh xuống xưởng mộc. Ai mà biết được lúc nào nó sẽ bất chợt phải chạy xuống đấy.

Cô Lina ngu ngốc, cô không hiểu rằng Emil đang trên đường đến với chú Alfred.

Trong buồng đầy tớ lạnh ngắt khi Emil bước vào. Chú Alfred đã không đốt sưởi. Chú nằm trên giường và không muốn dậy. Chú cũng chẳng muốn ăn. Chú bảo chú chú không đói. Thế là Emil càng lo lắng tợn. Chú Alfred mà đã không biết đói thì có nghĩa là bệnh của chú trầm trọng.

Emil chất củi vào lò sưởi và châm lửa, sau đó nó chạy đi gọi mẹ. Mẹ Emil đến, tất cả những người khác cũng đến, bố Emil, cô Lina, bà Krösa–Maja và bé Ida, vì ai cũng lo lắng cho chú Alfred.

Chú Alfred tội nghiệp nằm nhắm mắt ở đó. Người nóng như hòn than, nhưng chú vẫn rét run. Các vết đỏ nơi tay chú đã lan lên đến tận nách, trông rất đáng sợ.

Bà Krösa–Maja hăng hái gật gù.

- Nếu những vết đỏ này chạy vào tim thì coi như xong, cậu ấy sẽ chết.

- Bà im đi, – mẹ Emil bảo. Nhưng bắt bà Krösa–Maja im miệng đâu có dễ.

Riêng ở làng Lönneberga không thôi bà đã biết tới ít nhất là nửa tá người chết vì nhiễm trùng máu và bà bèn liệt kê tên tuổi của họ ra. – Nhưng không phải vì thế mà chúng ta chịu bó tay với cậu Alfred, – bà nói.

Bà nghĩ có lẽ sẽ cứu được chú Alfred, nếu đúng nửa đêm đem một lọn tóc và một đầu vạt áo của chú ra chôn về phía bắc tòa nhà chính và đọc một câu rủa kiểu như thần chú. Bà biết một câu như thế này:

“Ba cộng ba! Cái gì đến từ quỷ Sa tăng, cút ngay về với quỷ Sa tăng! Thế là hòa – ba cộng ba!” Nhưng bố Emil bảo rằng câu rủa mà chú Alfred văng ra khi chú cắt vào ngón tay cái cũng đã đủ lắm rồi. Còn nếu bây giờ phải chôn cái gì ở phía bắc ngôi nhà trong thời tiết như thế này, thì bà Krösa–Maja cứ việc tự đi mà làm.

Bà Krösa–Maja tư lự lắc đầu:

- Phải, phải, đành cứ để sự việc diễn ra như nó phải thế thôi, ôi chao, ôi chao!

Emil nổi điên.

- Chuyện nhảm nhí của đàn bà!

Bà Krösa–Maja rụt đầu lại.

- Hiểu chứ, Emil bé bỏng, cậu ấy sẽ khỏe lại, tất nhiên cậu ấy sẽ khỏe lại!

Và để cho chắc chắn, bà vuốt ve chú Alfred và thề thốt rõ to.

- Chắc chắn cậu sẽ khỏe lại, cậu Alfred, tôi hiểu lắm chứ!

Nhưng sau đó bà lại nhìn ra cửa buồng ngủ và khẽ lẩm bẩm:

- Nhưng có điều tôi không hiểu. Họ sẽ làm cách nào mà khiêng quan tài lọt qua ô cửa hẹp kia được nhỉ!

Nghe vậy, Emil liền òa lên khóc. Nó sợ hãi giật gấu áo bố.

- Mình phải đưa chú Alfred đến chỗ bác sĩ ở Mariannelund như mẹ nói, đi bố!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 16-9-2011 17:24:53 | Chỉ xem của tác giả
Thế là bố mẹ nhìn nhau rất lạ. Họ biết việc này hoàn toàn không thể. Không, đơn giản là không thể nghĩ đến chuyện tới Mariannelund ngay hôm nay. Nhưng thật khó nói thẳng điều đó với Emil khi thằng bé ủ rũ đứng đó. Tất nhiên bố mẹ Emil cũng muốn giúp chú Alfred. Có điều họ không biết bằng cách nào, và vì vậy cũng không biết phải trả lời Emil ra sao. Bố Emil chẳng nói chẳng rằng rời căn buồng, nhưng Emil không chịu đầu hàng. Nó lẵng nhẵng theo sát gót bố và vừa van nài, vừa khóc lóc, dọa dẫm, như thể mất trí. Nhưng, bạn thử tưởng tượng xem, lần này bố Emil lại không nổi giận, mà chỉ nói rất khẽ:

- Không thể được, Emil ạ, tự con biết là không thể được mà!

