|
Chương 36 (tiếp)
Đến cuối đời Tây Chu, do hoàn cảnh nông canh hoà bình trong một thời gian dài, khiến nhà vua hoang dâm vô độ, chơi trò đốt phong hoả lâu để bỡn cợt chư hầu. Nhà vua tính cách ươn hèn, không lo cho dân giàu nước mạnh, kết quả Chu U vương bị tộc Khuyển Nhung hùng mạnh giết chết, sủng phi Bao Tự bị bắt sống, bảo khí "chín đỉnh" tương trưng cho quyền lực tối cao Hoa Hạ bị Khuyển Nhung cướp về thảo nguyên, tây bắc đô thành Phong, Cảo bị Khuyển Nhung chiếm lĩnh. Nhà Tây Chu cường thịnh ba trăm năm bị diệt. Từ đó, Khuyển Nhung trở thành kẻ thù đáng sợ nhất của dân tộc Hoa Hạ. Cho đến đời Đường, dân tộc trung nguyên vẫn gọi tất cả các dân tộc tây bắc là "Khuyển Nhung" hoặc "Nhung Địch". Đời Đại Tôn nhà Đường, Thái Thường Bác Sĩ Liễu Kháng dâng sớ nói rằng: "Khuyển Nhung vượt Quan Lũng, không đánh mà chiếm được kinh sư"… Trong những năm đời Đường Đức Tôn, đại thần Liễu Hồn tâu lên Đức Tôn: "Nhung Địch là loài lang sói, không thể kết minh". Chữ "khuyển" trong "Khuyển Nhung" hàm ý cực kỳ khinh miệt, hơn nữa, bảo Nhung Địch là "sài lang", rõ ràng là chỉ sói tính của dân tộc "Nhung Địch" hoặc "Khuyển Nhung". Đến thời kỳ đầu Xuân thu, Khuyển Nhung lại trở thành kẻ địch mạnh của nước Tần, sau đó, một chi của Khuyển Nhung di cư lên thảo nguyên Mông Cổ phía bắc, trở thành một trong những dân tộc du mục sớm nhất trên thảo nguyên. Nghiên cứu dân tộc du mục, tinh thần du mục và tôtem của dân tộc du mục Trung Quốc, nên bắt đầu từ Huân Chúc cổ Hung Nô và Khuyển Nhung.
Theo cứ liệu lịch sử, dân tộc Nhung Địch tự kể về tổ tiên là hai chó trắng, và coi dân tộc du mục cổ xưa nhất ở tây bắc tôtem chó trắng, thuộc tộc Tây Khương, là thân cận với tổ tiên tộc Viêm Hoàng. Ngay từ thời Viêm Hoàng, Khuyển Nhung đã là kẻ thù mạnh của tộcViêm Hoàng Hậu Hán thư chép: "Xưa Cao Tân thị có giặc Khuyển Nhung, nhà vua sợ bị xâm lược, đem quân chinh phạt mà không thắng". Cao Tân thị là chắt của Hoàng đế, bố của Nghiêu đế. Sử liệu chỉ chép tôtem của tộc Khuyển Nhung là chó trắng, không ghi rõ chó hoang hay chó nhà.Có điều, chó trắng là chó hoang hay chó nhà liên quan rất lớn đến vấn đề tính cách dân tộc và hoàng loạt vấn đề then chốt vè nguồn gốc thờ tôtem của dân tộc du mục và dân tộc Trung Hoa.
Mình cho rằng, chó trắng chính là sói trắng, theo ghi chép của "Hậu Hán thư", đến triều Hán, trong phạm vi hoạt động của Khuyển Nhung trước kia xuất hiện nước sói trắng Tây Nhung dân số rất đông (Tây Nhung Bạch lang quốc). Đến đời Minh đế (Đông Hán) có trên trăm nước sói trắng, số hộ một triệu ba mươi vạn, dân số trên sáu triệu người, tình nguyện qui thuộc nhà Đông Hán. Vua sói trắng còn sai người làm ba bài thơ, gộp lại thành"Bạch lang ca" dâng Đông Hán hoàng đế. Do đó, mình cho rằng, nước sói trắng là biến giống từ nước chó trắng, vua sói trắng là hậu duệ của Khuyển Nhung, mà tộc sói trắng thì sùng bái sói trắng, lấy sói trắng làm tôtem của bộ tộc. Sự tồn tại của nước sói trắng cũng có thể chứng minh chó trắng mà Khuyển Nhung sùng bái rất có thể chính là sói trắng.
Bàn lùi một chút, ngay dù chó trắng không phải sói trắng, thì chó trắng phải như chó ngao Tây Tạng, to lớn và hung dữ hơn sói thảo nguyên. Theo cứ liệu lịch sử, tộc Khuyển Nhung cực kỳ hung tợn. Nhiều năm nghiên cứu các tộc du mục, mình thấy tộc Khuyển Nhung dã man nhất lâu đời nhất trong lịch sử, xét về tính cách dân tộc mà nói, không khi nào thờ chó nhà là con vật dễ sai bảo. Cũng như dân tộc sống trên lưng ngựa trên thảo nguyên xưa nay không khi nào thờ ngựa. Vì rằng ngựa là con vật thuần dưỡng, dân tộc thảo nguyên Trung Hoa không khi nào sùng bái con vật do mình thuần dưỡng, cũng không bao giờ đưa chó nhà lên làm linh vật của dân tộc. Hơn nữa, tôtem là sự sùng bái về tinh thần của dân tộc thảo nguyên, còn gia súc là nô bộc thường bị con người đánh đập sai khiến, chẳng thiêng liêng gì hết. Chúng mình ở thảo nguyên trên mười năm đều biết, mục dân tuy yêu chó, nhưng trong thâm tâm họ, địa vị sói và chó khác nhau xa. Chó là bạn chiến đấu của người thảo nguyên, còn sói là thần linh của người dân thảo nguyên.
Do đó mình cho rằng: Tộc Khuyển Nhung sùng bái chó trắng, hoặc sói trắng hoặc chó hoang trắng, một loại chó hoang cùng họ với sói, hình dáng giống sói, hung dữ như sói. Cho nên "tôtem chó" của tộc Khuyển Nhung thời đó cúng như "tôtem sói". Khuyển Nhung cổ được ghi chép trong lịch sử Trung Quốc, là một trong những bộ tộc du mục sùng bái sói sớm nhất.
Nói Khuyển Nhung là một trong những bộ tộc sùng bái tôtem sói sớm nhất, là vì, theo lịch sử ghi chép, tộc mẹ của Khuyển Nhung là tộc Khương cổ cũng sùng bái tôtem chó. "Tư trị thông giám", quyển 190 chép:’Đời Đường có Bạch Giản, Bạch cẩu Khương vào tiến cống’, hơn nữa, Đường còn ‘cắt đặt dất Khương Bạch cẩu thành hai châu’. Điều này chứng tỏ tộc Khương cổ sùng bái chó trắng. Trên thực tế, dùng phép qui loại dân tộc mà xét, tộc Khuyển Nhung chính là tộc Tây Khương. Hứa Thận tại "Thuyết văn giải tự" giải thích: "Khương là người chăn cừu Tây Nhung", do đó Khuyển Nhung chính là Tây Khương, Tây Khương bao gồm Khuyển Nhung. Vậy thì các tộc "Khuyển Nhung", "Bạch cẩu", và "Bạch lang" (sói trắng) nói trên đều là tộc Tây Khương. Do đó có thể đoán dịnh rằng, tộc Tây Khương chính là dân tộc du mục lấy tôtem là chó trắng hoặc sói trắng. Tộc Khương cổ dũng mãnh "lấy chết trận là chuyện tốt lành, chết bệnh là chuyện dở" không khi nào sùng bái chó nhà tức chó đã thuần dưỡng, do đó "bạch cẩu" (chó trắng) mà tộc Khương cổ sùng bái không phải sói trắng thì cũng là chó rừng hung dữ hơn sói. Do vậy, tộc Khương cổ là dân tộc cổ xưa nhất sùng bái tôtem sói. Do một trong những thuỷ tổ nhân văn của Hoa Hạ là tộc Viêm đế họ Khương, một chi của tộc Khương cổ, mà Hoàng đế lại cùng họ với Viêm đế, vậy thì, nếu truy ngược lên, tôtem chó trắng, hoặc tôtemsói, là tôtem nguyên thuỷ chính yếu nhất của dân tộc Trung Hoa.
Sùng bái tôtem sói bắt đầu từ tộc Khương cổ xưa nhất của Hoa Hạ, tộc Khuyển Nhung và tộc cổ Hung Nô Hồn Chúc, rối đến các tộc du mục Bạch Lang (sói trắng), Hung Nô, Cao Xa, Tiên Ty, Đột Quyết, Khiết Đan, tiếp tục cho đến dân tộc Mông Cổ hiện nay. Đây là tôtem của các tộc du mục lâu đời nhất thế giới, trên thảo nguyên tây bắc và thảo nguyên Mông Cổ có sức sống mạnh mẽ, từng dân tộc du mục bị tộc du mục khác mạnh mẽ hơn đánh bại, tộc nọ thy thế tộc kia, nhưng tôtem sói và tinh thần sói thì vĩnh viễn tồn tại. Loại văn hoá tôtem và tinh thần này chưa bao giờ đứt đoạn, thậm chí có bề dày hơn cả lịch sử văn minh nông canh. Tiếc rằng giá trị tinh thần to lớn bao hàm trong tôtem sói, xưa nay chưa được người Hán sợ sói ghét sói coi trọng và nghiên cứu, thậm chí còn cố ý bỏ quên.
Đặc biệt quan trọng là hai nền văn hoá ở đại lục Trung Hoa "chưa từng đứt đoạn" này, văn hoá tôtem sói của dân tộc du mục có sức sống mạnh mẽ hơn, có giá trị hơn. Nếu không có tinh thần và văn hoá tôtem sói "chưa từng bị gián đoạn", thì văn hoá nông canh của dân tộc Hoa Hạ mầy nghìn năm có thể bị đứt đoạn. Văn minh mấy nghìn năm của Trung Quốc chưa khi nào bị đứt đoạn là một kỳ tích đã được công nhận trong lịch sử văn minh thế giới, mà kỳ tích đằng sau kỳ tích trên là nền văn minh tôtem sói lịch sử càng lâu đời hơn chưa từng bị đứt đoạn. Tôtem sói sở dĩ trở thành tôtem của rất nhiều bộ tộc du mục trên thảo nguyên tây bắc và thảo nguyên Mông Cổ bởi sức mạnh chinh phục không thể không sùng bái, sức hấp dẫn về trí tuệ không thể cưỡng lại. Tinh thần tôtem sói mạnh mẽ này là tinh tuý của tinh thần du mục Trung Hoa, nó ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần và tính cách dân tộc du mục tây bắc, ảnh hưởng sâu sắc đến dân tộc và văn minh Trung Hoa và cũng ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới.
Mình cho rằng, tôtem sói và tinh thần tôtem sói có lịch sử lâu đời, chính là nguồn gốc sức sống bất diệt của tinh thần du mục cổ và hiện đại. Người Trung Quốc hiện nay phải cảm thấy may mắn và tự hào vì có một di sản tinh thần lâu đời vĩ đại và quí báu như thế. Giờ đã đến lúc lột bỏ cái vỏ nông canh cừu tính để tinh thần ấy toả sáng chói lọi. Nó là nguyên liệu tinh thần bản thổ quí báu nhất của công trình chuyển đổi tính cách dân tộc Trung Hoa đương đại. "Con sư tử ngủ phương đông" sẽ do tinh thần tôtem sói mà sống lại, thức tỉnh và vươn lên.
*
Hay lắm! Nữa đi! Dương Khắc khen rố rít rồi bật nắp lon bia đưa cho Trần Trận, bản thân cũng bật nắp một lon ngửa cổ uống một ngụm lớn, nói: Cậu đào sâu vấn đề này còn sâu hơn sói đào hang, đụng đến tận tổ tộc Viêm Hoàng. Mình đồng ý với kết luận của cậu. Mình cũng cho rằng, "bạch khuyển" (chó trắng) mà Khuyển Nhung Tây Khương sùng bái chính là chó rừng hoặc sói trắng. Minh hiện giờ vẫn rất sùng bái con Nhị Lang. Tôtem mà tộc Khương và Khuyển Nhung sùng bái là loại chó rừng như thế hoặc hung dữ như chó ngao Tạng, không khi nào sùng bái loại chó lớn nhưng chịu sai khiến, nếu không, sẽ khó lý giải do đâu các dân tộc du mục phương đông có sức mạnh như thế. Mình bị thuyết phục hoàn toàn. Nói tiếp đi!
Lon bia vào bụng, Trần Trận càng hào hứng. Anh ngồi xếp bằng tròn, lưng thẳng, tiếp tục thuyết trình: Sau Tây Chu, lịch sử bước vào thời đại chiến quốc, do tính cách mạnh mẽ của tổ tiên Hoa Hạ di truyền lại còn mạnh, do vẫn còn một số bộ tộc du mục ở Thiểm Tây, Sơn Tây Hà Bắc và vùng bắc Hoa bắc, thậm chí dải đất Bình Sơn thuộc huyện Định - Hà Bắc còn bảo lưu đồng cỏ chăn nuôi và dân tộc du mục, có một nước Trung Sơn trứ danh được thành lập từ thời Hung Nô đã mấy trăm năm, nổi tiếng thế giới về sản phẩm "Sói Trung Sơn", do đó tính cách dân Trung Sơn mạnh mẽ, xưng vương cùng với Hàn, Yên, Tống, còn chiếm một vùng rộng lớn của Yên. Thế mới biết trung nguyên Hoa bắc hồi đó còn rất nhiều đất đai và tính cách sói. Hơn nữa, khi đó trung nguyên thường xuyên bị các dân tộc du mục xâm nhập và tiếp máu, nên trong thời kỳ xuân thu chiến quốc, tính cách của toàn thể dân tộc Hoa Hạ vẫn mạnh mẽ, thậm chí mạnh mẽ tới mức sản sinh ra một chế độ chuyên chế trung ương tập quyền. Thời kỳ Xuân thu Chiến quốc, sói đàn đuổi hươu ở trung nguyên, chư hầu tranh bá Hoa Hạ, máu đẫm đại địa trung nguyên. "Nếm mật nằm gai, phấn đấu vươn lên", đó là hình ảnh tả chân của tính cách và tinh thần dân tộc thời bấy giờ, từ tính cách ấy mà tuôn trào những ý tưởng sắc bén, những sức mạnh tiến thủ như hoả diệm sơn liên tiếp trong 500 năm. Thời kỳ này, về tư tưởng văn hoá càng giống như một cuộc tạo sơn trời long đất lở, các "sói gia" như Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, binh gia… trăm nhà đua tiếng, nhan nhản khắp nơi, một thời rrực rỡ chưa hề có về tư tưởng văn hoá trong lịch sử cổ đại Hoa Hạ. Về sau, Trung Quốc có mấy cuộc phục cổ về văn hoá, mưu toan khôi phục tinh thần và tính cách dân tộc thời ấy tuy không thành công, nhưng cũng đạt được nhiều thành tựu. Phong trào phục cổ của Hàn Dũ đời Đường, Âu Dương Tu, Tô Thức đời Bắc Tống đã dấy lên khí thế "Hàn triều Tô hải" ngất trời. Lịch sử đã chứng minh, không thể phục cổ về kinh tế chính trị, vì nếu làm vậy là thụt lùi, nhưng về tinh thần và tính cách dân tộc nhát thiết phải thường xuyên "phục cổ". Phong trào"Văn hoá phục hưng" của phương tây là một thành công vĩ đại.
Đến đời Tần, nước Tần lại có sự mở đầu tương tự mà không giống Tây Chu. Nước Tần cũng ở vào phía tây, do đó Tần cũng có khu vực du mục rộng nghìn dặm và cơ sở kinh tế nửa chăn nuôi nửa nông canh Tần Xuyên, Hán Trung, Ba Thục và một tính cách quốc dân pha tạp nửa sói nửa cừu trên cơ sở hình thành dân tộc này. Tính cách mạnh mẽ yêu cầu cải cách và nguyện vọng biến pháp. Thương Ưởng nhà Tần biến pháp lúc đầu thành công. Sáu nước lấy nông canh làm chính và tin theo Chu lễ, do cuộc sông nông canh quá dài nên tính cách quốc dân mềm yếu. Nước Tần mau chóng xác lập ưu thế áp đảo với sáu nước, đến đời Tần Thuỷ Hoàng quét sạch sáu nước, thống nhất Hoa Hạ. Năm 221 tcn, Tần Thuỷ Hoàng dựng nên một nhà nước trung ương tập quyền đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Tần Thuỷ Hoàng khai thác tính cách nhanh nhẹn của sói, dĩ kim phi cổ, đốt sách chôn nhà nho, cưỡng chế thực thi "viết cùng loại chữ, xe cùng loại trục, hành động cùng qui tắc", lại đắp trường thành, làm đường dũng đạo, thành lập kỵ binh, tấn công Hung Nô. Dám nói dám làm, khí thế dời non lấp biển, sáng tạo một thời đại hoàn toàn mới mạnh mẽ xốc tới. Cần nói thêm là, "ba cùng" về chữ viết, về xe cộ, về hành động, đã đặt nền móng cho sự thống nhất dân tộc Hoa Hạ. Trung Quốc "đại thống nhất" đầu tiên không phải do Nho gia thực hiện, trái lại, do Tần Thuỷ Hoàng - kẻ đốt sách chôn nhà nho dựng nên. Cũng cần nói thêm rằng, sự thành lập vương triều phong kiến chuyên chế trung ương tập quyền đầu tiên ở Trung Quốc, chứng tỏ tính cách quốc dân của dân tộc nông canh Hoa Hạ đã bắt đầu bộc lộ sự ươn hèn.
Thế nhưng Tần dựng nước trên đất đai Nhung Địch, đời Tần Mục Công diệt 12 Nhung quốc, mở rộng hàng ngàn dặm, trở thành "Tây Nhung bá vương", sử dụng phong tục tập quán và luật pháp của dân tộc du mục Tây Nhung. Tư Mã Quang nói Tần "ăn tham như sói", có thể thấy nước Tần chịu ảnh hưởng sâu sắc tính cách sói và tôtem sói của dân tộc Tây Nhung. Nước Tần khi ấy đã là một nước lớn ở phía tây, Tần Nhương Công từng được Chu Bình vương công nhận là chư hầu. Nhưng các nước chư hầu Hoa Hạ khác lại cho Tần là man rợ, quyết không thừa nhận Tần là một nước chư hầu Hoa Hạ, không cho Tần tham gia minh ước. Thành phần dân tộc du mục trong nội bộ nước Tần quả thực rất lớn, vậy nên sói tính trong tính cách quốc dân nước Tần quá mạnh. Sinh ra trên mảnh đất như thế, Tần Thuỷ Hoàng rất dễ trở thành bạo quân. Kết quả, bạo hành dẫn tới bạo loạn, những hảo hán sói tính tiềm phục tại sáu nước phất cờ nổi dậy, dân tộc Hoa Hạ mà tính cách đã bắt đầu ươn hèn, lại trở nên mạnh mẽ, khởi nghĩa vũ trang khắp nơi trên toàn quốc, khiến nhà Tần đến Tần Nhị thế thì suy vong.
Giai đoạn nhà Tần, dân tộc thảo nguyên tiếp cho dân tộc Hoa Hạ một đợt máu mang sói tính, làm nhạt máu cừu qua nghìn năm cuộc sống nông canh tràn đầy huyết quản, khiến dân tộc Hoa Hạ lại một phen trỗi dậy sói tính trong tính cách dân tộc.
Năm 206 tcn, Lưu Bang dựng nên vương triều Tây Hán. Thời kỳ Tây Hán, "Hán thừa Tần chế", thừa kế sói tính triều Tần, tính cách Hán Vũ đế thì như Tần Thuỷ Hoàng thứ hai, các sử gia đánh giá Vũ đế" không khác Tần Thuỷ Hoàng là mấy". Hung hăng hiếu chiến, dốc toàn bộ binh lực tài lực chinh chiến liên miên, không chịu thoả hiệp, diệt bằng được Hung Nô mới thôi. Triều đình nhà Hán bấy giờ phái chủ chiến chiếm ưu thế tuyệt đối, "những người hăng hái không sợ chết đầy triều", mang đậm tính cách dân tộc, coi chết trận là chuyện hay, chết bệnh là chuyện dở". Hán Vũ đế còn mạnh dạn dùng những tướng lĩnh đầy sói tính như Lý Quảng, Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh, lấy kỵ binh chống kỵ binh, lấy kỵ xạ chống kỵ xạ, hung hãn quả cảm, rong ruổi đường dài, thâm nhập thảo nguyên huyết chiến cùng Hung Nô trên chục năm, đánh cho Hung Nô mất hết sĩ khí. Hán Vũ đế hùng tài thao lược, biến trường thành vốn có tác dụng chống thâm nhập trở thành phòng tuyến bao vây kinh tế, một thứ vũ khí phong toả, nghiêm cấm xuất vũ khí đạn dược qua cửa quan, từng giết rất nhiều người vi phạm lệnh cấm.
Đương thời sinh trưởng trên mảnh đất màu mỡ, Nho gia đã lớn thành đại thụ, chui vào quan trường chủ đạo hình thái ý thức. Nho gia chủ trương lấy nghề nông làm gốc,khoan dưỡng sức dân, thuế má nhẹ nhàng; Chủ trương thực thi nhân chính, lấy thuần hoá để mềm hoá tính cách đổi lấy sự ổn định cho đất nước và xã hội. Chủ trương này được nhà vua tin dùng. Lấy điển chế trị quốc an dân, cầu được hoà bình phát triển. Về nhận thức, Hán Vũ đế cao hơn Tần Thuỷ Hoàng, ông ta hiểu vai trò của Nho gia. Do đó thời Tây Hán sói cừu kết hợp, bá đạo vương đạo đan xen, máu sói máu cừu đại để cân bằng. Thời Tây Hán, tính cách dân tộc Hán từ "sói dã man" thời Tần, phát triển thành "sói văn minh" thời Hán, đạt tới trình độ tốt nhất của "sói văn minh" thời cổ, gần như tương đương với tính cách dân tộc La Mã cổ đại, về mặt cường thịnh cũng không hơn kém nhau là mấy. Thời ấy dân tộc Hán dũng cảm ngoan cường, khai sơn phá thạch, hăng hái chống kẻ địch mạnh, tráng khí ngất trời. Thời ấy đất nước thịnh vượng, nước mạnh dân giầu, văn sử triết kinh, nghệ thuật khoa kỹ phát triển rực rỡ. Cuộc chinh phục tây bắc và tây vực lần thứ nhất đã mở rộng đất đai du mục của Hoa Hạ, cắt đứt nguồn tài chính của Hung Nô, tiêu diệt quân chủ lực Hung Nô, mở ra một thời đại huy hoàng 400 năm. Đế quốc đại Hán là một trong những thời đại rất đáng tự hào của dân tộc Hoa Hạ. Tiếc rằng những thời đại sau đó, tính cách dân tộc thuần Hán chưa khi nào đạt tới đỉnh cao như thế, từ đó trở đi, một mình Hán tộc không thể chông đỡ lâu đài văn minh Hoa Hạ.
Cùng với chính sách đồn khẩn thú biên được thực thi, nông canh xâm lấn thảo nguyên và những cuộc tấn công bằng quân sự đối với dân tộc thảo nguyên, và với "chính sách đuổi Nhung" tàn nhẫn, dùng vũ lực đuổi dị tộc ra khỏi biên giới, khiến dân tộc du mục chống trả quyết liệt, cuối cùng, dân tộc thảo nguyên tích luỹ được một lực lượng to lớn. Đến cuối đời Tấn, năm dân tộc thảo nguyên Hung Nô, Yết, Để, Khương và Tiên Ty trước sau tiến vào Trung nguyên, lần lượt thành lập 16 nước, sử gọi là "năm Hồ mười sáu nước". Tần Hán mấy trăm năm trở lại nông nghiệp phát triển mạnh, nông nghiệp Hoa Hạ chiếm ưu thế, toàn bộ tộc Hán đã trở thành tộc nông canh tiêu chuẩn, tính cách dân tộc cừu hoá, sợ chiến trận, sợ chết, không đỡ nổi một cú đánh. "Năm Hồ" như sói xông vào đàn cừu, toàn bộ trung nguyên biến thành thiên hạ của sói thảo nguyên khoảng 120 năm. Trong khoảng thời gian đó, sói tính ở trung nguyên cực thịnh, do đó tàn sát lẫn nhau, máu chảy thành sông, xương cốt đầy đồng, dân số giảm mạnh. Nhưng nguyên nhân nội tại vẫn tại bản thân văn minh nông canh, tính cách nông canh ôn hoà đôn hậu không thể chống lại kẻ xâm lược hung hãn.
Bắc Nguỵ thành lập nước năm 386, là một nước kết hợp tưong đối tốt sói tính và cừu tính. Mình rất thích Bắc Nguỵ. Tộc Tiên Ty và sau này là tộc Mông Cổ dựng nên Bắc Nguỵ đều thuộc Đông Hồ, hai dân tộc này có chung ngôn ngữ. Bắc Nguỵ xuất xứ tại núi Tiên Ty thuộc Bắc Lộc, dãy Đại Hưng An. Tiên sinh Hàn Nho Lâm, nhà nghiên cứu có uy tín, Hội trưởng Hội nghiên cứu lịch sử nhà Nguyên, nói: "Theo các học giả hiện đại, Tiên Ty chính là tộc Mông Cổ".
Ngay từ thời Hoà Đế đời Đông Hán, đại tướng Đậu Hiến đánh bại Hung Nô, Tiên Ty thừa cơ chiếm lĩnh đất cũ của Hung Nô, hơn mười vạn hộ Hung Nô tự xưng là Tiên Ty, gia nhập tộc Tiên Ty cùng với văn hoá Hung Nô và sự sùng bái nguyên thuỷ của người Hung Nô. Do đó Tiên Ty lại là dân tộc hỗn hợp Đông Hồ và Tiên Ty. Thác Bạt Bộ Tiên Ty cực kỳ hung hãn, nhưng văn hoá Tiên Ty cực kỳ lạc hậu, chữ viết chưa có. Thế nhưng họ có tính cách mạnh mẽ và cái đầu thông minh như sói thảo nguyên Mông Cổ, tài năng quân sự siêu việt, là một chi cự phách trong Đông Hồ. Bắc Nguỵ Thái Vũ Đế Thác Bạt Đào giống hệt thần sói oai vệ lạ thường. Ông ta dựa vào kỵ binh Tiên Ty dũng mãnh quét sạch đàn sói, chưa đầy mười năm đã thống nhất miền bắc Trung Quốc. Sau nhà Tây Chu, trong lịch sử Trung Quốc đã mở ra một triều đại đầu tiên do dân tộc thảo nguyên thiết lập.
Một điều thú vị nữa, Tiên Ty Thác Bạt rất thích dùng mưu như sói thảo nguyên, say mê văn hoá Hán, thêm một biểu hiện nữa về ý chí tiến thủ của dân tộc du mục trong việc khai thác và học tập. Thời kỳ Phùng Thái hậu và Hiếu Văn Đế ra sức đề xướng học tập văn hoá Hán, cổ vũ kết hôn với người Hán. Sau đó, hàng triệu Tiên Ty thiên đô về Lạc Dương, hoàn toàn sử dụng tiếng Hán, y phục Hán, chế độ Hán., thậm chí đổi họ Tiên Ty sang họ Hán. Thí dụ đổi họ Thác Bạt thị sang họ Trường Tôn thị, khiến sứ giả Giang nam người Hán không biết mình đến nước Hồ hay nước Hán.
Cần phải nói rõ một điều, dân tộc thảo nguyên chủ động tiếp thụ văn hoá Hán là có căn nguyên sâu sắc về chủng tộc. Trong văn hoá Hán cao nhất là sùng bái trời, tức sùng bái Tăngcơli, mà sùng bái trời trong văn hoá Hán bắt nguồn từ sùng bái Tăngcơli trong dân tộc thảo nguyên, là sự sùng bái nguyên thuỷ mà tổ tiên Viêm Hoàng đem từ thảo nguyên tới. Do đó sự sùng bái tối cao của dân tộc thảo nguyên Mông Cổ không mâu thuẫn với văn hoá sùng bái trời của dân tộc Hán, trái lại, do có mối căn duyên thời sùng bái nguyên thuỷ, nên tình cảm gần gũi dễ dàng tiêp thu. Về sau, tộc Mông Cổ bản thổ và tộc Hán Hoa Hạ không theo đạo Cơ đốc và Ixlam giáo mà đều theo Phật giáo vì có chung mối quan hệ lớn là sùng bái trời; Hai là, trong giới Nho học thời kỳ đầu một số có tinh thần mạnh mẽ vươn tới của dân tộc du mục, chẳng hạn như "thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức", "phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất", tinh thần kiên cường bất khuất này phù hợp với tính cách dân tộc du mục thảo nguyên; Ba là, Nho gia hoàn toân ủng hộ "thiên tử", tức "Con củaTăngcơli". Tóm lại văn hoá Hán vốn là văn hoá từ sau khi dân tộc du mục vào khu vực nông canh phát triển lên, vì vậy, sau này dân tộc thảo nguyên làm chủ trung nguyên, không cần làm lại văn hoá từ đầu, chỉ cần đem tới những thành quả văn hoá của lớp người đi trước và lớp người bây giờ là đủ. Đương nhiên, sau đó các tộc Tiên Ty, Mông Cổ đều nhìn thấy khiếm khuyết của văn hoá Hán, đã chọn lọc rất kỹ khi tiếp thu, và tăng thêm vào đó rất nhiều nội dung văn hoá du mục.
Cần giải thích một điều, quan điểm truyền thống cho rằng dân tộc du mục tuy có thể chinh phục trung nguyên bằng vũ lực, nhưng tộc Hán có thể chinh phục dân tộc du mục bằng văn hoá Hán. Đây là quan điểm sô vanh đại Hán tộc. Sai lầm lớn nhất của quan điểm này ở chỗ phủ định nhân tố phi văn hoá căn bản nhất - tác dụng chinh phục của ruộng đất Hoa Hạ. Đồng ruộng mênh mông của Hoa Hạ có thể chinh phục và mềm hoá tất cả những dân tộc du mục dũng mãnh, tác dụng chinh phục của đồng ruộng Hoa Hạ lớn hơn tác dụng chinh phục của văn hoá. Tính chất phiến diện trong quan điểm dân tộc du mục bị văn hoá Hán chinh phục, còn ở chỗ đã phủ định thành phần du mục trong văn hoá Hán, phủ định quyền sở hữu cục bộ của dân tộc du mục trong văn hoá Hán. Vả lại, trên thực tế dân tộc du mục cũng không bị văn hoá Hán chinh phục một cách bị động, mà dân tộc du mục chủ động chọn lọc văn hoá Hán, mà nguyên nhân quan trọng là trong văn hoá Hán có thành phần văn hoá du mục.
(Còn nữa) |
|