Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Người Đưa Tin | Daniel Silva (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
21#
 Tác giả| Đăng lúc 16-11-2013 10:41:29 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10
(tiếp theo)

“Cậu ở trong quân đội à?”

“Không, lúc đó tôi đã ra khỏi quân đội. Tôi đang học tại Học viện Mỹ thuật Bezalel. Ari đến gặp tôi sau khi những con tin bị giết chết. Khi đó không ai biết chuyện này, nhưng Golda đã ra lệnh giết tất cả những ai có dính líu”.

“Tại sao ông ấy chọn anh?”

“Tôi nói nhiều thứ tiếng, và khi xem báo cáo về khả năng hoàn thành nhiệm vụ của tôi, ông ấy nhận ra tôi có những đức tính cần thiết cho loại công việc mà ông đang dự tính”.

“Giết người ở khoảng cách gần, mặt đối mặt. Anh đã làm thế, đúng không?”

“Đúng vậy, Gilah”.

“Bao nhiêu?”

“Gilah”.

“Bao nhiêu, Gabriel?”

“Sáu”, anh trả lời. “Tôi giết sáu tên”.

Bà chạm đám tóc muối tiêu ở hai bên thái dương của anh. “Nhưng lúc đó anh mới là một thanh niên”.

“Chuyện này dễ làm hơn khi người ta còn trẻ. Càng lớn làm việc này càng trở nên khó khăn”.

“Nhưng dù sao thì anh cũng hoàn thành nhiệm vụ. Anh là người đi giết Abu Jihad, đúng không? Anh vào nhà hắn ở Tunis và giết chết hắn trước mặt vợ con. Rồi bọn chúng trả thù, chúng không trút lên quốc gia mà trút lên anh. Chúng đặt bom dưới xe anh ở Viên”.

Bà siết chặt vết rách trên áo Shamron. Gabriel nắm tay bà. “Không sao, Gilah. Chuyện đó xảy ra từ lâu rồi”.

“Tôi nhớ lúc điện thoại reo. Ari bảo với tôi bom đã nổ dưới xe hơi một nhân viên ngoại giao ở Viên. Tôi nhớ lúc đó mình vào bếp pha cho ông một tách cà phê. Khi quay trở ra tôi thấy ông đang ngồi khóc. Ông nói. ‘Lỗi của tôi, Gilah. Tôi đã giết vợ con anh ta’. Đó là lần duy nhất tôi thấy ông ấy khóc. Tôi không gặp ông ấy suốt một tuần. Cuối cùng, khi ông về nhà, tôi hỏi chuyện gì đã xảy ra. Dĩ nhiên ông không trả lời. Lúc đó ông đã điềm tĩnh trở lại. Nhưng tôi biết ông đã luôn day dứt về chuyện này bao nhiêu năm qua. Ông tự trách mình vì chuyện xảy ra”.

“Ông ấy chẳng nên tự trách mình làm gì”, Gabriel nói.

“Anh không được phép đau buồn như bao người bình thường khác, đúng không? Chính phủ thông báo với thế giới rằng vợ và con của nhà ngoại giao đều đã chết. Anh chôn con mình ở đỉnh Olive - chỉ anh, Ari, và một vị giáo sỹ - và anh giấu vợ mình ở một nơi nào đó dưới tên giả. Nhưng Khaled đã tìm thấy cô ấy, và dùng cô ấy để nhử anh đến ga Lyon”. Một giọt nước mắt lăn trên gò má Gilah. Gabriel lấy tay lau nó đi, và cảm nhận được làn da nhăn nheo của bà vẫn mềm như nhung. “Tất cả những chuyện này xảy ra vì chồng tôi đã tìm gặp anh một buổi trưa tháng Chín cách đây lâu lắm rồi. Đáng lẽ anh có thể có một cuộc đời khác. Thay vì thế chúng tôi đã biến anh thành một tên sát nhân. Tại sao anh không trở nên cay độc, Gabriel? Tại sao anh không ghét ông ấy như các con của chúng tôi ghét bố chúng nó?”

“Hướng đi của đời tôi đã được vạch sẵn vào ngày người Đức chọn tên hạ sỹ người Áo nhỏ bé làm quốc trưởng cho chúng. Ari chỉ là người đưa đường dẫn lối mà thôi”.

“Cậu tin vào định mệnh đến thế sao?”

“Hãy tin tôi, Gilah, có một thời kỳ tôi cũng không thể chịu nổi khi nhìn mặt Ari. Nhưng tôi nhận ra mình giống ông hơn là tôi nghĩ”.

“Có lẽ đó chính là điều ông thấy trong bản báo cáo về khả năng của cậu”.

Gabriel cười mỉm. “Có lẽ đúng vậy”.

Gilah sờ vết rách trên áo Shamron. “Cậu có biết vì sao việc ấy lại xảy ra không?”

“Đó là một trong những bí ẩn lớn nhất của Văn phòng”, Gabriel đáp. “Có đủ loại giả thuyết điên rồ để phỏng đoán nguyên nhân và diễn biến, nhưng ông ấy không chịu nói sự thật”.

“Đó là đêm xảy ra vụ đánh bom ở Viên. Ari vội vàng đến đại lộ King Saul. Khi trèo lên xe, chiếc áo khoác bị mắc lại ở cửa, thế là ông kéo rách”. Bà đưa ngón tay mân mê chỗ rách. “Tôi nhiều lần muốn vá, nhưng ông ấy không chịu để tôi làm. Cứ để thế để tưởng nhớ Leah và Dani, ông nói. Ông ấy đã mặc chiếc áo rách nhiều năm nay vì những gì xảy ra với vợ con anh”.

Điện thoại reo. Gabriel nhấc ống nghe áp vào tai và lắng nghe một lúc trong yên lặng. “Tôi sẽ có mặt ngay, thưa ngài”, anh nói rồi cúp máy và quay sang Gilah.

“Điện thoại của Thủ tướng. Ông ấy muốn gặp tôi ngay lập tức. Tôi sẽ quay trở lại sau buổi họp”.

“Đừng lo, Gabriel. Yonatan sẽ đến đây ngay”.

“Tôi sẽ quay trở lại, Gilah”.

Giọng anh cương quyết. Anh hôn má bà, cảm thấy mình có lỗi, rồi đứng dậy bước đi. Gilah nắm tay Gabriel khi anh đi về phía cửa. “Mang theo cái này”, bà nói. “Ông ấy sẽ muốn anh giữ nó”.

“Đừng nói như thể Ari sẽ không qua khỏi”.

“Mặc áo vào và đi đi”. Bà mỉm cười cay đắng. “Anh không được để Thủ tướng chờ”.

Gabriel bước ra hành lang và đi vội đến thang máy. Anh không được để Thủ tướng chờ. Đó là những lời Gilah luôn nói với Shamron mỗi khi ông rời xa bà đi làm nhiệm vụ.

Xe hơi và đội cận vệ đang chờ anh ở bên ngoài. Họ chỉ mất năm phút để tới văn phòng Thủ tướng ở số 3 đường Kaplan. Những người cận vệ đưa Gabriel vào tòa nhà qua lối ngầm và dắt anh lên cầu thang vào một văn phòng lớn đơn giản đến bất ngờ trên lầu cao nhất. Căn phòng tranh tối tranh sáng. Thủ tướng đang ngồi tại bàn làm việc trong một chùm ánh sáng chiếu vào. Trông ông nhỏ bé hẳn đi trong tương quan với bức vẽ chân dung cao lớn của nhà lãnh đạo Do Thái Theodore Herzl đang treo trên tường. Đã hơn một năm Gabriel mới được diện kiến ông. Trong khoảng thời gian này, tóc ông đã chuyển từ màu bạc sang trắng, và đôi mắt màu nâu đã có ánh nhìn mệt mỏi của người già. Cuộc họp với Bộ An ninh vừa kết thúc, và Thủ tướng đang ở một mình cùng Amos Sharret, tân Giám đốc của Văn phòng. Ông ta đang nhấp nha nhấp nhổm đầy căng thẳng trong chiếc ghế bằng đồng, Gabriel bắt tay ông lần đầu tiên. “Rất hân hạnh, cuối cùng cũng được gặp anh”, Amos nói. “Tôi ước rằng chúng ta gặp nhau trong hoàn cảnh khác”.

Gabriel ngồi xuống.

“Cậu đang mặc áo của Shamron”, Thủ tướng nhận xét.

“Gilah muốn tôi mặc chiếc áo này”.

“Chiếc áo hợp với cậu đấy”. Ông mỉm cười xa vắng. “Cậu biết không, cậu đang bắt đầu trở nên giống ông ấy”.

“Đây có phải là lời khen không?”

“Ông ấy rất đẹp trai khi còn trẻ”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 16-11-2013 10:42:30 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10
(tiếp theo)

“Ông ấy chưa bao giờ trẻ, thưa Thủ tướng”.

“Chúng ta cũng vậy thôi, chúng ta già trước tuổi, và hi sinh tuổi thanh xuân để xây dựng đất nước này. Shamron chưa có lấy một ngày nghỉ phép kể từ năm 1947. Chẳng lẽ mọi chuyện lại kết thúc như thế này sao?” Thủ tướng lắc đầu. “Không, ông ấy sẽ sống. Tin tôi đi, Gabriel, tôi biết ông ấy còn lâu hơn cậu”.

“Shamron là người bất tử. Gilah nói thế”.

“Có lẽ không phải là bất tử, nhưng ông ấy sẽ không thể bị một nhóm khủng bố cướp đi mạng sống”.

Thủ tướng cau mày nhìn đồng hồ.

“Thủ tướng có chuyện muốn bàn với tôi?”

“Về việc bổ nhiệm cậu làm đội trưởng Lực lượng Đặc nhiệm”.

“Tôi đã đồng ý nhận nhiệm vụ này, thưa Thủ tướng”.

“Tôi biết, nhưng có lẽ bây giờ không phải là thời điểm thích hợp để cậu nhậm chức”.

“Tôi có thể hỏi lí do tại sao không?”

“Bởi vì cậu cần tập trung sức lực lần theo dấu vết và trừng phạt những kẻ đã làm điều này với Shamron”.

Thủ tướng đột ngột im lặng, tựa như muốn cho Gabriel cơ hội thoái thác. Gabriel ngồi im, mắt nhìn xuống đôi bàn tay của mình.

“Cậu làm tôi ngạc nhiên”, Thủ tướng lên tiếng.

“Về việc gì?”

“Tôi cứ sợ cậu sẽ bảo tôi tìm một người khác”.

“Không ai được phép từ chối Thủ tướng”.

“Nhưng chắc chắn không chỉ vì lý do này”.

“Tôi có mặt ở Rome khi bọn khủng bố tấn công Vatican, và tôi cũng tiễn Shamron ra xe tối nay. Tôi nghe tiếng bom nổ”. Anh ngừng lại. “Mạng lưới này cần phải bị tiêu diệt, cho dù chúng là ai hay mục đích của chúng là gì - và phải tiêu diệt càng nhanh càng tốt”.

“Cậu nói như thể muốn trả thù”.

Gabriel nhìn lên. “Tôi muốn làm điều đó, thưa Thủ tướng. Có lẽ trong hoàn cảnh như thế này, tôi không phải là người thích hợp cho công việc”.

“Thực ra trong hoàn cảnh này, anh là người hoàn toàn thích hợp”.

Chính Amos là người thốt lên câu ấy. Lần đầu tiên, Gabriel quay lại nhìn kỹ ông. Người ông nhỏ nhưng khỏe khoắn, người như hình vuông. Tóc ông màu đen với đường viền như giáo sỹ, đôi lông mày ông rậm rạp. Ông vẫn là tướng trong IDF 1nhưng bây giờ ông không mặc quân phục mà mặc bộ đồ vest màu xám nhạt. Sự thẳng thắn của ông đã đem lại những thay đổi mới cho văn phòng. Lev giống que chọc của nha sỹ, lúc nào cũng tìm ra yếu điểm và những chỗ hư thối. Amos giống búa đóng đinh hơn. Gabriel sẽ phải rất cẩn thận khi làm việc cùng ông, phòng ngừa trường hợp búa rơi lên đầu mình.

“Chỉ cần cẩn thận không để sự giận dữ làm mờ đi sự sáng suốt của mình”, Amos nói thêm.