Cô Lina ngồi trong bếp vừa khóc nức nở vừa thổn thức:

- Thế cháu cứ nghĩ sang xuân chúng cháu sẽ cưới nhau cơ đấy! Thôi, thế là xong! Bây giờ anh Alfred đã hết đời. Còn cháu, cháu ngồi đây ôm bốn khăn trải giường với cả tá khăn tay! Phải, thật là quá đáng!

Rốt cuộc lúc này Emil mới thực sự hiểu tình cảnh bi đát của mình. Không có sự giúp đỡ nào cả. Thế là nó quay lại lán đầy tớ và ngồi suốt một ngày bên chú Alfred, đó là ngày dài nhất trong đời Emil.

Chú Alfred nằm đó, ngủ li bì. Thi thoảng chú mới mở mắt nhìn lên và lần nào cũng nói:

- Cháu đấy à, Emil!

Emil nhìn tuyết quay cuồng ngoài cửa sổ mà căm hờn trào dâng hừng hực, tới mức tưởng như đủ sức hun tan tất cả tuyết ở làng Lönneberga và khắp vùng Smăland này. Nhưng chắc chắn cả thế gian sẽ chìm trong tuyết mất thôi, nó nghĩ, vì tuyết trút xuống ngày càng dày đặc.

Ngày mùa đông ngắn ngủi, cho dù có vẻ dài đối với một kẻ đang nóng lòng ngồi đây như Emil. Trời đã nhập nhoạng, sắp tối đến nơi.

- Cháu đấy à, Emil! – Chú Alfred lại nói, nhưng lúc này chú nói khó khăn hơn.

Mẹ Emil bưng canh thịt đến và khéo dỗ Emil lắm nó mới chịu ăn. Mẹ cũng thử dỗ chú Alfred, nhưng chú không muốn ăn. Thế là mẹ thở dài và lại đi ra.

Khi đã khuya, cô Lina đến bảo đã đến giờ Emil phải đi ngủ rồi.

Đừng hòng, chớ có ai tưởng sẽ bắt được nó rời nơi này.

- Cháu sẽ ngủ dưới sàn nhà, cạnh chú Alfred, – Emil nói, và không thay đổi quyết định.

Emil lôi ra một tấm nệm cũ và một tấm chăn dùng đắp cho ngựa, với nó thế là đủ. Nhưng nó không sao ngủ được. Nó nằm thao thức, nhìn lửa trong lò sưởi lụi dần và nghe tiếng đồng hồ báo thức của chú Alfred kêu tích tắc, nhưng nó cũng nghe chú Alfred thở gấp như thế nào và thỉnh thoảng chú lại rên lên khe khẽ ra sao. Hẳn thỉnh thoảng Emil có chợp mắt đi một lát, nhưng lần nào nó cũng giật mình choàng tỉnh dậy. Nỗi lo sợ cho chú Alfred bót nghẹt trái tim Emil, và đêm càng trôi đi, nó càng cảm thấy tất cả là sai lầm và sắp trở nên quá muộn, vĩnh viễn quá muộn.

Sau đó quãng bốn giờ sáng, thì Emil biết mình phải làm gì. Bằng mọi giá, nó phải đưa bằng được chú Alfred đến ông bác sĩ ở Mariannelund, cho dù cả hai – nó và chú Alfred – có bỏ mạng dọc đường chăng nữa.

- Chú không được cứ nằm trên giường mà chờ chết như thế, chú Alfred, chú không được phép!

Emil không nói to ra điều đó, mà chỉ nghĩ. Nhưng nó nghĩ rất kiên quyết. Và nó bắt tay vào hành động ngay. Nó phải rời khỏi đây trước khi có ai thức dậy và ngăn cản nó. Cho tới khi cô Lina dậy đi vắt sữa bò. Emil còn một tiếng đồng hồ nữa, và tất cả sẽ phải diễn ra trong một tiếng đồng hồ ấy.

Không ai biết Emil đã làm thế nào và trong tiếng đồng hồ ấy nó đã lao động cật lực ra sao. Phải lôi cỗ xe trượt ra khỏi nhà để xe, phải dắt con Lukas ra khỏi chuồng, thắng con ngựa vào xe, rồi phải đưa được chú Alfred đáng thương cứ lảo đảo và tựa vào Emil nặng trĩu. Cuối cùng, khi Emil dìu được chú đến bên cỗ xe trượt, thì chú liền ngã chúi đầu vào xe và nằm thượt ra như chết rồi.

Emil đắp kín cho chú Alfred đến nỗi chú chỉ còn thò ra tí đỉnh mũi. Sau đó nó ngồi trên ghế xà ích, kéo dây cương và thúc con Lukas chạy nước kiệu. Nhưng con Lukas ngoảnh đầu lại và nhìn Emil, vẻ ngờ vực. Họa có điên mới lên đường giữa trời mù trắng tuyết này! Chẳng lẽ Emil không không hiểu điều đó?

- Bây giờ tao là người quyết định, – Emil nói, – mày chỉ việc vâng lời thôi!

Trong bếp đã lên đèn, cô Lina đã dậy. Đúng vào phút chót Emil mới cùng con Lukas và cỗ xe trượt băng qua cổng trang trại Katthult và rẽ vào con đường trong tuyết và gió.

Úi, bão tuyết đang ở trên đâu Emil! Tuyết táp ngang tai nó, bám dính vào mắt nó khiến nó chẳng còn trông thấy gì, mà nó thì đang muốn ít nhất phải trông thấy con đường. Emil đưa bàn tay đi găng lên quệt mặt, nhưng vẫn không nhìn thấy đường, mặc dù nó có mang theo trên xe trượt những hai chiếc đèn bão. Không có đường nào cả, chỉ có tuyết. Nhưng con Lukas đã đến Mariannelund nhiều lần. Có thể sâu thẳm trong trí nhớ loài ngựa của nó, nó biết đại khái con đường sẽ chạy như thế nào. Lukas lại rất dẻo dai và ngoan cường, đích thực là một con ngựa mà người ta dám cùng xông pha trong bão tuyết! Họ cứ thế từ từ tiến lên. Sau mỗi lần cỗ xe bị sa lầy trong tuyết, là lại có một cú giật mạnh. Chốc chốc Emil lại phải xuống xe, lấy xẻng xúc bớt tuyết. Emil khỏe như một con bò mộng và đêm đó nó đã xúc cơ man là tuyết, khiến nó không bao giờ quên.

- Người ta sẽ trở nên mạnh mẽ khi buộc phải thế, – Emil bảo con Lukas.

Chắc chắn rồi, Emil rất khỏe và trong những dặm đường đầu tiên mọi việc khá suôn sẻ, nhưng càng về sau càng khó khăn, phải, rồi mọi việc trở nên thật sự tệ hại cho Emil. Lúc này nó đã thấm mệt, cái xẻng mỗi lúc như càng nặng hơn trên tay nó, nó không còn có thể xúc hùng hục như ban nãy nữa. Emil rét run, tuyết chui vào ủng khiến các ngón chân nó tê cứng lại, các ngón tay đau buốt vì lạnh, tai cũng cóng, mặc dù nó đã quấn quanh mũ một chiếc khăn len, để gió khỏi thổi bay mất tai. Tất cả cộng lại quả thật tệ hại và Emil dần dần đánh mất dũng khí. Bố đúng là có lý khi nói:

- Không thể được. Emil ạ, tự con biết là không thể được mà!

Lukas cũng đuối sức dần. Mỗi lúc con ngựa càng khó nhọc hơn khi phải lôi cỗ xe bị sa lầy trong tuyết. Cuối cùng xảy ra điều mà Emil lo sợ suốt nãy giờ. Cỗ xe bỗng sụt nghiêng đi, và Emil biết cả bọn đang sa xuống rãnh. Phải, họ đang ở dưới rãnh và mắc kẹt ở đó. Dù con Lukas ra sức kéo, còn Emil thì thì cố hết sức mà đùn đẩy chảy cả máu mũi, vẫn chẳng ích lợi gì. Cỗ xe vẫn đứng lì tại chỗ.

Thế là Emil nổi cơn tức giận, nó tức điên lên với tuyết, với cỗ xe, với cái rãnh và nói chung với tất cả tình cảnh khốn khổ này, tới mức nó gần như mất trí. Emil rú lên một tiếng ghê rợn, nghe như tiếng rú nguyên thủy. Con Lukas giật mình sợ hãi và có lẽ cả chú Alfred cũng thế, nếu chú còn sống. Emil tự nghe cũng phát hoảng và đang hú bỗng im bặt.

- Chú còn sống đấy chứ, chú Alfred? – nó sợ hãi hỏi.

- Không, chắc chú chết rồi, – chú Alfred đáp với giọng khàn khàn kỳ dị và đáng sợ. Và thế là cơn tức giận bay biến khỏi Emil, chỉ nỗi buồn còn lại. Nó cảm thấy đơn độc. Cho dù chú Alfred còn nằm trong xe sau lưng nó kia, nó vẫn hoàn toàn đơn độc và chẳng có ai giúp đỡ. Lúc này nó không còn biết phải làm gì. Nó chỉ ước gì cho được nằm vùi trong tuyết để ngủ và quên hết sự đời.

Nhưng gần đâu đây có một trang trại….. Chính là cái trang trại mà Emil đặt cho cái tên là trang trại Bánh Rán. Và đột nhiên Emil trông thấy một ánh lửa, một tia hy vọng lóe lên trong nó.

- Để cháu đi gọi người tới giúp, chú Alfred, – nó nói. Nhưng chú Alfred không trả lời. Emil vội lên đường. Nó vất vả vượt qua những hố những đụn tuyết lồi lõm, để rồi rốt cuộc, khi nó đến được cửa chuồng bò thì trông nó giống như một hình nhân đắp bằng tuyết hơn bất cứ thứ gì khác.

Chính ông chủ trang trại Bánh Rán đang ở trong chuồng bò. Ông ta khá kinh ngạc khi trông thấy thằng bé của trang trại Katthult đứng trên ngưỡng cửa, người phủ đầy tuyết, máu mũi choe choét, nước mắt đầm đìa. Phải, Emil đã khóc, nó không thể làm khác, nó biết lôi được ông chủ trang trại Bánh Rán ra trời tuyết giữa lúc này thật chẳng dễ dàng gì. Ông ta thật khó chịu, cái ông nông dân này, nhưng hẳn ông ta nhận thấy mình không thể không giúp đỡ. Thế là ông mang theo ngựa, những sợi chão và mấy cái chăn cũ và lôi được cỗ xe trượt lên khỏi cái rãnh, mặc dù suốt thời gian đó ông ta rất bực tức và cứ càu nhàu luôn mồm.

Giá cái ông chủ trang trại Bánh Rán là người tử tế hơn một chút thì chắc ông ta đã tìm cách tiếp tục giúp Emil đến tận Mariannelund. Nhưng ông ta không làm thế, nên Emil và con Lukas đành tiếp tục cuộc hành trình tuyệt vọng và không chút an ủi xuyên qua bão tuyết của mình. Chúng cũng chẳng còn có thể làm gì hơn. Tất nhiên cả hai cứ liên tục gắng thêm chút nữa, thêm chút nữa, nhưng chúng đã quá kiệt sức nên chỉ nhích được tý một như rùa bò. Cuối cùng thì Emil đành đầu hàng. Nó không thể cố nổi nữa. Nó thậm chí không còn đủ sức nhấc cái xẻng lên.

- Cháu chịu rồi, chú Alfred, – Emil nói và òa khóc. Chỉ còn vài cây số nữa là đến Mariannelund, vì vậy nên thật đau khổ khi phải đầu hàng chính vào lúc đã gần tới đích.

Không nghe chú Alfred ư hữ gì. Chắc chú ấy chết rồi, Emil nghĩ. Con Lukas cúi đầu đứng đó, trông như thể đang xấu hổ. Con ngựa cũng đã kiệt sức.

Emil trèo lên ghế xà ích. Nó cứ ngồi đó mà khóc khe khẽ, tuyết phủ kín người nó và nó không động đậy. Bây giờ tất cả thế là hết, tuyết cứ việc rơi bao nhiêu cũng mặc, nó không quan tâm nữa. Emil nhắm mắt lại, muốn ngủ. Nó có thể ngồi ngủ ngay trên ghê xà ích này, dưới trời tuyết mịt mù này, nếu được thế thì hay quá, nó nghĩ.

Nhưng thật ra không có tuyết lẫn mùa đông. Thật ra đang mùa hè đấy chứ. Emil cảm thấy như thế, vì nó đang cùng chú Alfred tắm dưới hồ ở trang trại Katthult. Và chú Alfred muốn dậy Emil bơi. Chú Alfred ngốc nghếch, chẳng lẽ chú không biết Emil đã biết bơi hay sao? Chính chú đã dạy cho nó cách đây nhiều năm, chú quên rồi sao? Emil phải cho chú biết nó bơi giỏi thế nào mới được. Thế rồi hai chú cháu cứ bơi cùng nhau…………. Thế rồi hai chú cháu cứ bơi cùng nhau, bơi cùng nhau mãi, càng lúc càng bơi ra xa và vẫy vùng dưới nước mới tuyệt làm sao! Emil bảo: “Hai chú cháu mình, chú Alfred!”, rồi chờ đợi chú Alfred trả lời như xưa nay vẫn thế: “Đúng, hai chú cháu mình, Emil, phải như thế chứ!” Nhưng thay vì vậy nó lại nghe tiếng chuông. Không thể thế được! Khi đang bơi giữa hồ thì làm gì có tiếng chuông nào. E

mil khó nhọc dứt mình ra khỏi giấc mơ, khó nhọc mở mắt. Và kia nó trông thấy một chiếc xe ủi tuyết! Giữa màn tuyết quay cuồng nhô ra chiếc xe ủi tuyết. Phải, đúng là chiếc xe ủi tuyết đến từ Mariannelund. Bác tài lái chiếc xe cứ trố mắt nhìn Emil, như thể bác ta đã trông thấy một con ma, chứ không phải thằng bé mình phủ đầy tuyết đến từ trang trại Lönneberga của làng Lönneberga vậy.

- Đường từ đây đến Mariannelund thông rồi hả bác? – Emil hồi hộp hỏi.

- Ừ, bác tài đáp lớn, – nếu cháu nhanh nhanh lên. Nửa giờ nữa chắc chắn sẽ lại đầy tuyết đấy.

Nhưng nửa giờ nữa là đủ với Emil.

Phòng chờ chỗ bác sĩ đông kín người khi Emil mở toang cánh cửa. Đúng lúc ông bác sĩ thò đầu ra từ phòng khám, xem ai sẽ là người tiếp theo. Nhưng Emil đã la lên:

- Chú Alfred đang nằm trên xe trượt ngoài kia và đang hấp hối!

Ông bác sĩ không phải kẻ ngốc. Ông lập tức lôi theo vài người đàn ông đang ngồi trong phòng chờ ra chỗ xe trượt và khiêng chú Alfred vào, đặt chú nằm lên bàn mổ. Vừa lướt mắt nhìn chú Alfred, ông bác sĩ đã kêu lên.

- Mọi người về nhà cả đi! Giờ tôi bận việc khác rồi.

Emil đã tưởng chỉ cần chú Alfred đến được chỗ ông bác sĩ là chú sẽ khỏe lại tức thì. Nhưng lúc này, khi nhìn thấy ông bác sĩ lắc đầu na ná như bà Krösa–Maja, Emil phát hoảng. Ngộ nhỡ không có cách gì cứu nổi chú Alfred nữa – ngộ nhỡ tất cả đều vẫn quá muộn? Emil cảm thấy đau đớn hơn là nó hình dung. Vừa khóc nức nở, nó vừa nghẹn ngào van xin ông bác sĩ:

- Cháu xin biếu ông con ngựa của cháu, nếu ông chữa khỏi cho chú ấy….và cả con lợn của cháu nữa. Chỉ cần ông chữa khỏi cho chú ấy! Ông tin ông sẽ làm được chứ ạ?

Ông bác sĩ nhìn Emil hồi lâu.

- Ta sẽ làm tất cả những gì có thể, nhưng ta không hứa gì hết!

Chú Alfred cứ nằm đó, không chút biểu hiện của sự sống. Nhưng đột nhiên chú mở mắt và ngỡ ngàng nhìn Emil.

- Cháu đấy à, Emil! – chú nói.

- Đúng, Emil đấy, – ông bác sĩ đáp.– Nhưng bây giờ tốt hơn là để thằng bé đi ra ngoài một lúc, vì tôi phải mổ cho cậu, Alfred ạ.
Có thể đọc được nỗi sợ hãi trong mắt chú Alfred, vì xưa nay các ông bác sĩ và chuyện mổ xẻ rất xa lạ với chú.

- Cháu nghĩ là chú ấy hơi sợ, – Emil nói. – Có lẽ tốt nhất là cháu nên ở lại bên chú ấy.

Ông bác sĩ gật đầu.

- Ừ, cháu đã đưa được cậu ấy đến đây, thì chắc cháu cũng sẽ vượt qua được chuyện này.

Thế là Emil cầm lấy bàn tay lành lặn của chú Alfred mà nắm thật chặt, trong khi ông bác sĩ mổ bàn tay bên kia. Chú Alfred không kêu một tiếng nào. Chú không rên la, cũng không khóc – chỉ có Emil là khóc một chút, nhưng khóc khẽ tới mức không ai nghe thấy.

Một ngày trước ngày Chúa Giáng sinh Emil mới cùng chú Alfred trở về nhà. Lúc bấy giờ cả làng Lönneberga đều biết đến hành động anh hùng vĩ đại của Emil và ai nấy đều tung hô nó.

- Cái thằng bé ở trang trại Katthult đó tôi đã luôn luôn quý mến mà, – tất cả cùng nói. – Tôi không hiểu nổi tại sao một số người lại cứ luôn ca cẩm về nó! Trên đời này làm gì có thằng bé nào không nghịch ngợm một chút cơ chứ!

Ngoài ra Emil còn cầm về cho bố mẹ một bức thư của ông bác sĩ. Trong thư có đoạn viết: “Ông bà có một cậu con trai mà ông bà có thể tự hào”. Còn mẹ Emil thì ghi vào cuốn vở màu xanh: “Lạy Chúa, trái tim người mẹ tội nghiệp của con, trái tim từng bao lần tuyệt vọng khi nghĩ về Emil, giờ mới được an ủi làm sao! Và con sẽ có cách để cả làng cả xã này biết về việc làm tốt đẹp của thằng bé!”

Nhưng mà ôi chao, những người ở trang trại Katthult đã trải qua những ngày đầy lo âu. Vào cái buổi sáng kinh khủng đó, khi họ phát hiện ra Emil và chú Alfred đều biến mất, thì bố Emil phát hoảng tới mức lên cơn đau bụng và phải vào giường nằm. Ông cứ ngỡ suốt đời này sẽ chẳng còn được trông thấy Emil.

Nhưng rồi tin tốt lành từ Mariannelund đã làm ông bình tâm lại. Tuy vậy cho tới lúc Emil trở về và chạy ào vào buồng ngủ để báo cho bố là mình đã lại ở nhà, thì ông vẫn còn đau bụng.

Bố Emil nhìn Emil, hai mắt ông sáng lấp lánh.

- Emil, con là một cậu bé tốt, – ông nói, và Emil sung sướng tới mức tim nó như muốn nhảy khỏi lồng ngực. Đây đúng là một trong những ngày mà Emil cảm thấy yêu bố.

Mẹ Emil đứng bên cạnh, phấn khích vì tự hào.

- Phải, Emil của chúng ta thật là ngoan, – mẹ nói và vuốt ve mái tóc bồng bềnh của Emil.

Bố Emil chườm bụng bằng một cái vung nồi nóng, khiến cơn đau giảm đi rõ rệt. Nhưng cái vung đã nguội ngắt và cần được làm cho nóng lại.

- Để con, con làm được, – Emil hăng hái kêu lên, – bây giờ con đã quen chăm sóc người ốm rồi.

Bố Emil gật đầu công nhận.

- Còn mình, mình có thể mang cho tôi một li nước quả ép, – bố bảo mẹ. Phải, lúc này ông ấy cảm thấy mình đúng là sung sướng, khi cứ việc nằm một chỗ và chẳng cần phải lo lắng gì!

Nhưng mẹ Emil còn bận chút việc khác, một lúc sau bà mới ep xong nước quả, và đúng lúc vừa rót nước quả vào li, bà nghe một tiếng rú ghê hồn vọng ra từ buồng ngủ. Đó là bố Emil rú. Không chần chừ một giây, mẹ Emil chạy vào buồng ngủ, và ngay khoảnh khắc đó cái vung nồi bay vèo về phía bà. Bà kịp nhảy né sang bên, nhưng trong cơn hoảng sợ bà đánh rơi li nước quả xuống cái vung dưới sàn nhà, khiến nước bốc hơi xèo xèo.

- Con trai bất hạnh của mẹ, con đã nướng cái vung nóng tới mức nào vậy? – Mẹ hỏi Emil lúc đó đứng ngơ ngác như trời chồng.

Té ra trong lúc Emil đang nướng nóng cái vung trong bếp thì bố Emil đã thiếp đi. Khi quay vào buồng ngủ, thấy bố đang ngủ ngon lành, tất nhiên Emil không muốn đánh thức bố dậy, nên đã cẩn thận luồn cái vung vào dưới chăn, để lên bụng bố. Phải, cố nhiên là thật đen đủi khi cái vung lại quá nóng.

Mẹ Emil làm mọi cách để bố bình tĩnh trở lại.  

- Vâng, vâng, vâng, em sẽ đem ngay kem bôi bỏng lên cho mình đây, – mẹ nói.

Nhưng bố Emil vùng dậy khỏi giường. Ông không đủ tự tin để tiếp tục ốm, một khi Emil đã ở nhà, ông nói, hơn nữa ông cũng muốn chào chú Alfred.

Chú Alfred ngồi trong bếp, trông khá xanh xao với một cánh tay quấn băng, nhưng vẻ mặt hồ hởi và hài lòng. Cô Lina thì cứ tíu tít lăng xăng quanh chú. Cô và bà Krösa–Maja đang dở tay đánh các đồ đồng. Cho tới ngày Giáng sinh tất cả nồi niêu xoong chảo đều phải sạch sẽ và bóng lộn. Nhưng cô Lina không sao đứng yên được. Tay cầm giẻ, tay cầm cái liễn đựng bánh bằng đồng, cô cứ chạy quanh chú Alfred và phởn phơ như thể cô vừa bất ngờ tìm thấy một mỏ vàng trong bếp vậy. Nãy giờ bé Ida cũng không rời mắt khỏi chú Alfred. Nó nhìn chú chăm chú và nghiêm nghị đến mức có cảm giác nó không biết chắc có đúng chú Alfred vừa về đến nhà là chú Alfred trước đây không.

Bà Krösa–Maja được dịp nói một thôi một hồi về chứng nhiễm trùng máu, nói hăng tới mức sùi cả bọt mép. Chú Alfred nên lấy làm mừng vì đã thoát hiểm, bà nói.

- Nhưng cậu cũng đừng có mà tự mãn thái quá, vì cậu thấy đấy, nhiễm trùng máu là căn bệnh cực kỳ tệ hại và nó vẫn còn ở trong cơ thể, còn lâu mới hết. Cho nên ngay một người đã khỏi bệnh thì rất lâu sau vẫn có thể bị lại, thật đấy, đúng là như thế đấy.

Tối đó ở trang trại Katthult thật là vui vẻ đầm ấm. Mẹ Emil khao món xúc xích mẹ mới làm, thế là thành một bữa tiệc xúc xích thực thụ. Cả nhà ngồi quây quần với tâm trạng cực kỳ vui vẻ và hạnh phúc trong gian bếp đầy không khí Giáng sinh: Emil, bố, mẹ, cô Lina, bé Ida, chú Alfred và bà Krösa–Maja. Phải, đó là một tiệc Giáng sinh nho nhỏ đích thực với những ngọn nến lung linh trên bàn ăn và đủ các thức kèm theo. Sau đó phải kể đến món xúc xích ngon tuyệt mới được chiên ròn, vàng rộm, ăn cùng với nước xốt phúc bồn tử. Chú Alfred ăn đặc biệt nhiều, cho dù với chú, phải ăn bằng một tay cũng hơi khó. Cô Lina nhìn chú đầy âu yếm và cô bỗng sực nhớ một chuyện trọng đại.

- Phải rồi, anh Alfred, bây giờ anh không bị nhiễm trùng máu nữa! Vậy sang xuân chúng mình cưới nhau, anh nhá?

Chú Alfred hoảng tới mức giật thót cả người, đánh rơi bao nhiêu nước xốt phúc bồn tử xuống quần.

- Tôi không hứa, – chú nói. – Tôi vẫn còn một ngón tay cái, và ai dám bảo đảm rằng tôi lại không bị nhiễm trùng máu lần nữa với ngón tay cái còn lại?

- Nhưng khi đó thì chú Alfred ơi, cháu sẽ đem chú ra chôn ở phía Bắc tòa nhà chính, – Emil nói. – Cháu sẽ làm thế, vì cháu sẽ không tha lôi chú đến Mariannelund thêm một lần nữa đâu.

Bà Krösa–Maja tức giận lườm Emil.

- Phải, người ta có thể mang tất cả mọi chuyện ra mà đùa cợt, tôi biết rồi, – bà tự ái nói.

Lúc này, khi mọi người ngồi thoải mái trong ánh nến Giáng sinh và không khí có phần hơi long trọng, mẹ Emil mới rút bức thư từ trong túi tạp dề ra và đọc to những gì ông bác sĩ đã nói về Emil. Nếu tất cả mọi người nghe thêm một lần nữa thì cũng có hại gì đâu, bà nghĩ.

Khi bà đọc xong, không ai nói gì. Không khí trở nên im lặng vì những lời lẽ vô cùng tốt đẹp và ý nghĩa của bức thư. Cuối cùng bé Ida lên tiếng:

- Thư nói về anh đấy, anh Emil!

Nhưng Emil thấy ngượng nghịu và chẳng biết nên quay sang ai nữa. Tất cả mọi người đều nhìn nó và nó thì không thích thế, nên cứ ương bướng nhìn đăm đăm ra cửa sổ. Nhưng nhìn ra cửa sổ cũng chẳng vui vẻ gì cho lắm, vì nó thấy tuyết lại rơi, và nó biết rõ sáng sớm mai ai sẽ phải xúc tuyết. Thế là Emil lại lấy xúc xích ăn. Khi ăn, nó cứ cụp mắt xuống và chỉ ngước lên liếc nhanh đúng một lần, xem mọi người có còn nhìn mình nữa không. Ít nhất thì mẹ Emil vẫn đang nhìn nó. Mẹ không thể rời mắt khỏi thằng con yêu quý. Trông thằng bé sao mà đáng yêu với đôi má hồng hào, mái tóc bồng bềnh và đôi mắt xanh dịu dàng, phải, trông nó như một thiên thần bé nhỏ trong lễ Giáng sinh, mẹ nghĩ.

Hơn nữa bây giờ mẹ lại có trong tay khẳng định của ông bác sĩ bằng giấy trắng mực đen hẳn hoi, rằng mẹ có quyền tự hào về con trai mình.

- Lạ thật, – mẹ nói. – Đôi lúc nhìn Emil, em lại cứ nghĩ rồi ra nó sẽ làm nên lắm.

Bố Emil ngờ vực nhìn mẹ.

- Làm nên cái gì chứ? – ông ngạc nhiên hỏi.

- Chà, em làm sao biết được? Có lẽ……….. nó sẽ làm chủ tịch hội đồng xã, hoặc chức gì na ná như thế.

Thế là cô Lina phá lên cười:

- Không có lẽ nào người ta cần một chủ tịch hội đồng xã chuyên bày trò nghịch ngợm!

Mẹ Emil nghiêm khắc nhìn cô, nhưng không nói gì mà chỉ bực bội khẽ khoát tay ra hiệu mời cả nhà tiếp tục dùng xúch xích. Emil lấy thêm một ít xúc xích vào đĩa và trong khi từ tốn rót nước xốt phúc bồn tử lên xúc xích nó suy nghĩ về điều mẹ vừa nói. Nếu sau này nó có trở thành chủ tịch hội đồng xã thật – thì có lẽ cũng chẳng đến nỗi nào! Thì cũng phải có ai đó làm chủ tịch hội đồng xã chứ.

Rồi nó lại trăn trở về điều cô Lina nói. Nếu nó trở thành chủ tịch hội đồng xã chuyên bày trò nghịch ngợm….. thì nó có thể nghĩ ra trò gì đây? Emil rót cốc sữa vào cốc của mình và tiếp tục trăn trở………. trò nghịch ngợm của chủ tịch hội đồng xã chắc phải hơn hẳn, hơn xa những trò nghịch ngợm thông thường khác rồi, không thể dễ dàng nghĩ ra như trở bàn tay được. Emil đưa cốc sữa lên mồm định uống, nhưng đúng khoảnh khắc đó nó lại nghĩ ra một trò nghịch ngợm hết ý. Nó bèn phì một cái rõ mạnh, khiến sữa – như mọi khi – lại bắn qua bàn văng hết vào người bố.

Mặc dù vậy bố Emil không bực tức lắm. Ai lại đi mắng mỏ một người đã được ông bác sĩ ca ngợi hết lời như thế, hơn nữa người đó lại vừa có được một hành động anh hùng đến vậy, bố Emil chỉ chùi sữa đi và hơi làu bàu:

- Đó, dù sao cũng rõ ngay là ai đã trở về cái nhà này!

- Mình không được nói năng như thế chứ, – mẹ Emil nói đầy trách móc.

Bố Emil bèn im lặng và đắm chìm trong suy nghĩ về thằng con trai và tương lai của nó.

- Chuyện Emil sẽ trở thành chủ tịch hội đồng xã thì tôi nghi ngờ, – cuối cùng ông nói. – Nhưng chắc chắn rồi ra nó có thể trở thành một gã trai đàng hoàng tử tế, nếu nó vẫn sống và khỏe mạnh và nếu Chúa muốn vậy.

Mẹ Emil gật đầu tán thành.

- Phải, phải, nếu Chúa muốn vậy!

- Và nếu anh Emil muốn vậy, – bé Ida thêm vào.

Emil mỉm cười hiền lành.

- Để rồi xem, – nó nói, – để rồi xem!

Thế rồi trời tối, và đêm đó tất cả mọi người đều ngủ trong an lành, còn tuyết thì cứ rơi trên trang trại Katthult, khắp làng Lönneberga và khắp vùng Smăland.

Ồ không, không đâu! Bạn không cần phải sợ, ông bác sĩ không lấy đi của Emil con Lukas và Nhóc Lợn đâu!


THE END
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách