|
Chương 7: Máu (2)
Lúc Nadine và những đứa trẻ khác đi ra phía sau nhà thờ, Jimmy cảm thấy cơn giận đối với Katie bắt đầu nguôi ngoai nhưng nỗi lo lắng thì tăng lên. Katie có thể đi chơi về muộn và giao du với bọn con trai mà hắn không hay biết nhưng nó không phải là người chị khiến các em của mình thất vọng. Hai đứa em gái phải nói là tôn thờ chị mình, và ngược lại, Katie cũng rất chăm chút bọn nhóc, hay dẫn chúng đi xem phim, trượt pa tanh, đi ăn kem. Mới đây nó còn háo hức khuyến khích hai đứa nhỏ tham gia lễ diễu hành ngày Chủ nhật tuần sau, như thể ngày lễ hội Buckingham là ngày quốc lễ, quan trọng sánh ngang với lễ Thánh Patrick và Giáng sinh. Tối thứ Tư, Katie về nhà từ sớm, dẫn hai đứa em lên phòng để chọn trang phục mà chúng sẽ mặc để tham gia diễu hành, làm một buổi tổng diễn tập nhỏ, ngồi trên giường ngắm hai cô em gái trình diễn hết bộ quần áo này tới bộ quần áo khác, và hỏi ý kiến chị về kiểu tóc, trang điểm mắt và cách tạo dáng. Dĩ nhiên, phòng hai đứa nhỏ sau đó biến thành một bãi chiến trường, quần áo lộn xộn, nhưng Jimmy chẳng bận tâm, Katie đang giúp đỡ các em mình đánh dấu một sự kiện khác trong đời, những điều tưởng như vụn vặt nhất thành những sự kiện quan trọng và đáng nhớ.
Vậy sao còn bé có thể không tới dự lễ ban thánh thể của Nadine được chứ? Uống rượu say túy lúy? Hay nó thực sự đã gặp một anh chàng mới toanh có vẻ ngoài giống minh tinh, tính tình lại dễ chịu. Hay cũng có thể chỉ đơn giản là con bé quên mất.
Jimmy rời khỏi ghế bước ra ngoài cùng với Annabeth và Sara. Annabeth siết chặt tay hắn và quan sát gương mặt đang đanh lại cùng cái nhìn xa xăm của Jimmy.
“Em chắc là con bé ổn thôi. Chắc còn chưa giã rượu. Nhưng không sao.”
Jimmy mỉm cười gật đầu và đến phiên mình siết chặt tay vợ. Annabeth, với khả năng đọc thấu những suy nghĩ trong đầu hắn, cùng cái siết tay thật chặt và đúng lúc, tính thực tiễn mềm mỏng của cô chính là trụ cột cuộc đời hắn, đơn giản và khiêm nhường. Cô vừa là vợ, vừa là mẹ, vừa là người bạn thân nhất, là em gái, là người tình, là cha xứ. Không có cô, Jimmy biết chắc hắn sẽ lại kết thúc đời mình trong nhà tù Deer Island hay tệ hơn là một trong những nhà tù khổng lồ như Norfork hay Cedar Junction dành cho những tội phạm nghiêm trọng, và chết rục xương ở đó.
Hắn gặp Annabeth một năm sau khi mãn hạn tù và còn hai năm trong thời gian quản thúc trong lúc mối quan hệ giữa hắn và Katie bắt đầu được củng cố. Con bé có vẻ đã quen với việc có hắn ở bên cạnh – dù còn chút nghi ngại nhưng tình cảm giữa hai cha con rất ấm áp – còn Jimmy thì đã quen với nỗi mệt mỏi triền miên – mệt mỏi vì làm việc mười tiếng một ngày và mệt mỏi vì phải sùng sục khắp thành phố đưa đón Katie, chở tới nhà mẹ hắn, tới trường học, trường mẫu giáo. Hắn trở nên mệt mỏi và sợ hãi: đây là hai trạng thái thường xuyên của hắn, tới mức sau một thời gian thì trở thành thói quen. Hắn thức dậy và lo sợ - sợ Katie sẽ ngủ không đúng tư thế mà ngạt thở, sợ tình hình kinh tế ngày càng suy thoái khiến hắn mất việc, sợ Katie ngã ở khu vui chơi trong giờ giải lao ở trường, sợ con bé cần cái gì đó mà hắn không thể mua được, sợ rằng đời hắn sẽ mãi mãi quay cuồng trong cái vòng luẩn quẩn vừa yêu thương, vừa sợ hãi, vừa mệt mỏi không dứt này.
Jimmy mang theo tâm trạng mệt mỏi đó tới nhà thờ dự đám cưới anh trai Annabeth, Val Savage với Terese Hickey, cả cô dâu chú rể đều lùn, xấu và cáu bẳn. Jimmy hình dung họ sẽ cho ra đời không phải là những đứa trẻ con bình thường mà là những sinh vật kỳ lạ, mũi bẹt, tính nóng như lửa, sẽ làm thất điên bát đảo đại lộ Buckingham sau này. Val từng làm cho băng nhóm của Jimmy vào cái thời mà Jimmy còn băng nhóm và đặc biệt biết ơn hắn đã lãnh hai năm tù giam và ba năm tù treo cho cả bọn mặc dù ai cũng biết là Jimmy hoàn toàn có thể khai chúng ra để giảm tội. Val, một kẻ chân tay nhỏ bé, óc quả nho, có lẽ đã tôn Jimmy làm thần tượng nếu hắn không lấy một con bé người Puerto Rico, một kẻ ngoại lai.
Sau khi Marita chết, hàng xóm thì thào, thấy chưa, đã bảo mà. Cứ đi ngược lại sự đời là thế. Tuy nhiên con bé Katie thì đúng là rất xinh, bọn con lai đứa nào cũng vậy.
Khi ra khỏi tù, ngay lập tức Jimmy nhận được rất nhiều lời mời gọi. Jimmy là một tay trộm chuyên nghiệp, một trong những tay trộm cừ nhất trong một cái nôi sản sinh ra những tay trộm cừ nhất. Nhưng khi hắn từ chối những lời mời gọi này và lấy con gái mình ra làm một cái cớ thì người ta chỉ gật đầu, mỉm cười và cho rằng sớm muộn hắn cũng sẽ quay đầu lại một khi lâm vào tình thế khó khăn và buộc phải chọn giữa số tiền có thể mua cho hắn một chiếc xe ô tô hay một món quà Giáng sinh cho Katie.
Thế nhưng chuyện đó đã không xảy ra, Jimmy Marcus, một thiên tài ăn trộm phá két, một kẻ có thể sáng lập ra băng nhóm riêng của mình từ khi chưa đủ tuổi uống rượu, kẻ đứng đằng sau vụ cướp ở Keldar Technics và vô số vụ trộm tai tiếng khác, lại có thể sống thiện lương tới mức người khác tưởng rằng hắn đang cố tình chế nhạo họ. Lại còn những lời đồn đại cho rằng Jimmy đang thoả thuận mua lại cửa hàng tạp hoá ở góc phố của Al DeMarco để cho ông già về hưu với một khoản tiền lớn mà người ta cho rằng Jimmy đã tích luỹ được sau vụ Keldar. Jimmy trong vai trò người bán hàng, mặc tạp dề, cứ chờ xem sao, họ nghĩ.
Tại tiệc cưới của Val và Terese tại nhà hàng K of C ở phố Dunboy, Jimmy mời Annabeth ra khiêu vũ và thiên hạ lập tức nhìn ra tình ý của bọn họ - cái cách họ cùng uốn người theo điệu nhạc, ngẩng đầu nhìn thẳng vào mắt nhau, rừng rực, kiêu hãnh, cái cách hắn dùng lòng bàn tay vuốt ve thắt lưng Annabeth và cách cô đón nhận sự ve vuốt ấy. Họ biết nhau từ nhỏ, ai đó nói, dù hắn lớn hơn cô ấy vài tuổi. Có lẽ cơ duyên của bọn họ vẫn luôn ở đó, chỉ chờ cô gái Puerto Rico kia cuốn gói đi chỗ khác hay Chúa tới mang cô ấy đi.
Lúc đó họ đang khiêu vũ theo một ca khúc của Rickie Lee Jones, có mấy ca từ không hiểu vì sao luôn làm hắn động tâm - “Thôi xin chào tạm biệt các cậu bé, những người bạn thân của tôi, những chàng Sinatra có đôi mắt buồn...” Hắn nhấp môi theo những lời này khi cùng Annabeth xoay theo điệu nhạc. Đây là lần đầu tiên hắn cảm thấy thư thái, thả lỏng toàn thân sau nhiều năm. Rồi hắn lại tiếp tục mấp máy theo đoạn điệp khúc, “con đường thật dài và cô đơn” cùng giọng hát buồn bã, đầy vẻ luyến tiếc quá khứ của Rickie, đồng thời mỉm cười, đắm chìm trong đôi mắt màu lục trong như pha lê của Annabeth và cô cũng dịu dàng, e ấp cười lại khiến trái tim hắn hoàn toàn bị chinh phục, hai người bọn họ cứ như không phải lần đầu mà đã từng khiêu vũ với nhau qua hàng trăm điệu nhạc.
Họ là những người cuối cùng rời khỏi tiệc cưới, nán lại dưới mái hiên rộng phía trước nhà hàng, uống bia, hút thuốc, gật đầu chào khách đi lấy xe. Họ ngồi đó cho tới khi đêm mùa hè trở lạnh, Jimmy khoác áo ngoài lên vai Annabeth và kể cho cô nghe về nhà tù, về Katie, về giấc mơ những tấm rèm cửa màu cam của Marita còn cô kể cho hắn nghe việc cô lớn lên, là đứa con gái duy nhất trong nhà Savage giữa những ông anh điên rồ, về một mùa đông bỏ lên New York học khiêu vũ trước khi phát hiện ra rằng cô không đủ thông minh để tiếp tục trường y tá.
Khi quản lý nhà hàng đuổi họ đi, hai người lững thững cuốc bộ tới nhà Val và Terese vừa lúc chứng kiến cuộc khẩu chiến đầu tiên giữa cô dâu và chú rể. Họ bèn mở tủ lạnh của Val lấy ra một bịch sáu lon bia rồi bỏ đi, tới bãi chiếu bóng ngoài trời Hurley lúc này bị bỏ hoang chìm trong bóng tối, ngồi bên con kênh và lắng nghe tiếng nước chảy rầu rĩ. Nhà hàng đã đóng cửa từ bốn năm trước, những chiếc máy xới đất khổng lồ màu vàng và xe rác của Cục công viên giải trí và bên quản lý giao thông ùn ùn kéo tới đây mỗi sáng, biến cả khu vực dọc kênh Penitantiary thành một bãi ngổn ngang xi măng và cát bụi. Nghe nói người ta đang cải tạo nơi này thành công viên, nhưng vào thời điểm đó nó vẫn chỉ là một bãi chiếu bóng bị bỏ bê, màn hình màu trắng vẫn đứng sững ở đó sau đống gạch đất, nhựa đường xám xịt, đen đúa.
“Người ta nói rằng nó đã ngấm vào trong máu của anh.” Annabeth lên tiếng.
“Gì cơ?”
“Trộm cắp, tội phạm.” Cô nhún vai. “Anh biết đấy.”
Jimmy mỉm cười nhìn cô qua chai bia rồi nhấp một ngụm.
“Có phải thế không?”
“Có thể.” Đến lượt hắn nhún vai. “Có rất nhiều thứ ngấm vào trong. Nhưng không nhất định phải phát tiết ra ngoài.”
“Em không có ý phán xét anh. Tin em đi.” Hắn không đọc được nét mặt cô cũng như giọng cô lúc đó, Jimmy thực sự không biết cô muốn hắn trả lời như thế nào. Rằng hắn vẫn còn hành nghề đó? Hay đã giải nghệ? Rằng hắn sẽ làm cho cô trở nên giàu có? Hay hắn sẽ không bao giờ phạm tội nữa?
Thoạt nhìn Annabeth có một khuôn mặt bình thản, gần như không có gì đáng nhớ, nhưng quan sát kỹ lại thấy hàm chứa nhiều bí ẩn, cá tính và tràn trề sức sống.
“Ý anh là việc khiêu vũ cũng ngấm vào trong máu của em có phải không?”
“Em không biết. Chắc thế.”
“Nhưng giờ, người ta bảo rằng em không thể tiếp tục theo đuổi nghiệp khiêu vũ nên em đã dừng lại, đúng không? Điều đó có thể khiến em hết sức đau lòng, nhưng em vẫn phải đối diện với nó.”
“Vâng...”
“Chính thế,” hắn nói và rút một điếu thuốc từ bao thuốc để trên chiếc ghế đá, giữa hai người bọn họ. “Phải, chính thế, việc trước đây anh làm, anh rất thành thạo. Nhưng rồi anh bị bắt, vợ anh chết, tất cả những chuyện đó đã làm khổ con gái anh rất nhiều.” Hắn châm một điếu thuốc, nhả một hơi dài và cố gắng truyền đạt chính xác những gì hắn vẫn luôn tự nhắc đi nhắc lại trong đầu mình hàng trăm lần. “Anh không muốn làm khổ con gái mình lần nữa, Annabeth. Em biết không? Nó sẽ không thể chịu đựng nổi nếu anh lại ngồi tù thêm hai năm nữa. Mẹ anh? Bà ấy không phải là người khoẻ mạnh gì cho cam. Nếu bà ấy mất trong khi anh ngồi tù? Họ sẽ mang con gái anh đi, cho chính quyền quản thúc, ở một nơi như Deer Island hay những nhà giáo dưỡng dành cho trẻ em. Anh không thể chấp nhận điều đó. Vậy đấy. Ngấm trong máu hay không, kệ cha nó. Anh phải sống đàng hoàng.”
Jimmy đón nhận ánh mắt của Annabeth khi cô chăm chú dò xét gương mặt hắn. Hắn hiểu là cô đang tìm kiếm những kẽ hở trong lời phân trần của hắn, một dấu hiệu của sự dối trá, và hắn hy vọng mình đã hùng biện thành công. Thực tế, những điều hắn vừa nói phần lớn đều là sự thật. Hắn chỉ bỏ qua một điều, một điều mà hắn đã thề không hé miệng nói với bất kỳ người nào, cho dù đó là ai đi nữa. Thế nên, hắn nhìn vào mắt Annabeth và chờ đợi phán quyết của cô, cố quên đi những hình ảnh của cái đêm hôm đó, bên dòng sông Kỳ Bí - một người đàn ông đang quỳ, nước dãi nhỏ xuống cằm, rối rít van xin - những hình ảnh vẫn luôn ghim vào đầu óc hắn như những mũi khoan.
Annabeth cầm lấy một điếu thuốc. Hắn châm lửa cho cô và cô bảo, “Em từng phải lòng anh đến là khổ sở anh có biết không?”
Jimmy vẫn giữ vẻ bình thản, ánh mắt điềm đạm dù trong lòng hắn dường như vừa trút bỏ được một gánh nặng ngàn cân. Hắn đã nói ra phân nửa sự thật. Nếu mọi chuyện với Annabeth trở nên suôn sẻ thì hắn sẽ không bao giờ phải nói ra nốt nửa còn lại.
“Không đùa đấy chứ? Anh á?”
Cô gật đầu. “Khi anh tới nhà gặp Val, Chúa ơi, lúc đó em mới mười bốn, mười lăm? Mà thôi Jimmy, quên chuyện đó đi. Hồi đó chỉ cần nghe thấy giọng của anh ở trong bếp là cả người em đã run lên rồi.”
“Ôi trời.” Hắn chạm vào tay cô. “Thế bây giờ không còn run nữa à?”
“Có chứ Jimmy. Vẫn run.”
Và Jimmy cảm thấy dòng sông Kỳ Bí đang trôi xa dần, tan biến trong lòng con kênh Penitentiary rong rêu, ra khỏi cuộc đời của hắn và trở về chốn cũ xa xôi.
Khi Sean quay lại tới đoạn đường mòn chạy bộ thì nữ giám định viên lúc nãy đã có mặt ở đó. Whitey Powers điện đàm ra lệnh cho tất cả các đơn vị trên hiện trường truy quét và tạm giữ tất cả những người vô gia cư lai vãng trong công viên rồi ngồi xổm xuống bên cạnh Sean và nữ giám định viên kia.
“Vệt máu đi theo hướng này,” cô ta nói và chỉ vào trong công viên. Con đường chạy bộ dẫn qua một cây cầu gỗ nhỏ rồi uốn lượn, rẽ xuống một khu vực cây cối rậm rạp trong công viên, vòng quanh khu nhà hàng đang đóng cửa im ỉm ở khúc cuối. “Ở kia nữa cũng có máu.” Cô ta cầm bút chì, Sean và Whitey ngoảnh đầu nhìn lại, thấy một vệt máu nhỏ hơn vấy trên cỏ phía bên kia con đường chạy bộ cạnh cây cầu gỗ nhỏ, những chiếc lá phong đã che chắn cho nó khỏi cơn mưa đêm qua. “Tôi nghĩ cô ấy chạy về phía cái vực nhỏ ở đằng kia.”
Máy bộ đàm của Whitey phát ra tín hiệu, ông ta liền đưa lên miệng nói, “Powers nghe đây.”
“Trung sĩ, chúng tôi cần ông tới vườn hoa.”
“Tôi tới liền.”
Sean nhìn Whitey rảo bước trên con đường chạy bộ rồi rẽ về phía vườn hoa ở khúc ngoặt đằng trước, hai tà áo đồng phục khúc côn cầu của con trai bay phấp phới quanh thắt lưng.
Sean đứng thẳng dậy, cả công viên thu vào trong tầm mắt, từng gốc cây bụi cỏ, từng con suối, ngọn đồi. Anh nhìn lại cây cầu gỗ nhỏ bắc qua một vực nước nông, nước đen gấp đôi và ô nhiễm gấp đôi con kênh Penitentiary. Quanh năm nó bao phủ bởi một lớp màng đen nhớp nhúa, ruồi muỗi vẫn kéo đến đây làm ổ vào mùa hè. Sean nhìn thấy một chấm đỏ giữa những thân cây mảnh, màu xanh mọc lên dọc theo bờ vực, liền di chuyển về hướng đó. Nữ giám định viên hiện trường đột nhiên xuất hiện bên cạnh anh, cô ta cũng vừa phát hiện ra điều đó.
“Tên cô là gì?”
“Karen. Karen Hughes.”
Sean bắt tay cô ta rồi hai người bọn họ băng qua con đường chạy bộ, mắt dán vào cái chấm màu đỏ đó, không nghe thấy tiếng Whitey Powers quay trở lại cho tới khi ông gần như lao ra trước mặt họ, thở hổn hển như sắp hết hơi.
“Chúng tôi tìm thấy một chiếc giày,” Whitey bảo.
“Ở đâu?”
Whitey chỉ ngược lại phía con đường chạy bộ, tới khúc ngoặt sang vườn hoa. “Trong vườn. Giày nữ. Số sáu.”
“Đừng có đụng vào nó đấy nhé.” Karen Hughes nói.
“Thì không đụng,” Whitey nói và nhận được một ánh mắt từ phía Karen Hughes, một ánh mắt sắc lạnh khiến người ta rùng mình. “Xin lỗi, ý tôi là sẽ không đụng vào, thưa cô.”
Sean quay trở lại với đám cây ở rìa vực, cái chấm đỏ không còn là một chấm nhỏ nữa mà là một miếng vải rách hình tam giác, móc trên một cành cây mảnh cao ngang vai. Ba người bọn họ đứng đực ra ở đó cho tới khi Karen Hughes lùi lại và bấm một loạt ảnh từ bốn góc khác nhau rồi thò tay vào túi tìm cái gì đó.
Sean chắc rằng đó là một miếng vải ni lông, có lẽ là từ áo khoác. Miếng vải sũng máu.
Karen dùng kẹp nhíp gỡ miếng vải ra khỏi cành cây và chăm chăm nhìn nó một lúc trước khi bỏ vào túi ni lông đựng tang vật.
Sean cúi người, nghển cổ nhìn xuống vực, rồi nhìn sang bờ bên kia và thấy một vết giống như vết giày cao gót hằn trên đất xốp.
Anh ra hiệu cho Whitey và chỉ cho ông ta cho tới khi ông ta cũng nhìn thấy nó. Rồi đến lượt Karen Hughes cũng nhìn theo họ và lấy chiếc máy ảnh Nikon công vụ chụp vài kiểu. Sau đó cô ta đi qua cầu, đi xuống ven miệng vực chụp thêm vài kiểu nữa.
Whitey ngồi xổm xuống nhòm dưới chân cầu. “Tôi nghĩ là cô ta có thể đã trốn ở đây một lúc. Hung thủ lại xuất hiện nên cô ta nhào sang bờ bên kia và tiếp tục bỏ chạy.”
“Tại sao cô ta tiếp tục chạy vào sâu trong công viên? Ý tôi là, lưng cô ta quay về phía con vực này, Sarge. Sao không cắm đầu chạy tắt về phía cổng ra vào?” Sean nói.
“Có thể là cô ta bị mất phương hướng. Trời thì tối mà cô ta lại bị trúng đạn.”
Whitey nhún vai và sử dụng bộ đàm gọi cho tổng đài điều độ.
“Đây là trung sĩ Powers. Chúng tôi nghi ngờ có án mạng, chuyển sang hiệu lệnh 187, tổng đài. Chúng tôi cần huy động tất cả các cảnh sát có mặt để xem xét toàn bộ khu vực công viên Penitentiary. Có thể sẽ còn cần đến cả thợ lặn nữa.”
“Thợ lặn á?”
“Đúng vậy. Chúng tôi cũng cần thanh tra cảnh sát Friel và ai đó bên công tố tới hiện trường ngay lập tức.”
“Thanh tra đang tới. Còn văn phòng công tố đã được thông báo. Đã hết?”
“Xin hết.”
Sean nhìn vết gót giày trên mặt đất và để ý thấy nhiều vết cào xới ở bên trái, nạn nhân hẳn đã phải thọc tay xuống đây lần đường để bò lên miệng vực. “Trung sĩ, ông có muốn đoán chuyện quái quỷ gì đã xảy ra ở đây đêm qua không?”
“Thậm chí còn chả muốn nghĩ tới,” Whitey trả lời.
Đứng trên bậc thang nhà thờ cao nhất, Jimmy có thể nhìn thấy con kênh Penitentiary giống như một dải ruy băng màu tía lờ đờ phía bên kia cầu vượt đường cao tốc, công viên kề sát là khoảng màu xanh duy nhất bên bờ kênh bên này. Jimmy chăm chú quan sát đỉnh chóp màu trắng bạc của tấm màn hình chiếu bóng giữa công viên, trông cao hơn cả chiếc cầu vượt. Tấm màn hình chiếu bóng vẫn luôn ở đó, kể cả khi chính quyền bang thâu tóm quyền sở hữu từ buổi bán đấu giá vì thiếu ngân quỹ của thành phố và biến nó thành tài sản của Cục công viên giải trí. Cục đã dành cả một thập kỷ sửa sang lại địa điểm này, dỡ bỏ những cột treo loa dành cho ô tô, san bằng và phủ xanh đất đai, tạo nên những con đường dành cho xe đạp, người chạy bộ dọc theo kênh, dựng lên một khu vườn tự trồng, có rào bao quanh, thậm chí còn có thêm cả một bến tàu với cầu dẫn dành cho những chiếc ca nô không quay đầu được. Thế nhưng người ta vẫn giữ lại màn hình của bãi chiếu bóng cũ sừng sững giữa công viên và dựng lên trước mặt nó một sân khấu kịch bằng những cây gỗ lớn vận chuyển từ Bắc California tới. Vào mùa hè, một nhà hát địa phương sẽ trình diễn các vở của Shakespeare ở đó, vẽ lên những họạ tiết trang trí thời Trung cổ, nhảy tới nhảy lui trên sân khấu với những thanh kiếm bằng giấy thiếc, hò hét những từ cổ lỗ sĩ như “Nhà ngươi hãy nghe đây!” hay “Thật không còn nghi ngờ gì nữa” hoặc những thứ tương tự. Mùa hè hai năm trước, Jimmy và Annabeth cùng các con gái đã tới đây xem một vở kịch nhưng cả Annabeth, Nadine và Sara đều ngủ gật trước khi hồi một kết thúc. Chỉ mỗi Katie là vẫn tỉnh táo, ngồi trên một cái chăn, tì khuỷu tay lên đầu gối, hai bàn tay chống cằm nên Jimmy cũng phải cố mở mắt mà theo dõi. Đêm đó họ diễn vở Taming of the Shrew (Thuần phục cô nàng đanh đá) mà phần lớn Jimmy không hiểu được - đại loại về một gã muốn đưa vị hôn thê của hắn vào kỷ cương cho tới khi cô ta trở thành một người vợ phục tùng, dễ bảo. Jimmy chịu không tài nào nhìn thấy tính nghệ thuật trong vở kịch ấy và đoán rằng chắc là do không hiểu ngôn từ cổ. Katie thì hoàn toàn bị chinh phục. Con bé lúc thì phá ra cười sằng sặc lúc lại chết lặng đi, cứ mấy lần như thế và cuối cùng bảo với Jimmy là vở kịch thật “kỳ diệu”. Jimmy chẳng hiểu điều đó có nghĩa là gì và Katie cũng chịu không giải thích được. Con bé chỉ nói là nó có cảm giác như vở kịch đã “mang nó đi” và suốt sáu tháng sau đó lúc nào Katie cũng nhắc tới việc sau khi tốt nghiệp, sẽ chuyển sang sống ở Ý.
Jimmy đứng đó nhìn sang rìa khu Hạ của East Bucky mà nghĩ: Nước Ý. Ai mà ngờ được chứ.
“Bố ơi, bố ơi!” Nadine tách ra khỏi đám bạn chạy về phía Jimmy khi hắn vừa vặn bước xuống bậc thang cuối cùng, đâm sầm vào chân hắn, miệng vẫn không ngừng gọi, “Bố ơi, bố ơi.”
Jimmy nhấc con bé lên, chiếc váy hồ cứng của con bé cọ vào người hắn. Hắn thơm lên má con gái và bảo, “Bé con, bé con của ta.”
Giống hệt như cử chỉ của mẹ nó khi gỡ tóc rủ vào mắt, Nadine dùng hai ngón tay hất chiếc khăn voan ra khỏi mặt. “Bố ơi, cái váy này ngứa quá.”
“Ờ, bố không phải mặc nó mà còn thấy ngứa nữa là.” Jimmy nói.
“Bố mà mặc váy thì chắc buồn cười lắm, hi hi!”
“Nhưng nếu nó vừa khít như con mặc chiếc váy này thì chắc cũng không tệ.”
Nadine trợn tròn mắt rồi lấy chóp khăn voan cứng cọ cọ dưới cằm Jimmy và hỏi, “Nhột không bố?”
Jimmy nhìn qua đầu con bé về phía Annabeth và Sara, thấy yêu thương dâng trào trong lồng ngực, lòng vừa tràn ngập hoan hỉ, vừa như bị rút hết sinh khí.
Một viên đạn lạc có thể xuyên qua lưng hắn lúc này, ngay giây phút này thì hắn cũng chẳng bận tâm. Chẳng nhằm nhò gì. Vì hắn đang hạnh phúc. Hạnh phúc nhất trần đời.
Hay gần như thế. Hắn vẫn lần tìm Katie trong đám đông, hy vọng con bé sẽ xuất hiện vào phút chót. Thay vào đó, hắn chỉ thấy một chiếc xe tuần tra của cảnh sát rẽ ngoặt ở góc đại lộ Buckingham, đi vào làn bên trái phố Roseclair, lốp sau nghiến vào dải phân cách, tiếng còi hụ the thé dồn dập xé rách không khí buổi sớm. Jimmy nhìn thấy người lái xe đạp ga, nghe tiếng động cơ tăng tốc vù vù và chiếc xe lao trên phố Roseclair về phía kênh Penitentiary. Một chiếc xe màu đen không có dấu hiệu gì đặc biệt lao theo, hai xe chỉ cách nhau vài giây, chiếc xe thứ hai không rú còi nhưng chắc chắn cũng là xe cảnh sát, chỉ cần nhìn cái cách tài xế cua gấp một khúc chín mươi độ để rẽ sang phố Roseclair với vận tốc sáu mươi cây số một giờ, động cơ vang rền.
Khi Jimmy đặt Nadine xuống đất trở lại, hắn chợt có một dự cảm chẳng lành, dường như có chuyện gì khủng khiếp đã xảy ra. Hắn quan sát hai chiếc xe cảnh sát chui qua bên dưới cầu vượt rồi rẽ phải về hướng cổng ra vào của công viên Penitentiary và cảm thấy dường như dòng máu của Katie đang chảy trong huyết quản hắn, trong mỗi mao mạch mỗi tế bào, cùng với tiếng còi xe ô tô cảnh sát dồn dập và tiếng lốp xe nghiến trên đường.
Katie, hắn gần như hét lên. Lạy đức Chúa lòng lành. Katie.
|
|