Vào cuối hoàng hôn, con kênh Penitentiary trông giống như một dải lụa bạc, mặt trời đã lặn nhưng trên bầu trời vẫn còn sót lại chút ánh sáng. Những ngọn cây trong công viên đã sẫm lại và nhìn từ đây khu chiếu bóng chỉ là một bóng đen sừng sững. Celeste ngồi trong xe của mình trên phố Shawmut, nhìn xuống con kênh, công viên Penitentiary và khu East Bucky vươn lên như một bãi đất thải phía sau chúng, khu Thượng thì gần như bị công viên che khuất ngoại trừ vài gác chuông rải rác và những mái nhà cao trên đồi. Những ngôi nhà ở khu Thượng nhô hẳn lên so với khu Hạ, nhìn xuống khu Hạ từ trên những ngọn đồi uốn lượn, lát bê tông của chúng.
Celeste thậm chí không nhớ nổi tại sao mình lại lái xe tới đây. Cô giao chiếc váy cho một trong những người con của Bruce Reed, thằng bé xuất hiện trong trang phục màu đen của nhà tang lễ với hai má nhẵn nhụi và đôi mắt trẻ trung tới mức trông giống như nó vừa bước ra từ đêm dạ hội tốt nghiệp. Cô rời nhà tang lễ rồi lái xe một cách vô thức ra phía sau khu công xưởng sắt Isaak từ lâu đã đóng cửa, đi qua những dãy nhà kho lớn bỏ không tới phía cuối đường cho tới khi tấm chắn giảm xóc phía trước xe đụng vào hàng cọc bằng gỗ đã mục nát và dòng kênh Penitentiary chảy lững lờ hiện ra trước mắt, dập dềnh về phía đập chắn nước.
Từ khi nghe thấy hai viên cảnh sát nhắc tới xe của Dave – cũng là xe của họ, là chiếc xe mà cô hiện đang ngồi ở trong – Celeste bắt đầu có cảm giác như người say rượu. Nhưng không phải thứ cảm giác lơ mơ dễ chịu, toàn thân buông lỏng. Mà giống như cảm giác của một người nốc rượu rẻ tiền suốt cả đêm, về nhà lăn ra ngủ tới khi tỉnh lại đầu vẫn ong ong, lưỡi sưng phồng, nồng nặc mùi cồn, chậm chạp, đờ đẫn không có khả năng tập trung.
“Cô đang sợ hãi,” viên cảnh sát kia nói, giống như đâm thẳng vào cô một nhát chí mạng khiến cô chẳng còn cách nào khác là bác bỏ một cách thẳng thừng. “Không. Không có.” Cứ như là một đứa trẻ con. “Không. Không có. Có, cô có. Không. Tôi không có. Có, cô có. Tôi biết là cô có sợ nhưng tôi ở đây là ai? Vân vân và vân vân.”
Cô đúng là đang sợ hãi. Đúng hơn là kinh hãi. Cả người cô trở nên đần độn vì sợ hãi.
Cô sẽ phải nói chuyện với anh, cô tự nhủ. Dù sao anh vẫn là Dave. Một người cha tốt. Một người đàn ông chưa bao giờ đụng chân đụng tay với vợ, một người đàn ông mà trong suốt thời gian cô quen biết, chưa bao giờ tỏ ra có thiên hướng bạo lực. Thậm chí cô còn chưa bao giờ nhìn thấy anh đá cửa hay đấm vào tường. Cô chắc là cô vẫn có thể nói chuyện với anh.
Cô sẽ nói, Dave này, máu dính trên quần áo hôm đó là của ai.
Tối thứ Bảy đã thực sự xảy ra chuyện gì?
Anh có thể nói với em. Em là vợ anh. Anh có thể nói với em mọi chuyện.
Cô sẽ làm vậy. Cô sẽ nói chuyện với anh. Cô không có lý do gì sợ hãi anh. Đó là Dave. Cô yêu anh và anh cũng yêu cô, tất cả những chuyện này rồi sẽ được giải quyết một cách ổn thỏa. Cô dám chắc là thế.
Thế nhưng cô vẫn ngồi lì ra đó, phía bên kia con kênh Penitentiary, lẻ loi bên cạnh một xưởng sắt bị bỏ hoang mới đây đã được bán cho một công ty phát triển đô thị dự định sẽ biến nó thành một bãi đậu xe nếu hợp đồng xây dựng sân vận động phía bên kia sông được thông qua. Cô nhìn sang phía công viên nơi Katie Marcus bị giết hại và chờ đợi ai đó bảo cô phải làm gì tiếp theo.
Jimmy ngồi với Ambrose, con trai của Bruce Reed trong phòng làm việc của cha cậu ta để thảo luận chi tiết về việc tổ chức tang lễ. Hắn thầm mong có thể làm việc trực tiếp với Bruce thay vì cậu thanh niên trẻ măng trông như vừa mới ra trường này. Trông cậu ta chơi ném đĩa hợp hơn là khiêng quan tài và Jimmy không tài nào hình dung ra nổi đôi bàn tay trơn nhẵn, mềm mại kia dưới phòng ướp xác, chạm vào thi thể người chết.
Hắn cho Ambrose ngày sinh tháng đẻ của Katie, số thẻ bảo hiểm xã hội và cậu ta dùng một chiếc bút máy bằng vàng ghi vào một tờ khai đính liền với bảng kẹp hồ sơ rồi nói với hắn bằng một thứ giọng mượt mà, du dương giống hệt như một phiên bản trẻ tuổi của cha mình, “Tốt rồi, tốt rồi. Vậy là ông Marcus, sẽ là một tang lễ Thiên Chúa giáo truyền thống đúng không? Sẽ có một lễ viếng vào ngày hôm trước và đại lễ vào ngày hôm sau?”
“Đúng vậy.”
“Vậy thì theo tôi, chúng ta nên tổ chức lễ viếng vào ngày thứ Tư.”
Jimmy gật đầu.
“Chúng tôi đã hẹn với nhà thờ để cử hành đại lễ vào chín giờ sáng ngày thứ Năm.”
“Chín giờ sáng,” cậu ta nói rồi ghi lại. “Thế còn lễ viếng, ông đã định giờ giấc thế nào chưa?”
“Chúng tôi sẽ tiến hành làm hai đợt. Từ ba tới năm giờ và từ bảy tới chín giờ.”
“Bảy tới chín giờ,” cậu ta nhắc lại rồi tiếp tục ghi vào. “Tôi thấy ông có mang ảnh tới. Tốt rồi. Tốt rồi.”
Jimmy nhìn đống khung ảnh ngổn ngang trong lòng: Ảnh Katie trong lễ tốt nghiệp, Katie với hai em gái trên bãi biển, Katie và hắn tại buổi khai trương nhà hàng Cottage Market lúc con bé tám tuổi, Katie với Eve và Diane, Katie với Annabeth, Jimmy, Nadine và Sara tại khu giải trí Six Flags, ảnh sinh nhật Katie mười sáu tuổi.
Hắn đặt chồng ảnh xuống chiếc ghế bên cạnh, cổ họng trở nên khô khốc khiến hắn phải nuốt nước miếng để nó trôi đi.
“Ông đã nghĩ tới việc đặt hoa chưa?” Ambrose Reed hỏi.
“Chiều nay tôi đã đặt hoa tại cửa hàng Knopfler.”
“Còn cáo phó?”
Lần đầu Jimmy nhìn vào mắt cậu thanh niên. “Cáo phó?”
“Đúng thế,” cậu thanh niên nói rồi nhìn xuống tập hồ sơ của mình. “Cáo phó trên báo phải viết những gì. Chúng tôi có thể lo liệu việc đó nếu ông có thể cung cấp vài thông tin và yêu cầu cơ bản của mình. Chẳng hạn như ông muốn mọi người phúng tiền thay vì hoa chẳng hạn.”
Jimmy tránh khỏi ánh mắt an ủi của cậu thanh niên và nhìn xuống sàn nhà. Ở bên dưới, đâu đó trong tầng hầm của ngôi nhà màu trắng theo kiểu kiến trúc thời Victoria này, Katie đang nằm trong một phòng ướp xác. Con bé sẽ trần trụi trước Bruce Reed, cậu thanh niên này và hai người anh em của cậu ta khi họ tiến hành công việc rửa ráy, sửa sang, trang điểm và bảo quản thi thể của con bé. Những bàn tay lạnh lẽo, được chăm chút cẩn thận của họ sẽ chạm khắp người con bé. Họ phải di chuyển một số bộ phận. Họ sẽ dùng những ngón trỏ và ngón cái xoay cằm con bé về vị trí thích hợp. Họ sẽ chải đầu cho nó.
Hắn nghĩ tới đứa con của mình trần trụi phơi bày ở đó, da thịt không còn chút màu sắc nào, chờ đợi được chạm vào lần cuối bởi những con người xa lạ này – có thể với một sự chăm chút, nhưng là thứ chăm chút nghề nghiệp, một thứ chăm chút kiểu bệnh viện. Và rồi người ta sẽ đặt nó vào trong quan tài, đầu gối lên một lớp gối xa tanh rồi đưa vào trong phòng viếng với một khuôn mặt búp bê đông cứng trong chiếc váy màu xanh ưa thích của nó. Mọi người sẽ tới nhìn con bé, cầu nguyện cho nó, bình luận vài câu, rồi khóc thương, sau đó con bé sẽ được chôn xuống đất. Nó sẽ bị đưa xuống một cái hố được đào bởi những người đàn ông không hề quen biết và Jimmy có thể nghe thấy tiếng đất đá bay rào rào phía bên ngoài như thể hắn đang nằm ở trong quan tài với con bé.
Và rồi con bé sẽ nằm trong bóng tối bị nén chặt dưới ba tấc đất rồi mới tới một lớp cỏ và không khí thoáng đãng mà nó sẽ không bao giờ còn có thể ngửi thấy hay nhận thấy. Nó sẽ nằm đó một ngàn năm mà không thể nghe tiếng bước chân những người tới viếng thăm bia mộ của mình, không thể nghe thấy bất kỳ âm thanh nào của cái thế giới mà nó đã rời đi vì những tầng tầng lớp lớp đất đá ấy đã ngăn cản nó.
Cha sẽ giết hắn, Katie. Thế nào cha cũng phải tìm thấy tên đó trước cảnh sát và cha sẽ giết hắn. Cha sẽ chôn hắn xuống một cái hố khủng khiếp hơn huyệt mộ của con rất nhiều. Cha sẽ khiến hắn không còn gì để khâm liệm. Không còn gì để tang. Cha sẽ khiến hắn biến mất như thể hắn chưa bao giờ tồn tại trên đời này, như thể tên hắn, tất cả những gì đã và đang đại diện cho hắn đều chỉ là một giấc mơ thoảng qua tâm trí mọi người, hoàn toàn rơi vào quên lãng khi người ta tỉnh giấc.
Cha sẽ tìm ra kẻ đã đặt con lên chiếc bàn dưới kia và sẽ xóa sổ hắn. Và những người thân của hắn, nếu như có kẻ quan tâm tới hắn, sẽ cảm thấy khốn khổ hơn người thân của con rất nhiều, Katie. Bởi vì họ sẽ không bao giờ biết được chuyện gì đã xảy ra với hắn.
Và con đừng lo lắng về việc cha có đủ can đảm để làm chuyện đó hay không. Cha của con hoàn toàn có khả năng ấy. Con không hề biết chuyện này nhưng trước đây cha của con từng giết người. Cha của con đã làm việc cần phải làm. Và cha có thể làm lại việc đó một lần nữa.
Hắn quay trở lại với con trai của Bruce, người vẫn còn chưa có đủ kinh nghiệm để đối phó với sự im lặng dài như thế của khách hàng.
Jimmy nói, “Tôi muốn ghi thế này, ‘Marcus Katherine Juanita, con gái vô cùng thương yêu của James và Marita đã từ trần, con gái kế của Annabeth và chị của Sara và Nadine’…”
Sean ngồi ở hiên sau với Annabeth Marcus lúc này vừa uống rượu vang trắng vừa hút thuốc, nhưng cứ được nửa điếu lại dụi đi, ánh đèn từ phía trên đầu họ rọi vào mặt cô. Đó là một khuôn mặt rắn rỏi, có lẽ là không xinh đẹp nhưng lại có sức hút. Sean đoán là cô hẳn quen với việc thu hút ánh mắt của người khác nhưng bản thân lại không biết mình hấp dẫn ở điểm nào. Cô khiến Sean nghĩ đến mẹ của Jimmy nhưng ở cô không có cái vẻ cam chịu và buông xuôi của bà, và cũng gợi nhớ tới mẹ anh, một người phụ nữ sinh ra đã có cái vẻ tự tin thiên bẩm. Annabeth có thể là một phụ nữ vui vẻ nhưng không bốc đồng.
“Vậy tối nay anh sẽ làm gì sau khi hoàn thành nghĩa vụ an ủi tôi?” Cô hỏi Sean khi anh châm thuốc cho cô.
“Tôi không có…”
Cô phủi tay nhắc anh không cần khách sáo. “Tôi rất cảm kích anh chuyện đó. Nhưng tối nay anh định làm gì?”
“Về nhà mẹ.”
“Thật sao?”
Anh gật đầu. “Hôm nay là sinh nhật mẹ tôi nên về nhà ăn sinh nhật với bà và ông già.”
“Ra vậy. Thế anh ly hôn được bao lâu rồi?”
“Điều đó có thể nhìn ra sao?”
“Nó in rành rành trên mặt anh ấy.”
“À ra thế! Thật ra mới chỉ là ly thân thôi, cũng hơn một năm rồi.”
“Cô ấy cũng sống ở đây à?”
“Bây giờ thì không. Cô ấy còn bận di chuyển.”
“Còn bận ‘di chuyển’, nghe giọng anh rất cay cú.”
“Cay cú ư?” Anh nhún vai.
Cô giơ một tay lên rồi nói. “Tôi rất ghét phải đối xử với anh thế này, lôi anh ra làm vật thí mạng để khỏi phải nghĩ tới Katie. Thế nên anh không bắt buộc phải trả lời bất kỳ câu hỏi nào của tôi. Tôi chỉ là hơi tò mò một chút mà anh thì lại là một gã thú vị.”
“Đâu, đâu có. Tôi thực sự là một người rất tẻ nhạt, bà Marcus. Ngoài công việc ra tôi chả còn biết nói gì nữa.” Anh mỉm cười.
“Gọi tôi là Annabeth,” cô nói.
“Được thôi.”
“Thật khó mà tin rằng anh lại là một người tẻ nhạt, nhân viên Devine. Nhưng kể cũng hơi lạ.”
“Gì cơ?”
Cô xoay ghế sang nhìn thẳng vào mặt anh. “Trông anh không giống loại người dùng biên lai giả liên lụy người khác.”
“Sao lại không?”
“Cứ giống như trò trẻ con ấy. Mà anh thì không có cái vẻ đó,” cô nói.
Sean lại nhún vai. Với anh người nào chẳng có lúc cư xử giống trẻ con. Chỉ là quay trở về với trạng thái xưa cũ của mình thôi, nhất là những khi phải đối phó với những chuyện không may xảy ra dồn dập.
Hơn một năm nay anh không hề nói với ai về Lauren, kể cả bố mẹ, mấy người bạn mà anh vẫn hay qua lại, kể cả bác sĩ tâm lý của cảnh sát mà chỉ huy trưởng có lần đã đề cập tới sau khi mọi người ở chỗ làm biết tin Lauren dọn ra ngoài. Thế nhưng lúc này đây, Annabeth, một người xa lạ vừa mất người thân, lại muốn khám phá sự mất mát ấy của anh, muốn được tìm hiểu, được chia sẻ để thấy rằng mình không phải là người duy nhất bị dằn vặt bởi thương đau.
“Vợ tôi làm nghề phụ trách sân khấu,” anh nói khẽ. “Cho các tour diễn lưu động. Ví dụ như vở Lord of the Dance lưu diễn xuyên quốc gia hồi năm ngoái là do vợ tôi phụ trách phần hậu đài. Đại loại như vậy. hiện giờ cô ấy đang theo vở Annie Get Your Gun thì phải. Tôi cũng không rõ nữa. hả biết năm nay họ tái dựng vở gì. Chúng tôi là một cặp kỳ quặc. Ý tôi là, dựa vào nghề nghiệp của hai bên mà nói, thật là vô cùng cách biệt, đúng không?”
“Nhưng anh yêu cô ấy,” Annabeth nói.
Anh gật đầu. “Tôi vẫn yêu cô ấy.” Rồi anh hít một hơi thật dài, tựa lưng vào ghế và thở sâu. “Thế nên cái gã mà tôi phát ra vé phạt, hắn là…” Nói tới đây, miệng anh đột nhiên trở nên khô khốc, anh khẽ lắc đầu và chỉ muốn ra khỏi đây thật nhanh, ngay lập tức khỏi căn nhà này.
“Một tình địch?” Annabeth khẽ khàng lên tiếng.
Sean lấy một điếu thuốc trong bao châm lửa rồi gật đầu. “Đó là một từ quá hay để miêu tả chuyện này. Nhưng thôi, chúng ta cứ tạm gọi là vậy. Một kẻ tình địch. Vợ tôi và tôi, hai chúng tôi có trải qua một thời điểm khó khăn. Cả hai đều bận rộn, hay vắng mặt, và nhiều chuyện khác nữa. Và cái gã, hừm, tình địch, đó đã nhân cơ hội tiếp cận cô ấy.”
“Và anh đã phản ứng một cách dại dột.” Annabeth đưa ra kết luận đúng hơn là hỏi anh.
Sean trợn mắt lên nhìn cô. “Trong trường hợp đó lại còn có ai phản ứng tốt sao?”
Annabeth ném cho anh một cái nhìn gay gắt như thể anh thật không biết cách châm chọc hoặc chỉ đơn giản là cô không thích thế.
“Nhưng anh vẫn yêu cô ấy.”
“Đúng vậy. Tệ nhất là tôi nghĩ rằng cô ấy cũng vẫn còn yêu tôi.” Anh dụi tắt điếu thuốc. “Cô ấy gọi điện cho tôi suốt. Gọi nhưng lại chẳng nói gì.”
“Chờ chút, cô ấy…”
“Tôi biết là rất lạ.”
“… gọi nhưng không nói lời nào?”
“Chính thế. Cứ như thế gần tám tháng rồi.”
Annabeth bật cười khẽ. “Tôi không có ý gì đâu nhưng đúng là lâu lắm rồi tôi mới được nghe một chuyện kỳ quặc như thế.”
“Không sai.” Anh ngắm nhìn một con thiêu thân cứ lao ra lao vào phía trước bóng đèn. “Rồi một ngày nào đó cô ấy sẽ phải lên tiếng. Thế nên tôi cứ bám vào hy vọng đó.”
Anh nghe thấy tiếng cười nhạt nhẽo của mình tắt dần trong bóng tối, âm vang của nó khiến anh cảm thấy hổ thẹn. Hai người bọn họ ngồi im lặng một lúc, hút thuốc và lắng nghe tiếng muỗi vo ve trong lúc điên cuồng đập cánh lao về phía ánh sáng.
“Cô ấy tên là gì?” Annabeth hỏi. “Nói chuyện suốt thế mà anh không hề nhắc đến tên cô ấy một lần.”
“Lauren. Tên cô ấy là Lauren.”
Tên cô ấy buột ra, lơ lửng trong không khí một lúc, giống như một màng tơ nhện chăng giữa hai người.
“Anh yêu cô ấy từ khi còn trẻ?”
“Năm đầu đại học. Lúc đó đúng là còn trẻ thật.”
Anh vẫn nhớ cơn giông tháng Mười một năm ấy, họ đứng trên ngưỡng cửa, run rẩy hôn nhau lần đầu tiên.
“Lý do có lẽ là ở chỗ đó,” Annabeth nói.
“Nhưng chúng tôi đâu còn trẻ con nữa,” Sean nhìn cô.
“Ít nhất thì vẫn còn một người chưa lớn,” cô nói.
Sean không hỏi là ai.
“Jimmy bảo tôi là anh nói Katie định bỏ trốn với Brendan Harris.”
Sean gật đầu.
“Chỉ có vậy thôi đúng không?”
“Gì cơ?”
Annabeth nhả khói lên những hàng dây phơi trống rỗng. “Thì những giấc mơ ngớ ngẩn lúc còn trẻ. Katie và Brendan muốn gây dựng cuộc sống tại Las Vegas phải không? Khu vườn địa đàng nhỏ bé của chúng có thể tồn tại được bao lâu? Có lẽ chúng sẽ trụ được tới lần chuyển nhà thứ hai trong một chiếc xe kéo kiêm nhà ở di động trong công viên hay tới khi đứa con thứ hai chào đời nhưng sớm muộn gì chúng cũng sẽ vỡ mộng, cuộc đời làm gì có hạnh phúc mãi mãi, những buổi hoàng hôn đầu tiên, hay những thứ nhảm nhí tương tự. Đó là nỗ lực. Người mà anh yêu hiếm khi xứng đáng với tình yêu to lớn mà anh dành cho họ. Vì chả có ai xứng đáng với nó cả và có lẽ cũng chẳng ai đáng phải chịu đựng cái gánh nặng mà nó mang lại. Họ sẽ khiến anh thất vọng. Anh sẽ trở nên tuyệt vọng, mất niềm tin và phải sống những chuỗi ngày vô cùng khổ sở. Anh sẽ thua nhiều hơn là thắng. Anh ghét người mình yêu cũng nhiều như anh yêu cô ấy. Tóm lại, phải xắn tay áo lên và nỗ lực vì mọi thứ, bởi vì đó chính là trưởng thành.”
“Annabeth, có ai nói với cô rằng cô là một người phụ nữ vô cùng cứng rắn không?” Sean hỏi.
Cô quay đầu sang nhìn anh, nhắm mặt lại, trên mặt phảng phất một nụ cười. “Họ nói thế suốt.”