“Chưa bao giờ có chuyện ấy”, Gabriel trả lời, ánh mắt anh đáp trả cái nhìn cú vọ của Amos.

Amos cười nhạt, tựa như muốn nói. Sẽ không có vụ nổ bom ở ga Lyon nếu trong ca trực của tôi, chắc chắn là như thế. Thủ tướng tì lên hai khuỷu tay và ngả người tới trước.

“Cậu có nghĩ người Arập Xêút đứng sau vụ này?”

“Chúng ta có bằng chứng cho thấy mối liên hệ của Arập Xêút với hội Huynh đệ Allah”. Gabriel thận trọng nói, “nhưng chúng ta cần thêm thông tin mới có thể bắt đầu tìm kiếm một nhân vật cụ thể”.

“Ví dụ như Ahmed bin Shafiq”.

“Vâng, thưa Thủ tướng”.

“Nếu đúng là hắn thì sao?”

“Theo ý kiến của tôi, chúng ta đang đối mặt với một tổ chức, không phải là đang đối mặt với một phong trào. Đó là một tổ chức được chi trả bằng tiền củaArập Xêút. Nếu chúng ta tiêu diệt tên thủ lĩnh, tổ chức này sẽ chết. Nhưng việc này không dễ, thưa Thủ tướng. Chúng ta biết rất ít về hắn, thậm chí còn không biết hình dáng hắn như thế nào. Việc này cũng sẽ rắc rối về mặt chính trị, vì có liên quan đến người Mỹ”.

“Chẳng có gì phức tạp. Ahmed bin Shafiq cố giết cố vấn thân cận nhất của ta. Vì thế hắn phải chết”.

“Nếu hắn hành động theo mệnh lệnh của Hoàng tử Nabil hay của một ai đó trong hoàng tộc - gia đình có mối quan hệ về kinh tế và lịch sử chặt chẽ với đồng minh quan trọng nhất của Israel?”

“Chúng ta sẽ sớm biết việc này”.

Thủ tướng nhìn sang Amos.

“Adrian Carter bên CIA muốn nói chuyện với cậu”, Amos thông báo.

“Ngày mai tôi sẽ đi Washington để tóm tắt cho anh ta những gì chúng ta biết về vụ tấn công Vatican”.

“Carter đã yêu cầu đổi địa điểm gặp mặt”.

“Ông ta muốn gặp ở đâu?”

“Luân Đôn”.

“Tại sao lại là Luân Đôn?”

“Do Carter đề nghị”, Amos trả lời. “Ông ta muốn gặp tại một địa điểm trung lập tiện lợi cho cả hai bên”.

“Căn nhà an toàn của CIA ở Luân Đôn trở thành đất trung lập từ khi nào vậy?”. Gabriel nhìn Thủ tướng, sau đó nhìn Amos. “Tôi không muốn rời Jerusalem - cho đến khi biết chắc liệu Shamron có qua khỏi không”.

“Carter bảo việc này khẩn cấp”, Amos nói. “Ông ta muốn gặp cậu tối mai”.

“Vậy thì cử người khác đi gặp ông ta”.

“Chúng tôi không thể”, Thủ tướng nói. “Cậu là người duy nhất được mời”.

Chú thích

1. Lực lượng phòng thủ Israel.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2013 07:36:45 | Chỉ xem của tác giả
Chương 11
Luân Đôn

“Ông già thế nào rồi?”. Adrian Carter hỏi. Họ đang sóng vai bước trong khu Eatoo, cùng tránh cơn mưa rào ban đêm dưới cái ô của Carter. Họ gặp nhau năm phút trước, như thể tình cờ, ở quảng trường Belgrave. Carter mặc áo mưa bằng vải cao su và cầm tờ báo The Independent. Ông luôn chọn cách đó khi có những cuộc gặp trong nghề như thế này. Theo như chuyện cười trong Văn phòng, Adrian Carter còn lấy viên phấn đánh dấu lên thành giường khi muốn làm tình với vợ.

“Vẫn bất tỉnh”, Gabriel đáp, “nhưng ông vượt qua được đêm vừa rồi, và không còn mất máu nữa”.

“Ông ấy có nhiều khả năng sống không?”

“Đêm qua tôi sẽ nói là không”.

“Còn bây giờ?”

“Tôi lo không biết ông ấy sẽ còn lại được gì. Nếu não bị tổn thương, hay ông bị liệt ở một bộ phận nào đó…”. Giọng Gabriel nhỏ dần. “Shamron chỉ có duy nhất một thú vui trong cuộc sống, đó là công việc. Nếu không được làm việc, ông ấy sẽ đau khổ - những người xung quanh ông cũng sẽ như vậy”.

“Thế còn tin gì khác không?”. Carter liếc nhìn lối vào căn nhà kiểu Georgian tại số 24. “Căn hộ ở trong đó. Chúng ta hãy đi vòng dãy 1. Tôi thích thực hiện nghiệp vụ theo đúng quy tắc”.

“Anh không nghe tin gì sao, Adrian? Liên bang Xô Viết đã sụp đổ vài năm rồi. KGB 1không còn hoạt động. Bây giờ các anh và người Nga là bạn”.

“Cẩn thận bao nhiêu cũng không đủ đâu Gabriel”.

“Chẳng lẽ các nhân viên an ninh không đi trước để kiểm tra sao?”

“Không có nhân viên nào cả, Gabriel”.

“Đó có phải căn hộ an toàn của tổ chức không?”

“Cũng không hẳn”, Carter đáp. “Căn hộ này là của một người bạn”.

“Bạn của tổ chức à?”

“Thực ra là bạn của Tổng thống”.

Carter kéo nhẹ tay áo khoác của Gabriel và dẫn anh đi trên con đường tối như mực. Họ dạo một vòng quanh quảng trường Eaton yên ắng ngoại trừ tiếng xe cộ trên đường King vọng lại. Carter đi chậm chạp, y như thể đang đến một cuộc họp ngoài ý muốn. Gabriel thì đánh vật với mối băn khoăn: Tại sao Phó giám đốc Cục Tình báo Hoa Kỳ lại muốn trao đổi ở một nơi chính phủ ông ta không nghe được cuộc nói chuyện?

Họ quay lại khu Eaton. Lần này Carter đưa Gabriel xuống những bậc thang dẫn đến lối vào một tầng hầm. Khi Carter tra chìa vào ổ khóa, Gabriel nhẹ nhàng nhấc nắp thùng rác lên và thấy bên trong không có gì. Carter mở cửa dẫn anh vào căn bếp mà các quảng cáo bất động sản sẽ sẵn sàng mô tả là “đúng mốt”. Quầy bếp lát đá granite, được chiếu sáng nhờ đèn halogen giấu dưới dãy tủ. Sàn nhà lát bằng đá vôi Jerusalem. Đây là loại đá được những người Anh và người Mỹ sành điệu ưa thích vì có gắn kết với cội rễ Địa Trung Hải của mình. Carter bước về phía bếp đun bằng thép không gỉ, đổ nước vào ấm điện. Ông ta không hỏi Gabriel có muốn uống chút gì có cồn hay không. Ông biết Gabriel chỉ thỉnh thoảng làm vài ly rượu vang và không bao giờ uống rượu trong lúc làm việc ngoại trừ lí do phải ngụy trang.

“Ngôi nhà này có hai tầng”, Carter nói. “Phòng khách ở trên lầu. Cậu lên đó cho thoải mái”.

“Ông cho phép tôi nhìn quanh nhà à, Adrian?”

Carter đang đóng mở cánh cửa tủ bếp với vẻ mặt bối rối như muốn tìm thứ gì đó. Gabriel bước đến bên chạn thức ăn, tìm hộp trà Earl Grey rồi quăng cho Carter trước khi lên lầu. Phòng khách rất thích hợp để làm trạm tạm dừng, nó được trang bị đầy đủ nhưng không tiết lộ nhiều về chủ nhân. Gabriel không tìm thấy bóng dáng của tình yêu, sự xích mích hay nỗi buồn ở đây. Anh cầm khung ảnh từ chiếc bàn con lên ngắm, và thấy một người Mỹ thành đạt, ăn vận giản dị chụp cùng ba đứa con mũm mĩm và bà vợ phẫu thuật thẩm mỹ quá nhiều. Ngoài ra còn có hai bức hình chụp ông ta đứng cứng đơ bên cạnh Tổng thống. Cả hai tấm đều có ký tên và ghi dòng chữ: Tặng Bill với lòng biết ơn.

Một lát sau Carter lên lầu, tay bưng khay trà. Ông ta có mái tóc mỏng xoăn, và để kiểu ria mép đặc trưng của các giáo sư đại học Mỹ. Nếu chỉ căn cứ vào cung cách của Carter, người ta khó mà đoán được rằng ông ta là một trong những người quyền lực nhất tổ chức tình báo rộng khắp của Washington, và rằng trước khi lên được vị trí trên lầu bảy của Langley, ông ta đã từng là một điệp viên cực kỳ danh tiếng. Khuynh hướng thích nghe hơn thích nói khiến hầu hết mọi người nghĩ rằng ông ta là một bác sỹ tâm lý. Khi nghĩ về Carter, người ta dễ liên tưởng ông với một người phạm tội lăng nhăng, có những việc làm không đàng hoàng, hay một nhân vật trong tiểu thuyết của Dicken đang ngồi gù lưng nghiên cứu những quyển sách dày cộp toàn tiếng Latinh. Người ta có khuynh hướng đánh giá thấp Carter. Đây là một trong những vũ khí lợi hại nhất của ông ta.

“Ai đứng đằng sau chuyện này, Adrian?”. Gabriel hỏi.

“Cậu nói tôi nghe, Gabriel”. Carter đặt khay trà lên giữa bàn và cởi áo mưa tựa như mệt mỏi vì đi lại quá nhiều. “Đó là hàng xóm của các cậu”.

“Hàng xóm của chúng tôi nhưng có điều gì mách bảo tôi rằng đây lại là vấn đề của các ông. Nếu không ông chẳng có mặt ở Luân Đôn làm gì”. Gabriel nhìn quanh “trong một căn hộ đi mượn, không có microphone và không được trạm Luân Đôn yểm trợ”.

“Cậu không bỏ sót điều gì, đúng không? Làm tôi vui đi, Gabriel. Nói tôi nghe tên của hắn ta”.

“Hắn là nhân viên cũ của GID, tên là Ahmed bin Shafiq”.

“Hoan hô, Gabriel. Xuất sắc”. Carter quăng áo khoác lên lưng ghế. “Thật sự rất ấn tượng”.

Carter mở nắp ấm trà, ngửi mùi thơm, rồi quyết định cần phải để thêm một lát nữa cho trà ngấm.

“Làm sao phía cậu biết được điều này?”

“Chúng tôi không biết”, Gabriel trả lời. “Đây là một suy đoán có căn cứ, dựa trên một vài bằng chứng”.

“Bằng chứng gì?”

Gabriel kể cho Carter tất cả những gì anh biết. Phi vụ bám đuôi Giáo sư Massoudi không thành. Những tấm ảnh theo dõi và thông tin tài khoản ngân hàng tìm thấy trên máy tính của ông ta. Mối liên hệ giữa Ibrahim el-Banna và điệp viên người Arập Xêút tự xưng là Khalil. Báo cáo về một người Arập Xêút cùng tên đi tuyển nhân sự tại các lều tị nạn ở Nam Libăng. Anh kể lại tất cả mọi thứ trong khi Carter bận rộn với ấm trà. Ông ta rót chén đầu tiên đưa Gabriel. Chén của ông ta cần nhiều thứ phức tạp hơn: phải tính toán cẩn thận lượng sữa và trà, cuối cùng bỏ vào một viên đường. Các điều tra viên gọi đây là hành động thay thế. Carter ưa hút tẩu. Gabriel lo rằng lát nữa ông ta sẽ lại hút thuốc.

“Còn bên anh thì sao?”. Gabriel hỏi. “Các anh biết đó là bin Shafiq tự khi nào?”

Carter dùng kẹp gắp cục đường thứ hai, nhưng đấu tranh một thoáng xem có nên bỏ vào tách trà hay không. Cuối cùng ông ta thả cục đường lại, nó lăn long lóc xuống bát. “Có lẽ tôi đã biết từ ngày chúng tôi yêu cầu nhà vua đóng cửa nhóm 205”, ông ta đáp. “Hay có lẽ từ ngày bin Shafiq dường như biến mất khỏi mặt đất. Cậu thấy đấy, Gabriel, nếu tôi có học được gì trong ngành này, thì đó chính là bất cứ hành động nào của chúng ta cũng sẽ có một phản ứng tiêu cực chống lại. Chúng tôi đã đuổi con gấu Nga ra khỏi Afghanistan nhưng trong lúc đó lại tạo ra một con rắn nhiều đầu. Chúng tôi đã đập tan trụ sở chính của bọn al-Qaeda, để giờ đây những văn phòng chi nhánh lại tự hoạt động. Chúng tôi đã đóng cửa phòng của bin Shafiq ở GID, thế là hắn rút vào hoạt động bí mật”.

“Tại sao?”

“Ý cậu muốn hỏi chuyện gì đã dồn hắn sang chiến tuyến bên kia?”. Carter nhún vai khuấy trà một cách buồn bã. “Chẳng cần phải nghĩ nhiều mới có câu trả lời. Ahmed bin Shafiq là người thật sự tin vào Wahhabi”.

“Cháu trai của chiến binh Ikhwan”, Gabriel tiếp lời, và nhận được cái gật đầu đầy ngưỡng mộ của Carter.

“Người ta có thể tranh cãi tại sao người Arập Xêút lại tài trợ khủng bố”, Carter nói. “Người ta có thể tranh cãi liệu họ có thực sự ủng hộ những mục tiêu của bọn sát nhân mà họ có trang bị vũ khí và cung cấp tài chính hay không, hoặc là liệu có phải họ đang thực hiện chính sách khôn khéo nhưng yếm thế để kiểm soát môi trường xung quanh mình, qua đó đảm bảo sự tồn tại của họ hay không? Người ta có thể chưa có một cuộc tranh cãi như vậy về người mà GID chọn để thực hiện chính sách đó. Ahmed bin Shafiq có đức tin. Hắn ghét nước Mỹ, phương Tây, và ghét con chiên của đạo Thiên Chúa. Hắn sẽ hạnh phúc nếu đất nước các anh không tồn tại. Đó chính là lí do tại sao chúng tôi yêu cầu nhà vua đóng cửa văn phòng khủng bố của hắn”.

“Vì thế khi bên ông yêu cầu nhà vua đóng cửa nhóm 205, bin Shafiq giận dữ? Hắn quyết định sử dụng tất cả những mối liên hệ đã tạo dựng trong bao nhiêu năm qua để tự mình tạo nên làn sóng khủng bố? Chắc chắn còn lí do nào hơn thế nữa, Adrian ạ”.

“Tôi e là chúng tôi đã đẩy hắn vào con đường này”, Carter nói. “Chúng tôi đã tấn công Irắc ngược lại với mong muốn của Vương quốc và người dân. Chúng tôi đã bắt các thành viên al-Qaeda, nhốt chúng vào trong tù nơi chúng đáng phải ở. Chuyện này làm thế giới Hồi giáo bất mãn, và châm thêm dầu vào lửa của cuộc thánh chiến. Các anh cũng góp tay vào việc này. Người Arập Xêút coi Hàng rào ngăn cách là đường biên giới cuối cùng của một phía. Họ không hài lòng về chuyện này”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

24#
 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2013 07:38:35 | Chỉ xem của tác giả
Chương 11
(tiếp theo)

“Chuyện này có thể làm ông bị sốc, Adrian, nhưng chúng tôi không quan tâm người Arập Xêút nghĩ gì về hàng rào biên giới. Nếu bọn họ không đổ hàng triệu đô la vào kho bạc của Hamas và cuộc Thánh chiến Hồi giáo, chúng tôi không cần xây hàng rào”.

“Quay trở lại điểm ban đầu của tôi”, Carter ngừng lại để uống một ngụm trà. “Thế giới Hồi giáo đang sục sôi vì giận dữ, và Ahmed bin Shafiq, vốn tin vào Wahhabi, đã bước ra phía trước lãnh sứ mệnh giương ngọn cờ thánh chiến chống lại những kẻ không theo đạo. Hắn đã tận dụng những mối liên lạc từ hồi còn làm thủ lĩnh nhóm 205 để xây dựng một hệ thống mới. Hắn đang thực hiện điều mà Bin Laden không thể làm, đó là lập kế hoạch và tiến hành những cuộc tấn công khủng bố ngoạn mục trên diện rộng vào những nơi như Vatican. Mạng lưới của hắn nhỏ nhưng cực kỳ chuyên nghiệp, và hắn đã chứng minh điều đó một cách thuyết phục, và đầy chết chóc”.

“Mạng lưới được mua và chi trả bằng tiền của Arập Xêút”.

“Đúng vậy”, Carter khẳng định.

“Việc này đạt tới cấp nào, Adrian?”

“Rất cao”, Carter đáp. “Gần cấp cao nhất”.

“Hắn đang hoạt động ở đâu? Ai đang trả tiền cho các hóa đơn? Tiền từ đâu mà ra?”

“Công ty Cổ phần AAB của Riyadh, Geneva, và những nơi trung gian”, Carter trả lời lập lờ. “Ahmed bin Shafiq là một trong những vụ đầu tư thành công nhất của AAB. Tôi rót trà thêm cho cậu nhé?”

Cuộc hội đàm lại gián đoạn, lần này là do Carter tìm cách bật hệ thống sưởi bằng ga. Ông ta đứng trước lò sưởi một lúc, sau đó liếc về phía Gabriel nhờ giúp đỡå. Gabriel tìm thấy chìa khóa trên mặt lò sưởi, anh sử dụng chìa khóa để mở ga, sau đó dùng diêm đốt lò.

“Cậu cho bọn chúng bao nhiêu năm, Gabriel? Còn bao lâu nữa Hoàng tộc Arập Xêút mới sụp đổ và nước Cộng hòa Arập Hồi giáo được thành lập? Năm năm? Mười năm? Hay hai mươi năm? Chúng tôi không bao giờ giỏi dự đoán những việc như thế này. Chúng tôi đã nghĩ đế chế Xô Viết sẽ tồn tại mãi mãi”.

“Còn chúng tôi thì nghĩ Hamas không bao giờ thắng trong cuộc bầu cử”.

Carter tặc lưỡi buồn bã. “Những bộ óc xuất sắc nhất của chúng tôi dự đoán lâu nhất là trong vòng bảy năm nữa. Nhà vua chuẩn bị dùng bảy năm này chơi trò chơi theo luật lệ cũ: cung cấp dầu giá rẻ và tình bằng hữu giả tạo với chúng tôi, trong khi đó ông ta khua môi múa mép với các lực lượng Hồi giáo và hối lộ để bọn chúng không tấn công ông ta. Khi mọi chuyện kết thúc, ông ta sẽ chạy sang dải cung điện dọc theo Riveria sống những ngày còn lại trong sự xa hoa vượt sức tưởng tượng, hi vọng là lúc đó đầu ông ta vẫn còn nằm trên cổ”.

Carter đưa lòng bàn tay về phía ngọn lửa. “Lửa không nóng”, ông ta nói.

“Bếp lò được làm từ gốm. Ông đợi một chút nó mới nóng lên”.

Carter lộ vẻ không tin. Gabriel đến bên cửa sổ nhìn xuống đường đúng lúc một chiếc xe hơi chầm chậm chạy qua rồi biến mất ở khúc quanh gần đó. Carter không nhìn ngọn lửa nữa và quay về chỗ ngồi.

“Có nhiều nguời trong Hoàng tộc sẵn sàng chơi trò chơi theo quy tắc khác. Chúng tôi gọi họ là Những người có xác tín. Họ nghĩ rằng cách duy nhất dòng họ al-Saud có thể tồn tại là kí kết lại bản thỏa ước đã kí với Muhammad Abdul Wahhad cách đây hai thế kỷ ở Najd. Nhưng bản hợp đồng này phải xem xét đến những thực tế mới. Con quái vật dòng họ al-Saud tạo ra hai thế kỷ trước bây giờ đang nắm quân bài, và Những người có xác tín sẵn sàng cho con quái vật điều nó muốn, đó là máu người không theo đạo. Thánh chiến sẽ chẳng bao giờ kết thúc. Một vài người có xác tín muốn đi xa hơn. Trục xuất tất cả những người không theo đạo ra bán đảo. Đình chỉ bán dầu cho nước Mỹ hay bất cứ những nước nào buôn bán với nước các anh. Họ nghĩ rằng không được tiếp tục xem dầu như nguồn tiền vô tận chảy từ các giếng dầu ở Ras Tanura vào các tài khoản ngân hàng của dòng họ al-Saud. Họ muốn sử dụng chúng như là vũ khí - vũ khí có thể làm què quặt nền kinh tế Hoa Kỳ và khiến các Wahhabi trở thành chủ của hành tinh, như Allah đã muốn khi đặt dầu dưới cát vùng al-Hassa. Một vài kẻ trong hội Những người có xác tín này, như chủ tịch và CEO của Riyadh, Geneva, và trung gian, thực sự muốn tự tay chích huyết của những kẻ ngoại đạo”.

“Ý ông muốn nói đến Abdul Aziz al-Bakari?”

“Đúng vậy”, Carter xác nhận. “Cậu có biết nhiều về ông ta không?”

“Theo lần công bố gần đây nhất, ông ta là người giàu thứ 15 thế giới, có tài sản cá nhân vào khoảng 10 tỷ đô la”.

“Sai số khoảng một hai tỷ”.

“Ông ta là Chủ tịch, là hoàng đế của Tập đoàn AAB - A là viết tắt của Abdul, A của Aziz, và B của al-Bakari. AAB sở hữu ngân hàng và các công ty đầu tư. AAB làm vận chuyển và thép. AAB đang chặt rừng Amazon, khai thác mỏ ở dãy Andes ở Peru và Bolivia. AAB có công ty hóa chất ở Bỉ, công ty dược ở Hà Lan. Bộ phận phát triển địa ốc của AAB là một trong những công ty lớn nhất thế giới. Abdul Aziz al-Bakari sở hữu nhiều khách sạn hơn bất cứ ai trên đời”.

Carter nói tiếp khi Gabriel ngừng lại. “Ông ta có cung điện ở Riyadh nhưng rất hiếm khi ghé qua, hai bà vợ trước đang sống ở đó nhưng ông ta không bao giờ thăm hỏi. Ông ta có một dinh thự ở Ile de la Cité, ở Paris, một khu đất ở vùng quê nước Anh, căn nhà phố ở Mayfair, các villa nhìn ra biển ở Saint-Tropez, Marbella, và Maui, biệt thự nhỏ tại các khu trượt tuyết ở Zermatt và Aspen, và một căn hộ trên đại lộ Park gần đây được đánh giá khoảng 40 triệu đô la, một toà nhà nhìn ra sông Potomac tôi đi qua mỗi ngày trên đường đi làm”.

Carter dường như thấy dinh thự nhìn ra sông Potomac là tội lớn nhất trong số các tội ác của al-Bakari. Cha của Carter là một mục sư Tân giáo đến từ New Hampshire, và dưới lớp vỏ bề ngoài điềm tĩnh của ông ta là trái tim rạo rực của một người theo Thanh giáo.

“Al-Bakari và phụ tá của ông ta đi vòng quanh thế giới trên chiếc 747 dát vàng”, ông ta nói tiếp. “Hai lần một năm, một lần vào tháng hai và một lần vào tháng tám, ban điều hành AAB đi nghỉ ở biển. Al-Bakari và đội phụ tá của hắn nghỉ ngơi trên chiếc Alexandra, chiếc du thuyền dài ba trăm bộ. Tôi có quên điều gì không nhỉ?”

“Bạn bè gọi ông ta là Zizi”, Gabriel trả lời. “Ông ta có một trong những bộ sưu tập tranh cá nhân theo trường phái ấn tượng Pháp lớn nhất thế giới. Từ nhiều năm nay, chúng tôi đã thông báo với các ông rằng hắn chuyên tài trợ cho hoạt động khủng bố, đặc biệt là chống lại chúng tôi”.

“Tôi không biết việc này”.

“Biết việc gì?”

“Zizi là nhà sưu tập tranh”.

“Thật ra hắn là một nhà sưu tập đầy đam mê”.

“Cậu bao giờ có hân hạnh gặp ông ta chưa?”

“Tôi e là Zizi và tôi ở hai thế giới khác nhau trong ngành này”. Gabriel nhíu mày. “Mối liên hệ giữa Zizi al-Bakari và Ahmed bin Shafiq là gì?”

“Al-Bakari là một người rất thú vị. Cậu có biết rằng cha của hắn là chủ nhà băng riêng của Ibn Saud không? Chắc cậu cũng đoán ra, cha của al-Bakari làm ăn phát đạt - đủ để cho cậu con trai 10 triệu đô la để lập công ty riêng. Số tiền này không thấm tháp gì so với số tiền vốn ông ta nhận được từ dòng họ al-Saud khi mọi việc bắt đầu khấm khá. Theo tin đồn là 100 triệu đô la. AAB vẫn là nơi đổ tiền ưa thích của Hoàng tộc Arập Xêút. Đây cũng là lí do tại sao Zizi muốn đảm bảo sự tồn tại của Hoàng tộc al-Saud”.

Gabriel hơi khó chịu khi Carter với tay lấy tẩu thuốc.

“Ông ta là một trong những người giàu nhất”, Carter nói. “Và cũng là một trong những nhà từ thiện lớn nhất thế giới. Ông ta xây dựng nhà thờ và trung tâm Hồi giáo trên khắp châu Âu. Ông ta tài trợ cho những dự án phát triển ở châu thổ sông Nile và cứu tế nạn đói ở Su-đăng. Ông ta đã cung cấp hàng triệu đô cho dân tị nạn Palestine, và thêm hàng triệu cho những dự án phát triển ở Bờ Tây và dải Gaza”.

“Còn thêm hơn 30 triệu đô cho chương trình truyền hình từ thiện ở Arập Xêút nhằm quyên tiền cho những kẻ đánh bom liều chết”, Gabriel nói thêm. “Zizi là nhà tài trợ cá nhân lớn nhất. Bây giờ, hãy trả lời câu hỏi của tôi, Adrian”.

“Câu hỏi nào?”

“Mối liên hệ giữa Zizi và bin Shafiq là gì?”

“Cậu vốn giỏi liên kết các hiện tượng lại với nhau mà, Gabriel. Cậu hãy nói tôi nghe”.

“Rõ ràng là Zizi tài trợ cho các hoạt động của hệ thống của bin Shafiq”.

“Hiển nhiên”, Carter đồng ý.

“Nhưng bin Shafiq là người Arập Xêút. Hắn ta có thể lấy tiền ở bất cứ người nào. Zizi có điều quý hơn tiền. Zizi có cơ sở hạ tầng toàn cầu nhờ vào đó bin Shafiq có thể vận chuyển nhân công và vật liệu. Zizi còn có nơi trú ẩn tuyệt vời cho một người như bin Shafiq lẩn trốn”.

“Tập đoàn AAB ở Riyadh, Geneva và trung gian”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2013 07:41:01 | Chỉ xem của tác giả
Chương 11
(tiếp theo)

Sự yên lặng bao trùm lên họ như một bức màn khi Carter uể oải chuẩn bị tẩu thuốc. Gabriel vẫn đứng tại cửa sổ nhìn xuống đường. Anh muốn đứng ở đó, vì tẩu thuốc của Carter sau khi châm lửa sẽ có hỗn hợp mùi của cỏ khô đang cháy và chó bị ướt. Tuy nhiên anh biết rằng cuộc nói chuyện giữa họ đã bắt đầu đi vào những nội dung không thể tiết lộ bên một cửa sổ thiếu an toàn như thế này. Ngần ngừ một lúc, anh ngồi xuống chiếc ghế đối diện Carter. Họ nhìn nhau trong yên lặng, Carter trầm ngâm rít thuốc, còn Gabriel mệt mỏi xua khói thuốc khỏi mắt.

“Ông chắc chắn tới mức nào?”

“Rất chắc”.

“Làm sao ông biết?”

“Nhờ nguồn tin và phương pháp”, Carter nói lại một cách máy móc. “Nguồn tin và phương pháp”.

“Làm sao ông biết, Adrian?”

“Bởi vì chúng tôi nghe lén ông ta”, Carter nói. “Cơ quan An ninh Quốc gia là nơi tuyệt vời. Chúng tôi cũng có nội gián trong Hoàng tộc và GID sẵn sàng tiết lộ thông tin. Ahmed bin Shafiq sống chủ yếu ở phương Tây dưới nhân dạng giả. Hắn ta đang được giấu ở đâu đó trong đế chế đồ sộ của Zizi, và bọn họ gặp nhau khá thường xuyên. Chúng tôi chắc chắn về điều này”.

Có bộ hồ sơ đặt trên bàn trung tâm, kế bên khay trà của Carter. Carter lấy bức hình duy nhất kẹp trong đó trao cho Gabriel. Bức hình chụp một người đàn ông mặc áo khoác dài bằng len và đội mũ nỉ đang đứng ngoài cánh cửa sắt. Khuôn mặt chụp từ góc trái nên nét mặt khá mờ. Theo độ nén của bức ảnh, có thể thấy nó được chụp từ xa.

“Đây là hắn ta à?”

“Chúng tôi nghĩ vậy”, Carter đáp.

“Bức ảnh được chụp khi nào?”

“Bên ngoài căn nhà của Zizi ở Ile de la Cité, Paris. Người chụp ảnh ở bên kia sông Seine, trong Quai de l’Hôtel de Ville. Đó chính là lí do tại sao bức ảnh không được rõ nét”.

“Cách đây bao lâu?”

“Sáu tháng”.

Carter từ từ đứng dậy đi về phía lò sưởi. Ông sắp trút tàn thuốc trong tẩu vào lò sưởi thì Gabriel nhắc nhở rằng lò sưởi được làm bằng gốm. Carter ngồi trở lại và đổ tàn thuốc vào gạt tàn lớn bằng thủy tinh.

“Bao nhiêu người Mỹ bị giết trong vụ Vatican?” Gabriel hỏi.

“Hai mươi tám, bao gồm một Giám mục trong Hội đồng”.

“Trong những năm qua Zizi al-Bakari đã cung cấp bao nhiêu tiền cho bọn khủng bố?”

“Hàng trăm triệu đô la”.

“Hãy săn lùng ông ta”, Gabriel nói. “Lập hồ sơ đưa ông ta ra toà”.

“Kiện Zizi al-Bakari?”

“Mục U.S.C. 2338B - ông đã bao giờ nghe điều luật này chưa, Adrian?”

“Bây giờ cậu lại còn trích dẫn luật nước Mỹ ra với tôi sao?”

“Tài trợ tiền cho những nhóm khủng bố đã xác định là vi phạm luật pháp Mỹ, bất kể đến việc liệu tiền đó có được dùng trong những vụ khủng bố cụ thể hay không. Các ông có thể kiện hàng tá những người Arập Xêút giàu có vì đã giúp đỡ về mặt vật chất cho kẻ thù, bao gồm cả Zizi Bakari”.

“Cậu làm tôi thất vọng, Gabriel. Tôi luôn nghĩ cậu là người biết lý lẽ - đôi khi hơi quan tâm quá mức về chuyện đúng hay sai, nhưng là người biết lý lẽ. Chúng tôi không thể kiện Zizi al-Bakari được”.

“Vì sao?”

Tiền”, Carter nói, sau đó thêm vào. “Và dĩ nhiên là dầu nữa”.

“Dĩ nhiên”.

Carter nghịch chiếc bật lửa. “Hoàng gia Arập Xêút có nhiều bạn bè ở Washington - loại bạn chỉ cần có tiền là mua được. Zizi cũng có bạn. Ông ta tài trợ cho các khoa rồi đưa những người quen và ủng hộ vào. Ông ta bỏ tiền vào việc thành lập các khoa Arập học ở một nửa tá trường đại học danh tiếng ở Mỹ. Hầu như một mình ông ta cung cấp tài chính cho việc tân trang Trung tâm Kennedy. Ông ta đóng góp cho những hoạt động từ thiện của các thượng nghị sỹ có quyền lực, và đầu tư vào công việc làm ăn của bạn bè và người thân họ. Ông ta có cổ phần tại một trong những ngân hàng uy tín nhất của chúng tôi. Ông ta cũng là người trung gian trong các vụ làm ăn giữa Arập Xêút và Mỹ. Bức tranh về ông ta đã trở nên rõ ràng với cậu chưa?”

Gabriel đã hiểu rõ, nhưng anh vẫn muốn nghe thêm.

“Hễ quân đoàn luật sư của Zizi ở New York đánh hơi thấy ông ta đang là mục tiêu của một vụ điều tra hình sự, Zizi sẽ gọi cho nhà vua, nhà vua sẽ gọi cho Đại sứ Bashir, rồi đại sứ Bashir sẽ ghé qua Nhà Trắng tán gẫu với Tổng thống. Ông ta sẽ nhắc Tổng thống rằng chỉ cần vặn vòi dầu một hay hai lần, giá dầu sẽ tăng thêm năm đô la một thùng. Ông ta cũng chỉ ra rằng việc tăng vọt giá sẽ ảnh hưởng đến những người ở trung tâm thường xuyên phải lái xe đường dài, những người rất có thể sẽ bầu cho đảng của Tổng thống”.

“Thế là Zizi thoát khỏi tội sát nhân - nói theo nghĩa đen”.

“Tôi e rằng như vậy”.

“Đừng hỏi về những thứ sẽ gây rắc rối cho mình nếu biết rõ”.

“Anh thuộc kinh Koran đấy”, Carter nói.

“Một trong những lí do ông không thể chống lại Zizi hay khởi tố ông ta vì ông sợ những gì mình sẽ tìm ra: quan hệ làm ăn với những người Mỹ danh tiếng, phi vụ mờ ám với những nhân vật trong chính quyền Washington. Thử tưởng tượng phản ứng của dân Mỹ nếu họ biết một tỷ phú Arập Xêút có quan hệ làm ăn với những gương mặt nổi bật ở Washington lại đang tài trợ cho hoạt động của kẻ thù. Mối quan hệ khó lòng tồn tại nổi sau vụ 11/9 đầu tiên, và tôi cũng nghi ngờ việc nó có thể tồn tại sau vụ thứ hai”.

“Không, không thể - ít nhất không dưới hình thức như hiện tại. Đã có phong trào trong Toà nhà Quốc hội Mỹ đề xuất cách ly Arập Xêút do sự ủng hộ của nó đối với Hồi giáo cực đoan. Một vụ xì căng đan có liên quan đến Zizi al-Bakari chỉ tổ thêm dầu vào lửa. Nhóm xây dựng chính sách đối ngoại trong Quốc hội đang xem xét pháp chế qua đó gây sức ép cho Arập Xêút. Họ có quyền xa hoa. Họ không chịu trách nhiệm nếu nền kinh tế Mỹ rơi vào khủng hoảng do giá dầu tăng. Tổng thống mới là người chịu”.

“Vậy thì ông muốn gì ở chúng tôi, Adrian? Ông muốn nói gì với tôi, trong căn phòng không bị nghe trộm này?”

“Tổng thống Mỹ muốn xin một ân huệ”, Carter nói, mắt nhìn ngọn lửa. “Loại ân huệ mà may sao phía các anh lại rất giỏi thực hiện. Ông muốn các anh cài một người vào gia tộc của Zizi. Ông muốn các anh nắm được ai đang ra vào. Và nếu Ahmed bin Shakiq tình cờ ghé qua, ông muốn các anh tặng hắn một phát đạn. Đây là nhiệm vụ của các anh, nhưng chúng tôi sẽ hỗ trợ bất cứ điều gì các anh cần. Chúng tôi sẽ đứng ở đường chân trời - đủ xa để có thể chối bỏ trách nhiệm một cách hợp lí khi ở Riyadh”.

“Ông làm tôi thất vọng, Adrian. Tôi luôn nghĩ ông là người biết lí lẽ”.

“Tôi đã làm gì nào?”

“Tôi cứ nghĩ ông sẽ yêu cầu tôi giết Zizi và chấm dứt mọi chuyện”.

“Giết Zizi?” Carter lắc đầu. “Zizi không thể bị xâm phạm. Ông ta được miễn truy cứu”.

Gabriel trở về vị trí bên cửa sổ ngắm nhìn đường phố và thấy một cặp tình nhân đi vội trên vỉa hè trong cơn mưa giông. “Chúng tôi không phải là sát thủ theo hợp đồng”, anh trả lời. “Chúng tôi không làm những công việc dơ bẩn mà các ông không thể tự thực hiện. Bên ông muốn bin Shafiq chết, nhưng lại không muốn gặp rủi ro về kinh tế. Các ông dựng chúng tôi lên để nhận rủi ro thay cho các ông”.

“Tôi có thể nhắc cậu nhớ một vài sự kiện nổi bật”, Carter nói. “Hãy nhớ là Tổng thống đã kiên định ở bên các cậu khi cả thế giới xem các cậu như người Do Thái gây hiềm khích giữa các quốc gia. Tôi có thể nhắc các cậu nhớ rằng Tổng thống cho phép bên cậu xây Hàng rào ngăn cách trong khi cả thế giới buộc tội nước cậu hành động như những người Nam Phi. Ông cũng cho phép bên cậu nhốt cách ly A’one ở Mukata trong khi cả thế giới buộc tội bên cậu là lính Đức Quốc xã. Rất nhiều lần khác Tổng thống đã bênh vực cho bên cậu, nhưng tôi sẽ không nhắc lại, vì điều này không khôn ngoan. Nếu cậu đồng ý nhiệm vụ này, nó cũng giống như sợ có qua có lại, nhưng thực ra không phải thế”.

“Thế thì là gì?”

“Một sự nhận thức”, Carter đáp. “Nhận thức rằng người Mỹ chúng tôi không đủ can đảm làm những điều chúng tôi phải làm để chiến thắng trong cuộc chiến này. Ngón tay chúng tôi đã bị bỏng. Hình ảnh của chúng tôi bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chúng tôi nhìn vào gương và không thích những gì mình nhìn thấy. Các chính trị gia muốn chúng tôi đón những chuyến bay đầu tiên rời khỏi Irắc để họ có thể dùng tiền vào những thứ có thể giành được phiếu bầu. Người dân muốn quay trở lại với cuộc sống vinh thân phì gia. Họ muốn vùi đầu vào cát giả vờ không có bất cứ một lực lượng hay tổ chức nào đang lên kế hoạch và âm mưu phá hủy cuộc sống của họ. Chúng tôi đã trả giá đắt để trèo vào máng nước cùng với bọn khủng bố, và đấu tranh với chúng ở mức độ của chúng, nhưng tôi biết cậu rõ về việc này như thế nào. Không ai trả giá đắt hơn cậu”.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2013 07:42:52 | Chỉ xem của tác giả
Chương 11
(tiếp theo)

“Vì thế ông muốn tôi làm việc này cho ông. Tôi nghĩ người ta gọi việc này là tìm nguồn giá rẻ nơi khác. Ông đúng là người Mỹ, Adrian”.

“Trong hoàn cảnh này, nước Mỹ không thể biến một cựu nhân viên tình báo cấp cao của Arập Xêút thành mục tiêu ám sát, vì làm như vậy sẽ gây đổ vỡ mối quan hệ của chúng tôi với Riyadh. Chúng tôi cũng không thể bắt giam hay khởi tố Zizi a-Bakari vì những lí do tôi đã nói với cậu”.

“Vì thế ông muốn giải quyết vấn đề này mà không bị ảnh hưởng?”

“Chính xác”.

“Ông muốn quét vào dưới thảm? Hay hoãn lại việc này cho đến một ngày nào đó thuận lợi hơn?”

“Có nhiều cách khác nhau để làm việc này mà”.

“Ông nghĩ đây là cách đánh bại rắn nhiều đầu à? Cắt một đầu đi và hi vọng điều tốt nhất? Ông phải diệt tận gốc, giống như cách Hercules đã làm. Ông phải tấn công con quái vật bằng mũi tên tẩm độc”.

“Cậu muốn lật đổ Hoàng tộc Arập Xêút?”

“Không chỉ Hoàng tộc”, Gabriel đáp. “Mà cả những tên điên cuồng theo Wahhabi đã kí hiệp ước bằng máu cách đây hai trăm năm trên cao nguyên Najd cằn cỗi. Chúng là kẻ thù thật sự của ông, Adrian. Chúng là những tên đã tạo ra rắn nhiều đầu”.

“Một Hoàng tử thông thái đã chọn đúng thời gian và địa điểm cho cuộc chiến. Đây không phải là lúc tiêu diệt Hoàng tộc Arập Xêút”.

Gabriel chìm vào sự im lặng đầy tâm trạng. Carter đang nhìn đầu tẩu để chỉnh sửa vị trí mẩu thuốc, giống như một quí ngài đang chờ câu trả lời từ cậu học trò chậm hiểu.

“Tôi có cần nhắc cậu nhớ chúng đã chọn Shamron làm mục tiêu không?”

Gabriel nhìn Carter giận dữ ý muốn nói ông ta không cần nhắc lại điều này.

“Vậy tại sao cậu lại do dự? Tôi nghĩ cậu chắc đang nóng lòng muốn trả thù bin Shafiq sau những gì hắn làm với ông già”.

“Tôi muốn tóm hắn hơn ai hết, Adrian, nhưng tôi không như con chó đang chồm căng sợi dây buộc cổ. Đây là phi vụ nguy hiểm - quá nguy hiểm cho người thậm chí chỉ muốn thử. Nếu có sai lầm gì, hay nếu chúng ta bị bắt quả tang, mọi việc sẽ kết thúc rất tệ - cho cả ba chúng ta”.

“Ba người?”

“Ông, tôi, và Tổng thống”.

“Hãy làm theo Lời răn thứ mười một của Shamron thì cậu sẽ không sao. Cậu sẽ không bị bắt”.

“Bin Shafiq là bóng ma. Chúng ta thậm chí còn không có hình hắn”.

“Việc này cũng không hoàn toàn đúng”. Carter thò tay vào tập hồ sơ một lần nữa và lấy ra một tấm hình khác đặt lên bàn cho Gabriel nhìn. Trong bức hình là một người đàn ông mắt đen nhỏ, khuôn mặt bị che một phần bởi khăn trùm đầu. “Đó chính là bin Shafiq cách đây hai mươi năm ở Afghanistan. Khi đó hắn là bạn của chúng tôi. Chúng tôi cùng một chiến tuyến. Chúng tôi cung cấp vũ khí. Bin Shafiq và chủ hắn ở Riyadh cung cấp tiền”.

“Và hệ tư tưởng Wahhabi khai sinh ra Talibăng”, Gabriel nói.

‘Đúng là gieo nhân nào gặp quả nấy. “Nhưng may thay chúng tôi có thứ quý giá hơn tấm ảnh chụp 20 năm. Chúng tôi có giọng nói của hắn”.

Carter cầm chiếc điều khiển từ xa chĩa vào chiếc rađio Bose Wave và nhấn nút bật. Một lát sau, hai người đàn ông bắt đầu trao đổi với nhau bằng tiếng Anh: một người nói bằng giọng Mỹ, người kia nói bằng giọng Arập.

“Tôi đoán người Arập Xêút là bin Shafiq?”

Carter gật đầu.

“Đoạn băng được thu âm khi nào?”

“Vào năm 1988”, Carter nói. “Trong tòa nhà an toàn ở Peshawar”.

“Ai là người Mỹ?”. Gabriel hỏi, mặc dù anh đã biết câu trả lời. Carter nhấn nút dừng rồi nhìn ánh lửa. “Tôi”, giọng ông ta xa vắng. “Người Mỹ tại căn nhà an toàn của CIA tại Peshawa là tôi”.

“Ông có nhận ra bin Shafiq nếu gặp lại hắn không?”

“Có lẽ, nhưng nguồn tin của chúng tôi báo lại rằng hắn đã thực hiện vài lần phẫu thuật thẩm mỹ trước khi bắt đầu hoạt động. Tuy vậy, tôi có thể nhận ra vết sẹo trên bắp tay phải của hắn. Hắn ta bị một miếng bom nổ văng vào người trong chuyến công tác ở Afganistan năm 1985. Vết sẹo chạy từ trên cổ tay cho đến dưới khuỷu tay. Không nhà phẫu thuật nào có thể là phẳng vết sẹo đó”.

“Bên trong bắp tay hay bên ngoài?”

“Bên trong”, Carter nói. “Vết thương khiến tay bin Shafiq hơi bị teo. Hắn đã trải qua vài cuộc phẫu thuật cố gắng chữa cánh tay nhưng không có tác dụng. Hắn thường để tay trong túi quần. Hắn không thích bắt tay. Hắn ta là người Arập du cư kiêu hãnh. Hắn khinh bỉ những yếu đuối về mặt thể chất”.

“Tôi đoán nguồn tin của ông ở Riyadh không biết được liệu bin Shafig đang trốn ở đâu trong đế chế của Zizi?”

“Không may là đúng thế. Nhưng chúng tôi biết chắc hắn đang ở đó. Hãy cài điệp viên vào gia tộc của Zizi. Cuối cùng bin Shafiq sẽ bước vào nhà qua cửa sau”.

“Cài một điệp viên thân cận với Zizi al-Bakari? Chúng tôi làm điều đó bằng cách nào, Adrian? Zizi được bảo vệ chặt chẽ hơn cả các nguyên thủ quốc gia đấy”.

“Tôi không muốn can thiệp vào vấn đề nghiệp vụ”, Carter nói. “Nhưng cứ an tâm là chúng tôi sẵn lòng chờ đợi, và sẽ đi theo vụ này đến cùng”.

“Tính kiên nhẫn và theo đuổi đến cùng không phải là những đức tính đặc trưng của người Mỹ. Người Mỹ thích gây ra lộn xộn rồi chuyển sang vấn đề tiếp theo”.

Thời gian yên lặng kéo dài, lần này bị phá vỡ bởi tiếng tẩu Carter gõ vào thành gạt tàn.

“Cậu muốn gì, Gabriel?”

“Sự đảm bảo”.

“Không có đảm bảo trong ngành của chúng ta. Cậu biết điều này”.

“Tôi cần mọi thông tin các ông có về bin Shafiq và al-Bakari”.

“Trong chừng mực thôi”, Carter nói. “Tôi sẽ không cung cấp những thông tin gây bất lợi cho những nhân vật danh giá ở Washington”.

“Tôi cần sự bảo vệ”, Gabriel nói. “Khi việc này hạ màn, chúng tôi sẽ là đối tượng bị nghi ngờ đầu tiên. Chúng tôi luôn phải chịu đựng điều đó, thậm chí ngay khi chúng tôi không chịu trách nhiệm. Và chúng tôi sẽ cần sự giúp đỡ của các ông để chống chọi cơn bão”.

“Tôi chỉ có thể đại diện cho cấp cao”, Carter nói. “Tôi có thể đảm bảo với anh chúng tôi sẽ có mặt khi anh cần”.

“Chúng tôi sẽ bắt bin Shafiq tại thời gian và địa điểm tự chọn, không có sự can thiệp của Langley”.

“Tổng thống rất biết ơn nếu anh tránh không làm việc này trên đất Mỹ”.

“Không có sự đảm bảo nào trong nghề của chúng ta, Adrian ạ”.

“Anh dùng lời nói của tôi để chống lại tôi đấy à?”.

“Chắc ông không tin, nhưng tôi không thể tự quyết định. Tôi cần thảo luận với Amos và Thủ tướng”.

“Amos và Thủ tướng sẽ làm những gì anh bảo”.

“Trong chừng mực thôi”.

“Vậy anh sẽ nói với họ những gì?”

“Tôi sẽ bảo rằng Tổng thống Hoa Kỳ cần giúp đỡ”, Gabrie nói. “Và tôi muốn giúp ông ta”.

Chú thích

1. Ủy ban An ninh Quốc gia Nga.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2013 15:51:43 | Chỉ xem của tác giả
Chương 12
Đồi Megiddo, Israel

Thủ tướng cho Gabriel mượn xe chuyên dụng của ông vào lúc 2h30 trưa hôm sau. Gabriel đi về phía Armageddon. Anh nghĩ đây là một nơi rất hay để bắt đầu chuyến du ngoạn.

Thời tiết tuyệt đẹp có vẻ như không phù hợp với một dịp thế này: nhiệt độ mát mẻ, bầu trời xanh nhạt, gió nhẹ mơn man thổi ngược cánh tay áo sơ mi khi anh tăng tốc trên đường Jaffa. Anh mở đài. Khúc nhạc buồn bã vẫn phát đi sau vụ ám sát Shamron đột ngột lịm tắt, thay vào đó là bản tin. Thủ tướng hứa làm mọi việc trong khả năng của ông để lần theo dấu vết và trừng phạt những kẻ đòi lấy mạng Shamron. Ông không đề cập sự thực mình đã biết ai chịu trách nhiệm, và không đề cập đến việc đã trao quyền cho Gabriel giết kẻ đó.

Gabriel lái về phía biển, theo hướng Bab al-Wad, anh lượn lách một cách thiếu kiên nhẫn qua dòng xe cộ chậm chạp rồi chạy đua cùng mặt trời đang lặn về phía bắc dọc theo đồng bằng duyên hải. Có báo động an ninh gần Hareda - theo như rađio, một kẻ bị tình nghi là quân đánh bom liều chết đã vượt qua Hàng rào ngăn cách gần Tulkarm - nên Gabriel bắt buộc phải đợi bên lề đường hai mươi phút trước khi tiếp tục lái xe đến thung lũng Jezreel. Cách Afula năm dặm, một ngọn đồi nhỏ tròn xuất hiện bên tay trái. Người ta gọi nó là Tel Megiggo, hay đồi Megiddo, theo tiếng Do Thái. Phần còn lại của thế giới gọi nó là Armageddon, nơi đối đầu cuối cùng trên trần thế của cái thiện và ác theo ước đoán của Sách tiên tri. Trận chiến chưa bắt đầu, bãi giữ xe vắng hoe ngoại trừ ba chiếc xe tải, dấu hiệu cho biết đội khảo cổ học vẫn đang làm việc.

Gabriel xuống xe, tiến lên đỉnh theo con đường dốc đứng. Đồi Megiddo được khai quật khảo cổ định kỳ hơn một thế kỷ qua, nên đỉnh đồi bị rạch nát bởi những đường rãnh ngang dọc. Người ta đã khám phá ra dấu tích của hơn hai mươi thành phố dưới lớp đất đồi, trong đó có cả một thành phố tương thuyền là do vua Solomon xây dựng.

Anh dừng lại trên một cái rãnh và nhìn xuống. Một dáng người nhỏ mặc áo khoác nâu đang bò trong rãnh, bới đất bằng chiếc xẻng tay. Gabriel nhớ lại lần trước khi đứng quan sát công việc của một người trong hố khai quật anh cứ cảm thấy ớn lạnh sau gáy. Nhà khảo cổ học ngước lên nhìn anh trong giây lát bằng cặp mắt nâu thông minh, sau đó cúi xuống tiếp tục công việc. “Tôi chờ cậu nãy giờ”, Eli Lacon cất tiếng. “Sao cậu đến muộn vậy?”

Gabriel ngồi xuống đống cát bên rìa hố nhìn Lavon làm việc. Họ biết nhau từ vụ Tháng Chín Đen. Eli Lavon là một ayin, người lần dấu vết. Công việc của anh là theo dõi những tên khủng bố và tìm hiểu thói quen của chúng. Xét trên một vài khía cạnh, công việc của anh còn nguy hiểm hơn của Gabriel, vì thỉnh thoảng Lavon phải tiếp xúc với những tên khủng bố nhiều ngày hay nhiều tuần liền mà không có sự hỗ trợ. Sau khi đơn vị giải tán, anh định cư ở Viên, mở một cơ quan điều tra nhỏ tên là Yêu cầu và Đền bù chiến tranh. Hoạt động với số tiền nhỏ, anh đã lần theo dấu vết những tài sản trị giá hàng triệu đô la đã bị cướp khỏi tay những người Do Thái và đóng vai trò quan trọng trong việc tịch thu khu đất trị giá hàng tỷ đô la từ các ngân hàng Thụy Sĩ. Những ngày này, Lavon đang làm việc tại hố đào ở Megiddo và dạy khảo cổ học bán thời gian tại trường Đại học Do Thái.

“Anh kiếm được gì ở đó, Eli?”

“Tôi nghĩ đó là mẫu gốm“. Cơn gió mạnh thổi mái tóc xoăn bù xù xoà trước trán. “Còn cậu thì sao?’

“Một tỉ phú Arập Xêút đang cố gắng phá hủy thế giới văn minh”.

“Không phải chúng đã làm rồi sao?”

Gabriel mỉm cười. “Tôi cần anh, Eli. Anh biết cách đọc báo cáo tài chính. Anh biết cách theo dõi đường đi nước bước của tiền mà không ai khác biết”.

“Người Arập Xêút gồm những ai?”

“Chủ tịch và CEO của Tập đoàn Thánh chiến”.

“Vị Chủ tịch này có tên không?”

“Abdul Aziz al-Bakari”.

“Zizi al-Bakari?”

“Cùng một người”.

“Tôi đoán việc này có liên quan đến Shamron?”

“Và Vatican”.

“Zizi có liên quan gì?”

Gabriel kể cho anh nghe

“Tôi nghĩ mình không cần hỏi anh dự định làm gì với bin Shafiq”, Lavon nói. “Đế chế kinh doanh của Zizi rất đồ sộ. Bin Shafiq có thể đang hoạt động từ bất cứ nơi đâu trên thế giới. Làm sao chúng ta lần ra hắn được?”

“Chúng ta sẽ cài một nhân viên vào giới thân thuộc của Zizi và chờ bin Shafiq bước vào”.

“Một điệp viên trong sào huyệt của Zizi?”. Lavon lắc đầu. “Không thể nào”.

“Có thể”.

“Bằng cách nào?”

“Tôi sẽ tìm ra cái Zizi muốn”, Gabriel nói. “Rồi tôi sẽ cho ông ta cái đó”.

“Tôi đang chăm chú lắng nghe đây”.

Gabriel ngồi xuống mép rãnh khai quật, chân thòng xuống dưới, giải thích cách anh dự định thâm nhập vào Tập đoàn Thánh chiến. Từ đáy rãnh vọng lên âm thanh làm việc của Lavon – đục, đục, quét, quét, thổi…

“Ai làm điệp viên?”, anh hỏi khi Gabriel trình bày xong kế hoạch.

“Tôi vẫn chưa tìm được”.

Lavon im lặng một lát – đục, đục, quét, quét, thổi…

“Anh muốn gì từ tôi?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

28#
 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2013 15:53:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 12
(tiếp theo)

“Hãy lục tung về Zizi al-Bakari và Tập đoàn AAB. Tôi muốn thông tin về từng công ty hắn sở hữu hay điều khiển. Thông tin về ban điều hành và các thành viên trong đoàn phụ tá. Tôi muốn biết mỗi người có được vị trí này bằng cách nào và làm sao để trụ lại được. Tôi muốn biết về Zizi còn nhiều hơn là ông ta biết về bản thân mình”.

“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta đi làm nhiệm vụ?”

“Anh cũng sẽ đi”.

“Tôi quá già và mệt mỏi, không kham nổi những vụ khó khăn nữa đâu”.

“Anh là nghệ nhân theo dõi vĩ đại nhất trong lịch sử Văn phòng, Eli. Tôi không thể làm vụ này mà không có anh”.

Lavon ngồi dậy phủi tay vào quần. “Cài điệp viên vào giới thân cận của Zizi al-Bakari? Điên khùng. Xuống đây giúp tôi đi. Chúng ta đang dần hết ánh sáng”.

Gabriel trèo xuống hố quỳ cạnh người bạn cũ. Cùng nhau, họ đào bới tại vùng đất cổ xưa cho đến khi bóng đêm buông xuống như một tấm màn đen che phủ thung lũng.

Khi họ về đến đại lộ King Saul, đồng hồ điểm chín giờ. Lavon nghỉ hưu đã lâu, nhưng vẫn thỉnh thoảng giảng bài tại học viện và có quyền bước vào tòa nhà khi ông muốn. Gabriel dẫn anh vào phòng hồ sơ của bộ phận nghiên cứu, sau đó đi xuống hành lang ảm đạm dưới mặt đất hai tầng. Cuối hành lang là phòng 456C. Gắn trên cửa là tấm bảng giấy do chính Gabriel viết tay bằng chữ Do Thái có nội dung: ỦY BAN LÂM THỜIÌ NGHIÊN CỨU ĐE DOẠ KHỦNG BỐ TÂY ÂU. Anh quyết định hiện tại vẫn giữ nguyên như vậy.

Anh mở ổ khóa mật mã, bật đèn và bước vào trong. Căn phòng dường như bị đóng băng theo thời gian. Họ từng đặt vài cái tên cho nó: Cái Kén, Sân Trong, Cái Thùng. Yaakov, người đến từ Sở Các vấn đề Arập của Shabak, đã gọi nó là Lỗ Địa Ngục. Yossi bên bộ phận nghiên cứu gọi nó là Ngôi làng bị nguyền rủa. Đó là vì Yossi đã đọc các tác phẩm kinh điển ở Oxford nên luôn đưa không khí uyên bác vào công việc của mình, cho dù đôi khi không cần thiết phải như vậy.

Gabriel dừng lại bên chiếc bàn chung của Dina và Rimona. Những vụ đấu khẩu triền miên về việc xác định ranh giới bàn ghế của họ đã từng khiến Gabriel phát điên. Đường phân chia anh gạch chính giữa bàn vẫn còn đó, cùng với lời cảnh cáo Rimona đã ghi ở phía bên lằn ranh của cô: Lấn qua sẽ gặp nguy hiểm. Rimona là Đại úy trong IDF và làm việc cho Aman, tình báo quân đội. Cô cũng là cháu gái của Gilah Shamron. Cô tin vào việc bảo vệ ranh giới, và đáp trả bằng việc tấn công trả đũa mỗi khi Dina vượt quá lằn ranh. Ở chỗ ngồi của Dina bây giờ là một tờ giấy nhỏ trên đó có ghi dòng chữ: Cầu cho chúng ta không bao giờ phải trở lại nơi này. Thật ngây thơ, Gabriel nghĩ. Đáng lẽ Dina phải biết rõ đáp án hơn ai hết.

Anh tiếp tục đi tham quan lại căn phòng. Trong góc vẫn là những thiết bị vi tính lỗi thời không ai thèm di chuyển. Trước khi trở thành đại bản doanh của nhóm Khaled, phòng 456C chỉ là nơi chứa đồ cũ và những thiết bị điện tử lỗi thời, thường được các nhân viên trực đêm biến thành chốn hẹn hò lãng mạn. Những dòng chữ bằng phấn trên bảng do Gabriel viết vẫn còn đó. Anh hầu như không đọc được mình đã viết những gì. Anh nhìn lên bức tường dán đầy ảnh của những thanh niên Palestine. Một bức trong đó thu hút sự chú ý của Gabriel, một cậu bé đầu đội nón bê rê còn vai quàng khăn đang ngồi trên lòng A’one: Khaled al-Khalifa tại đám tang cha mình. Gabriel đã giết Sabri, và cũng đã giết Khaled.

Anh dỡ hết các bức ảnh cũ xuống và thay vào chỗ đó là hai bức ảnh mới. Một bức là hình của một người đàn ông ở vùng rừng núi Afghanistan. Bức thứ hai là ảnh của cùng người đàn ông đó mặc áo khoác bằng catsơmia và đội nón nỉ đứng trước nhà một tỷ phú ở Paris.

Nhóm Khaled bây giờ đã trở thành nhóm bin Shafiq.

Trong bốn mươi tám tiếng đầu, Gabriel và Lavon làm việc một mình. Vào ngày thứ ba họ có thêm thành viên mới là Yossi, một người đàn ông cao hói có dáng dấp của một nhà trí thức người Anh. Rimona và Yaakov đến vào ngày thứ tư. Yaakov mang theo sang từ Tổng hành dinh Shabak một hộp đầy tài liệu về những tên khủng bố đã tấn công xe của Shamron. Dina là người đến cuối cùng. Vóc dáng nhỏ nhắn, tóc đen, cô đã đứng trên đường Dizengoff ở Tel Aviv vào ngày 19/10/1994 khi một kẻ đánh bom liều chết Hamas đã biến chiếc xe buýt số 5 thành cỗ quan tài cho hai mươi mốt người. Mẹ và hai chị em gái của cô nằm trong số những người bị giết; Dina bị thương rất nặng, và bây giờ bước đi của cô vẫn còn hơi khập khiễng. Cô đã đương đầu với mất mát bằng cách trở thành một chuyên gia về khủng bố. Dina có thể kể lại thời gian, địa điểm, danh sách người chết trong bất cứ hoạt động khủng bố nào đã từng xảy ra với Israel. Có lần cô đã nói với Gabriel rằng cô biết rõ bọn khủng bố còn hơn bọn chúng biết về chính mình. Gabriel tin lời cô.

Họ bắt đầu phân công nhiệm vụ. Ahmed bin Shafiq và hội Huynh đệ Allah là địa bàn của Dina, Yaakov, và Rimona, trong khi đó Yossi tham gia cùng Lavon tìm kiếm về Tập đoàn AAB. Gabriel làm việc một mình, ít nhất là trong hiện tại, vì anh đã tự giao cho mình nhiệm vụ mà không ai ganh tị, là tìm ra bất cứ bức tranh nào đã từng được Zizi al-Bakari bán hay mua.

Ngày này qua ngày khác, những bức tường của phòng 456C bắt đầu phản ánh những kết quả thu được. Trên một bức tường, dần dần hiện ra những phác thảo đầu tiên về một mạng lưới khủng bố chết người được dẫn dắt bởi một bóng ma. Bằng tất cả khả năng của mình, họ lần theo dấu vết cuộc hành trình dài của bin Shafiq qua những lần đổ máu của bọn Hồi giáo cực đoan. Bất cứ nơi nào có vấn đề, dường như ở đó có mặt bin Shafiq để phân phát tiền bán dầu của Arập Xêút và quảng bá Wahhabi ở nhiều nước: Afghanistan, Libăng, Ai Cập, Algeria, Gioócđan, Pakistan, Chechnya, Bosnia, và dĩ nhiên, chính quyền Palestine. Tuy nhiên, họ không phải là không có những đầu mối quan trọng, vì khi thực hiện hai cuộc tấn công, bin Shafiq và hội Huynh đệ đã để lộ ra hơn một tá danh tính có thể điều tra để tìm mối liên hệ và dò ra những người quen. Dĩ nhiên có cả Ibrahim el-Banna, thầy tế Ai Cập đã chết, và Giáo sư Ali Massoudi, người chuyên tuyển mộ và phát hiện nhân tài.

Trên bức tường đối diện là mạng lưới khác của Tập đoàn AAB. Trong khi sử dụng những nguồn tư liệu công khai và bí mật như vậy, Lavon tốn khá nhiều công sức để tìm hiểu các lát cắt trong đế chế tài chính của Zizi và tập hợp những miếng ghép khác nhau giống như tập hợp các mảnh rời rạc của một cổ vật. Ở trên đỉnh mạng lưới là AAB, bên dưới là mạng lưới tài chính phức tạp gồm những công ty con và các vỏ bọc mà Zizi sử dụng để mở rộng ảnh hưởng đến mọi ngóc ngách trên địa cầu trong những điều kiện bí mật gần như hoàn hảo của Tập đoàn. Với phần lớn công ty đăng ký ở Thụy Sĩ và quần đảo Cayman, Lavon ví Zizi là chiến binh tài chính bí mật, có khả năng tấn công bất cứ lúc nào nhưng lại tránh được rađa dò tìm của kẻ thù. Bất chấp sự lớn mạnh của đế chế của Zizi, Lavon vẫn kết luận những khoản tiền này có nguồn gốc không rõ ràng. “Không thể giải thích những khoản tiền kếch xù Zizi có được sau này là thu nhập từ những đầu tư ban đầu của ông ta”, ông giải thích. “AAB là bình phong của Hoàng tộc Arập Xêút ”. Còn về việc gắng tìm Ahmed bin Shafiq trong hệ thống tài chính như những chiếc vòi bạch tuộc của Zizi, Lavon ví việc này với việc tìm một cây kim trong sa mạc của Arập. “Không phải là không thể”, anh nói. “Nhưng người ta có thể chết vì khát trong khi đang cố gắng”.

Yossi phụ trách điều tra về mặt nhân sự của Zizi. Anh tập trung vào một nhóm khá nhỏ làm việc trong tổng hành dinh Geneva của Zizi ở Thụy Sĩ, cùng với nó là những công ty toàn vốn hay được AAB kiểm soát hoàn toàn. Mặc dù vậy, anh dành phần lớn thời gian để tìm hiểu về đoàn phụ tá đông đảo của Zizi. Những bức ảnh của họ chẳng bao lâu đã được dán chi chít trên bức tường ở chỗ làm việc của Yossi, đối diện với mạng lưới khủng bố của bin Shafiq. Những bức ảnh mới được gửi đến mỗi ngày vì Yossi giám sát di chuyển của Zizi trên khắp thế giới. Zizi đến tham dự cuộc họp ở Luân Đôn. Zizi nói chuyện với những nhà sản xuất xe hơi ở Stuttgart. Zizi ngắm cảnh Biển Đỏ từ khách sạn mới thành lập tại Sharm el Sheik. Zizi khánh thành nhà máy khử muối ở Yeman. Zizi được nhận giải thưởng nhân quyền từ một nhóm Hồi giáo ở Montreal có website đăng lời kêu gọi công khai hủy diệt nước Israel.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

29#
 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2013 15:55:19 | Chỉ xem của tác giả
Chương 12
(tiếp theo)

Góc phòng của Gabriel là nơi trú ẩn hoàn toàn tách khỏi lĩnh vực khủng bố và tài chính. Bức tường chỗ anh ngồi không dán hình khuôn mặt những tên khủng bố hay lãnh đạo các công ty mà dán hàng tá hình chụp tranh theo trường phái Ấn tượng Pháp. Trong khi Lavon và Yossi mất cả ngày lục lọi hồ sơ và những bản in từ máy vi tính, Gabriel lại lật từng tờ trong các quyển catalog cũ, các tài liệu chuyên khảo về trường phái Ấn tượng, và những mẩu tin cắt từ báo mô tả thành tích của Zizi trong thế giới nghệ thuật.

Đến cuối ngày thứ mười, Gabriel đã quyết định anh sẽ cài nhân viên vào Tập đoàn Thánh chiến như thế nào. Anh đến bên những bức hình được cắt dán trên tường của Yossi và nhìn một tấm ảnh đơn. Trong tấm ảnh là một người Anh gầy hốc hác, tóc muối tiêu ngồi kế Zizi sáu tháng trước tại buổi đấu giá nghệ thuật Đương đại và Ấn tượng tại nhà đấu giá Christie. Gabriel dỡ tấm ảnh giơ lên cho mọi người cùng thấy. “Người đàn ông này phải ra đi”. Sau đó anh gọi cho Adrian Carter trình bày kế hoạch dự định thâm nhập vào gia tộc Zizi như thế nào. “Bây giờ tất cả những gì cậu cần là một bức họa và một cô gái”, Carter kết luận. “Cậu tìm bức hoạ. Tôi sẽ mang cô gái đến cho cậu”.

Gabriel rời khỏi đại lộ King Saul sớm hơn thường lệ một chút và lái xe đến Ein Kerem. Có nhiều vệ sỹ im lìm canh gác bên ngoài khu chăm sóc đặc biệt của trung tâm Y tế Hadassah, Shamron đang ở một mình khi Gabriel bước vào. “Đứa con trai đi hoang cuối cùng cũng chịu đến thăm tôi”, giọng ông cay đắng. “Thật may chúng ta là những người thuộc sa mạc. Nếu không chắc cậu đã đặt tôi lên tảng băng trôi rồi đẩy tôi ra biển”.

Gabriel ngồi xuống kế bên giường. “Tôi đã đến đây ít nhất nửa tá lần”.

“Khi nào?”

“Đêm khuya, khi ông đã ngủ say”.

“Cậu đứng nhìn tôi? Giống Gilah và các bác sỹ? Tại sao cậu không đến thăm ban ngày giống những người bình thường khác”.

“Dạo này tôi rất bận”.

“Thủ tướng còn không quá bận đến mức không thể đến thăm tôi trong giờ hợp lí”. Shamron, vì cổ không thể di chuyển do bó bột, liếc xéo Gabriel đầy giận dữ. “Ông ấy bảo với tôi rằng ông đã cho phép Amos tìm người đứng đầu Lực lượng Đặc nhiệm để cậu có thời gian chạy việc vặt cho Adrian Carter và nước Mỹ”.

“Tôi thấy là ông không đồng ý với chuyện này”.

“Hoàn toàn không đồng ý”. Shamron nhắm mắt lại một lúc lâu - lâu đến mức Gabriel phải lo lắng liếc nhìn máy móc kế bên giường ông. “Thân ai nấy lo”, cuối cùng ông cất tiếng. “Chúng ta tự làm việc của mình. Chúng ta không nhờ ai giúp, và cũng không giúp ai giải quyết những vấn đề do chính họ gây nên. Chắc chắn chúng ta không làm người giúp việc cho Adrian Carter”.

“Ông đang trên giường bệnh thay vì tại bàn làm việc trong văn phòng Chính phủ. Chính điều này khiến Ahmed bin Shafiq cũng trở thành vấn đề của tôi. Hơn nữa thế giới đã thay đổi, Ari. Chúng ta cần hợp tác để tồn tại. Những quy tắc cũ không còn đứng vững nữa”. Shamron nhấc cánh tay đầy ống và dây nhợ chỉ về phía ly nước bằng nhựa trên bàn để cạnh tủ. Gabriel đưa ly lên môi cho Shamron uống nước bằng ống hút.

“Cậu làm vụ này vì yêu cầu của ai?”. Shamron hỏi. “Của Adrian hay cấp nào đó cao hơn?”. Khi Gabriel im lặng không trả lời, Shamron giận dữ đẩy cốc nước ra. “Cậu dự định đối xử với tôi như kẻ tàn phế à? Tôi vẫn là cố vấn đặc biệt của Thủ tướng về những vấn đề có liên quan đến an ninh và tình báo. Tôi vẫn là…”. Giọng ông nhỏ dần trong mệt mỏi.

“Ông vẫn là memuneh”, Gabriel nói hết câu giúp ông. Trong tiếng Do Thái, memuneh có nghĩa là người chịu trách nhiệm cao nhất. Trong nhiều năm danh hiệu này dành cho Shamron.

“Kẻ cậu đang săn đuổi không phải là một thằng bé nào đó ở Nabuls nữa, Gabriel. Cậu đang nhắm đến Ahmed bin Shafiq và Zizi al-Bakari. Nếu có chuyện không ổn, cả thế giới sẽ đổ ập xuống cậu, từ những. Lúc đó Adrian Carter bạn cậu sẽ không có mặt để vực cậu dậy đâu. Lẽ ra cậu nên hỏi ý kiến của tôi. Tôi đã làm công việc này vài lần rồi”.

Gabriel thò đầu ra hành lang yêu cầu các nhân viên bảo vệ tắt các hệ thống giám sát hình và âm thanh. Sau đó anh ngồi xuống ghế kế bên giường ghé miệng vào tai Shamron kể ông nghe mọi chuyện. Ánh nhìn của Shamron lúc này trở nên chú ý hơn. Khi ông đặt câu hỏi đầu tiên, Gabriel nhớ lại hình ảnh người đàn ông sắt đá bước vào cuộc sống của anh tháng 9 năm 1972.

“Cậu đã quyết định chọn một người phụ nữ?”

Gabriel gật đầu.

“Cậu sẽ phải cần một người có câu chuyện đáng tin mới có thể chống lại sự soi mói của những nhân viên an ninh được trả lương cao của Zizi. Cậu không thể dùng người của chúng ta, cũng không thể dùng một cô gái Do Thái không phải là người Israel. Nếu Zizi ngờ rằng hắn đang nhìn thấy một cô gái theo Do Thái giáo, hắn sẽ tránh xa cô ta. Cậu cần một người không theo đạo”.

“Điều tôi cần”, Gabriel nói, “là một cô gái Mỹ”.

“Cậu dự định kiếm cô gái đó ở đâu?”

Gabriel trả lời bằng một từ ngắn gọn khiến Shamron cau mày. “Tôi không thích cái ý nghĩ rằng chúng ta phải chịu trách nhiệm về điệp viên của họ. Nếu có chuyện gì không ổn thì sao?”

“Chuyện gì không ổn?”

“Mọi thứ”, Shamron trả lời. “Cậu biết điều này rõ hơn ai hết”.

Trông Shamron có vẻ mệt mỏi. Gabriel vặn nhỏ đèn ngủ.

“Cậu định làm gì?” Shamron hỏi. “Đọc truyện đêm khuya cho tôi nghe à?”

‘Tôi định ngồi với ông cho đến khi ông ngủ”.

“Gilah sẽ làm việc ấy. Về nhà nghỉ ngơi đi. Cậu cần nghỉ ngơi”.

“Tôi sẽ ngồi thêm một lúc”.

“Về nhà đi”, Shamron nói lại. “Có người đang chờ ở nhà rất mong gặp cậu”.

Hai mươi phút sau, khi Gabriel quẹo vào đường Narkiss, anh thấy đèn đang bật trong căn hộ của mình. Anh đậu chiếc Skoda tại khúc quanh và bước nhẹ lên lối đi dẫn vào toà nhà. Khi anh rón rén đặt chân vào căn hộ, không khí trong nhà tràn ngập mùi vani. Chiara đang ngồi bắt chéo chân trên bàn trong ánh đèn làm việc sáng lóa của anh. Nàng quan sát kỹ Gabriel khi anh bước vào, sau đó nhìn một vòng quanh căn phòng trước kia từng là phòng khách được trang trí rất đẹp.

“Em thích những gì anh đã làm với nơi này, Gabriel ạ. Xin đừng nói với em là anh đã quăng luôn chiếc giường ngủ”.

Gabriel lắc đầu rồi hôn nàng.

“Anh ở thành phố bao lâu?”, nàng hỏi.

“Sáng mai anh đi rồi”.

“Cũng như thường lệ, em chọn thời điểm thật hoàn hảo. Anh sẽ đi bao lâu?”

“Khó nói lắm”.

“Anh đưa em đi cùng được không?”

“Lần này không được”.

“Anh sẽ đi đâu?”

Gabriel bế Chiara lên và tắt đèn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

30#
 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2013 16:08:07 | Chỉ xem của tác giả
Chương 13
Luân Đôn

Tôi cần một bức Van Gogh, Julian”.

“Ai mà không cần, bạn thân mến”.

Isherwood kéo cổ tay áo lên nhìn đồng hồ. Bây giờ là mười giờ sáng. Giờ này mọi ngày anh đang có mặt tại phòng triển lãm tranh, chứ không phải đi dạo dọc theo công viên Thánh James. Anh dừng bước một lát ngắm đàn vịt bơi trên mặt nước tĩnh lặng về phía đảo. Gabriel dùng cơ hội này đảo mắt quanh công viên xem họ có bị theo dõi không. Sau đó anh nắm khuỷu tay Isherwood kéo về phía đường Kỵ Binh.

Họ là một cặp không tương xứng, giống như những nhân vật đến từ những bức họa khác nhau. Gabriel mặc quần jeans đen và đi giày êm không gây ra tiếng động khi di chuyển. Tay anh thọc vào túi áo khoác ngoài bằng da, vai nghiêng về phía trước, còn đôi mắt xanh đảo khắp công viên. Isherwood, lớn hơn Gabriel mười lăm tuổi và cao hơn anh vài cen-ti-mét, mặc bộ vest sọc trắng và áo khoác ngoài bằng len. Những lọn tóc muối tiêu xòa ra bên ngoài cổ áo khoác, nó nâng lên rồi hạ xuống theo mỗi nhịp sải bước dài nhưng không chắc chắn. Có điều gì đó chênh vênh trong dáng đi của Julian Isherwood. Như mọi khi, Gabriel luôn phải cưỡng lại mong muốn thò tay ra giữ anh ta lại cho chắc.

Họ đã biết nhau 30 năm. Cái họ đầy chất Anh-Isherwood và dáng người cao lêu nghêu đặc trưng của dân Anh đã giúp anh ta che giấu sự thực trái ngược. Julian có quốc tịch và hộ chiếu là ở Anh, nhưng sinh ở Đức, được nuôi dưỡng ở Pháp và theo đạo Do Thái. Chỉ một vài người bạn tin cẩn biết rằng hồi nhỏ Isherwood được hai người chăn cừu xứ Basque đưa qua núi Pyrenees đầy tuyết phủ sang nước Anh tị nạn. Rằng cha anh, một người bán tranh nổi tiếng ở Paris tên Samuel Isakiwitz, đã bị giết tại trại tử thần Sobibor cùng mẹ. Có một việc khác Isherwood cũng giấu những người cạnh tranh trong thế giới nghệ thuật Luân Đôn - và hầu hết những người khác. Trong thuật ngữ của Văn phòng, Julian Isherwood là sayan, một người ủng hộ tự nguyện theo đạo Do Thái. Anh được Shamron tuyển mộ với lí do duy nhất: giúp xây dựng và duy trì vỏ bọc của một điệp viên duy nhất rất đặc biệt.

“Người bạn Mario Delveccio của tôi sao rồi?” Isherwood hỏi.

“Biến mất không còn dấu vết”, Gabriel nói. “Tôi hi vọng vụ bại lộ của tôi không gây cho anh khó khăn nào”.

“Cho đến giờ vẫn chưa có gì”.

“Không có lời đồn đại nào trên đường? Không có câu hỏi khó xử nào trong các cuộc đấu giá? Không nhân viên MI5 nào ghé thăm?”

“Ý cậu muốn hỏi những người ở Luân Đôn có xem tôi như là điệp viên đắc lực của Israel không à?”

“Đúng vậy”.

“Ở mặt trận này mọi thứ rất yên ắng. Nhưng thật ra lúc đó chúng ta cũng không phô trương mối quan hệ với nhau nhiều. Đó không phải là phong cách của cậu. Cậu không phô trương về bất cứ điều gì. Cậu là một trong vài nhà phục chế tranh giỏi nhất thế giới, vậy mà không ai biết điều này. Thật tiếc”.

Họ đến góc đường Great George. Gabriel chuyển hướng sang bên phải vào Lối đi lồng chim.

“Ai biết về chúng ta ở Luân Đôn, Julian? Ai biết anh có mối quan hệ chuyên môn với Mario?”

Isherwood nhìn hàng cây rũ xuống dọc vệ đường. “Thật ra là rất ít người. Có Jeremy Crabbe tại Bonhams. Anh ta vẫn rất giận dữ với cậu vì cậu đã lấy bức họa Rubens trước mũi anh ta”. Isherwoob đặt bàn tay dài xương xẩu lên vai Gabriel. “Có người đã đặt mua bức tranh này. Tất cả những gì tôi cần là vẽ”.

“Tôi đã quét vécni lên bức tranh hôm qua trước khi rời Jerusalem”, Gabriel nói. “Tôi sẽ dùng một trong những công ty chuyển phát hàng đầu để nhận được nó càng nhanh càng tốt. Anh sẽ có bức tranh vào cuối tuần. Tiện thể, anh nợ tôi 150 ngàn bảng”.

“Hóa đơn gửi trong thư, bạn thân mến”.

“Còn ai nữa không?”. Gabriel hỏi. “Còn ai khác biết về chúng ta?”

Isherwood suy nghĩ một lát. “Gã Oliver Dimbleby xấu xa”, anh nói. “Cậu nhớ Oliver không? Tôi giới thiệu cậu với hắn tại nhà hàng Green khi chúng ta đang dùng bữa trưa. Một nhà bán tranh nhỏ không mấy danh tiếng ở đường King. Hắn đã từng có lần nài tôi bán lại cho hắn phòng triển lãm tranh”.

Gabriel vẫn còn giữ tấm danh thiếp dát vàng hợm hĩnh mà Oliver đã nhét vào tay anh. Khi đó Oliver hầu như không nhìn về phía anh. Oliver là như thế.

“Tôi đã giúp Crabbe nhiều trong những năm qua”, Isherwood nói. “Những kiểu giúp đỡ mà chúng tôi không thích nói đến trong ngành. Còn đối với Oliver Dimbleby, tôi đã giúp hắn dọn dẹp sạch sẽ đống bầy hầy hắn tạo ra với một cô bé làm trong phòng tranh mình. Tôi nhận cô bé tội nghiệp vào. Cho cô bé một công việc. Cô ta bỏ tôi qua nhà bán tranh khác. Những cô gái của tôi cô nào cũng thế. Tôi có gì khiến phụ nữ bỏ đi nhỉ. Tôi là mục tiêu dễ chinh phục, chắc vậy. Hẳn phụ nữ sẽ nhận thấy điều này. Chỗ của cậu cũng thấy thế. Và Herr Heller chắc chắn cũng không là ngoại lệ”.

Herr Rudolf Heller, một người đầu tư rủi ro đến từ Zurich, là một trong những bí danh ưa thích nhất của Shamron. Đó chính là tên ông dùng khi tuyển mộ Isherwood.

“Nhân tiện, ông sao rồi?”

“Ông gửi đến anh lời chào”.

Gabriel hạ mắt xuống nhìn vỉa hè ẩm ướt. Một cơn gió lạnh từ công viên thổi lá rụng cuốn lên từ dưới chân họ.

“Tôi cần một bức Van Gogh”, Gabriel nhắc lại.

“Được rồi, tôi đã nghe cậu nói về điều này rồi. Vấn đề là tôi không có bức Van Gogh nào. Nếu cậu quên thì tôi nhắc lại cho cậu nhớ, phòng tranh Isherwood chỉ chuyên về các bậc thầy thời xưa. Nếu cậu muốn một bức theo trường phái Ấn tượng, cậu phải đi chỗ khác”.

“Vậy báo cho tôi biết tôi có thể tìm bức đó ở đâu”.

“Trừ phi cậu dự định ăn trộm, hiện tại trên thị trường không có bức nào - ít nhất theo tôi biết là vậy”.

“Nhưng không đúng thế, đúng không, Julian? Anh có biết về một bức Van Gogh. Cách đây cả thế kỷ anh có kể cho tôi nghe một lần - câu chuyện về bức tranh trước đây chưa ai biết mà cha anh đã thấy ở Paris giữa hai cuộc chiến”.

“Không chỉ mình cha tôi”, Isherwood nói. “Tôi cũng đã thấy bức tranh. Vincent vẽ bức này ở Auvers trong những ngày cuối cùng của đời ông. Có lời đồn bức tranh này có thể làm hư hại thanh danh ông. Vấn đề là bức tranh không để bán, và có lẽ chẳng bao giờ được bán. Gia đình đó đã nói với tôi rất rõ họ không dự định chia tay với bức tranh. Họ rất kiên quyết và muốn giữ bí mật về sự tồn tại của bức tranh”.

“Kể tôi nghe lại câu chuyện đi”.

“Bây giờ tôi không có thời gian, Gabriel. Tôi có cuộc hẹn lúc 10 giờ 30 phút tại phòng tranh”.

“Hủy cuộc hẹn đi, Isherwood. Kể tôi nghe về bức tranh đó”.

Isherwood băng qua cầu thang bộ bắc ngang qua hồ vào phòng trưng bày tranh của anh trong công viên St. James. Gabriel thọc tay sâu hơn vào túi áo khoác bước theo anh.

“Cậu đã phục chế tranh ông ấy bao giờ chưa?”. Isherwood hỏi.

“Vincent à? Chưa bao giờ”.

“Cậu biết bao nhiêu về những ngày cuối đời của ông?”

“Cũng như mọi người”.

“Vớ vẩn, Gabriel. Đừng đóng vai kẻ ngốc với tôi. Bộ óc cậu giống Từ điển Grove về Nghệ thuật”.

“Lúc đó là mùa hè năm 1890 phải không?”

Isherwood gật đầu với vẻ đồng ý của một chuyên gia. “Cậu tiếp tục đi”.

“Sau khi Vincent rời bệnh viện tâm thần ở Saint-Rémy, ông đến Paris để thăm Theo và Johanna. Ông thăm một vài phòng tranh và trưng bày, và dừng lại tại cửa hàng bán dụng cụ vẽ Père Tanguy để kiểm tra một vài bức vải vẽ ông cất ở đó. Ba ngày sau ông bắt đầu cảm thấy chán nơi này, vì thế ông lên tàu đi Auvers-sur-Oise, một nơi cách Paris hai mươi dặm. Ông nghĩ Auvers là nơi lí tưởng, rằng cảnh đồng quê yên tĩnh sẽ rất thích hợp với công việc sáng tác, và nó vẫn gần Theo, nguồn mạch kinh tế và tình cảm của ông. Ông thuê phòng ở nhà trọ Café Ravoux và nhờ bác sỹ Paul Gachet theo dõi sức khỏe”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách