|
Chương 5 (Tiếp)
Dưới ánh đèn pin loang loáng, Batu và Xaxưleng thêm một lần mục kích cảnh tàn sát trên thảo nguyên, nhưng lần này thì lại càng không chịu đựng nổi, vì đây là số ngựa được tuyển mộ cho quân đội. Chúng là những con ngựa chiến nổi tiếng làm vẻ vang cho thảo nguyên Ơlôn, đã bao lần thoát hiểm từ miệng sói, những đứa con cưng được mã quan trong nhiếu năm ra công chăm chút. Giương mắt mà nhìn lũ sói cắn xé đàn ngựa, Batu và Xaxưleng khóc không ra tiếng, lửa giận bừng bừng nhưng phải cố nén để đủ tĩnh trí bảo về cho số còn lại. Batu mỗi lúc mỗi lo, bằng vào kinh nghiệm bản thân, anh thấy đàn sói này không bình thưòng, kẻ cầm đầu của chúng rất mưu mẹo, tính toán, thông thạo vùng Ơlôn. Đó là con sói trắng. Đàn sói này, những con sói đực thì căm thù vì bị cướp mất miếng ăn, những con sói cái thì điên dại vì mất con. Nhưng con sói chúa thì không điên. Nhìn đàn sói ép đàn ngựa chạy về hướng nam, có thể đoán sói chúa định giở trò gì? Nó định dồn đàn ngựa xuống đầm lấy! Đây là chiêu thức quen dùng của sói chúa trên thảo nguyên. Batu càng nghĩ càng hãi. Trước đây anh có lần chứng kiến sói chúa dồn dê vàng xuống đầm lầy, cũng từng thấy sói dồn bò, ngựa xuống đầm lầy, nhưng số lượng không nhiều. Còn như dồn cả một đàn ngựa thì anh chỉ được nghe người già kể lại. Chẳng lẽ đàn sói hôm nay cũng làm thế? Chẳng lẽ chúng ăn gỏi cả một đàn ngựa? Batu không dám nghĩ tiếp.
Batu huơ đèn gọi Xaxưleng. Hai người liều mạng chạy vòng từ tây sang đông, trực tiếp cản đàn sói, dùng thòng lọng, đèn pin để doạ sói. Sói vốn sợ thòng lọng, sợ ánh đèn chói mắt. Hai người hai ngựa tả xung hữu đột dưới ánh đèn, tạm thời bảo vệ được mạn sườn phía đông của đàn ngựa. Đàn ngựa từ trạng thái kinh hoảng, dần trấn tĩnh lại, nhanh nhẹn điều chỉnh bước chân, tranh thủ chạy về phía đông của đầm lầy. Chúng biết rằng, chỉ cần vòng qua đầm lầy từ phía đông, thuận gió chạy về khu lều nuôi cừu mới đẻ, nơi có rất nhiều căn lều, có nhiều người quen, có nhiều tiếng hò, nhiều ánh sáng chói mắt, lại có những người bạn thân - đàn chó săn. Đàn chó trông thấy sói là choảng liền, cùng với những chủ chó cứu đàn ngựa.
Nhưng sói là thần chiến tranh kiên trì tìm kiếm cơ hội và biết chờ đợi cơ hội trên thảo nguyên. Mỗi khi chộp được một cơ hội, sói quyết không buông, chưa vắt kiệt sức chưa bỏ cuộc. Đang nổi khùng mà có cơ hội như thế này, sói lập tức ăn sống nuốt tươi, không cho con ngựa nào chạy thoát. Đàn ngựa đã chạy đến bãi cỏ ven đầm, vó ngựa cày tuyết trên mặt và cả đất phèn phía dưới, mùi cay xộc lên mắt lên mũi người và ngựa, họ hiểu rằng, đang trên bờ vực thẳm. Xung quanh một màu đen kịt, không nhìn thấy nhưng vẫn cảm nhận được mùi vị của đầm lầy. Người và ngựa bất chấp mắt mũi cay xè tiếp tục chạy. Khi nào không thấy mùi cay bốc lên từ vó ngựa, có nghĩa là đã tới con dốc thoai thoải phía đông đầm lầy. Khi ấy đàn ngựa sẽ tự động chuyển hướng, men theo bờ phía đông, xuôi gió chạy về nam.
Người, ngựa, sói cùng chạy. Sói tạm ngừng tấn công, nhưng Batu vẫn căng thẳng tới mức bàn tay cầm súng ướt đẫm mồ hôi. Kinh nghiệm mười máy năm chăn ngựa đã mách anh, đàn sói sắp sửa phát động cuộc tổng công kích lần cuối, nếu không, sẽ chẳng còn dịp nào khác. Đàn sói quyết không bỏ lỡ một dịp trả thù. Chịu đựng hơi phèn đỏ mặt mũi, chúng chạy mò cùng ngựa một đoạn đường. Chỉ cần đàn ngựa chạy lên dốc là Batu nổ súng, vừa giục ngựa chay nhanh vào đưòng rẽ, vựa giết sói doạ sói, vừa báo động cho mọi người đến cứu. Batu cố kìm cho tay bớt run, nhằm chỗ sói đông nhất lẩy cò. Xaxưleng cũng làm như anh.
Batu chưa kịp trở tay, đàn ngựa bỗng hí vang, kinh hoảng tột độ. Con ngựa anh cưõi hình như bị vướng chân. Anh dụi mắt soi đèn lên phía trước. Dưới ánh đèn, mấy con sói gộc chụm vào nhau chạy tới trước ngựa anh. Chúng không sợ ngựa xéo để cản mũi anh. Batu ngoảnh lại nhìn, Xaxưleng cũng đang bị sói chặn hậu. Lũ sói bắt đầu tấn công con ngựa của Xaxưleng. Batu hươ đèn ra hiệu cho Xaxưleng chạy tới bên anh, nhưng con ngựa của cậu ta không nhích nổi một bước. Những con sói luân phiên xốc tới, con ngựa của Xaxưleng mình đầy những vết cào cấu, áo khoác của cậu cũng bị đóp mất vạt dưới. Xaxưleng vứt bỏ thòng lọng giờ đã trở thành vô dụng, dùng đèn pin làm vũ khí vụt ngang vụt dọc, đèn bẹp gí, đầu sói toé khói vẫn không chặn được cjiến thuật luân xa của bầy sói. Một con ngoạm đứt miếng thịt mông con ngựa Xaxưleng đang cưỡi. Con ngựa bất chấp mối hiểm nguy sẽ gây ra cho chủ, cố hí lên một tiếng thảm thiết rồi cắn chặt hàm thiết, chạy tháo thân về hướng tây nam. Xaxưleng không cản nổi con ngựa chưa lâm trận đã bỏ chạy. Lũ sói thấy đã tống khứ được một đối tượng kỳ đà cản mũi, liền quay lại tấn công đàn ngựa.
Lúc này chỉ còn lại Batu và đàn ngựa. Nhóm sói gộc lập tức nhằm vào anh và con ngựa ô của anh. Con ngựa thở phì phì, mắt mở to, giẫm đạp, đá hậu… liều chết chống cự. Batu lâm vào tình trạng vô cùng nguy hiểm. Anh biết có chạy cũng không thoát, chỉ còn cách chống lại. Quẳng cây thòng lọng, anh nhổm người trên cọc yên, rút cây gậy thép giắt dưới đệm, lông dây da ở đầu gậy vào cổ tay, thay hình đổi dạng từ người chăn ngựa thành dũng sĩ Mông Cổ, quyết một trận sống mái với sói. Cây gậy thép dài như thanh đao, là vật báu gia truyền của tổ tiên, một vũ khí dùng để đối phó với sói, do ông Pilich truyền lại cho anh. Thân gậy và chỗ tay cầm to bằng nhau, phần chót nẹp toàn sợi thép dẻo, các kẽ có nhiều vết ố. Đó là máu sói. Lũ sói luân phiên vồ ngựa từ hai bên, do đó anh ở vị trí dễ đánh trúng nhất, vấn đề quan trọng là phải can đảm và độ chính xác đến đâu.
Batu ý đã quyết, anh bặm môi, khẽ chuyển dịch ánh đèn sang bên phải, rồi giơ cây gậy cao quá đầu, nhằm đúng con sói lúc nó đang chững lại, anh giáng một gậy vào răng, bộ phận rắn nhất nhưng cũng yếu nhất, chí mạng nhất của con sói. Con sói nhe nanh múa vuốt nhảy lên đón trúng cây gậy từ trên quật xuống, gãy liền bốn chiếc răng cửa. Nó đã bị Batu giáng cho một đòn choáng váng và về tổn thất thì không gì có thể bù đắp.
Con sói ngã bổ chửng, há cái miệng đầy máu mà gào thảm thiết, giá như nó chết còn đỡ khổ hơn. Trên thảo nguyên mông cổ, hàm răng chính là sinh mạng của sói. Vũ khí lợi hại nhất của sói là bốn chiếc răng cửa của hàm trên hàm dưới, không còn răng thì tất cả những phẩm chất ưu việt và không ưu việt như dũng cảm, kiên cường, tinh khôn, ranh mãnh, tàn bạo, tham lam, tham vọng, dã tâm, chí lớn, sự kiên nhẫn, tính linh hoạt, tính cảnh giác, sức mạnh, dẻo dai đều bằng số không. Trong thế giới của sói, nếu chột một mắt, què một chân, mất hai tai vẫn có thể tồn tại. Nhưng nếu khuyết răng thì về cơ bản đã bị tước đoạt quyền sinh sát - cái quyền đưa nó lên vị trí chúa tể trên thảo nguyên, đẩy sói vào tình cảnh coi miếng ăn bằng trời chứ không phải quyền sinh sát bằng trời. Sói không còn răng coi như sói không có trời, không còn cái thú lớn nhất của loài sói là săn bắt gia súc lớn, không còn đủ sức phòng vệ cuộc tấn công của chó săn và tranh cướp của đồng loại, không còn khả năng xâu xé, ngoạm những miếng to, uống từng ngụm lớn máu tươi con mồi; không còn khả năng bổ sung kịp thời năng lượng cho mình trên thảo nguyên khốc liệt. Sói sẽ trắng tay, mất sạch nét kiêu hùng và chí lớn, mất sạch địa vị trong bầy sói và sự kính nể của đồng loại, nó chỉ có thể sống một cuộc sống tạm bợ, đắp đổi qua ngày. Cuộc sống có miệng mà không có ăn, giương mắt nhìn đồng loại tàn sát và yến ẩm, thu vào mắt tất cả những gì mà nó không muốn nhìn. Sau đó nó chỉ còn một con đường: cái chết. Chết gầy, chết cóng, chết vì tức giận, chết ấm ức.
Nhìn đàn ngựa bị hạ sát hết con này đến con khác, Batu những muốn dùng phương thức cực độc, cho chúng nếm mùi tàn nhẫn của con người thảo nguyên. Anh nhân lúc chúng chưa kịp có phản ứng, lại nhắm một con quật mạnh cây gậy, nhưng lần này không trúng răng mà đập trúng mũi con sói. Lá mía nát bét, con sói ngã lăn, co rúm như một quả cầu bông. Tuyệt kỹ giết sói của Batu, tiếng rú của hai con sói lớn, khiến lũ sói bâu quanh anh sững lại vì kinh hãi. Chúng không dám chồm lên, nhưng vẫn dám dàn hàng ngang trước đầu ngựa, ngăn anh tiếp cận đàn ngựa.
Batu đánh lui đợt tấn công của lũ sói nhằm vào anh. Nhìn ra anh thấy những con sói lớn đều tập trung phía đông đàn ngựa. Chúng cảm thấy thì giờ gấp gáp, đồng thời cũng thấy đồng bọn phía sau đang núng thế. Cả đàn cất tiếng hú như tiếng gió lướt trên dây điện, đậm mùi chết chóc và kích động. Dưới sự chỉ huy của sói chúa, đàn sói điên khùng đánh canh bạc dốc túi. Chúng sử dụng cách đánh tàn bạo nhất, đẫm máu nhất, không bút mực nào có thể diễn tả là tấn công tự sát, đồng loạt công kích đàn ngựa. Từng con từng con, nhất là những sói cái mất con chồm lên nhằm thóp bụng ngựa là chỗ da mỏng nhất mà đớp, bất kể cái giá phải trả cho nửa thân sau treo lủng lẳng dưới mình ngựa, dùng sức nặng nửa dưới cơ thể xé toạc mình ngựa. Đó là một tư thế nguy hiểm cho cả sói lẫn ngựa. Với sói, treo dưới bụng ngựa cầm bằng treo cổ dưới cây thập giá, ngựa chạy, nửa mình sói rơi vào nửa thân sau của ngựa, con ngựa muốn thoát thân cứ thế mà đá hậu như điên, trúng một cú là tan xương nát thịt. Chỉ những con sói lớn, răng sắc mới không cần mượn sức. Răng sắc, cơ thể nặng, chúng cắn rách bụng ngựa rồi nhảy xuống để bảo toàn mạng sống. Tuyệt chiêu này rất nguy hiểm cho ngựa, không rũ được sói thì ngựa rớt đàn vì đeo nặng rồi chết vì bị sói bổ vây; nếu đá trúng con sói thì hoá ra giúp sói giật mạnh vết cắn, rách bụng tự dẫn đến tử vong.
Đàn ngựa bị giết và đàn sói tự sát đều trong trạng thái tuyệt vọng, chúng run như giẽ.
Những con sói bị thương hoặc bị đá văng ra từ chân ngựa, hầu hết là sói cái. Chúng nhẹ hơn sói đực. Nếu chỉ trông vào sức nặng cơ thể thì khó mà xé rách bụng ngựa, chỉ còn cách liều mạng mượn sức ngựa. Những con sói cái đúng là liều mạng chỉ nghĩ đến trả thù, coi cái chết như không, can đảm đến thế là cùng. Chúng sẵn sàng tan xương nát thịt, chết cùng đàn ngựa.
Một con sói đói bị đá văng khỏi mình ngựa, bụng rách toác, gào thảm thiết. Vậy mà nó còn nhổm dậy lết bằng hai chân trước tới bên con ngựa ngã xuống nhưng chưa chết, ngoạm luôn một miếng. Nó không bỏ qua cơ hội cuối cùng. Chỉ cần còn miệng, còn răng thì dù không còn cái bụng con sói vẫn ăn, miếng thịt ngựa trôi qua họng rồi truồi ra ngoài, con sói không còn bụng làm cữ là con sói tham ăn nhất, ăn nhiều nhất, và chắc chắn nó là con sói ăn nhiều thịt ngựa nhất trong một bữa ăn tàn bạo cuối cùng của cuộc đời. Những con ngựa bị sói xé rách bụng vốn no căng, dạ dày chứa toàn cỏ non năm nay và cỏ thu năm ngoái, thuỷ phần đầy đủ nên rất nặng, một khi bụng rách, dạ dày và ruột lập tức văng ra ngoài, lòng thòng trên tuyết. Hai chân sau của ngựa vẫn chạy theo quán tính giẫm rách dạ dày, cuốn ruột vào chân, chỉ nháy mắt dạ dày vỡ toạc, thức ăn tung toé, ruột gan nát bét. Vậy mà con ngựa sợ đến mất trí vẫn lồng lên, cuốn vào chân sau tất cả nội tạng: dạ dày và ruột, cuối cùng đến tim phổi, khí quản đều bị lôi hết ra. Con ngựa chết vì chính nó giẫm lên gan ruột của nó, có thể tự giẫm phải mật, chết vì vỡ mật; có thể tự dẫm phải tim, chết vì vỡ tim; có thể tự dẫm bẹp phổi, chết vì nghẹt thở. Tự sát của sói vô cùng đau đớn và tàn khốc, do vậy sói không cho đối thủ được chết thanh thản, bắt đối thủ nếm trải nỗi kinh hoàng của tự sát Ngựa bị sói giết, nhưng một nửa cái chết của ngựa là tự sát. Cái chết của ngựa càng đau đớn càng oan khuất càng thê thảm.
Cuộc tấn công tự sát cuối cùng của đàn sói, đập tan sự chống trả có tổ chức của đàn ngựa, thảo nguyên trở thành chiến trường, những con ngựa tự dẫm lên gan ruột đang giẫy chết, khoang bụng khoang ngực vẫn nóng hôi hổi, chỉ một thoáng đã lạnh ngắt vì tuyết lọt vào. Những con khác lần lượt ngã xuống, không ngừng co giật, máu phun có vòi, nhuốm đỏ những bông tuyết bay qua. Hàng triệu viên tuyết hòn nhuốm đỏ đuổi theo những con ngựa kinh hoàng thất thố mà bỏ chạy. Bão tuyết càng mạnh lên, tiếp tục rượt theo đàn ngựa đến hơi thở cuối cùng.
Batu đứng như trời trồng trước cảnh báo thù tự sát của bầy sói, chân tay run bắn, mồ hôi trên người cũng đã đóng băng. Anh biết đại sự đã hỏng, không thể cứu vãn, nhưng anh vẫn muốn cố giữ lại vài con đầu đàn, bèn gò cương cho ngựa lấy đà rồi thúc ngựa bằng gót ủng, nhả cưong cho con ngựa ô vọt qua đầu lũ sói chặn đường, lướt tới con ngựa đầu đàn. Nhưng đàn ngựa đã bị sói quần cho tơi tả, binh bại như núi lở, toàn bộ số ngựa còn lại chạy xuôi gió tháo thân, nhanh như tên bắn, quên phắt phía nam là đầm lầy.
Con dốc xuôi về phía đầm lầy, thành ra đàn ngựa tăng tốc tự nhiên, bạch mao phong càng mạnh, đẩy sau lưng với sức mạnh khủng khiếp, đàn ngựa như vừa bay vừa chạy, ào ào núi lở đá lăn, lao tuột xuống đầm lầy. Tức thì băng mỏng vỡ vụn, bùn lầy tung toé, đàn ngựa đã sa xuống đầm. Chúng tuyệt vọng hí vang, giãy giụa điên cuồng mong thoát hiểm. Ngựa khiếp đảm trước hành động phục thù mang tính khủng bố của bầy sói, do dự một lát, rồi ra sức trườn vào nơi sâu hơn, thà chết đuối còn hơn rơi vào miệng sói, không cho kẻ thù truyền kiếp vớ bở. Những con ngựa đã bị con người diệt mất nam tính này khi cận kề cái chết đã vùng lên phản kháng lần cuối, lấy tự sát tập thể đối phó với tấn công tự sát của bầy sói. Chúng là những sinh mệnh mạnh mẽ nhất trên thảo nguyên.
Nhưng thảo nguyên tàn nhẫn coi khinh và không hề thương xót kẻ yếu. Khí ôn về đêm đã mau chóng kết thành một lớp băng mỏng trên mặt đầm, ven đầm tuy đông cứng, nhưng bên trong đầm vẫn lút một phần chiều cao của ngựa. Khi đàn ngựa lao xuống đã đụng lớp bùn đặc quánh so với lúc thường, bão tuyết và giá lạnh càng làm cho bùn đặc như keo níu chân đàn ngựa. Đàn ngựa ra sức trườn, miết, gồng mình lên mà bò, nhưng sau mỗi cử động, gió lại lùa tuyết vào khe hở giữa thân ngựa và đất bùn nhiều hơn, cuối cùng đàn ngựa kiệt sức, không cử động gì nữa. Con ngựa đầu tiên xông vào vẫn hở đầu, hở cổ, hở lưng, không lún sâu thêm. Những con phía sau thì mới lút bốn chân, mình vẫn trên mặt bùn. Lúc này đàn ngựa y hệt những tử tù trên pháp trường, băng tuyết trên mình như trói kiểu ngũ hoa, muốn chết mà không chết cho, hí thảm thiết, hơi phả ra như sương bám trên mặt lông. Đàn ngựa hiểu giờ đây không ai cứu nổi chúng, không ai cản được cuộc tàn sát tập thể đối với chúng.
Batu điều khiển con ngựa ô thận trọng tiến vào ven đầm. Chân vừa chạm bùn, con ngựa khịt khịt mũi, cúi thấp nhìn mặt đầm băng tuyết, không dám bước tiếp. Batu rọi đèn vào bên trong, trong tic tắc tuyết ngừng rơi, anh nhìn thấy bóng dáng đàn ngựa. Vài con cố lúc lắc cái đầu kêu cứu về phía chủ. Batu thúc ngựa tiến lên, con ngựa dụt dè bước lên năm sáu bước rồi hoảng hốt nhảy giật lùi cho đến khi gặp đất cứng mới dừng lại. Batu vụt con ngựa một roi vào mông, nó vẫn ỳ ra không chịu tiến. Anh định bỏ ngựa, tiếp cận đàn ngựa rồi bảo vệ chúng bằng súng. Nhưng nếu không cưỡi ngựa mà gặp sói thì mất lợi thế từ trên đánh xuống, đàn sói sẽ không sợ anh, cả người lẫn ngựa sẽ bị xé xác. Với lại, anh chỉ có mười viên đạn, bản lĩnh bằng trời thì cũng chỉ mỗi phát một con, không thể bắn chết hết. Mà dù anh có đuổi được đàn sói đi, thì chỉ qua nửa đêm bạch mao phong càng lạnh, sẽ đóng băng toàn bộ đàn ngựa dưới đầm lầy. Còn nếu như anh chạy về đại đội bộ cầu cứu thì đang lúc bão to như thế này, nhà nhà đang dốc sức bảo vệ đàn cừu, đại đội không thể điều lao động và xe đi cứu. Batu băng bám trên mặt, anh ngoảnh về phía đông, khấn: Lạy trời, lạy ông trời trường sinh bât tử! Hãy cho con trí tuệ, hãy cho con sức khoẻ như thần, hãy giúp con cứu lấy đàn sói! Nhưng ông Trời phồng mang mà thổi cho bạch mao phong át đi lời thỉnh cầu của anh.
Batu dùng bao tay bằng da cừu non lau nước mắt, lồng dây gậy vào cổ tay, sau đó anh gỡ quai, cầm súng trong tay cùng đèn pin, đứng đợi đàn sói. Lúc này, trong đầu anh chỉ một ý nghĩ: phải giết thêm mấy con nữa!
Sau đó một lúc Batu rét đến nỗi không thể ngồi vững trên yên. Bất chợt đàn sói lướt bên anh mà xuống đầm như một làn khói đen, chúng dừng lại ở rìa phía đông, làm tung lên một đám tuyết trắng. Một con sói nhỏ dáng thanh mảnh tách ra, thận trọng bò về phía đàn ngựa, thăm dò độ cứng của đất dưới chân. Batu thấy con sói nhỏ, không bắn. Con sói bò một quãng ngắn rồi chạy gằn về phía đàn ngựa, nó chưa đến nơi thì một cơn lốc hình thành từ mép đầm di chuyển về phía nó, đất trời nhập làm một, trắng xoá, cảnh tượng như bộ tộc bán khai tóc tai bù xù nhảy múa quanh đống lửa, người và gia súc bị làm vật hiến tế.
Batu không mở được mắt vì tuyết hòn. Anh cảm thấy rất lạnh, run cầm cập. Con ngựa ô khứu giác cực nhậy của anh đã bị nhiễm lạnh, run lẩy bẩy, cất tiếng hí đứt quãng. Đêm đen nặng nề, tuyết đầy trời, lại một lần nữa xoá sạch dáu vết cuộc thảm sát trên thảo nguyên.
Batu lạnh cứng người, anh lóng ngóng tắt đèn pin để bản thân anh chìm hẳn trong bóng tối, rối chĩa súng rất thấp về phía đầm lầy, nhưng sau đó đột nhiên anh nâng đầu nòng cao hơn nửa mét, lẩy ba phát: đoàng, đoàng, đoàng!
Chú thích:
[1]Thông tin chi tiết: Samuel Huntington, Sự xung đột giữa các nền văn minh (The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order, 1996), Nhiều dịch giả, Nxb. Thế giới; Hà Nội 1998; Thomas L. Friedman, Chiếc Lexus và cây ôliu (The Lexus and the Olive Tree, 1999), Lê Minh dịch, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 2005; Thomas L. Friedman, Thế giới phẳng (The World Is Flat: A Brief History of the Twenty-first Century, 2005), Nguyễn Quang A dịch, Nxb. Trẻ, Hà Nội 2006; Jared Diamond, Súng, vi trùng và thép - Định mệnh của các xã hội loài người (Guns, Germs, and Steel: The Fates of Human Societies, 1997), Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006; Jared Diamond, Loài tinh tinh thứ ba - Sự tiến hoá và tương lai của loài người (The Third Chimpanzee, 2000), Nguyễn Thuỷ Chung và Nguyễn Kim Nữ Thảo dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2007, Jared Diamond, Sụp đổ - Các xã hội đã thất bại hay thành công như thế nào (Collapse. How Societies Choose to Fail or Succeed, 2005), Hà Trần dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006; Jonathan Weiner, Mỏ chim sẻ đảo - Câu chuyện tiến hoá (The Beak of the Finch - A Story of Evolution in Our Time, 1995), Nguyễn Ngọc Hải dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006; James Surowiecki, Trí tuệ đám đông (The Wisdom of Crowds, 2004), Nguyễn Thị Yến dịch, Nxb. Tri Thức, Hà Nội 2006.
Tác giả Khương Nhung (Jiang Rong) Sinh năm 1947 tại Bắc Kinh. Thời kỳ cách mạng văn hoá, xung phong đi lao động ở vùng thảo nguyên Nội Mông 11 năm. Năm 1979, trở lại Bắc Kinh. Tiểu thuyết Tôtem sói (Lang đồ đằng) được Khương Nhung thai nghén và viết trong vòng 30 năm (từ 1971 đến 2003). Khi tác phẩm được xuất bản lần đầu năm 2004, lập tức nó trở thành cuốn sách bán chạy kỷ lục tại Trung Quốc và trở thành cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Trung Quốc được một nhà xuất bản nước ngoài mua bản quyền với giá 100.000 USD.
Dịch giả Trần Đình Hiến Sinh năm 1933 tại Vĩnh Phúc. Trần Đình Hiến từng là giảng viên Đại học Ngoại ngữ trước khi chuyển sang ngành ngoại giao. Là cán bộ Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc, ông từng có 10 năm công tác tại Bắc Kinh. Hiện Trần Đình Hiến sống và hoạt động dịch thuật tại Hà Nội.
Các tác phẩm dịch tiêu biểu: Đàn hương hình của Mạc Ngôn (Giải thưởng Hội Nhà văn năm 2003), Báu vật của đời của Mạc Ngôn, Cây không gió của Lý Nhuệ, Ngân thành cố sự của Lý Nhuệ, Tuyển tập kịch của Lão Xá và Tôtem sói của Khương Nhung.
______Hết chương 5______ |
|