|
Tác giả |
Đăng lúc 8-1-2012 06:56:14
|
Xem tất
Chương 4
Tôi rời khỏi quán ăn trong thảng thốt, cảm thấy tâm trạng hỗn độn giữa sầu muộn, oán giận và thổn thức. Đó là một sự trộn lẫn lạ lùng, chao đảo của rất nhiều cảm xúc cứ thao thiết mãi lên trong cơn mưa, giờ tan ra thành muôn mảnh ngổn ngang buốt giá. Tôi thoáng định đi bộ về nhà, hầu mong được chìm trong ướt lạnh và buồn khổ, nhưng rồi tôi nghĩ lại. Chẳng việc gì phải đắm mình vào chuyện ấy, chẳng có lý do nào để phiền muộn hay thậm chí là bận tâm đến.
Vậy nên, thay vào đó, tôi đi về phía ga tàu điện ngầm, sải những bước dài quả quyết trên con đường trơn trượt. Đẹp đẽ, tồi tệ, và cả những kỷ niệm bình thường nhất về Leo vẫn cuộn xoáy trong đầu tôi nhưng tôi nhất định không chịu dừng lại ở bất kỳ kỷ niệm nào trong số đó. Chuyện quá xưa rồi, tôi lầm bầm thành tiếng khi bước trên cầu thang xuống ga tàu điện ngầm ở Union Square. Trên đường vào sân ga, tôi sải chân qua những vũng nước nhỏ và cố gắng tìm cách xua đuổi mọi ý nghĩ. Tôi mua một gói kẹo Butterscotch Life Savers trong quầy tạp phẩm, lướt qua những tít báo, hóng nghe một cuộc đàm thoại sôi nổi về chính trị, và quan sát dòng người hối hả chạy tới chạy lui trên các đường sân ga phía dưới. Bất cứ thứ gì để tránh được việc gợi nhắc hay diễn lại cuộc nói chuyện của tôi với Leo. Nếu cánh cửa được mở bung ra, tôi sẽ không ngừng phân tích tất cả những gì chúng tôi vừa nói, cũng như lối nói bóng gió ương ngạnh vốn xuất hiện quá thường xuyên như một phần của quãng thời gian chúng tôi bên nhau. Anh ấy bảo vậy là ý gì? Tại sao anh ấy lại nói như thế? Anh ấy vẫn còn cảm xúc với tôi sao? Giờ anh ấy cũng đã kết hôn rồi chứ? Nếu vậy, tại sao anh ấy không kể cho tôi?
Tôi tự nhủ rằng giờ đây tất cả điều đó chẳng có nghĩa lý gì cả. Nó đã chẳng có nghĩa lý gì từ lâu rồi.
Chuyến tàu của tôi cuối cùng cũng vào ga. Giờ cao điểm nên mọi toa tàu đều đã kín, chỉ còn chỗ để đứng. Tôi chen vào một chỗ đứng bên cạnh một người mẹ và đứa con tầm tuổi tiểu học của cô. Ít nhất thì tôi cũng cho rằng đó là con gái cô - họ có kiểu mũi và cằm thon nhọn giống nhau. Cô bé mặc chiếc áo khoác thủy thủ với hai hàng khuy hình mỏ neo vàng. Họ đang bàn xem nên ăn gì vào buổi tối.
"Mì ống pho mát và bánh mì bơ tỏi được không ạ?" cô con gái đề nghị với vẻ rất hy vọng.
Tôi chờ đợi một câu phản đối quen thuộc của các bậc phụ huynh kiểu như "Chúng ta đã ăn món đó tối qua rồi mà", nhưng người mẹ chỉ mỉm cười và nói, "Được thôi, nghe có vẻ rất thích hợp với một ngày mưa đấy." Giọng nói của cô cũng ấm và mềm như loại ngũ cốc mà họ sẽ cùng ăn với nhau vào bữa tối vậy.
Tôi nghĩ về mẹ mình, như vẫn làm thế rất nhiều lần mỗi ngày, rõ ràng bà ít khích lệ hơn nhiều so với hai mẹ con đang đứng cạnh tôi lúc này. Ý nghĩ của tôi lại trôi tới một câu hỏi thường xuyên xuất hiện trong đầu - mối quan hệ người lớn với nhau của mẹ con tôi thế nào? Tôi có nghi ngờ những điều bà khuyên nhủ khi tôi gặp khó khăn trong tình cảm, hay cố ý chống lại những gì bà muốn tôi làm không? Hay chúng tôi sẽ gần gũi như Margot và mẹ cô, ngày nào cũng nói với nhau bao nhiêu là chuyện. Tôi muốn nghĩ rằng chúng tôi có thể trở thành những người bạn tâm tình. Có thể không tới mức dùng chung quần áo, dày dép hay ôm nhau cười khúc khích (mẹ tôi quá nghiêm túc để làm như vậy), nhưng cũng có đủ cảm giác gần gũi để tôi nói với bà về Leo và về quán ăn. Bàn tay của anh ấy chạm vào tay tôi. Cảm xúc của tôi lúc này.
Tôi nghĩ tới mọi điều bà có thể nói với tôi, những lời an ủi kiểu như: Mẹ thật vui biết bao khi con có được Andy. Cậu ấy là người con trai mà mẹ không thể có được. Mẹ chẳng bao giờ quan tâm đến cái cậu kia cả.
Tất cả lời ấy thật dễ dàng đoán được, tôi nghĩ, rồi tiếp tục đào sâu hơn những suy tưởng đó. Tôi nhắm mắt nhớ lại hình ảnh của bà trước khi bà lâm bệnh, điều mà gần đây tôi không nghĩ tới. Tôi có thể thấy đôi mắt màu nâu lục nhạt hình quả hạnh của bà, giống mắt tôi, nhưng ở khóe mắt ngả sang màu sáng hơn - đôi mắt phòng ngủ, bố tôi lúc nào cũng gọi thế. Tôi hình dung ra vần trán rộng mịn màng của bà. Mái tóc dày bóng luôn được cắt tới vai cùng một kiểu đơn giản, không theo xu hướng hay thời trang nào, chỉ đủ dài để buộc túm ra sau khi bà làm việc nhà cửa vườn tược. Khe hở nhỏ giữa mấy cái răng cửa của bà và kiểu bà che tay một cách vô thức mỗi khi cười lớn.
Rồi tôi nhớ lại ánh nhìn nghiêm nghị nhưng thẳng thắn, thích hợp với vai trò cô giáo dạy toán tại một trường công lập hà khắc - và nghe thấy những lời nói bằng ngữ âm Pittsburgh rất nặng của bà: Nghe này, Ellie. Đừng nhồi cho lần chạm mặt này bất kỳ ý nghĩa dở hơi nào như con từng làm với cậu ta vào cuộc gặp đầu tiên. Nó không có nghĩa gì cả. Chẳng mảy may. Đôi khi, trong đời, có những thứ hoàn toàn vô nghĩa đấy.
Lúc này tôi muốn nghe theo mẹ. Tôi muốn tin rằng mẹ đang chỉ dẫn cho tôi từ một nơi xa xôi nào đó, nhưng tôi vẫn cảm thấy bất lực, để mặc cho mình trở lại hồi ức về lần đầu tiên gặp gỡ tại Tòa án Tối cao bang New York ở Centre Street khi Leo và tôi bị triệu đến làm bồi thẩm viên vào cùng một ngày thứ Ba, tháng Mười. Những tù nhân bị tống chung vào một căn phòng ồn ào kinh khủng, không cửa sổ, có mấy cái ghế gập kim loại, và ít nhất còn có thêm một gã nông dân quên xài thuốc khử mùi. Tất cả hết sức ngẫu nhiên, và trong một thời gian dài tôi đã điên rồ tin rằng, điều đó thật lãng mạn bởi vì hoàn toàn ngẫu nhiên.
Tôi mói hai mươi ba tuổi nhưng cảm thấy mình già hơn thế nhiều bởi nỗi lo sợ mơ hồ và cảm giác vỡ mộng đi kèm với việc phải rời xa cuộc sống an toàn trong trường đại học và đột ngột rơi vào thực tế xã hội, nhất là khi không có mục tiêu hay kế hoạch, không tiền bạc hay một người mẹ. Margot và tôi chuyển đến New York vào mùa hè trước đó, ngay sau khi chúng tôi tốt nghiệp, và Margot đã tiếp nhận vị trí nhân viên marketing tuyệt vời tại văn phòng tập đoàn thời trang J. Crew. Tôi nhận được lời mời tập sự tại Mellon Bank ở Pittsburgh, nên tôi dự định sẽ trở về nhà sống cùng bố và người vợ mới của ông, Sharon, một phụ nữ tốt bụng nhưng hơi xập xệ với bộ ngực đồ sộ và mái tóc ngã màu. Thế nhưng Margot lại thuyết phục tôi đi New York với cô, cho tôi một bài diễn thuyết hùng hồn về Big Apple(1) và rằng một khi đã thành công được ở đó thì tôi sẽ thành công ở bất kỳ nơi nào khác. Tôi miễn cưỡng đồng ý vì không thể chịu được ý nghĩ phải rời xa Margot cũng như không thể chịu được ý nghĩ phải nhìn người phụ nữ khác chiếm mất nhà tôi - nhà mẹ tôi.
Vậy là bố Margot thuê người vận chuyển tới đóng gói đồ đạc trong phòng ký túc xá, mua cho chúng tôi vé một chiều đi New York, giúp chúng tôi ổn định cuộc sống trong một căn hộ hai phòng ngủ xinh xắn ở giữa đường Columbus và đường 79, Margot với tủ quần áo công sở mới tinh và chiếc va li da cá sấu; tôi với tấm bằng triết học vô giá trị và một hòm áo phông lẫn quần soóc jean. Tôi chỉ có 433 đô la trong tài khoản và đã hình thành thói quen chỉ rút mỗi lần 5 đô la từ ATM, một số tiền mà thật kinh ngạc là không đủ mua cho tôi một cái sandwich bò ướp ở thành phố này. Tuy nhiên tài khoản ủy thác ông bà ngoại lập cho Margot vừa mới được kích hoạt, và cô khẳng định với tôi rằng bất kể thứ gì thuộc về cô đều là của tôi bởi vì, rốt cuộc, chẳng phải chúng tôi giống nhau như chị em hơn là bạn bè sao?
"Đừng có bắt mình sống trong một cái ổ chuột chỉ để cậu có thể trả nửa tiền thuê đấy nhé," cô nói đùa nhưng cũng hết sức nghiêm túc. Tiền bạc là thứ mà Margot chẳng những không phải nghĩ tới mà còn không muốn nghĩ tới hay bàn đến. Thế nên tôi đã học được cách kiềm chế lòng kiêu hãnh và phớt lờ cảm giác nóng mặt mỗi lần phải vay mượn cô. Tôi tự nhủ rằng trong chuyện này cảm xúc tội lỗi là một thứ thừa thải, và rằng một ngày kia tôi có thể trả lại cho cô , nếu không phải là tiền bạc thì cũng sẽ bằng một cách nào đó khác.
Suốt gần một tháng trời trong mùa hè tất tả đầu tiên ở New York, tôi thêm mắm thêm muối làm đẹp bộ hồ sơ rồi đem nộp vào bất cứ vị trí công việc nào tìm được. Tôi nhận được vô khối cuộc gọi, nhưng tất cả hẳn nhiên đều là những cuộc phỏng vấn chẳng hứa hẹn gì, bởi lẽ tôi là một kẻ tay không. Vậy nên cuối cùng tôi nhận công việc phục vụ tại L’Express, một quán cà phê ở Nam đại lộ Park luôn tự ví mình như một bouchon Lyon. Những giờ làm việc dài dằng dặc - tôi thường làm ca khuya - và chân tôi luôn luôn đau đớn, nhưng không phải mọi thứ đều tệ cả. Tôi kiếm được số tiền đáng ngạc nhiên (khách boa nhiều hơn vào đêm muộn), được gặp gỡ nhiều người thú vị và học được tất cả mọi thứ mà tôi từng khao khát muốn biết về các món thịt heo ướp kèm pho mát, chân giò hầm vang đỏ.
Trong thời gian rỗi, tôi thường đi chụp ảnh, việc đó ban đầu là sở thích, một cách tiêu khiển trong ngày và để tìm hiểu thêm về thành phố. Tôi lang thang quanh rất nhiều khu phố - Đông Village, Alphabet City, Soho, Chinatown, Tribeca - trong khi chụp ảnh với chiếc máy ảnh ống kính 35 milimet mà bố tôi và Sharon mua tặng nhân dịp tốt nghiệp. Nhưng chẳng bao lâu, chụp ảnh đã trở nên rất có ý nghĩa với tôi. Nó trở thành một thứ tôi không chỉ yêu thích mà còn thật sự cần phải làm, giống như cách các nhà văn nói về việc họ nhất thiết phải viết vai dòng văn lên trang giấy, hay những người mê môn chạy luôn phải chạy bộ vào buổi sáng. Chụp ảnh làm tôi vui sướng, khiến tôi ắp đầy mục đích ngay trong lúc tôi đang thực sự ở vào thời điểm thiếu định hướng và cô đơn nhất. Tôi bắt đầu thấy nhớ mẹ nhiều hơn hẳn hồi đại học, và lần đầu tiên trong đời, tôi thực sự thèm khát có được một tình yêu lãng mạn. Ngoại trừ chút phải lòng bất chợt và lén lút với Matt Iannotti năm học lớp 10, tôi chưa bao giờ đặc biệt quan tâm đến một người con trai nào. Thỉnh thoảng tôi có hò hẹn với một số chàng trai và từng quan hệ với hai cậu bạn cùng trường đại học, một nghiêm túc, một không nghiêm túc mấy, nhưng chưa khi nào tiến gần tới tình yêu. Mà tôi cũng chưa từng nói hoặc viết ra từ đó với bất kỳ ai khác ngoài gia đình tôi và Margot, vào những lúc cả hai chúng tôi đã uống đến say mèm. Tất cả mọi điều đều vẫn ổn với tôi cho tới năm đầu tiên chuyển đến New York. Tôi không chắc điều gì đã thay đổi trong trí não tôi, nhưng có lẽ đó là việc mình đã là một người trưởng thành thực sự, và như Margot vẫn nói, đang bị bủa vây bởi hàng triệu con người mà dường như ai cũng có những mơ ước rõ ràng và một người nào đó dể yêu.
Thế nên tôi dành toàn bộ tâm lực cho nhiếp ảnh. Tôi chi từng xu dành dụm được để mua phim và dùng mọi thời gian rãnh rỗi để đi chụp hình hoặc ngập chìm trong đống sách ở thư viện hay hiệu sách. Tôi ngấu nghiến cả loại sách tham khảo kỹ thuật chụp hình lẫn các bộ sưu tập của những nhiếp ảnh gia nổi tiếng. Quyển sách yêu thích của tôi - Margot đã mua tặng tôi vào sinh nhật thứ hai mươi ba - là The Americans của Robert Frank, đăng tải hàng loạt bức ảnh ông chụp vào thập niên năm 1950 khi chu du vòng quanh đất nước. Tôi đã bị mê hoặc bởi những tấm hình đen trắng của ông, mỗi tấm chức đựng cả một câu chuyện trong đó. Tôi cảm thấy như thể mình có quen biết người đàn ông vạm vỡ cúi người bên chiếc máy hát, người phụ nữ thanh lịch ngoái nhìn qua vai trong chiếc thang máy, và cả bà nhũ mẫu da đen cưng nựng dỗ dành em bé da trắng đang gào khóc. Tôi nhận ra rằng vượt lên tất cả mọi điều, cảm giác hoàn toàn tin mình quen biết các nhân vật trong bức ảnh ở người xem chính là điểm mấu chốt của một tác phẩm vĩ đại. Nếu chụp được những bức hình như vậy, tôi nghĩ, mình vẫn có thể cảm giác đủ đầy, kể cả khi không có bạn trai.
Nghĩ lại thì lúc ấy tôi hoàn toàn chẳng biết phải làm gì tiếp theo, nhưng chính Margot đã chỉ ra những điều hiển nhiên - một trong những việc mà đúng thực là bạn bè sinh ra để giúp nhau như thế. Hôm đó cô vừa trở về nhà từ chuyến công tác tới Los Angeles, quẳng xoẹt chiếc va li xuống, dừng lại bên bàn bếp cầm một trong những tấm ảnh mới rửa của tôi lên. Đó là tấm ảnh màu chụp một cô bé mới lớn đang thẫn thờ ngồi trên vỉa hè của đại lộ Bedford ở Brooklyn, mọi thứ trong túi xách văng ra khắp đường xung quanh. Em có mái tóc màu đỏ xoăn dài và trông thật xinh tươi trong hương sắc tuổi dậy thì không son phấn, một vẻ đẹp mà tôi còn chưa cảm nhận được trọn vẹn, bởi cũng như em, lúc đó tôi còn quá trẻ. Một tay em chới với nhặt lại tấm gương đã vỡ, còn tay kia hờ hững đặt lên vầng trán.
"Ôi!" Margot thốt lên, nâng tấm ảnh tới sát mặt. "Bức hình tuyệt quá."
"Cảm ơn cậu," tôi nói, cố làm ra vẻ bình thường nhưng thực cảm thấy rất tự hào. Đó là một bức ảnh tuyệt vời.
"Sao cô bé trong ảnh buồn quá vậy?" Margot hỏi.
Tôi nhún vai bảo với cô rằng tôi hiếm khi trò chuyện với những người mà tôi chụp hình. Tôi chỉ làm vậy khi người ta trông thấy tôi chụp ảnh họ và tới bắt chuyện trước thôi.
"Có lẽ cô bé mất ví," Margot nói.
"Có thể em vừa chia tay bạn trai," tôi nói.
Mà cũng có thể mẹ em mới qua đời.
Margot tiếp tục nghiên cứu tấm ảnh , bình luận rằng đôi tất dài tới gối màu đỏ tươi của cô bé tạo cho bức hình một ấn tượng hết sức đặt biệt. "Dù sao thì," Margot nói tiếp, sử dụng cảm quan thời trang của mình như thường lệ, "mốt tất dài tới gối đang trở lại rồi. Mặc cho cậu có thích nó hay không."
"Không thích đâu," tôi đáp. "Nhưng cũng có để ý."
Thế rồi ngay lúc ấy cô nói với tôi, "Hình cậu chụp thực sự kỳ tài đấy, Ellen ạ." Margot khẽ gật đầu với vẻ nghiêm túc trong lúc quấn mái tóc mềm mại màu mật ong thành búi rồi cài vào đó một chiếc bút bi bấm để giữ cho chặt. Đó là thứ kỹ nghệ độc đáo tuyệt vời mà tôi cố bắt chước hàng trăm lần, thế nhưng chưa một lần nào làm được trông đúng như vậy cả. Trong những chuyện liên quan đến đầu tóc, quần áo hay trang điểm, không hiểu sao tất cả mọi thứ tôi học lõm từ Margot đều chẳng giống là bao. Cô gật đầu lần nữa rồi nói, "Cậu nên theo đuổi con đường nhiếp ảnh chuyên nghiệp đi."
"Cậu nghĩ vậy ư?" tôi hỏi một cách chân tình.
Thật kỳ lạ là chẳng hiểu tại sao, tôi chưa bao giờ nghĩ tới điều đó. Có lẽ tôi đã quá lo lắng rằng nhiệt tâm của mình lớn hơn so với khả năng. Tôi không thể chịu được ý nghĩ sẽ thất bại trong một lĩnh vực mà mình hết sức đam mê. Nhưng ý kiến của Margot đã có tác động vô cùng to lớn với tôi. Và mặc dù đôi khi Margot chẳng mấy thật thà trong những lời ngợi khen hay ca tụng kiểu miền Nam của mình, cô không bao giờ đối xử như vậy với tôi. Cô luôn luôn dành cho tôi những lời nhận xét thẳng thắn - dấu hiệu của một tình bạn đích thực.
"Mình biết rõ như thế," cô nói. "Cậu nên tấn công vào lĩnh vực ấy. Làm công việc đó một cách thật sự."
Thế là theo lời khuyên của Margot, tôi bắt đầu tìm kiếm một công việc mới liên quan đến nhiếp ảnh. Tôi nộp hồ sơ vào mọi vị trí trợ lý mà tôi tìm thấy, kể cả vài ba chỗ phụ tá cho mấy tay thợ ảnh kém cỏi chụp hình đám cưới ở Long Island. Nhưng vì chẳng được đào tạo chính quy nên một lần nữa tôi bị tất cả các nhà tuyển dụng từ chối, cuối cùng đành phải vào làm công việc tráng phim với đồng lương chết đói trong một hiệu ảnh nhỏ bé, tồi tàn, trang thiết bị cổ lỗ. Mình cần một nơi để bắt đầu, tôi tự nhủ như thế khi bắt xe buýt xuống một khu nhếch nhác ở Đại lộ Hai trong ngày đầu tiên đi làm, cũng như khi giở chiếc sandwich nhân lạc- bơ- mứt ra ăn trong tầng hầm chỉ có mỗi một cái quạt thông gió, nồng nặc mùi thuốc lá và chất tẩy.
Nhưng rồi hóa ra đó là một công việc khởi đầu lý tưởng, tất cả nhờ có Quỳnh, cô gái người Việt Nam kết hôn với con trai ông chủ hiệu ảnh. Quỳnh nói tiếng Anh còn bập bõm nhưng lại cực kỳ giỏi về màu sắc, cô dạy cho tôi thủ thuật in tùy chỉnh còn nhiều hơn tôi có thể học từ bất kỳ lớp học nào (mà rốt cuộc là còn nhiều hơn những gì tôi học được thật, khi cuối cùng tôi cũng đã vào trường nhiếp ảnh). Hằng ngày trong khi quan sát các ngón tay mảnh dẻ thoăn thoắt đặt phim lên rồi vặn những chiếc nút trên mấy cái máy, tăng thêm một chút màu vàng, giảm bớt đôi phần sắc xanh để có được bức hình ưng ý nhất, tôi cảm thấy yêu hơn biết bao công việc mình vừa lựa chọn.
Cuộc đời của tôi đang diễn ra như thế vào cái ngày tôi nhận được tờ giấy triệu tập làm bồi thẩm viên quái quỷ đó. Mặc dù vẫn còn rất nghèo, tôi luôn cảm thấy đầy đủ, hạnh phúc, ngập tràn hy vọng, thế nên tôi không quá lo lắng khi phải trì hoãn công việc (và thu nhập) để thực hiện trách nhiệm trong một bồi thẩm đoàn. Tuy nhiên Margot gợi ý tôi xin lời khuyên của Andy xem làm sao để được miễn trừ trách nhiệm, lúc này anh mới vào năm thứ ba trường luật thuộc đại học Columbia. Thế là tôi gọi cho anh, và anh cả quyết với tôi rằng đó là việc dễ như bỡn.
"Em không thể nói dối trong lúc sát hạch để tuyển lựa bồi thẩm đoàn," Andy nói trong khi tôi lắng nghe và ấn tượng với thuật ngữ Latin mà anh sử dụng. "Nhưng em có thể thổi phồng những thành kiến của mình lên. Chỉ cần làm sao ẩn ý được rằng em chẳng ưa gì giới luật sư, không tin nổi cớm, và ghét cay ghét đắng bọn nhà giàu. Bất cứ thứ gì mà dường như mấy gã trong tòa án đang muốn nghe."
"Được thôi," tôi nói. "Em thực sự ghét bọn nhà giàu mà."
Andy bật cười. Có thể anh cho rằng tôi đang đùa, nhưng chắc hẳn từ Margot, anh cũng biết rõ tình trạng túng thiếu triền miên của tôi. Anh hắng giọng rồi nói tiếp với vẻ nghiêm túc, "Khai thác triệt để ngôn ngữ cơ thể cũng là một thủ thuật hay. Làm ra vẻ miễn cưỡng và phiền toái khi phải ở đó. Cứ như thể em đang có việc quan trọng hơn nhiều. Giữ tay luôn khoanh trước ngực. Không ai muốn có một bồi thẩm viên thiếu kiên nhẫn cả."
|
|