Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: siwang
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết - Xuất Bản] Tôtem Sói | Khương Nhung

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 17:41:12 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5 (Tiếp)

Dưới ánh đèn pin loang loáng, Batu và Xaxưleng thêm một lần mục kích cảnh tàn sát trên thảo nguyên, nhưng lần này thì lại càng không chịu đựng nổi, vì đây là số ngựa được tuyển mộ cho quân đội. Chúng là những con ngựa chiến nổi tiếng làm vẻ vang cho thảo nguyên Ơlôn, đã bao lần thoát hiểm từ miệng sói, những đứa con cưng được mã quan trong nhiếu năm ra công chăm chút. Giương mắt mà nhìn lũ sói cắn xé đàn ngựa, Batu và Xaxưleng khóc không ra tiếng, lửa giận bừng bừng nhưng phải cố nén để đủ tĩnh trí bảo về cho số còn lại. Batu mỗi lúc mỗi lo, bằng vào kinh nghiệm bản thân, anh thấy đàn sói này không bình thưòng, kẻ cầm đầu của chúng rất mưu mẹo, tính toán, thông thạo vùng Ơlôn. Đó là con sói trắng. Đàn sói này, những con sói đực thì căm thù vì bị cướp mất miếng ăn, những con sói cái thì điên dại vì mất con. Nhưng con sói chúa thì không điên. Nhìn đàn sói ép đàn ngựa chạy về hướng nam, có thể đoán sói chúa định giở trò gì? Nó định dồn đàn ngựa xuống đầm lấy! Đây là chiêu thức quen dùng của sói chúa trên thảo nguyên. Batu càng nghĩ càng hãi. Trước đây anh có lần chứng kiến sói chúa dồn dê vàng xuống đầm lầy, cũng từng thấy sói dồn bò, ngựa xuống đầm lầy, nhưng số lượng không nhiều. Còn như dồn cả một đàn ngựa thì anh chỉ được nghe người già kể lại. Chẳng lẽ đàn sói hôm nay cũng làm thế? Chẳng lẽ chúng ăn gỏi cả một đàn ngựa? Batu không dám nghĩ tiếp.
Batu huơ đèn gọi Xaxưleng. Hai người liều mạng chạy vòng từ tây sang đông, trực tiếp cản đàn sói, dùng thòng lọng, đèn pin để doạ sói. Sói vốn sợ thòng lọng, sợ ánh đèn chói mắt. Hai người hai ngựa tả xung hữu đột dưới ánh đèn, tạm thời bảo vệ được mạn sườn phía đông của đàn ngựa. Đàn ngựa từ trạng thái kinh hoảng, dần trấn tĩnh lại, nhanh nhẹn điều chỉnh bước chân, tranh thủ chạy về phía đông của đầm lầy. Chúng biết rằng, chỉ cần vòng qua đầm lầy từ phía đông, thuận gió chạy về khu lều nuôi cừu mới đẻ, nơi có rất nhiều căn lều, có nhiều người quen, có nhiều tiếng hò, nhiều ánh sáng chói mắt, lại có những người bạn thân - đàn chó săn. Đàn chó trông thấy sói là choảng liền, cùng với những chủ chó cứu đàn ngựa.
Nhưng sói là thần chiến tranh kiên trì tìm kiếm cơ hội và biết chờ đợi cơ hội trên thảo nguyên. Mỗi khi chộp được một cơ hội, sói quyết không buông, chưa vắt kiệt sức chưa bỏ cuộc. Đang nổi khùng mà có cơ hội như thế này, sói lập tức ăn sống nuốt tươi, không cho con ngựa nào chạy thoát. Đàn ngựa đã chạy đến bãi cỏ ven đầm, vó ngựa cày tuyết trên mặt và cả đất phèn phía dưới, mùi cay xộc lên mắt lên mũi người và ngựa, họ hiểu rằng, đang trên bờ vực thẳm. Xung quanh một màu đen kịt, không nhìn thấy nhưng vẫn cảm nhận được mùi vị của đầm lầy. Người và ngựa bất chấp mắt mũi cay xè tiếp tục chạy. Khi nào không thấy mùi cay bốc lên từ vó ngựa, có nghĩa là đã tới con dốc thoai thoải phía đông đầm lầy. Khi ấy đàn ngựa sẽ tự động chuyển hướng, men theo bờ phía đông, xuôi gió chạy về nam.
Người, ngựa, sói cùng chạy. Sói tạm ngừng tấn công, nhưng Batu vẫn căng thẳng tới mức bàn tay cầm súng ướt đẫm mồ hôi. Kinh nghiệm mười máy năm chăn ngựa đã mách anh, đàn sói sắp sửa phát động cuộc tổng công kích lần cuối, nếu không, sẽ chẳng còn dịp nào khác. Đàn sói quyết không bỏ lỡ một dịp trả thù. Chịu đựng hơi phèn đỏ mặt mũi, chúng chạy mò cùng ngựa một đoạn đường. Chỉ cần đàn ngựa chạy lên dốc là Batu nổ súng, vừa giục ngựa chay nhanh vào đưòng rẽ, vựa giết sói doạ sói, vừa báo động cho mọi người đến cứu. Batu cố kìm cho tay bớt run, nhằm chỗ sói đông nhất lẩy cò. Xaxưleng cũng làm như anh.
Batu chưa kịp trở tay, đàn ngựa bỗng hí vang, kinh hoảng tột độ. Con ngựa anh cưõi hình như bị vướng chân. Anh dụi mắt soi đèn lên phía trước. Dưới ánh đèn, mấy con sói gộc chụm vào nhau chạy tới trước ngựa anh. Chúng không sợ ngựa xéo để cản mũi anh. Batu ngoảnh lại nhìn, Xaxưleng cũng đang bị sói chặn hậu. Lũ sói bắt đầu tấn công con ngựa của Xaxưleng. Batu hươ đèn ra hiệu cho Xaxưleng chạy tới bên anh, nhưng con ngựa của cậu ta không nhích nổi một bước. Những con sói luân phiên xốc tới, con ngựa của Xaxưleng mình đầy những vết cào cấu, áo khoác của cậu cũng bị đóp mất vạt dưới. Xaxưleng vứt bỏ thòng lọng giờ đã trở thành vô dụng, dùng đèn pin làm vũ khí vụt ngang vụt dọc, đèn bẹp gí, đầu sói toé khói vẫn không chặn được cjiến thuật luân xa của bầy sói. Một con ngoạm đứt miếng thịt mông con ngựa Xaxưleng đang cưỡi. Con ngựa bất chấp mối hiểm nguy sẽ gây ra cho chủ, cố hí lên một tiếng thảm thiết rồi cắn chặt hàm thiết, chạy tháo thân về hướng tây nam. Xaxưleng không cản nổi con ngựa chưa lâm trận đã bỏ chạy. Lũ sói thấy đã tống khứ được một đối tượng kỳ đà cản mũi, liền quay lại tấn công đàn ngựa.
Lúc này chỉ còn lại Batu và đàn ngựa. Nhóm sói gộc lập tức nhằm vào anh và con ngựa ô của anh. Con ngựa thở phì phì, mắt mở to, giẫm đạp, đá hậu… liều chết chống cự. Batu lâm vào tình trạng vô cùng nguy hiểm. Anh biết có chạy cũng không thoát, chỉ còn cách chống lại. Quẳng cây thòng lọng, anh nhổm người trên cọc yên, rút cây gậy thép giắt dưới đệm, lông dây da ở đầu gậy vào cổ tay, thay hình đổi dạng từ người chăn ngựa thành dũng sĩ Mông Cổ, quyết một trận sống mái với sói. Cây gậy thép dài như thanh đao, là vật báu gia truyền của tổ tiên, một vũ khí dùng để đối phó với sói, do ông Pilich truyền lại cho anh. Thân gậy và chỗ tay cầm to bằng nhau, phần chót nẹp toàn sợi thép dẻo, các kẽ có nhiều vết ố. Đó là máu sói. Lũ sói luân phiên vồ ngựa từ hai bên, do đó anh ở vị trí dễ đánh trúng nhất, vấn đề quan trọng là phải can đảm và độ chính xác đến đâu.
Batu ý đã quyết, anh bặm môi, khẽ chuyển dịch ánh đèn sang bên phải, rồi giơ cây gậy cao quá đầu, nhằm đúng con sói lúc nó đang chững lại, anh giáng một gậy vào răng, bộ phận rắn nhất nhưng cũng yếu nhất, chí mạng nhất của con sói. Con sói nhe nanh múa vuốt nhảy lên đón trúng cây gậy từ trên quật xuống, gãy liền bốn chiếc răng cửa. Nó đã bị Batu giáng cho một đòn choáng váng và về tổn thất thì không gì có thể bù đắp.
Con sói ngã bổ chửng, há cái miệng đầy máu mà gào thảm thiết, giá như nó chết còn đỡ khổ hơn. Trên thảo nguyên mông cổ, hàm răng chính là sinh mạng của sói. Vũ khí lợi hại nhất của sói là bốn chiếc răng cửa của hàm trên hàm dưới, không còn răng thì tất cả những phẩm chất ưu việt và không ưu việt như dũng cảm, kiên cường, tinh khôn, ranh mãnh, tàn bạo, tham lam, tham vọng, dã tâm, chí lớn, sự kiên nhẫn, tính linh hoạt, tính cảnh giác, sức mạnh, dẻo dai đều bằng số không. Trong thế giới của sói, nếu chột một mắt, què một chân, mất hai tai vẫn có thể tồn tại. Nhưng nếu khuyết răng thì về cơ bản đã bị tước đoạt quyền sinh sát - cái quyền đưa nó lên vị trí chúa tể trên thảo nguyên, đẩy sói vào tình cảnh coi miếng ăn bằng trời chứ không phải quyền sinh sát bằng trời. Sói không còn răng coi như sói không có trời, không còn cái thú lớn nhất của loài sói là săn bắt gia súc lớn, không còn đủ sức phòng vệ cuộc tấn công của chó săn và tranh cướp của đồng loại, không còn khả năng xâu xé, ngoạm những miếng to, uống từng ngụm lớn máu tươi con mồi; không còn khả năng bổ sung kịp thời năng lượng cho mình trên thảo nguyên khốc liệt. Sói sẽ trắng tay, mất sạch nét kiêu hùng và chí lớn, mất sạch địa vị trong bầy sói và sự kính nể của đồng loại, nó chỉ có thể sống một cuộc sống tạm bợ, đắp đổi qua ngày. Cuộc sống có miệng mà không có ăn, giương mắt nhìn đồng loại tàn sát và yến ẩm, thu vào mắt tất cả những gì mà nó không muốn nhìn. Sau đó nó chỉ còn một con đường: cái chết. Chết gầy, chết cóng, chết vì tức giận, chết ấm ức.
Nhìn đàn ngựa bị hạ sát hết con này đến con khác, Batu những muốn dùng phương thức cực độc, cho chúng nếm mùi tàn nhẫn của con người thảo nguyên. Anh nhân lúc chúng chưa kịp có phản ứng, lại nhắm một con quật mạnh cây gậy, nhưng lần này không trúng răng mà đập trúng mũi con sói. Lá mía nát bét, con sói ngã lăn, co rúm như một quả cầu bông. Tuyệt kỹ giết sói của Batu, tiếng rú của hai con sói lớn, khiến lũ sói bâu quanh anh sững lại vì kinh hãi. Chúng không dám chồm lên, nhưng vẫn dám dàn hàng ngang trước đầu ngựa, ngăn anh tiếp cận đàn ngựa.
Batu đánh lui đợt tấn công của lũ sói nhằm vào anh. Nhìn ra anh thấy những con sói lớn đều tập trung phía đông đàn ngựa. Chúng cảm thấy thì giờ gấp gáp, đồng thời cũng thấy đồng bọn phía sau đang núng thế. Cả đàn cất tiếng hú như tiếng gió lướt trên dây điện, đậm mùi chết chóc và kích động. Dưới sự chỉ huy của sói chúa, đàn sói điên khùng đánh canh bạc dốc túi. Chúng sử dụng cách đánh tàn bạo nhất, đẫm máu nhất, không bút mực nào có thể diễn tả là tấn công tự sát, đồng loạt công kích đàn ngựa. Từng con từng con, nhất là những sói cái mất con chồm lên nhằm thóp bụng ngựa là chỗ da mỏng nhất mà đớp, bất kể cái giá phải trả cho nửa thân sau treo lủng lẳng dưới mình ngựa, dùng sức nặng nửa dưới cơ thể xé toạc mình ngựa. Đó là một tư thế nguy hiểm cho cả sói lẫn ngựa. Với sói, treo dưới bụng ngựa cầm bằng treo cổ dưới cây thập giá, ngựa chạy, nửa mình sói rơi vào nửa thân sau của ngựa, con ngựa muốn thoát thân cứ thế mà đá hậu như điên, trúng một cú là tan xương nát thịt. Chỉ những con sói lớn, răng sắc mới không cần mượn sức. Răng sắc, cơ thể nặng, chúng cắn rách bụng ngựa rồi nhảy xuống để bảo toàn mạng sống. Tuyệt chiêu này rất nguy hiểm cho ngựa, không rũ được sói thì ngựa rớt đàn vì đeo nặng rồi chết vì bị sói bổ vây; nếu đá trúng con sói thì hoá ra giúp sói giật mạnh vết cắn, rách bụng tự dẫn đến tử vong.
Đàn ngựa bị giết và đàn sói tự sát đều trong trạng thái tuyệt vọng, chúng run như giẽ.
Những con sói bị thương hoặc bị đá văng ra từ chân ngựa, hầu hết là sói cái. Chúng nhẹ hơn sói đực. Nếu chỉ trông vào sức nặng cơ thể thì khó mà xé rách bụng ngựa, chỉ còn cách liều mạng mượn sức ngựa. Những con sói cái đúng là liều mạng chỉ nghĩ đến trả thù, coi cái chết như không, can đảm đến thế là cùng. Chúng sẵn sàng tan xương nát thịt, chết cùng đàn ngựa.
Một con sói đói bị đá văng khỏi mình ngựa, bụng rách toác, gào thảm thiết. Vậy mà nó còn nhổm dậy lết bằng hai chân trước tới bên con ngựa ngã xuống nhưng chưa chết, ngoạm luôn một miếng. Nó không bỏ qua cơ hội cuối cùng. Chỉ cần còn miệng, còn răng thì dù không còn cái bụng con sói vẫn ăn, miếng thịt ngựa trôi qua họng rồi truồi ra ngoài, con sói không còn bụng làm cữ là con sói tham ăn nhất, ăn nhiều nhất, và chắc chắn nó là con sói ăn nhiều thịt ngựa nhất trong một bữa ăn tàn bạo cuối cùng của cuộc đời. Những con ngựa bị sói xé rách bụng vốn no căng, dạ dày chứa toàn cỏ non năm nay và cỏ thu năm ngoái, thuỷ phần đầy đủ nên rất nặng, một khi bụng rách, dạ dày và ruột lập tức văng ra ngoài, lòng thòng trên tuyết. Hai chân sau của ngựa vẫn chạy theo quán tính giẫm rách dạ dày, cuốn ruột vào chân, chỉ nháy mắt dạ dày vỡ toạc, thức ăn tung toé, ruột gan nát bét. Vậy mà con ngựa sợ đến mất trí vẫn lồng lên, cuốn vào chân sau tất cả nội tạng: dạ dày và ruột, cuối cùng đến tim phổi, khí quản đều bị lôi hết ra. Con ngựa chết vì chính nó giẫm lên gan ruột của nó, có thể tự giẫm phải mật, chết vì vỡ mật; có thể tự dẫm phải tim, chết vì vỡ tim; có thể tự dẫm bẹp phổi, chết vì nghẹt thở. Tự sát của sói vô cùng đau đớn và tàn khốc, do vậy sói không cho đối thủ được chết thanh thản, bắt đối thủ nếm trải nỗi kinh hoàng của tự sát Ngựa bị sói giết, nhưng một nửa cái chết của ngựa là tự sát. Cái chết của ngựa càng đau đớn càng oan khuất càng thê thảm.
Cuộc tấn công tự sát cuối cùng của đàn sói, đập tan sự chống trả có tổ chức của đàn ngựa, thảo nguyên trở thành chiến trường, những con ngựa tự dẫm lên gan ruột đang giẫy chết, khoang bụng khoang ngực vẫn nóng hôi hổi, chỉ một thoáng đã lạnh ngắt vì tuyết lọt vào. Những con khác lần lượt ngã xuống, không ngừng co giật, máu phun có vòi, nhuốm đỏ những bông tuyết bay qua. Hàng triệu viên tuyết hòn nhuốm đỏ đuổi theo những con ngựa kinh hoàng thất thố mà bỏ chạy. Bão tuyết càng mạnh lên, tiếp tục rượt theo đàn ngựa đến hơi thở cuối cùng.
Batu đứng như trời trồng trước cảnh báo thù tự sát của bầy sói, chân tay run bắn, mồ hôi trên người cũng đã đóng băng. Anh biết đại sự đã hỏng, không thể cứu vãn, nhưng anh vẫn muốn cố giữ lại vài con đầu đàn, bèn gò cương cho ngựa lấy đà rồi thúc ngựa bằng gót ủng, nhả cưong cho con ngựa ô vọt qua đầu lũ sói chặn đường, lướt tới con ngựa đầu đàn. Nhưng đàn ngựa đã bị sói quần cho tơi tả, binh bại như núi lở, toàn bộ số ngựa còn lại chạy xuôi gió tháo thân, nhanh như tên bắn, quên phắt phía nam là đầm lầy.
Con dốc xuôi về phía đầm lầy, thành ra đàn ngựa tăng tốc tự nhiên, bạch mao phong càng mạnh, đẩy sau lưng với sức mạnh khủng khiếp, đàn ngựa như vừa bay vừa chạy, ào ào núi lở đá lăn, lao tuột xuống đầm lầy. Tức thì băng mỏng vỡ vụn, bùn lầy tung toé, đàn ngựa đã sa xuống đầm. Chúng tuyệt vọng hí vang, giãy giụa điên cuồng mong thoát hiểm. Ngựa khiếp đảm trước hành động phục thù mang tính khủng bố của bầy sói, do dự một lát, rồi ra sức trườn vào nơi sâu hơn, thà chết đuối còn hơn rơi vào miệng sói, không cho kẻ thù truyền kiếp vớ bở. Những con ngựa đã bị con người diệt mất nam tính này khi cận kề cái chết đã vùng lên phản kháng lần cuối, lấy tự sát tập thể đối phó với tấn công tự sát của bầy sói. Chúng là những sinh mệnh mạnh mẽ nhất trên thảo nguyên.
Nhưng thảo nguyên tàn nhẫn coi khinh và không hề thương xót kẻ yếu. Khí ôn về đêm đã mau chóng kết thành một lớp băng mỏng trên mặt đầm, ven đầm tuy đông cứng, nhưng bên trong đầm vẫn lút một phần chiều cao của ngựa. Khi đàn ngựa lao xuống đã đụng lớp bùn đặc quánh so với lúc thường, bão tuyết và giá lạnh càng làm cho bùn đặc như keo níu chân đàn ngựa. Đàn ngựa ra sức trườn, miết, gồng mình lên mà bò, nhưng sau mỗi cử động, gió lại lùa tuyết vào khe hở giữa thân ngựa và đất bùn nhiều hơn, cuối cùng đàn ngựa kiệt sức, không cử động gì nữa. Con ngựa đầu tiên xông vào vẫn hở đầu, hở cổ, hở lưng, không lún sâu thêm. Những con phía sau thì mới lút bốn chân, mình vẫn trên mặt bùn. Lúc này đàn ngựa y hệt những tử tù trên pháp trường, băng tuyết trên mình như trói kiểu ngũ hoa, muốn chết mà không chết cho, hí thảm thiết, hơi phả ra như sương bám trên mặt lông. Đàn ngựa hiểu giờ đây không ai cứu nổi chúng, không ai cản được cuộc tàn sát tập thể đối với chúng.
Batu điều khiển con ngựa ô thận trọng tiến vào ven đầm. Chân vừa chạm bùn, con ngựa khịt khịt mũi, cúi thấp nhìn mặt đầm băng tuyết, không dám bước tiếp. Batu rọi đèn vào bên trong, trong tic tắc tuyết ngừng rơi, anh nhìn thấy bóng dáng đàn ngựa. Vài con cố lúc lắc cái đầu kêu cứu về phía chủ. Batu thúc ngựa tiến lên, con ngựa dụt dè bước lên năm sáu bước rồi hoảng hốt nhảy giật lùi cho đến khi gặp đất cứng mới dừng lại. Batu vụt con ngựa một roi vào mông, nó vẫn ỳ ra không chịu tiến. Anh định bỏ ngựa, tiếp cận đàn ngựa rồi bảo vệ chúng bằng súng. Nhưng nếu không cưỡi ngựa mà gặp sói thì mất lợi thế từ trên đánh xuống, đàn sói sẽ không sợ anh, cả người lẫn ngựa sẽ bị xé xác. Với lại, anh chỉ có mười viên đạn, bản lĩnh bằng trời thì cũng chỉ mỗi phát một con, không thể bắn chết hết. Mà dù anh có đuổi được đàn sói đi, thì chỉ qua nửa đêm bạch mao phong càng lạnh, sẽ đóng băng toàn bộ đàn ngựa dưới đầm lầy. Còn nếu như anh chạy về đại đội bộ cầu cứu thì đang lúc bão to như thế này, nhà nhà đang dốc sức bảo vệ đàn cừu, đại đội không thể điều lao động và xe đi cứu. Batu băng bám trên mặt, anh ngoảnh về phía đông, khấn: Lạy trời, lạy ông trời trường sinh bât tử! Hãy cho con trí tuệ, hãy cho con sức khoẻ như thần, hãy giúp con cứu lấy đàn sói! Nhưng ông Trời phồng mang mà thổi cho bạch mao phong át đi lời thỉnh cầu của anh.
Batu dùng bao tay bằng da cừu non lau nước mắt, lồng dây gậy vào cổ tay, sau đó anh gỡ quai, cầm súng trong tay cùng đèn pin, đứng đợi đàn sói. Lúc này, trong đầu anh chỉ một ý nghĩ: phải giết thêm mấy con nữa!
Sau đó một lúc Batu rét đến nỗi không thể ngồi vững trên yên. Bất chợt đàn sói lướt bên anh mà xuống đầm như một làn khói đen, chúng dừng lại ở rìa phía đông, làm tung lên một đám tuyết trắng. Một con sói nhỏ dáng thanh mảnh tách ra, thận trọng bò về phía đàn ngựa, thăm dò độ cứng của đất dưới chân. Batu thấy con sói nhỏ, không bắn. Con sói bò một quãng ngắn rồi chạy gằn về phía đàn ngựa, nó chưa đến nơi thì một cơn lốc hình thành từ mép đầm di chuyển về phía nó, đất trời nhập làm một, trắng xoá, cảnh tượng như bộ tộc bán khai tóc tai bù xù nhảy múa quanh đống lửa, người và gia súc bị làm vật hiến tế.
Batu không mở được mắt vì tuyết hòn. Anh cảm thấy rất lạnh, run cầm cập. Con ngựa ô khứu giác cực nhậy của anh đã bị nhiễm lạnh, run lẩy bẩy, cất tiếng hí đứt quãng. Đêm đen nặng nề, tuyết đầy trời, lại một lần nữa xoá sạch dáu vết cuộc thảm sát trên thảo nguyên.
Batu lạnh cứng người, anh lóng ngóng tắt đèn pin để bản thân anh chìm hẳn trong bóng tối, rối chĩa súng rất thấp về phía đầm lầy, nhưng sau đó đột nhiên anh nâng đầu nòng cao hơn nửa mét, lẩy ba phát: đoàng, đoàng, đoàng!

Chú thích:
[1]Thông tin chi tiết: Samuel Huntington, Sự xung đột giữa các nền văn minh (The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order, 1996), Nhiều dịch giả, Nxb. Thế giới; Hà Nội 1998; Thomas L. Friedman, Chiếc Lexus và cây ôliu (The Lexus and the Olive Tree, 1999), Lê Minh dịch, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 2005; Thomas L. Friedman, Thế giới phẳng (The World Is Flat: A Brief History of the Twenty-first Century, 2005), Nguyễn Quang A dịch, Nxb. Trẻ, Hà Nội 2006; Jared Diamond, Súng, vi trùng và thép - Định mệnh của các xã hội loài người (Guns, Germs, and Steel: The Fates of Human Societies, 1997), Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006; Jared Diamond, Loài tinh tinh thứ ba - Sự tiến hoá và tương lai của loài người (The Third Chimpanzee, 2000), Nguyễn Thuỷ Chung và Nguyễn Kim Nữ Thảo dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2007, Jared Diamond, Sụp đổ - Các xã hội đã thất bại hay thành công như thế nào (Collapse. How Societies Choose to Fail or Succeed, 2005), Hà Trần dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006; Jonathan Weiner, Mỏ chim sẻ đảo - Câu chuyện tiến hoá (The Beak of the Finch - A Story of Evolution in Our Time, 1995), Nguyễn Ngọc Hải dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006; James Surowiecki, Trí tuệ đám đông (The Wisdom of Crowds, 2004), Nguyễn Thị Yến dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006.
Tác giả Khương Nhung (Jiang Rong) Sinh năm 1947 tại Bắc Kinh. Thời kỳ cách mạng văn hoá, xung phong đi lao động ở vùng thảo nguyên Nội Mông 11 năm. Năm 1979, trở lại Bắc Kinh. Tiểu thuyết Tôtem sói (Lang đồ đằng) được Khương Nhung thai nghén và viết trong vòng 30 năm (từ 1971 đến 2003). Khi tác phẩm được xuất bản lần đầu năm 2004, lập tức nó trở thành cuốn sách bán chạy kỷ lục tại Trung Quốc và trở thành cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Trung Quốc được một nhà xuất bản nước ngoài mua bản quyền với giá 100.000 USD.
Dịch giả Trần Đình Hiến Sinh năm 1933 tại Vĩnh Phúc. Trần Đình Hiến từng là giảng viên Đại học Ngoại ngữ trước khi chuyển sang ngành ngoại giao. Là cán bộ Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, ông từng có 10 năm công tác tại Bắc Kinh. Hiện Trần Đình Hiến sống và hoạt động dịch thuật tại Hà Nội.
Các tác phẩm dịch tiêu biểu: Đàn hương hình của Mạc Ngôn (Giải thưởng Hội Nhà văn năm 2003), Báu vật của đời của Mạc Ngôn, Cây không gió của Lý Nhuệ, Ngân thành cố sự của Lý Nhuệ, Tuyển tập kịch của Lão Xá và Tôtem sói của Khương Nhung.

______Hết chương 5______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 17:41:47 | Chỉ xem của tác giả
Chương 6

Vũ khí của Đột Quyết có cung tên, minh đích tiên bắn đi phát ra tiếng kêu gặp thương đao kiếm.  Chốp cán có gắn đầu sói bằng vàng.  Lính thị vệ gọi là Phụ Ly, tiếng Đột Quyết nghĩa là sói.  Do sói sinh ra nên không quên gốc.
                                                                                                                                          "Chu Thư. Đột Quyết"

Batu được Saxuleng tìm thấy trong một cái chuồng cừu cũ ở phía nam đầm lầy sau khi bão về một đêm và sáng hôm sau.  Khi ấy anh đã bị thương đi không nổi, sắp chết vì lạnh.  Saxuleng vực Batu lên con ngựa bị thương của cậu, đưa Batu về nhà.  Để tổ điều tra nắm được đầu đuôi sự việc, Batu gượng đau cùng đến hiện trường.  Hai mã quan kia tuy thương tích đầy mình, vẫn bị tạm giam để điều tra.
Trần Trận đi sau ông Pilich, cuối đoàn.  Cậu hỏi nhỏ: Bố, trên sẽ xử lý thế nào về anh Batu?
Ông già dùng bao tay gạt sương trên bộ râu dê lưa thưa, cặp mắt đồng tử màu hổ phách ẩn chứa một tình cảm phức tạp.  Ông không ngoảnh lại, mắt vẫn nhìn ra dãy núi xa xa, nói: Thanh niên trí thức các cậu thấy cần kỷ luật nó hay sao? - Quay lại, ông bổ sung một câu - ban quản lý mục trường và đại diện quân đội rất coi trọng ý kiến của các cậu.  Mời các cậu đi cùng là để các cậu cho ý kiến.
Trần Trận nói: Batu là một hảo hán, anh ấy vì đàn ngựa mà suýt mất mạng, tiếc rằng anh không gặp may.  Con thấy cứu được đàn ngựa hay không thì anh Batu vẫn là anh hùng thảo nguyên.  Con ở với bố một năm, Batu là anh cả của con.  Con hiểu thái độ của Bao Thuận Quý, ý kiến của con chẳng có ý nghĩa gì, sẽ không được coi trọng.  Với lại các thanh niên trí thức cũng không thống nhất ý kiến.  Con nghĩ, bố là đại biểu mục dân nghèo, lại là Ủy Viên Ủy ban cách mạng, mọi người đều nghe bố, bố nói thế nào, chúng con sẽ nói như thế.
- Những thanh niên trí thức khác nói gì? - Ông già hỏi.
- Các thanh niên trí thức đội con đều nhận xét tốt về anh Batu.  Đợt bão tuyết sói này khủng khiếp quá, ai rơi vào hoàn cảnh ấy cũng thế thôi.  Không thể kỷ luật anh Batu!  Vậy mà có người bảo, có kẻ lợi dụng thiê tai để phá hoại, chống quân đội, chống cách mạng, nhất định phải điều tra thành phần xuất thân bốn mã quan!
Sắc mặt ông già càng u ám, ông không hỏi nữa.
Đoàn người vòng qua phía đông đầm lấy tới địa điểm Batu nổ súng lần cuối.  Trần Trận cố trấn tĩnh, cậu chuẩn bị tinh thần mục kích cảnh tàn sát đẫm máu.
Vậy mà không trông thấy giọt máu nào.  Tuyết dày hơn thước đã phủ kín tất cả những gì đêm trước đã diễn ra, chí ít là đầu những con ngựa mà cũng không thấy.  Mặt đầm lổn nhổn những mô tuyết, giữa các mô là tuyết dày, sau mỗi mô là một đuôi tuyết dài do gió tạo nên, giấu đi những xác ngựa lẽ ra rất nổi bật.  Mọi người lặng nhìn, không ai xuống ngựa, không người nào muốn vén tấm chăn tuyết, chỉ đứng đó tưởng tượng sự việc đã diễn ra.
Tiếc quá - Ông Pilich mở miệng đầu tiên.  Ông giơ roi chỉ bờ đầm phía đông - Các vị xem, chỉ chạy thêm một quãng ngắn nửa là không việc gì.  Batu dẫn được đàn ngựa từ Bãi Bắc về đây quả không dễ.  Bão to sói đông cứ cho là người không sợ, nhưng con ngựa có sợ không? Batu từ đầu chí cuối bám đàn ngựa quyết tử với lũ sói.  Nó đã làm tròn trách nhiệm.
Ông già không câu nệ, thanh mình cho con trai.
Trần Trận lại gần Bao Thuận Quý, nói: Vì tài sản của tập thể mà Batu đã chiến đấu suốt đêm với sói.  Nên báo cáo lên trên sự tích anh hùng này.
Bao Thuận Quý trừng mắt quát: Gì mà anh hùng!  Anh ta bảo vệ được đàn ngựa thì mới là anh hùng - Quay lại, ông ta giận dữ bảo Batu - Tại sao hôm ấy cho ngựa ăn cỏ ở Bãi Bắc?  Chăn ngựa bấy nhiêu năm, chẳng lẽ anh không biết hể nổi gió bắc là đàn ngựa chạy xuống đầm lầy?  Trách nhiệm lớn nhất của anh là ở điểm này.
Saxuleng dập đầu vào bụng ngựa, ngẩng lên cãi: Đó là bãi chăn do bản quản lý chỉ định, còn nói rằng ở đó còn nhiều cỏ thu và cỏ xuân thì đã mọc mầm.  Những con ngựa chiến đi xa, cần được ăn uống tốt, béo lên một chút để các kỵ binh dân quân vui vẻ tiếp nhận.  Tôi còn nhớ anh Batu hôm ấy nói tại hội nghị "Năm khâu cách mạng, đẩy mạnh sản xuất", rằng chăn ở Bãi Bắc không an toàn.  Nhưng ban quản lý bảo, mùa xuân phần lớn là gió tây bắc.  Ai ngờ lại có gió bắc?  Ông cũng đồng ý với ban quản lý, vậy sao khi sinh chuyện ông lại đổ hết cho Batu?
Mấy ông trong ban quản lý không nói gì.  Trưởng bãi Ulichi đằngg hắng một tiếng, nói: Saxuleng nói đúng, quả là có chuyện ấy.  Mọi người ai cũng có tâm, muốn đàn ngựa béo khoẻ, góp chút công sức cho cuộc chiến.  Ai ngờ lại xảy ra cơn bão, lại là bạch mao phong, lại thêm đàn sói, trăm năm mới gặp một lần.  Tôi là người nắm sản xuất, tôi xin chịu trách nhiệm trong chuyện này.
Bao Thuận Quý giơ roi chỉ vào mũi Saxuleng, nói: Trách nhiệm của anh cũng không nhỏ.  Ông Pilich nói đúng, chỉ chạy một quãng nữa là thoát nạn, nếu ba anh không bỏ chạy mà cùng Batu dồn đàn ngựa thì không đến nỗi sinh chuyện.
Ông Pilich dùng cây gậy dằn cây roi của Bao Thuận Quý xuống thấp, nghiêm mặt nói: Thưa ông đại diện quân đội, ông tuy là người Mông nông nghiệp, nhưng cũng nên hiểu phong tục của người Mông du mục.  Trên thảo nguyên chúng tôi, không cho phép chỉ roi vào mũi người khác khi nói.  Chỉ có bọn vua chúa, bọn Đaichi, bọn chủ bãi chăn thả mới làm như thế.  Không tin, ông đi hỏi thủ trưởng phân khu.  Đợt kiểm tra sắp tới ông ấy về đây, tôi và ông sẽ hỏi.
Bao Thuận Quý chuyển roi ngựa sang tay trái, chỉ ngón trỏ vào mặt Saxuleng, quát: Còn anh nữa, sao không xuống ngựa xúc tuyết?  Xúc đi chứ!  Tôi cần kiểm tra từng cái xác, để xem sói lợi hại đến mức nào mà tất cả đều đổ lên đầu chúng?  Mao Chủ Tịch đã dạy: Nhân tố con người quyết định tất cả!
Mọi người xuống ngựa, cầm lấy xẻng gỗ, xẻng sắt và chổi tre, bắt đầu dọn tuyết.  Bao Thuận Quý vẫn ngồi trên yên, lấy máy ảnh Hai Âu ra chụp làm tư liệu, miệng sa sả: Dọn sạch, dọn hết!  Vài hôm nữa, tổ điều tra quân sự Minh và Kỳ (cấp huyện) cũng về điều tra tiếp.
Trần Trận cùng các ông Ulichi, Pilich và Batu lội sâu vào tận trong cùng, băng phía dưới chưa tan, tuyết phía trên kêu lạo xạo dưới chân.  Ông già Pilich nói, chỉ cần xem con ngựa trong cùng có bị sói ăn thịt không, sẽ biết đàn sói lợi hại đến mức nào!
Trần Trận vội hỏi vì sao.
Ông Ulichi nói: Cậu thử nghĩ mà xem, vì rằng càng vào sâu bên trong càng nguy hiểm, sói cũng biết thế.  Vậy nếu con ngựa này cũng bị cắn chết, thì đúng là đàn sói vô cùng nguy hiểm.
Ông già ngoảnh lại bảo Batu: Có bắn cũng chẳng ăn thua!
Batu nhăn nhó khổ sở: Con đem theo có mười viên đạn, chỉ một lúc là hết nhẵn.  Bạch mao phong át hết tiếng sút.  Sói sợ bỏ chạy, nhưng khi thấy hết đạn, chúng liền quay lại.  Trời tối, đèn lại sắp hết pin, con nâng tầm bắn cao lên một thước.
- Khi ấy đâu có nghĩ dài dòng - Batu dùng ngón tay ấn nhệ vết thương trên mặt, nói - Trời tối mà tuyết thì lớn, chỉ sợ bắn phải ngựa.  Con cầu trời tạnh gió, đầm không đóng băng, sói không ra được, ngựa sẽ sống sót một số.  Con nhớ là đã nâng đầu nòng lên một thước.
Ông già Pilich và Ulichi thở dài nhẹ nhõm.
Đến bên mô tuyết trong cùng, Batu do dự một thoáng, rồi nhanh nhẹn xúc sạch tuyết ở chỗ đầu con ngựa.  Mội người lập tức bị sốc.  Con ngựa bạch to lớn bị cắn đứt một nửa cổ, đầu ngật ra phía lưng, mắt lồi hẳn ra ngoài như quả trứng muối bóc vỏ, trong suốt.  Sự sợ hãi tột độ còn hằn trên khuôn mặt ngựa.  Thật kinh khủng!  Tuyết dưới đầu ngựa  đã đóng băng, thấm máu tươi, xẻng xúc không vỡ.  Mọi người hì hục xúc và quyét, hai thân ngựa  lộ ra.  Trần Trận có cảm giác đây không phải là những vết cắn, mà như một quả tạc đạn nổ trong bụng, hai bên sườn vỡ toạc, ruột gan văng ra ngoài xa vài mét, một nửa mông không còn, xương lộ ra trắng hếu.  Rải rác trên tuyết những đoạn xương, những mảnh da và lông.  Sói chỉ ăn tim gan và một ít thịt bắp.  Con ngựa chỉ là đối tác cho sót trút cơn giận.  Trần Trận nghĩ, hình phạt phanh thây đối với  con người phải chăng học từ sói?  Hay là phần thú tính của nhân tính cùng một nguồn gốc với chất sói trong thú tính?  Trong các cuộc đấu tranh trong lịch sử nhân loại, quả thật người ta đã áp dụng luật sói đối với nhau.  Mục kích cuộc tàn sát quy mô lớn của sói, thú tính trong con người Trần Trận cũng nổi dậy, cậu tiếc không chộp ngay được một con sói để lột da, cắt gân cho hả giận!  Chẳng lẽ người đánh bạn với sói lâu ngày sẽ biến thành sói?  Hoặc con người ngày càng nhiễm chất thú!
Mọi người lặng nhìn.  Trần Trận cảm thấy chân tay lạnh thấy xương!
Ông già Pilich hai tay tì lên cán xẻng, vẻ đăm chiêu, nói: Có lẽ đây là đàn sói nếu không đông nhất nhì thì cũng đông thứ ba tôi thấy trong đời.  Con đầu đàn mà bị cắn xé đến như thế này, thì những con khác tôi không cần xem nữa, đảm bảo không còn con nào nguyên vẹn.
Ulichi mặt sa sầm, thở dài: Con ngựa này tôi cưỡi hai năm, bắt được ba con sói.  Nó chạy nhanh nhất nhì trong đàn.  Năm xưa tôi là đại đội trưởng kỵ binh đem quân đi tiễu phi, chưa khi nào được cưỡi con ngựa nào hay như nó.  Chiến lược chiến thuật của đàn sói này còn hay hơn cả bọn phỉ họ Mã năm xưa.  Chúng triệt để lợi dụng bạch mao phong và đầm lầy khiến ta cảm thấy con ngựa lười suy nghĩ.  Nếu tôi thông minh hơn sói một chút thì con ngựa này không chết.  Để xảy ra chuyện này, tôi xin chịu trách nhiệm, giá khi ấy tôi khuyên lão Bao một câu thì đâu đến nỗi!
Trần Trận vừa nghe chuyện hai ông già, vừa nghĩ chuyện của mình ở Trung Quốc, người ta thường coi hổ bảo sài lang là mãnh thú.  Nhưng hổ báo là loại thú hiếm, không sống theo bầy đàn, chuyện về chúng không nhiều.  Còn sài lang (sói) thì tương đối phổ biến, đâu cũng có.  Chúng sống thành đàn, có nhiều chuyện động trời.  Sói là loại thú dữ uy hiếp con người lớn nhất, nhiều nhất, lập lại nhiều lần nhất.  Trên thảo nguyên, sói là thiên đích lớn nhất của người, ngựa, bò, cừu. Vậy vì lẽ gì các tộc trên thảo nguyên lại sùng bái sói?  Trần Trận rút lại lập trường mà gần đây cậu mới xác lập.
Bãi tha ma đã dọn được quá nửa, mặt đầm thây ngựa ngổn ngang, máu loang tuyết trắng đỏ ngầu, chẳng khác mặt trăn bị bom đạn cày đi xới lại.  Những sinh mệnh đầy sức sống chuẩn bị ra trận bị phạt ngang, biến thành mồi cho pháo đạn.  Cảnh tượng thê thảm của từng con, cùng một đạng với con ngựa bạch.  Xác ngựa dầy đặc, xương cốt chân cẳng lẫn lộn, chỉ căn cứ vào cái đầu và màu lông để đếm.  Hai mã quan ngồi xổm trên băng, dùng bao tay và cả vạt áo khoác lau mặt ngựa, vừa lau vừa khóc.  Mọi người thẩn thờ vì thảm cảnh trước mặt.  Trần Trận và mấy thanh niên trí thức Bắc Kinh chưa bao giờ mục kích cảnh tàn sát tập thể dã man kiểu này, nên cứ đứng nhìn nhau, không thốt được lời nào.  Phản ứng đầu tiên của đám thanh niên trí thức là, người nào trong chúng ta gặp đàn sói này, thì có bị phanh thây như đàn ngựa không?
Trước mắt Trần Trận hiện ra cảnh thảm sát Nam Kinh, qua tính cách của sói, cậu nhìn thấy tính chất phát xít của bọn giặt Nhật.  Cơ thể cậu phản ứng dữ dội: Kinh tởm, phẫn nộ, buồn nôn, muốn nguyền rủa, muốn giết hết lũ sói.  Một lần nữa, cậu buột miệng nói trước mặt ông già Pilich: Loài sói dã man quá!  Dã man hơn cả bọn phát xít Nhật!  Phải xé xác chúng mới hả giận!
Ông già nhìn Trần Trận, mặt như chằm đổ nhưng giọng nói thì chắc nịch: Tính phát xít của Nhật Bản là có từ trong máu, không phải học từ sói. Tôi đã đánh Nhật tôi biết, Nhật không có thảo nguyên lớn, không có đàn sói lớn.  Người Nhật thấy sói bao giờ chưa?  Vậy mà chúng giết người như ngoé?  Tôi dẫn đường cho Hồng quân Liên Xô, đã từng thấy những việc lầm của người Nhật.  Đường Thạch Tử là con đường từ mục trường ta đi Cát Lâm, Đông Bắc, riêng sửa đường đã chết bao nhiêu người?  Xương trắng đầy hai bên đường, mỗi hố to chất đống mười mấy sinh mạng, một nửa là người Hán, một nửa là người Mông.
Ulichi nói: Chuyện này cũng không nên chỉ quy tội cho sói.  Con người cướp hết lương thực cứu đói của sói, bắt đi bao nhiêu sói con, làm sao nó không trả thủ?  Có trách là trách chúng ta không trông nom đàn ngựa cẩn thận.  Sói rất ham sống, nếu không cùng đường, sói không cắn người.  Người có chó, có súng, có thòng lọng.  Trên thảo nguyên sói sợ người, đa phần sói bị người giết.  Còn giặc Nhật thì sao?  Trung Quốc chúng ta chưa bao giờ xâm lược họ, còn giúp họ nhiều chuyện, vậy mà họ giết người Trung Quốc như ngoé!
Ông già Pilich rõ ràng là không bằng lòng, lườm Trần Trận, nói: Người Hán ngồi không vững trên yên ngựa, ngồi đã không vững thì khi bị vấp dễ lộn cổ xuống đất.
Trần Trận rất ít khi bị ông già mắng.  Lời ông khiến đầu óc cậu sáng ra.  Cậu hiểu ý tứ trong câu nói của ông.  Cậu nhận thấy tôtem sói ngự trong ông già vững vàng hơn kỵ sĩ Mông Cổ ngồi trên lưng ngựa.  Các dân tộc thảo nguyên qua ngàn năm vật đổi sao dời, nhưng tôtem sói thì nghiễm nhiên tồn tại cho đến bây giờ, không dao động mảy may vì cái chết của bảy tám chục con ngựa chiến.  Trần Trận chợt nhớ lại những câu: Hoàng Hà trăm hai, không lai một giầu", "Hoàng Hà vỡ đê, người biến thành cá", "Hoàng Hà sông Mẹ", "Hoàng Hà - cái nôi của dân tộc Trung Hoa".  Dân tộc Trung Hoa không vì Hoàng Hà gây trăm hại mà không gọi bằng "Mẹ".  Thì ra, trăm họa có thể song hành với Mẹ.  Tôtem sói của dân Mông Cổ cũng được coi trọng như "sông Mẹ" của dân tộc Trung Hoa.
Bao Thuận Quý cũng không nhăn nhó nữa.  Ông ta vẫn ngồi trên mình ngựa để quan sát hiện trường rõ ràng hơn.  Ông ta không hề nghĩ rằng sói Mông Cổ lại tàn bạo đến như vậy, cũng không nghĩ rằng đàn ngựa đông như thế mà vẫn bị sói xơi tái.  Ông ta ngạc nhiên từ đầu đến cuối.  Trần Trận trông thấy ông  ta run run khi cầm máy ảnh, ông ta liên tục đổi cách cầm mới không bị rơi.
Ông già Pilich và ông Ulichi xúc tuyết bên một lô xác ngựa ở giữa đầm, hai ông đào bới như đang tìm cái gì ở đó.  Trần Trận vội đến đào giúp.  Cậu hỏi ông già Pilich: Bố tìm cái gì thế?  Ông già trả lời: Tìm đường đi của sói.  Kìa cậu, xúc nhẹ thôi!  Trần Trận cẩn thận lựa chỗ đặt chân rồi cúi xuống quan sát.  Lát sau ba người đã tìm ra con đường của sói - con đường tuyết dày bốn lóng tay, rất rắn, được hình thành trên mặt bùn nhão.  Quét sạch lớp tuyết xốp mới phủ bên trên thì thấy dấu chân sói, to thì như chân bê, nhỏ như chân chó gộc.  Mỗi dấu để lại vết lỏm, có vết còn vương máu ngựa.
Ông Ulichi và ông già Pilich gọi mọi người lại, tập trung quét sạch con đường sói.  Ông bảo, quét sạch tuyết sẽ đoán được đàn sói lớn hay nhỏ.  Quét được một lúc, mọi người nhận thấy đường sói không thẳng mà cong, quét tiếp lại thấy đó là đường cánh cung, quét hơn một giờ, thì ra nó là một đường tròn, một đường tròn bằng tuyết rắn, trong tuyết có máu, mặt đường cao hơn mặt bùn một cạnh bàn tay, băng thấm máu tươi khiến người kinh hãi, y như con đường dẫn xuống âm phủ, như một đồ thị đầy những ký hiệu quái quỉ.  Đường rộng hơn mét, chu vi năm sáu chục mét, bên trong tập trung rất nhiều xác ngựa.  Mặt đường dày đặc những dấu chân sói vấy máu.  Mọi người sợ run, bàn tán sôi nổi:
- Tôi ngần này tuổi đầu chưa bao giờ thấy dấu chân sói to như thế?
- Đâu phải sói, yêu quái thì có!
- Đông khiếp!
- Ít nhất cũng bốn năm chục con.  Batu bợm thật!  Một mình mà dám chơi đàn sói này.  Phải tôi thì đã ngã ngựa, làm mồi cho sói rồi!
- Đêm ấy tối trời mà tuyết thì lớn, cháu chẳng nhìn thấy gì, đâu biết đàn sói đông như thế.
- Rồi ta sẽ gặp nhiều rắc rối đây!
- Đám con gái còn dám đi đêm nữa không?
- Các ông trên mục trường bộ thiển cận quá, cướp sạch thức ăn dự trữ cứu đói của sói, khiến chúng nổi khùng.  Tôi mà là sói, tôi chén sạch gà lợ của các vị ấy.
- Ông nào dở thế không biết.  Đào bắt bao nhiêu là sói con, hèn gì chúng chẳng nổi điên?  Những năm trước bắt ít, đàn ngựa có sao đâu!
- Ban quản lý cũng nên làm vài việc nghiêm chỉnh. Phải tố chức diệt sói. Cứ đà này, sói sẽ ăn thịt người!
- Bớt họp đi, tập trung vào những việc thiết thực.
- Tình hình này thì đàn gia súc không đủ cho sói tráng miệng.
- Lãnh đạo mục trường có một số xuất thân nông nghiệp, làm toàn những chuyện thất đức nên Trời sai sói xuống cho một bài học.
- Đừng có phát ngôn bừa bãi!  Có muốn đấu tố không?
.......
Bao Thuận Quý cùng Ulichi và ông già Pilich quan sát, chụp ảnh con đường của sói, chốc chốc lại trao đổi ý kiến.  Nét mặt cau cau của ông, Bao Thuận Quý bắt đầu giãn ra.  Trần Trận đoán ông già đã tác động được vào "nhân tố con người quan trọng nhất" của ông ta.  Tai họa cỡ này, con người làm sao chống lại?  Tổ nào về điều tra cũng vậy thôi, nhìn hiện trường là thấy sức người khó mà đối phó, nhất là với bầy sói ranh ma quỷ quyệt lợi dụng bạch mao phong tấn công về đêm.
Trần Trận thấy đỡ lo cho ông già Pilich và ông Ulichi.
Trần Trận bắt đầu suy nghĩ về con đường của sói, một đường tròn ma quái khiến người rợn tóc gáy.  Nó như xiết từng vòng quanh ngực cậu, vòng sau chặt hơn vòng trước, khiến cậu tức thở.  Vì sao lũ sói chạy một đường tròn như vậy?  Động cơ nào?  Mục đích gì? Hành vi của sói thảo nguyên người ta không hiểu.  Mỗi dấu vết của sói để lại thường là câu hỏi hóc búa.
Chống lạnh ư? Để cho nóng người lên?  Có thể như thế.  Bởi vì đêm ấy có bạch mao phong, lạnh ghê gớm.  Đàn sói đang chạy đường dài mà đột ngột dừng lại, chắc không chịu nổi rét, nên sau khi ăn no, chúng chạy cho nóng người lên.
Giúp tiêu hóa chăng?  Tiêu hao năng lượng để có thể ăn thêm.  Cũng có thể.  Bởi vì sói không phải loài chuột.  Chuột biết tích trử lương thực trong hang.  Sói không biết để dành, muốn sử dụng thức ăn được nhiều hơn, sói chỉ mỗi cách nhồi nhét, sau đó chạy để tiêu hóa nhanh thức ăn, tăng nội dưỡng, tạo ra chỗ trống trong dạ dày để rồi nhồi tiếp.  Nhưng đó phải là loại dạ dày sắt thép, đàn hồi, cao su, hoặc là không có manh tràng (ruột thừa) nên không sợ viêm.  Nếu vậy thì đáng sợ.
Hay là chúng duyệt binh, chuẩn bị cho trận đánh tiếp?  Hay là chúng điểm quân?  Cũng có thể.  Xem dấu chân ta thấy sói rất có ý thức tổ chức kỷ luật.  Con đường chỗ nào cũng rộng hơn mét, rất ít bước ra ngoài.  Không phải là duyệt binh thì làm sao đội ngũ chỉnh tề như thế?  Nói chung, sói độc lập tác chiến, hoặc hành động theo nhóm, một nhóm bốn năm con, tổ chức vây ráp thì chỉ một gia đình bảy tám con, còn tác chiến với quy mộ binh đoàn thì rất hiếm.  Trần Trận không thể hiểu, sói vốn quen độc lập tác chiến, vì sao bỗng dưng chuyển sang vận động chiến với quy mô binh đoàn?  Năm xưa Bát lộ quân và Tân tứ quân tốn bao công sức mới nâng cấp được như thế.  Chẳng lẽ sói có tài năng quân sự bẩm sinh?  Hay tổ tiên nhà sói rút kinh nghiệm từ những cuộc tàn sát đẫm máu, truyền lại cho sói con cháu?  Nhưng sói không biết nói thì truyền bằng cách nào? Quả là khó hiểu.
Vậy thì, hay là sói ăn mừng chiến thắng?  Hay là một nghi thức trước hay sau khi ăn?  Khả năng này cực lớn.  Cuộc truy kích thắng đậm, đàn ngựa không sót một con, sói đã bảo thủ tuyết hận, có thể coi là toàn thắng.  Đàn sói đói hạ gục một đàn ngựa béo, ai bảo không sướng?  Hẳn là khi đó sói sướng như điên, diễu hành rất lâu xung quanh những xác ngựa đến nỗi thành con đường.
Trần Trận lấy cái bụng của con người để hiểu sói, cắt nghĩa một số hành động của sói.  Chó hiểu tính người, người hiểu tính sói hoặc sói hiểu tính người.  Thiên địa nhân là một.  Sói, người, chó không thể không liên quan với nhau. Có lẽ nghiên cứu về người nên bắt đầu nghiên cứu từ sói, hoặc nghiên cứu sói nên bắt đầu nghiên cứu từ người, khoa sói học liên quan mật thiết với nhân học - một bộ môn khoa học vĩ đại.
Một đoàn người theo sau Batu, lần ngược con đường dẫn đến sự cố, lên phía bắc.  Trần Trận lại gần ông Pilich, hỏi: Bố, vì sao sói chạy thành một con đường như thế?  Ông già nhìn quanh, cố ý buông lỏng dây cương cho ngựa đi chậm lại, nói khẽ: Tôi sống ở Ơlon đã 60 năm, chưa bao giờ thấy đàn sói lớn như thế!  Hồi nhỏ tôi cũng từ hỏi ông thân sinh ra tôi.  Ông bảo, sói là do Trời sai xuống bảo vệ quả núi thiêng Bayinoloa và thảo nguyên Ơlon.  Kẻ nào phá hoại, Trời nổi giận, sai sói xuống cắn chết rồi thưởng luôn cho sói ăn thịt.  Mỗi khi được thưởng, sói vui sướng chạy quanh phần thưởng nhiều vòng, tròn như mặt trời mặt trăng.  Vòng tròn này là hồi âm của sói, giống như thư cảm ơn bây giờ.  Sau khi trời nhận được hồi âm, sói ăn thoải mái.  Sói thích ngửa mặt nhìn trăng, hếch mũi lên trời mà hú dài, nếu như trăng có quầng, chắc chắn đêm ấy nổi gió, sói không đi săn mồi.  Sói dự đoán thời tiết giỏi hơn người, sói biết khi nào trăng tròn, biết vẽ hình tròn, chính là sói có khả năng thông thiên.
Trần Trận như mê đi, cậu vốn thích thần thoại.  Giải thích về đường tròn của sói, bản thân nó đã đầy đủ xét từ góc độ vă học.  Vả lại, không thể nói thuyết này không khoa học.  Trong quá trình săn bắt lâu dài, người ta đã biết đá đổ mồ hôi thì mưa, trăng có quầng thì gió.  Trần Trận tấm tắc: Hay thật!  Những quy luật của tự nhiên trên thảo nguyên, mặt trời có quầng, mặt trăng cũng có quầng.  Mục dân ra hiệu cho người khác đi tới thì giơ tay vẽ một vòng tròn.  Cái vòng tròn đúng là một tín hiệu ma quái!  Chuyện của bố làm con tỉnh người, sói thảo nguyên quá giỏi, biết vẽ vòng tròn, biết phát tín hiệu, sợ thật!  Ông già Pilich nói: Sói thảo nguyên rất tinh quái!  Tôi cả đời đối mặt với chúng mà không khi nào thắng.  Tôi không lường trước được sự cố tai hại này. Sói luôn hành đọng đúng lúc, đúng chỗ mà ta không ngờ, đã đến thì cả bầy.  Cậu bảo nếu không có Trời giúp thì làm sao sói lợi hại đến như thế!

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 17:42:24 | Chỉ xem của tác giả
Chương 6 (tiếp)

Đoàn người ngựa phía trước dừng lại, có người xuống ngựa, bới tuyết.  Trần Trận thúc ngựa chạy theo ông già lên chỗ đó.  Đã phát hiện những xác ngựa, nhưng không tập trung, mà bốn năm con rải thành một vệt.  Ở một chỗ xa hơn, có người kêu: Có xác sói!  Trần Trận nghĩ, chắc đây là nơi sói tấn công tự sát như Batu đã kể.  Và cũng là bước ngoặt dẫn đàn ngựa đến tử vong.  Cậu thót tim, trống ngực đập thình thịch.
Bao Thuận Quý vẫn ngồi trên yên, vung cây roi quá đầu quát: Không được lộn xộn!  Tất cả quay lại, trước hết bới hai con ngựa, sau đó mới đến sói. Mọi người chú ý kỷ luật chiến trường.  Tất cả xung công!  Ai vi phạm sẽ bị đưa đi học tập cải tạo.
Mọi người nhanh nhẹn tập họp xung quanh hai con ngựa, bắt đầu gạt tuyết.
Hai con ngựa đã lộ ra.  Ruột gan tim phổi của từng con đều bị chính nó giẫm nát, vương vãi đến mấy chục mét.  Hai con này không bị sói xé xác sau khi chết.  Có lẽ chúng đã ăn no ở chỗ đầm lầy nên bỏ qua.  Tuy vậy, Trần Trận vừa bới vừa nghĩ, con ngựa này tuy không bị xé xác, nhưng cái chết của chúng thê thảm hơn, đáng sợ hơn cái chết của đồng loại ở đầm lầy, cặp mắt thất thần khi chết gây một ấn tượng hãi hùng.
Bao Thuận Quý giận giữ gầm lên.  Lũ sói này tàn bạo như giặc Nhật!  Làm sao chúng nghĩ ra cái cách cắn rách bụng để ngựa tự lôi ruột ra mà chết cơ chứ!  Độc ác quá đi mất!  Bọn này đúng là tinh thần võ vĩ đạo của bọn Nhật, dám tấn công tự sát.  Sói Mông Cổ thật đáng sợ.  Tôi mà không giết sạch chúng thì chớ kể.
Trần Trận không nhịn được, xen vào: Không nên coi tự sát là tinh thần võ sĩ đạo của bọn Nhật.  Đổng Tồn Thụy, Hoàng Kế Quang, Dương Văn Tư dám cùng chết với kẻ thù, nhưng đó không phải võ sĩ đạo.  Một con người, một dân tộc nếu không có tinh thần thà chết chứ không chịu khuất phục, không dám chết cùng kẻ thù thì chỉ có làm nô lệ, bị người khác thống trị. Tinh thần tự sát của sói vận dụng đúng chỗ thì là anh hùng, đáng ca ngợi, không đúng chỗ thì là võ sĩ đạo của chủ nghĩa phát xít.  Nhưng nếu không tinh thần quyết tử thì cầm chắc không thể thắng tinh thần võ sĩ đạo.
Bao Thuận Quý im lặng hồi lâu, hừm một tiếng: Cái đó thì đã hẳn.
Ulichi nét mặt đăm chiêu, nói với Thuận Quý: Kiểu tấn công tàn bạo này thì Batu và đàn ngựa làm sao chống lại?  Batu quần nhau với sói từ Bãi Bắc về đến đây quả không đơn giản.  Không chết người là may rồi.  Cứ để tổ điều tra về đây, tôi tin là họ sẽ có kết luận chính xác.
Bao Thuận Quý gật đầu, ông ta bắt đầu dịu giọng, hỏi Batu: Khi ấy cậu có sợ lũ sói ăn thịt con ngựa cậu đang cưỡi không?
Batu ngượng nghịu trả lời: Cháu căng thẳng đến mức chẳng còn nghĩ gì khác.  Tiếc quá, chỉ chút nữa là thoát đầm lầy!
Bao Thuận Quý lại hỏi: Thế sói không vồ cậu à?
Batu chìa cây gậy thép ra trước mặt Bao Thuận Quý: Cháu đập gãy răng cửa một con, đánh giập mũi một con khác bằng chiếc gậy này, nếu không, chắc là bị chúng xé xác.  Các cậu Saxuleng không được trang bị súng, gậy, nên không có phương tiện phòng thân.  Đừng kết tội họ đào ngũ.
Bao Thuận Quý cầm cây gậy nắn thử, khen: Gậy này thì hay rồi.  Cậu cũng tàn bạo đấy chứ!  Tốt, với sói thì càng tàn bạo càng tốt.  Cậu can đảm, có bản lĩnh, khi cấp trên về điều tra, nhớ kể tường tận chuyện đánh nhau với sói.
Nói xong, Bao Thuận Quý trả lại cây gậy cho Batu rồi ngoảnh lại nói với Ulichi: Tôi thấy sói Mông Cổ khủng khiếp quá, đầu óc hơn con người.  Tôi đã hiểu cách đánh của chúng.  Chúng có mục tiêu cụ thể, đó là bằng mọi giá dồn đàn ngựa xuống đầm lầy.  Anh xem này - Ông ta xoè bàn tay - Sói biết thời tiết, biết đánh gần, biết chọn thời cơ, biết địch biết ta, biết chiến lược chiến thuật, biết đánh đêm, biết đánh du kích, biết đánh cơ động, biết đánh lén, biết tập trung ưu thế binh lực đánh tiêu diệt, lại còn xây dựng kế hoạch tác chiến, từng bước tiêu diệt đàn ngựa. Binh pháp này có thể đưa vào sách giáo khoa quân sự!  Hai ta xuất thân bộ đội, tôi thấy trừ trận địa chiến, đánh lấn bằng giao thông hào là sói chưa biết, còn thì toàn bộ chiến lược chiến thuật của du kích, của Bát lộ quân, sói biết hết.  Không ngờ sói thảo nguyên tài tình đến thế, cứ tưởng chúng hữu dũng vô mưu, chỉ biết trộm gà bắt chó...
Ulichi nói: Kể từ khi tôi chuyển ngành về đây, chưa thấy mình đã xa chiến trường.  Quanh năm chiến đấu với sói, súng bất li thân, giờ đây tôi bắn còn chuẩn hơn lúc ở bộ đội.  Đúng như anh nói, sói rất giỏi binh pháp, chí ít biết vận dụng hữu hiệu những nguyên tắc quan trọng trong binh pháp.  Đối mặt với sói mấy chục năm, tôi đã học được nhiều điều.  Giờ mà cho tôi đi tiễu phỉ, bảo đảm là tôi làm tốt.
Trần Trận càng nghe chuyện càng mê, vội hỏi: Vậy binh pháp của người là học từ sói?
Ulich mắt sáng lên, nói với Trần Trận: Đúng, rất nhiều điều trong binh pháp con người học từ sói.  Trước kia dân thảo nguyên vận dụng binh pháp của sói đánh nhau với dân tộc nông nghiệp bên quan nội.  Người Hán không chỉ học dân du mục mặc áo ngắn, quần đi ngựa, cưỡi ngựa bắn cung mà dân sách vở gọi là "Hồ phục kị xạ", còn học binh pháp của sói từ dân du mục.  Năm học bổ túc chuyên ngành chăn nuôi ở Hồi Hột, tôi đọc khá nhiều binh thư, thấy binh pháp Tôn Tử không khá mấy binh pháp của sói.  Thí dụ: "Biết mình biết người, binh quý ở thần tốc, ra quân khi địch không ngờ, tiến đánh khi địch chưa kịp chuẩn bị"... sói thuộc lòng từng khoản.
Trần Trận nói: Vậy mà binh thư Trung Quốc không hề nhắc đến dân tộc và sói thảo nguyên, quả không công bằng chút nào!
Ulichi nói: Sự thua thiệt của người Mông Cổ là lạc hậu về văn hóa, ngoại trừ cuốn "Mông Cổ bí sử" là có giá trị, còn những sách khác chẳng có ảnh hưởng gì đáng kể.
Bao Thuận Quý bảo Ulichi: Xem ra, ngành chăn nuôi trên thảo nguyên phải nghiên cứu kỹ về sói, phải nghiên cứu binh pháp, nếu không sẽ thiệt.  Muộn rồi, ta đi xem mấy con sói chết, tôi cần chụp mấy phô ảnh.
Hai ông đầu ngành đi rồi, Trần Trận đứng thần người.  Chuyến khảo sát thực địa này khiến cậu càng mê những kỳ tích của mục dân thảo nguyên và Thành Cát Tư Hãn.  Chỉ vẻn vẹn hơn một vạn quân kỵ mà Thành Cát Tư Hãn và các con cháu ông ta tung hoành từ Á sang Âu, tiêu diệt mấy chục vạn thiết kỵ Tây Hạ, một triệu quana của nhà Đại Kim, hơn một triệu thủy quân và kỵ binh Nam Tống.  Làm thế nào chiếm được Trung Á, Hungari, Ba Lan, toàn bộ nước Nga, Iran, Ấn Độ, lại còn bắt Hoàng Đế Đông La Mã thực hiện chính sách hòa thân của Trung Quốc, gả công chú Mali cho chắt của Thành Cát Tư Hãn, dựng nên một đế quốc lớn nhất trong lịch sử thế giới?  Một dân tộc bé nhỏ khi khởi nghiệp ngay cả chữ viết và mũi tên bằng sắt chưa có, vẫn phải dùng xương thú làm mũi tên, lấy đâu ra sức mạnh và tri thức quân sự lớn lao đến thế?  Đây là một câu đố chưa có lời giải.  Hơn nữa, kỳ tích của Thành Cát Tư Hãn và các con cháu không phải ở chỗ lấy thịt đè người, lấy mạnh thắng yếu, mà ngược lại, lấy ít thắng nhiều, thắng bằng mưu trí.  Phải chăng họ dựa vào trí tuệ của sói và tốc độ của ngựa?  Dựa vào tố chất và tính cách của sói?  Và tinh thần dân tộc được nuôi dưỡng bằng Tôtem sói?
Hai năm nay Trần Trận đối mặt với sói, kinh nghiệm và những câu chuyện thu thập cùng với những điều mắt thấy trong khi đi thực địa sói bắt dê vàng, tính kinh điển trong trận sói tận diệt đàn ngựa, khiến Trần Trận càng tin rằng những kỳ tích của Thành Cát Tư Hãn có khả năng từ sói.
Chiến tranh là hành vi vũ lực giữa quần thể này với quần thể khác.  Chiến tranh khác về bản chất với săn bắn.  Chiến tranh có tiến công, có phòng ngự, hai bên tham chiến đều vũ trang đến trận răng.  Còn săn bắn thì con người chủ động hoàn toàn, hầu hết con mồi ở vào thế bị động, bị săn đuổi.  Săn thỏ, rái cá trên cạn, dê vàng đều là săn bắn, nhưng là lấy thịt đè người, quyết không phải chiến tranh.  Tuy rằng săn bắn có thể học được một số kỹ năng quân sự, nhưng chỉ có chiến tranh thật sự mới cung cấp cho người ta kiến thức toàn diện về quân sự.
Trần Trận lật lại vấn đề: Trên thảo nguyên không có những đàn hổ, đàn báo, đàn gấu, đàn sư tử, đàn voi.  Chúng không thể tồn tại trên thảo nguyên Mông Cổ khắc nghiệt.  Cho dù chúng thích ứng với điều kiện tự nhiên, cũng không thể thích ứng với những cuộc chiến tranh sinh tồn tàn khốc trên thảo nguyên, không thể chống lại những cuộc vây ráp của sói và người trên thảo nguyên.  Chỉ người và sói là cặp đối thủ hạt giống trong cuộc quyết đấu trên thảo nguyên Mông Cổ.  Các sách giáo khoa quân sự trước kia cho rằng, kỹ năng quân sự trác việt của dân du mục có nguồn gốc từ săn bắn.  Ta không phủ nhận ý kiến này.  Nhưng kết luận chính xác phải là, tài năng trác việt của dân du mục bắt nguồn từ cuộc đấu tranh sinh tồn dai dẳng và tàn khốc giữa dân du mục và đàn sói.  Đó là một cuộc chiến cân sức, kéo dài hàng vạn năm.  Qua thực tiễn lâu dài đó, con người và sói đã rút ra những kinh nghiệm mà sau này các binh thư coi là những nguyên tắc và tín điều cơ bản, tỉ như biết mình biết người, binh quý ở thần tốc, binh không ngại trí trá, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, chuẩn bị sẵn sàng, tránh đụng tinh nhuệ, ra quân bất ngờ, đánh địch lúc chúng chưa kịp chuẩn bị, chắc thắng mới đánh, không chắc không đánh, đả thương mười ngón không bằng chặt đứt một ngón, địch đến ta rút, địch ở ta quấy, địch mệt ta đánh, địch chạy ta đuổi... Sói tuy phân bố khắp địa cầu, tuy thảo nguyên Mông Cổ không có tường cao hào sâu như những vùng văn minh nông nghiệp, nhưng đây vẫn là chiến trường chính trong những cuộc quyết đấu - đấu trí và đấu lực, giữa người và sói.
Theo dòng suy nghĩ đó, Trần Trận cảm thấy mình như đang đứng trước cửa đường hầm năm nghìn năm lịch sử văn minh Hoa Hạ.  Trên cao nguyên Mông Cổ, cuộc chiến giữa người và sói lúc ban ngày, lúc ban đêm, chạm trán như cơm bữa, đôi khi lại một trận lớn, xảy ra nhiều hơn tất cả những cuộc chiến tranh giữa sói và người, giữa người và người ở khu vực nông nghiệp cộng lại.  Thậm chí về tần suất còn cao hơn các cuộc chiến giữa các bộ tộc du mục phương Tây ngoài chiến trường chính là chiến trường giữa sói và người.  Thêm vào đó cuộc chiến dai dẳng, tàn khốc giữa các bộ tộc du mục, những cuộc chiến tranh dân tộc, chiến tranh xâm lược, khiến tài năng quân sự được rèn luyện không ngừng.
Do đó, dân tộc thảo nguyên Mông Cổ thiện chiến hơn, hiểu chiến trận hơn, kiến thức quân sự bẩm sinh ưu việt hơn tất cả các dân tộc nông nghiệp và du mục khác.  Từ nhà Chu, Xuân Thu Chiến Quốc, Tần Hán Đường Tống toàn là những nước văn minh nông nghiệp, có ưu thế tuyệt đối, đất rộng người đông, vậy mà luôn bị một dân tộc du mục bé nhỏ trên thảo nguyên Mông Cổ đánh cho thất điên bát đảo, nhục nhã ê chề.  Đến cuối đời Tống thì bị Thành Cát Tư Hãn của Mông Cổ làm chủ trung nguyên trong một thế kỷ.  Vương triều cuối cùng của Trung Quốc - triều Thanh, cũng do một bộ tộc du mục sáng lập.  Tộc Hán - nông canh không có huấn luyện viên tài giỏi về quân sự, không được thường xuyên rèn luyện trong cuộc chiến đấu với sói.  Người Hán cổ có binh pháp Tôn Tử, nhưng chỉ là đánh giặc trên giấy, vả lại, Tôn Tử Binh Pháp có nguồn gốc từ binh pháp của sói.
Trần Trận hình như đã tìm ra cái vực thẳm chôn vùi hàng triệu sinh linh dân tộc Hoa Hạ trong mối họa phương bắc.  Và hình như cũng tìm ra thủ phạm gây nên hao tài tốn của trong công cuộc xây dựng trường thành, vét sạch quốc khố Trung Quốc qua các triều đại.  Cậu cảm thấy như tỉnh ra, đồng thời lại thấy đầu óc mụ đi vì đau xót. Quan hệ nhân quả giữa muôn vật quyết định lịch sử và số phận con người.  Tài năng  quân sự giữ nước giữ nhà là cái vốn để lập thân, là cội nguồn của sự tồn vong của một dân tộc.
Mọi  người ồ lên rồi chạy ra một chỗ xa.  Trần Trận đang mơ màng chợt tỉnh, cũng lên ngựa đuổi theo.
Hai con sói đã được bới lên.  Đây là một phần cái giá phải trả của đàn sói cho việc dồn đàn ngựa xuống đầm lầy.  Trần Trận bước lại gần con sói.  Batu và Saxuleng vừa quét sạch tuyết trên mình nó vừa kể cho mọi người nghe lối đánh phanh bụng ngựa của đàn sói.  Con sói trước mặt tương đối nhỏ, đó là một con cái, nửa thân sau bị ngựa giẫm nát nhưng vẫn thấy những bầu vú vồng lên, sữa trộn với máu tươi ướt đẫm.
Ông già Pilich nói: Thương quá!  Con sói này chắc là bị người ta bắt mất con, nó gọi cả đàn đến trả thù, bản thân nó cũng không thiết sống.  Trên thảo nguyên, làm bất cứ việc gì không nên cạn tàu ráo máng.  Chó cùng rứt giậu, mẹ bị dồn vào ngõ cụt là cắn trả.
Trần Trận nói với các thanh niên trí thức: Sử chép rằng, sói mẹ trên thảo nguyên mang thiên chức của tình mẫu tử, chúng nuôi trẻ con.  Tổ tiên của dân tộc Hung Nô, Cao Xa là con của sói, được sói mẹ nuôi dưỡng.
Bao Thuận Quý nói xen vào: Nuôi với nấng!  Sói ăn thịt người mà lại nuôi trẻ con?  Chỉ nói bậy!  Người và sói không đội trời chung, phải giết chúng không còn một mống.   Chính tôi ra lệnh bắt sói con.  Trước kia ta bắt mỗi năm một đợt, tác hại quả có giảm nhưng vẫn chưa đủ, phải giết sạch.  Phải bắt bằng hết các ổ sói.  Sợ chúng báo thủ hả?  Chết sạch rồi còn sống đâu mà báo thù?  Tôi chưa rút lệnh, xử lý xong vụ này lại tiếp tục bắt.  Hai hộ phải nộp một bộ da, không có sói con thì cho phép nộp sói lớn.  Không nộp, trừ công điểm.
Bao Thuận Quý chụp ảnh những con sói chết, rồi hạ lệnh khiêng ra xe.
Mọi người lại tới bên con sói thứ hai.  Trần Trận ở cao nguyên đã hơn hai năm, thấy rất nhiều sói, sống có, chết có, nhưng cậu không thấy con nào lớn như con này.  Đầu nó to gần bằng đầu con báo, vòng ngực thì lớn hơn, tuyết trên người đã phủi sạch, lớp lông màu vàng rợm, những sợi lông cứng như dây thép thò ra từ đám lông mềm mại.  Nửa thân dưới bị xéo nát, máu me vung vãi.
Batu thử đùn cái xác đã đông cứng, không chuyển.  Anh lau mồ hôi: Con này hơi chậm, ngoạm không chuẩn.  Ngoạm đúng chỗ thì khi ngựa rách bụng, sói rơi ra liền, ngoạn chệch, răng mắc xương, kẹt cứng.  Rủi cho nó!
Ông già Pilich nhìn con sói hồi lâu ngồi xuống vạch đám lông đẫm máu ở cổ: Hai lỗ thủng đầy máu.  Đám thanh niên trí thức ngạc nhiên.  Những lỗ thủng này trông rất quen, thường thấy ở cổ những con cừu bị sói cắn chết.  Tất cả bốn lỗ, mỗi bên hai lỗ.  Đó là vết răng sói cắn thủng động mạch cảnh.  Ông già nói: Con sói này bị ngựa đá trọng thương nhưng chưa chết.  Nó bị một con khác sau khi ăn no thịt ngựa, cắn chết.
Bọn sói này ác như thổ phỉ, giết cả thương binh.
Ông già Pilich nhìn Bao, nói: Thổ phỉ chết không được lên trời, còn sói thì lên.  Con sói này chết không chết được, sống không sống nổi, thà chết còn hơn.  Những con còn sống đành cắn chết nó, thân đỡ khổ mà hồn thì lên trời. Con sói đầu đàn không ác, mà chính là có thiện tâm.  Nó sợ đồng loại bị hạ nhục khi rơi vào tay con người.  Sói là loại thà chết chứ không chịu nhục.  Con đầu đàn không muốn người anh em của nó bị lâm nhục.  Anh Bao này, anh xuất thân nghề nông, nơi anh có mấy người thà chết không hàng giặc?  Tính cách này của sói thảo nguyên khiến cánh già chúng tôi mỗi khi nghĩ đến lại ứa nước mắt.
Ulichi thấy Bao Thuận Quý có vẻ không vui, vội nói: Anh có biết vì sao sói thảo nguyên chiến đấu hăng như vậy không?  Là vì sói luôn khử thương binh nặng, giảm nhẹ gánh năng cho đàn, bảo đảm đội ngũ nòng cốt chiến đấu hiệu quả.  Điều này khiến ta phải cẩn thận hơn khi chiến đấu với sói.
Bao Thuận Quý như hiểu ra, gật đầu: Quả vậy, trong chiến đấu, bộ đội thường mất khá nhiều nhân lực: Cáng thương, y tá, bảo vệ, hộ lý, bác sĩ, lại còn xe cộ, bệnh viện... Tôi có làm hậu cần mấy năm, tính ra có đến mười mấy người phục vụ cho một thương binh, quả là một gánh nặng, ảnh hưởng rất nhiều đến sức chiến đấu của bộ đội.  Vậy là tính cơ động của sói cao hơn bộ đội, nhưng mà thương binh đa phần chiến đấu hăng, sau khi lành thương, vẫn là nòng cốt của quân đội. Vì sao sói giết thương binh mà lại không ảnh hưởng đến sức chiến đấu của đàn sói?
Ulichi thở dài, nói: Sói dám giết thương binh là có lý do.  Sói mắn đẻ, mỗi lứa bảy tám mười, mười mấy con, tỉ lệ sống rất cao.  Có lần vào mùa thu, tôi trông thấy con sói mẹ dẫn một đàn mười một con đẻ trong năm, con lớn nhất chỉ ngắn hơn con mẹ nửa cái đầu, chạy nhanh không kém mẹ. Hai năm sau, con cái trong đàn đã sinh con.  Bò mẹ đẻ bò cái, ba năm thành năm con.  Sói mẹ đẻ sói cái, ba năm bao nhiêu con? Tôi cho rằng, ít nhất một trung đội.  Sói bổ sung quân số nhanh hơn người.  Sói chỉ hai năm là trưởng thành.  Mùa xuân đẻ, mùa xuân năm sau đã là con sói trưởng thành, biết đủ mọi thứ.  Chó một tuổi biết bắt thỏ, sói một  tuổi biết bắt cừu, trẻ con một tuổi còn mặc quần thủng đít.  Người không trưởng thành nhanh bằng sói.  Nguồn bổ sung binh lực của sói phong phú, cho nên sói dám giết thương binh.  Tôi cho rằng, sói giết sói bởi vì sói đông quá, ngay chúng cũng cảm thấy nhiều.  Sói giết sói là thực hiện sinh đẻ có kế hoạch.  Cưỡng bức giảm quân số, chỉ để lại quân hùng tướng mạnh, sói thảo nguyên ngàn năm nay nhuệ khí không suy giảm vì lẽ đó.
Bao Thuận Quý mặt giãn ra: Chuyến đi này giúp tôi hiểu hơn về sói.  Chống thiên tai có sự hỗ trợ của dự báo thời tiết, còn chống sói thì ai hỗ trợ?  Dân nông nghiệp chúng tôi hiểu rất sai về sói thảo nguyên.  Đúng là con người không thể chống lại sự cố vừa rồi , trên có về điều tra cũng phải thấy như thế.
Ulichi nói: Phải là con người minh bạch thì mới làm rõ được sự việc.
Bao Thuận Quý nói: Bất kể trên có xuống hay không thì chúng ta vẫn phải tổ chức vài chiến dịch diệt sói.  Nếu không, mục trường của ta sẽ trở thành nhà ăn tập thể của đàn sói.  Tôi sẽ xin trên ít đạn nữa.
Nhóm thanh niên trí thức chụm lại một chỗ, bàn tán sôi nổi.  Hồng vệ binh Lý vốn là học sinh cấp II, cầm đầu đội "thi hành án" hồng vệ binh Bắc Kinh, tỏ ra bức xúc: Sói đúng là kẻ thù giai cấp.  Bọn phản động trên thế giới đều là sói dữ.  Sói độc ác quá, đã tàn sát đàn ngựa, tài sản của nhân dân, lại giết cả đồng loại.  Ta phải tổ chức diệt sói, phải chuyên chính vô sản với sói, kiên quyết và triệt để tiêu diệt sói.  Kiên quyết phê phán những quan điểm, phong tục, tập quán cổ hủ đồng tình thương cảm sói, thậm chí khi chết còn đem thân cho sói ăn thịt.
Trần Trận thấy Lý Hồng Vệ chĩa mũi nhọn vào ông già Pilich, liền cắt lời cậu ta: Cậu ăn nói quá đáng!  Chỉ vạch thành phần giai cấp đối với động vật đứng trên hai chân thôi.  Nếu xếp sói vào đội ngũ giai cấp thì cậu là sói hay người?  Cậu không sợ bỏ cùng một rọ lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản với sói?  Với lại, người giết người có phải là tàn sát đồng loại không?  Người giết người nhiều hơn sói giết sói.  Thế chiến I chết vài triệu, Thế chiến II chết vài chục triệu.  Sau người vượn Bắc Kinh, con người đã nhiễm tập tính giết đồng loại.  Bản chất người tàn nhẫn hơn sói.  Cậu cần phải học nhiều!
Lý Hồng Vệ nổi đóa, trỏ roi ngựa vào mũi Trần Trận: Cậu là theo đóm ăn tàn, đọc toàn những sách độc hại của tư bản, phong kiến, xét lại.  Cậu chịu ảnh hưởng rất sâu cái lão đẻ ra cậu, ở trường thì cậu ngậm miệng ăn tiền, về cái nơi bần cùng lạc hậu này cậu như cá gặp nước, chơi với toàn kẻ xấu.
Trần Trận nóng mặt, chỉ muốn nện cho hắn một cú ngã ngựa, nhưng chợt nhớ tính kiên nhẫn của sói, cậu chỉ trừng mắt nhìn hắn rồi vụt hai roi thật mạnh vào ủng dưới chân, bỏ đi.
Trời chạng vạng tối, những thanh niên trí thức đã quen với nếp sinh hoạt trà sáng cơm chiều, nên lúc này đói meo.  Các vị cán bộ mục trường cùng một số mục dân, thanh niên trí thức trở về cùng cỗ xe ngựa chở hai con sói.  Trần Trận ở lại cùng Batu, Saxuleng đi tìm hai chiếc thòng lọng, và cũng hy vọng phát hiện thêm một hai con sói.  Riêng Trần Trận rấth thèm nghe chuyện quần nhau với bầy sói của hai mã quan.

______Hết chương 6_______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 17:43:12 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7

"Sói xám là khẩu lệnh của quân ta!"
Ánh nắng ban mai dọi vào trường Uhu Khan, một sói đực lông xanh bờm xanh hiện ra trong nắng, dùng tiếng sói tâu lên Uhu Khan:... Thần xin dẫn đường cho Khan...
Uhu Khan nhổ trại, con sói đực lông xanh bờm xanh đi trước dãn đường, đại quân theo sau.
Sau đó, Uhu Khan gặp lại con sói lông xanh bờm xanh, sói dùng tiếng sói bảo Khan: "Lập tức lên ngựa cùng quân sĩ!" Uhu Khan lập tức lên ngựa.  Sói bảo: "Dẫn theo tất cả A Khun và dân chúng, thần xin đi trước dẫn đường."
Từ đó Khan luông cùng sói xanh xuất chinh...

                                                                                                                                                   "Sử thi Uhu Khan".
                                                                                                                 Hàn Nho Lâm trích dẫn từ "Cùng Lô tập"

Trên thảo nguyên Mông Cổ, cuộc vây ráp quy mô lớn được tổ chức vào đầu mùa đông, khi những con rái cá cạn đã ngủ đông, trong hang.  Rái cá lớn hơn thỏ, béo núc ních, món ăn khoái khẩu của sói, là nguồn thực phẩm quan trọng của sói trên thảo nguyên.  Khi rái cá ngủ trong hang, sói đói bắt đầu tấn công đàn gia súc, mục trường phải tập trung thợ săn đối phó.  Đầu mùa đông là lúc sói có bộ lông dài chống rét, da mềm, lông sáng màu, tuyết lông mịn, những bộ lông thượng hạng như vậy chỉ có ở mùa này và được trạm thu mua định giá cao nhất.  Săn bắn mùa đông là nghề phụ quan trọng của mục dân. Săn bắn là dịp để các mã quan rèn luyện và khoe tài cưỡi ngựa, tung thòng lọng và sự gan dạ; cũng là dịp thi thố tài chỉ huy, trinh sát, chọn địa điểm, định giờ giấc, tổ chức, điều phối, hiệu lệnh; cũng là một dịp để các tù trưởng, các Khan, Đại Khan, Đại Đinh huy động bộ tộc diễn tập quân sư trên thực địa, một truyền thống từ ngàn xưa để lại cho đến tận bây giờ.  Trận tuyết đầu mùa vừa dứt, công việc chuẩn bị cũng đã hoàn tất.  Lúc này, dấu chân sói trên tuyết rất rõ, đàn sói dễ bị lần ra tung tích.  Sói tuy chân dài, nhưngk hông thể chạy nhanh trên tuyết mới, dễ dàng bị ngựa đuổi kịp vì chân ngựa dài hơn.
Tuyết đầu mùa và thời điểm đầu đông rất bất lợi cho sói, mục dân trên thảo nguyên lợi dụng thời tiết này rửa hận cho người và gia súc một năm khổ vì sói.
Thế nhưng, con người nắm được quy luật của thảo nguyên thì sói cũng không lại gì quy luật của thảo nguyên.  Những năm gần đây sói ngày càng tinh quái, sói biết mỗi năm một lần săn, nên khi tuyết đầu mùa vừa ngưng rơi là chạy hết sang bên kia biên giới, hoặc chui vào thâm sơn cùng cốc bắt dê bắt thỏ cầm hơi, hoặc nằm co nhịn đói, gặm xương khô hoặc xác súc vật thối, đợi khi tuyết rắn lại, chạy trên tuyết đã quen và người thì đã nản, chúng mới kéo về phá phách.
Tại cuộc họp trên mục trường, Ulchi nói: Mấy năm nay, đầu vụ đông chỉ săn được vài con, mà toàn là những con sói  choai.  Từ nay ta cũng phải làm như sói, hạn chế đến mức thấp nhất cách đánh đúng bài bản, mà phải làm cho rối tinh rối mù, đánh rồi ngừng, ngừng rồi đánh, tuy không đúng binh pháp, nhưng sói không mò ra quy luật.  Thường thì không săn vào mùa xuân, nhưng nay ta làm một cuộc tập kích lớn vào mùa xuân xem sao?  Lúc này, bộ da không tốt bằng bộ da mùa đông nhưng vẫn còn được, một tháng nữa sói mới rụng lông, tuy không được giá, nhưng được thưởng đạn.
Hội nghị quyết định, quán triệt tinh thần chỉ thị của trên về việc diệt sói trên cao nguyên Ơlon, xóa bỏ ảnh hưởng rất xấu do sự cố đàn ngựa, huy động toàn thể mục dân triển khai phong trào diệt sói trên quy mô lớn.  Ban quản lý nói: Bây giờ là mùa bắt sói con, huy động nhân lực không dễ, nhưng phải kiên quyết tổ chức cuộc săn, nếu không, ăn nói làm sao với thiên hạ!
Ulichi nói: Kinh nghiệm cho thấy, sau một trận đánh lớn, sói chủ lực chắc chắn rút xa, chúng biết con người sẽ trả thù.  Lúc này chúng đang quanh quẩn vùng biên, hễ có động là vọt sang bên kia.  Vì vậy những ngày sắp tới không nên đánh, phải đợi cho thịt ngựa trong bụng sói tiêu hoá hết, chúng sẽ nhớ đến đàn ngựa đông lạnh.  Rái cá cạn và chuột đồng chưa ra khỏi hang, sói đói ăn, chắc chắn phải tìm về ăn thịt ngựa.
Ông già Pilich gật đầu tán thành: Tôi sẽ cùng một số anh em đi đặt bẫy quanh hồ tuyết để đánh lừa.  Sói chúa thấy ta đặt bẫy cho rằng ta chỉ nghĩ đến phòng thủ.  Trước kia ta thường thu hết bẫy về trước khi tấn công để chó nhà khỏi nguy hiểm.  Lần này ta để bẫy đấy không thu về, sói chúa tinh ranh đến mấy cũng bị lừa.  Nếu một vài con mắt bẫy, đàn sói sợ chỉ đứng xa mà nhìn, ăn không dám ăn, bỏ đi thì tiếc.  Khi ấy ta lập tức bủa vây, chắc chắn bắt được không ít, biết đâu vớ được con đầu đàn cũng nên.
Bao Thuận Quý gọi ông Pilich: Nghe nói sói ở đây rất khôn, đặt bẫy không mắc.  Sói già và sói đầu đàn còn cắn bỏ hoặc đánh dấu chỗ thịt tẩm độc để sói cái và sói con ăn chỗ không độc.  Có con lôi bẫy lên để trêu ngươi, có thật không?
Ông già Pilich trả lời: Cũng không đúng hẳn.  Bả sói của Hợp Cung tiêu rắt nặng mùi, chó nhà còn nhận ra huống hồ  sói?  Xưa nay bọn tôi không đánh bả, sợ chết chó nhà.  Tôi ưa đánh bẫy.  Tôi mà đặt bẫy là không thể ngửi thấy, trừ sói thần.
Bao Thuận Quý cảm thấy ban quản lý mục trường giống hệt một bộ tư lệnh, hội nghị sản xuất giống hệt hội nghị quân sự.  Xem ra năm xưa trên điều đại đội trưởng kỵ binh Ulichi về đây là đúng chỗ.  Với ông ta cũng vậy, làm đại diện quân đội cũng hợp.  Ông ta gõ bút vào cốc trà, tuyên bố: Quyết định như vậy nhé!
Ban quản lý ra lệnh: Nếu chưa được sự đồng ý của ban quản lý, cấm các đội và cá nhân tự ý đi săn ở mạn bắc mục trường, đặc biệt không được nổ súng làm kinh động đàn sói.  Mục trường sẽ tổ chức cuộc săn sói quy mô lớn, các đội chuẩn bị sẵn sàng, đợi thông báo.
Các đội bắt đầu chọn ngựa, vỗ béo chó, sửa thòng lọng, mài dao, lau súng, tất cả chuẩn bị theo trình tự như khi đi bắt sói  con vào tiết thanh minh, xén lông cừu vào mùa hạ, cắt cỏ vào mùa thu, giết thịt cừu vào đầu đông, bận rộn nhưng không lúng túng.
                         0o0
Sáng sớm, mây đen đầy trời sà thấp cắt ngang các đỉnh núi.  Thảo nguyên Ơlon phẳng lì như bị nén.  Tuyết lất phất, gió hiu hiu, ống khói trên nóc lều thở khò khè nặng nhọc như người lên cơn hen.  Khói sà xuống mặt tuyết đầy phân cừu, phân bò và cỏ vụn.  Đợt rét muộn hình như còn dài, chưa có dấu hiệu chấm dứt.  May mà gia súc vẫn còn mỡ dự trữ, dày khoảng đốt ngón tay, đủ cầm cự đến khi trời ấm lên, tuyết tan, cỏ bắt đầu mọc.  Phía dưới tuyết vẫn còn cỏ, cừu có thể bới tuyết mà gặm.
Đàn cừu nằm ườn trong chuồng nhai lại thức ăn, không muốn ra.  Ba con chó sủa suốt đêm, giờ vừa rét vừa đói, nằm run rẩy trước cửa lều.  Trần Trận vừa đẩy cửa, con Vàng đã vùng dậy chồm hai chân trước lên vai cậu mà liếm mặt, đuôi vẫy rối rít đòi ăn.  Trần Trận bê từ trong lều ra một lô xương chưa lọc hết thịt cho lũ chó.  Chúng tranh nhau mỗi con tha một khúc ra một chỗ nằm xuống, hai chân trước ôm khúc xương mà gặm sồn sột, rồi chén tuốt cả xương lẫn tủy.
Trần Trận lại vào trong lều lấy ra mấy miếng thịt mỡ cho con chó cái Ilo.  Ilo lông đen mượt, đầu dài, thân dài, chân dài, eo thon, lông mỏng.  Hai con này thuộc giống chơ Hưng An, chạy nhanh, ngoặt gấp nhanh, biết giữ và xẻ con mồi, trông thấy sói là lao lên như động đực.  Cả hai là cao thủ bắt cáo, nhất là con Vàng học được tuyệt kỹ săn mồi từ bố mẹ.  Nó không bao giờ bị con cáo mê hoặc, đớp rất trung đuôi rồi ghìm chặt để con cáo cố trườn lên rồi bất thình lình nhả ra, khiến con cáo chổng bốn vó, con Vàng xông tới cắn một phát đứt họng.  Cắn vào họng thì bộ da lành lặn, bán được giá.  Những con chó lười nhác thì bị vướng đuôi cáo gãy chân, hoặc cắn con cái nát bét, thường ăn đòn của chủ.  Con Vàng và con Ilo không sợ sói.  Chúng nhanh nhẹn tránh né cầm chân sói, tạo điều kiện thuận tiện cho người đi săn và chó hạ thủ.
Con Vàng là của ông già Pilich và Caxumai cho Trần Trận.  Ilo là của chủ nhà Dương Khắc cho.  Dân thảo nguyên Ơlon luôn tặng học sinh Bắc Kinh những thứ tốt nhất.  Vì thế, con Vàng và con Ilo lớn lên đẹp hơn những con khác.  Về sau Batu thường rủ Trần Trận và Dương Khắc đi săn cáo, lý do chính là vì Batu rất thích hai con chó.  Mùa đông vừa rồi, con Vàng và con Ilo bắt được năm con cáo lớn.  Hai chiếc mũ lông cáo Trần Trận và Dương Khắc đội trên đầu là tặng phẩm của hai con chó cưng.  Sau tết, con Ilo đẻ một lứa sáu con; ba con đã bị ông Pilich, anh Lanmutrac và một thanh niên trí thức bế đi; còn lại ba con thì một cái hai đực, hai vàng một mực, béo mũm mĩm trông chẳng khác lợn bột, rất đáng yêu.
Dương Khắc chăm sóc con chó hơi quá đáng.  Cậu ngày nào cũng nấu cho Ilo một nồi cháo đặc gồm thịt vụn và kê.  Đã dùng hết quá nửa kê tiêu chuẩn của trạm lương thực cấp cho thanh niên trí thức.  Khi đó thanh niên trí thức vẫn hưởng tiêu chuẩn lương thực của Bắc Kinh: 30 cân (15 kilogam) một tháng, nhưng chủng loại thì không như ở Bắc Kinh, 3 cân gạo rang, 10 cân bột mì, còn lại 17 cân là kê.  Kê dùng để nuôi chó, đám thanh niên trí thức ăn thịt như dân du mục.  Tiêu chuẩn lương thực của dân du mục chỉ 19 cân một tháng.  Cháo kê nuôi chó rất tốt, cách nấu do Caxumai dạy cho. Ilo nhiều sữa, đàn chó con của bọn Trần Trận bụ bẫm hơn chó của mục dân.
Một con chó mực giống Mông Cổ to lớn khác thường chừng năm sáu tuổi, đầu vuông miệng rộng, ngực nở chân dài, trường thân, tiếng sủa như hổ gầm.  Nó thương tích đầy mình, đầu và lưng nhiều chỗ trụi lông, da đen nhẻm.  Nó vốn có hai con mắt giả ở phía trên mắt thật, nhưng nay chỉ còn một, cùng với hai con mắt thật hợp thành ba mắt như Nhị Lang Thần, mặc dù con mắt giả không cân đối trên mặt.
Con Mực hung thần ác quỉ này, Trần Trận nhặt được khi đi mua hàng trên cung tiêu.  Hôm ấy trên đường về, Trần Trận luôn cảm thấy có luồng khí lạnh phía sau, con bò cũng có vẻ sợ sệt.  Cậu ngoảnh lại trông thấy một con chó to như sói, lưỡi thè ra rất dài lẳng lặng theo sau.  Cậu suýt ngã xuống xe vì sợ.  Cậu giơ roi dọa đánh, nó không đi, cứ theo về nhà.  Đám mã quan biết con chó.  Nó có tật cắn chết cừu, bị chủ đuổi ra khỏi nhà, lang thang đã hai năm, tuyết xuống thì nằm dưới chân tường, ban ngày tự đi kiếm ăn: bắt thỏ đồng, rái cá cạn, ăn thịt súc vật chết, nhặt lương thực rơi vãi, và đôi khi tranh ăn với sói độc.  Nó cũng đã từng tự đến ở một vài nhà, nhưng vì cái tật cắn chết cừu, lại bị đuổi ra khỏi cửa.  Nếu người ta không thương vì nó từng hạ thủ mấy con sói thì họ đã đánh chết nó rồi.  Theo quy định, chó nhà cắn chết cừu là phải giết đi, để phòng nó liên kết với sói nổi loạn, và cũng là để răn đe những con chó vẫn còn thú tính.  Mọi người khuyên nên đuổi con Mực đi, nhưng Trần Trận thấy nó rất đáng thương.  Cậu cũng rất tò mò về nó.  Nó đã từng sống chung với sói, từng tồn tại qua những mùa đông khắc nghiệt, rõ ràng là nó rất có bản lĩnh.  Với lại, từ sau khi dọn nhà xa con Balua oai phong lẫm liệt, Trần Trận cảm thấy thiếu người đỡ đần bên cạnh.  Cậu nói với các mục dân, chỗ các cậu chỉ có chó săn tuổi còn non, thiếu một con chó dữ để trông nhà, nên tạm thời giữ con Mực lại.  Nếu nó cắn chết cừu, cậu sẽ bồi thường.
Vài tháng trôi qua, "Nhị Lang Thần" không cắn chết con cừu nào, nhưng Trần Trận vẫn nhận ra nó cố gắng kiềm chế, chủ động lánh xa đàn cừu.  Cậu nghe ông già Pilich nói, vài năm trở lại đây có một số lưu manh đến làm thuê ở Ơlon, đã giết thịt hầu hết những con chó hoang.  Họ dụ chúng vào trong lều, đóng cửa lại rồi giết thịt.  Hình như con Mực đã có lần bị bắt nhưng chạy thoát.  Nó không dám lang thang, không dám trở thành chó hoang.  Chó hoang không sợ sói, nhưng sợ người giết.  Con Mực rất dữ, gác đêm sủa tới sáng, tấn công sói quyết liệt, lúc nào cũng có máu sói dính trên mép.  Một mùa đông đã qua, đàn cừu của Trần Trận và Dương Khắc không con nào bị sói vồ hoặc bị cắn chết.  Nhiệm vụ chính của chó thảo nguyên là gác đêm, giữ nhà và đi săn.  Ban ngày chó không đi theo đàn cừu và cũng không ở cùng đám cừu non vì cách bức tường xây.  Có lẽ vì thế mà con Mực dần cải tà quy chính.
Mấy cậu thanh niên trí thức ở cùng Trần Trận cũng đối xử rất tốt với con Mực, thường cho nó ăn.  Nhưng con mực chưa khia nào tỏ ra gần gũi với người, chưa bao giờ biểu thị tình cảm đối với những người đã bao dung nó.  Nó không chơi đùa với con Vàng và con Ilo, ngay cả khi gặp chủ, phải tinh mắt mới thấy nó vẫy đuôi.  Buổi sáng rảnh rỗi, nó thường đi dạo một mình trên đồng cỏ hoặc nằm một nơi rất xa căn lều ngắm trời ngắm đất, trầm tư mặc tưởng, cặp mắt lim dim, biểu lộ một tình cảm lưu luyến đặc biệt với thảo nguyên.
Một lúc nào đó, Trần Trận chợt thấy con Mực không giống chó mà có phần giống sói.  Tổ tiên của chó là sói.  Khuyển Nhung là bộ tộc có mặt sớm nhất trên thảo nguyên tây bắc Trung Quốc, tự nhận tổ tiên của họ là hai con chó trắng.  Tôtem của Khuyển Nhung là chó.  Trần Trận thường tự hỏi: Vì sao một bộ tộc mạnh trên thảo nguyên lại thờ một con vật đã bị nhân loại thuần hóa làm vật tổ?  Có lẽ cách đây vài ngàn năm, sói thảo nguyên cực kỳ dũng mãnh, đầy thú tính, hoặc giả là chó nhưng chưa mất hết thú tính.  Hai con chó trắng mà tộc Khuyển Nhung sùng bái có thể là sói trắng.  Trần Trận nghĩ, phải chăng con Mực hung dữ mà cậu đem về là một con chó nhưng mang đầy đủ tính sói?  Hay là một con sói nhưng một trăm phần trăm tính chó?  Hay là nó có những dấu hiệu trở lại sói?
Trần Trận thường ngồi xuống bên cạnh vuốt  ve, gãi ngứa cho con Mực, nhưng nó ít khi hưởng ứng, ánh mắt không rõ u tối hay thâm trầm, đuôi phe phẩy rất nhẹ, chỉ cậu mới cảm thấy.  Trần Trận không hiểu nó cần gì để giúp nó trở lại tập tính thông thường của loài chó như con Vàng chẳng hạn, có công ăn việc làm, có người thương, sống bằng sức lực của mình, một cuộc sống vô lo.  Nhưng đôi khi Trần Trận cũng nghĩ lan man: Chẳng lẽ nó không muốn cuộc sống bình thường của chó, trở về với thế giới của loài sói?  Thế thì vì sao hễ trông thấy sói là nó nổi hung, coi như kẻ thù không đội trời chung? Đó là nhìn vẻ bên ngoài.  Nó là một con chó một trăm phần trăm, lông đen tuyền đã đủ vạch rang giới giữa nó với loài sói.  Nhưng sói Ấn Độ, Liên Xô, Mỹ, cổ La Mã và sói Mông Cổ ngày xưa từng nuôi dưỡng trẻ con.  Chẳng lẽ nó không thích nuôi chó con?  Nhưng nếu nó gia nhập đàn sói thì là tai họa cho những đàn ngựa, đàn bò, đàn cừu.  Có thể nỗi đau của nó là cả chó và sói đều không nhận nó, hoặc giả nó không muốn ngả về bên nào.  Trần Trận nhiều lúc nghĩ, nó quyết không phải chó - sói, chó - sói tuy dữ nhưng tính chó trăm phần trăm.  Có thể nó là loài sói - chó rất ít gặp, hoặc tính nết mỗi thứ một nửa, hoặc tính sói trội hơn tính chó.  Trần Trận  chưa hiểu sâu con Mực.  Cậu thấy nên đối xử tốt với nó, dần dà sẽ hiểu nó.  Cậu rất muốn trở thành người bạn của nó.  Cậu định bụng sẽ không gọi nó là "Nhị Lang Thần" mà gọi "Nhị Lang", gọi đúng tên, không thần thánh gì hết.
Trần Tận cho lũ chó ăn để đợi Dương Khắc và Cao Kiên Trung ngủ dậy.  Cậu cũng vuốt ve con Nhị Lang luôn luôn tỏ ra vô cảm.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 17:43:54 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7 (tiếp)

Bốn học sinh cùng lớp ở cùng lều đã hơn một năm.  Bốn người: Một mã quan (chăn ngựa), một ngưu quan (chăn bò), hai dương quan (chăn cừu).
Mã quan Trương Kế Nguyên năng nổ, cẩn thận, cùng Batu và Lanmatrac chăn đàn ngựa chừng năm trăm con.  Ngựa ăn nhiều tốn cỏ, nên phải đi xa để không tranh ăn với bò, cừu.  Vào những nơi thâm sơn cùng cốc xa xôi cách trở, sói đàn lảng vảng, chen chúc trong lều dã chiến chỉ vừa đủ cho hai người nằm, đun nấu trên cái lò bằng sắt tây, nhiên liệu là phân ngựa khô, cuộc sống còn hoang dã hơn sống trong lều Mông Cổ.  Công việc của mã quan nguy hiểm và gian khổ, trách nhiệm thì nặng nề, nhưng mã quan có địa vị cao nhất trong cộng đồng.  Đây là cái nghề đáng tự hào nhất của bộ tộc sống trên lưng ngựa.
Tung thòng lọng bắt ngựa là một nghệ thuật, đẹp và hấp dẫn.  Cũng có thể dùng thòng lọng bắt sói.  Mã quan gần như ngày nào cũng dùng đến thòng lọng để đổi ngựa cưỡi, sửa bờm ngựa, cho ngựa uống thuốc hoặc tiêm chích, kiểm tra ngựa, luyện ngựa... Mã quan nào cũng rèn luyện kỹ thuật bắt ngựa bằng thòng lọng.  Sử dụng cây sào dài, trên mình con ngựa phi như bay, nhắm chuẩn, rướn người tung cuộn dây thòng lọng trúng cổ ngựa.  Mã quan giỏi hễ tung là trúng, rất ít khi hụt.  Với kỹ năng này mà bắt sói, chỉ cần ngựa chạy nhanh, cự li gần, có chó săn giúp sức, là có thể tròng trúng cổ sói rồi phóng ngựa trở về, sói sẽ bị xiết cổ chết, hoặc cho chó cắn chết.  Ban ngày, sói rất sợ mã quan, hễ thấy mã quan cầm thòng lọng là chạy trối chết hoặc nấp trong cỏ rậm.  Trần Trận nghĩ sói sợ ban ngày mà không sợ đêm, có lẽ liên quan tới chiếc thòng lọng.  Chiếc thòng lọng bắt ngựa của mục dân Mông Cổ đã có lịch sử mấy ngàn năm, thời gian ấy đủ để thay đổi tập tính của sói.
Cây thòng lọng trên thảo nguyên Ơlon là cây thòng lọng đẹp nhất, đắc dụng nhất và hoàn mỹ nhất mà Trần Trận từng thấy.  Nó dài hơn, tinh vi hơn, thực dụng hơn những cây thòng lọng mà cậu đã thấy trên sách báo phim ảnh của mục dân nơi khác.  Mã quan Ơlon thường tự hào mà khoe caya thòng lọng của họ là loại cao cấp nhất, lợi hại nhất và đẹp nhất so với toàn Mông Cổ.  Thảo nguyên Ơlon nằm ở phía bắc lưu vực sông Mã Câu nổi tiếng của Mông Cổ, nơi sản sinh chủ yếu giống ngựa Uchumuxin nổi tiếng (xưa gọi là ngựa Đột Quyết).  Ngựa là bạn, là chiến hữu thân thiết của người Mông Cổ.  Cây thòng lọng bắt ngựa cũng không thể tùy tiện, xấu tốt cũng năm sáu mét đến bảy mét.  Nó thường được ghép bởi hai mảnh bằng gỗ bạch hoa.  Trần Trận có lần trông thấy cây thòng lọng dài tới chín mét.  Sào càng dài càng dễ tròng trúng cổ sói.  Thẳng thì như cây trúc không đốt.  Muốn thẳng, mã quan bào phẳng các mắt gỗ, chỗ nào cong thì dùng phân ngựa tươi để hun cho mềm ra, sau đó nắn thẳng bằng cách ép khít vào một vật phẳng.  Đầu cây sào còn cột omoojt đoạn roi nhỏ dài chừng nửa mét, thô bằng ngón tay, đầu roi nhỏ tết một cái khuyết bằng lông bờm ngựa, dây thòng lọng luồn qua khuyết đó sẽ không bị trơn.  Dây thòng lọng bắt ngựa là loại dây bền nhất, chịu lực tốt nhất, không làm bằng những sợi da bò, mà bằng ruột cừu bện như thừng.  Đây là một công nghệ phức tạp, mã quan không tự làm được mà phải mua trên Cung tiêu.  Công đoạn cuối cùng là trộn phân cừu tươi với lông cừu, miết trên cây sào từ màu trắng chuyển sang màu phân cừu, đợi phân khô, lấy khăn lau sạch.  Lúc này cây sào có màu đồng điếu, giống như một loại vũ khí bằng kim thuộc thời xưa.
Khi mã quan ngồi trên ngựa nách kẹp cây sào, ngọn sào chúc xuống tự nhiên theo sức nặng, thòng lọng đung đưa theo nhịp chân ngựa, linh hoạt như con rắn dài.  Lũ sói đều đã từng trông thấy cảnh tượng hãi hùng khi thòng lọng xiết cổ.  Có lẽ trong con mắt sói, chiếc thòng lọng đáng sợ như long thần.  Ban ngày trên thảo nguyên, bất kể lớn bé già trẻ, dù chỉ đi một mình trên đồng cỏ vắng vẻ hoặc trong thung lũng heo hút, chỉ cần trong  tay có cây thòng lọng là bình yên vô sự. cây thòng lọng coi như một đạo bùa.
Trương Kế Nguyên làm mã quan đã được một năm.  Cậu tay nghề kém, thường tung thòng lọng không trúng.  Cậu không thể tự thay ngựa, mà phải nhờ Batu giúp.  Có khi cậu thòng trúng, nhưng trong khoảng khắc khi chiếc thòng chưa tròng vào cổ con ngựa, cậu không kịp ngồi lùi lại phía mông, để dùng yên làm vật cản giữ người lại, cây sào liền bị con ngựa giật khỏi tay, chỉ lát sau cái vật mà cậu mất mấy ngày mới làm ra đó, bị ngựa xéo gãy làm ba khúc.  Cậu thường đến chỗ đàn cừu để luyện khiến đàn cừu chạy tán loạn, có con suýt trụy thai, ông già Pilich phải có ý kiến mới thôi.  Về sau ông già bày cho cậu tập tung thòng lọng vào chiếc cọc phía sau xe bò, cậu tiến bộ trông thấy, đã có thể đổi ngựa cho cả ba người, một vấn đề không dễ dàng thực hiện.  Trương Kế Nguyên rất ít khi về nhà, một tháng về tổng cộng một tuần là nhiều.  Về đén nhà là lăn ra ngủ, thức dậy lại kể cho cánh Trần Trận nghe những chuyện về người, ngựa và sói.
Mã quan có nhiều ngựa tốt, được đi nhiều biết nhiều.  Mục trường cấp cho mã quan bảy tám con ngựa chuyên dụng, còn được sử dụng những con ngựa mới nhập đàn, ngựa vô chủ.  Mã quan gần như thay ngựa mỗi ngày, có khi ngày hai lần.  Mã quan không nương nhẹ con ngựa, hễ lên yên là phóng như điên bất kể đường ngắn đường dài.  Mã quan đến các lều đổi ngựa theo yêu cầu, đưa thư hoặc chở giúp đồ đạc, mời thầy thuốc, báo tin.  Mã quan nhận được nhiều nhất những nụ cười duyên của các cô gái, khiến các cậu dương quan (chăn dê) rất hâm mộ, vì các cậu này chỉ được cấp bốn năm con ngựa, còn thông tin thì mù tịt.  Nhưng chăn ngựa là công việc nặng nhọc và nguy hiểm trên thảo nguyên.  Nếu không có những tố chất của loài sói: kiên trì, dũng cảm, khoẻ mạnh, mưu trí, nhạy cảm, cảnh giác, chịu đói chịu khát, dãi dầu mưa nắng... thì mục trường không tuyển.  Cứ bốn người mà chọn được một mã quan thì đã là may rồi.  Những chuyện về sói Trần Trận thu thập được phần lớn do Trương Kế Nguyên kể.  Mỗi khi về nhà, Trương Kế Nguyên thường được Trần Trận chăm sóc chu đáo từ cái ăn cái uống.  Hai người rất hợp gu trong những chuyện về sói.  Mã quan là những người đứng trên tuyến đầu chiến đấu sinh tử với sói, nhưng thái độ đối với sói thì rất mâu thuẫn.  Trần Trận, Dương Khắc, Trương Kế Nguyên thường trò chuyện tới khuya, đôi khi tranh luận không dứt.  Trương Kế Nguyên bao giờ cũng trở về với đàn ngựa hơi muộn.  Cậu mượn của Trần Trận vài quyển sách đọc cho đỡ buồn.
Cao Kiện Trung chăn hơn một trăm bốn mươi con bò. Chăn bò là công việc thoải mái nhất trên thảo nguyên.  Người Mông Cổ có câu: ngưu quan sướng hơn huyện quan.  Đàn bò đi sớm về muộn, thuộc đường ra bãi, nhớ đường về nhà.  Bê con buộc thành hàng vào sợi thừng tết bằng lông bờm ngựa trước lều, bò mẹ về cho con bú rất đúng giờ.  Chỉ lũ bê choai là đáng phàn nàn đôi chút.  Đâu có cỏ non là chúng chạy đến và sau đó không thích trở về.  Vất vả nhất là đi tìm bò lạc và đuổi bò về.  Một con bò khi đã nổi khùng thì gân cổ lên, mắt trợn trừng, ỳ ra không chịu bước, những muốn đập cho một trận.  Ngưu quan có nhiều giờ rỗi, cần giúp việc gì có thể nhờ họ.  Mông Cổ mà không có bò thì rất vất vả.  Kéo xe, dời nhà, cho sữa, các món ăn bằng sữa bò, thịt, da, phân, tất cả trông vào con bò.  Dân tộc trên lưng ngựa, tất yếu gia đình trên lưng bò.  Ngưu quan, mã quan, dương quan ba loại công việc gắn với nhau như một chuỗi xích, không thiếu được khâu nào.
Trần Trận và Dương Khắc cùng chăn đàn cừu hơn một ngàn bảy trăm con, hầu hết là giống cừu đuôi to nổi tiếng của vùng Ơlon, khu đuôi to như cái đĩa cỡ trung bình, mỡ màu trắng đục, ròn mà không ngấy, thịt thơm mà không có mùi hôi.  Ông Ulichi nói: Cỏ ở Ơlon tốt nhất so với cỏ các nơi trong khu vực, mà cừu Ơlon cũng là giống cừu tốt nhất, xưa kia là cừu tiến vua, là món thịt cừu mà Hốt Tất Liệt sau khi tiến vào Bắc Kinh đích thân tuyển chọn.  Ngày nay khi lãnh đạo nhà nước tiếp nguyên thủ các nước A Rập theo đạo Islam đều chọn cừu Ơlon.  Nghe nói nguyên thủ các quốc gia đó thường bỏ bê việc nước để đến thăm xứ sở của loại cừu này.  Trần Trận nghĩ, sói Ơlon cao lớn lạ thường, đầu óc tính toán nhanh hơn người, có thể là do ăn thịt cừu Ơlon.  Trong đàn cừu có những con lai giống Tân Cương với giống bản địa, lông mịn, cho len tốt, sản lượng cao gấp ba bốn lần cừu nội, nhưng thịt nhão, không thơm, dân du mục không thích ăn.  Rồi đến sơn dương, số lượng rất ít, chiếm khoảng 1/30 đàn cừu.  Tuy sơn dương ăn cỏ cả rễ phá hoại đồng cỏ, nhưng bộ lông rất được giá, hơn nữa, những con sơn dương thiến sừng nhọn rất dũng cảm, dám quần nhau với sói.  Đàn cừu nào mà có sơn dương là có thể chống lại sói độc.  Do vậy, đàn cừu Mông Cổ thường là do vài chục con sơn dương làm nhiệm vụ đầu đàn.  Sơn dương nhớ bãi chăn, nhớ đường về, lại dám tự quyết, gặp cỏ ngon là cho đàn dừng lại ăn, cỏ không ngon thì dẫn đàn đi nơi khác.  Sơn dương còn một ưu điểm nữa so với cừu.  Đó là khi bị sói công kích, chúng be rầm lên và chạy lung tung, mục đích là báo động cho cả đàn.  Còn cừu thì bị cắn thủng bụng mà vẫn im như thóc không dám be một tiếng, mặc cho sói xé xác.  Trần Trận nhận thấy dân du mục Mông Cổ rất giỏi lợi dụng sở trường các các loài vật trên đồng cỏ, nhằm mục tiêu hại ít lợi nhiều.
Hai cậu dương quan, một chăn ban ngày, một gác đêm.  Ngày công, ban ngày mười điểm, ban đêm tám điểm, hai người luân phiên hoặc đổi phiên cho nhau, người này đi vắng thì người kia làm thay.  Nếu chó tốt thì gác đêm vụ xuân có thể ngủ đẫy giấc.  Nhưng ba vụ sau là du mục, không có chuồng xây để chăm sóc cừu con như vụ xuân, chỉ dùng xe bò, hàng rào tạm và thảm quây thành hình bán nguyệt, hoàn toàn không ngăn nổi sói, nếu nạn sói nghiêm trọng thì đúng là khổ sai, suốt đêm đừng hòng chợp mắt, cầm đèn pin lượn quanh chuồng, quát tháo khản cổ lũ chó.  Ông Ulichi nói: Trực đêm chủ yếu là phòng sói, hàng năm công điểm trực đêm bằng 1/3 tổng số công điểm của mục trường.  Đó chính là khoản chi rất lớn về sói.  Trực đêm là công việc chính của phụ nữ Mông Cổ.  Phụ nữ ban đêm trực, ban ngày làm việc nhà, rất ít khi ngủ đẫy giấc.  Người ban ngày làm lụng, sói ban đêm quậy phá; người khốn đốn, sói hung hăng.  Sói thảo nguyên quậy phá đến nỗi con người ăn không ngon ngủ không yên.  Sói đánh gục từng gia đình, từng thế hệ phụ nữ.  Do vậy, các nữ chủ nhân thường ốm đau, chết yểu.  Nhưng cũng có nhiều người có sức khoẻ, trụ vững.  Sói thảo nguyên sinh sản quá nhanh, còn người thì không thể tăng trưởng nhanh trên quy mô lớn.  Do đó xưa nay chưa hề xảy ra nạn nhân mãn mà chỉ có chuyện khai khẩn đất hoang để có cai ăn.  Chính là sói đã khống chế sự phát triển dân số trên thảo nguyên.
Đàn cừu là nền tẳng của nghề chăn nuôi trên thảo nguyên.  Nuôi cừu để có thịt ăn, có áo mặc, có phân khô để đun nấu, thu nhập hai công điểm một con, bảo đảm cuộc sống nguyên thủy của người thảo nguyên.  Vậy mà cuộc sống của người chăn cừu tẻ nhạt, mòn mỏi và tù túng, từ sáng tới đêm một mình với đàn cừu trên đồng cỏ ngút mắt hoặc tuyết trắng.  Từ trên cao nhìn ra, vài chục dăm vuông không một bóng người.  Không có người để chuyện trò, có sách không dám đọc chăm chú, vì phải coi chừng sói tập kích.  Ngày nào cũng cảm thấy mình như Tô Vũ chăn dê, cô đơn thui thủi, con người khác gì cỏ dại.  Cảm giác này đuổi không đi, vì nó đã thấm sâu vào xương tủy.  Trần Trận thường cảm thấy mình đã già, rất già, già hơn cả Tô Vũ.  Ngàn năm nay thảo nguyên không hề thay đổi, con người vẫn sống cuộc sống du mục nguyên sơ, vẫn đang tranh giành miếng ăn với sói, quyết liệt và bất phân thắng bại.  Trần Trận cảm thấy mình như người vượn Bắc Kinh, kẻ thù là sói.  Nếu như một ngày nào đó Tô Vũ tay cầm gậy trúc, hoặc người vượn quấn tấm da thú xuất hiện trước mặt, thì cậu cũng không lấy làm lạ.  Có thể trong câu chuyện giữa họ với nhau, đầu đề vẫn là sói.  Thời gian trên thảo nguyên Ơlon đọng lại như hóa thạch.  Cái gì đã giữ nguyên bộ mặt của thảo nguyên từ thời viễn cổ, không mảy may thay đổi?  Phải chăng là sói?
                     0O0
Với Trần Trận, chăn cừu là công việc rất có lợi.  Cậu có thì giờ một mình nghiền ngẫm, cho đôi cánh của tư tưởng tự do bay lượn.  Hai hòm sách to tướng đem từ Bắc Kinh về, lại thêm một hòm sách lịch sử và sách cấm có chọn lọc của Dương Khắc, cậu có thể tiêu hóa tất cả số sách bằng cách nhai lại của con cừu.  Ban đêm, cậu ngốn sách kinh điển như cừu ngốn cỏ; ban ngày cậu ngốn tinh hoa văn hóa Trung Quốc và nước ngoài.  Cậu nghiền ngẫm, suy từ, coi sách voẻ khô khan như cỏ non đầy nhựa.  Ban ngày chăn cừu, cậu thường dành nhiều thời gian cho suy nghĩ, cậu chỉ đọc lướt, chỉ khi chắc chắn không có sói, cậu mới đọc thật sự.  Chẳng lẽ như lời ông già Pilich: Phải hiểu thảo nguyên, hiểu người Mông Cổ thì mới hiểu được sói!  chẳng lẽ thảo nguyên ngàn vạn năm vẫn giữ nguyên bộ mặt, dân tộc thảo nguyên không thể phát triển thành dân tộc lớn, liên quan tới sói?  Cậu cho là có thể như thế.  Chỉ ít sự tấn công của sói đã gây ra những tổn thất có thể tính đếm cũng như không thể tính đếm cho mục trường, khiến sự nghiệp chăn nuôi và sự nghiệp con người không thể tích luỹ nguyên thủy, khiến người và gia súc dừng lại ở trình độ tái sản xuất giản đơn, duy trì nguyên trạng trình độ nguyên thủy, không thể dôi ra nhân lực và tài lực để phát triển mậu dịch, thương nghiệp, nông nghiệp, càng không thể phát triển công nghiệp.  Những vấn đề mà sói can dự rất rộng và rất sâu.  Vậy mà hiểu được sói thì khó quá.  Người ở chỗ sáng, sói trong bóng tối.  Tiếng tru của sói có thể nghe thấy từ xa mà không thể lại gần.  Trần Trận rất muốn nuôi một con sói nhỏ ngay bên lều để cậu ngày đêm quan sát từ lúc còn nhỏ tới lúc lớn.
Cậu lại nghĩ tới con sói cái tha con cừu non đi đâu, và ổ sói con ở chỗ nào?
Hôm ấy sau khi quan sát đàn cừu một lượt thấy không có gì, cậu bèn nằm ngửa trên bãi cỏ ngắm con chim ưng đang bay lượn trên trời xanh.  Thấy đàn cừu có vẻ xôn xao, cậu bật dậy trông thát một con sói lớn xông vào giữa đàn cừu ngoạm lấy gáy một con cừu non hất lên vai, chạy dọc theo khe về phía Núi Đen, thoáng cái đã mất hút.  Cừu non thường hay kêu, tiếng kêu lảnh lói.  Chỉ cần nghe tiếng kêu của con cừu non là xảy ra phản ứng dây chuyền, hàng trăm con cừu non và cừu mẹ kêu đinh tai nhức óc.  Nhưng con sói ngoạm vào gáy, khiến họng con cừu không phát ra thành tiếng, rồi sói mẹ lẳng lặng rút lui, khiến hầu hết những con cừu không biết đã xảy ra chuyện gì, có thể cừu mẹ cũng không biết đã mất con.  Nếu Trần Trận không tinh mắt và cảnh giác cao thì chiều về điểm lại số cừu mới biết.  Trần Trận kinh hoàng như đụng phải một phi tặc vào loại cao thủ, thó túi tiền ngay trước mũi cậu.
Khi đã bình tĩnh, Trần Trận cưỡi ngựa đến chỗ con sói bắt cừu non.  Cậu nhìn thấy trong bụi cỏ rậm có một cái hố, cỏ trong hố bẹp đi.  Rõ ràng là con sói nằm phục tại đây từ lâu chứ không phải chạy từ đâu tới, nếu chạy đến thì cậu đã nhìn thấy.  Trần Trận nhìn mặt trời, nhẩm tính con sói đã phục ở đây hơn ba tiếng đồng hồ.  Chỉ sói mẹ mới bắt cừu non trong mùa này, nó dùng con mồi còn sống để dạy con.  Và cũng là để cho các con ăn vì chúng đang cai sữa.  Thịt cừu non dễ tiêu.
Trần Trận rất căm con sói, nhưng cậu thấy vãn còn may.  Gần đây cậu và Dương Khắc cứ hai ba hôm lại mất một cừu non, các cậu nghi cho chim ưng hoặc đại bàng bắt.  Loại giặc nhà trời này nhanh như chớp lao xuống quắp lấy một con cừu non rồi bay vút lên cao.  Nhưng khi chúng bổ nhào thì đàn cừu kinh hãi chạy tán loạn, các cậu không thể không biết.  Vì vậy, các cậu không hiểu cừu non vì sao mà mất?  Cho đến khi mục kích con sói dùng kỹ xảo bắt cừu và trông thấy cái hố, Trần Trận mới vỡ nhẽ.  Nếu không, con sói cái còn tiếp tục bắt trộm.
Mặc cho mọi người nhắc nhở, Trần Trận vẫn để xảy ra sai sót.  Binh vô thường pháp, sói thảo nguyên rất giỏi tùy cơ ứng biến, sử dụng rất nhiều đấu pháp.  Sói không có cánh nhưng cứ như từ trên trời rơi xuống, khiến anh trơ mắt ếch, không khôn cũng phải khôn ra.
Trần Trận vuốt ve con Mực, nó không tỏ vẻ hàm ơn.
Tuyết rơi, Trần Trận chui vào trong lều cùng Dương Khắc, Cao Kiện Trung uống trà, ăn thịt hun, ăn đậu phụ của Caxumai cho, bên bếp lò đun bằng phân ngựa.  Trần Trận lại thuyết phục Dương Khắc và Cao Kiện Trung cùng cậu đi bắt sói con.  Phải nuôi một con để có sự hiểu biết về sói, biết địch biết ta.
Cao Kiện Trung nướng thịt bên bếp lò, mặt ỉu xìu, nói: Bắt sói con đâu phải chuyện đùa.  Cách đây mấy hôm, các anh Lanmutrac hun khói một hang sói.  Sói mẹ liều chết chống lại, suýt cắn đứt cánh tay Lanmutrac, ba bốn mã quan, ngưu quan cùng bảy tám con chó xúm lại mới tóm được con sói.  Cái hang sâu quá, họ thay phiên nhau đào hai ngày mới thấy sói con.  Cừu mẹ bênh con dám húc người, sói mẹ bảo vệ con dám chết bỏ.  Chúng mình không có súng, chỉ dùng xẻng và roi ngựa thì làm sao đánh lại?  Đào hang sói đâu phải việc nhẹ, lần trước tôi đi cùng Tang Kiệt, đào hai ngày mà vẫn chưa tới ổ, cuối cùng đành hun khói rồi lấp hang, không hiểu sói con có chết không?  Tang Kiệt bảo, sói mẹ biết bị khói, trong hang có lỗ thông hơi ngầm.  Sói thường xuyên di chuyển chỗ ở.  Mục dân bắt sói con mà khó như thế, không hiểu chúng mình có làm nên trò trống gì không?
Dương Khắc trái lại rất vui.  Cậu bảo Trần Trận: Tớ sẽ đi với cậu.  Tớ có một cây gậy sắt, đầu vát nhọn như mũi giáo, đảm bảo gặp sói mẹ chiến đấu được.  Lại có cả dao quầm, giá gỗ có chân.  Giờ mà đánh bắt được một con sói gộc thì chúng ta tha hồ mà vênh váo!
Cao Kiện Trung trêu: Lại một tấc đến trời rồi!  Cẩn thận kẻo sói biến cậu thành "nhắm lại anh hùng có một người" - anh chột, thành chó dại, à mà không, thành sói điên thì rầy rà to!
Dương Khắc lắc đầu: Không sao, tớ cao số, hồi vũ đấu ở trường, tổ tớ có năm người thì bốn thằng bị thương, chỉ mỗi mình tớ là không việc gì.  Vì sao người ta cứ lo sợ vẩn vơ thế nhỉ?  Người Hán như cậu mới để cho dân du mục vào chiếm trung nguyên!  Lanmutrac bảo tớ là cừu ăn cỏ, anh ta là sói ăn thịt.  Ta mà bắt được sói con thì Lanmutrac không gọi ta là "đồ con cừu" nữa!  Tớ dám lấy một mắt để đánh cuộc!
Trần Trận nói: Được rồi, nói lời thì phải giữ lời, không được bỏ cuộc đấy nhé!
Dương Khắc dằn chén trà lên mặt bàn, hỏi: Khi nào đi?  Đi càng sớm càng tốt.  Để muộn thì có khi mục trường điều chúng mình đi vây ráp đàn sói.  Với lại, mình cũng thích công việc này lắm.
Trần Trận đứng lên nói: Vậy thì ăn xong đi luôn, phải trinh sát trước.
Cao Kiện Trung quệt mép, nói: Được, lại phải nhờ Quanbu chăn cừu hộ, vậy là bọn mình mất một ngày công.
Dương Khắc nói khảy: Lần kéo về một xe đầy ắp dê thì được bao nhiêu công điểm. Cậu keo kiệt thế?
Cao Kiện Trung và Dương Khắc đang chuẩn bị yên cương chợt thấy Bayan cưỡi con ngựa lông vàng chạy tới nói ông Pilich muốn gặp Trần Trận.  Trần Trận nói: Bố già chắc có chuyện quan trọng.  Dương Khắc nói: Chưa chắc đã phải chuyện vây ráp, cậu đi ngay đi, nhân tiện hỏi cách nào bắt sói con.
Trần Trận lập tức lên yên, Bayan thấp bé không lên ngựa được ở chỗ đất bằng.  Dương Khắc định bế Bayan lên yên nhưng cậu bé không chịu. Cậu dắt ngựa tới bên cỗ xe bò, trèo lên xe, lồng chân vào bàn đạp rồi nhảy lên ngựa.  Hai người ra roi cho ngựa phi nước đại.

________Hết chương 7_________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 17:44:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8

Đời Minh Đế nhà Đông Hán, các bộ Bạch Lang, Bàn Mộc phía tây quận Văn Sơn gồm một triệu ba mươi vạn hộ, sáu triệu nhân khẩu, tình nguyện quy thuộc nhà Hán.  Họ dâng tặng nhà vua ba chương thơ có tên "Bạch Lang ca", tỏ ý "Sói chúa trắng vì ái một (nhà Hán) mà về với chính nghĩa"...
                                                                                                                                                Trương Truyền Tỷ
                                                                                                               "Trung Quốc đại sử cương" Quyển thượng.


Trần Trận chưa xuống ngựa đã ngửi thấy mùi thịt mà không phải là mùi thịt cừu, bay ra từ trong lều ông già Pilich. Cậu lấy làm lạ, liền xuống ngựa bước vào.  Ông già Pilich bảo cậu đừng vào vội.  Trần Trận dừng chân, thấy các góc đông, tây, bắc của căn lều, các tấm thảm trải dưới đất đã được cuộn lên. Trên những tấm da ngựa chưa thuộc bầy la liệt những chiếc bẫy sói bằng thép, chí ít bảy tám cái.  Một nồi to trên bếp lò giữa căn lều sôi sùng sục, mùi thịt bay ra từ đấy.  Caxumai mồ hôi nhễ nhại, đang lúi húi thêm phân vào lò.  Đứa con gái năm tuổi của chị - Xixico đang chơi với một đống mạt chược, có đến sáu bảy mươi quân.  Batu ngồi bên lau bẫy, những vết thương trên mặt đang mọc da non.  Bà vợ ông Pilich tên Ơchi cũng đang lau chùi bẫy.  Trần Trận không biết ông già đang nấu thịt gì trong nồi.  Ông Pilich dẹp một chỗ cho Trần Trận ngồi.
Trần Trận pha trò: Bố ninh bẫy để ăn hả bố?  Răng cụ còn khoẻ gớm.
Ông Pilich cười tít, nói: Cậu mới đoán trúng một nửa.  Tôi đang luộc bẫy.  Răng của tôi thì không ổn rồi, chỉ có răng của bẫy là tốt.  Cậu xem đây, bẫy đầy răng.
Trần Trận ngạc nhiên hỏi: Bố luộc bẫy để làm gì?
Bẫy sói - Ông già Pilich chỉ vào nồi - Tôi kiểm tra cậu nhé, thịt gì trong nồi?
Trần Trận lắc đầu.  Ông già chỉ vào khay thịt để bên lò, nói: Đây là thịt ngựa tôi lấy từ hồ tuyết về.  Luộc một nồi thịt ngựa, lấy nước luộc bẫy sói.  Cậu biết vì sao lại phải làm thế không?  Là để bẫy khỏi gỉ.  Trần Trận hiểu ra, tỏ vẻ thích thú: Thế này thì sói dính bãy rồi, sói làm sao địch nổi người?
Ông già vê vê bộ ria bạc: Cậu nghĩ thế là không trị nổi sói.  Sói thính mũi hơn chó, hơi có mùi gì sắt là biết liền.  Có lần tôi chùi thật sạch, hơi sắt hơi người đều không có nhưng sói không dính bẫy.  Nghĩ mãi mới nhớ ra là hôm ấy đặt bẫy xong tôi vô ý nhổ đờm, nếu như có đờm trên tuyết thì cũng không sao, đằng này tôi lại dùng gót chân di đi rồi gạt tuyết lên, tưởng thế là ổn, ai ngờ sói đánh hơi thấy.
Trần Trận ngạc nhiên quá đỗi, than: Cái mũi của sói kinh khủng quá!
Ông già nói: Sói có linh tính, có thần bảo hộ, có  ma trợ giúp, rất khó chơi!
Trần Trận định hỏi tiếp về quỉ thần, nhưng ông gài đã quì xuống để vớt bẫy.  Bẫy sói khá cồng kềnh, mõi nồi chỉ luộc được một chiếc.  Trần Trận dùng thanh gỗ khều cái bẫy đặt xuống tấm vải đầu, rồi thả chiếc khác vào nồi.  Ông già nói: Hôm qua huy động cả nhà chùi cả ngày.  Luộc một lần rồi, lần này là lần thứ hai.  Chưa xong đâu, lát nữa còn phải trộn mỡ ngựa với lông bờm ngựa rồi chà kỹ lên bẫy.  Khi đặt bẫy phải đeo găng tay, rồi rắc phân ngựa khô lên trên.  Bắt sói như bắt giặc, không tỉ mỉ không thắng.  Tỉ mỉ hơn phụ nữ, hơn Caxumai ấy chứ!  Ông già vừa nói vừa cười.
Caxumai ngó Trần Trận bảo: Tôi biết chú đang muốn uống trà.  Tôi dở tay, chú tự lấy mà uống.  Trần Trận không thích uống nước gạo rang, chỉ thích ăn óc đậu do Caxumai làm.  Cậu xúc bốn năm miếng óc đậu rồi rót một bát đầy sữa.  Caxumai bảo, Batu định đi nhưng những vết thương trên mặt không cho phép ra khỏi nhà, đành để chàng  trai người Hán này đi.  Trần Trận cười: Hễ có chuyện liên quan tới sói là bố lại nhớ tới con, phải không bố?
Ông già nhìn Trần Trận, nói: Xem ra cậu đã mê sói rồi đấy.  Ta già rồi, muốn truyền nghề cho cậu.  Chỉ cần say mê là học được.  Nhưng cậu phải nhớ rằng sói là do trời sai xuống bảo vệ đồng cỏ, sói không còn thì thảo nguyên cũng không còn, người Mông Cổ không còn thì thảo nguyên cũng không còn.
Trần Trận sửng sốt: Bố bảo sói và người đều là vệ binh của thảo nguyên?
Ánh mắt ông già trở nên xa lạ.  Ông nhìn Trần Trận đăm đăm: Đúng vậy, nhưng cái lý này người Hán không hiểu đâu.
Trần Trận giật mình, vội nói: Bố ơi, bố cũng rõ là con phản đối kịch liệt chủ nghĩa Đại Hán.  Con cũng không tán thành đưa người lên thảo nguyên khai hoang.
Nét mặt giãn dần, ông già vừa chùi bẫy vừa nói: Mông Cổ người ít, bảo vệ đồng cỏ không dễ.  Không diệt sói, người Mông Cổ còn ít hơn nữa, mà diệt nhiều sói quá, dân số Mông Cổ cũng lại giảm.
Lời ông già có điều gì đó khó hiểu, Trần Trận đành bỏ dở câu chuyện.
Các bẫy đã xử lý xong, ông già bảo Trần Trận: Đi cùng tôi, cậu sẽ thấy phải làm như thế nào.
Ông xỏ đôi găng tay bằng vải bạt, đưa cho Trần Trận một đôi, rồi xách bẫy chui ra ngoài lều, đặt lên cỗ xe bánh sắt.  Sàn xe lót thảm đẫm mỡ ngựa.  Trần Trận cùng Batu khuân hết các bẫy ra xe, mỡ ngựa gặp lạnh đông lại thành một lớp phủ bên ngoài.  Khi các bẫy đã đưa lên hết, ông già trở lại lều lấy một túi phân ngựa khô đưa lên xe.  Mọi việc xong xuôi, ba người lên ngựa.  Caxumai gọi với: Trần Trận đừng để bẫy kẹp phải tay!  Cô dặn Trần Trận mà như dặn Bayan không bằng.
Trông thấy những chiếc bẫy, Balua và mấy con chó liền nổi máu săn, nhao ra định chạy theo.  Batu vội túm gáy con Balua, Caxumai cũng giữ rịt cổ một con khác.  Ông già Pilich nạt lũ chó ở nhà, rồi dắt con ngựa kéo cỗ xe bò, ba người ba ngựa chạy nước kiệu tiến về phía đầm lầy.
Tầng mây dày vẫn áp sát đỉnh núi, tuyết lại rơi nhẹ, bông tuyết khô và xốp.  Ông già Pilich ngửa mặt lên trời, chỉ lát sau mặt ông loáng nước.  Ông tháo găng xoè bàn tay hứng tuyết rồi chà lên mặt, nói: Mấy hôm nay bận quá quên cả rửa mặt.  Rửa mặt bằng tuyết thích thật.  Quanh quẩn suốt ngày bên bếp, mặt ám khói, phải rửa sạch mùi khói, công việc mới đảm bảo.
Bắt chước ông già, Trần Trận cũng rửa mặt.  Ngửi ống tay áo thấy có mùi khói của phân cừu, rất có thể vì chi tiết này mà tất cả biến thành công cốc.  Cậu hỏi ông già: Mùi khói trên người có sao không hở bố?
Ông già nói: Không sao, đi đường sẽ bay hết.  Nhớ là lúc đặt bẫy không được để vạt áo chạm vào thịt ngựa.
Trần Trận nói: Chơi nhau với sói quá mệt!  Đêm qua sói tru, chó sủa tới sáng, con chẳng ngủ được mấy tí.
Ông già nói: Thảo nguyên không như dưới xuôi.  Dưới xuôi người Hán có thể ngủ một giấc tới sáng.  Còn thảo nguyên là chiến trường, người Mông Cổ là những chiến binh, ông trời bắt phải thế.  Chỉ muốn ăn no ngủ kỹ thì không phải là chiến binh chân chính.  Phải học được cách nằm xuống là ngủ, có tiếng có sủa là mở mắt.  Sói ngủ nhưng hai tai vẫn dựng đứng, có động là bỏ chạy.  Muốn bắt sói phải có bản lĩnh hơn sói.  Ta cũng là một con sói già: ăn được, ngủ được, săn bắt được, tàn một tẩu thuốc đã được một giấc.  Sói Ơlon căm ta lắm, chắc chắn khi ta chết chúng sẽ ăn sạch không còn một mẩu.  Vậy là ta chầu trời rất nhanh.
Trần Trận vừa ngáp vừa nói: Bọn thanh niên trí thức chúng con ốm nhiều lắm, đã phải gửi về Bắc Kinh một cô.  Cứ đà này thì phải gửi về đến một nửa.  Con nhất định không cho sói ăn thịt.  Phải hỏa táng mới sướng!
Ông già cười hề hề: Người Hán lãng phí quá.  Chết mà cần quan tài làm gì.  Gỗ ấy đóng được bao nhiêu là xe bò.
Trần Trận nói: Con không cần quan tài, hoả thiêu trực tiếp là xong.
Ông già cười: Nhưng vẫn phải dùng rất nhiều củi đun, lãng phí quá.  Người Mông Cổ tiết kiệm làm cách mang, khi chết đặt lên xe bò chạy về hướng đông, rớt xuống chỗ nào đợi sói ăn ở chỗ ấy.
Trần Trận cũng cười: Nhưng mà thảo nguyên làm gì có gỗ  hả bố? Ngoài lý do lên chầu trời, phải chăng còn vì tiết kiệm củi, thảo nguyên không thấy có cây cối.
Ông già nói: Ngoài chuyện tiết kiệm củi, còn vì "ăn thịt thì phải trả bằng thịt"!
Ăn thịt phải trả bằng thịt, Trần Trận lần đầu tiên nghe câu này nên chưa hiểu.  Cậu vội hỏi: Ăn thịt trả bằng thịt là thế nào hả bố?
Ông già nói: Người thảo nguyên suốt đời ăn thịt, sát hại không biết bao nhiêu là sinh mạng, tội to đấy!  Vì vậy khi chết con người trả lại thịt cho thảo nguyên mới công bằng, linh  hồn không đau khổ trên thiên đường.
Trần Trận cười: Như vậy quả công bằng.  Nếu con không bị sói trả về Bắc Kinh thì con cho sói ăn thịt lại hóa hay.  Đàn sói chỉ một loáng là xong, nhanh hơn thiêu bằng củi.
Ông già rất vui, nhưng rồi ông lại lo: Trước kia thảo nguyên không nhiều người Hán.  Cả mục trường có trăm ba trăm tư gia đình, khoảng bảy tám trăm người Mông Cổ.  Trong cách mạng văn hóa, thanh niên trí thức Bắc Kinh lên đây trên một trăn, lại còn bộ đội, tài xế xe lớn xe nhỏ, thợ xây dựng... Họ đều ghét sói.  Rồi đây hết sói, cậu muốn cho sói ăn thịt cũng chịu.
Trần Trận cũng rất vui.  Cậu nói: Bố đừng lo, sau này có đánh nhau thì đánh bằng bom nguyên tử, người và sói chết sạch, chẳng còn ai ăn ai nữa.
Ông già khoát tay vẽ một vòng tròn, hỏi: Nguyên... nguyên tử là bom gì?
Trần Trận giải thích một hồi mà ông già vẫn không hiểu, đành thôi.
Sắp đến chỗ những con ngựa chết ở mạn bắc của đầm lầy.  Ông già để Bayan ở lại cùng với con ngựa kéo và cỗ xe.  Ông xách hai cái bẫy, một chiếc xẻng nhỏ, một túi phân ngựa khô, rồi cùng Trần Trận đi về phía những con ngựa đông cứng, lúc lúc dừng ljai, nghiêng ngó.  Mấy con ngựa đã bị đụng tới, những vết răng hằn rõ dưới lớp tuyết mỏng và những dấu chân sói xung quanh.  Trần Trận không nhịn được, lại hỏi: Sói đã đến hả bố?
Ông già không trả lời, tiếp tục quan sát, sau đó ông bảo sói lớn chưa tới.  Ulichi đoán đúng, đàn sói lớn vẫn còn ở phía bắc đường biên phòng, chúng quả thật kiên trì.
Những dấu chân sói này là thế nào hở bố? - Trần Trận chỉ những dấu chân trên tuyết, hỏi.
Ông già nói: Những dấu chân này phần lớn là của cáo, chỉ có một vết của sói mẹ.  Đây, phía này là một cặp sói mẹ sói con đi ăn lẻ - Ông già có vẻ suy nghĩ - Mình định bẫy sói đầu đàn hoặc sói gộc  trong đàn, nhưng đây toàn là dấu chân cáo, không có sói lớn.
Vậy là công cốc hả bố?
Không hẳn vậy, nhiệm vụ của mình là đánh lạc hướng đàn sói.  Thấy mình đánh bẫy, chúng tưởng rằng mình không tổ chức vây bắt, nên kéo về ăn thịt ngựa.  Khi chúng về ta mới bủa vây.
Trần Trận hỏi: Có cách nào bắt được một con sói lớn không bố?
Có thể - Ông già nói - Giăng tất cả số bẫy đem theo, chốt sâu một tí, cỡ cho sói và cáo không mắc.
Ông già cho ngựa dạo hai vòng quanh con ngựa chết, chọn điểm đặt bẫy.  Trần Trận vội xuống ngựa, xúc tuyết trên mặt rồi dùng cuốc chim đào một hố tròn đường kính bốn mươi phân, sâu chừng mười lăm phân, giữa hố còn đào một hố nhỏ.  Ông già đeo găng tay tẩm mỡ ngựa cầm bẫy đặt xuống hố, dùng chân lèn chặt hai bên lưỡi kẹp hình bán nguyệt rồi dùng sức banh lưỡi kẹp đầy răng cưa sang hai bên cho tới khi chạm đất.  Sau đó đặt miếng đệm vải hình tròn vào giữa lỗ tròn nhỏ, luồn chiếc tăm sắt dưới tấm đệm rồi luồn vào hố khẩu cái bẫy.
Trần Trận thấp thỏm theo dõi một loạt thao tác vô cùng nguy hiểm của ông già, chỉ cần sơ ý là gãy tay lập tức.  Ông già co chân ngồi xổm trên tuyết, mồ hôi rỏ giọt, thở phì phò.  Ông lấy ống tay áo lau mồ hôi trên mặt, không cho rớt xuống miếng thịt ngựa.  Lần đầu tiên theo ông già đi đặt bẫy, Trần Trận mới hình dung được con sói sập bẫy như thế nào.  Chỉ cần đặt chân lên miếng đệm vải rớt xuống, chiếc tăm bật khỏi hố khẩu, bộ lò xo thép với sức bật vải trăm cân đẩy hai hàm răng thép bập vào chân con mồi, gãy xương luôn.  Thảo nào sói rất sợ bẫy kẹp.  Cái hôm gặp đàn sói, nếu chúng không sợ tiếng va đập của sắt thép thì Trần Trận đã mất mạng.
Việc còn lại là nguỵ trang.  Cũng hết sức tỉ mỉ, không được sai sót.  Ông già bảo: Không phủ tuyết lên bãy, sức nặng của tueyest có thể làm rớt miếng đệ, hoặc nắng nóng làm tuyết tan ra nước, khiến bẫy bị kẹt vì đóng băng.  Cậu đưa cho ta túi phân ngựa.
Ông già đón lấy túi phân, bốc một nắm, vừa vê vừa rắc lên miếng đệm, phân mịn lấp kín các kẽ răng cưa và miệng bẫy.  Lúc này miếng đệm vẫn lửng lơ, không sợ phía trong đóng băng.  Rồi thì chiếc xích sắt của cái bẫy được móc vào bộ xương con ngựa chết, phủ tuyết mới lên trên.  Ông già bảo Trần Trận gạt tuyết lên bẫy, phủ kín bè và lò xo, lấy tuyết xốp rắc lên trên phân ngựa.  Cuối cùng dùng mảnh da cừu san nhẹ mặt tuyết phẳng như xung quanh.
Tuyết hoa vẫn nhẹ nhàng rơi.  Lát sau, tất cả các dấu vết trên mặt tuyết đều không nhìn thấy nữa.  Trần Trận hỏi: Cái bẫy này chỉ sói mới mắc, còn cáo thì không hả bố?  Ông già bảo: Đẩy cái then sắt sâu thêm một chút, cáo nhẹ đạp không tụt, sói nặng mới bật then ra.
Ông già nhìn quanh rồi tính cự li bằng bước chân, chọn một địa điểm cách chỗ cũ hai bước, đặt cái bẫy thứ hai.  Ông bảo: Cậu đặt đi!
Trần Trận hỏi: Sao hai bẫy đặt gần nhau?  Ông già nói: Cậu không biết, có con rất hung, nó cắn đứt cái chân mắc bẫy rồi bỏ chạy bằng ba chân còn lại.  Ta đặt thêm một bẫy để khi con sói giằng cái xích, chạy tới chạy lui để rút chân thì chân thì chân sau dẫm phải cái bẫy thứ hai.  Chỗ này vừa vặn chiều dài của cái xích.  Nếu  con sói bị kẹp hai chân thì dù nó cắn đứt cả hai, nó vẫn không chạy thoát.  Thử hỏi, chỉ còn hai chân thì chạy sao được?
Trần Trận rùng mình.  Cuộc chiến giữa người và sói trên thảo nguyên quả thực tàn khốc.  Cả sói và người đều dùng tàn bạo chống lại tàn bạo, tàn nhẫn chống tàn nhẫn, quỉ quyệt đối phó quỉ quyệt.  Nếu cứ tiếp tục lấy oán báo oán, gần mực thì đen, con người rồi sẽ biến thành sói, mặt sứa gan lim, không còn tình người.  Tuy rất căm thù sói, vậy mà khi đặt bẫy, tay cậu run lên.  Cái bẫy này rất hiểm.  Nó ở ngay phía trước con ngựa chết béo mập, rất hấp dẫn, chỉ ngửi thấy mùi thịt và phân ngựa, không thấy hơi người và mùi gỉ sắt.  Trần Trận tin rằng, con sói ranh mãnh nhất cũng bị đứt gân lòi xương, bị người ta lột lấy da, còn xác thì vứt trên đồng cỏ.  Đây mới chỉ bẫy một con, nếu trên quy mô lớn thì đâu chỉ vài con sa bẫy!  Cậu nghĩ tới biết bao nhiêu quân sĩ các triều Chu, Tần, Hán, Đường, Tống, Minh... bị dụ vào nơi thảo nguyên heo hút này rồi rơi vào cái bẫy sắp đặt tinh vinh mà toàn quân bị diệt.  Xưa kia kỵ binh thảo nguyên không chỉ dựa vào tính hung hãn mà đập tan quân đội của các nước tiên tiến.  Họ là những người bảo vệ thảo nguyên, họ học tài năng quân sự và trí tuệ của sói để giữ gìn thảo nguyên, đập tan các cuộc tấn công của sắt và lửa, cày và cuốc của người Hán vào thảo nguyên.  Ông già Pilich nói đúng.  Trần Trận nghĩ mà sợ.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 17:45:37 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8 (tiếp)

Ông già cười khà: Sợ rồi phải không?  Đừng quên thảo nguyên là chiến trường, kẻ nào sợ máu, kẻ ấy không phải chiến sĩ.  Sói dùng quỉ kế sát hại của ta cả một đàn ngựa, cậu có xót xa không?  Con người không giở độc chiêu thì không thể thắng sói.
Trần Trận bình tâm lại, cẩn thận gạt tuyết đào hố.  Khi đặt bẫy, tay cậu lại run, lần này thì sợ kẹp tay, vì đây là lần đầu.  Ông già vừa hướng dẫn, vừa nhét đầu gậy vào hố khẩu để bảo vệ cái tay Trần Trận phòng khi bẫy sập.  Cảm kích vì được bảo vệ, Trần Trận cố gắng đặt chính xác.  Lúc đứng lên lau mồ hôi, cậu trông thấy ông già mồ hôi nhiều hơn cậu.  Ông thở ra một hơi khoan khoái: Này con trai, ta hướng dẫn con đặt một cái nữa, đến cai thứ ba thì con tự làm lấy.  Ta thấy con đã thạo rồi đấy.  Trần Trận thưa vâng.  Cậu theo ông già trở lại chiếc xe lấy hai cái bẫy rồi chọn một con ngựa chết, xác định chỗ đặt bẫy.  Bốn chiếc bẫy còn lại, chia nhau mỗi người hai cái, đặt xong.  Ông già bảo bé Bayan phụ việc cho cậu.
Trời gần tối mà tuyết vẫn không tạnh.  Ông già cẩn thận kiểm tra từng chiếc bẫy của Trần Trận, cười vui: Không thể phát hiện ra.  Ta mà là sói thì cũng bị lừa.  Ông nhìn cậu đăm đăm, hỏi: Giờ thì làm gì?  Trần Trận nghĩ một thoáng, nói: Phải xoá sách dấu chân của ta, đếm lại dụng cụ, không được bỏ quên.  Ông già rất thỏa mãn: Cậu thành tinh rồi đấy!
Ba người bắt đầu từ phía bắc quét xuống, vừa quét vừa kiểm tra cho đến chỗ để xe thì dừng.  Trần Trận thu nhặt đồ dùng, hỏi ông già: Ngần ấy cái bẫy thì được mấy con hả bố?  Ông gài nói: Đi săn thì không được hỏi săn được mấy con, nếu kể số lượng ra thì không bắt được con nào hết.  Mưu sự tại người, thành sự tại trời!
Ba người lên ngựa ra về.
Ông già nói: Cho dù sói mắc bẫy, ta cũng không được đến lấy, phải để cho lũ sói nhìn thấy.  Không thấy người đến, chúng càng nghi tợn, và sẽ bám riết đàn ngựa chết.  Nhiệm vụ của ta là dụ được cả đàn sói về đây, chứ không phải chỉ bẫy vài con, mục trường yêu cầu như thế.  Phải đợi thôi, ngày mai cậu không cần đến, mình ta theo dõi từ xa là đủ.
Ba người ung dung ra về.  Trần Trận nghĩ tới đàn sói con, định bụng hỏi ông già cách đào bắt.  Bắt sói con là công việc nguy hiểm, nặng nhọc, kỹ thuật cao trong nghề săn.  Nó được coi như biện pháp chủ yếu ngăn chặn sự  phát triển vô độ của sói thảo nguyên.  Một ổ sói con có bảy tám con, có khi mười mấy con.  Thức ăn của sói vùng Ơlon rất phong phú, tỉ lệ trưởng thành cao.  Đầu xuân triệt một ổ, coi như trong năm diệt một đàn.  Để bảo vệ sói con, đàn sói rất lắm mưu và cả sự liều mạng.  Trần Trận đã được nghe không ít chuyện may rủi trong khi đào bắt, nên cũng đã chuẩn bị về tư tưởng.  Đã hai mùa xuân qua đi, hơn một trăm thanh niên trí thức wor mục trường chưa một ai bắt được một ổ nào.  Trần Trận cũng không mong tóm được cả ổ, mà chỉ mong được đi theo ông già vài chuyến để học nghề.  Nhưng sau sự cố đàn ngựa, ông già không còn thì giờ cho việc bắt sói con, Trần Trận đành hỏi kinh nghiệm ở ông.
Trần Trận hỏi ông già: Cách đây mấy hôm, một con sói mẹ đã cắp con cừu non chạy về phía núi Đen.  Con nghĩ ở đó có sói con nên định sáng mai đi tìm.  Con muốn được bố dẫn đi.
Ông già nói: Ngày mai thì không được rồi.  Chuyện ở nhà rất quan trọng, ban quản lý đang đợi tin ta.  Ông ngoảnh lại hỏi: Nó chạy về phía núi Đen hả? Vâng.  Ông già vê vê chòm râu hỏi: Thế lúc ấy cậu có đuổi theo không?  Trần Trận nói: Nó chạy nhanh quá, con không kịp lấy ngựa đuổi.  Ông già bảo: Như vậy còn được.  Nếu cậu đuổi theo, con sói sẽ đánh lừa cậu.  Nó không chạy về ổ, mà chạy đi hướng khác.
Ngẫm nghĩ một lát, ông già bảo: Con sói này khôn thật.  Mùa xuân năm trước, tôi đào bắt một ổ sói ở đó.  Năm nay không ai đến nữa, không ngờ con sói bất ngờ đẻ ở đấy.  Ngày mai cậu cứ đi, nhớ rủ thêm vài người, đem theo nhiều chó.  Phải chọn những người dũng cảm, có kinh nghiệm.  Không được đi một mình, rất nguy hiểm!
Đào bắt sói thì nguy hiểm ở chỗ nào hả bố?
Ông già nói: Đào bắt đã khó, nhưng tìm ổ còn khó hơn.  Ta mách cậu một cách: Sáng sớm mai.  Lúc còn tối đất, cậu trèo lên đỉnh đồi dưới chân núi Đen mà phục, đợi sáng ra, sau một đêm hoạt động kiếm mồi, sói mẹ trở về cho con bú, nó về chỗ nào, chỗ ấy có sói con.  Có điều khi thấy rồi đào bắt mới khó, sợ nhất là trong hang có sói mẹ.  Các cậu phải hết sức cẩn thận!
Mắt tối sầm, ông già có vẻ buồn: Nếu không vì chuyện đàn ngựa đã bị giết sạch, ta không muốn các cậu đi bắt sói con.  Người già Ơlon không bao giờ thích làm chuyện này.
Trần Trận không dám hỏi tiếp.  Ông già vốn đã khó chịu về chuyện phát động phong trào diệt sói con với quy mô lớn, hỏi nữa có khi ông không cho cậu đi.  Nhưng muốn trị sói thì phải có kiến thức, phải hiểu tập tính của sói, nên cậu định nuôi một con.  Nếu bây giờ không tranh thủ bắt ngay thì khi chúng mở mắt sẽ rất khó nuôi.  Dứt khoát phải nuôi từ lúc nó chưa mở mắt, chưa phân biệt bạn thù, chuyển nó từ thế giới của sói sang thế giới của người.  Cậu e tính cách hoang dã của sói khiến nó khó nuôi hơn chim sẻ.  Chim sẻ rất khó tính.  Bị giam trong lồng, nó nhắm tịt mắt, không ăn không uống chỉ chờ chết.  Sói con không dễ bắt như chim sẻ.  Nếu như tốn bao công sức mà chỉ vài ngày nó chết thì uổng công quá.  Trần Trận định bụng hỏi Batu.  Anh nổi tiếng khắp mục trường về tài săn bắt sói.  Mấy hôm trước bị sói cho một vố, anh đang tức, chắc chắn sẽ phổ biến kinh nghiệm cho cậu.
Về đến lều trời tối hẳn.  Căn lều đã được thu dọn, những tấm thảm đẹp đã được trả lại chỗ cũ, ba cây đèn mỡ cừu sáng rực, hai đĩa lớn thịt cừu, lòng cừu bốc hơi thơm phức.  Miệt mài cả ngày trời, ai nấy bụng đói meo.  Trần Trận cởi phăng áo ngoài, ngồi xuống bên bàn ăn.  Caxumai bê đĩa tràng - món cậu thích nhất, đặt trước mặt cậu; bê đĩa sườn cừu, món ăn ông già ưa nhất, đặt trước mặt ông già.  Sau đó, cô trộn xì dầu với tương nấm, món hỗn hợp Bắc Kinh - Mông Cổ mà Trần Trận ưa thích nhất, và đã trở thành món nước chấm thường xuyên của cả nhà.  Trần Trận gặp miếng tràng chấm nước chấm rồi đưa lên miệng, thơm ngon đến nỗi cậu nhất thời quên cả chuyện bắt sói con.  Tràng là phần ngon nhất trong nội tạng con cừu, chỉ dài một thước, gọi là "béo" nhưng chẳng béo chút nào, gần như toàn bộ phế thải tích tụ về đây, nhưng lại là món ngon nhất trong bữa ăn của người Mông Cổ, giòn và thơm, có mỡ nhưng không béo.
Trần Trận nói: Người Mông Cổ rất tiết kiệm, ngay cả hoành cách mô cũng không bỏ, mà cũng rất ngon.
Ông già gật đầu: Con sói khi đói ăn cừu cả lông, lẫn móng guốc.  Khi trời ra tai, người và sói đều kiếm ăn không dễ, phải ăn bằng hết những gì trên thân con cừu.
Trần Trận cười: Vậy là người Mông Cổ bắt chước sói, ăn cừu cả con!
Ông già cười, luôn miệng bảo đúng.  Trần Trận gắp miếng tràng thứ ba.
Caxumai rất vui.  Trần Trận nhớ có lần chị nói, chị thích những ông khách ăn hùng hục như sói.  Cậu hơi ngượng, thấy mình lúc này có vẻ giống sói.  Cậu biết cả nhà ông Pilich thích ăn tràng.  Vậy mà loáng cái, cậu đã ăn hết quá nửa.  Caxumai nhổm dậy, dùng dao rạch khoang bụng dưới con cừu, lấy ra một cái tràng nữa, cười bảo: Biết cậu đến là không định đi đâu nữa, nên luộc hai cái, một cái phần cậu.  Cậu nên học tập sói, ăn bằng hết.  Cả nhà cười, Bayan vội gặp miếng tràng vào đĩa thịt trước mặt.  Đã hai năm mà Trần Trận vẫn chưa phân định được vai vế của Caxumai đối với cậu.  Caxumai đáng tuổi chị dâu, nhưng có lúc cậu có cảm tưởng chị gái, có lúc lại như em gái, như bà dì, như bà trẻ.  Caxumai vui vẻ hồn nhiên và phóng khoáng như thảo nguyên.
Trần Trận ăn hết cái tràng, bê bát trà sữa uống hết một nửa, hỏi Caxumai: Bayan dám tóm đuôi sói, dám vào hang bắt sói con, dám cưỡi ngựa chưa thuần, liệu còn chuyện gì đáng ngại không?
Caxumai cười: Người Mông Cổ ai cũng thế từ bé.  Batu hồi nhỏ còn bạo gan hơn Bayan.  Cái hang mà Bayan chui vào không có sói mẹ, sói con thì chưa biết cắn, nên chẳng có gì ghê gớm.  Còn Batu thì trong hang có sói mẹ, anh ấy tóm lấy sói mẹ lôi ra khỏi hang nữa kìa.
Trần Trận ngạc nhiên.  Cậu vội hỏi: Chuyện này sao anh chưa nói.  Kể đi anh.
Batu cười, tợp một ngụm rượu, kể: Năm ấy mình mười ba tuổi.  Bố và mọi người tìm suốt mấy ngày mới tháy một hang sói con.  Hang to và sâu, không đào được.  Bố sợ có sói mẹ nên cho hun  khói.  Khi hết khói mà vẫn không thấy sói mẹ chạy ra, mình cầm đuốc và bao tải chui vào hang.  Nào ngờ vừa chui được một khoảng thân người rưỡi thì mình trông thấy cặp mắt con sói chỉ cách hai thước, mình sợ suýt bĩnh ra quần, vội huơ cây đuốc, thấy con sói cũng đang run cầm cập.  Khi sợ, chó và sói có điệu bộ giống nhau: cụp đuôi giữa hai chân sau.  Mình không dám động đậy.  Lửa đuốc vừa tắt, con sói liền xông ra, mình không kịp rút, bụng nghĩ phen này chắc chết.  Không ngờ con sói không định cắn, mà định nhảy qua đầu mình vọt ra ngoài.  Khi ấy mình sợ bên ngoài không kịp đối phó, sợ sói cắn phải bố, và không hiểu vì sao mình bạo gan đến thế, mình nhổm dậy đội đúng chỗ họng con sói, ép đầu nó lên nóc hang.  con sói bị kẹt, cào cấu lung tung, quần áo mình rách tơi tả.  Mình cũng đánh liều, ngồi thẳng lên cho đầu tìn giữa hàm dưới con sói, ép chặt hơn nữa đầu nó vào nóc hang, rồi ngồi thở, mệt đứt hơi.  Batu kể lại một cách bình thản, y như chuyện của người khác:  Bên ngoài đợi rất lâu không hiểu vì sao không thấy ra.  Bố vội chui vào giơ đuốc soi thấy mình và con sói thì sợ toát mồ hôi, vội bảo mình ngồi yên rồi ông ôm eo mình lôi dần ra.  Mình vừa tì chắc cái đầu con sói lên nóc hang, vừa lôi hai chân trước của nó, lôi nó ra từng tí.  Khi ra đến mép hang, mọi người mới rõ chuyện, liền đâm một nhát xuyên từ miệng ra phía sau đóng đinh lên nóc hang, sau đó lôi hẳn nó ra ngoài, đập chết.  Sau khi nghỉ cho lại sức, mình lại chui vào hang.  Càng vào trong càng hẹp, chỉ trẻ con mới vào được.  Bên trong cùng hóa ra rất rộng, mặt đất trải đầy da và lông cừu, một đàn sói con đang nằm thu lu, tất cả chín con, đều còn sống.  Để bảo vệ lũ con, sói mẹ lấp quá nửa chiều cao của hang, con mẹ ở phía ngoài.  Khi hun khói, nhờ mấy lỗ thông hơi nên khói tản đi nơi khác.  Mình phá cái đập chắn, lôi từng con ra nhét vào bao tải rồi lôi ra ngoài hang...
Trần Trận nín thở nghe Batu kể.  Mọi người hình như không muốn nhớ lại chuyện này nên nghe có vẻ thờ ơ.  Trần Trận thấy câu chuyện không giống chút nào với những chuyện bắt sói mà cậu được nghe, liền hỏi: Em nghe nói sói mẹ rất dữ khi bảo vệ con, dám cắn người, vậy sao con này lại không dám?
Ông già nói: Thực ra sói thảo nguyên sợ người.  Chỉ có người mới đánh chết sói.  Con sói mẹ đã bị choáng váng vì khói, lại thấy người cầm đuốc chui vào, sao nó không sợ?  Con này tuy to xác nhưng xem ra nó mới hai tuổi, đẻ lứa đầu.  Rất đáng thương, hôm nay cậu không hỏi thì chẳng ai muốn nhắc đến nó.  Caxumai không còn tươi cười như lúc thường, mắt cô có ngấn nước.
Bayan nói với Caxumai: Ngày mai chú Trận lên núi đào sói, con định giúp các chú một tay.  Các chú to con chui không lọt hang sói.  Đêm nay con ngủ cùng các chú để mai đi sớm.  Caxumai nói: Được cho con đi nhưng phải cẩn thận đấy.  Trần Trận vội xua tay: Đừng, đừng đi, em sợ có chuyện gì xảy ra.  Chị chỉ có mỗi cục cưng này.  Caxumai nói: Xuân này tổ mình mới đào bắt được một ổ, còn thiếu ba ổ nữa.  Không đào cho đủ, ông Bao Thuận Quý lại tế cho.  Trần Trận nói: Thôi chị ạ, thiếu thì thiếu, em vẫn không thấy nên cho cháu đi.  Thà không đi còn hơn.  Ông già ôm Bayan vào lòng nói: Bayan không cần đi, chắc chắn ta sẽ có một hai con sói lớn.  Không nộp da sói con thì thay bằng da sói lớn vẫn hoàn thành định mức.

_________Hết chương 8________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 17:46:28 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9

Xưa, ông tổ người triều Nguyên là con trai của một cặp mà chồng là sói xám, vợ là hươu trắng, sau khi phối giống vượt sông Tăngchiso, rồi lại vượt nguồn Cannan đến trước dãy Bunhan thì ở lại, mà sinh ra, tên Bataxihan.
                                                                                                    Trích dẫn Dư Đại Quân dịch chú "Mông Cổ bí sử"

Ba rưỡi sáng, Trần Trận và Dương Khắc đem theo hai chó săn, lặng lẽ trèo lên đỉnh đồi kề bên dãy núi Đen.  Hai con ngựa đã được cột  chân ở một chỗ khuất phía sau.  Con Nhị Lang và con Vàng rất nhạy cảm, thấy ra đi từ đêm, chúng biết là đi săn, giờ đây chúng nằm im trên tuyết, cảnh giác nhìn tứ phía.  Mây dày che khuất trăng sao.  Thảo nguyên tối đen, giá lạnh và đáng sợ.  Trong khuôn viên mấy chục dặm vuông mà chỉ có hai người, mà lại là lúc sói thường xuất hiện, thấy người là tấn công.  Dãy Đen như những con thú khổng lồ đè nặng phía sau, khiến Trần Trận sống lưng lạnh toát.  Cậu lo cho hai con ngựa, và bắt đầu sợ cho hành động phiêu lưu của mình.
Bỗng có tiếng tru của sói từ phía đông bắc vọng tới, trầm như tiếng tiêu, dài lê thê, dư âm ba bốn phút sau mới tắt.  Rồi lại có tiếng chó đàn cùng sủa từ xa vọng lại.  Hai con chó nằm bên Trần Trận vẫn im lặng.  Chúng biết quy tắc: Nếu là canh đêm thì phải sủa như điên, nhưng nếu là mai phục chờ lệnh tấn công thì phải im như thóc.  Trần Trận luồn tay dưới nách con Nhị Lang, tay kia ôm lấy cổ nó.  Trước khi lên đường, Dương Khắc  đã cho hai con chó ăn lửng dạ, vì ăn no khiến chúng lười nhác, mất ý chí chiến đầu, ăn đói khiến chúng đuối sức.  Thức ăn đã phát huy tác dụng trong cơ thể con Nhị Lang: Tay Trần Trận ấm sực, cậu úp lòng bàn tay lên cái mũi lạnh ngắt của con chó.  Nó vẫy đuôi khẽ.  Có con chó săn bên mình, Trần Trận thấy đỡ lo.
Sau mấy ngày đêm bận tối mắt tối mũi, Trần Trận rất mệt.  Tối hôm kia, Dương Khắc rủ mấy thanh niên người Mông đi bắt sói con, nhưng họ không tin ở núi Đen có ổ sói nên không ai chịu đi cùng, lại còn khuyên hai người đừng đi mà phí công.  Hai người không chịu, quyết đi bằng được.  Vậy nên lúc này chỉ có hai con chó nhà làm bạn, hơi đơn độc, thiếu khí thế.
Dương Khắc ôm chặt con Vàng, bảo nhỏ Trần Trận: Đừng sợ.  Sắp sáng rồi.  Ban ngày sói sợ người, ta còn đem theo cả thòng lọng.
Trần Trận cũng run như con Vàng, cậu cố trấn tĩnh, nói: Chúng mình như bộ đội đặc công hoạt động sau lưng địch, hết cả ngái ngủ.
Dương Khắc cũng cố tỏ ra cứng cỏi: Đánh sói như đánh giặc, cả đấu trí lẫn đấu lực, trong 36 chước chỉ trừ mỹ nhân kế, những kế còn lại đều có thể thi thố.  Bố Pilich quả thật đa mưu, phải cho chúng một trận mới hả.
Trần Trận nói: Nhưng mà đừng có chủ quan, mình thấy 36 chước vẫn chưa đủ để đối phó với sói.
Dương Khắc nói: Đúng vậy.  Chúng mình đang dùng kế lợi dụng sói mẹ về cho con bú để tìm hang sói đấy thôi.
Trần Trận nói: Lũ sói sát hại nhiều ngựa quá, bố Pilich quá bức xúc mà phải ra tay đấy thôi.  Hôm nọ mình đi đặt bẫy mới biết nhiều năm nay ông già không bẫy sói.  Ông không có ý tuyệt diệt họ nhà sói.
Trời rạng dần, dãy núi Đen không còn giống những con thú khổng lồ nữa, hiện nguyên hình núi đá.  Từ phương đông, những tia sáng xuyên qua màn mây mỏng, ngày càng loang rộng trên thảo nguyên.  Người và chó phủ phục trên tuyết, Trần Trận chĩa ống nhòm quan sát tứ phía, mù quá dày, mọi vật không nhìn rõ.  Cậu chỉ lo sói mẹ được sương mù che chở lúc này trở về hang, thì cả một đêm thức trắng trở thành công cốc.  May mà mù tản nhanh, biến thành màn sương mỏng, lượn lờ trên mặt cỏ.  Nếu có thú đi qua, màn sương lay động là biết liền.
Bỗng con Vàng ngoảnh nhìn phía tây, lông gáy dựng lên, toàn thân căng thẳng.  Con Nhị Lang cũng ngoảnh nhìn về hướng con Vàng.  Trần Trận biết có chuyện, vội chĩa ống nhòm nhìn theo, nơi có vạt đất lau lách mọc đầy, nối liền chân núi với đồng cỏ, chạy dài theo hướng đông bắc.  Đây là nơi vắng vẻ, khuất gió, là bức màn ngụy trang mỗi khi sói xuất kích trên thảo nguyên.  Ông già Pilich nói, mùa đông và mùa xuân, đây là nơi sói ẩn nấp, di chuyển và ngủ; đồng thời cũng là bãi săn của dân du mục.  Con Vàng và con Nhị Lang rất có thể đã nghe thấy tiếng chân của sói trong bãi lau.  Thời gian đúng, phương hướng đúng, Trần Trận tin chắc con sói mẹ sắp về ổ.  Cậu quan sát cẩn thận bên rìa vạt lau, đợi sói mẹ xuất hiện.  Người già nói không sai, bãi sậy trũng, mùa xuân ngập nước, sói không làm ổ ở đấy.  Ổ sói thường ở chỗ cao, tránh lũ.  Trần Trận cho rằng, dù con sói xuất hiện ở hướng nào thì ổ sói vẫn ở sườn núi gần đó.
Hai con chó săn nhìn không chớp vào một bụi cây sậy.  Trần Trận nhìn theo. Cậu giật thót: Một con sói lớn ló nửa người ra ngoài, nhìn tứ phía.  Hai con chó săn lập tức nằm thấp hơn nữa, cằm sát đất.  Cậu và Dương Khắc cũng nằm xuống.  Con sói quan sát tứ phía trong  một thoáng rồi ra khỏi bụi cây, chạy một mạch về cái khe phía đông bắc.  Trần Trận vẫn dùng ống nhòm theo dõi con sói.  Cậu thấy con này hao hao giống con sói đã bắt con cừu của cậu.  Con sói chạy nhanh nhưng dáng kềnh càng, hẳn là đêm qua nó đã bắt trộm cừu, no cành hông.  Cậu nghĩ, nếu hôm nay chỉ mỗi con sói này thì chẳng có gì đáng sợ.  Hai người hai chó, nhất là có ocn Nhị Lang, chắc chắn đối phó tốt.
Con sói mẹ trèo lên một cái dốc nhỏ.  Chỉ cần xem nó rẻ hướng nào là có thể đoán ra vị trí cái hang.  Nhưng đúng lúc ấy, con sói quay lại  nhìn tứ phía, và nhìn rất lâu về phía hai người và hai con chó đang mai phục.  Trần Trận căng thẳng đến nghẹt thở, chỗ đứng của con sói cao hơn dưới vạt sậy.  Dưới vạt sậy, nó không nhìn thấy người, nhưng trên đỉnh dốc này, rất có thể nó nhìn thấy.  Con sói tỏ vẻ sốt ruột, nó chjay quanh tại chỗ hai vòng trù trừ một thoáng rồi bất chợt men theo con dốc thoai thoải chạy một mạch về phía đông, dừng lại ở một cửa hang rồi chui tọt vào trong.
Ngon rồi, ta có thể vớ cả ổ rồi! - Dương Khắc vỗ tay reo lên.
Trần Trận cũng phấn khởi vùng dậy: Lên ngựa mau!
Hai con chó cuống quýt chạy quanh, hắt hơi liên tục đợi lệnh chủ.  Trần Trận bối rối quên cả khẩu lệnh, vội chỉ tay về phía hang, miệng quát: Bắt lấy nó!  Hai con chó lập tức chạy bay xuống dốc, phóng thẳng về phía cái hang.  Hai người cũng chạy xuống chân đồi cởi dây buộc chân ngựa, lên yên, ra roi phóng tới.  Hai con chó đã tới, chõ vào miệng hang mà sủa dữ dội.  Trần Trận trông thấy con Nhị Lang chồm tới rồi lại lui ra nhưng không dám chui vào sâu trong hang.  Con Vàng thì đứng bên sủa gay gắt trợ oai,  hai chân cào đất tung toé.  Hai người nhào xuống ngựa, chạy tới miệng hang chợt giật thót: Hang hình bầu dục, rộng khoảng tám mươi phân, con sói cái đang án ngữ đường vào hang, điên cuồng cắn trả con Nhị Lang.  Nó còn nhô hẳn nửa người ra ngoài miệng hang, sau khi con Nhị Lang buộc phải rút lui.
Trần Trận quãng cây thòng lọng, vớ lấy chiếc cuốc chim nhằm đầu con sói bổ xuống.  Con sói phản ứng rất nhanh, lưỡi cuốc mới giáng xuống nửa chừng, nó đã rụt đầu vào bên trong rồi lại nhe răng xông ra.  Dương Khắc bổ một nhát nhưng cũng bị hụt.  Mấy bận như thế, cuối cùng Trần Trận cũng đập trúng đầu con sói.  Dương Khắc cũng đập trúng một nhát.  Nhưng con sói vẫn rất hung hãn.  Nói lùi sâu khoảng một mét, đợi con Nhị Lang xuống theo liền đợp một phát giữa ngực.  Con Nhị Lang máu me đầy mình rút ra ngoài, mắt long sòng sọc, sủa lên mấy tiếng rồi lại chui vào, bên ngoài chỉ còn trông thấy cái đuôi phe phẩy.
Trần Trận chợt nhớ tới cây thòng lọng, liền nhặt lên.  Dương Khắc hiểu ý, giục: Phải đấy, tròng lấy cổ nó.  Trần Trận tròng dây thòng lọng vào miệng hang, con sói chui ra sẽ mắc cổ, khi ấy có thể dùng cuốc chim cùng với hai con chó để hạ gục con sói.  Trần Trận căng thẳng tới mức thở không ra hơi.  Nhưng cậu chưa kịp đặt ngay ngắn cái thòng hình bán nguyệt vào miệng hai thì con Nhị Lang đã vướng vào chân sau, tiếp theo, con sói máu me đầm đìa nhảy vọt ra, chân sau dẫm lên cây thòng.  Con sói trông thấy cây thòng, run lên như bị điện giật, lập tức chui trở vào, không dám ló đầu ra nữa.  Trần Trận ngó vào, cái hang dốc khoảng 35 độ, sâu hai mét thì rẽ, không hiểu bên trong còn sâu bao nhiêu.  Dương Khắc nổi cáu  quát liền ba tiếng vào trong hang.  Tiếng quát chui vào đất, không một tiếng vọng.  Trần Trận ngồi phệt bên miệng hang than thở: Mình ngốc quá, đặt thòng lọng ngay từ đầu thì con sói này toi rồi.  Đúng là phải linh hoạt, không được sơ sểnh một li.
Dương Khắc còn buồn hơn, cậu bổ một nhát cắm cuốc chim xuống đất, chửi: Mẹ kiếp, con sói này khinh mình quá.  Mình mà có súng, phải bắn bể sọ nó ra!
Trần Trận nói: Đã có lệnh cấm nổ súng, vì đây là tuyến một.  Cậu có súng cũng bằng thừa.
Dương Khắc nói: Thế này thì lôi thôi rồi.  Hay là ta đánh bằng pháo nhị thanh?
Thì cũng khác gì nổ súng - Trần Trận trấn tĩnh lại, hạ giọng nói: Nếu làm kinh động đàn sói trên đường biên, kế hoạch vây bắt sói phá sản, chúng mình sẽ bị chửi mất mặt.  Với lại pháo nhị thanh, sói không chết.
Dương Khắc không chịu, nói: Không chết thì cũng sợ mất mặt.  Đây cách đường biên bảy tám mươi dặm, sói không nghe thấy tiếng nổ.  Nếu cậu còn ngại thì ta lấy áo khoác bịt kín miệng hang.  Bên ngoài không nghe thấy gì đâu.
Trần Trận hỏi: Nếu nó không ra thì sao?
Dương Khắc vừa cởi thắt lưng vừa nói: Ra là cái chắc.  Tớ nghe mã quan nói, sói rất sợ tiếng nổ và mùi thuốc súng.  Chỉ cần thả vào trong hang ba quả pháo nhị thanh là có sáu tiếng nổ.  Hang kín, tiếng nổ to gấp ba bốn lần ngoài trời, sói dứt khoát bị choáng.  Hang hẹp khói đậm, sói sẽ bị sặc.  Tớ đánh cuộc là chỉ ba quả nhị thanh này là nó phải trườn ra cho cậu chộp.  Cậu cứ đợi. Tớ cho là sẽ có cả sói con cùng chạy ra, ta vớ cả mẹ lẫn con.
Trần Trận nói: Vậy thì làm theo ý cậu, nhưng phải chuẩn bị kỹ một tí.  Đế tớ xem còn lối thoát nào nữa không?  Thỏ khôn có tới ba cái hang.  Sói lại càng ranh ma, chắc không chỉ có một hang.  Người khôn đến mấy cũng vẫn thua sói.
Trần Trận lên ngựa dẫn theo hai con chó đi vòng tròn lấy miệng hang làm trung tâm, rà soát kỹ xung quanh. Tuyết trắng, hang màu đen, nếu có rất dễ phát hiện.  Nhưng trên một diện tích hàng trăm mét vuông không thấy cái hang nào.  Trần Trận xuống ngựa, dẫn hai con ngựa ra một chỗ xa, cột chân lại rồi cậu qauy về chỗ miệng hang, đặt thòng lọng, bày búa chim và gậy.  Cậu thấy con Nhị Lang cắm cúi liếm vết thương.  Nó lại bị con sói cắn một miếng nữa giữa ức, vết rách to bằng hai ngón tay, thịt đang co giật.  Nó rất đau nhưng không hề rên la.  Hai người không đem theo bông băng, đành giương mắt mà nhìn con Nhị Lang tự chữa chạy bằng phương pháp cổ truyền của họ nhà chó: giảm đau bằng cách liếm và khử trùng bằng nước bọt.  Đành để về nhà băng bó vậy.  Xem ra tất cả những vết sẹo trên mình nó đều do sói cắn, thảo nào trông thấy sói là nó nổi hung.  Trần Trận thấy mình trước đây đã hiểu sai con chó.  Nó đúng là giống chó Mông Cổ, dữ hơn sói.
Dương Khắc đã chuẩn bị xong.  Cậu khoác áo da, tay cầm ba quả pháo nhị thanh cỡ lớn, miệng ngậm điếu thuốc lá thơm Hải Hà đã châm lửa.  Trần Trận vừa cười vừa nói: Làm như dưới dang là giặc Nhật không bằng.  Dương Khắc cười hì hì: Mình nhập gia thì phải tùy tục, bài bản y chang dân địa phương.  Trong anhg không có thiết bị ngăn sóng âm đâu mà lo.  Trần Trận bảo: Được rồi, ném vào đi!  Xem có ăn thua gì không?
Dương Khắc dùng điếu thuốc đang cháy châm ngòi pháo rồi ném vào trong hang.  Cậu châm ngòi rất nhanh hai quả pháo còn lại.  Ba quả pháo lăn theo độ nghiêng vào sâu trong hang.  Dương Khắc lập tức lấy áo khoác da bịt kín miệng hang.  Chỉ lát sau, những tiếng nổ trầm đục từ dưới vọng lên, sáu tiếng tất cả.  Quả núi rùng mình, mùi lưu huỳnh sặc sụa.  Chưa khi nào có tiếng nổ lớn như thế trong những hay sói Mông Cổ.  Tiếc rằng hai cậu không nghe thấy tiếng gào thét của sói mẹ sói con dưới hang sâu.  Hai người còn ngửi thấy mùi hôi xộc lên mũi.
Dương Khắc hai tay ôm chéo bờ vai cho đỡ lạnh, hỏi Trần Trận khi nào thì bỏ áo ra.  Trần Trận nói: Lát nữa.  Trước tiên phải mở hé, khi thấy khói bay ra thì hãy mở hẳn.  Trần Trận vén một góc lên, có khói nhưng không đáng kể nên đậy lại.  Thấy Dương Khắc bị lạnh, Trần Trận cởi dây lưng, định bụng hai người khoác chung một áo.  Dương Khắc xua tay: Cẩn thận, nó sắp lên đấy. Cậu mà bỏ dây lưng thì áo xoè ra, rất vướng.  Kệ mình, không lạnh lắm đâu.
Hai người đang nói chuyện chợt thấy con Vàng và con Nhị Lang đứng vụt dậy nhìn ra hướng tây bắc, miệng gừ gừ ra vẻ bồn chuột.  Hai người nhìn theo, chợt thấy mặt đất cách chỗ cậu đứng hai chục mét bay lên sợi khói màu xanh nhạt.  Trần Trận bật lên tiếng kêu: Hỏng rồi, ở đấy có hang.  Cậu canh chừng ở đây để tớ đi xem sao.  Trần Trận vừa nói vừa cầm lấy cuốc chim chạy đi, hai con chó chạy theo.  Đúng lúc ấy, một con sói lớn ý hệt quả tên lửa đất đối đất, đội đất vọt lên ở chỗ có khói, chạy thục mạng vào bãi sậy và mất hút trong đó.  Con  Nhị Lang bám riếtphisa sau, nhìn xa thấy ngọn lau rẽ thành một vệt lên phía bắc.  Trần Trận sợ có chuyện bất trắc liền quát con Nhị Lang quay về.  Có thể con Nhị Lang đã nghe thấy  tiếng gọi nhưng ham mồi vẫn cứ đuổi.  Con Vàng chạy tới bãi sậy nhưng không dám vào, sủa vài tiếng lấy lệ rồi rút.
Dương Khắc vừa mặc áo ngoài vừa chạy tới chỗ rỉ khói.  Trần Trận cũng chạy theo.  Cả hai giật mình khi trông tháy một cái hang đất đá đều mới, rõ ràng là con sói vừa đào trong lúc nguy cấp.  Chỗ này vốn là đất bằng, nhưng khi xảy ra cuộc chiến, liền biến thành đường hầm.
Dương Khắc tức đỏ mắt, chửi: Con sói chết tiệt!  Nó giỡn mặt chúng mình.
Trần Trận thở dài, nói: Thỏ có ba hang nhưng đều trông thấy được.  Còn sói thì không biết có bao nhiêu hang?  Cái hang này có tính toán hẳn hói, cậu xem, miệng hang liền kề cái dốc chạy thẳng xuống bãi sậy, con sói chui ra chỉ vài bước là an toàn.  Con này chỉ số thông minh rất cao, tính toán giỏi hơn thỏ.  Sói quả là nhà quân sự bậc nhất trong thiên hạ.  Bao Thuận Quý có nói sói biết đánh gần, đánh đêm, đánh tập kích, đánh du kích, đánh vận động chiến.  Khi gặp, cậu nói với ông ta: Sói còn biết đánh địa đạo chiến, ú tim chiến, lại biết kết hợp cả hai phương thức tác chiến địa đạo và ú tim.
Dương Khắc vẫn chưa hết bực: Phim ảnh về đánh du kích ở đồng bằng Hoa Bắc phét lác một tấc đến trời, khoe đó là phát minh lớn trong thiên hạ, thực ra sói đã nghĩ ra cách đây hàng ngàn năm.
Chịu thua rồi chứ?  - Trần Trận sợ Dương Khắc bỏ cuộc - Bắt sói đâu có dễ, một người làm không nổi.
Không thua. Chăn cừu vốn là công việc buồn tẻ, giờ có dịp đấu trí đấu dũng với sói, thích lắm.  Tớ là dương quan, chăn cừu đuổi sói là nhiệm vụ của tớ.
Hai người tới bên miệng hố.  Khói đã nhạt nhưng mùi thuốc súng thì vẫn nồng nặc.  Dương Khắc ngó vào trong hang, nói: Lẽ ra lũ sói con đã phải ra rồi.  Nổ to như thế, mùi cay như thế, chúng chịu sao nổi.  Hay là chết cả rồi?
Trần Trận nói: MÌnh cũng nghĩ vậy.  Đợi nửa tiếng nữa mà không thấy ra là gay rồi.  Hang sâu thế này thì đào làm sao, tốn công hơn đào giếng.  Chỉ hai chúng mình phải ba ngày ba đêm chưa chắc đã tới nơi.  Bộ móng của sói mới khiếp chứ, đất đá này mà đào hẳn một đường hầm to đùng.  Nhưng mà này, nếu sói con chết cả rồi thì đào làm gì?

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 17:47:25 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9 (tiếp)

Dương Khắc thở dài: Giá có thằng nhỏ Bayan ở đây thì hay quá, nó mới chui vào được.
Trần Trận thở dài, nói: Có thằng Bayan ở đây tớ cũng không dám bảo nó chui vào.  Cậu dám đảm bảo bên trong không có sói lớn?  Người Mông cũng có nhiều chuyện gay cấn lắm.  Caxumai chỉ mỗi thằng nhỏ mà đành để nó kéo đuôi con sói, rồi thì chui xuống hang bắt sói con.  Xưa kia Trung Quốc có câu "Tiếc con thì không bắt được sói", xem ra câu này hẳn là của người Mông Cổ trên thảo nguyên.  Mông Cổ thống trị Trung Quốc gần một trăm năm.  Trước kia mình không hiểu ý nghĩa của câu này, không đành lòng cho trẻ đánh nhau với sói, chẳng lẽ dùng trẻ nhỏ làm mồi nhử sói?  Về sau mình mới hiểu, vì sao phải cho trẻ con mạo hiểm vào  hang sói, một là, hang sói chật, trẻ con mới chui lọt, hai là rèn luyện lòng can đảm.  Nếu người Mông o bế trẻ con như người Hán thì dân tộc Mông lụn bại từ lâu.  Vậy nên trẻ con Mông Cổ lớn lên đứa nào cũng dũng mãnh.
Dương Khắc vẫn cay cú: Mẹ kiếp, sói thảo nguyên quả lợi hại.  Khả năng sinh sản đã lớn hơn người Hán, đã vậy lại còn đào những cái hang vững chắc như thế này để bảo vệ con.  Mình e công sức bỏ ra là công cốc.  Ta ăn chút gì đi, mình đói bụng rồi.
Trần Trận đến chỗ con ngựa lấy túi vải bạt đem về cửa hang.  Con Vàng trông thấy cái túi màu vàng dính đầy mỡ thì mừng quýnh, vẫy đuôi chạy tới ư ử đòi ăn.  Đây là cái túi đựng thức ăn chuẩn bị cho hai con chó.  Trần Trận mở miệng túi bốc ra non nửa số thịt vụn cho con Vàng, chỗ còn lại dành cho Nhị Lang.  Giờ này mà con Nhị Lang chưa quay lại, Trần Trận lo thay cho nó.  Vào mùa đông và mùa xuân, bãi sậy là địa bàn hoạt động của bầy sói.  Nhị Lang bị con sói mẹ dụ vào đấy, chắc dữ nhiều lành ít.  Nhị Lang là quân chủ lực bảo vệ đàn cừu, bây giờ mà mất nó thì thiệt to.
Con Vàng vừa ăn vừa vẫy đuôi.  Nó rất nhanh nhẹn và rất dũng cảm khi gặp thỏ, cáo, dê vàng.  Nhưng khi gặp sói nó biết cân nhắc tình thế, nếu sói ít chó nhiều là nó lập tức lao lên đánh vỗ mặt; nhưng nếu chó ít sói nhiều, nó không đơn thương độc mã xông lên.  Vừa rồi nó rút lui vì nó sợ trong bãi sậy có đàn sói mai phục.  Do bản năng sinh tồn, con Vàng rất biết giữ mình.  Biết vậy, nên Trần Trận không trách con Vàng thiếu nghĩa khí.  Có điều, từ sang xuân đến giờ, cậu ngày càng thích con Nhị Lang.  Hình như thú tính của nó ngày càng nổi trội, nó gần như không còn tính người.  Trong thế giới cạnh tranh quyết liệt để sinh tồn, một dân tộc nếu không có dũng khí và tính cách của loài thú dữ thì không có điểm tựa cho trí tuệ và văn hóa.  Tính cách dân tộc một khi đã bạc nhược thì chỉ có cầu thân, đắp thành luỹ, đầu hàng chịu thân phận bề tôi và đẻ nhiều như thỏ thì mới mong sống còn.  Trần Trận đứng lên chĩa ống nhòm về phía bãi sậy để xem con Nhị Lang đang ở đâu.
Nhưng con Nhị Lang đã mất dạng.  Trần Trận lôi trong bọc ra cái túi bằng da cừu chưa thuộc chống được ẩm, không thấm mỡ, nhét trước bụng không bẩn quần áo, do Caxumai tặng.  Cậu lấy ra bánh nướng, thịt vụn và sữa bánh, chia cho Dương Khắc, rồi cả hai cùng ăn.  Cả hai không biết sau đó sẽ làm gì, vừa ăn vừa nghĩ.
Dương Khắc bẻ một mẩu bánh to đút vào miệng, nói: Cái hang sói thật đấy mà giả đấy, tưởng rằng phải hóa ra không phải.  Chúng mình tìm ra được một ổ đâu có dễ, cho nên đừng bỏ cuộc.  Hun khói không chết thì ta đổ nước cho chết sặc.  Chở vài chục xe nước dưới đập lên, chắc bắt được chúng.
Trần Trận nói: Thảo nguyên đất cát pha, cậu có chuyển cả đập nước lên đây cũng vô ích, chỉ một lát là cạn sạch.
Dương Khắc suy nghĩ hồi lâu: Đúng rồi, trong hang không còn sói lớn thì ta cho con Vàng vào lôi bọn sói con ra.
Trần Trận không nhịn được cười: Chó đã nhiễm tính người thì bỏ tính sói.  Mũi chó hễ ngửi là ngửi thấy mùi sói, không phân biệt mùi sói mẹ hay sói con.  Nếu nó phân biệt được như thế thì khi sói mẹ đi vắng, nó chui vào hang bắt hết sói con.  Cậu là dân du mục mà ngố thế!
Dương Khắc vẫn không chịu, nói: Thì mình hãy thử xem, không mất nhiều công sức lắm đâu.  Nói rồi, cậu gọi con Vàng đến bên miệng hang.  Mùi thuốc súng đã tan đi phần lớn.  Dương Khắc chỉ vào hang "súy" một tiếng.  Con Vàng hiểu ý cậu, sợ hãi lùi lại.  Dương Khắc kẹp con Vàng giữa hai chân, hai tay cầm hai chân trước của nó đùn vào trong hang.  Con Vàng cụp đuôi rên ư ử gồng người lên nhìn cậu cầu cứu.  Trần Trận nói: Thấy chưa?  Tiến hoá đã khó, thoái hóa lại càng khó.  Chó không thoái hóa thành sói.  Chó chỉ có thể biến thành chó tồi, chó lười, chó ngu.  Con người cũng thế.  Dương Khắc thả con Vàng ra, nói: Tiếc là con Nhị Lang không ở đây, tính sói của nó mạnh, dám chui vào hang.
Trần Trận nói: Nhị Lang chui vào sẽ cắn chết hết sói con, mà mình thì muốn chúng còn sống để nuôi.
Dương Khắc gật đầu: Quả vậy, sói mà gặp Nhị Lang thì chỉ có chết.
Con Vàng ăn xong linh đi chơi.  Nó đánh hơi, chốc chốc lại ghếch chân sau đái vài giọt để đánh dấu.  Nó đã  đi rất xa mà con Nhị Lang vẫn chưa quay lại.  Trần Trận và Dương Khắc ngẩn ngơ không biết nên làm gì bây giờ.  Trong hang không một tiếng động.  Một đàn sáu bảy con sói con, hun khói hoặc đánh pháo nhị thanh cũng không thể chết hết, thế nào cũng có con còn sống sót chạy ra theo bản năng.  Lại nửa giờ nữa trôi qua vẫn không thấy con nào chui ra.  Hai người đoán: Một là chúng chết hết, hai là không có con nào trong đó.
                     0O0
Giữa lúc hai người đang thu xếp đồ đạc để quay về, chợt nghe tiếng con Vàng sủa ran phía sau đồi, có vẻ như phát hiện con mồi.  Hai người lập tức lên ngựa phi về phía đó.  Lên đến đỉnh đồi vẫn không nhìn thấy con Vàng, hai người giục ngựa chạy theo tiếng sủa, nhưng được một quãng vó ngựa đã vấp đá củ đậu, phải cho ngựa dừng lại. Mặt tuyết đầy dầu chân thỏ, cáo, chuột cát, thỏ tuyết, và cả dấu chân sói.  Phía dưới toàn là đá, có mao mọc giữa các kẽ, cao ngang thắt lưng, đã chết khô, trông như những nầm mồ trên biên ải heo hút.  Trần Trận và Dương Khắc thận trọng cho ngựa đi từng bước để khỏi trượt ngã.  Chỗ này không có cỏ gia súc, bò cừu không đến, Trần Trận và Dương Khắc cũng chưa đến lần nào.
Tiếng sủa của con Vàng nghe càng gần, nhưng hai người vẫn chưa nhìn thấy nó.  Trần Trận nói: Hình như con Vàng thấy con gì đó, mình phải đến nhanh.  Dương Khắc nói: Vậy là không đến nỗi công cốc.  Hai người vòng qua bụi gai, men theo một cái rãnh, qua một lằn rẽ, liền trông thấy con Vàng.  Lần này thì Trần Trận và Dương Khắc ngạc nhiên hơn: Con Vàng đang chõ mõm vào một cái hang mà sủa.  Cái hang này to hơn nhiều, đen ngòm, mùi sói theo gió lạnh ùa tới, khiến Trần Trận rợn tóc gáy, cảm thấy mình sa vào trận địa mai phục của bầy sói, vô vàn những cặp mắt đang nhìn cậu.
Hai người cột ngựa vào một chỗ, cầm đồ nghề đến bên miệng hang.  Cái hang quay mặt về hướng nam, miệng rộng chừng sáu mươi phân.  Trần Trận chưa bao giờ thấy một cái hang to như thế, to hơn miệng địa đạo Bình Sơn - Hà Bắc thời chống Nhật mà hồi là học sinh trung học cậu đã từng về đấy để học làm ruộng, đã nhìn thấy.  Cái hang khuất sau một nếp gãy nhỏ trong khe, phía trên là những bụi gai rậm, phía dưới lởm chởm đá tai mèo, không đến gần khó mà nhận ra.  Con Vàng thấy hai chủ đến thì rất mừng, chạy quanh Trần Trận như kể công.  Trần Trận bảo Dương Khắc: Dứt khoát trong hang có chuyện.  Chắc là con Vàng đã nhìn thấy sói con.  Cậu xem, nó đang khoe đây này.  Dương Khắc nói: Mình cũng thấy thế.  Đây mới đích thực là hang sói, âm u dễ sợ.  Trần Trận nói: Toàn mùi sói, chắc chắn ổ sói ở đây.
Trần Trận quan sát vội những dấu vết trên gò đất trước cửa hang.  Đây là đất đá được đùn ra khi con sói đào hang.  Hang càng to, gò càng lớn.  Cái gò này to bằng hai mặt bàn, không có tuyết mà có nhiều dấu chân, một ít xương vụn.  Trần Trận rất hồi hộp, đây là cái mà cậu muốn nhìn thấy.  Cậu bảo con Vàng ra chỗ khác, đứng canh chừng cho cả bọn rồi cùng Dương Khắc quan sát kỹ các dấu vết đã bị con Vàng làm biến dạng, nhưng vẫn nhận ra dấu chân của hai con sói lớn và bảy tám con sói nhỏ.  Dấu chân sói con hình hoa mai, lớn bằng đồng hai xu, rất xinh.  Tất cả các dấu chân đều mới, chúng đang chơi đùa ở đây, thấy con Vàng mới chui vào hang.  Mặt gò không có tuyết, có lẽ sói mẹ chọn nơi đây làm sân chơi cho lũ con, có một ít lông và da cừu non còn lưu vết răng của sói con.  Mép gờ có những cục phân tươi bằng đầu đũa, dài khoảng hai phân, đen nhánh như viên thuốc tễ.
Trần Trận vỗ đánh bộp một phát vào đầu gối, reo lên: Lũ sói con mà mình cần đây rồi.  Thì ra hai thằng mình đã bị con sói mẹ đánh  lừa.
Dương Khắc cũng như chợt tỉnh, vỗ lên mặt gờ, nói: Đúng rồi, con sói mẹ lẽ ra chạy về hang này, nhưng thấy bóng người nên nó chuyển hướng, dụ chúng ta đến một cái hang không có gì.  Nó làm như thật, cắn nhau với chó của ta để bảo vệ đàn con.  Mẹ cha con sói, tao phục mày sát đất!  Trần Trận nhớ lại lúc con sói đổi hướng, cậu đã nghi, nhưng nó giả bộ giống quá, nên hết cả nghi ngờ.  Ai ngờ con sói giỏi tùy cơ ứng biến đến thế.  Nếu không choáng vì pháo nhị thanh, nó có thể chơi ú tim với cậu đến tối.
Dương Khắc nói: May mà chúng mình có hai con chó săn, nếu không thua chỏng gọng.
Trần Trận có vẻ bức xức: Giờ thì gay đây.  Con sói lại gây cho ta nhiều khó khăn, thời gian thì đã mất toi nửa ngày, pháo nhị thanh mất toi ba quả.  Chẳng hiểu cái hang này liệu có sâu hơn, phức tạp hơn cái hang đầu tiên?
Dương Khắc cúi nhìn hồi lâu vào trong hang.  Thời gian không còn mấy, pháo nhị thanh thì đã hết, chẳng còn cách nào khác.  Công việc cấp bách bây giờ là phải xem còn cửa hang nào nữa thì lấp hết lại, ngày mai rủ thêm một số mục dân cùng đào.  Cậu cũng cần tranh thủ ý kiến bố Pilich.
Trần Trận vẫn chưa chịu về không, cậu bảo Dương Khắc: Mình có chiêu này, ta thử xem.  Địa đạo ở Bình Sơn có thể xuống, vậy sao mình không chui thử vào trong hang.  Chắc là con Nhị Lang đã đuổi hai con sói bố mẹ đi nơi khác, ở đây không còn sói lớn nữa.  Cậu hãy lấy dây lưng buộc cổ chân mình, cầm chịch cho mình trườn xuống từ từ, biết đau tóm được sói con, mà nếu không có sói con thì mình cũng muốn biết chúng cấu trúc cái hang như thế nào.
Dương Khắc lắc đầu quầy quậy, nói: Cậu không sợ chết hay sao?  Giả dụ trong hang còn sói lớn thì sao? Chúng mình đã bị lừa một lần, cậu có dám chắc cái hang này là của con sói mẹ hồi nãy? Nếu là của con khác thì sao?
Nguyện vọng ấp ủ hai năm nay chợt bùng lên át cả nỗi sợ.  Trần Trận nghiến răng: Trẻ con Mông Cổ còn dám chui vào hang bắt sói mà ta không thì xấu hổ chết.  Tớ phải xuống, cậu giúp một tay.  Tớ có đèn pin và chòng, nếu có sói lớn, đối phó được.
Dương Khắc nói: Nếu nhất định phải xuống thì để tớ.  Cậu gầy hơn tớ, nhưng tớ khoẻ hơn cậu.
Trần Trận nói: Hang hẹp, đến lúc nào đó cậu bị kẹt.  Thôi đừng tranh luận nữa, ai béo người ấy ở lại.
Trần Trận cởi phăng áo ngoài, Dương Khắc bất đắc dĩ phải đưa cho Trần Trận đèn pin, chòng và bao tải, buộc hai chân Trần Trận bằng dây lưng Mông Cổ dài hai trượng, lại cởi dây lưng của cậu buộc một đầu vào thắt lưng Trần Trận.  Trước khi chui xuống hang, Trần Trận nói: Không vào hang sói, làm sao bắt được sói con!  Dương Khắc dặn đi dặn lại: Nếu gặp sói lớn thì hét to lên, co chân làm hiệu kéo lên.  Trần Trận bật đèn pin, trượt dốc 40 độ chui xuống.  Trong hang sặc mùi sói, đến nỗi cậu không dám thở mạnh.  Cậu nhích từng tí. Cái hang tương đỗi nhẵn, một ít lông sói mắc lại trên đất đá.  Mặt đất đầy dấu chân sói con.  Trần Trận mừng quá, tưởng chỉ vài mét là tóm được sói con.  Cậu đã chui hẳn vào trong hang.  Dương Khắc nhả dây lưng từng tí một, luôn miệng hỏi đã muốn lên chưa.  Trần Trận lớn tiếng giục nhả dây, rồi dùng cùi chỏ thay cho tay, cậu nhích xuống từng tấc một.
Cách miệng chừng hai mét, cái hang rẽ ngang, bò thêm chút nữa, ánh sáng bên trên bị che khuất, Trần Trận phải chĩa đèn ra phía trước, tất cả nhờ ánh sáng đèn pin.
Qua khúc rẽ, lòng hang không dốc nữa nhưng thót hẳn lại, phải chui đầu so vai mới chui lọt.  Trần Trận vừa bò vừa quan sát mặt và vách hang, ở đây bóng hơn nhiều so với miệng hang, nhẵn nhụi tưởng như đẽo bằng rìu.  Vách hang rất ít đất đá vụn, chọc bằng chòng cũng chỉ rơi vài mẩu, Trần Trận yên tâm, không sợ lở hang.  Cậu  không thể tưởng tượng chỉ với hai chân trần mà con sói đào được cái hang sâu như thế.  Những tảng đá hai bên sườn cạnh nhẵn thín, có tảng hình trứng, căn cứ vào độ mài tròn, cái hang có tuổi hàng trăm năm, không biết bao nhiêu con sói, đực và cái, đã ra vào hang này.  Trần Trận cảm thấy cậu đã lạc vào thế giới của sói, mùi hôi kinh người.
Trần Trận tiếp tục bò, ngày càng sợ.  Ngay trước mũi cậu là mấy dấu chân sói lớn bị lũ sói con dẫm chồng chéo.  Giả dụ có sói lớn thì đèn pin và cái chòng này có đánh lại được không?  Hang hẹp, sói không cắn tới, nhưng chân trước của sói rất dài, thừa sức cào tới người.  Sao mình không nghĩ tới nanh vuốt của sói nhỉ, Trần Trận toát mồ hôi lạnh.  Cậu chững lại, chỉ cần co chân một cái là được kéo lên.  Nhưng cậu lại nghĩ lũ sói con đã rất gần, tám chín con, mươi mười mấy con chứ ít đâu.  Cậu nghiến răng liều mạng chui tiếp.  Cậu nghĩ, mình không phải một thợ săn, mà y như một tên đào mả trộm.  Không khí càng ít, mùi sói càng đậ, cậu chỉ sợ chết ngạt như đã từng xảy ra với những tên đào mả trộm.
Đến đoạn thắt cổ chai khiến cái hang càng hẹp hơn.  Chỗ này chỉ chui lọt sói mẹ, còn người lớn thì không lọt, rõ ràng là sói thiết kết cái hang như thế này là để chống lại thiên địch duy nhất của loài sói trên thảo nguyên - con người.  Trần Trận cho rằng, sói đã phòng ngừa bằng cách bít chặt không cho nước hoặc khói vào bên trong.  Chỗ thắt cổ chai, thực tế là công cụ phòng ngự, chặn con người lại.  Trần Trận không chịu bỏ cuộc.  Cậu dùng chòng tông mạnh chỗ thắt cổ chai để mở rộng cửa.  Nhưng con sói đã có lý khi chọn chỗ này làm công sự.  Trần Trận chỉ tông được mấy nhát là phải dừng vì gặp toàn đá tảng, chọc không vỡ.  Cậu hít thở khó khăn không còn hơi sức để đào, mà đủ còn sức cũng không dám, lỡ hang sập làm mồi cho sói.
Trần Trận buộc phải hít mạnh, dù rất hôi nhưng trong đó còn có ít nhiều oxy.  Cậu đâm nản vì không bắt được sói con.  Nhưng cậu cũng không chịu rút ngay, vẫn nấn ná mong nhìn thấy một con.  Dồn hết sức còn lại cho mục đích cuối cùng, cậu ló đầu và cánh tay phải vào bên trong.  Cảnh tượng dưới ánh đèn pin làm cậu nản hoàn toàn: Cái hang đi ngược lên và chẳng nhìn thấy gì nữa.  Chỗ trên ấy chắc dễ chịu cho cả sói mẹ lẫn sói con, khô ráo và thoát nước.  Trần Trận đã chuẩn bị  cho những tình huống phức tạp, nhưng thực dụng kiểu này khiến cậu kinh ngạc.
Trần Trận ghé tai nghe.  Trong hang không một tiếng động, có lẽ đàn sói con đã ngủ say.  Cũng có thể chúng đang nấp một chỗ theo bản năng, im thin thít khi có tiếng động lạ.  Nếu không quá mệt, Trần Trận rất muốn hát tặng bầy sói mấy câu đồng dao: Sói con ngoan nào, mở cửa ra, mở cửa ra!  Rất tiếc ông ngoại người Hán chưa tóm được cháu ngoại sói Mông Cổ!  Trần Trận khó thở tới mức mặt mày xây xẩm, cậu co chân giật mạnh.  Dương Khắc vừa sốt ruột vừa mừng kéo mạnh Trần Trận lên cửa hang.  Trần Trận mặt mũi phờ phạc, ngồi thở dốc, bảo Dương Khắc: Chẳng thấy gì hết, như hang quỉ, không biết đâu là tận cùng.  Dương Khắc thất vọng, trùm áo lên người Trần Trận không nói gì.
Nghĩ đã đỡ mệt, hai người liền sục sạo trong phạm vi hai trăm mét vuông, chỉ thấy một cái hang thông với hang chính, bèn bịt lại bằng đá tảng, những hòn đá tảng rất to, sói không thể đẩy ra, lại còn lấy đất trét kín các kẽ.  Trước khi ra về, Trần Trận vẫn chưa hết bực, cậu bổ một nhát cuốc chim lên miệng hang, nhắn sói mẹ: Hãy đợi đấy, ngày mai bọn tao còn đến.
Trời gần tối, Nhị Lang vẫn không thấy quay lại.  Con sói mẹ ranh ma quỉ quyệt, Nhị Lang chỉ dùng sức chưa chắc đã là địch thủ của nó.  Hai người lo thay cho Nhị Lang.  Trần Trận cùng con Vàng về gần tới nhà thì trời đã tối mịt, cậu bảo Dương Khắc mang dụng cụ về trước, bảo Cao Kiện Trung là không xảy ra chuyện gì, còn cậu thì phi một mạch đến lều ông già Pilich.

_________Hết chương 9__________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 17:48:05 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10

Biên niên sử (bản chép tay) của người Mông Cổ chép rằng:... Người Thaiuxiuthi bắt nguồn từ Saliho Linhcon, con trai Haido Khan thực tổ Thành Cát Tư Hãn - người dẫn chú).  Haido Khan có ba người con trai.  Con cả tên Baxanghonhi (Ngũ tổ Thành Cát Tư Hãn), một chi của tổ tiên Thành Cát Tư Hãn bắt đầu tự ông này.  Chi ấy đứng đầu là Saliho Linhcon.  Anh trai là Batanghonhi chết, Salitho Linhcon lấy chị dâu làm vợ, bà này là mẹ Đonnhinai Khan (Tư tổ Thành Cát Tư Hãn), sinh hai con trai, một người tên Jiando Xichna, người kia tên Uthosan Xichna.  Hai tên nêu trên có nghĩa là "sói đực" và "sói cái".. Những người thuộc chi này đều gọi là Xichnaxu (Xicha, tiếng Mông Cổ nghĩa là sói, "xu" chỉ số nhiều, tức "đàn sói".
                                                                                                                            (Ba Tư) Laxit "Sử tập. Quyển Một"

Ông già im lặng ngồi hút thuốc nghe Trần Trận kể.  Nghe xong, không khách sáo gì hết, ông xạc cho Trần Trận một mẻ: Đáng giận nhất là hai cậu học sinh người Hán này đánh thuốc nổ hang sói.  Ông không phải không biết uy lực và hiệu quả của thuốc nổ khi phá  hang.  Ông bóp mạnh cái tẩu, bộ ria rung rung vì giận.  Ông nói với cậu: Hỏng bét!  Rách chuyện rồi!  Mấy quả pháo của các cậu đuổi đàn sói đi rồi.  Các cậu làm vậy còn nguy hiểm hơn người Mông hun khói, con sói không kịp đào đất lấp hang.  Sói Mông Cổ sợ nhất mùi thuốc súng.  Nếu các cậu đánh thuốc nổ thì sói trong hang sẽ chạy hết ra cho các cậu bắt.  Bằng cách này thì chẳng bao lâu sói thảo nguyên sẽ không còn một con.  Đồng ý là phải diệt sói, nhưng không được diệt như thế.  Diệt kiểu ấy ông trời sẽ giận, thảo nguyên sẽ không còn.  Từ nay trở đi không được đánh bắt sói bằng thuốc nổ, không bao giờ được bày cho đám mã quan và những người khác dùng thuốc nổ.  Các cậu làm hư đám mã quan rồi...
Trần Trận không ngờ ông già giận đến như thế.  Qua lời ông già, cậu đã nhận ra hậu quả tai hại của chuyện đánh thuốc nổ.  Cách này mà phổ biến rộng rãi thì dù phòng ngự nghiêm ngặt đến mấy cũng không chặn được tiếng nổ và mùi thuốc súng.  Thảo nguyên không có tục đốt pháo trong ngày Tết, những thứ này do đám lưu dân và thanh niên trí thức đem đến.  Súng đạn trên thảo nguyên bị quản lý chặt chẽ, nhưng với bộc phá thì chưa kịp ngăn chặn, con đường từ nội địa lên cao nguyên không kiểm tra, rất dễ đem theo.  Nếu như pháo nổ đem lên thảo nguyên với khối lượng lớn cùng với bom cay, thuốc xịt chảy nước mắt thì là tai họa cho họ hàng nhà sói vố thống trị thảo nguyên hàng vạn năm nay, chúng sẽ bị tuyệt diệt.  Thuốc súng đối với thảo nguyên trong giai đoạn du mục nguyên thủy, có sức sát thương khủng khiếp.  Một dân tộc mà để cho tôtem bị hủy diệt thì dân tộc ấy cũng có khả năng bị tàn sát, hơn nữa, thảo nguyên mà dân tộc đó dựa vào để sinh tồn cũng tàn lụi theo.
Trần Trận có vẻ sợ.  Cậu lau mồ hôi trán: Bố đừng sợ, con xin hứa từ nay trở đi không dùng thuốc nổ phá hang sói, cũng xin hứa không bày cách này cho bất cứ ai.  Người thảo nguyên lấy chữ tin làm gốc, là một trong những huấn lệnh của các Khan để lại.  Giữ lời là vô cùng  quan trọng, các bộ lạc trên thảo nguyên đều giữ lời hứa.  Trong cuộc rượu, có khi vì một lời hứa mà mất con chó quý, mất con ngựa hay, mất con dao sắc, mất cây thòng lọng, thậm chí mất người yêu.
Nét mặt giãn ra, ông già nhìn Trần Trận nói: Tôi biết cậu diệt sói để bảo vệ cừu và ngựa, nhưng bảo vệ thảo nguyên còn quan trọng hơn.  Hiện nay các mã quan trẻ thi nhau diệt sói.  Người khu vực nông canh đến quản lý khu vực du mục cứ nhắm mắt làm bừa.  Bao nhiêu tội vạ đều đổ lên đầu người thảo nguyên.
Caxumai bê cho Trần Trận một bát xáo thịt cừu, còn đặc cách cho cậu một lon rau phỉ.  Chị quỳ bên bếp, múc cho bố chồng một bát xáo thịt rồi bảo Trần Trận: Bây giờ ít người nghe lời bố, muốn người khác không giết sói mà mình cứ giết thì mình nói ai nghe.
Ông già cười buồn tiếp lời con dâu: Cậu có tin lời ta nói không?
Trần Trận nói: Con tin.  Không có sói, thảo nguyên rất dễ bị phá hoại.  Có một nước ở mãi tận phương nam xa xôi là nước Úc, đồng cỏ thì rất rộng nhưng không có sói, cũng không có thỏ.  Sau có người nhập thỏ về nuôi, một số con chạy ra đồng cỏ.  Khôg có sói, nên thỏ sinh sôi nảy nở ngày càng nhiều, đến nỗi đồng cỏ đầy những hang hốc, cỏ chăn nuôi bị thỏ ăn hết quả nửa, nông nghiệp bị tổn thất nặng nề.  Chính phủ Úc đã áp dụng tất cả các biện pháp nhưng đều vô hiệu.  Họ mua lưới thép về căng trên đồng, cỏ chui lên, nhưng thỏ thì không thể chui lên, bị kẹt dưới lưới.  Nhưng đất đai rộng lớn, lấy đâu ra lưới thép nhiều như thế, thành thử kế hoạch thất bại.  Con nghĩ, thảo nguyên Mông Cổ tươi tốt chắc rất nhiều thỏ, nhưng khi đến Ơlon lại thấy không nhiều, chắc đây là công của sói. Khi chăn cừu, con từng thấy sói bắt thỏ, hai sói bắt một, thỏ khó mà chạy thoát.
Ông già nghe say sưa, nét mặt dịu dần, miệng lẩm bẩm: Nước Úc, nước Úc!  Rồi bảo Trần Trận: Mai đem bản đồ lại đây cho tôi xem cái nước Úc đó.  Để xem còn ai đòi giết hết sói thì kể chuyện nước Úc cho họ nghe.  Thỏ phá hoại đồng cỏ mới khiếp, một con thỏ cái một năm đẻ mấy lứa, mỗi lứa đông hơn sói.  Mùa đông, rái cá cạn và chuột đồng ngủ vùi trong hang, chỉ thỏ là vẫn đi kiếm ăn.  Thỏ là thực phẩm mùa đông của sói.  Sói bắt thỏ thì đỡ bắt cừu, vậy mà không thể bắt hết thỏ.  Nếu không có sói thì cứ ba bước chân lại có một hang thỏ trên thảo nguyên.
Trần Trận nói: Mai con đem bản đồ đến, bản đồ thế giới rất to, bố tha hồ mà xem.
Bấy giờ thì cậu về nghỉ, vất vả cả ngày rồi còn gì - Thấy Trần Trận nấn ná chưa muốn về, ông hỏi - có phải cậu muốn hỏi làm thế nào để bắt được ổ sói con, phải không?
Trần Trận gật đầu, nói: Đây là lần đầu con đi đào bắt sói, bố cố giúp con thành công.
Ông già nói: Bày cho cậu thì được, nhưng phải hứa là từ nay không được bắt nhiều.
Vâng - Trần Trận hứa lần nữa.
Ông già cười mỉm: Cậu mà không hỏi ta thì đừng hòng bắt được ổ sói này.  Theo ta thì cậu nên tha cho con sói mẹ, đừng dồn nó đến bước đường cùng.
Trần Trận vội hỏi: Vậy con phải làm thế nào để bắt lũ sói con?
Ông già không cười nữa: Cái hang đầu tiên cậu đã đánh thuốc nổ, cái hang thứ hai có hơi người vì cậu đã chui vào, cửa hang đã bị lấp.  Vì vậy, chắc chắn đêm nay con sói sẽ dọn nhà.  Nó sẽ đào một cái hang mới, chuyển đàn con tới trạm trú, nó còn đào tiếp một cái hang nữa rồi một cái nữa, ở một nơi không ai tìm ra.
Trần Trận vô cùng hồi hộp, hỏi: Cái hang tạm ấy tìm có dễ không hở bố?
Ông già nói: Người không tìm ra, nhưng chó tìm ra.  Con Vàng, con Mực đều được.  Xem ra cậu quyết ra tay với con sói mẹ.
Trần Trận đề nghị: Hay là mai bố dẫn con đi.  Dương Khắc bảo, cậu ấy sợ mưu của sói lắm rồi.
Ông già cười: Ngày mai ta bận đặt bẫy.  Đêm qua một con sói lớn mắt bẫy của ta đặt hôm nọ.  Nhưng ta chưa đụng đến nó.  Đàn sói phía bắc đã đói, chúng sẽ trở lại đây.  Mai phải đem tất cả các bẫy đi đặt.  Chuyện ổ sói con thì sau khi đánh bắt đàn sói hãy bàn.
Trần Trận sốt ruột, mặt đỏ gay.  Ông già nhìn cậu, nói nhỏ: Đã vậy thì ngày mai hai anh em đi xem thử, hang sói mùi rất đậm, dắt chó đi vài tua là phát hiện ra.  Hang mới không sâu, nhưng nếu sói mẹ tha con đến một hang cũ thì rất gay vì khó đào.  Đào bắt sói cũng có may có rủi.  Nếu không đào được thì tôi đi.  Tôi mới dám cho Bayan chui vào hang.
Bayan tỏ vẻ thành thạo: Cái hang thắt cổ chai mà chú nói ấy, cháu chui vào được.  Phải thật nhanh, nếu không, bị  nghẹt thở.  Chú cho cháu đi với, cháu sẽ bắt cả ổ.
Trần Trận trở về lều, Dương Khắc vẫn đợi cậu.  Trần Trận nói lại những nhận xét của ông già, Dương Khắc vẫn không yên tâm.
Nửa đêm, Trần trận bị tiếng chó sủa dữ dội đánh thức.  Con Nhị Lang đã trở về, nó không bị đàn sói bao vây.  Trần Trận nghe tiếng chân chắc nịch bên ngoài, định trở dậy cho nó ít thịt vụn và băng bó vết thương cho nó, nhưng cậu buồn ngủ đến nổi không sao dậy được.  Bên ngoài con Nhị Lang sủa dóng một, còn Trần Trận ngủ say như chết.
Sáng ra, lúc Trần Trận ngủ dậy đã thấy Dương Khắc, Cao Kiện Trung và Đan Chi đang uống trà bên bếp, bàn cách bắt sói con.  Đan Chi là ngưu quan tổ 3, hai bốn hai lăm tuổi, già dặn, xốc vác, học hết cấp 2 thì nghỉ học đi chăn bò kiêm chức kế toán của tổ, và là thợ săn nổi tiếng toàn mục trường.  Bố cậu là dân Mông - nửa làm ruộng nửa chăn thả vùng Đông Bắc.  Sau khi thành lập mục trường, ông chuyển cả gia đình về đây sinh sống, là một trong những hộ ngụ cư ở Ơlon.  Phong tục tập quán của người Mông Đông Bắc và người Mông bản địa khác nhau khá xa, rất ít khi gả bán cho nhau.  Tộc Mông - nửa làm ruộng nửa chăn thả, nói tiếng Hán trôi chảy bằng giọng Đông Bắc.  Họ là người phiên dịch và thầy dạy tiếng Mông đầu tiên cho các học sinh Trung Quốc.  Ông Pilich hầu như không tiếp xúc với số người Mông này.  Đám thanh niên trí thức thì không muốn giữa họ có mâu thuẫn.  Dương Khắc mời Đanchi đến lều từ sáng sớm, khẳng định nỗi lo của cậu là lại sợ bị sói lừa hoặc gặp nguy hiểm, nên mời Đanchi làm cố vấn.  Đanchi là con người đã nói là làm, sự có mặt của cậu ta là một đảm bảo cho công việc tốt đẹp.
Trần Trận vội dậy mặc quần áo, chào Đanchi.  Cậu ta nhìn Trần Trận cười: Cậu dám chui vào hang bắt sói con?  Cẩn thận đấy, sói mẹ ngửi hơi cậu, cậu đi đâu nó theo đó.
Trần Trận giật mình, xỏ nhầm tay áo: Vậy ta phải diệt con sói mẹ, không thì mình chết mất.
Đanchi cười: Mình dọa cậu thế thôi.  Sói sợ người.  Nó có nhận ra cũng không dám làm gì cậu.  Sói ghê gớm đến thế thì mình tiêu từ lâu rồi.  Mình chui vào hang sói từ năm 13 tuổi, vậy mà đến giờ vẫn sống nhăn.
Trần Trận như trút được gánh nặng, hỏi: Cậu là lao động tiên tiến về diệt sói, đã hạ tất cả bao nhiêu con?
Không kể sói nhỏ, khoảng sáu bảy chục con sáo lớn, sói con thì bảy tám ổ.
Bảy tám ổ thì chí ít cũng năm sáu chục con.  Vậy là cậu đã diệt hơn một trăm hai mươi con.  Sói có trả thù cậu không?
Sao lại không?  Mười năm qua, sói đã cắn chết của nhà mình bảy con chó, cừu thì nhiều hơn, không nhớ cụ thể là bao nhiêu.
Cậu giết quá nhiều sói, nếu không còn sói thì người Mông khi chết làm thế nào?
Phong tục người Mông vùng Đoanmen chúng tôi như người Hán, khi chết không cho sói ăn thịt, mà cho vào quan tài đem chôn dưới đất.  Người Mông ở đây lạc hậu lắm.
Phong tục ở đây là cho sói ăn, còn ở Tây Tạng thì cho chim kền kền ăn.  Cậu bắn chết nhiều sói như thế, người dân ở đây có ghét cậu không?
Sói Ơlon nhiều vô kể, làm sao diệt hết?  Chính phủ kêu gọi diệt sói.  Diệt một con sói bảo đảm cho một trăm con cừu; diệt một ổ sói con, bảo đảm cho mười đàn cừu.  Mình diệt đã thấm gì.  Cong xã Bayincaoti có nhiều dân ngụ cư, nhiều dân Mông Đông Bắc, nhiều thợ săn nên sói rất ít.
Trần Trận hỏi: Chăn nuôi ở đấy thế nào?
Đanchi trả lời: Chẳng ra sao cả, thua xa ở đây.  Các bãi chăn ở đó không tốt, thỏ và chuột nhiều vô kể.
Trần Trận mặc vội áo ngoài, ra cửa ngó con Nhị Lang.  Nó đang chén một con cừu non đã lột da.  Về mùa xuân, cứ cách hai ba hôm lại có cừu non chết cóng hoặc ốm chết, là thức ăn mà chó rất thích.  Chó chăn cừu trên thảo nguyên chỉ ăn những con cừu đã lột da, không ăn cừu còn sống.  Nhưng Trần Trận phát hiện con Nhị Lang khi ăn con cừu chết, mắt vẫn nhìn đau đáu những con cừu sống trong chuồng.  Trần Trận cất tiếng gọi, nhưng con Nhị Lang vẫn không ngửng lên, chỉ mỗi cái đuôi là khẽ phe phẩy.  Còn con Vàng và con Ilua thì nhào tới chồm hai chân trước lên vai Trần Trận.  Dương Khắc đã băng bó cho con Nhị Lang, nhưng nó tỏ ra không thích, chỉ muốn gỡ bỏ băng để liếm vết thương.  Nhìn vẻ phấn kích của nó, Trần Trận tháy có thể cho nó đi theo.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách