|
Dù mọi hoạt động của hắn vẫn còn nằm trong vòng bí mật, nhưng cái tên Asad al Khafila sớm được biết đến trong Hội đồng cấp cao người Arập ở Jerusalem. Haj Amin al Husseini, một đại giáo sĩ Hồi giáo kiêm Chủ tịch Hội đồng rất muốn gặp mặt gã chiến binh Arập tàn bạo đã lấy máu không biết bao dân Do Thái ở quận Lydda này. Sheikh Asad đến Jerusalem dưới vỏ bọc của một người phụ nữ và gặp vị giáo sĩ có chòm râu đỏ trong một căn hộ ở thành phố cổ, căn hộ ấy rất gần với nhà thờ Hồi giáo Al-Aksa.
“Cậu là một chiến binh tuyệt vời, Sheikh Asad. Thánh Ala đã ban cho cậu một dũng khí phi thường - dũng khí của một con sư tử”.
“Tôi chiến đấu phụng sự Thượng đế”, Rồi Sheikh Asad nhanh chóng nói thêm. ”Và tất nhiên, cả ngài nữa, ngài Haj Amin”.
Haj Amin mỉm cười vuốt chòm râu màu đỏ được cắt tỉa gọn gàng. “Người Do Thái sống rất đoàn kết. Đó là sức mạnh của chúng. Người Arập chúng ta không hề biết đến sức mạnh đoàn kết. Sự tách biệt giữa gia đình, thị tộc, bộ tộc là cách sống của người Arập. Có khá nhiều chiến binh của chúng ta trước đây là những tên tội phạm như cậu, Sheikh Asad à, và ta e rằng đa số bọn chúng đang lợi dụng cuộc nổi dậy này để trục lợi. Chúng cướp bóc làng mạc người Arập và moi móc đồ cống nạp từ những người già cả”.
Sheikh Asad gật đầu. Hắn ta đã từng nghe về những chuyện đại loại thế. Để chứng tỏ lòng trung thành đối với dân tộc, hắn tuyệt đối nghiêm cấm thuộc hạ mình cướp bóc làng mạc người Arập ở quận Lydda. Thậm chí hắn còn đe dọa sẽ chặt tay bất kỳ thủ hạ nào lấy cắp của họ dù chỉ một con gà.
“Ta lo ngại rằng khi cuộc bạo loạn qua đi”, Haj Amin tiếp tục nói, “thì các đội quân chiến binh của chúng ta sẽ tan rã. Và nếu các thủ lĩnh vẫn chiến đấu riêng rẽ thì họ sẽ chỉ là những mũi tên bắn thí mạng vào bức tường đá của quân đội Anh và lực lượng Do Thái Haganah. Nhưng nếu đoàn kết lại” - Haj Amin siết chặt hai tay - “Chúng ta có thể phá vỡ những bức tường đó và đuổi những kẻ ngoại đạo kia ra khỏi vùng đất thánh”.
“Đó là điều mà ngài muốn tôi làm phải không Haj Amin?”
Vị đại giáo sĩ cung cấp cho Sheikh Asad danh sách các mục tiêu nhắm đến ở quận Lydda. Sau đó những thuộc hạ của tay thủ lĩnh Hồi giáo này đã tấn công không chút thương tiếc: các khu dân cư Do Thái, các cây cầu, đường dây điện, và cả đồn cảnh sát. Sheikh Asad nhanh chóng trở thành tay chiến binh được trọng dụng của Haj Amin, và giống như những gì vị giáo sĩ này tiên đoán, các chiến binh khác bắt đầu ganh tỵ với những đặc ân mà gã chiến binh đến từ Beit Shayeed có được. Trong số đó, có một tên cướp đến từ Nablus, Abu Fareed, đã quyết định gài bẫy. Hắn đã phái một người đưa tin đi gặp một lính Do Thái của quân Haganah. Người này đã tiết lộ rằng Sheikh Asad và đội quân của hắn ta sẽ tấn công khu dân cư Do Thái ở Hadera vào lúc ba giờ đêm. Khi Sheikh Asad và đồng đảng của hắn tiến đến Hadera vào đêm đó, chúng đã bị phục kích bởi quân Hadera và lực lượng Anh và bị xé nát dưới làn đạn tàn khốc.
Sheikh Asad bị thương nặng, hắn nằm trên lưng ngựa xoay sở tìm đường thoát thân bằng cách vượt qua biên giới đến vùng Syria. Suốt thời gian dưỡng thương trong một ngôi làng ở Cao nguyên Golan, hắn nghiền ngẫm mối liên kết giữa các sự kiện xảy ra ở Hadera để tìm ra điểm mấu chốt. Rõ ràng có kẻ phản bội trong nội bộ người Arập, một ai đó biết rõ thời gian và địa điểm mà hắn sẽ tấn công. Hắn có hai sự lựa chọn, hoặc lưu lại Syria hoặc quay trở về chiến trường. Không thủ hạ, không vũ khí, thêm vào đó, một trong những người của Haj Amin lại muốn thủ tiêu hắn. Quay trở về Palestine để chiến đấu là một hành động can đảm nhưng không phải là một hành động khôn ngoan. Hắn đành nán lại thêm ở Golan hơn một tuần rồi đến Đamát.
Đúng như những gì Haj Amin tiên đoán, cuộc nổi dậy của người Arập nhanh chóng tan rã do chia rẽ nội bộ bởi những mối thù truyền kiếp và sự ganh đua giữa các thị tộc. Năm 1938, nhiều người Arập bị giết chết dưới bàn tay của dân phiến loạn hơn là do dân Do Thái. Đến năm 1939, chiến sự đã biến thành cuộc nội chiến tranh giành quyền lực và thanh thế giữa các chiến binh Arập. Sau ba năm bùng nổ, vào tháng 5 năm 1939, cuộc nổi dậy vĩ đại đó đã kết thúc.
Bị truy nã bởi binh lính Anh và lực lượng Haganah, Sheikh Asad quyết định lưu trú ở Đamát. Hắn mua một căn hộ lớn ở trung tâm thành phố và cưới cô con gái của một gia đình Palestine lưu vong. Cô này sinh được một đứa con trai, đặt tên là Sabri. Sau khi sinh được cho hắn ta một mụn con, cô ta không còn khả năng sinh nở nữa. Hắn cũng đã cân nhắc đến chuyện ly dị để cưới một cô vợ khác, nhưng đến năm 1947, có quá nhiều chuyện quan trọng khiến hắn không còn nghĩ đến chuyện vợ con nữa.
Một lần nữa Sheikh Asad được người bạn cũ, Haj Amin, cũng đang sống lưu vong mời đến gặp. Trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai, vị giáo sĩ này là tay cùng hội cùng thuyền với Adolf Hitler. Tại chính cung điện tráng lệ của mình ở Berlin, vị giáo chủ đạo Hồi phục vụ như một công cụ tuyên truyền đáng giá của Đức quốc xã. Ông ta hô hào nhân dân ủng hộ Đức quốc xã và kêu gọi diệt chủng người Do Thái. Cùng với Adolf Eichmann, kẻ khơi nguồn cho ý tưởng tàn sát người Do Thái, tay giáo sĩ này còn bắt tay xây dựng buồng hơi ngạt và những lò hỏa thiêu ở Palestine để tiêu diệt người Do Thái. Khi Berlin thất thủ, ông ta trốn chạy đến Thụy Sĩ trên chiếc máy bay Luftwaffe. Bị từ chối cho nhập cảnh, ông ta bay sang nước Pháp lân cận. Người Pháp nhận ra rằng đây có thể là một đồng minh giá trị ở vùng Trung Đông nên đã cho ông ta lưu trú, nhưng đến năm 1946, dưới áp lực tăng cao của nhân dân đòi đưa vị giáo sĩ này ra tòa án chiến tranh, ông ta được âm thầm cho tẩu thoát đến Cairo. Vào mùa hè năm 1947, ông ta sống ở Alayh, một khu nghỉ dưỡng ở vùng núi Libăng, và đã gặp người chiến binh thân cận của mình, Sheikh Asad.
“Cậu biết chuyện gì đang xảy ra ở Mỹ chứ?”
Sherikh Asad gật đầu. Một phiên họp đặc biệt của Thể chế thế giới mới, còn gọi là Liên Hợp Quốc đã diễn ra để quyết định tương lai của Palestine.
“Rõ ràng là”, giáo sĩ nói, “chúng ta đang gánh chịu hậu quả do tội lỗi của Hitler gây ra. Chiến lược của chúng ta là điều trần trước Liên Hợp Quốc để bác bỏ toàn bộ những tiến trình trên. Nhưng nếu Liên Hợp Quốc quyết định giao đất Palestine cho người Do Thái, chúng ta sẽ sẵn sàng nổi dậy. Đó là lý do tại sao tôi cần cậu, Sheikh Asad”.
Một lần nữa, Sheikh Asad lặp lại chính câu đã từng hỏi Haj Amin mười một năm trước ở Jerusalem, “Ngài muốn tôi phải làm gì?”
“Hãy quay về Palestine và chuẩn bị cho cuộc chiến chắc chắn sẽ xảy ra. Hãy phát triển lực lượng và vạch kế hoạch chiến đấu. Người em họ của ta là Abdel-Kader sẽ chịu trách nhiệm1910 khu vực Ramallah và vùng đồi phía đông Jerusalem. Cậu sẽ chỉ huy quận trung tâm: vùng đồng bằng ven biển, Tel Aviv và Jaffa và khu hành lang dọc Jerusalem”.
“Tôi sẽ làm”, Sheikh Asad đáp, rồi nhanh chóng nói thêm. “Với một điều kiện”.
Vị đại giáo sĩ khựng lại. Dù biết Sheikh Asad vốn hung dữ và kiêu ngạo, nhưng chưa từng có một người Arập nào dám nói với ông cái giọng điệu như thế, đặc biệt trước đây hắn chỉ là một nông dân. Tuy nhiên ông vẫn mỉm cười và hỏi người chiến binh đó về cái giá anh ta đặt ra.
“Cho tôi biết tên của kẻ đã phản bội tôi ở Hadera”.
Haj Amin lộ vẻ do dự nhưng rồi cũng nói cho hắn biết. Dù sao Sheikh Asad vẫn đáng giá hơn Abu Fareed cho sứ mệnh sắp tới.
“Hắn đang ở đâu?”
Đêm đó Sheikh Asad đến Beirut và cắt cổ Abu Fareed. Rồi hắn quay lại Đamát nói lời chào từ biệt vợ và con trai và thu xếp vấn đề tài chính cho gia đình. Một tuần sau đó hắn ta trở về túp lều tranh của mình ở Beit Sayeed.
Vào những tháng cuối năm 1947, hắn không ngừng phát triển lực lượng và vạch kế hoạch cho cuộc chiến sắp tới. Hắn nghiệm ra rằng tấn công trực diện vào các khu trung tâm Do Thái phòng thủ kiên cố không đem lại hiệu quả. Thay vào đó, hắn sẽ đánh vào những nơi sơ hở nhất. Vì người Do Thái sống rải rác khắp lãnh thổ Palestine nên họ chủ yếu phụ thuộc vào những con đường tiếp tế. Nhưng xung quanh những con đường đó hầu hết là thị trấn và làng mạc của người Arập, điển hình như hành lang huyết mạch Jerusalem. Sheikh Asad ngay lập tức hiểu rằng thời cơ đã đến. Hắn có thể tấn công vào những mục tiêu yếu ớt với chiến thuật hoàn toàn bất ngờ; rồi khi trận chiến đã ngã ngũ, lực lượng của hắn có thể trà trộn vào các nơi trú ẩn trong làng. Dân Do Thái trong làng sẽ chết dần chết mòn và cuối cùng toàn bộ người Do Thái trên mảnh đất Palestine cũng sẽ cùng chung số phận. |
|