Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: blue.smile
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Truyện Ngắn] Lại Thằng Nhóc Emil | Astrild Lindgren

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 10-9-2011 21:57:23 | Chỉ xem của tác giả
Thứ Hai, ngày 26 tháng Mười hai,
ngày Emil tổ chức “cuộc tổng càn quét ở Katthult” và bắt được mụ Maduskan trong bẫy sói.


Trước khi có thể đón lễ Giáng sinh, người ta còn phải vượt qua mùa Thu lạnh giá, mùa gió và u ám, cái tiết trời chẳng dễ chịu ở bất kỳ đâu. Cũng chẳng dễ chịu ở Katthult. Dưới màn mưa phùn, chú Alfred lầm lũi theo sau hai con bò cày thửa ruộng rắn như đá, bám sau chú là Emil bước thập thõm trên luống cầy. Nó giúp chú Alfred thúc giục mấy con bò vừalười chảy thây vừa hầu như không hiểu nổi tại sao ruộng cứ phải cày mới tốt. Nhưng rồi chẳng mấy chốc trời đã nhá nhem tối, nên chú Alfred tháo cày ra và cả bọn lê bước về nhà: chú Alfred, Emil và hai con bò. Sau đó hai chú cháu cứ thế dận nguyên cả ủng còn bê bết những tảng bùn lớn vào bếp khiến cô Lina nổi đóa vì cô sợ họ bôi bẩn sàn bếp vừa cọ sạch của cô.

- Người đâu mà đanh đá, – chú Alfred nói. – Ai cưới phải ngữ này thì đố còn nổi một giây yên tĩnh cho tới lúc chết.

- Vâng, mà chắc là chú chứ ai, – Emil đáp.

Chú Alfred im lặng nghĩ ngợi.

- Không, cháu thấy đấy, không phải chú, – cuối cùng chú Alfred nói. – Chú chẳng dám. Nhưng chú cũng không dám nói với cô ấy điều đó.

- Chú muốn cháu nói hộ không? – Emil, thằng bé rất can đảm và sốt sắng, bèn hỏi. Nhưng chú Alfred không muốn.

Chú Alfred cứ suy nghĩ mãi xem làm thế nào để cô Lina hiểu là chú không muốn cưới cô, nhưng chẳng nảy ra được ý gì hay ho.

Lúc này bóng tối mùa Thu đã đè nặng lên trang trại Katthult. Mới ba giờ chiều mà đã phải thắp đèn dầu trong bếp, nơi mọi người ngồi quây quần, ai làm việc người nấy. Mẹ Emil đang quay guồng kéo những sợi len trắng mịn sẽ dùng để đan bít tất cho Emil và bé Ida. Cô Lina cào bông và bà Krösa–Maja cũng vậy, nếu bà có mặt. Bố Emil vá giày và nhờ thế tiết kiệm được vô khối tiền mà đáng ra bác thợ giày trong làng đã được đút túi. Chú Alfred cũng chăm chỉ không kém, chú đang tự mạng lấy bít tất. Những chiếc tất của chú thường xuyên thủng những lỗ to tướng ở ngón chân cái và gót chân, nhưng chú đã nhanh chóng khâu tịt chúng lại. Cô Lina rất muốn giúp, nhưng chú không khiến.

- Không, cháu thấy đấy, để chú bị sa vào bẫy à, – chú Alfred giải thích với Emil. – Trót nhờ rồi, thì sau này có khéo nói đến đâu cô ấy cũng đừng hòng chịu hiểu.

Emil và bé Ida thường chui dưới gầm bàn chơi với con mèo. Lần nọ Emil cố thuyết phục Ida rằng con mèo thực ra là một con sói, và khi thấy cô em nhất định không chịu tin, thằng anh bèn bắt chước tiếng sói tru khiến ai nấy trong bếp đều giật thót người. Mẹ muốn biết sao Emil lại tru lên như thế. Emil đáp:

- Chúng con đang có một con sói dưới gầm bàn ạ.

Lập tức bà Krösa–Maja bắt đầu kể chuyện sói, và lập tức cả Emil và bé Ida lần lượt hớn hở bò ra khỏi gầm bàn để lắng nghe. Thế nào cũng sắp có cái gì đó kinh dị, chúng biết thế, vì bà Krösa–Maja toàn kể những chuyện kinh dị. Nếu không phải chuyện lũ sát nhân hay trộm cắp, ma quỷ, thì lại là những cảnh chặt đầu ghê rợn, giàn thiêu khủng khiếp, tai nạn kinh hoàng, bệnh tật chết người hoặc những con thú nguy hiểm. Ví như sói chẳng hạn.

- Thời tôi còn nhỏ, – bà Krösa–Maja mở đầu, – ở xứ Smăland này có rất nhiều sói.

- Nhưng Đức Vua Karl thứ Mười Hai đã đến và bắn chết chúng…..may quá! – Cô Lina xen vào.

Thế là bà Krösa–Maja nổi giận. Bà cao tuổi thật, nhưng đâu đã già tới mức như cô Lina tưởng.

- Cô thì biết gì mà nói, – bà mắng và không muốn kể chuyện nữa. Nhưng Emil cứ ngon ngọt năn nỉ và thúc ép quá, nên cuối cùng bà lại nhượng bộ và kể cơ man là chuyện đáng sợ về bầy sói và chuyện thời xưa, khi bà còn nhỏ, người ta đã đào bẫy sói như thế nào, và bắt được sói trong đó ra sao.

- Thế nghĩa là Karl thứ Mười Hai khỏi cần đến nữa….. – Cô Lina lại bắt đầu ngứa miệng, nhưng cô đã vội im tịt, vì bà Krösa–Maja lại lại tức mình, và điều đó cũng không có gì lạ. Karl thứ Mười Hai là vị vua sống cách đây hàng trăm năm, bạn nên biết thế, mà bà Krösa–Maja đâu có già khú già khụ đến mức ấy.

Nhưng Emil lại làm bà mềm lòng lần nữa. Thế là bà Krösa–Maja kể về người sói, loài đáng sợ nhất trong các loài sói, luôn chỉ lượn lờ dưới ánh trăng. Người sói biết nói, bà Krösa–Maja bảo, vì chúng không phải những con sói thường, mà nửa người nửa sói, là loài thú đáng sợ nhất. Ai không may gặp phải người sói trong những đêm trăng thì yên tâm nói lời vĩnh biệt với trần gian, vì trên đời này không có loài dã thú nào tệ hại hơn. Và chính vì vậy mà người ta cần ở trong nhà vào những đêm trăng rằm – bà Krösa–Maja nói vậy, mắt chằm chằm nhìn cô Lina với vẻ tức giận.

- Mặc dù Karl thứ Mười Hai….– Cô Lina lại mở miệng.

Thế là bà Krösa–Maja quăng luôn cái bàn chải cào bông đi và tuyên bố đã đến lúc bà phải về nhà, vì bà đang cảm thấy thực sự già nua và mệt mỏi.

Nhưng tối đến, khi đã lên giường nằm, Emil và bé Ida lại bàn luận về những con sói.

- May mà bây giờ không có sói nữa, – bé Ida bảo.

- Không có là thế nào? – Emil vặc lại. – Sao em biết được, khi mà em chẳng có cái bẫy nào để bẫy chúng?

Emil nằm thao thức, nghĩ ngợi rõ lâu. Càng nghĩ, nó càng tin chắc rằng chỉ cần có một cái bẫy sói là thể nào nó cũng bắt được một con sói trong bẫy. Vốn nhanh nhẹn, ngay sáng hôm sau Emil đã bắt tay vào đào một cái bẫy sói trên khoảng đất giữa xưởng mộc và kho trữ thức ăn. Đây là nơi rất nhiều bụi lá han sẽ mọc vào mùa hè, nhưng lúc này chúng đã thâm đen, héo rũ trên mặt đất.

Phải mất khá lâu mới đào xong bẫy sói. Hố bẫy phải sâu để con sói đã sa xuống là không tài nào len lên được nữa. Thi thoảng chú Alfred lại đào giúp Emil vài nhát thuổng, ấy vậy mà mãi đến trước kỳ lễ Giáng sinh cái bẫy mới hoàn tất.

- Thế mà lại hay, - chú Alfred nói. – Vì lũ sói sẽ không mò ra rừng chừng nào chưa vào tiết đông lạnh giá và chúng chưa đói rã họng

Bé Ida rùng mình khi nghĩ đến những con sói đói trong rừng sẽ rón rén mò ra giữa đên đông giá lạnh và vừa cất tiếng tru vừa lượn lờ quanh các góc nhà. Nhưng Emil chằng rùng mình. Mắt sáng rỡ, nó nhìn chú Alfred, trong lòng khấp khởi nghĩ đến con sói sẽ sa xuống bẫy.

- Bây giờ cháu chỉ còn việc lấy cành cây phủ lên trên để con sói không phát hiện ra cái bẫy, - Emil hài lòng tuyên bố
- Đúng thế! Ở đời phải có mưu mẹo, Stolle-Jocke nói và bắt rận bằng ngón chân, - chú Alfred liền phụ họa.

Đó là câu cửa miệng của dân làng Lönneberga. Riêng chú Alfred lẽ ra không được phép nói vậy, vì Stolle-Jocke là ông nội của chú, cụ hiện đang tá túc trong trại tế bần của làng. Mà đã là cháu thì không được phép đưa ông nội mình ra làm trò cười. Tất nhiên chú Alfred nói không chút ác ý, không đời nào. Chú chỉ nhắc lại lời mà tất cả những người khác đều nói mà thôi.

Bây giờ thì còn phải đợi mùa Đông thế nào cũng phải đến. Và mùa Đông đến thật. Trước Giáng sinh ít ngày có sương giá, rồi bỗng nhiên tuyết bắt đầu rơi khiến ai nấy đều mừng rỡ. Tuyết rơi trên khắp trang trại Katthult, trên khắp làng Lönneberga, trên khắp vùng Smăland, cho tới khi tất cả đều bị phủ kín dưới một tấm chăn tuyết duy nhất. Những tấm ván rào vẫn nhô lên vừa đủ để người ta có thể nhìn ra đâu là đường. Nhưng bây giờ không ai còn có thể nhận biết được ở khoảng giữa xưởng mộc và kho trữ thức ăn có một cái bẫy sói. Tuyết phủ trên miệng bẫy như một tấm thảm mỏng màu trắng, và tối nào Emil cũng cầu nguyện sao cho những cành cây tấp trên miệng hố không bị sập trước khi một con sói dẫn xác đến và rơi bịch xuống hố.
Lúc này mọi người ở trang trại Katthult khá bận bịu, vì lễ Giáng sinh ở đây được chuẩn bị khá kỹ càng. Trước tiên là tổng giặt giũ chăn ga gối đệm. Cô Lina và bà Krösa–Maja quỳ trên cái cầu lạnh ngắt bên dòng suối ở Katthult mà giặt. Cô Lina vừa khóc vừa thổi phù phù vào những ngón tay tê cóng vì giá lạnh. Con lợn được vỗ béo cho lễ Giáng sinh bị đem ra mổ thịt và bây giờ, theo lời cô Lina, trong bếp hầu như chẳng còn chỗ nào mà đứng nữa. Đâu đâu cũng la liệt nào giò nạc, thịt băm viên, nào xúc xích rán, dồi gan, rồi đùi lợn muối, sườn lợn hun khói, và những món gì gì nữa tôi chịu không biết hết. Đã là Giáng sinh thì phải có bia tươi nữa. Mẹ Emil đã ủ bia trong cái thùng gỗ to tướng trong kho. Còn bánh thì ôi chao mẹ làm nhiều loại đến nỗi chỉ nhìn cũng đủ chóng mặt: nào bánh siro, bánh mạch đen, bánh nghệ, bánh mì, bánh quế, và đặc biệt là những chiếc bánh vừng xinh xinh, rồi bánh kem, bánh quy nhiều màu, bánh rắc đường…….. chẳng tài nào kể ra cho hết. Tất nhiên cũng phải có nến nữa. Mẹ Emil và cô Lina thức gần một đêm để đổ nến, những cây nến to, nến nhỏ, rồi nến hình cây thông, vì dù sao cũng sắp Giáng sinh rồi. Chú Alfred và Emil thắng con Lukas vào cỗ xe trượt bằng gỗ và đi vào rừng chặt một cây thông đem về làm cây thông Noel, trong khi bố vào kho thóc lôi ra mấy bó lúa mạch mà bố đã cất dành cho bầy chim sẻ.

- Tất nhiên thế này là quá ư lãng phí, – bố nói. – Nhưng Giáng sinh thì lũ chim sẽ cũng phải được một lần chén thỏa thuê chứ.
Còn nhiều nữa những đối tượng mà người ta phải nghĩ đến, nhiều những đối tượng cũng cần một bữa no vào dịp Giáng sinh. Đó là những kẻ nghèo khó đang tá túc trong trại tế bần! Chắc chắn bạn không biết trại tế bần là gì, và bạn hãy mừng về điều đó. Trại tế bần là một thứ từng có ngày xưa, và nếu tôi kể tất cả thật chi tiết về nó, thì câu chuyện sẽ hẳn còn ghê rợn hơn mọi thứ chuyện kinh dị mà bà Krösa–Maja thường kể về bọn sát nhân, ma quỷ và dã thú. Nếu bạn tưởng tượng một căn lều nhỏ tồi tàn ngăn làm vài gian, nơi toàn những ông già bà lão tiều tụy, nghèo khổ chung sống giữa một mớ hỗn độn những rác rưởi, giẻ rách, chấy rận, đói khát và khốn khó, thì bạn sẽ biết thuở đó người nghèo sống ra sao trong trại tế bần. Chắc chắn trại tế bần ở làng Lönneberga không tệ hơn trại tế bần nơi nào khác, nhưng cũng đủ kinh khủng cho ai phải đến đó nương thân khi đã già yếu và không còn tự lo cho bản thân được nữa.

- Tội nghiệp ông nội, – chú Alfred thường nói. – Ông chẳng được lấy một ngày vui vẻ. Giá như ở đó đừng có mụ Maduskan hống hách, thích gây gổ tác oai tác quái thì còn đỡ!

Mụ đàn bà hổ lửa này nắm quyền sinh quyền sát trong trại tế bần. Chắc chắn mụ cũng chỉ là một người sống nương nhờ trong trại, nhưng mụ to cao nhất, khỏe nhất và độc ác nhất, và vì thế là người ra lệnh ở đây – điều mà đáng lẽ đã chẳng thể xảy ra, nếu Emil có cách nào lớn mau hơn và sớm trở thành ông chủ tịch hội đồng xã hơn. Nhưng đáng tiếc nó vẫn còn là một thằng bé và chưa thể làm gì để chống lại mụ Maduskan. Ông nội của chú Alfred sợ mụ và những người khác trong trại tế bần cũng sợ mụ.

- Nhìn xem mụ bước đi dữ dằn như một con sư tử cái giữa bầy cừu, – cụ Stolle–Jocke luôn nói vậy. Cụ có hơi lập di, cái cụ Jocke này, và nói năng cứ như trích dẫn Kinh Thánh, nhưng cụ nhân hậu và chú Alfred rất yêu người ông già nua của mình.
Những người già sống trong trại tế bần hầu như chẳng bao giờ được ăn no, đúng là quá khổ, mẹ Emil nghĩ vậy.

- Tội nghiệp các cụ, họ cũng phải có chút gì cho ấm bụng vào dịp Giáng sinh chứ, – mẹ bảo. Và vì thế mà vài ngày trước Giáng sinh người ta trông thấy Emil và bé Ida cùng xách một giỏ lớn đi trên con đường tuyết phủ đến trại tế bần. Mẹ đã xếp vào giỏ toàn những thứ ngon lành, mỗi món một ít, đủ tất cả các loại xúc xích, thịt lợn hun khói, đùi lợn muối, thịt băm viên, rồi bánh mì trắng, bánh tiêu đen, bánh ngọt Giáng sinh, lại cả những cây nến và một hộp thuốc lá ngửi cho cụ Stolle–Jocke nữa.

Chỉ ai bản thân cũng đã từng phải nhịn đói lâu ngày mới hình dung nổi các cụ ở trại tế bần hoan hỉ tới mức nào khi Emil và bé Ida mang đồ ăn đến. Tất cả bọn họ không mong ước gì hơn là lập tức đánh chén: nào cụ Stolle–Jocke, và cụ Kalle–Caro, cụ Johann–Một xu, cụ Niklas–Ve chai, cụ bà Fia–Tổ Đỉa, cụ bà Ulla–Tiên đoán tai ương, các cụ Vibergsche và Salia Amalia và còn nhiều nhiều cụ nữa bất kể tên gì. Nhưng mụ Maduskan quyết định:

- Không được ăn trước ngày Giáng sinh, ta nói để các ngươi biết!

Thế là chẳng ai dám hé răng cãi lại.

Emil và Ida ra về. Rồi đến ngày Giáng sinh. Hôm đó và những hôm sau nữa ở trang trại Katthult thật tuyệt. Tất cả mọi người cùng đến nhà thờ làng Lönneberga dự lễ Chúa Giáng sinh, và Emil thật sự vui sướng khi ngồi trên xe trượt, vì hai con ngựa Markus và Lukas phi nhanh đến nỗi tuyết bay xoáy quanh vó chúng và chúng bỏ xa các cỗ xe trượt khác.

Suốt buổi lễ, Emil ngồi ngoan ngoãn và yên lặng tại chỗ, phải, Emil cư xử đúng mực đến nỗi mẹ nó ghi lại như sau vào cuốn vở xanh:
“Thằng bé thực ra rất ngoan đạo; nó không bày tý trò nghịch ngợm nào trong nhà thờ.”

Cả ngày lễ Giáng sinh đầu tiên Emil vẫn hiền hoà như thế. Nó và bé Ida ngoan ngoãn chơi những món quà Giáng sinh, và khắp trang trại Katthult yên ả tuyệt vời.

Nhưng rồi sang ngày Giáng sinh thứ hai, bố mẹ Emil phải đến Skorphult dự tiệc Giáng sinh. Skorphult là một trang trại ở tít đầu làng bên kia. Dân làng Lönneberga chẳng ai lạ gì Emil, thế nên trẻ con nhà này không được mời dự tiệc.

- Dào, anh cóc cần, – Emil nói. – Chỉ tội nghiệp cho nhà Skorphult. Cứ thế này thì những con người đáng thương ấy chẳng khi nào làm quen được với anh!

Tất nhiên bố mẹ định để cô Lina ở nhà trông bọn trẻ, nhưng mới sáng sớm cô đã khóc lóc và nhất định đòi về thăm mẹ cô hiện đang ở trong một túp lều gần trang trại Skorphult. Hẳn cô Lina đã hình dung sẽ tiện lợi biết bao nếu cô được đi ké xe trượt, vì đằng nào xe cũng chạy về hướng ấy.

- Thôi, để cháu trông nom bọn trẻ cũng được, – chú Alfred nói. –Thức ăn thì đã có sẵn. Cháu sẽ trông chừng không cho chúng nghịch diêm hoặc không cho chúng mó vào thứ này thứ khác là được chứ gì.

- Chắc chắn rồi, nhưng cậu biết thằng bé Emil thế nào rồi đấy, – bố Emil nói, mắt đăm đăm nhìn ra phía trước đầy vẻ u ám. Nhưng mẹ đã vội xen vào:

- Emil là một thằng bé dễ thương. Nó sẽ không nghịch ngợm, chí ít là trong lễ Giáng sinh này. Thôi đừng khóc nữa, Lina, chúng tôi cho cô đi cùng đấy!

Thế là xong.

Chú Alfred, Emil và bé Ida đứng bên cửa sổ bếp nhìn theo cỗ xe trượt khuất dần sau đầu dốc. Khi cỗ xe đã mất dạng, Emil hài lòng nhảy cẫng lên mà reo:

- Hoan hô! Bây giờ bọn mình sẽ đem sự sống vào ngôi nhà này!

Nhưng bỗng bé Ida giơ ngón tay trỏ gày gò chỉ ra đường.

- Nhìn kìa, cụ Stolle–Jocke đang đến, – cô bé nói.

- Ừ, thật nhỉ, – chú Alfred bảo. – Chắc xảy chuyện gì rồi.

Số là cụ Stolle–Jocke không được phép đi ra ngoài. Đầu óc cụ lẩn thẩn và cụ không tự nhớ đường được. Ít nhất thì mụ Maduskan cũng khẳng định như vậy.

- Lão già không tìm nổi đường đi lẫn lối về, – mụ nói. – Mà tôi thì chẳng có thời gian đâu mà đôn đáo chạy quanh tìm lão khi lão bị lạc.

Nhưng cụ Jocke luôn tìm được đường đến trang trại Katthult, và lúc này đây cụ lê bước trên đường tựa hồ như trên vai cụ đang chồng chất bao nỗi đau. Những sợi tóc bạc trắng bay lơ phơ quanh tai cụ và chả mấy chốc cụ đã nghẹn ngào đứng trên ngưỡng cửa bếp.

- Bọn ông không được chưa thịt băm viên! – Cụ mách. – Cả xúc xích cũng không. Mụ Maduskan đã giành lấy hết.

Thế rồi cụ không nói được nữa vì khóc dữ quá.

Thế là Emil nổi giận, giận khủng khiếp tới mức cả chú Alfred và bé Ida đều không dám nhìn nó. Trong mắt Emil ánh lên vẻ hoang dại, và nó chộp một cái bát sứ để trên bàn.

- Mụ Maduskan có giỏi hãy lại đây! – Nó hét lên và ném thẳng cái bát vào tường khiến các mảnh vỡ bắn tung toé. – Đưa khẩu “sún” cho cháu!

Chú Alfred hoảng thật sự.

- Cháu hãy bình tĩnh đã nào, – chú nói. –Tức giận như thế nguy hiểm lắm đấy.

Đoạn chú quay sang vỗ về an ủi người ông tội nghiệp của mình và hỏi tại sao mụ Maduskan lại làm một việc kinh khủng như thế, nhưng điều duy nhất cụ Jocke có thể nói được lúc này là:

- Bọn ông không được chia thịt băm viên! Cả xúc xích cũng không. Mà ông chẳng được nhận thuố–ố–c l–á–á h–í–í–ít gì sất.
Bé Ida lại chỉ tay ra đường.

- Nhìn kìa, cụ Ulla – Tiên Đoán Tai Ương đến kìa!

- Để đưa ông về đấy mà, – cụ Jocke nói và bắt đầu run bắn toàn thân.

Cụ Ulla – Tiên Đoán Tai Ương là một bà lão nhỏ bé, nhanh nhẹn sống trong trại tế bần. Lần nào cũng vậy, hễ cụ Jocke biến mất là mụ Maduskan lại bắt bà cụ đi đến trang trại Katthult. Cụ Jocke hay mò đến trang trại Katthult, là nơi ngoài việc tìm thấy đứa cháu nội Alfred cụ còn được gặp mẹ Emil, người lúc nào cũng rất ân cần với những ai nghèo khó.

Qua cụ bà Ulla – Tiên Đoán Tai Ương mấy chú cháu Emil mới nghe thủng câu chuyện. Đồ ăn từ trang trại Katthult mang đến bị mụ Maduskan cất hết trong một cái tủ để trên căn xép áp mái vốn khá lạnh vào mùa này. Nhưng vào hôm Giáng sinh, khi định đem số đồ ăn dự trữ ra, cụ thấy thiếu một mẩu xúc xích nhỏ, thế là mụ nổi ngay cơn tam bành.

- Cứ như con sư tử cái lồng lộn giữa bầy cừu vậy, – cụ Stolle Jocke nói và cụ Ulla – Tiên Đoán Tai Ương tán thành. Ôi chao, cái mụ Maduskan đã hành họ đến khốn khổ vì mẩu xúc xích và muốn dùng bạo lực để truy cho ra tên tội đồ đã đánh cắp mẩu xúc xích.

- Nếu không, ở đây sẽ có một ngày Giáng sinh mà mới chỉ nghĩ đến thôi thiên thần của Chúa cũng phải khóc thét – mụ hăm doạ. – Và quả sẽ thế thật, cụ bà Ulla – Tiên Đoán Tai Ương cam đoan. – Là bởi không một ai muốn thú nhận mình đã lấy mẩu xúc xích, cho dù mụ Maduskan có nhảy chồm chồm và gào thét điên cuồng đến đâu. Nhưng một số người lại cho rằng chẳng qua mụ bịa ra như thế để lấy cớ giữ lại những miếng ngon cho mình. Dù thế nào thì đó cũng là một ngày Giáng sinh mà quả thật khi nghĩ đến thì ngay những thiên thần của Chúa cũng phải khóc, – cụ bà Ulla – Tiên Đoán Tai Ương nói.

Suốt hôm đó mụ Maduskan ngồi lì trên căp xép áp mái, bên chiếc bàn thắp nến lung linh mà chén liền tù tì nào xúc xích, thịt băm viên, rồi đùi lợn muối và bánh Giáng sinh, ních nhiều đến nỗi bụng căng muốn nổ tung. Trong khi ở gian dưới của trại tế bần, những kẻ khác ngồi khóc và chỉ có một tí cá muối bỏ vào mồm, cho dù đang lễ Giáng sinh.

Ngày hôm sau vẫn tệ như thế. Mụ Maduskan hơn một lần thề rằng chừng nào tên ăn cắp xúc xích chưa chịu thò mặt ra thú tội thì không kẻ nào được nhận dù chỉ một nửa viên viên thịt băm. Và trong lúc chờ đợi mụ lại leo tót lên căn xép ăn lấy ăn để, chẳng thèm trò chuyện với ai. Cứ một tiếng một lần, cụ bà Ulla lại nhòm qua lỗ khoá quan sát và chứng kiến tất cả lần lượt chui vào cái mồm rộng ngoác của mụ. Nhưng bây giờ hình như mụ Maduskan sợ rằng cụ Stolle–Jocke đã đến trang trại Katthult để tố cáo mụ, vì vậy mụ bảo cụ bà Ulla phải lập tức lôi cổ cụ Stolle–Jocke về nhà – bất kể còn sống hay đã chết.

- Thế nên có lẽ tốt hơn là chúng ta về nhà thôi, ông Jocke, – cụ bà Ulla nói.

- Phải đấy, ông ạ, – chú Alfred cũng bảo. – Người nghèo bao giờ cũng thua thiệt!

Emil không nói gì. Nó ngồi trên chiếc hòm gỗ, nghiến răng trèo trẹo. Cụ Jocke và cụ Ulla đã đi khỏi từ lâu mà nó vẫn ngồi đó, và người ta nhận thấy nó đang nghĩ ngợi. Cuối cùng nó đấm tay xuống chiếc hòm gỗ và nói:

- Anh biết ai sẽ mở tiệc rồi!

- Ai thế ạ? – Bé Ida hỏi.

Emil lại đấm tay lần nữa xuống chiếc hòm gỗ.

- Anh! – Nó đáp. Đoạn nó kể bữa tiệc sẽ như thế nào. Sẽ là bữa tiệc ồn ào náo nhiệt, vì bây giờ tất cả những người ở trại tế bần làng Lönneberga sẽ được mời đến trang trại Katthult này, thậm chí ngay lập tức!

- Vâng, nhưng mà anh Emil, anh chắc đây không phải là một trò nghịch dại đấy chứ? – Bé Ida sợ hãi hỏi.

Chú Alfred cũng sợ và nghĩ đây là một trò nghịch dại. Nhưng Emil cam đoan với chú rằng không phải. Đây là một việc làm tốt, và ngay đến các thiên thần của Chúa cũng sẽ phải vỗ tay hoan hô, giống như đã từng phải khóc trước lễ Giáng sinh khốn khổ của các cụ ở trại tế bần.

- Mẹ cũng sẽ vui cho mà xem, – Emil nói.

- Vâng, nhưng còn bố……. – bé Ida rụt rè nói.

- Hừm, – Emil tư lự. –Nhưng dù thế nào thì đây cũng không phải là trò nghịch dại. –Nói rồi nó lại im lặng và ra chiều nghĩ ngợi.
- Nhưng lôi được tất cả bọn họ ra khỏi cái hang của mụ sư tử ấy mới là điều khó nhất, – Emil nói. – Nào, chúng mình tới đó thử xem! Lúc này mụ Maduskan đã tọng hết xúc xích, thịt băm viên, đùi lợn muối, thịt hun khói, rồi cả chỗ bánh Giáng sinh còn lại cũng như những chiếc bánh quế cuối cùng vào bụng. Mụ còn hít lấy hít để chỗ thuốc lá ngửi lẽ ra sẽ là của cụ Stolle–Jocke. Giờ đây mụ ngồi trong gian buồng áp mái và cảm thấy khổ sở, như người ta vẫn thường cảm thấy mỗi khi đã làm điều gì không phải, hơn nữa lại còn ăn hơi nhiều thịt băm viên. Xuống dưới nhà với đám già kia thì mụ không muốn. Bọn họ cứ thở dài sườn sượt và cứ giương mắt nhìn mụ mà chẳng nói chẳng rằng.

Đang ngồi rầu rĩ thì mụ nghe có tiếng gõ cửa bên ngoài. Mụ vội lật đật xuống thang xem ai.

Đứng ngoài cửa té ra là Emil. Thằng bé Emil ở trang trại Katthult. Mụ đâm hoảng. Chắc lão Stolle–Jocke và mụ Ulla – Tiên Đoán Tai Ương đã mách lẻo gì rồi, nên thằng bé Emil mới mò tới tận đây.

Nhưng Emil bé bỏng chỉ cúi chào lễ phép và hỏi:

- Lần trước đến đây cháu có bỏ quên con dao nhíp của cháu không ạ?

Thử nghĩ xem Emil có láu cá không cơ chứ? Con dao nhíp của nó vẫn nằm nguyên trong túi quần mà. Nhưng Emil cần kiếm cớ để vào trại tế bần nên bịa ra câu hỏi này.

Mụ Maduskan cam đoan rằng bọn họ không hề thấy con dao nhíp nào cả. Thế là Emil bèn hỏi:

- Món xúc xích có ngon không ạ? Cả món thịt đông và những món khác nữa.

Mụ Maduskan cụp măt, ngó đăm đăm xuống hai bàn chân to bè của mụ.

- Có chứ, có chứ, – mụ vội đáp. – Phải bà mẹ đáng mến của cậu ở trang trại Katthult……… bà ấy rất biết người nghèo cần gì. Cho tôi gửi lời chào thắm thiết đến bà ấy nhé!

Lúc này Emil muốn nói ra điều nó định nói, cũng chính là lý do mà nó đến đây. Tuy nhiên nó làm như thể tiện mồm thì nói chứ chẳng có gì quan trọng.

- Bố mẹ cháu đang dự tiệc Giáng sinh ở Skorphult,– nó nói.

Mụ Maduskan nổi tò mò.

- Vậy hả, hôm nay ở Skorphult có tiệc hả? Thế mà ta không biết đấy.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 10-9-2011 21:59:45 | Chỉ xem của tác giả
Phải, nếu biết thì bà đã chẳng mò đến đó từ lâu rồi. Emil nghĩ. Cũng như mọi dân làng Lönneberga, Emil biết tỏng là hễ biết bất kỳ ở đâu có tiệc, y như rằng mụ Maduskan lù lù dẫn xác đến trước nhà bếp. Và đừng hòng mụ chịu rời bước nếu chưa nhận được ít nhất là một miếng bánh pho mát. Mụ sẵn sàng lao qua lửa vì bánh pho mát. Và nếu bạn từng dự một bữa tiệc ở làng Lönneberga, thì bạn cũng biết rõ như mụ Maduskan rằng trên bàn ở đây xếp cả dãy âu đồng sáng loáng đựng đầy bánh pho mát mà khi tàn tiệc thực khách sẽ được biếu đem về, coi như “chút lộc” – như dân làng Lönneberga thường gọi.

- Mười bảy ổ bánh phô mai, – Emil nói. Bà nghĩ sao ạ?

Emil làm sao biết được liệu ở trang trại Skorphult có tới mười bảy ổ bánh phô mát hay không. Nó cũng không khẳng định điều đó, vì không muốn nói dối. Vì vậy mà nó chỉ ranh mãnh nói bâng quơ. “Mười bảy ổ bánh phô mát, bà nghĩ sao ạ?”

- Phải, ta cũng đang muốn biết đây, – mụ Maduskan đáp.

Rồi Emil bỏ đi. Nó đã làm xong việc cần làm. Nó biết chậm nhất chỉ nửa giờ nữa, mụ Maduskan sẽ lên đường đến trang trại Skorphult.

Và Emil đã tính toán đúng. Cùng chú Alfred và bé Ida nấp sau đống củi lớn, nó thấy mụ Maduskan quấn chiếc khăn quàng rõ dày, tay khoác cái bị ăn xin, ra khỏi nhà: mụ sắp đánh đường đến Skorphult. Nhưng – có ai hình dung nổi một mụ phù thủy như mụ chăng? – Mụ khóa trái cửa và lặn chiếc chìa khóa vào người. Mụ đã nghĩ ra trò quái quỷ gì vậy! Giờ đây những con người khốn khổ kia đã bị giam như trong nhà ngục. Và hẳn mụ Maduskan đắc chí cho rằng làm thế là phải. Lão Stolle–Jocke thế nào chẳng tìm cách thoát ra và mụ muốn cho lão biết ở đây ai là người có quyền và lão đừng hòng giỡn mặt ai!

Rồi với tốc độ nhanh nhất mà cặp giò mập ú của mụ cho phép, mụ Maduskan tất tả chạy về hướng Skorphult.

Emil đi đến lay lay cánh cửa và nhận thấy cửa được khóa rất kỹ. Cả chú Alfred và bé Ida cũng góp một tay, nhưng cửa đã khóa trái và không tài nào giật ra được.

Tất cả ông lão bà lão sống trong trại tế bần đổ xô đến bên cửa sổ, hoảng hốt trân trối nhìn ba chú cháu lúc bấy giờ đứng bên ngoài đang tìm cách vào trong. Emil gọi:

- Các ông các bà hãy đến trang trại Katthult để ăn tiệc! Chỉ cần các công các bà ra khỏi đây thôi ạ!

Trong nhà lời qua tiếng lại bắt đầu nổ lên rào rào như trong tôt ong. Tiếng động có một không hai, kỳ lạ, đồng thời toát lên một nỗi khốn khổ đến tuyệt vọng, vì họ đang bị nhốt trong đó và không biết làm cách nào để thoát ra ngoài.

Có thể bây giờ bạn sẽ nói: Tại sao họ không mở cửa sổ mà trèo ra, có khó gì nhỉ? Người ta liền nhận thấy bạn chẳng biết tí gì về lớp cửa sổ bên trong cả. Vào mùa Đông không thể mở một cánh cửa sổ nào của trại tế bần cũng vì lớp cửa sổ bên trong này. Lớp cửa sổ bên trong bị đóng đinh rất chắc, hơn thế nữa người ta còn dán những băng giấy bịt dọc theo khung cửa để gió không lọt vào được.

Thế thì làm sao lưu thông khí trong nhà? Có thể bạn sẽ hỏi. Bạn nhỏ thân mến ơi, sao bạn có thể đặt một câu hỏi ngốc nghếch thế cơ chứ! Có ai bảo người ta thường thông khí trong trại tế bần đâu? Chẳng ai thèm quan tâm đến việc điên rồ đấy, vì chẳng ai khao khát thêm không khí trong lành ngoài một tí tẹo khí trời lọt qua đường ống khói, qua những kẽ hở trên tường và sàn nhà.

Không, những con người khốn khổ đó không thể ra qua lối cửa sổ! Kể ra cũng có một cửa sổ mở được, nhưng ở tận trên căn buồng áp mái của mụ Maduskan cơ. Nhưng chẳng ai trong số các cụ ở trại tế bần bụng đang đói meo có thể nhảy từ độ cao bốn mét từ trên đó xuống để đi ăn tiệc cả– thế có khác nào nhảy lên thiên đường chầu trời, ai cũng biết thế.

Nhưng đời nào Emil chịu bó tay trước những việc cỏn con như thế. Quả nhiên nó tìm được một cái thang dấu dưới kho củi, bèn bắc thang cửa sổ áp mái mà cụ Ulla đã vui sướng mở toang hai cánh. Chú Alfred trèo lên thang. Chú to cao, khỏe mạnh, với chú thì việc vác các cụ già thấp bé nhẹ cân nhẹ tựa lông hồng. Các cụ cũng than những tiếng “ồ, à”, nhưng rốt cuộc đều “hạ cánh” an toàn cả. Mỗi cụ bà Salia Amalia ở lại. Cụ không dám và cũng không muốn đi. Nhưng cụ Vibergsche hứa sẽ ra sức tha thật nhiều thức ăn về cho bạn, thế là cụ Salia Amalia hài lòng.

Nếu trong ngày Giáng sinh này có ai đi xe ngựa dọc đường đến trang trại Katthult vào lúc trời chiều chạng vạng, hẳn sẽ tin rằng đang nhìn thấy một đoàn các bóng ma xám xịt vừa thở hào hển vừa cà nhắc cà nhót lê chân trên triền đồi thẳng hướng Katthult. Mà quả thật trông họ rất ma quái trong những bộ cánh rách rưới, những cụ già đáng thương này, nhưng họ đang vui như chim và hân hoan tựa trẻ nhỏ. Ôi trời, ôi trời! Lần cuối cùng họ được có mặt trong tiệc Giáng sinh đã xửa xưa lắm rồi! Họ vui sướng khi nghĩ đến việc mụ Maduskan lát nữa quay về sẽ chỉ thấy khu trại tế bần trống không, chỉ còn lại trơ trọi một sinh linh tội nghiệp, ấy là cụ bà Salia Amalia.

- Hihi, đáng đời mụ! – Cụ Johann – Một Xu nói, – Hi hi, thế là mụ trơ thân mụ mà không có chúng ta! Cho mụ nếm mùi cô đơn!
Ai nấy đều cười hể hả. Nhưng sau đó, khi họ bước vào bếp của trang trại Katthult và Emil thắp lên năm ngọn nến to, ánh nến phản chiếu trên những chiếc chảo đồng vừa mới cọ sáng choang treo trên tường làm mọi vật trở nên lung linh huyền ảo, thì họ bỗng im phăng phắc, còn cụ Stolle–Jocke cữ ngỡ mình đang ở trên thiên đàng.

- Xem kìa, ấy là ánh sáng và phước lành vô biên… – cụ nói và bật khóc.

Vì cụ Jocke luôn khóc khi quá vui hay quá buồn. Nhưng Emil đã bảo:

- Chúng ta vào cuộc thôi! Và họ bắt đầu vào cuộc, Emil, chú Alfred và bé Ida bưng lên tất cả những gì có thể tha được từ kho thực phẩm ra. Và bây giờ bạn cần biết trên bàn ăn của trang trại Katthult có những gì sau khi chú cháu họ đã bày ra hết.

Này nhé:

một liễn dồi tiết
một liễn xúc xích lợn
một liễn thịt muối
một liễn pate gan
một liễn xúc xích hun khói
một liễn thịt băm viên
một liễn thăn bê
một liễn sườn lợn nướng
một liễn xúc xích rán để nguội
một liễn dồi gan mới làm
một liễn xa–lát cá
một liễn thịt hun khói
một liễn lưỡi bò dầm muối
một chảo tướng đùi lợn muối Giáng sinh
một chảo tướng phô mai Giáng sinh
một giỏ bánh mì trắng một giỏ bánh mì ngọt
một giỏ bánh mì lúa mạch
một can nước ép quả tươi

một can sữa tươi
một liễn cháo tấm kiều mạch
một khay bánh pho mát
một tô mận bỏ lò
một khay bánh táo
một liễn kem tươi một tô mứt dâu tây
một tô mứt lê

một chú lợn sữa nhỏ quay nguyên con, hai mắt gắn hai viên kẹo đường màu trắng.


Tôi nghĩ đó là tất cả. Tôi không thể quên quá ba món, nhiều lắm là bốn món, ừ, mà thôi để chắc chắn, cứ cho tôi quên quá 5 món đi…. còn lại tôi đã liệt kê ra hết rồi đấy.

Các cụ già của trại tế bần làng Lönneberga ngồi quanh bàn, họ ngồi chờ đợi rất kiên nhẫn, nhưng cứ mỗi chiếc liễn được bưng ra là một lần họ cảm động đến rớt nước mắt.

Cuối cùng Emil nói:

- Xin mời các cụ! Ta nhà vô thôi!

Thế là họ nhào vô thật, họ ăn rào rào.

Chú Alfred, Emil và bé Ida cũng ăn. Bé Ida không nuốt được quá mấy viên thịt băm, vì nó bắt đầu băn khoăn. Nó bắt đầu tự hỏi liệu đây có phải việc không nên làm. Nó chợt nhớ là ngày mai, tức ngày thứ ba của lễ Giáng sinh, những người họ hàng từ Ingatorp định đến trang trại Katthult. Vậy mà thức ăn cho bữa tiệc ngày mai đã bị chén sạch từ hôm nay. Nó nghe xung quanh tiếng cắn rau ráu, tiếng húp sụp soạp và tiếng nhai chóp chép. Cứ như thể có một bầy thú ăn thịt đang sà xuống những cái liễn, những tô và những can đồ ăn thức uống vậy. Bé Ida hiểu rằng chỉ có những ai đói khát thực sự mới ăn uống như vậy, nhưng nó vẫn sợ. Nó kéo ông tay áo Emil, thì thầm để không ai ngoài Emil nghe được.

- Anh chắc đây không phải trò nghịch dại đấy chứ? Nên nhớ mai là ngày họ hàng nhà mình ở Ingatorp đến đấy!

- Họ đủ béo rồi, – Emil thản nhiên đáp. – Hẳn thức ăn chảy vào đâu có ích thì vẫn hơn.

Nhưng sau đó nó cũng hơi lo lo, vì xem ra sau khi bữa tiệc này tàn sẽ không còn lại nổi dăm lạng thịt băm viên. Những gì không chui được vào mồm thì cũng chui vào nào túi, nào ruột tượng, loáng cái cả liễn lẫn tô đã sạch nhẵn.

- Giờ tôi đã tổng càn quét xong món sườn lợn, – cụ Kalle–Carô vừa nói vừa giẫm mẩu xương cuối cùng.

- Còn tôi tổng càn quét món xa–lát cá muối, – cụ Fia–Tổ đỉa nói.

Họ nói “tổng càn quét” có nghĩa là họ vét sạch mọi thứ khiến các liễn thức ăn giờ đây nhẵn như chùi.

- Bây giờ chúng ta đã tổng dọn dẹp hết mọi thứ rồi, – cuối cùng cụ Niklas–Ve chai tuyên bố, và chưa bao giờ cụ tả được một câu thực hơn thế.

Bởi vậy mà sau này bữa tiệc mãi mãi được gọi là “cuộc tổng càn quét ở Katthult”, vì bạn phải biết rằng rất lâu sau dân làng Lönneberga và các thôn khác vẫn còn kháo nhau hoài về chuyện đó.

Lúc này còn duy nhất một thứ là chú lợn sữa quay giòn. Chú đứng trên bàn, hai con mắt bằng hai viên kẹo trân trối nhìn với vẻ rầu rĩ.

- Ui chao, trông con lợn chẳng khác gì một con tiểu yêu, – cụ Fia–Tổ đỉa nói. – Tôi hãi chạm vào nó lắm!

Chưa bao giờ cụ thấy lợn quay nguyên con cả, các cụ khác cũng vậy. Vì vậy mà các cụ như có phần kính nể con lợn, không động đến nó.

- Chắc chẳng còn chiếc xúc xích nhỏ nào đâu nhỉ? – Cụ Kalle–Carô nói, sau khi tất cả các liễn đã sạch nhẵn. Nhưng Emil đáp rằng khắp trang trại Katthult chỉ còn một chiếc xúc xích nhỏ được găm ở đầu một cái que trên cái bẫy sói của nó. Và chiếc xúc xích phải ở lại đó làm mồi nhử con sói mà Emil đang đợi. Không, cụ Kalle không được ăn chiếc xúc xích đó, các cụ khác cũng vậy.

Bỗng cụ bà Vibergsche kêu lên:

- Còn bà Salia Amalia! Chúng ta quên mất bà ấy!

Cụ nháo nhác nhìn quanh tìm lời khuyên, và dừng mắt ở con lợn quay.

- Chắc có thể đề phần thứ đó cho bà ấy chứ, cụ bà Amalia ấy mà? Mặc dù trông nó như một con ma. Hay cháu nghĩ sao hở, Emil?

- Vâng, hẳn phải để phần con lợn cho bà ấy thôi, – Emil thở dài đáp.

Lúc này tất thảy bọn họ đều no đến nỗi không nhúc nhắc nổi nữa. Họ hoàn toàn không còn khả năng tự tha thân xác trên đôi chân của mình trở về trại tế bần.

0 Chắc chúng ta phải dùng cỗ xe trượt thôi, – Emil nói.

Và họ đã làm thế. Trang trại có một cỗ xe trượt rất to bằng gỗ dài, nhưng dùng để tải trượt đó có thể tha hồ chở các cụ trại tế bần, dù rằng lúc này các cụ có ngẫu nhiên béo hơn bình thường một chút.

Trời đã tối, trên trời lấp lánh các vì sao. Trăng rằm cũng lửng lơ treo, và tuyết trải trắng cả vùng. Thời tiết mới êm dịu và tuyệt vời làm sao! Đúng là một buổi tối lý tưởng để đi xe trượt. Emil và chú Alfred đỡ tất cả các cụ lên xe. Cụ Vibergsche ôm con lợn ngồi ở đầu xe, sau đó lần lượt đến các cụ khác, tít sau cùng là bé Ida, Emil và chú Alfred.

- Lên đường nào! – Emil thét to.

.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 10-9-2011 22:00:56 | Chỉ xem của tác giả
Thế là cỗ xe trượt lao xuôi xuống triền đồi Katthult, khiến tuyết tung trắng xóa và các cụ trên xe rú lên hoan hỉ, vì lần cuối cùng họ được đi xe trượt đã xa xưa lắm rồi. Ồ, họ hò reo mới khiếp chứ! Mỗi chú lợn quay là đứng im lìm trong tay cụ Vibergsche.

Nào, còn mụ Maduskan, nãy giờ mụ làm gì nhỉ?

Phải, bạn cần phải nghe chuyện này. Tôi ước gì bạn trông thấy mụ khi mụ từ Skorphult trở về, trở về từ cuộc săn bánh pho mát của mụ! Nhìn xem mụ về tới nơi trong chiếc khăn choàng len màu xám của mụ, béo tốt và thỏa mãn, xem mục móc chìa khóa ra và tra vào ổ – mụ gừ gừ vui sướng khi nghĩ đến những kẻ đáng thương trong kia giờ đã trở nên khiêm nhường và ngoan ngoãn thế nào. Phải, phải, cuối cùng chúng cũng nên biết ở đây ai là người quyết định. Đương nhiên bao giờ cũng là ta!
Lúc này mụ vặn chìa khóa, bước qua ngưỡng cửa, vào đến hành lang – nhưng sao im ắng thế này! Chúng ngủ rồi chăng? Hay chúng chỉ biết gục đầu ủ rũ trong ấy? Ánh trăng rọi qua cửa sổ, mọi góc nhà đều sáng – sao mụ không trông thấy một sinh vật sống nào? Là vì ở đó làm gì có ai! Không, khốn nạn thân mụ, chẳng có ma nào ở trong nhà cả!

Mụ Maduskan bắt đầu run bắn toàn thân, cả đời mụ chưa bao giờ sợ hãi đến thế. Ai có thể đi qua những cánh cửa khóa chặt chứ? Không ai ngoài những thiên thần của Chúa trên trời….. Phải, chắc đúng thế rồi! Những kẻ nghèo túng bị mụ lừa chiếm hết xúc xích, thịt viên và thuốc lá ngửi, giờ đã được các thiên thần của Chúa đem đến một nơi tốt đẹp hơn là trại tế bần. Chỉ có mụ là khốn khổ khốn nạn, bị bỏ lại nơi đây, ôi khốn thay thân mụ, khốn thân mụ quá! Mụ Maduskan khóc hú lên như một con chó. Nhưng sau lưng mụ, một tiếng nói bỗng cất lên từ dãy giường, từ một sinh linh nhỏ bé đáng thương đang rúc dưới tấm chăn.

- Sao bà lại khóc? – Cụ Salia Amalia hỏi.

Mụ Maduskan lấy lại bình tĩnh mới nhanh làm sao. Và cũng thật mau lẹ, mụ ép cụ Amalia khai hết cả ra. Mụ Maduskan biết cách làm chuyện ấy. Loáng cái, mụ đã lên đường đến trang trại Katthult. Bây giờ họ phải về nhà. Phải làm sao về thật nhanh và lặng lẽ, để dân làng Lönneberga không biết mà đàm tiếu ầm ĩ về toàn bộ câu chuyện chẳng có gì là hay ho này.

Trang trại Katthult tuyệt đẹp dưới ánh trăng. Mụ thấy ánh sáng hắt ra từ ô cửa sổ bếp như từ rất nhiều ngọn nến. Nhưng bây giờ mụ bỗng cảm thấy xấu hổ và không còn dám thò mặt vào. Thoạt tiên mụ định nhòm vào xem có đúng ngồi trong đó và đang đánh chén hay không. Nhưng mụ cần có cái gì để kê mà trèo lên, một chiếc hòm gỗ hoặc vật gì đấy tương tự, nếu không mụ có kiễng chân mấy cũng chẳng nhòm vào được.

Mụ bèn đi vòng xuống xưởng mộc. Biết đâu lại chẳng kiếm được thứ gì đó ở đây.

Mà mụ kiếm được thật. Không phải hòm gỗ. Mụ tìm thấy một cái xúc xích! Ai mà ngờ được chứ? Ngay dưới ánh trăng, giữa mênh mông tuyết, mụ lại tìm thấy một cái xúc xích nhỏ xiên ở đầu một cái que. Lúc này mụ đã no đến đến nứt bụng vì ăn bánh pho mát, nhưng mụ cũng biết con người ta mau đói trở lại lắm, và họa có điên mới để nguyên một cái xúc xích nằm thiu ra ở đấy, mụ Maduskan nghĩ. Mụ bèn bước lên một bước, một bước dài duy nhất.

Ngày xưa ở vùng Smăland người ta vẫn bẫy sói như thế.

Lúc mụ Maduskan sa xuống bẫy cũng là lúc bữa tiệc ở Katthult kết thúc, và các cụ ông cụ bà của trại tế bần lục tục kéo nhau đi ra, lên xe trượt để về nhà. Không có tiếng động nào vọng lên từ bẫy sói, vì mụ Maduskan không muốn kêu cứu ngay. Hẳn mụ tin rằng tự mình sẽ leo lên được mà chẳng cần kêu cứu, thế nên mụ lặng thing.

Trong khi ấy, các cụ già ngồi trên cỗ xe trượt lướt nhanh xuống đồi trở về trại tế bần, và các cụ thấy làm lạ khi thấy cửa nhà mở toang. Vừa vào nhà, họ đã lảo đảo quăng mình ngay xuống giường, kiệt sức vì ăn uống và đi xe trượt, nhưng hạnh phúc như chưa từng thấy từ nhiều năm qua.

Emil, bé Ida và bố Alfred trở lại trang trại Katthult dưới ánh trăng rằm và muôn vì nó còn bé.

Nếu bạn đã từng cùng chiếc xe trượt của mình đi trên một con đường mùa đông như thế ở khu vực làng Lönneberga trong một đêm trăng sáng thì bạn sẽ biết không gian lúc đó im ắng đến lạ lùng, dường như cả thế giới đang say ngủ. Và có thể bạn tưởng tượng mức độ bàng hoàng khi giữa lúc đó nghe một tiếng hú kinh khủng. Đúng lúc chú Alfred, Emil và bé Ida – không hề linh cảm chuyện gì tồi tệ – đang cùng đỗ xe trượt leo nốt con dốc cuối cùng thì đột nhiên nghe từ dưới bẫy sói của Emil một tiếng hú có thể khiến cho máu của bất kỳ ai đông cứng lại trong huyết quản. Bé Ida tái mét mặt và trong phút đó bé khao khát có mẹ ở bên biết chừng nào. Nhưng Emil thì không! Nó nhảy cẫng lên vì vui sướng.

- Một con sói trong bẫy của cháu! – Nó reo lên. – Ồ, “sún” của cháu đâu rồi?

Họ càng tiến đến gần, tiếng hú càng ghê rợn, nó vang dội khắp trang trại Katthult, khiến người ta có thể ngỡ như cả khu rừng đầy những con sói đang đáp lại tiếng kêu than của con sói bị sa bẫy.

Nhưng chú Alfred bảo:

- Tiếng hú của con sói này lạ sao ấy! Nghe mà xem!

Ba chú cháu đứng im dưới ánh trăng và lắng nghe tiếng hú ghê rợn của con sói.

- Cứu! Cứu! Cứu! – Con sói tru lên.

Mắt Emil sáng rỡ.

- Người sói! – Nó reo. – Nhưng thật ra cháu không tin đó là người sói đâu nhé.

Chỉ vài bước chạy nó đã tiến đến miệng bẫy trước cả chú Alfred và bé Ida. Và nó trông thấy mình đã bẫy được con sói như thế nào. Nói chung không phải là người sói, mà chỉ là mụ Maduskan khốn khổ. Emil nổi giận – mụ có gì để tìm kiếm dưới bẫy sói của nó cơ chứ! Nó đã muốn bẫy một con sói thực thụ kia mà! Nhưng rồi nó nghĩ lại. Có thể việc mụ Maduskan bị sa xuống bẫy sói của nó cũng có một ý nghĩa nào đó! Nó nghĩ xem liệu có thể nhân cơ hội này thuần hóa mụ một tí, để mụ ít nhiều tử tế hơn và không độc ác nữa. Phải, nó nghĩ xem có nên dạy cho mụ biết ăn nói nhẹ nhàng được chăng. Vì mụ Maduskan cần điều đó. Thế nên Emil thét gọi chú Emil và bé Ida.

Lại đây nào! Lại đây mà xem một con thú dữ xấu xí và độc ác!

Rồi cả ba chú cháu cùng đứng trên miệng hố ngó xuống mụ Maduskan trông gần giống một con sói trong chiếc khăn choàng len màu xám của mụ.

- Anh có chắc đây là một người sói không? – Bé Ida run giọng hỏi.

- Tin anh đi! – Emil đáp. – Đây là một người sói cái ác độc, và người sói là loài nguy hiểm nhất trên đời.

- Phải, vì chúng rất tham lam, – chú Alfred phụ họa.

- Tất nhiên, cứ nhìn con này mà xem, – Emil nói. – Đời nó đã nuốt bao nhiêu con mồi. Nhưng bây giờ sẽ chấm dứt. Đưa cháu khẩu “sún” nào, chú Alfred!

- Ô kìa, ô kìa, Emil bé bỏng, cháu không nhận ra ta là ai sao? – Mụ Maduskan vội vã kêu lên thất thanh. Nghe Emil nhắc đến “sún” của nó, mụ sợ mất mạng. Mụ đâu có biết đó chỉ là một khẩu súng đồ chơi bằng gỗ mà chú Alfred đã đẽo cho Emil.

- Chú Alfred, chú có nghe con người sói nói gì không? – Emil hỏi.

- Cháu chẳng nghe thấy gì sất! Chú Alfred lắc đầu:

- Không, chú cũng không nghe thấy.

- Hơn nữa cháu cũng không quan tâm, – Emil nói. – Đưa cháu khẩu “sún” đi

Thế là mụ Maduskan thét lên, hoàn toàn tuyệt vọng.

- Các ngươi không nhận ra bà già này hay sao?

- Nó nói gì thế? – Emil nói to. – Nó hỏi về bà dì của nó ạ?

- Ừ, nhưng chúng ta đâu có trông thấy bà dì nào, – chú Alfred đáp.

- Đúng vậy, may quá cả bà nội nó mình cũng không trông thấy, – Emil nói.

- Nào, đưa cháu khẩu “sún”, chú Alfred! Thế là mụ Maduskan bắt đầu khóc lóc ầm ĩ.

- Bây giờ các ngươi thật quá đáng, – mụ khóc nức nở.

- Các người muốn không để ta yên chứ gì?

- Nó nói gì đấy ạ? – Emil hỏi. – Nó muốn thịt băm viên à?

- Ừ, nhưng chúng ta không còn thịt băm viên. – Chú Alfred đáp.

- Vâng, khắp vùng Smăland này chẳng bói đâu ra thịt băm viên nữa, – Emil nói.

- Có bao nhiêu thì mụ Maduskan đã nuốt hết rồi còn gì.

Lúc này mụ Maduskan còn khóc dữ hơn trước đấy vì mụ hiểu rằng Emil đã biết mụ đối xử tệ thế nào với ông Stolle–Jocke và những người nghèo khác trong trại tế bần. Mụ khóc lóc thảm thiết sao cho Emil động lòng thương mụ, vì cậu bé vốn có tấm lòng nhân hậu. Nhưng nếu muốn tình hình ở trại tế bần tốt lên, thì không được để mụ Maduskan dễ dàng thoát khỏi đây, nghĩ vậy nên Emil nói:

- Này chú Alfred, nếu nhìn con sói này kỹ hơn thì chú có nghĩ là nó có nét gì đó giống với bà Maduskan ở trại tế bần không ạ?

- Không, làm gì có chuyện ấy, – chú Alfred đáp. – Bà ta còn tệ hại hơn cả lũ người sói ở khắp vùng Smăland cộng lại ấy chứ.

- Vâng, tất nhiên rồi, – Emil tán thành. – Chắc chắn so với bà Maduskan thì lũ người sói chỉ là lũ cún con hiền lành dễ thương. Vì bà ta không bao giờ tha cho ai điều gì. Hơn nữa cháu tự hỏi không biết kẻ nào đã ăn cắp chiếc xúc xích nhỏ trong tủ của bà ta.
– Đấy là tôi, – mụ Maduskan kêu lên.

- Đấy là tôi mà! Tôi sẽ thú nhận hết, chỉ cần các người giúp tôi lên khỏi đây!

Thế là chú Alfred và Emil nhìn nhau mỉm cười.

- Chú Alfred, – Emil nói. –Mắt mũi chú để đi đâu vậy? Chú không thấy đây là bà Maduskan chứ không phải người sói à?

- Ôi trời đất ơi, – chú Alfred thốt lên. – Sao chúng ta lại có thể nhầm lẫn thế cơ chứ?

- Vâng cháu cũng chẳng hiểu tại sao. Tất nhiên là trông họ giống nhau, đành là thế, nhưng như cháu biết thì người sói không choàng khăn.

- Ừ, chác chắn là không rồi! Nhưng sói cũng có ria mép chứ, đúng không nhỉ?

- Thôi nào, chú Alfred, bây giờ chú phải tử tế với bà Maduskan chứ, – Emil nói.– Chú đi lấy một cái thang lại đây!

Vừa nhận cái thang được thả xuống, mụ Maduskan bèn hổn hển leo lên. Đoạn mụ ù té chạy, chạy đến rẽ cả tóc, vì mụ chỉ muốn rời xa Katthult càng nhanh càng tốt, mãi mãi. Mụ không bao giờ còn muốn đặt dù chỉ một bàn chân đến đấy. Nhưng trước khi biến mất sau sau khúc ngoạt, mụ ngoái lại kêu to:

- Phải, chính tôi đã ăn cắp chiếc xúc xích đó! Chúa tha tội cho tôi, nhưng vào đêm Giáng sinh tôi lại quên mất điều ấy. Tôi thề là tôi đã trót quên mất.

- Vậy thì việc bà ta được ngồi dưới kia một lúc cũng tốt, để bà ta lại sực nhớ ra, – Emil nói. – Dù sao thì cái hố bẫy sói cũng không hoàn toàn vô dụng.

Phần mụ Maduskan thì – trong chừng mực cặp giò mập ú của mụ cho phép – ba chân bốn cẳng chạy xuống triền đồi. Khi về tới trại tế bần, mụ gần như không thở nổi nữa. Lúc này tất cả đều đã ngủ trên chiếc giường đầy chấy trong thùng, và trong trường hợp khẩn cấp thì món thịt lợn rán với khoai tây và nước sốt hành vẫn có thể được bầy ra mời ngay cả một vị hoàng đế.

Nhưng tối hôm đó, khi ghi chép vào cuốn vở màu xanh, mẹ của Emil thật buồn bã – phải thừa nhận như thế – và trên trang vở hôm ấy vẫn còn những vết loang, như thể ai đó đã khóc và nước mắt nhỏ xuống đó.

“Ngày Giáng sinh thứ hai, buổi tối, trong nỗi khổ tâm của tôi,” là tiêu đề của trang viết. Sau đó thì: “Hôm nay thằng bé ngồi cả ngày trong xưởng mộc, đứa con tội nghiệp của tôi. Thực ra thằng bé chắc chắn là đứa bé ngoan đạo, mặc dù đôi khi tôi nghĩ nó quá ư điên rồ.”

Nhưng cuộc sống ở Katthult vẫn tiếp tục. Chẳng mấy chốc mà Đông qua, xuân tới. Emil thường xuyên ngồi trong xưởng mộc, nếu không thì chơi với bé Ida hoặc cưỡi con Lukas, hoặc làm xà ích cho cỗ xe chở sữa, hay chọc tức cô Lina, trò chuyện với chú Alfred và luôn luôn bày những trò nghịch ngợm mới, những trò khiến cho cuộc sống của nó – từ sáng đến tối – trở nên phong phú và không buồn tẻ. Vào đầu tháng Năm thì Emil – cái thằng bé chăm chỉ này! – đã có không dưới một trăm hai nhăm hình nhân bằng gỗ để trên giá trong xưởng mộc.

Chú Alfred không bày trò nghịch ngợm, và dù sao chú cũng có nỗi lo của riêng mình, vì chú vẫn chưa dám nói cho cô Lina biết chú không muốn cưới cô.

- Chắc để cháu nói cho thì hay hơn, – Emil đề nghị, nhưng chú Alfred không nghe.

- Chú đã giải thích với cháu rồi, phải lựa lời nói sao cho thật khéo để cô ấy khỏi buồn.

Chú Alfred có một tâm hồn nhân hậu, nhưng chú không biết ăn nói với cô Lina ra sao. Thế nhưng vào một chiều thứ Bảy đầu tháng Năm, khi cô Lina ngồi trên bậc tam cấp trước căn lán của đầy tớ nam và lì lợm chờ chú Alfred ra kỳ được để làm trò hò hẹn với cô, thì chú Alfred quyết định phải nói ra cho xong. Thế là chú từ trong nhà thò đầu ra cửa sổ, cúi gập người xuống gọi cô:

- Nghe này, Lina! Đây là chuyện mà lâu nay anh muốn nói với em!

Cô Lina cười khúc khích. Hẳn bây giờ chú sẽ nói cái điều mà cô muốn nghe.

- Gì vậy, Alfred yêu quý của em? – Cô đáp. – Anh muốn bảo gì em cơ?

– Phải, cái trò cưới xin mà chúng ta đã nói đến ý mà, cô nghe đấy chứ, quẳng quách nó đi! Cứt lắm!

Chú nói thế đấy, chú Alfred đáng thương! Phải kể lại điều này thật khủng khiếp. Thật ra tôi cũng không muốn kể lại, vì tôi không muốn dạy cho bạn thêm những từ ngữ khó nghe ngoài những từ ngữ thô lỗ mà bạn đã biết. Nhưng bạn phải hiểu rằng chú Alfred chỉ là một đầy tớ nghèo ở làng Lönneberga, chứ bạn thì không thế. Chú ấy không thể nói năng lịch sự hơn, mặc dù đã nghĩ rõ là lâu, tưởng đến nát cả óc – cái chú Alfred tội nghiệp đó!

Nhưng cô Lina không buồn.

- Anh nghĩ thế, hả? – Cô đáp. – Được, rồi anh sẽ biết!

Trong khoảnh khắc đấy chú Alfred hiểu rằng hẳn chú sẽ chẳng bao giờ rũ bỏ nỗi cô Lina. Có điều chiều nay chú muốn được tự do và hạnh phúc. Vì vậy chú cùng Emil đi ra hồ Katthult câu cá măng.

Đấy là buổi chiều đẹp đến nỗi dường như chỉ có ở vùng Smăland. Mọi cây anh đào ở Katthult đều nở hoa, bầy chim sáo hót véo von, đàn muỗi vo ve, còn lũ cá măng thì đớp mồi. Emil và chú Alfred ngồi đó nhìn những cái bấc ở dây câu nổi lên chìm xuống trên mặt nước phẳng lặng. Hai chú cháu chẳng nói gì nhiều nhưng cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Hai chú cháu ngồi đó cho tới lúc mặt trời lặn mới quay về nhà. Chú Alfred xách đám cá măng câu được, còn Emil thổi cây sáo và chú Alfred đã làm cho nó. Họ đi qua cánh đồng cỏ, đi qua con đường mòn uốn mình dưới những rặng lê xanh mướt mùa xuân. Emil thổi sáo hăng đến mức bầy chim sáo cũng phải kinh ngạc, nhưng đột nhiên nó ngừng thổi, bỏ cây sáo khỏi miệng.

- Chú biết mai cháu sẽ làm gì không? – Nó hỏi chú Alfred.

- Chịu, – chú Alfred đáp. – Lại trò nghịch ngợm gì à?

Emil lại đưa sáo lên miệng và thổi. Nó vừa đi vừa thổi sáo và vắt óc suy nghĩ.

- Cháu cũng chẳng biết, – cuối cùng nó nói. Cháu chẳng bao giờ biết trước lát nữa
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 10-9-2011 22:12:28 | Chỉ xem của tác giả
Emil đưa thế giới vào quy củ

Khắp làng Lönneberga, khắp cùng Smăland, khắp đất nước Thụy Điển với – ai mà biết được – có khi khắp cả thế gian này, chưa bao giờ có một thằng bé lai bày ra lắm trò nghịch hơn thằng bé Emil mà cách đây rất lâu đã từng sống ở trang trại Katthult, làng Lönneberga thuộc vùng Smăland. Việc thằng bé này lớn lên trở thành chủ tịch hội đồng xã là một trong những điều kỳ diệu của thế giới. Nhưng đúng là nó đã trở thành chủ tịch hội đồng xã, thành người đàn ông tốt nhất làng Lönneberga. Qua đó ta thấy rằng ngay những đứa trẻ tồi tệ nhất cũng sẽ đến lúc trưởng thành, và cùng với thời gian chúng sẽ thực sự nên người. Tôi thấy thật tuyệt khi nghĩ đến điều đó. Bạn cũng thấy vậy, đúng không? Đúng, bởi chính bạn cũng hẳn cũng từng bày ra khối trò nghịch ngợm, tôi hình dung được mà. Không phải vậy sao? Chẳng lẽ tôi có thể nhầm đến thế?

Alma Svensson ở trang trại Katthult – mẹ của Emil – ghi tất cả những trò nghịch ngợm của con và những cuốn vở màu xanh mà bà giấu trong ngăn kéo của mình. Cuối cùng cái ngăn kéo đó nhét đầy vở đến nỗi hầu như không kéo nổi ra nữa. Lúc nào cũng có một cuốn vở bị kẹt nhầu nhĩ và xoay ngang ra. Nhưng đến tận bây giờ những cuốn vở màu xanh vẫn được cất giữ ở đấy, trong chính cái tủ cũ kỹ ấy. Trừ ba cuốn vở mà Emil từng muốn bán cho cô giáo không muốn mua, nên Emil đã xé chúng gấp thuyền giấy đem ra thả trên dòng suối ở Katthult, và sau đó thì không còn ai trông thấy ba cuốn vở đó nữa.
Cô giáo trường mẫu giáo không hiểu tại sao cô cần phải mua những cuốn vở đó của Emil.

- Cô biết làm gì với chúng đây? – Cô ngạc nhiên hỏi.

- Để dạy bọn trẻ con khỏi trở nên kinh khủng như cháu ạ, – Emil đáp.

Phải, phải, Emil tự biết nó là một trái ổi ương tới mức nào, và nếu giả sử có lúc nó quên, thì luôn luôn còn có cô Lina – cô hầu gái ở trang trại Katthult – nhắc cho nó nhớ.

- Gửi cậu đến trường mẫu giáo cũng vô ích thôi, – cô Lina nói, – dạy dỗ cậu còn quá là nước đổ đầu vịt. Ngữ cậu thì chẳng đời nào được lên Thiên đàng…. trừ phi – ừ có thể lắm – trừ khi trên ấy các ngài cần cậu giúp một tay để giáng sấm sét!

Cô Lina nhận thấy Emil đến đâu, là y như rằng ở đó có giông bão.

- Chưa từng thấy một thằng quỷ sứ nhà giời nào như nó, – cô nói, rồi dắt bé Ida, em gái của Emil, cùng đi ra bãi chăn thả, nơi bé Ida được phép hái quả dâu dại trong khi cô Lina vắt sữa bò. Bé Ida bứt hẳn cả cành dâu dại và đem về nhà năm cành trĩu trịt quả. Emil chỉ chén mất của em mỗi hai cành – dù sao nó cũng biết điều đấy chứ.

Nhưng bạn chớ tưởng rằng hình như Emil thích cùng ra chỗ vắt sữa bò với cô Lina và bé Ida. Không, nó muốn tận hưởng nhiều hơn thế, và vì vậy nó vớ lấy “mú” và “sún” của mình, chạy thẳng xuống chuồng ngựa, nhảy lên lưng con Lukas, phi qua bụi dẻ khiến đám cỏ bay tung lên. Emil chơi trò “Husaren Smăland tấn công”. Nó nhìn thấy một bức tranh như thế trên báo và biết phải bắt chước như thế nào.

“Mú”, “sún” và Lukas – đó hẳn là những vật yêu quý nhất mà Emil có trên đời. Lukas là con ngựa của Emil, vâng đúng là con ngựa của nó thật. Nhờ khôn khéo mà Emil nhận được con ngựa ở hội chợ thị trấn Vimmerby. “Mú” là một cái mũ lưỡi trai nhỏ xấu xí màu xanh lam mà bố đã mua cho Emil. Còn “sún” là khẩu súng gỗ mà chú Alfred, đầy tớ trang trại Katthult đã đẽo cho Emil vì nó rất thích. Lẽ ra Emil cũng thừa sức tự đẽo khẩu súng cho mình. Nếu có ai đó khéo tay đẽo gỗ thì đó chính là Emil. Nhưng nó cũng chăm chỉ luyện tập lắm! Chẳng là cứ mỗi lần sau khi Emil bày trò nghịch ngợm thì nó lại bị nhốt vào xưởng mộc, và lần nào nó cũng đẽo một hình nhân nhỏ ngộ nghĩnh. Rốt cuộc nó đã đẽo được cả thảy 369 hình nhân, cho đến nay vẫn giữ được hết – trừ một hình nhân mà mẹ nó đã chôn giấu sau bụi dâu dại, vì trông giống ông mục sư. “Không được phép thể hiện hình ảnh đức cha theo cách này,” mẹ Emil nói.

Phải, giờ bạn đã biết đại khái Emil là người như thế nào. Bạn có biết nó quanh năm gây chuyện, hè cũng như đông, còn tôi, người đã đọc tất cả những cuốn vở màu xanh, sẽ kể cho bạn nghe một số ngày trong cuộc đời của Emil. Bạn cũng sẽ nhận thấy Emil làm được bao nhiêu việc tốt. Phải công bằng và nhắc cả đến những chuyện như vậy, chứ không chỉ kể toàn những trò nghịch ngợm kinh khủng của thằng bé. Hơn nữa không phải tất cả các trò đều kinh khủng. Emil cũng bày kha khá trò nghịch ngợm tương đối vô tội đấy chứ, ví như ngày mồng 3 tháng Mười một, ngày mà thằng bé hoàn toàn nên điên rồ…. Ồ thôi nào, đừng tìm cách dụ tôi kể xem thằng bé đã làm gì trong cái ngày mồng 3 tháng Mười một ấy, vì tôi sẽ chẳng bao giờ nói ra đâu, tôi đã hứa với mẹ thằng bé rồi. Không, để thay đổi không khí, chúng ta sẽ xem một ngày mà hôm đó – xét về đại cuộc – Emil đã cư xử rất tốt, cho dù bố nó có lẽ có quan điểm khác. Đó là

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 11-9-2011 15:43:04 | Chỉ xem của tác giả
Thứ Bảy, ngày 12 tháng Sáu,
ngày Emil có vài vụ làm ăn may mắn tại phiên đáu giá ở Backhorva


Vào một ngày thứ bảy trong tháng Sáu có phiên bán đấu giá ở trang trại Backhorva và tất cả mọi người đều muốn đến đó, vì các phiên bán đấu giá là những thứ vui nhộn nhất mà người dân ở làng Lönneberga và khắp vùng Smăland được biết. Tất nhiên bố của Emil – ông Anton Svensson – phải tới đó, chú Alfred và cô Lina cũng xin đi cùng, rồi đương nhiên cả Emil nữa.
Nếu bạn đã từng có mặt ở một phiên đấu giá, thì bạn biết người ta có thể chứng kiến những gì tại đó. Bạn biết rằng khi ai đó muốn bán đồ đạc của mình, ông ta sẽ mở phiên bán đấu giá, để những người khác muốn mua tìm đến.

Người của trang trại Backhorva muốn bán đi tất cả những gì họ có, vì họ định di cư sang Mỹ giống như bao người khác thời bấy giờ. Mà họ thì không thể tha theo sang Mỹ nào ghế dài trong bếp ăn, nào xoong chảo, rồi bò, lợn, gà qué, vì vậy mà đầu mùa hè có phiên đấu giá ở trang trại Backhorva.

Bố Emil hy vọng mua rẻ được một con bò cái mà có thể thêm một con lợn nái và vài con gà. Vì thế mà bố hăng hái muốn đến Backhorva và cho chú Alfred và cô Lina đi cùng để còn giúp bố chở về nhà đám gia súc mà bố định tậu nhân cơ hội này.

- Nhưng tôi không hiểu thằng Emil cần đến đó làm gì,– bố nói.

- Đúng quá, chẳng cần chúng ta mang thêm thằng Emil đến thì ở đó cũng đủ ầm ĩ lắm rồi, – cô Lina phụ họa.

Cô Lina đã biết tại các phiên chợ đấu giá  ở làng Lönneberga cũng như ở khắp vùng Smăland lúc nào cũng rất ầm ĩ và đầy những cuộc ẩu đảm và thật ra thì cô có lý. Nhưng mẹ Emil nghiêm khắc nhìn cô và bảo:

- Nếu Emil muốn cùng đến phiên đấu giá thì cứ để nó đi. Không mượn cô phải lo. Tốt hơn là cô hãy để ý một chút đến việc cô luôn cư xử chẳng ra sao ở chốn đông người.

Bị mẹ Emil nói trúng cô Lina im thít.

Emil đội “mú” của nó lên đầu và chuẩn bị sẵn sàng – nó muốn lên đường.

- Nhớ mua quà nhé, – bé Ida nói nghiêng đầu sang bên vẻ nũng nịu.

Cô bé không dặn người nào cụ thể, mà chỉ nói bâng quơ thế thôi. Nhưng bố lập tức nhướn lông mày lên:

- Mua, mua, lúc nào cũng mua! Chẳng phải mới đây thôi bố vừa mới mua cho con mười xu kẹo ho hay sao? Nhân ngày sinh nhật của con dạo tháng Giêng ấy, con quên rồi à?

Đúng lúc Emil đang định xin bố tiền, vì ai lại đến một phiên đấu giá mà chẳng có một xu dính túi, nhưng đành thôi. Đây hoàn toàn không phải là lúc thích hợp để nã tiền bố – nó biết rõ như vậy. Không phải lúc này, khi mà mọi người đều vội vã và bố đã ngồi chĩnh chệ trên cỗ xe chở sữa to kềnh càng, sẵn sàng lên đường. Những thứ mà ta không thể kiếm được bằng cách này, thì ta phải kiếm được bằng cách khác, Emil tự nhủ. Nó suy nghĩ rất rất lung, đoạn bảo:

- Mọi người cứ đi trước đi! Con cưỡi con Lukas đuổi theo sau!

Nghe vậy, bố Emil không mấy tin tưởng, nhưng vì đang muốn khởi hành càng nhanh càng tốt, nên ông chỉ bảo:

- Được rồi, được rồi! Giá mà con cứ ở nhà luôn thì hay biết mấy!

Đoạn ông quất roi ngựa và cỗ xe lăn bánh. Chú Alfred vẫy chào Emil, còn cô Lina vẫy chào bé Ida, trong khi mẹ gọi với theo bố:

- Liệu mà trở về nhà cho lành lặn, đủ chân đủ tay đấy nhé!

Mẹ dặn thế là vì mẹ biết đôi khi ở các phiên đấu giá có thể xảy ra những cuộc ẩu đả điên cuồng.

Cỗ xe chở sữa khuất sau lối rẽ. Emil đứng trong đám bụi đường nhìn theo. Nhưng rồi nó bắt đầu vội – giờ phải lo kiếm tiền cái đã. Bạn nghĩ sao, Emil sẽ kiếm tiền bằng cách nào đây?

Nếu bạn đã từng là một đứa trẻ ở Smăland vào cái thời mà Emil còn bé, thì bạn sẽ biết thời đó thật là may là đâu đâu trên đường cũng có nhiều rào chắn. Những tấm rào chắn nhằm giữ chân lũ bò cày, bò sữa và cừu ở lại trên những cánh đồng cỏ của chúng, và còn để tất cả bọn con trai ở vùng Smăland đôi khi có thể kiếm được những đồng hai xu, nếu chúng mở giúp rào chắn cho một bác nông dân nào đó đi đến trên cỗ xe ngựa kéo của mình nhưng lười nhác không muốn tự nhạy xuống mà mở lấy.

Ở trang trại Katthult cũng có một cổng rào chắn bằng gỗ. Emil không có mấy dịp kiếm tiền ở đấy, vì trang trại Katthult nằm tít cuối làng, ít người qua lại. Chỉ duy nhất một trang trại còn nằm sau Katthult đó là trang trại Backhorva, cũng chính là nơi hôm nay có phiên đấu giá.

Điều đó có nghĩa ai muốn đến đấy đều phải qua cổng rào nhà ta, Emil – cái thằng nhóc láu lỉnh ấy – nghĩ bụng.

Emil canh cổng rào suốt một giờ đồng hồ và kiếm được những năm đồng và bảy mươi tư xu. Không thể tin nổi!

Các cỗ xe ngựa nối đuôi nhau thành dòng kéo đến khiến Emil hầu như không kịp đóng cổng rào khi cỗ xe này đi qua, trước khi lại phải mở cho cỗ xe khác. Còn đám nông dân đánh xe ngang qua ai nấy đều đang vui vẻ vì đang muốn đến phiên đấu giá, và họ sẵn sàng ném những đầu hai xu và năm xu vào chiếc mũ của Emil. Một vài ông lịch sự thậm chí còn cao hứng cho Emil hẳn đồng mười xu, dù rằng ngay sau đấy đương nhiên họ lại ân hận.

Nhưng gã nông dân từ trang trại Krakstorp lại nổi đóa khi Emil đóng sập cánh cổng rào lại trước mũi con ngựa nâu già của lão.

- Sao mày lại đóng cổng rào lại hả? – Gã rít lên.

- Cháu phải đóng nó trước, rồi mới mở lại được chứ ạ. – Emil giải thích.

- Vào một ngày như hôm nay mà sao mày không để ngỏ cổng rào luôn đi? – Gã nông dân tức giận hỏi.

- Cháu có điên đâu, – Emil đáp. – Lại nhè hôm nay, đúng ngày mà lần đầu tiên cái cổng rào cũ kỹ này làm lợi cho cháu chắc!

Nhưng gã nông dân từ trang trại Krakstorp vung roi quất về phía Emil, mà nhất định không thò ra cho nó một xu.

Thấy tất cả những người muốn đến phiên đấu giá đều đã đi qua cổng rào nhà mình và không còn cơ hội kiếm thêm tiền nữa, Emil bèn nhảy lên lưng con Lukas và phi như bay, khiến những đồng xu trong túi nó kêu xủng xoảng.

Phiên đấu giá ở trang trại Backhorva đã vào hồi cao trào. Thiên hạ chen chúc quanh những đồ cũ được bày thành dãy trên sân trang trại. Dưới ánh mặt trời, đống đồ lủng củng trông tựa đám trẻ lạc. Người cầm trịch phiên đấu giá đứng trên một cái thùng ngay giữa đám đông. Ông ta nhận được nhiều lời chào giá hời cho đám xoong, chảo rồi bộ tách cà phê, rồi ghế gỗ, và đủ thứ linh tinh tôi không nhớ hết. Bạn phải biết tại phiên đấu giá người ta phải xướng lên với người cầm trịch là mình muốn trả giá bao nhiêu cho một món đồ. Nhưng nếu ai đó sẵn sàng trả nhiều tiền hơn và chào giá cao hơn, thì anh ta sẽ mua được cái ghế dài kê trong bếp ăn hoặc món đồ gì đó mà người ta đấu giá.

Đám đông bỗng ồ lên khi Emil và con Lukas phi vào sân trang trại. Nhiều người lẩm bẩm:

- Thằng bé nhà Katthult mà đã thò mặt đến đây thì tốt hơn là ta nên chuồn!

Nhưng lúc này Emil đang có hứng làm ăn và trong túi thì nhiều tiền đến nỗi suýt làm nó chóng mặt. Trước khi xuống khỏi lưng ngựa, nó đã kịp trả ba đồng cho khung giường sắt cũ kỹ, thứ là lẽ ra không gì trên thế gian có thể bắt nó nhận. May mà vợ một bác nông dân trả lên tận bốn đồng, nên Emil thoát được cái khung giường. Nhưng Emil vẫn hăng hái tiếp tục và hầu như bạ món gì nó cũng chào giá, và loáng cái nó đã thành chủ sở hữu của ba món đồ. Món thứ nhất là một cái hộp bằng nhung đã bợt màu, trên nắp gắn những vỏ ốc nhỏ màu xanh lơ – cái này có thể làm quà cho bé Ida –, món thứ hai là xẻng nướng bánh mì có cán dài dùng để đưa bánh mì vào lò nướng và món thứ ba là một bình cứu hỏa đã cũ gỉ mà khắp làng Lönneberga bói không ra ai thèm trả dù chỉ mười xu. Emil trả hẳn hai mươi lăm xu và mua được.

Ôi, cứu với, thực ra mình đâu có muốn mua cái của nợ đó, Emil nghĩ. Nhưng chuyện đã xảy ra rồi, và giờ đây dù muốn hay không nó đã có một bình cứu hỏa.

Rồi chú Alfred đi tới. Chú nhìn cái bình và phá lên cười.

- Ông chủ bình cứu hỏa Emil Svensson, – chú nói. – Mà sao cháu lại mua thứ quái dị này để làm gì?

- Thì đề phòng sét đánh hoặc cháy nhà………. – Emil đáp. Và đúng giây phút đó sét đã đánh xuống – ít ra thì thoạt tiên Emil cũng tưởng thế, nhưng hóa ra chỉ là bố túm lấy cổ áo Emil mà lắc lấy lắc để, khiến mái tóc bông của nó bay tung lên.

- Đồ mất dạy, con tha lôi cái quái quỷ gì vậy!! – Bố quát lên.

Bố đang ung dung dạo gót quanh dãy chuồng trại và đã nhắm được con bò cái để mua, thì cô Lina hớt hải chạy đến.

- Ông chủ, ông chủ, thằng Emil đang ở đây, lại còn mua bao nhiêu là bình cứu hỏa! Nó được phép mua hả ông?

Bố đâu biết Emil có tiền riêng. Bố cứ tưởng chính mình sẽ phải trả tiền những món mà Emil đã trả giá, cho nên chẳng có gì lạ khi mặt bố tái dại, toàn thân run bắn, lúc bố nghe mách về những chiếc bình cứu hỏa.

- Bỏ con ra! Con tự trả tiền!– Emil gào lên.

Cuối cùng nó cũng giải thích được với bố là mình đã làm giàu như thế nào – đơn giản thôi, vì nó đã đứng mở cổng rào ở Katthult. Bố Emil thừa nhận Emil đã rất khôn ngoan, nhưng ông thấy nó ít khôn ngoan hơn nhiều khi quẳng tiền ra để rước cái bình cứu hỏa cũ mèm ấy.

- Mặc dù vậy bố không muốn biết tý gì về những vụ làm ăn điên rồ như thế, – ông nghiêm khắc nói. Rồi ông đòi xem tất cả những thứ đã đấu giá mà Emil mua được, và ông đã rất đau lòng khi trông thấy một cái hộp bằng nhung cũ rích không còn có thể dùng vào việc gì, một cái xẻng nướng bánh mì, thứ mà ở trang trại Katthult có sẵn một cái tốt gấp vạn – tóm lại toàn là những vụ làm ăn điên rồ! Cố nhiên tệ hại nhất vẫn là cái bình cứu hỏa.

- Nhớ điều bố nói này! Chỉ nên mua thứ gì tuyệt đối cần thiết! – Bố Emil bảo.

Chắc chắn bố có lý, nhưng làm sao biết được thứ gì là cần thiết? Ví dụ nước chanh có cần thiết không? Cần thiết chứ, Emil tin chắc vậy. Nó đi lang thang có phần buồn bã, sau khi bị bố cạo cho một trận như thế. Trong tâm trạng ấy, nó nhìn thấy một quầy bán bia và nước chanh giữa những bụi tử đinh hương. Những người ở trang trại Backhorva luôn có chút máu kinh doanh, nên họ đã khuân từ nhà máy bia ở thị trấn Vimmerby về những thùng bia và nước chanh đầy phè để bán cho đám người dự phiên đấu giá giải khát.

Cả đời Emil mới được uống nước chanh có mỗi một lần, và nó sung sướng vì đã phát hiện ra ở đây có nước chanh, hơn nữa chính nó lại đang rủng rỉnh tiền trong túi. Hãy thử tưởng tượng, sao hai điều may mắn lại có thể đến cùng một lúc như thế cơ chứ!

Emil gọi và uống một lèo ba cốc nước chanh liền. Nhưng rồi sầm sét lại giáng xuống. Bố đột nhiên lại xuất hiện. Bố túm lấy cổ áo Emil mà lắc khiến nước chanh ộc cả vào mũi nó.

- Đồ mất dạy, tưởng mới kiếm được tí tiền thì cứ đứng đây mà nốc nước chanh hả!

Nhưng Emil đã nổi điên và cự lại.

- Thôi đi, con cáu tiết rồi đấy! – Nó hét. – Nếu con không có tiền thì con không thể uống nước chanh, còn khi con có tiền thì con không được phép uống nước chanh! Vậy thì – quỷ tha ma bắt – bố nói xem khi nào con mới được uống nước chanh đây?

Bố Emil nghiêm khắc nhìn nó.

- Con lại đáng vào ngồi trong xưởng mộc rồi đấy!

Ông chỉ nói thế, rồi lại mất hút về phía chuồng ngựa. Còn Emil đứng chưng hửng ở đó mà xấu hổ. Nó tự biết mình đã quá đáng như thế nào. Nổi cáu với bố chưa đủ, điều tồi tệ nhất nó lại còn nói “quỷ tha ma bắt”, và đó gần như một lời rủa. Mà ở Katthult không ai được phép rủa cả. Bố Emil là người ngoan đạo bậc nhất, theo như tôi biết. Emil xấu hổ trong nhiều phút, nhưng rồi nó lại mua một cốc nước chanh đem cho chú Alfred. Hai chú cháu cùng ngồi bên tường kho chứa củi của trang trại Katthult tán chuyện, trong khi chú Alfred uống nước chanh. Suốt đời chú chưa bao giờ được uống thứ gì ngon hơn thế, chú bảo.

- Chú có thấy cô Lina đâu không ạ? – Emil hỏi.

Chú Alfred chỉ ngón tay cái về phía cô Lina. Cô đang ngồi trên cỏ xanh, tựa lưng vào hàng rào, ngồi bên cạnh cô là gã nông dân đến từ trang trại Krakstorp, kẻ từng quất roi về phía Emil. Có thể thấy là cô Lina đã quên tiệt những lời nhắc nhờ mà cô được nghe ở nhà, vì cô cứ ngúng nga ngúng nguẩy và cười khúc kha khúc khích, như cô vẫn làm như thế khi tiếp xúc với mọi người. Nhưng cũng có thể nhận thấy gã nông dân chủ trang trại Krakstorp thích những trò õng ẹo của cô. Thấy vậy, Emil khoái chí lắm.

- Chú Alfred, chú thử tưởng tượng nếu bọn mình gả được cô Lina cho cái ông ở trang trại Krakstorp kia! – Nó cười đầy hy vọng. – Khi ấy biết đâu chú có thể thoát được cô ấy!

Chẳng là cô Lina đã chọn chú Alfred làm chú rể và cô cũng muốn cưới chú, mặc dù chú Alfred luôn luôn ra sức chống đỡ. Từ lâu chú Alfred và Emil vẫn lo tìm cách giải phóng cho chú Alfred khỏi cô Lina, thế nên bây giờ hai chú cháu phấn khởi nghĩ rằng biết đâu họ chẳng xúi được gã chủ trang trại Krakstorp nọ lấy cô Lina! Cố nhiên gã đã già, ngấp nghé tuổi năm mươi rồi, và trên đầu không còn lấy một sợi tóc, nhưng gã lại có một trang trại nhỏ và chắc chắn cô Lina cũng muốn trở thành bà chủ trang trại Krakstorp.

- Tụi mình phải canh không cho ai quấy rầy họ, – Emil nói.

Nó biết là cô Lina còn phải khúc khích cười và ngả ngớn hồi lâu nữa thì gã chủ trang trại Krakstorp mới đánh rơi lý trí và cắn câu thực sự.

Phía sau, chỗ dãy chuồng gia súc, người ta đã bắt đầu đấu giá. Chú Alfred và Emil đi tới đó xem.

Bố Emil đã mua được một con lợn nái sắp đẻ với giá hời, nhưng khi đấu giá bò sữa thì lại gặp chuyện bực mình. Một bác nông dân đến từ trang trại Bastefall muốn mua cả đàn bảy con bò sữa, thế nên bố Alfred buộc phải trả tám mươi đồng cho con mà bố đã chọn. Bố khẽ thở dài khi rút hầu bao trả món tiền kinh khủng đó. Sau đấy thì bố nhẵn túi, chẳng còn tiền tậu thêm vài con gà. Bác nông dân chủ trang trại Bastefall  được mua nốt đàn gà theo giá mà bác đưa ra, riêng một con gà mái là bác ta không muốn mua.

- Tôi biết làm gì với một con gà mái què chứ? – Bác ta cười. – Các người vặn cổ nó bỏ vào nồi được rồi đấy.

Con gà mái mà bác nông dân chủ trang trại Bastefall chỉ muốn quẳng vào nồi từng bị què một cẳng chân, sau đó cẳng đó đã lành lại, nhưng bị vẹo. Một thằng bé người nhà trang trại Bastefall đứng cạnh Emil bỗng nói.

- Ông này quá ngu nếu không mua con Lotta Què. Nó là con gà mắn đẻ nhất nhà tôi, tôi biết rất rõ!

Thế là Emil hét toáng lên:

- Cháu trả con Lotta Què hai mươi lăm xu!

Mọi người cười ồ. Tất cả mọi người, trừ bố Emil, đương nhiên rồi. Bố xồng xộc chạy tới túm cổ áo Emil.

- Đồ mất dạy, trong có một ngày trời mà con định làm bao nhiêu vụ làm ăn điên rồ nữa đây hả? Con sẽ phải trả giá cho cái của nợ này hai ngày liền ngồi dưới xưởng mộc đấy, rõ chưa?

Nhưng việc đã rồi. Emil đã nói hai mươi lăm xu thì nó phải giữa lời. Giờ đây Lotta Què  là con gà của nó, mặc bố nghĩ thế nào thì nghĩ.

- Dù sao bây giờ cháu cũng có hai con vật là của cháu. – Emil bảo chú Alfred. – Một con ngựa và một con gà mái!

- Phải, một con ngựa và một con gá mái què, – chú Alfred nói và bật cười, nhưng vô cùng thân thiện như chú vốn thế.

Người ta bỏ con Lotta vào một cái lồng rồi Emil xếp cái lồng vào đống của cải của nó bên cạnh kho chứa củi: chiếc bình cứu hỏa, cái xẻng nướng bánh mì và chiếc hộp nhung, con Lukas cũng buộc ở đấy. Emil ngắm nghĩa tài sản của mình, nó rất hài lòng.

Nhưng nãy giờ cô Lina và gã chủ trang trại Krakstorp thế nào rồi nhỉ? Emil và chú Alfred đi một vòng để thám thính, và hài lòng khẳng định rằng cô Lina đang rất ổn. Gã chủ trang trại đã ôm lấy cô, còn cô vừa cười vừa ngả ngớn còn tệ hơn bất kỳ lúc nào trước kia. Chốc chốc cô lại dúi vào vào gã một cái khiến gã bật ngã vào hàng rào.

- Ông ta có vẻ cũng thích đấy, – Emil nói. – Nếu như cô ấy đừng dúi ông ta mạnh như thế!

Tóm lại Emil và chú Alfred vô cùng đắc ý với cung cách làm duyên dáng của cô Lina. Nhưng còn một kẻ khác không hề đắc ý với thái độ của cô, đó là gã Bullte đến từ Bo. Gã này thích gây lộn và nghiện rượu vào loại tệ hại nhất làng Lönneberga, và tại những phiên đấu giá bao giờ cũng xảy ra những vụ ẩu đả kinh hồn chủ yếu là do tội của gã. Trong phần lớn trường hợp, gã luôn là người gây sự. Bạn phải biết rằng trước kia đầy tớ nhà nông phải quanh năm đầu tắt mặt tối, làm việc quần quật mà hầu như chẳng bao giờ được ló mặt tới chỗ nào vui vẻ. Vì vậy mà đối với anh ta một phiên đấu giá là cả một cuộc vui khổng lồ, và anh ta rất muốn đánh nhau. Nếu không đánh nhau, anh ta còn biết làm gì với bao nhiêu sức lực bỗng cuồn cuộn dâng lên trong cơ thể, khi anh ta hòa mình trong đám đông và nhất là sau khi đã nốc vài ly rượu đầy. Phải, tiếc rằng không phải mọi người đều uống nước chanh. Chí ít thì không phải gã Bullte đến từ Bo.

Lúc này gã trông thấy cô Lina đang ngồi với gã chủ trang trại Krakstorp mà ve vãn nhau. Gã bèn lên tiếng:

- Cô nàng không biết xấu hổ sao, Lina? Cô định làm gì với một lão già hói đầu vô tích sự như thế! Dễ thường cô không hiểu là lão quá già so với cô hả?

Các cuộc ẩu đả thường vẫn bắt đầu như thế.

Emil và chú Alfred đứng đó, trông thấy gã chủ trang trại Krakstorp nổi giận, buông cô Lina ra như thế nào. Lại còn thế nữa, sao cái gã Bullte đến từ Bo lại cứ mò đến đây để phá hỏng tất cả những gì hay ho mà chú Alfred và Emil đã tưởng tượng ra?

- Cứ ngồi yên đấy, vì Chúa, ông hãy cứ ngồi yên đấy đi! – Emil sợ hãi kêu lên với chủ trang trại Krakstorp. – Cứ để gã Bullte cho cháu, cháu xử lý được!

Đoạn nó cầm cái xẻng nướng bánh mỳ phang thật lực vào mông gã Bullte. Nhưng lẽ ra nó chẳng nên làm thế, vì gã Bullte quay phắt người lại và túm lấy Emil. Gã tức đến nỗi lác xệch cả mắt, còn Emil thì lủng lẳng trên hai bàn hộ pháp của lão, nghĩ bụng giờ tận số của mình đã điểm. Thế là chú Alfred bỗng gầm lên:  

- Để thằng bé yên, nếu không mày sẽ phải bọc nắm xương của mày trong khăn tay mà đem về nhà đấy! Tao sẽ lo việc ấy cho mày!

Chú Alfred cũng rất khỏe và không từ một cuộc ẩu đả nào. Chưa đầy hai giây sau, chú và Bullte đã lăn xả vào nhau đấm đá huỳnh huỵch.

Và dường như tất cả mọi người chỉ đợi có thế.

Tụi mình sắp bắt đầu một trận quần nhau tơi bời chứ hả? Nhiều chú đầy tớ đã hỏi nhau trước đó, và giờ đây họ chạy tới từ khắp ngả và muốn tham chiến.

Nhưng cô Lina đã bắt đầu hét lên.

- Họ đánh nhau vì tôi, – cô hét. – Ôi, đúng là một bi kịch!

- Chừng nào cháu còn cầm cái xẻng này, ở đây sẽ không có bi kịch, – Emil an ủi.

Lúc này đám đầy tớ nằm chồng chất lên nhau thành một đống tướng, chân tay khua loạn lên như cua khua càng: họ giằng xé, gào thét, cấu cắn, đấm đá và chửi rủa nhau loạn xị ngậu. Nằm tận dưới cùng là chú Alfred và gã Bullte, gã Bullte, gã chủ trang trại Krakstorp và một vài người nữa.

Emil sợ họ sẽ nghiền chú Alfred của nó nát nhừ ra mất, thế là nó vừa chạy vòng quanh vừa xọc lấy xọc để cái xẻng nướng bánh mì vào đám đầy tớ, hòng tìm cách lôi được chú Alfred ra. Việc Emil làm như giống như một cuộc chơi thử lòng kiên nhẫn. Nhưng nó không thành công, và hễ nó đứng chỗ nào là y như rằng có một bàn tay giận dữ thò ra định túm lấy nó lôi vào cuộc chiến.

Nhưng Emil không muốn thế. Nó bèn nhảy lên lưng con Lukas và đi nước kiệu quanh những kẻ đánh nhau. Trông Emil ngồi trên lưng ngựa, tốc bay trong gió, tay giơ cao chiếc xẻng nướng bánh mì, thật chẳng khác gì một hiệp sĩ dương cao ngọn giáo xông vào trận mạc.

Emil cứ thế chạy vòng quanh đống đầy tớ chất chồng lên nhau và dùng xẻng xọc lấy xọc để vào bất kỳ chỗ nào có thể. Lúc này nó càng hăng hơn, và ít nhất cũng lột bớt được lớp đầy tớ nằm trên cùng, nhưng lập tức lại có những kẻ mới chạy đến và lao mình vào, thành thử Emil có cật lực xọc xẻng đến đâu cũng không giải cứu được chú Alfred.

Tất cả đám phụ nữ có mặt đều gào khóc thảm thiết, còn bố Emil và những bác nông dân biết điều khác, – những người quá tốt, không bao giờ đánh nhau – thì chỉ đứng nhìn và khuyên can với vẻ bất lực:

- Dừng lại đi, các chú! Sẽ còn nhiều phiên đấu giá nữa cơ mà! Phải để dành tí tiết cho những phiên sau nữa chứ!

Nhưng những chú đầy tớ đang trong cơn hăng nên chẳng nghe thấy gì. Họ chỉ muốn đánh nhau, đánh nhau và đánh nhau. Emil bèn quăng cái xẻng đi.

- Cô Lina, giờ cô phải giúp cháu, chứ đừng chỉ biết đứng đấy mà khóc lóc, – nó nói. – Suy cho cùng thì người đang nằm tít bên dưới là chú rể của cô đấy.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 11-9-2011 15:44:53 | Chỉ xem của tác giả
Tôi đã nói là Emil rất tinh ranh mà. Đoán xem nó sẽ làm gì! Nó có sẵn một bình cứu hỏa và nước thì đầy dưới giếng. Emil phân công cô Lina bơm, còn nó lo cầm vòi xịt – thế là nước phụt ra, thật là may.

Cả đống đầy tớ rùng lên như nấc cụt khi dòng nước mạnh đầu tiên xịt cục mạnh vào chính giữa họ. Và, bạn muốn tin tôi hay không thì tùy, Emil chỉ cần xịt vài phút là cuộc ẩu đả ngủm dần rồi tắt hẳn. Các chú đầy tớ lần lượt ngóc những gương mặt sửng sốt và sưng vù lên khỏi đống người và lần lượt tất cả đều lồm cồm đứng dậy.

Bạn hãy nhớ lấy, nếu có lúc nào bạn sa vào cuộc đánh lộn và muốn chấm dứt nó, thì nước lạnh hiệu nghiệm hơn là xẻng nướng bánh mì! Đứng quên đấy nhé!

Các chú đầy tớ không hề tức giận với Emil. Bây giờ họ đã trút được khỏi người tất cả những hung hăng và chắc chắn đều cho rằng cuộc ẩu đả lần này chấm dứt ở đây là vừa.

- Hơn nữa tuần sau lại có phiên đấu giá ở trang trại Knashult rồi, – gã Bullte nói và nhét một ít rêu vào hai lỗ mũi để cầm máu.
Thế là Emil tìm đến ông chủ trang trại Krakstorp, người cũng đang có mặt ở đây và đã chứng kiến trận đánh nhau, và bán lại cho ông bình cứu hỏa với giá năm mươi xu.

- Thế là cháu đã lãi hai mươi lăm xu, – Emil bảo chú Alfred, và vào giây phút ấy chú Alfred hiểu rằng lớn lên Emil sẽ trở thành một doanh nhân giỏi giang.

Lúc này phiên đấu giá đã kết thúc. Tất cả mọi người gom những thứ lỉnh kỉnh mà mình đã mua được lên đường về nhà. Bố Emil cũng muốn ra về với con bò sữa và con lợn nái của ông. Con lợn nái được cho lên cỗ xe sữa. Con Lotta Què cũng được đi cùng, mặc dù bố Emil cứ bực bội lườm nó nằm trong lồng. Con bò Rölla sẽ lẽo đẽo đi sau xe, ấy là bố dự tính thế. Nhưng không ai chịu hỏi xem con Rölla xem nó nghĩ sao về chuyện đó!

Chắc bạn đã từng nghe về những con bò mộng bị điên rồi. Nhưng bạn có biết chút gì về những con bò cái điên không? Không ư? Vậy tôi muốn nói với bạn rằng ngay đến những con bò mộng điên khùng nhất cũng run tứ túc và ù té chạy trốn, một khi có con bò cái nào nổi điên thực sự.

Cả đời mình, con bò cái Rölla vốn là một con vật thân thiện nhất, hiền lành nhất mà người ta có thể tưởng tượng ra. Nhưng giờ đây, khi chú Alfred và cô Lina định lùa nó lên đường về trang trại Katthult, thì nó bỗng giằng ra và rống lên một tiếng như vọng từ dưới mồ, khiến tất cả mọi người ở Backhorva giật mình kinh ngạc. Có thể con bò đã chứng kiến đám đầy tớ đánh lộn và nghĩ rằng đã là phiên đấu giá thì cứ làm cho loạn một thể. Chỉ biết lúc này nó nhảy chồm lung tung, điên khùng và hung dữ, nên ai mom men lại gần nó sẽ thiệt hại như bỡn. Chú Alfred thử mom men đầu tiên, rồi đến bố Emil, nhưng con Rölla trừng trừng nhìn họ bằng cặp mắt đỏ ngầu vì điên giận, hai sừng chúi về phía trước với tiếng rống trầm đục khiến cả chú Alfred và bố Emil phải chạy như thỏ để thoát thân. Có những người khác nữa đến giúp, nhưng Rölla không muốn thấy bất kỳ ai trước chuồng của nó – nó muốn được ở một mình.

- Đúng là bi kịch! – Cô Lina nói khi trông thấy các ông chủ trang trại Backhorva, Krakstorp, Bastefall, Knashult và cả gã Bullte bỏ chạy thục mạng, con Rölla rượt theo sau.

Cuối cùng ngay bố Emil cũng phát điên, ông hét lên:

- Tôi đã bỏ ra những tám mươi đồng để mua con bò này! Dẫu vậy, hãy mang một khẩu súng ra đây, nó sẽ bị bắn bỏ! B
ố run rẩy vì tiếc của khi hét lên như thế, lên như thế, nhưng chẳng ai thích thú gì một con bò điên, bố hiểu và những người khác cũng hiểu như vậy. Ông chủ trang trại Backhorva đem ra khẩu súng đã nạp đạn của mình, ấn vào tay bố Emil.

- Tốt hơn là anh hãy tự làm đi! – ông nói.

Nhưng Emil đã kêu lên:

- Đợi tý đã!

Tôi đã nói Emil là một thằng bé tinh khôn mà. Lúc này nó đã đi đến trước mặt ông và nói:

- Nếu bây giờ bố muốn bắn chết nó, thì bố cũng có thể tặng nó cho con lắm chứ!

- Con định làm gì với con bò điên? – Bố Emil hỏi. – Dùng nó để săn sư tử chắc?

Nhưng bố biết em có tay chăm súc vật, vì vậy mà bố bảo: nếu Emil đưa được con Rölla về nhà thì con bò sẽ mãi mãi là của nó, cho dù con bò có điên khùng tới cỡ nào.

Thế là Emil đến chỗ ông chủ trang trại Bastefall, người đã mua sáu con bò kia và bảo ông ta:

- Ông sẽ trả cháu bao nhiêu, nếu cháu lùa giúp ông đàn bò về đến trang trại Katthult ạ?

Trang trại Bastefall nằm ở tít cuối đầu bên kia làng, và lùa sáu con bò về đấy đâu có vui thú gì. Ông chủ trang trại biết thế, nên nhanh chóng thò tay vào túi quần rút ra đồng hai mươi lăm xu.

- Đây cầm lấy, – ông nói. – Bắt đầu đi!

Đoán xem Emil làm gì! Nó chạy ngang qua con bò Rölla, vào chuồng tháo dây thả những con bò kia ra. Khi Emil lùa đàn bò này đi ngang qua con Rölla, con bò đang rống bỗng im bặt, cụp mắt xuống và rõ ràng xấu hổ về những cử chỉ xấu xa của mình trước đó. Nhưng một con bò cái tội nghiệp biết làm gì đây khi nó phải rời xa khu chuồng cũ của mình và đơn côi đứng đó, thiếu vắng những con bò cái khác mà nó đã quen sống cùng? Nó sẽ tức giận và buồn bã! Chỉ có Emil hiểu điều đó.

Giờ đây con Rölla vội vã nhập bọn, cùng đàn bò lên đường. Mọi người cười hể hả bình luận:
- Cái thằng bé của trang trại Katthult này thật ra chả ngốc tý nào!

Chú Alfred cũng cười.

- Ông chủ gia súc Emil Svensson, – chú nói. – Giờ thì cháu đã có một con ngựa, một con gà mái què và một con bò cái điên. Không còn gì mà cháu muốn có nữa chứ?

- Có đấy, từ từ rồi cháu sẽ còn muốn có nữa, – Emil bình thản đáp.

Mẹ Emil đứng bên cửa sổ của trang trại Katthult ngóng trông những người thân yêu của mình trở về từ phiên bán đấu giá. Bà trố mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy đoàn lữ hành đông đúc xuất hiện trên đường ngoài kia. Trước hết là cỗ xe chở sữa, trên có bố Emil, chú Alfred, cô Lina, con lợn nái và con Lotta Què đang phấn khởi cục tác trước quả trứng nó mới đẻ, rồi đến bảy con bò sữa nối đuôi nhau thành một hàng dài, cuối cùng là Emil trên lưng con Lukas, tay lăm lăm cầm cái xẻng nướng bánh mì canh chừng để không con bò nào đi chệch hướng.

Mẹ Emil chạy ra đón, bé Ida chạy theo sau.

- Những bảy con bò! – Mẹ kêu lên với bố. – Ai đã hóa điên rồi đây, mình hay em?

- Con bò chứ ai! – Bố làu bàu. Nhưng bố còn phải làu bàu một hồi nữa thì mẹ mới thủng đầu đuôi câu chuyện. Thế là mẹ âu yếm nhìn Emil.

- Chúa phù hộ cho con, Emil! Nhưng làm thế nào mà con biết được cái xẻng nướng bánh mì của nhà ta vừa mới bị hỏng lúc mẹ định đưa bánh cho vào lò nướng?

Đến đây mẹ rú lên khi nhìn thấy mũi của chú Emil sưng to gấp đôi bình thường.

- Trời đất ơi, cậu đã ở đâu với cái mũi của cậu vậy hả? – Mẹ hỏi.

- Ở phiên đấu giá ở Backhorva ạ, – chú Alfred đáp.

- Tuần sau cháu sẽ lại vác nó đi Knashult.

Cô Lina ủ rũ và bực dọc xuống xe. Với cô, thế là hết khúc khích cả ngả ngớn.

- Trông cô cau có thế, – mẹ nói. - Cô làm sao vậy?

- Đau răng, – cô Lina đáp gọn lỏn. Gã chủ trang trại Krakstorp cứ liên tục mời cô ăn kẹo, vì vậy mà cái răng hàm bị sâu của cô bây giờ mới đau tợn, đau đến tưởng vỡ cả đầu ra.

Nhưng đau răng hay không thì cô vẫn phải ra đồng cỏ – nơi chăn thả đàn bò của trang trại Katthult – và vắt sữa bò ngay, kẻo quá giờ vắt sữa từ lâu rồi.

Cũng đã quá giờ vắt sữa đối với con Rölla và đám bạn đến từ phiên đấu giá của nó. Cả lũ đang kêu ầm ĩ để nhắc người ta nhớ đến điều đó.

- Nếu ông chủ trang trại Bastefall không có mặt ở đây để vắt sữa cho mấy con bò già của ông ấy, thì đó chẳng phải lỗi tại con. – Emil tuyên bố và bắt đầu tự tay vắt sữa. Đầu tiên là con Rölla rồi đến sáu con kia. Emil vắt được cả thảy ba chục lít sữa và mẹ nó đem cất xuống tầng hầm, định khi có thời gian sẽ làm pho mát. Quả nhiên sau này qua tay mẹ, chỗ sữa đó trở thành cái bánh pho mát to đùng, ngon tuyệt, dành riêng cho Emil, khiến nó vui sướng một thời gian dài. Nhưng còn quả trứng mà con Lotta Què đẻ trên đường về nhà thì Emil đem luộc ngay và bưng lên trước mặt bố, trong khi bố hơi cáu kỉnh ngồi bên bàn ăn chờ bữa tối.

- Trứng của con Lotta Què đấy bố ạ, –Emil nói.

Đoạn nó đặt thêm trước mặt bố một cốc sữa tươi vừa mới vắt.

- Còn sữa này là của con Rölla.

Bố im lặng ăn uống, trong khi mẹ đưa tất cả số bánh mì bà đã nặn vào lò nướng.

Còn cô Lina áp một củ khoai tây nóng rực vào chỗ răng đau, thế là cái răng còn đau hơn gấp bảy lần, đúng ý cô Lina.

- Phải, cho mày nếm mùi đau, – cô Lina nói với cái răng. – Mày đã xấu chơi thì tao cũng biết chơi xấu.

Chú Alfred cười.

- Cái nhà ông ở Krakstorp tốt ghê đấy chứ, cho cô em bao nhiêu là kẹo, – chú nói. – Em nên cưới ông ta đi, Lina ạ.

Thế là cô Lina thở phì phì giận dữ.

- Cái lão già đi còn không vững ấy ư! Lão đã năm mươi tuổi, trong khi em mới hai mươi lăm! Anh tưởng em muốn cưới một người gấp đôi tuổi mình chắc?

- Thì có sao đâu, – Emil hăng hái xen vào. – Chẳng làm sao cả!

- Phải, đấy là cậu nghĩ thế, – cô Lina nói. – Bây giờ thì còn tạm được, nhưng cậu thử tưởng tượng xem, khi tôi năm mươi tuổi thì lão ta đã một trăm tuổi. Úi giời, khi đó tha hồ mà hầu lão ta!

- Cô tính toán đúng như trí khôn của cô, cô Lina ạ, – mẹ Emil nói và đóng sập cánh cửa lò sau khi cho chiếc bánh mì cuối cùng vào lò. – Quả là một cái xẻng nướng bánh tuyệt vời, Emil ạ, – sau đó mẹ bình luận.

Khi bố Emil đã ăn hết quả trứng và uống hết cốc sữa, Emil bèn bảo:

- Thôi, bây giờ con xuống xưởng mộc đây!

Bố lẩm bẩm gì đó, đại khái là nói chung hôm nay hầu như Emil có làm gì nên tội đâu mà ngồi trong xưởng mộc.

Nhưng Emil nói:

- Không, không, đã nói là làm!

Rồi một mình, lặng lẽ và đầy phẩm giá, nó đi ra khỏi bếp, xuống xưởng mộc, ngồi đẽo hình nhân thứ một trăm hai mươi chín của mình.

Trong khi đó con Lotta Què đã yên vị trên thanh tre trong chuồng gà và con Rölla hài lòng tung tăng cùng đàn bò của trang trại Katthult trên bãi cỏ. Trước đấy ông chủ trang trại Bastefall đã đến đón sáu con bò của mình. Ông và bố Emil còn chuyện trò khá lâu về phiên đấu giá và tất cả những gì đã diễn ra ở đấy. Vì vậy mà phải một lúc lâu nữa bố Emil mới có thể đón nó ra khỏi xưởng mộc.
Ông chủ trang trại Bastefall vừa ra về thì bố Emil đã chạy xuống xưởng mộc. Khi đến gần, ông thấy bé Ida đang ngồi trên một chiếc ghế dài trước cửa sổ xưởng mộc, tai ôm khư khư cái hộp nhung gắn những vỏ ốc, như thế đó là vật đẹp đẽ nhất nó từng nhận được trong đời. Mà cũng đúng thế thật. Nhưng bố Emil lại càu nhàu:

- Mua bán điên rồ! Một cái hộp nhung cũ rích!

Bé Ida không biết bố đang đi đến. Vì vậy nó không lặng im mà tiếp tục ngoan ngoãn và dễ bảo mà nhắc lại những lời mà Emil từ trong xưởng mộc thì thầm mớm ra cho nó. Bố Emil giận tái mặt, khi ông – kẻ ngoan đạo nhất trần đời – nghe con gái nhỏ nói những lời tồi tệ chưa từng được thốt ra ở trang trại Katthult, những lời dù qua giọng trong trẻo, thỏ thẻ của bé Ida cũng không hề êm tai hơn.

- Im ngay, Ida! – Bố Emil quát. Đoạn ông thò tay qua cửa sổ túm lấy cổ áo Emil.

- Đồ mất dạy, con dạy em rủa đấy à?

- Con có làm thế đâu, – Emil đáp. – Con chỉ nói Ida là không bao giờ được nói “quỷ tha ma bắt”, rồi con lại nhét cho nó một lô những từ khác, để nó nhớ và tránh xa nó ra như tránh lửa vậy.

Phải, giờ thì bạn đã biết Emil đã làm gì vào ngày 12 tháng Sáu. Cho dù không phải mọi sự đều đặc biệt tốt đẹp, người ta vẫn cứ phải thừa nhận là hôm đó Emil đã có những vụ làm ăn khôn ngoan. Bạn thử hình dung cùng một lúc Emil đã kiếm được bao nhiêu là thứ: một con bò tốt sữa, một con gà cực mắn đẻ, một cái xẻng nướng banh mì siêu tốt, ngoài ra thêm bao nhiêu là sữa tươi, đủ để làm cái bánh pho mát to ngon tuyệt!

Thứ duy nhất khiến bố có thể càu nhàu là chiếc hộp nhung chẳng có ích gì trên đời, nhưng lại được bé Ida thích mê. Cô bé cất vào đó cái đê khâu tay, cái kéo và một quyển bài hát xinh xinh mà nó được phát ở trường mẫu giáo, một mảnh thủy tinh màu xanh lơ rất đẹp và chiếc nơ đỏ của nó. Lúc bé Ida nhận chiếc hộp này thì thấy bên trong đựng một xấp thư cũ, bèn bèn vứt ngay xuống đất. Nhưng sau đó, vào tối thứ Bảy, khi Emil được tha khỏi xưởng mộc và bước vào bếp thì thấy những lá thư nằm ngổn ngang trong xó bếp, nó liền nhặt lên.

Chú Alfred cầm vỉ ruồi đi loanh quanh, ra sức đập ruồi, vì cô Lina muốn chí ít sẽ không có ruồi vào ngày Chủ nhật. Emil chìa cho chú xem những lá thư.

- Cái gì rồi cũng có ích hết, – Emil nói. –Nếu có lúc nào cháu phải gửi thư đi đâu, thì cháu đã có cả đống thư viết sẵn.

Nằm trên cùng là một lá thư gửi từ Mỹ về, và khi Emil nhìn thấy là thư, nó khẽ huýt sáo.

- Xem này, chú Alfred, đây nhất định là thư của chú Adrian rồi!

Chú Adrian là con trai đầu của ông chủ trang trại Backhorva đã sang Mỹ từ lâu lắm và suốt thời gian ấy chỉ duy nhất một lần viết thư về nhà. Cả làng Lönneberga đều biết thế và ai cũng tức giận với chú Adrian, vì họ thấy thương ông bố bà mẹ tội nghiệp của chú. Nhưng chú Adrian đã viết gì khi gửi thư về thì không ai biết, người ở trang trại Backhorva giữ kín.

- Nhưng bây giờ sẽ biết được, – Emil nói.

Cái thằng bé giỏi giang này đã tự học đọc những chữ cái in và chữ cái viết. Nó giở thư ra và đọc to cho chú Alfred nghe. Đọc nhanh thôi, vì thư ngắn ngủn. Trong thư viết:

“Con đã chông thấy một con ghấu. Gủi địa trỉ cho pố mẹ. Gút bai lần nài.”

Lá thư này sẽ chẳng có ích lợi gì cho cháu, – Emil nói. Nhưng nó đã lầm to.

Rồi trời tối. Ngày thứ Bảy, 12 tháng Sáu, sắp kết thúc. Màn đêm buông xuống trang trại Katthult, đem đến yên tĩnh và thanh bình cho tất cả mọi người và vật sống nơi đây. Tất cả, trừ cô Lina đang đau răng. Cô nằm thức trên chiếc ghế gấp dài trong bếp mà rên rỉ và than thở, trong khi đêm ngắn tháng Sáu đến rồi lại đi, và một ngày mới bắt đầu.
Một ngày mới trong cuộc đời Emil. Đó là
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 11-9-2011 15:48:45 | Chỉ xem của tác giả
Chủ nhật ngày 13 tháng Sáu,
ngày Emil ba lần can đảm thử nhổ răng hàm cho cô Lina, và sau đó bôi xanh lè cả mặt bé Ida


Dù là ngày thường hay Chủ nhật thì cũng đều phải vắt sữa bò. Đúng năm giờ sáng chiếc đồng hồ báo thức rung chuông inh ỏi và cô Lina bò ra khỏi giường, hoàn toàn suy sụp vì đau răng. Cô liếc nhìn vào tấm gương treo trên chiếc tủ ngăn rồi kêu lên một tiếng chói tai. Ôi lạy Chúa, trông cô mới khiếp làm sao! Má phải của cô sưng phồng lên chẳng khác gì một chiếc bánh mì nở hết cỡ vì quá tay cho bột nở. Không, thế này thì kinh quá! Cô Lina òa lên khóc.

Giờ đây cô có thể khiến người khác động lòng thương xót, vì đúng hôm nay cả làng sẽ đến trang trại Katthult để dùng cà phê sau lễ nhà thờ.

- Mình không thể chường cái mặt này ra được, nếu như hai bên má mình trông không đều nhau, - cô Lina lẩm bẩm rồi vừa thổn thức vừa rời bếp đi vắt sữa.

Nhưng cô chẳng cần lo nghĩ lâu về hai bên má không cân nhau của cô, vì đúng lúc cô ngồi xuống chiếc ghế vắt sữa thì một con ong vò vẽ bay đến và đốt vào má trái cô. Bây giờ người ta nghĩ hẳn cô sẽ hài lòng, vì má trái cô sưng lên nhanh chóng và phồng tướng y như má phải. Đúng, giờ thì cô đã toại nguyện rồi nhé, hai má đều tròn căng, ấy vậy mà cô lại còn khóc dữ hơn trước.

Lúc cô Lina bước vào bếp thì mọi người đã ngồi quanh bàn điểm tâm. Tôi có thể nói với bạn rằng tất cả đều trố mắt lên khi đột nhiên trông thấy một cái gì đó căng phồng, húp híp và đỏ tấy lù lù xuất hiện trên ngưỡng cửa. Đây mà là cô Lina sao! Trông cô đáng thương đến phát khóc, vì vậy mà Emil thật không tử tế khi nó lại cười. Nó vừa đưa cốc sữa lên miệng chực uống thì cô Lina bước vào, và khi nó ngước mắt qua miệng cốc thủy tinh nhìn cô thì nó phì cười mạnh đến nỗi sữa bắn qua bàn, bay vào chiếc áo gilê diện của bố. Có cả tiếng chú Alfred khe khẽ cười, phải, cô Lina quả thật khiến người ta thương xót!

Mẹ Emil nghiêm khắc nhìn Emil và chú Alfred, nói rằng ở đây thật sự chẳng có gì đáng cười cả. Nhưng trong lúc chùi khô áo cho bố, mẹ ngó cô Lina thêm lần nữa và có thể thấy mẹ đã hiểu tại sao Emil lại cười đến phì cả sữa ra như thế. Nhưng tất nhiên mẹ thương cô Lina.

- Khổ thân, - mẹ nói, - trông cô rất tệ và không thể để dân làng thấy cô trong bộ dạng này được. Emil, con chạy đến chỗ bà Krôsa-Maja nhờ bà ấy đến đây giúp chúng ta bưng cà phê ra mời khách!

Dân làng Lônneberga ai cũng thích dự tiệc cà phê sau lễ nhà thờ cả, và chắc chắn ở khắp các trang trại người ta đều phấn khởi khi nhận bức thư của mẹ Emil, trong đó bà viết:

Thưa các Ông các Bà, nếu các vị muốn đến nhà chúng tôi dùng cà phê sau lễ nhà thờ Chủ nhật này, chúng tôi hân hạnh kính mời.
Alma và Anton Svensson
Katthult Lônneberga


Đã đến giờ đi lễ nhà thờ. Bố mẹ Emil lên đường, vì tất nhiên trước hết họ phải đến nhà thờ dự lễ đã, sau đó mới có thể nói đến tiệc cà phê.

Còn Emil ngoan ngoãn đến chỗ bà Krôsa-Maja với lời nhắn của mẹ. Buổi sáng rất đẹp, và nó vui vẻ huýt sáo khi rẽ vào con đường mòn dẫn đến túp lều của bà Krôsa-Maja. Bà ấy sống trong một túp lều cũ trong rừng.

Nếu bạn đã từng có mặt trong một khu rừng tại vùng Smland vào một sớm Chủ nhật tháng Sáu, thì bạn sẽ lập tức nhớ lại tất cả: bạn nghe tiếng chim cu gáy gọi, tiếng chim sáo hót và cảm thấy những chiếc lá thông nhọn dưới đôi chân trần của bạn sao mà mềm mại và ánh mặt trời ấm áp mơn man trên gáy bạn mới dễ chịu làm sao. Bạn đi đến đó và thích hít mùi nhựa thông tỏa ra từ các loài thông trong rừng, bạn thấy hoa dâu rừng nở trên những khoảnh rừng thưa mới trắng làm sao. Emil cũng có cảm giác y như thế và vậy nên nó chẳng vội vàng gì, nhưng cuối cùng nó cũng tới được túp lều của bà Krôsa-Maja, túp lều bé xíu, xám xịt và vẹo vọ gần như ẩn mình sau những thân cây.

Bà Krôsa-Maja ngồi trong lều đọc tờ “Nhật báo Smland”, bà đang vừa hoảng sợ vừa hài lòng về điều gì đó mới đọc được trên báo.

- Dịch thương hàn đã đến Jôenkôeping, - bà nói trước khi chào Emil, và gí tờ báo trước mũi Emil để nó tận mắt trông thấy. Rất đúng, báo đăng hai nông dân ở Jôenkôeping đã bị mắc bệnh thương hàn nặng, và bà Krôsa-Maja gật đầu vẻ hài lòng.

- Thương hàn là một căn bệnh khủng khiếp, - bà nói. - Và nó sắp lan đến làng Lônneberga chúng ta, tin ta đi!

- Sao lại thế ạ? Làm sao nó lan đến tận đây được ạ? - Emil hỏi.

- Trong khi cháu vẫn còn đứng đây thì nó đã như hạt cây bồ công anh bay khắp vùng Smland rồi, - bà Krôsa-Maja nói. - Hàng kí hạt thương hàn ấy chứ. Và cầu Chúa che chở cho những ai ở đúng nơi mà chúng nảy mầm!

- Bệnh ấy như thế nào hả bà? Đại khái giống như dịch hạch phải không ạ? - Emil hỏi.

Bà Krôsa-Maja từng kể về dịch hạch. Bà biết tất cả các loại dịch bệnh, và dịch hạch là một thứ gì rất khủng khiếp, bà đã bảo vậy. Ngày xưa dịch hạch đã giết chết gần như tất cả người dân vùng Smland - nếu thương hàn cũng kinh khủng như thế thì sợ quá!

Bà Krôsa-Maja nghĩ ngợi giây lát.

- Ừ, nó cũng tương tự như dịch hạch, - bà hài lòng nói. - Ta không biết đích xác, nhưng ta nghĩ người mắc phải trước hết sẽ xanh lè cả mặt mũi, sau đó thì chết. Phải, thương hàn là một căn bệnh tệ hại, ôi chao, ôi chao!

Nhưng rồi bà cũng nghe chuyện cô Lina đau răng và nỗi khổ vì hai cái má sưng vù của cô, lại nhè đúng vào ngày có tiệc cà phê nữa. Thế là bà hứa sẽ cố gắng đến Katthult thật nhanh.

Emil trở về nhà và thấy cô Lina đang ngồi trên bậc thang dẫn vào bếp mà than vãn chuyện đau răng. Chú Alfred và bé Ida hoàn toàn bất lực đứng cạnh cô.

- Chắc em phải tìm đến lão Pelle-Răng thôi, - chú Alfred khuyên.

Lão Pelle-Răng là thợ rèn ở làng Lônneberga, chuyên nhổ răng đau cho dân làng bằng cái kìm to tướng, kinh khủng của lão.
- Lão đòi bao nhiêu khi nhổ một cái răng? - cô Lina hỏi trong tiếng nấc nghẹn ngào.

- Năm mươi xu một giờ, - chú Alfred đáp và cô Lina rùng mình khi nghĩ đến việc nhổ răng sẽ có thể kéo dài bao lâu và tốn bao nhiêu tiền.

Nhưng Emil suy nghĩ rất kỹ càng rồi bảo:

- Cháu nghĩ cháu có thể nhổ răng cho cô rẻ hơn và cũng nhanh hơn. Cháu biết phải làm thế nào!

Đoạn nó giải thích cho cô Lina, chú Alfred và bé Ida.

- Cháu chỉ cần hai thứ: con Lukas và một sợi chỉ vừa dài vừa chắc. Cháu sẽ buộc một đầu sợi chỉ vào cái răng của cô, cô Lina ạ, còn đầu kia buộc vào phía sau thắt lưng của cháu. Rồi cháu cưỡi con Lukas phi nước đại, thế là “plupp!” - cái răng của cô văng ra!

- “Plupp,” thôi, xin kiếu! - cô Lina phẫn nộ nói. - Đừng có nói chuyện phi nước đại với tôi!

Nhưng đúng lúc đó một cơn đau khủng khiếp nổi lên trong cái răng sâu, còn ghê gớm hơn ban nãy nữa, khiến cô Lina thay đổi ý kiến. Cô thở dài đánh sượt.

- Thôi thì cứ thử xem. Chúa sẽ an ủi kẻ khốn khổ nhất đời là tôi đây, - cô nói và đi lấy chỉ.

Rồi Emil bắt tay vào việc như nó đã nói. Nó dắt con Lukas ra trước bậc tam cấp ở cửa bếp, và sau khi đã buộc xong sợi chỉ như kế hoạch, nó trèo lên lưng ngựa. Cô Lina tội nghiệp đã bị buộc răng đứng sau đuôi con ngựa, vừa khóc rống lên vừa than vãn. Bé Ida rùng mình. Nhưng chú Alfred lại hài lòng bảo:

- Bây giờ chúng ta chỉ cần chờ nghe tiếng “Plupp” nữa thôi!

Emil đã thúc ngựa phi nước đại.

- Ôi, sắp rồi đấy! - bé Ida thốt lên.

Nhưng chẳng thấy tiếng “Plupp” nào cả. Vì nếu ở đây có ai cũng phi nước đại, thì đó là cô Lina. Cô sợ kinh khủng cái tiếng “Plupp” sẽ đến khi sợi chỉ đủ sức căng. Vì vậy mà cô chạy bán sống bán chết, nhanh ngang con Lukas. Mặc Emil ngoái lại gào lên là cô hãy đứng lại, cô Lina cứ chạy và sợi chỉ cứ chùng, nên làm sao có tiếng “Plupp” được.

Nhưng một khi Emil đã định giúp cô Lina thoát khỏi cái răng đau, thì nó quyết làm bằng được. Vì vậy mà nó tăng hết tốc lực phi thẳng ngựa đến hàng rào trước mặt và thúc cho con Lukas nhảy vọt qua rào. Cô Lina chạy đằng sau, sợ cuống cuồng đến phát điên, và nhìn kìa, cô cũng phi qua rào! Bé Ida đứng đó chứng kiến và sẽ không bao giờ quên được cái khoảnh khắc đó. Suốt đời cô bé vẫn sẽ nhớ cô Lina - hai má sưng phồng, ánh mắt hoảng loạn, một sợi chỉ lòng thòng ở miệng - đã bay qua hàng rào như thế nào và đã hét lên ra sao:

- Dừng lại! Dừng lại! Tôi chẳng thiết gì “Plupp” nữa!

Sau đó cô Lina xấu hổ vì đã làm hỏng mọi chuyện, nhưng đã muộn. Giờ đây cô lại ngồi trên bậc tam cấp ở cửa bếp, vẫn với cái răng đau, và ê chề trong thất bại.

Nhưng Emil không đầu hàng.

- Cháu phải nghĩ ra cách nào khác mới được, - nó nói.

- Ừ, nhưng là cách nào đừng nhanh quá nhé, - cô Lina cầu khẩn. - Cái răng khốn khổ này đâu có cần phải “plupp” một phát văng ra luôn. Cậu có thể làm cách nào từ từ vặn nó ra chẳng hạn!

Sau khi nghĩ ngợi một lúc, Emil biết nó phải làm gì.

Cô Lina phải ngồi bệt dưới gốc cây lê to, còn Emil trói chặt cô vào thân cây với một sợi thừng chắc, trong khi bé Ida và chú Alfred tò mò đứng xem.

- Bây giờ thì đố cô chạy nhanh được nữa, - Emil nói. Rồi nó cầm sợi chỉ vẫn thò ra từ miệng cô Lina và kéo đến bàn quay đá mài, nơi chú Alfred vẫn mài lưỡi hái còn bố thì mài lưỡi rìu và dao. Emil buộc chặt sợi chỉ vào tay quay của bàn đá mài, sau đó nó chỉ cần ra tay nữa là ổn.

- Sẽ không phải là tiếng “Plupp” quá nhanh nữa, mà cái răng sẽ chỉ bị vặn ra từ từ với tiếng “Drrr” thôi, đúng ý cô nhé, - Emil nói.

Bé Ida rùng mình, cô Lina than khóc, rồi Emil bắt đầu quay tay quay. Sợi chỉ ban đầu nằm chùng dưới đất dần ngắn lại và mỗi lúc một căng dần. Sợi chỉ càng căng, cô Lina càng sợ. Nhưng cô không thể bỏ chạy.

- Sắp bắt đầu có tiếng “Drrrr” đấy, - bé Ida nói. Nhưng cô Lina đã hét lên:

- Dừng lại! Tôi không muốn!

Rồi nghĩ sao làm vậy, cô Lina nhanh như chớp móc trong túi tạp dề ra một cái kéo và cắt phăng sợi chỉ.

Sau đấy cô lại xấu hổ và buồn bã. Cô muốn thoát cái răng đau lắm chứ. Toàn bộ câu chuyện thật đáng thất vọng. Emil, chú Alfred và bé Ida nói chung không hài lòng. Emil nói:

- Cô cứ việc giữ lấy cái răng đau của cô! Cháu đã làm tất cả những gì có thể!

Nhưng cô Lina lại bảo nếu Emil muốn thử một lần duy nhất nữa thôi, thì - thề có trời đất chứng giám - nhất định cô sẽ không cho phép mình làm điều ngu ngốc nào khác nữa.

- Vì bây giờ phải nhổ cái răng đi thôi, cho dù tôi có phải chết, - cô nói. - Đưa thêm chỉ cho tôi nào!

Emil đã sẵn sàng cho cuộc thử nghiệm mới. Chú Alfred và bé Ida rạng rỡ mặt mày khi nghe Emil đồng ý.

- Dù sao cháu nghĩ làm thật nhanh vẫn là cách hay nhất, - Emil nói. - Nhưng phải làm cách nào để cô không thể lại bỏ lỡ cơ hội, dù cô có sợ đến đâu.

Và láu lỉnh như Emil vốn thế, nó lại có ngay một kế hoạch mới.

- Chúng ta sẽ đưa cô lên nóc chuồng bò, rồi cô nhảy từ trên đó xuống đống cỏ, khi cô còn đang rơi thì cái răng đã - “Plupp” - văng ra rồi!

- Plupp, - bé Ida nhắc lại và rùng mình.

Mặc dù đã hứa hẹn đủ thứ, giờ cô Lina lại cưỡng lại và không muốn lên mái nhà.

- Chỉ cậu mới nghĩ ra được những trò dã man như thế thôi, Emil ạ, - cô nói và cứ ương bướng ngồi lì trên bậc tam cấp.
Nhưng cái răng đau như điên, nên rốt cuộc cô đành thở dài não nuột đứng lên.

- Nào thì thử vậy, cho dù tôi sẽ phải chết.

Chú Alfred nhanh nhẹn bắc một cái thang lên nóc chuồng bò, rồi Emil leo lên. Tay cầm đầu sợi chỉ, Emil dắt cô Lina như dắt chó, còn cô thì ngoan ngoãn leo sau nó, cho dù cô vẫn tiếp tục rên rẩm.

Emil cầm theo một chiếc búa và một cái đinh sáu phân. Đóng xong cái đinh vào đỉnh nóc, nó buộc thật chắc sợi chỉ của cô Lina vào đấy, thế là tất cả đã sẵn sàng.

- Cô nhảy đi, - Emil giục.

Cô Lina đáng thương ngồi cưỡi trên sống nóc nhà, mắt trân trối ngó xuống dưới và than khóc đến xé lòng. Cô nhìn thấy dưới kia chú Alfred và bé Ida đang ngửa mặt lên, chờ đợi cô như một mẩu thiên thạch từ trên trời rơi xuống đống cỏ. Tiếng than khóc của cô Lina nghe càng tuyệt vọng hơn.

- Tôi không dám... quả là... tôi không dám đâu!

- Được, nếu cô cứ muốn giữ lấy cái răng đau của cô, thì tùy cô... cháu thế nào cũng xong, - Emil nói.

Thế là cô Lina khóc rống lên khiến cả làng Lônneberga đều nghe thấy. Rồi cô run rẩy đứng lên và cứ thế đứng thẳng người, sát mép ngoài đỉnh nóc. Cả người cô cứ đu đưa hết ra phía trước lại về phía sau, trông cứ như một cây tùng trong gió bão. Bé Ida vội bịt mắt lại, không dám nhìn.

- Hu hu, hu hu! - cô Lina nức nở.

Giả sử trong mồm không có một cái răng nào, thì việc nhảy từ nóc chuồng bò xuống cũng đủ đáng sợ lắm rồi, đằng này cô Lina lại biết rằng trong lúc mình nhảy cái răng sẽ văng ra với một tiếng “Plupp” kinh khủng, điều đó vượt quá sức chịu đựng của một con người.

- Nhảy đi, Lina! - chú Alfred lớn tiếng giục. - Nhảy đi nào!

Cô Lina rên lên và nhắm mắt lại.

- Cháu sẽ giúp cô, - Emil nói, ân cần như nó vốn thế. Nó chỉ việc chọc nhẹ ngón tay chỏ vào lưng cô Lina một cái là cô lập tức rú lên và rơi khỏi nóc nhà.

Người ta có nghe một tiếng “Plupp” khe khẽ, nhưng đấy là tiếng cái đinh sáu phân bật khỏi đỉnh nóc nhà.

Cô Lina nằm trên đống cỏ, cái răng đau vẫn nguyên trong mồm, còn ở đầu kia sợi chỉ lủng lẳng cái đinh sáu phân. Thế là cô nổi cáu với Emil.

- Cậu chỉ giỏi bày những trò quỷ quái và điên rồ thôi, còn khi cần nhổ răng thì rõ là đồ vô tích sự!

Cô Lina tức giận thế mà lại hay cho cô, vì trong cơn thịnh nộ cô phăm phăm đi thẳng đến chỗ lão Pelle-Răng. Lão thợ rèn dùng chiếc kìm kinh khủng của lão kẹp vào răng cô Lina và - “Plupp” - lão nhổ nó ra. Cô Lina giận dữ ném cái răng vào đống phân nhà lão, rồi quày quả bỏ về nhà.

Giờ không ai được nghĩ rằng trong lúc đó Emil chỉ biết ngồi không. Chú Alfred nằm xuống bãi cỏ dưới cây lê đánh một giấc, nên lúc này Emil không thể chơi đùa với chú được. Vì vậy nó cùng bé Ida đi vào buồng ngủ, nghĩ rằng hai đứa có thể chơi với nhau một lúc trong khi chờ bố mẹ đi lễ nhà thờ về và tiệc cà phê bắt đầu.

- Chúng mình chơi trò giả vờ anh làm ông bác sĩ ở Mariannelund, còn em là đứa bé bị ốm đến chữa bệnh đi! - Emil rủ.

Bé Ida bằng lòng ngay. Cô bé cởi quần áo ngoài, lên giường nằm, còn Emil khám họng, nghe tim phổi, y như ông bác sĩ ở Mariannelund.

- Cháu bị bệnh gì thế ạ? - bé Ida hỏi.

Emil nghĩ ngợi, rồi chợt chẩn đoán ra bệnh.

- Cháu bị bệnh thương hàn, - nó nói. - Đó là một căn bệnh kinh khủng.

Nhưng nó bỗng sực nhớ bà Krôsa-Maja bảo rằng hình như mặt người mắc bệnh thương hàn bị xanh lè ra. Vốn rất quy củ trong những việc như thế này, Emil lập tức tìm kiếm thứ gì có thể giúp nó làm cho bé Ida có đúng sắc mặt của người bệnh. Trên nóc tủ ngăn thấp có lọ mực mà mẹ Emil vẫn cần đến khi bà ghi chép những trò nghịch tinh của Emil hoặc viết những lá thư mời dự tiệc cà phê. Ngoài ra tờ giấy mà mẹ nháp thư mời vẫn còn nằm trên nóc tủ. Emil đánh vần dòng chữ “trân trọng kính mời” mà cứ thán phục sao mẹ viết giỏi và hay thế, lịch sự thế. Khác hẳn cái chú Adrian vừa thoát mù chữ, lại đi viết là “chông thấy một con ghấu”.

Bây giờ mẹ không cần bản nháp này nữa, thế nên Emil vo viên tờ giấy lại và đút vào lọ mực. Khi viên giấy đã hút đầy mực, nó bèn moi ra, kẹp giữa hai đầu ngón tay và tới gần bé Ida.

- Ida, giờ em sẽ biết thương hàn là thế nào, - Emil bảo, còn bé Ida thích thú cười khúc khích.

- Nhắm chặt mắt vào, kẻo mực rây vào mắt, - Emil ra lệnh, rồi bôi xanh lè khắp mặt bé Ida. Nhưng vốn thận trọng, nó không bôi sát vào mắt em, mà giữ nguyên màu da ở chỗ đó, thành thử nơi mắt bé Ida nổi bật hai cái lỗ tròn màu trắng to tướng. Hai cái lỗ trắng đó trên nền xanh khiến bé Ida có vẻ ngoài ốm đau đáng sợ đến nỗi Emil cũng phát hốt - trông cô bé gần giống một con khỉ ma nhỏ mà Emil từng thấy trong một bức ảnh in trong cuốn “Cuộc sống của loài vật” ở chỗ ông mục sư.
- Hú, bà Krôsa-Maja nói đúng thật, thương hàn là một căn bệnh khủng khiếp! - Emil nói.

Đúng lúc ấy bà Krôsa-Maja hấp tấp từ trong rừng ra và gặp cô Lina vừa đi nhổ răng về ở chỗ hàng rào của trang trại Katthult.
- Cô sao rồi? - bà Krôsa-Maja quan tâm hỏi. - Cái răng vẫn còn đau hở?

- Tôi biết đâu được đấy, - cô Lina nói.

- Cô không biết ư? Ý cô muốn nói gì?

- Tôi không biết, vì cái đồ nỡm ấy đang nằm trong đống phân nhà lão Pelle-Răng. Nhưng tôi mong là nó cứ nằm đấy mà chịu những cơn đau hành hạ đến phát khóc.

Cô Lina hớn hở, nãy giờ má cô đã bớt sưng nhiều. Cô đi đến gốc cây lê để khoe chú Alfred chỗ răng hổng. Còn bà Krôsa-Maja tiếp tục đi vào bếp để sửa soạn cho bữa tiệc cà phê. Bà nghe tiếng bọn trẻ trong buồng ngủ và rất muốn ghé vào chào cô bé Ida mà bà yêu quý.

Nhưng khi trông thấy đứa bé yêu quý nằm trên giường với bộ mặt xanh lè dễ sợ nổi bật trên chiếc gối trắng tinh thì bà la toáng lên:

- Ối trời đất ơi...

- Thương hàn đấy ạ, - Emil khẽ cười nói.

Đúng lúc đó có tiếng bánh xe lăn lọc cọc ngoài đường. Đó là mọi người từ lễ nhà thờ về: bố Emil, mẹ Emil và cả đám khách mời, dẫn đầu là ông mục sư. Sau khi tháo bỏ yên cương ở chuồng ngựa, họ kéo nhau lên nhà trên trong lòng hoan hỉ vì sắp được uống cà phê. Nhưng bà Krôsa-Maja đứng trên bậc tam cấp mà gào với giọng chói tai:

- Đi khỏi đây! Đi khỏi đây ngay! Trang trại này có dịch thương hàn!

Tất cả mọi người giật mình, sửng sốt và sợ hãi dừng lại. Nhưng mẹ Emil hỏi:

- Bà nói gì thế? Ai bị thương hàn ở đây?

Đột nhiên bé Ida xuất hiện sau lưng bà Krôsa-Maja trong chiếc áo ngủ, mặt bôi mực xanh lè với hai hốc mắt màu trắng.

- Con ạ, - Ida nói và khúc khích cười thích thú.

Tất cả phá lên cười, tất cả - trừ bố Emil. Ông quát to, đai giọng:

- Thằng Emil đâu rồi?

Nhưng Emil đã biến mất. Suốt tiệc cà phê nó không hề ló mặt ra.

Sau khi tiệc tàn, ông mục sư vào bếp để an ủi bà Krôsa-Maja lúc bấy giờ đang ngồi đó, vừa tức giận vừa buồn thỉu buồn thiu vì hóa ra không phải dịch thương hàn thật. Khi ông mục sư đã an ủi xong thì xảy ra một chuyện lạ: ánh mắt ông vô tình bắt gặp chồng thư của Emil nằm vạ vật trên một cái ghế.

Ông mục sư reo lên một tiếng hoan hỉ và cầm vội bức thư chú Adrian gửi từ Mỹ về.

- Không, không lẽ nào chính các con lại đang có con tem mà cha bấy lâu nay đã nhọc công tìm kiếm!
Chẳng là ông mục sư sưu tầm tem nên biết giá trị của những con tem hiếm. Lúc này ông không chút đắn đo trả ngay con tem dán trên bì thư của chú Adrian bốn mươi đồng.

Khi nghe đến con số đó, bố Emil nghẹn cả thở. Thử tưởng tượng có người lại muốn trả cho cái mẩu giấy rách bé tí tẹo ấy những bốn mươi đồng! Bố lắc đầu như thể bất bình. Phải, tất nhiên thằng bé Emil lại gặp may! Giờ đây rõ ràng cái hộp nhung cũ cũng lại là một vụ làm ăn thành công, thậm chí thành công nhất trong các vụ làm ăn mà Emil đã làm ở phiên đấu giá!

- Với bốn mươi đồng thì tôi đã có thể mua được nửa con bò đấy, thưa cha, - bố Emil nói, hơi có ý trách móc ông mục sư.

Đến nước này thì Emil không thể trốn mãi trong cái hòm gỗ được nữa. Nó nhấc nắp hòm lên và tò mò thò đầu ra.

- Nếu bố mua một nửa con bò, - nó lên tiếng, - thì bố sẽ mua nửa trước biết kêu ò ò, hay nửa sau có cái đuôi ve vẩy, hả bố?
- Xuống xưởng mộc ngay, Emil! - Bố đáp.

Thế là Emil đi. Nhưng trước đó nó còn nhận từ tay ông mục sư bốn tờ bạc mười đồng đẹp đẽ. Hôm sau Emil cưỡi ngựa đến trang trại Backhorva để trao lại bức thư của chú Adrian và đưa thêm cho gia đình họ một nửa số tiền. Sau đó nó cưỡi ngựa ra về trong tiếng chúc phúc của chủ nhà và bắt đầu bận rộn với những trò nghịch ngợm mới.

- Con nghĩ là con nên đi thăm thêm vài phiên đấu giá nữa, - Emil nói với bố khi về đến nhà. - Bố cũng nghĩ thế chứ?

Bố nó làu bàu gì đó đáp lại, nhưng không ai hiểu ông nói gì.

Nhưng như đã kể, suốt tối Chủ nhật - sau tiệc cà phê - Emil ngồi trong xưởng mộc đẽo hình nhân thứ một trăm ba mươi của nó và sực nhớ hôm nay là Chủ nhật. Vào ngày này người ta không được dùng dao để cắt, đấy sẽ là một tội lỗi khủng khiếp. Hình như người ta cũng không được nhổ răng hay bôi xanh mặt người khác. Emil đặt con hình nhân lên giá gỗ, cạnh các hình nhân khác.

Nó cứ thế ngồi trên cái thớt gỗ lớn trong khi bên ngoài cửa sổ xưởng mộc màn đêm đang buông xuống, và suy nghĩ về những tội lỗi của mình. Cuối cùng Emil chắp hai tay lại và cầu nguyện:

“Lạy Chúa kính yêu, Chúa hãy phù hộ để cháu thôi nghịch! Hân hạnh kính mời Emil Svensson – Katthult – Lônneberga.”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 13-9-2011 16:50:34 | Chỉ xem của tác giả
Thứ Ba, ngày mồng 10 tháng Tám,
ngày Emil bỏ con ếch vào giỏ đồ ăn và sau đó gây chuyện kinh khủng đến nỗi hầu như không ai muốn nhắc chuyện đó nữa


Thật ra bố Emil có thể khiến người khác hơi thương hại một chút. Trong khi thằng con hết thành công từ vụ làm ăn điên rồ này đến vụ làm ăn điên rồ khác thì ông bố lại phải trở về nhà từ phiên đấu giá với độc một lèo mười một chú lợn con – điều mà không ai ngờ – rồi cắn chết luôn mười con. Thỉnh thoảng vẫn có những con lợn nái cắn chết con mình như thế. Chú lợn con thứ mười một lẽ ra cũng đã về chầu trời, nếu Emil không ra tay cứu kịp. Chẳng là đang nửa đêm thì Emil bị đau bụng nên phải ra sau nhà. Khi đi ngang chuồng lợn, nó nghe tiếng một con lợn con kêu cứu. Emil mở toang cửa chuồng và xộc vào đúng vào giây cuối cùng, và cũng trong chính giây cuối cùng ấy, nó giật con lợn con từ con lợn mẹ hung ác. Phải, đó đúng là một con lợn nái độc ác, nhưng liền đó con lợn này mắc một căn bệnh lạ và ba ngày sau thì chết. Thế là bố Emil, ông bố tội nghiệp, còn trơ lại một chú lợn con đáng thương duy nhất. Đó là tất cả những gì ông còn giữ lại được từ phiên đấu giá ở Backhorva! Thế nên không có gì lạ khi thấy ông ủ dột.

- Ở trang trại Backhorva mọi con vật đều thảm hại và quặt quẹo, – buổi tối trước khi đi ngủ bố bảo mẹ. – Có một lời nguyền nào đấy ám vào gia súc của họ, có thể thấy rất rõ điều đó.

Emil nằm trên chiếc giường kê ở cuối phòng nghe thấy, lập tức thò đầu ra khỏi mép giường.

- Con có thể nhận nuôi con lợn, – nó nói. – Con không quan tâm đến chuyện nó bị nguyền rủa.

Nhưng bố không muốn nghe.

- Lúc nào con cũng muốn có hết thứ này đến thứ khác, – ông chua chát nói. – Thế còn bố? Bố không bao giờ có một thứ gì à?

Thế là Emil im lặng và khá lâu sau không nhắc chuyện con lợn nữa. Mà con lợn này đúng là quặt quẹo khác thường. Nó gày gò, xanh rớt và chẳng có mấy sức sống. Chắc chắn lời nguyền đã cướp đi sức lực của nó, Emil nghĩ vậy và thấy thật kinh khủng khi có kẻ nỡ đang tâm làm hại một chú lợn con vốn chưa bao giờ làm điều ác cho ai như thế.

Mẹ cũng nghĩ như Emil.

- Đứa trẻ đáng thương, – mẹ nói.

Cô Lina quý các con vật, đặc biệt là chú lợn con này.

- Nhóc Lợn đáng thương, – cô nói. – Chắc nó sắp chết đến nơi.

Và lẽ ra nó đã chết chắc, nếu như Emil không bế nó vào bếp và lấy một chiếc chăn mềm lót ổ cho nó trong một cái giỏ. Emil cho con lợn bú sữa bình và chăm sóc nó hệt một người mẹ.

Chú Alfred vào bếp, thấy Emil đang cố đút cho con vật nhỏ bé ăn, liền hỏi:

- Con lợn làm sao vậy?

- Nó bị nguyền rủa và chẳng chịu ăn, – Emil đáp.

- Ra vậy, nhưng tại sao nó cau có thế? – Chú Alfred lại hỏi.

Emil bèn giải thích rằng con lợn nhỏ không cau có mà chỉ yếu ơt và khốn khổ, vì một lời nguyền đã ám vào nó.

- Nhưng cháu sẽ chiến thắng lời nguyền đó, – nó khẳng định. – Cháu sẽ giữ con lợn này sống bằng được, cháu quyết thế rồi.

Và đúng là Emil làm được thật! Chẳng bao lâu sau con lợn trở nên tươi tỉnh, dễ thương, tròn trĩnh và hồng hào, đúng như những chú lợn con cần phải thế.

- Tôi thật sự tin rằng Nhóc Lợn nhà ta đã thoát chết, – cô Lina nói. Cô gọi nó là “Nhóc Lợn”, và chừng nào còn sống con lợn vẫn giữ cái tên đấy.

- Phải, đúng là cu cậu đã thoát chết, – bố Emil nói. – Con đã làm tốt lắm, Emil!

Emil rất vui khi được bố khen. Nó thận trọng nói:

- Con phải cứu sống con lợn mấy lần nữa thì mới có được nó, hả bố?

Nhưng bố chỉ “hừm” một tiếng và sa sầm nét mặt, khiến Emil im bặt và khá lâu sau không dám nhắc chuyện chú lợn con nữa. Bây giờ Nhóc Lợn phải quay về chuồng, nhưng nó không thích ở đó lắm. Nó chỉ thích nhất là được lẽo đẽo theo chân Emil như một con cún và Emil cũng để nó chạy rông hầu như suốt cả ngày.

- Nhất định nó tưởng anh là mẹ nó, – bé Ida nói. Mà có lẽ nó tưởng thế thật, vì hễ Nhóc Lợn nhìn thấy Emil là nó reo lên eng éc và chạy theo Emil. Nhóc Lợn thích quấn quít bên Emil và khoái nhất là được Emil gãi lưng, gì chứ việc này thì Emil làm không biết mệt.

- Anh rất mát tay gãi lưng cho lợn, – Emil bảo bé Ida. Nó ngồi trên ghế xích đu dưới cây anh đào và gãi lưng cho Nhóc Lợn vừa lâu vừa kỹ, còn Nhóc Lợn vừa đứng lim dim mắt và kêu lên khe khẽ để thể hiện sự khoan khoái của mình.

Những ngày hè đến rồi đi, những trái anh đào dần chín trên đầu. Nhóc Lợn đang đứng cho Emil gãi lưng. Chốc chốc Emil lại hái một vốc cây anh đào và cho Nhóc Lợn ăn, vì Nhóc Lợn rất thích anh đào. Và thích Emil. Phải, mỗi lúc nó càng thấm thía cuộc đời của một con lợn mới tuyệt làm sao, nếu may mắn được số phận run rủi đến một nơi có cậu chủ như Emil.

Emil càng ngày càng quý Nhóc Lợn. Một hôm đang ngồi trên xích đu gãi lưng cho Nhóc Lợn, Emil bỗng nghĩ xem nó yêu quý Nhóc Lợn đến mức nào và ngoài ra nó còn yêu quý những ai nữa.

Đầu tiên là chú Alfred, Emil nghĩ, rồi đến con Lukas, rồi đến bé Ida, liền sau đó là Nhóc Lợn….. nhưng, ồ – mình quên mất mẹ! Tất nhiên là mẹ…..rồi đến chú Alfred, con Lukas, bé Ida và Nhóc Lợn.

Emil nhướn cao lông mày, suy nghĩ rất lung.

Rồi sau đấy còn có bố và cô Lina, nó nghĩ. Ồ phải, có những ngày mình yêu bố, nhưng có những ngày lại không. Còn cô Lina – mình chẳng biết mình có quý cô ấy không nữa………….. cô ấy có thể chạy đua với mình như con mèo chẳng hạn.

Tất nhiên dường như không ngày nào là Emil không bày trò nghịch ngợm và nó cũng chăm chỉ giam mình trong xưởng mộc – các cuốn vở màu xanh ghi chép thời ấy cho thấy như vậy. Nhưng lúc này đang giữa vụ gặt nên mẹ Emil quá bận rộn, thi thoảng chỉ ghi vội mấy chữ “Emil trong xưởng mộc” mà không kể rõ lý do.

Bây giờ lần nào phải xuống xưởng mộc Emil cũng mang theo Nhóc Lợn, vì thời gian sẽ trôi nhanh hơn khi có con lợn nhỏ yêu quý ở bên. Emil không thể lúc nào cũng đẽo hình nhân bằng gỗ. Thay vào đó, Emil dạy cho Nhóc Lợn đủ thứ trò mà hẳn có nằm mơ cũng không một ai trong khắp làng Lönneberga này tin nổi một con lơn bình thường ở Smăland lại có thể học được. Emil giữ bí mật tuyệt đối khi làm việc này, còn Nhóc Lợn thì rất dễ dạy và hài lòng với mọi việc,đặc biệt là hễ học xong một trò mới, thế nào nó cũng được Emil thưởng cho một món ăn khoái khẩu. Chẳng là Emil có một kho dự trữ gồm bánh mỳ sấy, bánh quy, anh đào khô và rất nhiều món khác ăn được cất trong một cái hộp sắt bí mật giấu sau bàn bào trong xưởng mộc. Vì Emil không bao giờ biết khi nào mình lại bị nhốt vào đây và không muốn mình phải chịu đói một cách không cần thiết.

- Chỉ một chút tinh khôn và một ít anh đào kho là có thể dạy cho con lợn gần như mọi thứ, – Emil tuyên bố với chú Alfred và bé Ida vào một tối thứ Bảy nọ, khi nó trình diễn cho họ xem những tiết mục bí mật của Nhóc Lợn mà cho tới nay chưa có ai làm được. Việc này diễn ra trong bụi tử đinh hương và đó là một khoảnh khắc vĩ đại đối với cả hai, với Emil và với cả Nhóc Lợn. Chú Alfred và bé Ida ngồi trên chiếc ghế băng và cứ trợn tròn mắt vì ngạc nhiên trước những khả năng không ngờ của Nhóc Lợn. Một con lợn như nó không thể có đến lần thứ hai. Nhóc Lợn có thể ngồi ngoan ngoãn như một con chó khi Emil ra lệnh: “Nằm chết nào!” Nó còn giơ cả chân trước bên phải lên cảm ơn sau khi được thưởng anh đào khô.

Bé Ida thích chí vỗ tay.

- Nó còn biết trò gì nữa không ạ? – Cô bé háo hức hỏi.

Thế là Emil lệnh: “Phi nước đại!” Chưa dứt lời. Nhóc Lợn đã cắm cổ chạy theo hình vòng tròn trong bụi tử đinh hương. Và khi Emil cứ chốc chốc lại hô: “Nhảy!” là Nhóc Lợn lập tức co cẳng nhảy tưng lên trong không trung, sau đó lại co cẳng chạy tiếp, xem ra rất hài lòng với bản thân.

- Ôi nó mới đáng yêu làm sao! – Bé Ida thốt lên. Mà quả thật Nhóc Lợn rất đáng yêu khi nó nhảy tưng lên giữa đám cây.

- Suy cho cùng một con lợn làm được như thế là phi tự nhiên, – chú Alfred nói.

Nhưng Emil rất tự hào vào sung sướng. Khắp làng Lönneberga và cả vùng Smăland này làm gì có con lợn nào như nó, chắc chắn là như vậy.

Dần dần Emil còn dạy Nhóc Lợn nhảy dây nữa. Bạn đã thấy một con lợn nhảy dây bao giờ chưa? Chưa, bạn chưa thấy, và bố Emil cũng chưa. Nhưng một ngày nọ, khi đi xuống chuồng lợn, bố Emil bắt gặp Emil và bé Ida đang đứng cầm hai đầu của sợi dây cương ngựa cũ và quay đều. Nhóc Lợn ở giữa nhảy tưng tưng qua dây, mỗi khi sợi dây hạ xuống. Nhóc Lợn nhảy hăng đến nỗi cát tung lên quanh những cái móng của nó.

- Nhảy dây khiến nó rất thú vị, – bé Ida nói, nhưng bố không cần đâu.

- Lơn không cần vui, – bố nói. – Chúng cần trở thành món đùi lợn muối cho Giáng sinh. Nhưng cứ nhảy như thế này thì nó sẽ gày như một con chó săn và bố không muốn thế.

Lời bố nói như dao cứa vào lòng Emil. Món đùi lợn muối làm từ Nhóc Lợn ư –chưa bao giờ Emil nghĩ đến chuyện đấy!

Nhưng bây giờ thì nó nghĩ. Và nó tự hỏi phải chăng đây là những ngày mà nó cảm thấy không yêu bố lắm.

Đó là ngày thứ Ba, mồng 10 tháng Tám    , ngày mà Emil không yêu bố lắm. Đó là buổi sáng sớm của một ngày hè nắng ấm, khi Nhóc Lợn con nhảy dây trước chuồng và bố Emil nói đến món đùi lợn muối Giáng sinh. Sau đó bố biến mất, vì hôm nay trang trại Katthult bắt đầu thu hoạch lúa mạch đen, và bố sẽ phải ở ngoài ruộng lúa mạch đến tối mịt.

- Nhóc Lợn ơi, điều tốt nhất mà mày có thể làm là hãy gày gò như một con chó săn, như thế may ra mày sẽ thoát, – Emil nói khi bố nó đã bỏ đi, – nếu không thì ….. mày không biết bố tao đâu.

Suốt ngày Emil cứ quanh quẩn và lo lắng cho Nhóc Lợn của nó, thành thử nó chỉ bày một vài trò nghịch ngợm nho nhỏ hầu như không ai nhận thấy. Nó đặt bé Ida vào một cái cái máng cũ vốn đựng nước cho bò và ngựa, chơi trò giả vờ đó là một con thuyền trên biển. Sau đó nó bơm nước đầy máng, giả vờ thuyền bị thủng và đang trong cơn nguy nan vì bị ngập nước. Bé Ida ướt sũng từ đầu đến chân và thấy trò này rất vui. Sau đó Emil dùng cung tên bắn vào liễn kem tươi mà mẹ đặt trên bậu cửa sổ kho thực phẩm để làm mát. Nó chỉ xem xem liệu mình có bắn trúng được không, chứ đâu ngờ cái liễn sẽ bị vỡ, nhưng cái liễn lại vỡ toang. Thế là Emil lấy làm mừng vì bố đang ở tít ngoài ruộng lúa mạch. Mẹ chỉ bắt nó ngồi một lúc trong trong xưởng mộc, phần vì mẹ thương nó, phần vì mẹ cần nó mang giúp cà phê cho những người đang thu hoạch ngoài đồng. Trước kia dân làng Lönneberga và dân vùng Smăland thích uống cà phê khi đang làm đồng và ở trang trại nào cũng vậy, bao giờ cũng là đám trẻ con mang cà phê ra đồng.

Quả thật chúng là những tiếp phẩm viên xinh đẹp và dễ thương, những đứa trẻ ở Smăland này, khi chúng xách những chiếc giỏ đi xuyên rừng, qua các cánh đồng cỏ, đi trên những con đường mong ngoằn ngoèo kết thúc ở một thửa ruộng khô cằn sỏi đá chất đống mà mới nhìn đã đủ phát khóc. Tất nhiên lũ trẻ ở Smăland không khóc, vì xen giữa đám sỏi đã mọc lên những trái dâu rừng, mà dâu rừng thì chúng rất thích.

Ngày hôm đó Emil và bé Ida được cử mang cà phê ra đồng. Hai anh em lên đường từ sớm, cùng cẩn thận khiêng  cái giỏ và đi khá nhanh. Nhưng Emil có thói không bao giờ thích đi đường thẳng mà cứ tìm những con đường ngoằn ngoèo dẫn đến những nơi mà nó có cái để ngó nghiêng. Mà Emil đã đi đâu thì bé Ida theo đó. Hôm nay Emil chọn con đường dẫn xuống đầm lầy. Ở đó rất sẵn ếch và quả nhiên nó đã bắt được một con. Emil rất muốn quan sát con ếch kỹ hơn, ngoài ra nó nghĩ biết đâu con ếch muốn thay đổi không khí một chút thay vì suốt ngày phải ngồi trong đầm lầy. Thế là nó bỏ con ếch vào trong giỏ cà phê và đóng nắp giỏ lại. Bây giờ con ếch đã được an toàn.

- Anh còn biết nó bò vào đâu được nữa? – Emil nói khi bé Ida hỏi liệu bỏ con ếch vào giỏ đồ ăn như thế có tốt hay không. – Hai túi quần anh đều bị thủng. Hơn nữa anh cũng chỉ giữ nó một lúc thôi. Chốc nữa nó lại có thể trở về đầm lầy được rồi.
Emil đúng là một thằng bé biết lẽ phải.

Trên ruộng lúa mạch đen, bố và chú Alfred đang gặt bằng lưỡi hái, cô Lina và bà Krösa–Maja theo sau, lượm lúa bó thành bó. Ngày trước người ta vẫn làm như thế đấy.

Khi Emil và bé Ida cuối cùng cũng xuất hiện, chúng không được bố chào đón như những tiếp phẩm viên xinh đep dễ thương mà chúng còn bị ăn mắng vì đến muộn. Đã đến giờ uống cà phê mà cà phê phải có mặt đúng giờ đến từng phút.

- Vâng, nhưng bây giờ chúng ta làm một ngụm cũng hay, – chú Alfred nói với dụng ý tốt, muốn đánh lạc hướng bố Emil.
Và nếu bạn đã từng có mặt quanh ấm cà phê trên cánh đồng ở vùng Smăland vào một ngày ấm áp tháng Tám, thì bạn biết cái cảm giác sung sướng khi được ngồi quây quần bên một đống sỏi đá chan hòa ánh mặt trời mà trò chuyện, nhâm nhi tách cà phê, ăn bánh mỳ bơ và thư giãn. Nhưng bố Emil vẫn còn đang bực mình và không bớt bực mình khi ông giằng lấy cái giỏ và mở nắp ra. Là vì con ếch nhảy trúng vào người ông, chui tọt vào bên trong lần áo mà ông đã phanh khuy ngực ra vì nóng bức. Những bàn chân nhỏ của con ếch lạnh ngắt khiến bố Emil thấy ghê tởm. Ông khua tay loạn để đẩy nó đi, nhưng không may lại gạt trúng ấm cà phê khiến ấm cà phê lật nhào. Nhưng Emil đã rất nhanh tay dựng cái ấm dậy, thành thử chỉ bị đổ một ít. Không thấy con ếch đâu nữa. Quá sợ hãi, con ếch đã rúc xuống dưới quần bố Emil, và khi nhận thấy thế, bố Emil như hóa dại. Bố nhảy dựng lên, chân đá tứ tung để rũ bỏ con ếch khỏi ống quần, nhưng đáng tiếc ấm cà phê lại một lần nữa vướng cẳng bố. Một cú đá, thế là cái ấm lại lật nhào, nếu không có Emil nhanh tay dựng cái ấm, thì hẳn họ đã có một giờ uống cà phê không có cà phê rồi, mà như thế thì buồn phải biết.

Quả là con ếch không thích cứ ở mãi một chỗ. Nó tụt ra khỏi ông quần bố và Emil bắt lấy nó. Nhưng bố Emil vẫn còn tức giận. Bố cứ nghĩ con ếch là một trong những trò nghịch ngợm thường xuyên của Emil, nhưng thật ra đâu phải thế. Emil nghĩ cô Lina sẽ là người mở nắp giỏ và cô sẽ vui sướng khi trông thấy trong giỏ có một chú ếch nhỏ đáng yêu. Tôi nhắc tất cả điều này là để bạn hiểu rằng cuộc sống với Emil không phải lúc nào cũng dễ dàng, và đôi khi nó phải chịu tội cho những trò nghịch vốn không phải là trò nghịch. Mà bố Emil nghĩ sao chứ, liệu Emil có thể bỏ con ếch vào đâu được đây, khi mà cả hai túi quần của nó đầy những lỗ thủng?

Cô Lina vẫn hay luôn mồm nhận xét về Emil: “Nó lúc nào cũng chỉ bầy trò quậy phá, cái thằng nhóc này! Thật tôi chưa từng thấy thằng quỷ con nào như nó. Mà giả sử không phải chính nó bày trò, thì cũng vẫn có đủ chuyện không hay xảy ra với nó!”
“Vẫn có đủ chuyện không hay xảy ra với nó,” cô Lina đã nói những lời chí lý! Những lời này được chứng thực qua sự việc sẽ còn xảy ra trong ngày hôm ấy.

Người ta hầu như không thể kể về việc đã xảy ra với Emil. Việc này tệ hại tới mức cả làng Lönneberga mãi sau này hễ nhớ lại vẫn còn thở dài và ca thán. Mà tất cả đã xảy ra chỉ vì mẹ Emil là một bà nội trợ quá đảm đang mà đúng năm nay trang trại Katthult lại bội thu anh đào. Thế thì Emil đâu có lỗi về tất cả chuyện đó, không, nó không có lỗi, ấy vậy mà chuyện vẫn cứ xảy ra.

Mẹ Emil vô địch về các khoản muối ô mai, làm nước quả, nấu mứt và sấy khô bảo quản tất cả những gì kiếm được trong rừng hoặc mọc trong vườn nhà. Mẹ hái về nào quả việt quất đỏ, việt quất tím, rồi phúc bồn tử, càng nhiều càng tốt. Mẹ làm món táo nấu nhừ, lê tẩm gừng, rồi thạch phúc bồn tử, mứt dâu, nước anh đào, và lo trữ các loại quả khô cho các món súp rau quả ngon lành mà mẹ sẽ nấu trong suốt mùa đông. Trong lò lớn trong bếp mẹ sấy táo, lê và anh đào, rồi để chúng vào những cái bao bằng vải gai trắng, sau đó sẽ treo những bao quả khô này dưới trần kho trữ thực phẩm. Phải, được thấy kho trữ thực phẩm của mẹ là cả một niềm vui.

Đang giữa mùa thu hoạch anh đào thì bà Petrell sang trọng từ thị trấn Vimmerby đến thăm trang trại Katthult và mẹ Emil có ca cẩm một chút với bà về quá ư nhiều anh đào chín đến nỗi mẹ sắp không biết phải làm gì với chúng.

- Cô nên làm rượu vang anh đào đi, – bà Petrell khuyên.

- Không, Chúa che chở để tôi không làm việc đó, – mẹ Emil nói.

Mẹ không muốn nghe về rượu vang anh đào. Trang trại Katthult là một chốn không rượu chè. Bố Emil không bao giờ nhấp môi những đồ uống nồng hơi men, thậm chí cả bia cũng không. Tuy nhiên, nếu ở các phiên chợ hoặc đâu đó có ai mời thì bố khó lòng từ chối. Bố biết làm sao được nếu có ai mời bố uống bia, một hoặc hai chai gì đó! Bố có thể nhẩm tính rất nhanh là hai chai bia giá những ba mươi xu. Chỉ còn mỗi cách là uống cho dù có thích hay không. Nhưng rượu vang anh đào thì bố sẽ không đời nào đụng đến. Mẹ biết rõ và cũng bảo với bà Petrell như thế. Nhưng bà Petrell cứ cho rằng ở trang trại Katthult không ai uống rượu vang đi nữa, thì vẫn còn những người khác không phản đối một li vang nhỏ. Bản thân bà ta cũng vô cùng muốn có vài chai vang anh đào, vậy tại sao mẹ Emil lại không lặng lẽ ủ anh đào trong một cái vò lớn để lên men và cất cài vò đó tại một góc khuất dưới hầm để khoai tây nhỉ! Qua thời gian ủ men, bà Petrell sẽ đến để lấy rượu vang và trả tiền hậu hĩnh, bà ta nói.

Mẹ Emil luôn khó lòng nói lời từ chối, một khi có ai đề nghị mẹ việc gì. Thêm nữa, như đã nói, mẹ là một phụ nữ rất đảm đang, không nỡ để lãng phí bất cứ thứ gì. Anh đào khô thì mẹ đã trữ thừa mức cần thiết rồi. Đột nhiên, chính mẹ cũng không thật hiểu tại sao, mẹ hứa với bà Petrell là sẽ làm rượun vang cho bà ta. Nhưng mẹ Emil không phải là người thích giữ bí mật, bèn kể lại với bố Emil. Thoạt tiên bố cũng càu nhàu, nhưng cuối cùng lại bảo:

- Thôi nếu thích thì mình cứ làm! Nhưng mà bà ta bảo sao, bà ta định trả mình bao nhiêu tiền.

Bà Petrell không nói rõ là bao nhiêu. Nhưng lúc này, sau khi vò vang anh đào của bà ta đã đứng nhiều tuần dưới hầm khoai tây và lên men, thì đúng vào ngày tháng Tám này mẹ Emil cho rằng rượu vang đã ngấu. Đã đến lúc rót vào chai. Mẹ nghĩ tranh thủ lúc bố đang thu hoạch lúa ngoài đồng mà làm việc này là thích hợp. Như vậy sẽ khuất mắt bố, và bố sẽ không cần phải cảm thấy mình có tội và sa đọa khi để rượu vang trong nhà.

Chẳng mấy chỗc mẹ đã rót được mười hai chai vang, xếp thành dãy ngay ngắn trên bàn bếp. Mẹ định cho chúng vào một cái giỏ rồi đem xuống cất vào góc hầm khoai tây, để không ai phải bực mình khi trông thấy nó, và bà Petrell có thể đến lấy bất kỳ lúc nào bà ta muốn.

Những quả anh đào đã thành bã sau khi lên men tiết ra rượu được bỏ trong một cái xô đặt trước cửa bếp, khi Emil cùng bé Ida xách giỏ từ cánh đồng lúa mạch quay về.

- Emil, con hãy đem cái xô anh đào này vùi vào đống rác hộ mẹ, – mẹ Emil sai.

Vốn nghe lời, Emil ngoan ngoãn đi liền. Đống rác nằm ngay phía sau chuồng lợn, còn Nhóc Lợn thì đang chạy loăng quăng trong chuồng. Thấy Emil, nó lập tức kêu lên eng éc. Emil cần hiểu rằng nó cần ra khỏi đây để quanh quẩn bên Emil.

- Được thôi, nếu mày muốn ra ngoài….– Emil nói và đặt cái xô xuống đất. Emil vừa mở cánh cửa chuồng ra thi Nhóc Lợn đã ủn ỉn xông ra, sục ngay mõm vào cái xô, vì tưởng Emil đem thức ăn đến cho mình. Mãi tận lúc này Emil mới suy nghĩ lời mẹ dặn là nó cần phải vùi chỗ anh đào này vào đống rác. Lạ thật đấy chứ, bình thường ở trang trại Katthult người ta không bao giờ vùi vào đống rác thứ gì ăn được cả. Trong khi chỗ anh đào này rõ ràng là rất ngon. Nhóc Lợn đã kịp chén một ít rồi. Emil cho rằng sở dĩ mẹ muốn vùi chỗ anh đào này vào đống rác là vị mẹ không muốn bố trông thấy chúng khi bố trông thấy chúng khi bố từ ngoài đồng về.

Nhưng nếu thế thì để Nhóc Lợn chén cũng được chứ sao, Emil nghĩ. Vì Nhóc Lợn rất mê anh đào!

Có vẻ Nhóc Lợn đặc biệt thích những trái anh đào này. Nó vừa sung sướng kêu ụt ịt vừa sục lấy sục để trong cái xô khiến mồm nó đỏ loe cả nước anh đào. Để giúp con lợn ăn dễ dàng hơn, Emil bèn đổ anh đào ra đất. Thế là con gà trống chạy tới tham gia phá cỗ. Nhóc Lợn có giận dữ lườm cho một cái thật ghê, nhưng vẫn để con gà trống thả sức mổ anh đào. Nhưng rồi lũ gà mái cũng kéo đến, dẫn đầu là con Lotta Què, chúng muốn xem gà trống vừa kiếm được miếng mồi gì mà ngon thế. Nhưng chúng chẳng hòng xơ múi gì, vì vừa chúc mỏ xuống chúng đã bị Nhóc Lợn và gà trống xua đuổi không chút xót thương. Có thể nhận thấy là anh đào rất ngon, nên cả con gà trống và Nhóc Lợn chỉ muốn giữ cho riêng mình.

Emil ngồi ngay bên cạnh, trên đít cái xô úp sấp. Nó đang thổi một cọng cỏ và chả nghĩ ngợi gì. Chợt nó sửng sốt thấy con gà trống lăn quay ra đất. Con gà thậm chí nhiều lần thử gượng đứng dậy, nhưng không xong. Hễ cứ gần đứng lên được thì nó lại ngã chúi xuống đất, cuối cùng nằm im thin thít. Lũ gà mãi lúc này bị xua đổi bu thành một đám cạnh đó, nhìn con gà trống đang làm gì lạ quá, rồi kêu lên cùng cục đầy lo lắng. Điều đó chọc tức con gà trống đang nằm dưới đất, khiến nó trợn mắt giận dữ nhìn lại. Chẳng lẽ nó không có quyền nằm và lảo đảo ở mọi nơi nó muốn và theo cách nó thích hay sao?

Emil không hiểu con gà trống bị làm sao, nhưng thấy thương nó, bèn chạy lại đỡ nó đứng dậy. Con gà trống đứng một chốc, cứ đảo người sang hai bên như thể xem xem hai chân nó có đứng vững được không. Nhưng rồi như thể nó đã hóa ngộ, bỗng hăng tiết cất tiếng gáy và vừa đập cánh phành phạch vừa xông thẳng vào đám gà mái. Thế là lũ gà mái cuống cuồng tìm cách chạy thoát thân vì chúng thấy rõ anh gà trống của chúng đã phát điên. Emil trông thấy hết và mải bối rối theo dõi hành vi hung hãn của con gà trống đến nỗi quên biến Nhóc Lợn. Nhân đang nói chuyện phát điên – nếu ở đây có kẻ nào bỗng hóa dại thì đó chính là Nhóc Lợn. Nhóc Lợn cũng muốn góp mặt vào cuộc truy đuổi những con gà mái nên lúc này vừa kêu eng éc đến chói cả tai vừa nhảy chồm chồm theo sau con gà trống. Mỗi lúc Emil lại càng thêm ngạc nhiên, no chẳng hiểu gì cả. Nhóc Lợn kêu to và dữ tợn trong lúc chạy hùng hục, trông cứ như là thích thú lắm. Có điều chân cẳng nó có điều gì đó không ổn, Emil nhận thấy thế. Chúng cứ xiêu xiêu vẹo vẹo như đứng không vững. Và chắc chắn Nhóc Lợn cũng đã ngã quay lơ, nếu như mỗi lần suýt đổ xuống nó không nhảy cẫng lên như Emil đã dạy nó. Những cú nhảy giúp nó lấy lại thăng bằng.

Những con gà mái thật đáng thương. Chúng chưa từng chứng kiến một con lợn cư xử như vậy bao giờ, thế là chúng co cẳng chạy trối chết. Những tiếng kêu quang quác của chúng nghe sao thảm thiết. Lũ gà mái khốn khổ! Anh chàng gà trống của chúng hóa dại chưa đủ tệ hay sao, mà còn thêm con lợn điên mắt cứ trợn trừng trợn trạo nhảy những bước dài đuổi theo chúng. Thật quá sức chịu đựng.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 13-9-2011 16:51:46 | Chỉ xem của tác giả

Phải, đúng là quá sức chịu đựng! Người ta có thể chết vì sợ hãi, Emil biết thế, và nó bỗng nhìn thấy các con gà mái lần lượt ngã lăn ra và nằm im bất động. Trên cỏ la liệt xác gà, chúng nằm đó im lìm và trắng toát – một cảnh tượng rùng rợn. Emil tuyệt vọng và bật khóc. Mẹ sẽ nói gì khi trông thấy đàn gà mái của mẹ ra nông nỗi này? Lotta Què, con mái yêu của Emil cũng nằm đó, một đống lù lù màu trắng chết chóc. Vừa khóc, Emil vừa bế nó lên. Lotta Què tội nghiệp, thế là hết đời nó, cũng hết luôn bao nhiêu quả trứng tròn của nó! Emil chỉ còn mỗi một việc phải làm: ấy là tiến hành càng nhanh càng tốt một đám tang trọng thể cho Lotta Què. Emil hình dung trên bia mộ của con gà sẽ phải có dòng chữ: “Nơi đây yên nghỉ Lotta Què. Đã tạ thế vì quá khiếp sợ Nhóc Lợn”.

Emil thật sự bất bình với Nhóc Lợn và muốn nhốt nó lại vào chuồng, không bao giờ thả ra nữa. Nhưng trong khi đó Lotta Què phải nằm tạm trong kho củi đã. Emil cẩn thận bế xác con gà trên hai tay và đặt nó xuống cái thớt gỗ lớn. Bây giờ nó có thể nghỉ ngơi đợi giờ an táng con Lotta Què đáng thương!

Từ xưởng mộc đi ra Emil nhìn thấy con gà trống và Nhóc Lợn đã kéo nhau quay lại chỗ anh đào. Những gã trai mới quân tử gớm! Đầu tiên là đuổi lũ gà mái đến chết, rồi lại thản nhiên tiếp tục đánh chén, cứ như không có chuyện gì xảy ra! Ít nhất thì con gà trống cũng phải lịch sự tỏ ra đôi chút buồn bã, khi mà chỉ trong thoáng chốc nó đã mất đi tất cả các cô vợ của mình! Nhưng rõ ràng nó bình thản đón nhận chuyện này.

Nhưng bữa tiệc anh đào không được rôm rả lắm nữa. Vì đột nhiên con gà trống lại ngã lăn quay ra, ngay sau đó đến lượt Nhóc Lợn. Emil tức giận cả hai con đến nỗi chẳng thèm quan tâm xem chúng sống hay chết, và hơn nữa nó có thể thấy chúng đâu có chết giống lũ gà mái. Con gà trống thở khò khè yếu ớt, hai cẳng hơi giật giật, còn Nhóc Lợn hẳn đang ngủ gật vì chốc chốc lại cố mở mắt ra và trong bụng nó có tiếng kêu lục sục.

Vẫn còn khá nhiều anh đào nằm lăn lóc trên cỏ nên Emil nếm thử một quả. Vị của nó không hẳn giống một quả anh đào, nhưng thật ra ngon đáo để. Sao mẹ lại có thể nghĩ tới việc đem vui đi những trái cây thơm ngon thế này nhỉ?

Ồ, phải rồi, nó phải đi tìm mẹ để kể cho mẹ nghe về nỗi bất hạnh của lũ gà mái mới được! Nhưng nó không thấy hứng thú lắm. Không cần kể ngay. Emil tư lự chén thêm vài quả anh đào… lại thêm vài quả nữa…. Không, nó không muốn tìm mẹ kể ngay bây giờ!

Trong khi đó mẹ Emil đã vào bếp chuẩn bị xong bữa ăn tối cho đám thợ gặt của mẹ. Lúc này tất cả bọn họ đã về đến nhà: bố Emil, chú Alfred, cô Lina và bà Krösa–Maja. Ai nấy đều mệt mỏi và đói bụng sau một ngày dài vất vả. Cả nhà ngồi vào xung quanh bàn, nhưng ghế của Emil vẫn trống, và mẹ sực nhớ suốt nãy giờ, đã khá lâu, mẹ không còn trông thấy Emil.

- Lina, cô chạy ra xem Emil có ở chỗ Nhóc Lợn không, – mẹ nói.

Cô Lina đi ra và vắng mặt rất lâu. Cuối cùng khi quay vào, cô cố tình dừng lại trên ngưỡng cửa, đợi tất cả hướng ánh mắt vào mình. Cái điều kinh khủng cô sắp kể ra đây phải được tất cả nghe cùng một lúc.

- Cô làm sao vậy? Sao cô cứ đứng đực ra đấy thế? Có chuyện gì xảy ra sao? – Mẹ Emil nói.

Cô Lina mỉm cươi bâng quơ.

- Có chuyện gì xảy ra không ấy ư? Phải, cháu không biết nên nói thế nào…… Nhưng dù sao đàn gà mái cũng chết sạch rồi! Còn con gà trống thì say rượu! Nhóc Lợn cũng say rượu! Còn cậu Emil thì….

- Emil thì làm sao! – Mẹ Emil lo lắng hỏi dồn.

- Emil! – Cô Lina thở dài đánh sượt. – Emil cũng say rượu.

Thế là ở trang trại Katthult có một buổi tối mà người ta hầu như không biết nên mô tả ra sao nữa!

Bố Emil nhảy đùng đùng gào thét, mẹ khóc, bé Ida khóc, cô Lina cũng khóc cùng cho có bầu có bạn, bà Krösa–Maja thì than trời, hết ối lại á và không còn thời gian để ăn nữa. Bà phải lập tức chạy đi loan báo cho tất cả, từng người, từng người một:
- Ối trời, ối trời! Khốn khổ cho cặp vợ chồng nhà Svensson ở trang trại Katthult! Emil, cái thằng bé tội nợ ấy, đã nốc rượu say bí tỉ và đập chết cả đàn gà mái nhà họ rồi, ối trời ơi là trời!

Chú Alfred là người duy nhất vẫn tỉnh táo. Khi cô Lina quay vào với cái tin khủng khiếp của cô, chú đã cùng mọi người chạy ra ngoài và tìm thấy Emil đang nằm trên cỏ cạnh Nhóc Lợn và con gà trống. Phải, cô Lina nói đúng, quả là Emil đã say quá rồi. Nó nằm tựa vào Nhóc Lợn, hai con mắt đảo tròng. Rõ là nó đang rất xỉn. Mẹ Emil khóc trong tuyệt vọng khi thấy đứa con trai bất hạnh, đáng thương của mình và muốn đưa ngay nó vào buồng ngủ. Nhưng chú Alfred, vốn có kinh nghiệm trong những tình huống như thế này, bèn bảo:

- Để cháu ở lại ngoài này có không khí trong lành sẽ tốt hơn!

Thế là suốt buổi tối chú Alfred cứ ngồi trên bậc tam cấp trước lán đầy tớ, tay ôm Emil. Chú giúp Emil khi nó nôn và vỗ về an ủi khi nó khóc. Vì đôi lúc Emil lại tỉnh dậy và khóc về sự tồi tệ của mình. Nó đã nghe nói mình bị say rượu, có điều không tự lý giải nổi tại sao lại xảy ra chuyện ấy. Emil đâu biết những trái anh đào mà người ta dùng làm rượu phải lên men trong thời gian khá lâu, cuối cùng đã thấm đẫm cái thứ rượu khiến người ta say. Cũng chính bởi vậy mà mẹ đã dặn Emil phải vùi chúng vào đống rác. Nhưng thay vì nghe lời mẹ, nó lại ăn chúng, nó, con gà trống và Nhóc Lợn. Thế nên bây giờ nó mới nằm rũ trong tay chú Alfred như một thứ đồ bỏ đi.

Emil nằm thế khá lâu. Mặt trời lặn, trời tối dần, vầng trăng nhô lên phía trên trang trại Katthult, nhưng chú Alfred vẫn ngồi đó bế Emil trên tay.

- Cháu thấy trong người thế nào, Emil? – chú Alfred hỏi khi thấy Emil hơi động đậy.

- Dạ, cháu vẫn sống, – Emil đáp với giọng yếu ớt, rồi nó thì thào: – Nếu cháu chết thì con Lukas sẽ là của chú, chú Alfred ạ.
- Cháu không chết đâu, – chú Alfred khẳng định.

Không, Emil không chết, cả Nhóc Lợn và con gà trống cũng không chết. Đàn gà mái cũng không chết, đó mới là điều kỳ lạ nhất. Chẳng là mẹ Emil trong lúc mải lo lắng đã bảo bé Ida đi lấy một giỏ củi. Bé Ida vừa đi vừa khóc, vì đây đúng là một tối buồn, nó càng khóc dữ hơn khi bước vào kho củi trông thấy xác cn Lotta Què nằm trên cái thớt gỗ.

- Lotta Què tội nghiệp, – bé Ida nói. Nó thò bàn tay bé nhỏ ra vuốt ve con Lotta Què. Và, thử tưởng tượng xem, con Lotta Què bỗng hồi sinh! Con gà mở mắt ra và vừa đập cánh phành phạch nhảy khỏi cái thớt vừa bất bình kêu lên quang quác, đoạn tức giận cà nhắc cà nhót đi ra khỏi cửa. Bé Ida sững sờ đến ngây người, không biết nên hiểu thế nào nữa. Hay đôi bàn tay mình có phép lạ, có thể làm người chết sống lại?

Vì quá lo lắng cho Emil nên không ai hơi sức đâu để ý đến lũ gà mái. Chúng vẫn nằm la liệt trên cỏ. Nhưng giờ đây Ida đi đến, lần lượt vuốt ve từng con. Con nào cũng vùng dậy và tràn đầy sức sống. Phải, thật ra chúng không chết, mà chỉ bất tỉnh vì quá khiếp sợ khi bị Nhóc Lợn đuổi theo – giống gà mái đôi khi vẫn thế.

Nhưng bé Ida tự hào quay vào bếp, nơi bố và mẹ đang ngồi lo lắng khóc lóc. Giờ đây bé Ida cũng có tin sốt dẻo để thông báo.
- Bố mẹ ơi, con đã đánh thức mấy con gà chết sống lại rồi! – Nó tự hào khoe.

Ngay hôm sau, con gà trống. Nhóc Lợn và Emil đã phần nào lại sức. Tuy nhiên suốt ba ngày con gà trống không gáy được. Nó cũng có thử một đôi lần, nhưng từ cổ họng nó không phát ra tiếng “Ò ó o o!” mà là một tiếng khào khào kinh khủng đến nỗi chính nó cũng thấy sượng sùng. Mỗi lần con gà trống gáy không thành, là lũ gà mái lại nhìn nó đầy trách móc, thế là cu cậu xấu hổ lẩn vào một bụi cây.

Nhóc Lợn không xấu hổ, nhưng Emil thì có vẻ ngường ngượng cả ngày, đã thế lại còn bị cô Lina chọc tức.

- Say xỉn rồi nằm lăn ra đó với một con lợn, hay ho gớm! Cả hai người, cậu và Nhóc Lợn, là đồ lợn nát rượu, từ nay tôi sẽ gọi các người như thế đấy!

- Tôi nghĩ cô nên thôi đi! – Chú Alfred nói và quắc mắt nhìn cô Lina thế là cô im.

Nhưng câu chuyện vẫn chưa chấm dứt ở đó. Chập tối có ba quý ông danh giá đi vào cổng vườn trang trại Katthult, đó là ba vị đến đến từ hội cầu thiện làng Lönneberga. Phải, hẳn bạn không biết hội cầu thiện là gì, nhưng tôi có thể nói cho bạn rằng thuở d đó hội này rất cần thiết cho làng Lönneberga và cả cùng Smăland. Những người cầu thiện nỗ lực kiềm chế nạn nghiện rượu kinh khủng thời đó vốn đã khiến nhiều người trở nên bất bạnh và giờ vẫn tiếp tục làm bao người phải khốn khổ.

Những lời kêu than của bà Krösa–Maja về thói nghiện rượu của Emil đã buộc hội cầu thiện phải can thiệp. Và giờ đây họ nói rằng sẽ rất tốt nếu Emil đến dự buổi sinh hoạt tối ở nhà cầu thiện và tại đó nó sẽ được cải hóa để trở về với cuộc sống không nghiện ngập. Mẹ Emil tức muốn nổ ruột, bèn kể lại câu chuyện Emil đã ăn anh đào ra sao. Nhưng dẫu vậy cả ba ông cầu thiện vẫn tỏ ra hết sức lo lắng và một ông nói:

- Vâng, nhưng người ta đã thấy trước rồi cháu Emil sẽ đi tới đâu. Sẽ không hại gì nếu tối nay chúng ta cho cháu một lời cảnh cáo.

Thế là bố Emil nhất trí. Tuy ông chẳng vui vẻ gì. Có dễ chịu gì đâu khi phải đưng chường mặt ra trước biết bao nhiêu là người và phải xấu hổ về thằng con trai mình. Nhưng có lẽ cũng cần làm thế để đưa Emil về con đường không nghiện ngập.

- Để tôi đi với nó, – bố rầu rĩ lẩm bẩm.

- Không, nếu con phải đến đó, thì em sẽ đi cùng nó, – mẹ Emil nói và trở nên thật kiên quyết. – Em mới là người đã làm ra thứ rượu vang khốn nạn đó, còn mình, Anton, mình không nên hứng chịu hậu quả. Chỉ có em mới cần bài giảng về cai nghiện này. Ngoài ra em có thể dắt Emil theo, nếu mọi người cho đó là cần thiết!

Tối đến Emil phải mặc bộ lễ phục Chủ nhật vào. Nó còn đội cả “mú” nữa. Emil không phản đối chuyện bị đem ra cải hóa. Được ở chỗ đông người biết đâu sẽ lại vui lắm ấy chứ.

Nhóc Lợn cũng nghĩ thế. Khi Emil cùng mẹ lên đường, Nhóc Lợn chạy theo, ý chừng muốn đi cùng. Nhưng Emil bảo: “Nằm chết nào!”, thế là Nhóc Lợn ngoan ngoãn nằm xuống giữa đường và cứ thế nằm im, nhưng nó còn ngó theo Emil mãi.

Tối ấy nhà cầu thiện đông kín người, tôi có thể nói như vậy. Cả làng Lönneberga muốn có mặt để chứng kiến Emil được cải hóa bỏ thói nghiện rượu. Phía trên diễn đàn, dàn đồng ca của hội cầu thiện đã ở tư thế sẵn sàng, Emil vừa bước vào cửa là họ gân cổ lên hát.

“Anh bạn trẻ, anh đã cầm cái cốc đựng đầy rượu, ấy là chất độc……”

- Thằng bé đã không cầm cái cốc nào hết, – mẹ Emil tức giận nói, nhưng chỉ Emil nghe thấy.

Khi bài hát kết thúc, một người đàn ông đi lên bục, nói rất lâu và nghiêm túc về Emil, cuối cùng ông ta hỏi Emil có muốn thề suốt đời sẽ cai rượu hay không.

- Cháu thề cũng được thôi ạ, – Emil đáp.

Đúng lúc ấy người ta nghe tiếng ụt ịt khe khẽ bên cánh cửa, rồi Nhóc Lợn chạy vào. Nó đã lặng lẽ đi theo Emil và bây giờ đã đến đây. Khi trông thấy Emil ngồi ở hàng ghế trên cùng, nó sung sướng chạy đến với cậu chủ. Phòng họp trở nên nhộn nhạo. Chưa bao giờ có con lợn nào xuất hiện trong nhà cầu thiện cả, và giờ đây những người cầu thiện không muốn có nó. Họ cho rằng việc một con lợn có mặt không say rượu.

- Nhóc Lợn, lời thế này có hiệu lực với cả mày nữa đấy, – Emil nói sau khi đã đọc xong lời thề. Sau này tất cả dân làng Lönneberga đều bảo rằng ngoài Emil ra, chưa từng có một ai đọc lời thề cai rượu cùng với một con lợn cả.

- Nhưng cái thằng bé ở trang trại Katthult cũng kỳ lạ thật đấy, – họ bình phẩm.

Khi Emil trở về nhà và đi vào bếp với Nhóc Lợn lẵng nhẵng theo sau, thì bố đang ngồi trơ trơ một mình bên ngọn đèn dầu, và Emil nhận thấy bố đã khóc. Cả đời Emil chưa bao giờ thấy bố khóc, nên chuyện đó khiến nó không vui tý nào. Nhưng rồi bố nói ra một điều khiến Emil rất vui.

- Nghe này Emil, – bố nắm chặt cánh tay Emil và nhìn thẳng vào mắt nó mà bảo, – Emil, nếu con hứa với bố suốt đời con sẽ không uống rượu, thì cái con lợn hư đốn đó sẽ là của con…. Ngoài ra bố không thể nghĩ cái lớp thịt bọc xương ấy lại ngon được, nhất là sau khi nó cứ nhảy dông dổng suốt ngày, và lại còn say rượu nữa.

Emil sướng nhảy cẫng lên. Nó thề thêm một lần nữa là suốt đời sẽ không uống rượu. Và nó cũng giữ lời. Cả làng Lönneberga và khắp vùng Smăland xưa nay chưa từng thấy một vị chủ tịch nào tuyệt đối không động tới một giọt rượu nào như Emil, có lẽ vì thế mà việc hồi còn nhỏ, vào một ngày mùa hạ, Emil đã ăn những trái anh đào đã lên men lại là điều hay.

Tối đó Emil còn thức khá lâu trò chuyện với bé Ida.

- Bây giờ anh đã có một con ngựa, một con bò, một con lợn và một con gà, – nó nói.

- Chính em đã đánh thức con gà đang chết sống lại, – bé Ida nhắc cho anh nhớ. Thế là Emil cảm ơn em về việc đó.

Sáng hôm sau Emil thức dậy sớm, nghe tiếng chú Alfred và cô Lina đang uống cà phế và trò chuyện trong bếp. Nó bèn nhảy ngay khỏi giường vì phải khoe chú Alfred là bố đã tặng Nhóc Lợn cho nó.

- Ông chủ gia súc Emil Svensson, – chú Alfred cười nói. Nhưng cô Lina vác mặt lên và cất giọng hát một bài hát chế giễu mà cô vừa nghĩ ra trong khi vắt sữa bò. Cô hát:

“Nhưng mẹ dắt nó đến nhà cầu thiện,
nó trở thành người từ con lợn nghiện.
Giờ nó đã thề sẽ hết say sưa,
và được con lợn – chính nó ngày xưa!”


Không thể tưởng tượng nổi bài hát nào ngu xuẩn như thế. “Giờ nó đã thề sẽ hết say sưa,và được con lợn – chính nó ngày xưa!” Ngu ngốc tới mức đó thì chỉ có cô Lina mới nghĩ ra nổi. Chính cô cũng chẳng hiểu mình hát gì nữa.

Rồi đã đến giờ chú Alfred và cô Lina phải cùng bố và bà Krösa–Maja ra ruộng lúa mạch đen.

Mẹ Emil ở nhà một mình với lũ trẻ. Mẹ rất hài lòng, vì hôm nay bà Petrell định đến lấy những chai vang anh đào của bà ta và mẹ Emil không muốn bố Emil có mặt lúc đó.

Mong cho những chai rượu mau mau được mang đi khỏi nhà mình, mẹ Emil nghĩ vậy khi đang làm bếp. Bà Petrell có thể đến bất kỳ lúc nào. Chắc là sắp nghe tiếng xe ngựa của bà ta lăn ngoài đường rồi. Nhưng lạ quá, thứ mẹ Emil nghe thấy lúc này là một tiếng động hoàn toàn khác vọng sang từ hầm để khoai tây, nghe như tiếng thủy tinh vỡ.

Mẹ Emil ngó qua cửa sổ và thấy Emil tay lăm lăm thanh sắt chọc lò, trước mặt nó là những chai rượu vang xếp thành dãy. Emil lần lượt quật thanh sắt vào từng chai một, khiến mảnh vỡ văng tứ tung và rượu chảy tràn ra sân. Mẹ Emil mở tung cửa sổ, thét lên:

- Con làm cái quái gì vậy, Emil?

- Con đang giúp người khác cai rượu. Con nghĩ mình sẽ bắt đầu từ bà Petrell!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 13-9-2011 16:53:26 | Chỉ xem của tác giả
Một số ngày trong cuộc đời Emil,
những ngày mà nó vừa bày đủ trò nghịch ngợm, vừa làm được nhiều việc tốt.



Câu chuyện rượu vang tai tiếng này khá lâu sau dân làng Lönneberga vẫn còn nhớ. Nhưng mẹ Emil thì chỉ muốn quên càng nhanh càng tốt. Trong cuốn vở màu xanh bà không đả động một chữ tới những gì đã xảy ra xung quanh Emil trong cái ngày mồng 10 tháng Tám bất hạnh đó. Hẳn chúng quá khủng khiếp, nên bà chẳng nỡ lòng ghi lại. Nhưng ngày 11 tháng Tám bà có ghi vào sổ một dòng, mà nếu chưa được nghe trước câu chuyện vừa kể ban nãy, thì khi đọc nó người ta không tránh khỏi giật mình.

“Chúa che chở cho con và thằng bé này, nhưng ít nhất hôm nay nó cũng không say rượu”. Mẹ Emil viết như thế đấy. Không thêm một từ nào nữa. Vì vậy người ta sẽ nghĩ gì đây? Hẳn người ta sẽ nghĩ ngay rằng Emil rất hiếm khi tỉnh rượu. Tôi thật sự cho rằng lẽ ra mẹ Emil phải kể lại đầu đuôi câu chuyện. Nhưng, như đã nói, bà không nỡ lòng nào làm thế.

Ngày 15 tháng Tám cũng có một đoạn ghi chép. Mẹ Emil viết như sau:

“Đêm qua Emil và Alfred ra ngoài bắt tôm. Hai chú cháu bắt được ba mươi bá tá tôm càng. Nhưng sau đó thì, ôi, khốn khổ chồng tôi….”

Ba mươi ba tá – bạn đã nghe thấy thế bao giờ chưa? Đó là vô số những con tôm. Hãy tự tính đi, bạn sẽ biết có bao nhiêu con tất cả. Emil đã có một đêm vui vẻ, tôi có thể nói với bạn như vậy. Và nếu bạn đã từng bắt tôm dưới một cái hồ nhỏ ở vùng Smăland trong một đêm tháng Tám tối tăm, thì bạn sẽ hiểu vì sao. Thì bạn sẽ biết bắt tôm vui như thế nào, bạn sẽ bị ướt sũng cả người ra sao, và có cảm giác kỳ lạ thế nào. Úi, trời tối om, rừng thì đen sì bao quanh hồ, tất cả im ắng, chỉ nghe tiếng chân bì bõm lội nước ven hồ.

Nếu có một ngọn đuốc như của chú Alfred và Emil, người ta sẽ trông thấy những con tôm càng to màu đen bò lổm ngổm quanh những viên đá dưới lòng hồ. Thế là chỉ cần lấy tay tóm lưng từng con bỏ vào giỏ.

Khi Emil và chú Alfred đi về nhà vào lúc rạng sáng, hai chú cháu đã bắt được nhiều tôm đến mức vác lặc lè tưởng chừng vác không nổi, nhưng Emil vẫn huýt sáo vào hát vang đường.

Bố sẽ tha hồ ngạc nhiên đây, nó nghĩ. Emil muốn cho bố thấy mình giỏi thế nào, mặc dù nó hay bị thất bại. Bây giờ nó muốn bố sẽ trông thấy tất cả số tôm càng này khi bố vừa tỉnh giấc. Vì thế mà Emil đã lấy cái chậu đồng to tướng mà bé Ida và nó thường ngồi vào tắm mỗi tối thứ Bảy và trút hết tôm vào đấy. Sau đó nó đặt cái chậu trong buồng ngủ, ngay cạnh bố.
Sẽ có tiếng reo hò to sung sướng khi tất cả mọi người thức dậy và trông thấy những con tôm của mình đây, Emil khấp khởi nghĩ. Rồi mệt mỏi nhưng sung sướng, nó trèo lên giường và ngủ thiếp đi.

Trong buồng ngủ rất im ắng. Chỉ nghe tiếng ngáy khe khẽ của bố Emil. Ngoài ra là tiếng rộp roạp của đám tôm càng đang lổm nhổm bò trên lưng nhau, như vẫn thường thấy ở giống này.

Sáng nào bố Emil cũng dậy rất sớm, hôm nay cũng vậy. Chuông đồng hồ treo trên tường buồng ngủ vừa điểm năm tiếng là ông lập tức tốc chăn ngồi dậy, thả hai chân xuống đất, và ngồi như thế một lúc cho tỉnh hẳn. Ông vươn vai, ngáp dài, thò tay gãi đầu và ngọ nguậy một chút các ngón chân. Ngón chân cái bên phải của ông hơi bị cứng kể từ ngày bị kẹp trong cái bẫy chuột mà Emil cài, nên sáng nào ông cũng phải luyện cho nó mềm. Nhưng đang ngọ ngoạy ngón chân thì bố Emil bỗng rống lên một tiếng, khiến mẹ Emil và bé Ida hoảng hốt giật mình thức dậy. Họ cứ tưởng chí ít bố cũng đã bị sát hại. Nhưng đó chỉ là một con tôm càng đã cắp trúng ngón cái đã từng bị tôm càng cắp, thì bạn cũng sẽ biết nó dễ chịu ngang như khi bị kẹp bẫy chuột, mà mới chỉ bị đau ít hơn thế thì khối người đã rú lên rồi. Tôm càng là loài dã thú ương bướng, đã cắp ai thì cứ cố sống cố chết mà cắp, mỗi lúc càng chặt hơn. Cho nên không có gì lạ khi bố rống lên! Ngoài ra ngay mẹ và bé Ida cũng hét toáng lên khi trông thấy hàng trăm con tôm càng bò lổm nhổm trên sàn nhà. Phải, phải, tiếng hò reo sung sướng như thế đã là quá đủ.

- Emil! – Bố hét tưởng đến rách cả phổi. Thứ nhất, bố đang điên tiết, và thứ hai, bố cần một cái kìm để rứt con tôm ra, nên muốn sai Emil chạy đi lấy kìm. Nhưng Emil ngủ say đến nỗi không có tiếng reo hò nào đánh thức được nó. Thế là bố Emil đành tự nhảy lò cò xuống bếp để lấy cái kìm trong thùng đồ nghề ra. Nhìn bố nhảy lò cò với con tôm càng vẫn ngoan cố đeo lủng lẳng trên ngón chân cái, bé Ida đau lòng – nó tiếc cho anh Emil không được chứng kiến cảnh đó.

- Dậy mau, anh Emil! – Bé Ida gọi to. – Dậy đi! Rồi anh sẽ thấy cái này vui cực!

Nhưng nó lập tức im bặt vì bố vừa ném cho nó cái nhìn rầu rĩ, và có thể thấy bố không có cái gì vui ở đây. Trong khi đó mẹ bò loanh quanh dưới sàn nhà nhặt tôm. Sau hai tiếng đồng hồ mẹ mới bắt được hết. Mãi đến gần trưa Emil mới tỉnh giấc, liền ngửi thấy mùi tôm luộc thơm ngào ngạt từ bếp bay vào, thế là nó vui sướng nhảy ngay dậy.

Trang trại Katthult được ăn tôm liền ba ngày, – thật là hạnh phúc! Ngoài ra Emil moi được bao nhiêu thịt đuôi tôm từ trong vỏ cứng, và đem bán cho bà vợ ông mục sư với giá hai mươi lăm xu một cân. Số tiền thu về Emil chia đều cho chú Alfred. Vốn lúc nào cũng cháy túi, chú Alfred cho rằng Emil luôn có những ý tưởng đáng nể.

- Emil, cháu rất nhanh nhạy trong làm ăn đấy, – chú nhận xét, và chú nói chí lý. Emil đã bỏ vào con lợn đất của nó năm mươi đồng, số tiền mà nó kiếm ra bằng nhiều cách khác nhau.

Suốt một thời gian dài Emil suy nghĩ nát óc về một vụ làm ăn lớn thực sự. Nó định bán tất cả các hình nhân bằng gỗ cho bà Petrell, vì bà ta đã đã tỏ ra vô cùng thích thú khi nhìn thấy chúng. May mà vụ bán chác đó không thành. Thế là các hình nhân gỗ tiếp tục được đứng trên cái giá trong xưởng mộc và đến nay vẫn còn đứng đó. Bà Petrell thực sự muốn mua khẩu súng gỗ của Emil để tặng cho một thằng bé hư đốn mà bà ta quen, nhưng rồi vụ này cũng chẳng thành.

Chắc chắn rồi, tự Emil cũng biết nó quá lớn để tiếp tục chơi với khẩu súng gỗ, nhưng bán khẩu “sún” đi thì nó lại không muốn. Thay vì bán, nó đóng đinh khẩu súng gỗ lên tường xưởng mộc và viết lên đấy dòng chữ bằng chì đỏ:

“KỶ VẬT CỦA CHÚ ALFRED”

Chú Alfred cười khi trông thấy thế, nhưng rõ ràng chú hài lòng. Cái “mú” thì Emil giữ dùng thường xuyên, nó không thể thiếu “mú” được. Lần đầu tiên cắp sách đến trường nó cũng đội “mú” lên đầu. Phải, đã đến lúc Emil đi học và cả làng Lönneberga nín thở.

Cô Lina không mấy tin tưởng về việc đi học của Emil.

- Chắc chắn nó sẽ đạp đổ cả trường học và đốt cả cô giáo nữa ấy chứ, – cô nói, nhưng mẹ Emil đã nghiêm khắc nhìn cô.
- Emil là một thằng bé tốt bụng, – bà nói. – Mới đây nó đã suýt đốt cháy vợ ôn mục sư thật, nhưng vì thế nó đã phải phạt trong xưởng mộc rồi. Có gì đâu mà cô cứ phải đay đi đay lại như thế.

Đó là ngày 17 tháng Tám, ngày Emil vì bà vợ ông mục sư mà phải ngồi trong xưởng mộc. Chẳng là hôm đó bà này đến trang trại Katthult để lấy một mẫu dệt mới của mẹ Emil. Bà được mời dùng cà phê ngoài vườn, giữa những bụi tử đinh hương, cũng là chỗ bà muốn xem mẫu dệt đó. Vì mắt kém, nên bà lấy trong xắc tay một cái kính lúp. Emil chưa bao giờ trông thấy kính lúp cả, nên rất háo hức muốn xem.

- Cháu cứ cầm lấy mà chơi, – bà vợ ông mục sư nói, tính tình bà vốn đơn giản.

Hẳn bà không biết rằng với bất kỳ vật gì Emil cũng có thể bày trò nghịch dại, và với một cái kính lúp thì càng không khó. Chỉ lát sau Emil đã biết có thể dùng kính lúp làm “kính đốt”. Khi mặt trời rọi vào kính lúp, mọi tia nắng tụ vào một điểm và hun nóng lên. Emil nhìn quanh vật gì dễ cháy, vật gì có thể bùng lên thành lửa. Bà vợ ông mục sư đang ngồi yên chỗ và cứ luôn mồm nói chuyện với mẹ Emil. Khi nói, đầu bà vẫn chẳng hề động đậy. Những cái lông đà điểu bông xù cắm trên cái mũ điệu đà của bà trông khá dễ bén lửa. Thế là Emil thử liền – thì phải thử mới biết được chứ, nếu không làm sao học được cái gì trên đời này, nó nghĩ vậy.

Kết quả cuộc thử nghiệm của Emil được mô tả trong cuốn vở màu xanh như sau:

“Bỗng khói bắt đầu mù mịt quẩn quanh bà mục sư, phải, nhưng lửa không bén vào những chiếc lông đà điểu mà chỉ bốc khói. Thế mà mình cứ tưởng giờ Emil sẽ ngoan hơn sau khi nó đã gia nhập hội cầu thiện. Ôi, giá được thế thì tốt biết bao! Vậy là ông hội viên cầu thiện phải ngồi nốt ngày hôm ấy trong xưởng mộc. Phải, phải, chuyện là thế.”

Ngày 25 tháng Tám Emil đến trường. Nếu dân làng Lönneberga tưởng rằng ở trường Emil sẽ còn mỗi nước chui đầu xuốn đất mà trốn, thì họ lầm to. Hẳn cô giáo là người đầu tiên đã linh cảm thấy cậu học trò ngồi trên cái ghế ngay sát cửa sổ lớp kia chính là vị chủ tịch hội đồng xã tương lai. Và ngạc nhiên chưa: Emil trở thành trò giỏi nhất lớp! Đọc thì Emil biết sẵn từ khi mới đến trường, viết cũng biết chút ít, còn làm tính thì nó nhanh hơn tất cả những đứa bạn khác. Tất nhiên Emil vẫn bày trò nghịch ngợm, nhưng không quá sức chịu đựng của cô giáo. Ồ phải, có lần nó đã hôn vào đúng môi cô. Về việc này dân làng Lönneberga còn kháo nhau mãi.

Chuyện xảy ra như sau: Emil lên bảng làm một phép tính cộng với những con số thật sự khó. Khi nó ra đáp số, cô giáo bèn bảo:

- Tốt rồi, Emil, em có thể về chỗ ngồi. Emil làm theo.

Khi đi ngang qua cô giáo đang ngồi trên bục giảng, nó liền hôn cô một cái chính giữa môi. Cô giáo chưa bao giờ gặp phải chuyện như thế, bèn đỏ mặt và ấp úng hỏi:

- Emil, tại sao…. tại sao…. em lại làm thế?

- Chắc em làm thế vì lòng tốt của em ạ, – Emil đáp, và câu trả này sau đó đã gần như trở thành một câu thành ngữ ở làng Lönneberga.

- Em làm thế vì lòng tốt của em, cái thằng bé ở trang trại Katthult lại nói thế khi nó hôn cô giáo cơ đấy, – dân làng thời ấy thường kháo nhau, và biết đâu bây giờ họ vẫn nhắc chuyện đó, tôi đoán thế.

Trong giờ giải lao sau đó, có một cậu trong đám trò lớn đi đến và muốn chọc tức Emil.

- Mày đã hôn cô giáo cơ đấy, – hắn nói và cười mỉa mai.

- Vâng, anh muốn em làm lại không? – Emil hỏi.

Nhưng nó nói vậy thôi. Chuyện chỉ xảy ra duy nhất một lần, và không khi nào lặp lại nữa. Và cô giáo cũng không hề giận Emil về cái hôn đó, không giận tý nào.

Emil còn làm nhiều việc khác vì lòng tốt của mình. Trong giờ giải lao nó chạy đến trại tế bần, đọc cho cụ Stolle–Jocke và các cụ nghe tờ “Bưu điện Smăland”. Vậy nên đừng nghĩ rằng Emil không có lòng tốt.

Ít nhất thì các cụ ở trại tế bần cũng cho rằng thời khắc đẹp nhất trong ngày là lúc Emil đến và tất cả bọn họ – cụ Stolle–Jocke, cụ Johann– Một Xu, cụ Kalle–Carô và cụ Ulla– Tiên Đoán Tai Ương cùng cả thảy các cụ khác – đều vui sướng khi Emil xuất hiện. Có thể cụ Stolle–Jocke không nghe rõ tất cả những gì Emil đọc, vì khi Emil đọc tin ngày thứ Bảy tới ở khách sạn thành phố sẽ có một vũ hội lớn, thì cụ Stolle–Jocke lại chắp hai bàn tay vào nhau mà nói đầy ái ngại:

- Amen, amen, phải phải điều, đó ắt sẽ xảy ra!

Nhưng cái chính là cụ Stolle–Jocke và các cụ già nghèo thích được ngồi nghe Emil đọc. Mỗi mụ Maduskan là không thích. Hễ Emil tới là mụ lên ngay căn phòng áp mái và khóa trái cửa buồng lại, ở tịt trong đó, bởi mụ đã từng sa xuống cái bẫy sói mà Emil đào và không sao quên được vụ đó.

Có thể bây giờ bạn sẽ không yên tâm và nghĩ rằng đi học rồi Emil sẽ chẳng còn thời gian mà bày trò nghịch ngợm nữa.
Bạn đừng lo! Vào cái thời Emil còn nhỏ, trẻ con cứ cách một ngày mới phải đi học một lần, bạn thấy chúng sướng chưa!
- Dạo này cháu thế nào? – Một ngày nọ cụ Stolle–Jocke hỏi khi nó đến đọc báo cho các cụ nghe.

Emil nghĩ ngợi giây lát, rồi nó trả lời trung thành với sự thật:

- Cháu cứ nghịch một hôm, lại đến trường một hôm ạ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách