Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 4926|Trả lời: 31
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết - Xuất Bản] Hẹn Em Ngày Đó | Guillaume Musso

[Lấy địa chỉ]
Đăng lúc 8-10-2011 17:24:14 | Xem tất |Chế độ đọc


Tên tác phẩm: Hẹn em ngày đó

Tên tác giả:Guillaume Musso

Tên dịch giả: Hương Lan

Thể loại: Tiểu thuyết

Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành

Nguồn tác phẩm: vnthuquan.net

Lời mở đầu


Tất cả chúng ta đều từng đặt ra ít nhất một lần câu hỏi này: nếu như có may mắn được quay lại, chúng ta sẽ thay đổi điều gì trong cuộc đời mình?
Nếu như được làm lại, ta sẽ tìm cách sửa chữa lỗi lầm nào? Sẽ lựa chọn xoá đi nỗi đau nào, sự ân hận, niềm hối tiếc nào?
Liệu ta có dám mang lại một ý nghĩa mới cho sự tồn tại của mình hay không?
Nhưng để trở thành ai?
Để đi đến đâu?
Và cùng với ai?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 8-10-2011 17:30:14 | Xem tất
Mở đầu

Đông-Bắc Campuchia

Mùa mưa tháng Chín năm 2006


Chiếc trực thăng của Hội Chữ Thập Đỏ hạ cánh đúng theo giờ quy định.
Đậu trên một dải đất cao được bao quanh bởi những cánh rừng, ngôi làng với khoảng một trăm mái nhà đơn sơ phần lớn được làm từ gỗ và cành cây. Vùng đất này dường như bị lãng quên, chẳng có khái niệm thời gian, cách biệt hẳn khỏi các khu du lịch của Angkor và Phnom Pênh. Bầu không khí bị bão hoà bởi độ ẩm và bùn bao phủ khắp nơi.

Viên phi công chẳng buồn tắt động cơ. Nhiệm vụ của anh: đón một nhân viên y tế nhân đạo về thành phố. Thông thường thì chẳng có gì phức tạp cả. Khong may, giờ đang là tháng Chín và những trận mưa như trút nước liên tục đổ xuống khiến việc điều khiển máy bay trở nên khó khăn. Còn nhiêu liệu, bình dự trữ có hạn, nhưng chắc cũng đủ để đưa mọi người về tới nơi an toàn.
Với điều kiện không được mất quá nhiều thời gian...
Hai bác sĩ phẫu thuật, một bác sĩ gây mê và hai nữ y tá từ trong trạm xá dựng tạm, nơi họ đã làm việc từ hôm qua, chạy ra. Mấy tuần nay, họ đã đi một lượt các ngôi làng quanh vùng, làm hết khả năng để giải quyết sự tàn phá của bệnh sốt rét, bênh AIDS hoặc bệnh lao, chăm sóc những bệnh nhân bị què cụt và lắp chân tay giả cho họ, trong cái xó xỉnh vẫn còn đầy những bãi mìn sát thương của đất nước này.
Theo tín hiệu của viên phi công, bốn trong số năm người đã chui vào trong trực thăng. Người cuối cùng, một người đàn ông khoảng sáu mươi tuổi, hơi tụt lại phía sau, ánh mắt còn hướng vào một nhóm người Campuchia đang vây quanh trực thăng. Ông không thể dứt ra để đi được.
- Phải đi thôi, bác sĩ! Viên phi công hét lên với ông. Nếu chúng ta không cất cánh ngay bây giờ, các ông sẽ không thể kịp chuyến bay được đâu.
Vị bác sĩ gật đầu. Ông vừa chuẩn bị lên trực thăng thì chợt bắt gặp ánh mắt của một đứa trẻ được bế trên tay một cụ già. Nó mấy tuổi rồi? Hai tuổi ư? Cùng lắm là ba. Khuôn mặt bé nhỏ bị biến dạng khủng khiếp bởi một vết dúm chạy dọc xuống xẻ đôi môi trên của nó. Dị tật bẩm sinh này sẽ buộc nó phải húp cháo hoặc bột quấy suốt đời và sẽ khiến nó không bao giờ nói ra nổi một từ nào.
- Khẩn trương lên! Một trong hai cô y tá khẩn khoản.
- Phải mổ cho đứa bé này, người bác sĩ cố hét lên át tiếng những cánh quạt đang quay trên đầu họ.
- Chúng ta không còn thời gian nữa! Các con đường đều không thể đi được nữa vì ngập lụt và trực thăng sẽ không thể quay lại đón chúng ta trong nhiều ngày.
Nhưng vị bác sĩ vẫn không hề nhúc nhích, ông không thể rời mắt khỏi cậu bé. Ông biết rằng ở vùng này, những em bé sơ sinh với một cái miệng "hở hàm ếch" đôi khi bị bỏ rơi bởi bố mẹ chúng theo những tập tục cổ truyền. Và một khi bị đưa vào trại trẻ mồ côi, dị tật đó cũng tước bỏ mọi cơ may để chúng được nhận về nuôi.
Cô y tá lại giục giã:
- Ngày kia người ta sẽ cần tới ông ở San Francisco, thưa bác sĩ. Ông có một lịch phẫu thuật kín đặc, những buổi hội thảo và...
- Cứ đi đi, đừng chờ tôi, cuối cùng người bác sĩ quyết định và rời xa chiếc trực thăng.
- Nếu vậy tôi ở lại với ông, cô y tá quyết định và nhảy xuống đất.
Cô tên là Emily. Đó là một cô gái trẻ người Mỹ làm việc trong cùng bệnh viện với ông.
Viên phi công lắc đầu thở dài. Chiếc trực thăng bay thẳng lên và dừng lại giây lát trên không trước khi cất cánh bay xa dần theo hướng Tây.
Vị bác sĩ ôm cậu bé trong vòng tay: nom cậu nhợt nhạt và co quắp. Có cô y tá đi cùng, ông bế đứa bé quay trở vào trạm xá, ông bắt đầu nói chuyện với nó để xua tan nỗi sợ hãi trước khi tiến hành gây mê. Sau khi đứa trẻ đã thiếp đi, ông cẩn thận dùng dao mổ lật lớp thịt ở hàm trên của nó lên và kéo dài ra để che lấp vết xẻ. Rồi cũng vẫn cẩn thận như vậy, ông tiếp tục tái tạo lại đôi môi và trả lại cho cậu bé một nụ cười thực thụ.

· * *
·

Sau khi ca mổ kết thúc, vị bác sĩ bước ra ngoài và ngồi nán lại trên hiên nhà đầy các mảnh tôn và những chiếc lá khô. Ca mổ đã kéo dài rất lâu. Ông hầu như không chợp mắt từ hai ngày nay và cảm thấy sự mệt mỏi chỉ trong chốc lát đã bắt kịp ông. Ông châm một điếu thuốc và nhìn quanh. Mưa đã ngớt dần. Một khoảng trời đổ xuống một thứ ánh sáng chói chang với gam màu chủ đạo là cam và tía.
Ông không hối hận vì đã ở lại. Mỗi năm, ông đều dành nhiều tuần lễ sang châu Phi hoặc châu Á làm việc cho tổ chức Chữ Thập Đỏ. Những chuyến công tác nhân đạo này không bao giờ để cho ông trở về nguyên vẹn, nhưng chúng như trở thành một thứ gây nghiện, một cách để ông thoát ra khỏi cuộc sống trơn tru của vị trưởng khoa trong một bệnh viện ở California.
Trong lúc dụi tắt điếu thuốc, ông cảm thấy sự có mặt của ai đó phía sau lưng. Quay người lại, ông nhận ra người đàn ông nhiều tuổi đã bế đứa bé khi chiếc trực thăng chuẩn bị cất cánh. Đó là một người gần như trưởng làng. Trong bộ quần áo truyền thống, lưng ông hơi còng và khuôn mặt đầy nếp nhăn. Thay cho lời chào, ông chắp hai tay đưa lên sát cằm, đầu ngẩng cao và nhìn thẳng vào mắt vị bác sĩ. Rồi bằng một cái ngoắc tay ra hiệu, ông mời bác sĩ theo vào trong nhà mình. Ông rót một ly rượu gạo mời bác sĩ trước khi cất tiếng nói những lời đầu tiên:
- Tên nó là Lou-Nan.
Người bác sĩ đoán đó là tên của đứa bé và chỉ khẽ gật đầu.
- Cảm ơn ông đã trả lại khuôn mặt cho nó, ông già Campuchia nói thêm.
Vị bác sĩ phẫu thuật trân trọng đón nhận những lời cảm ơn, gần như lúng túng, ông đưa mắt đi chỗ khac. Qua cửa sổ không có kính, ông có thể nhìn thấy cánh rừng nhiệt đới, dày và xanh mướt, trải dài ngay sát đó. Ông có cảm giác rất lạ khi hiểu rằng chỉ cách đó vài cây số, cao hơn một chút trên dãy Ratanakiri, vẫn có những con hổ, rắn và voi đang sinh sống...
Chìm đắm trong luồng suy tưởng, khó khăn lắm ông mới hiểu được ý nghĩa những lơi vị chủ nhà đang hỏi ông:
- Nếu như ông có điều kiện được thấy một trong những điều ước của mình trở thành sự thật, thì ông sẽ chọn gì?
- Xin lỗi, ông nói gì?
- Ước muốn lớn nhất trong đời ông là gì, thưa bác sĩ?
Thoạt đầu vị bác sĩ cố thử tìm một câu trả lời hóm hỉnh, nhưng kiệt sức vì mệt mỏi và bỗng nhiên cảm thấy vô cùng xúc động, ông nhẹ nhàng đáp:
- Tôi muốn gặp lại một người phụ nữ.
- Một người phụ nữ ư?
- Phải, chỉ một người... người duy nhất có ý nghĩa đối với tôi.
Vậy là, ở một chốn vô cùng xa xôi, cách xa những con mắt phương Tây, có điều gì đó rất trang trọng đang hình thành giữa hai người đàn ông.
- Người phụ nữ đó, ông không biết bà ta ở đâu ư? Ông già Khmer hỏi, ngạc nhiên vì ước muốn quá ư giản dị.
- Cô ấy đã qua đời cách đây ba mươi năm.
Ông già người châu Á khẽ nhíu mày và mải miết suy nghĩ. Rồi sau một quãng thời gian
im lặng, ông kiêu hãnh đứng lên và đi về phía cuối phòng, nơi có những tầng giá tạm bợ, chất đầy một phần những nguyên liệu của ông: những con cá ngựa sấy khô, những rễ củ nhân sâm, những con rắn độc quấn vào nhau trong dung dịch phoóc-môn.
Ông lục một lát trong đống hỗn độn đó cho tới khi thấy thứ cần tìm.

Khi ông quay trở lại chỗ bác sĩ, ông chìa ra một cái lọ nhỏ xíu bằng thuỷ tinh thổi.

Cái lọ có chứa mười viên nhộng màu vàng...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2011 20:27:18 | Xem tất
Chương 1

Lần gặp đầu tiên


Một buổi tối đẹp trời khi tương lai được gọi tên quá khứ.
Cũng là khi ta quay lại và nhìn thấy tuổi trẻ của chính mình.
LOUIS ARAGON




Sân bay Miami
Tháng Chín năm 1976
Elliott 30 tuổi


Đó là một buổi chiều Chủ nhật tháng Chín, dưới bầu trời Florida....

Ngồi sau tay lái của chiếc Thunderbird mui trần, một cô gái chạy xe trên con đường dẫn tới sân bay. Mái tóc tung bay trong gió, cô lái rất nhanh, vượt qua nhiều chiếc xe khác trước khi dừng lại một chốc trước sảnh khởi hành. Khoảng thời gian chỉ đủ để cô có thể thả người đàn ông ngồi trên ghế bên cạnh xuống đó. Anh lấy chiếc túi để trong cốp xe rồi nghiêng người bên cửa sổ tặng cho cô gái lái xe một nụ hôn. Một tiếng sập cửa rồi anh đi vào trong toà nhà bằng kính và thép.
Anh là Elliott Cooper. Dáng người anh dong dỏng cao và vẻ ngoài duyên dáng. Anh là bác sĩ ở San Francisco, nhưng chiếc áo khoác da và mái tóc bù xù mang lại cho anh dáng vẻ của một thiếu niên.
Một cách máy móc, anh đi về quầy làm thủ tục để lấy thẻ lên máy bay chuyến Miami - San Francisco.
- Em dám cá là anh đã bắt đầu nhớ em...
Bất ngờ vì giọng nói thân thuộc, Elliott giật mình quay lại.
Cô gái đứng trước mặt anh đang ném cho anh một ánh mắt màu lục bảo, pha trộn giữa sự cứng rắn và mềm yếu. Cô mặc chiếc quần jean cạp trễ, áo khoác bằng da thuộc có in hàng chữ peace and love và chiếc áo phông sặc sỡ kiểu Braxin, xứ sở gốc của cô.
- Lần cuối cùng anh hôn em là từ khi nào ấy nhỉ? Anh vừa hỏi vừa đặt tay lên cổ cô.
- Ít nhất cũng phải hơn một phút rồi.
- Một thiên niên kỷ...
Anh ôm lấy cô và ghì sát vào mình.
Cô là Ilena, người phụ nữ của đời anh. Anh quen cô đã được mười năm và nhờ có cô mà anh đạt được tất cả những gì tốt đẹp nhất của mình: nghề bác sĩ của anh, sự cởi mở đối với những người khác và một số đòi hỏi trong cách tổ chức cuộc sống...
Anh ngạc nhiên thấy cô quay trở lại, vì họ vẫn luôn thống nhất với nhau để tránh kéo dài những cảnh chia ly, ý thức rất rõ ràng rằng được thêm một vài phút cuối cùng sẽ là sự trả giá bởi nhiều day dứt hơn là an ủi.
Câu chuyện của họ khá phức tạp. Cô sống ở Florida, còn anh ở San Francisco.
Tình yêu vượt khoảng cách của họ tồn tại vượt qua sự chênh lệch về giờ giấc, bắt nhịp bởi bốn múi giờ và bốn ngàn cây số ngăn cách bờ biển phía Đông với bờ biển phía Tây.
Tất nhiên, sau từng ấy năm, lẽ ra họ đã có thể chọn cách chuyển đến sống chung với nhau. Nhưng họ đã không làm như vậy. Ban đầu là do họ nghi ngại sự tàn úa theo thời gian. Bởi vì cuộc sống hàng ngày, trong một hoàn cảnh êm đềm hơn, sẽ tước bỏ của họ những xúc cảm nồng nhiệt từ trái tim mà họ có được mỗi lần gặp lại nhau và đã mang lại cho họ một luồng dưỡng khí.
Thế rồi, mỗi người đã tự xây dựng cho mình một cuộc sống trong môi trường công việc. Một người hướng về Thái Bình Dương, người kia lại hướng về Đại Tây Dương. Sau những năm dài đằng đẵng theo học ngành y, Elliott vừa được nhận vào vị trí bác sĩ phẫu thuật trong một bệnh viện ở San FraciscoCòn Ilena, cô chăm sóc những chú cá voi và hải cẩu của mình trong Ocean World ở Orlando, công viên nước lớn nhất thế giới, nơi cô làm việc với cương vị là bác sĩ thú y. Từ một vài tháng gần đây, cô đã dành rất nhiều thời gian của mình cho một tổ chức bắt đầu nổi danh có tên gọi là Hoà Bình Xanh. Được thành lập cách đây bốn năm bởi một nhóm người đấu tranh cho hoà bình và môi trường sinh thái, liên minh của những "chiến sĩ cầu vồng" đã được biết đến nhờ sự đấu tranh chống lại những cuộc thử nghiệm hạt nhân. Song lý do chủ yếu khiến Ilena tham gia các hoạt động của tổ chức này là để chống lại việc giết hại cá voi và hải cẩu.
Vậy là mỗi người đều có một cuộc sống đầy bận rộn. Hầu như không có thời gian để buồn. Mặc dù vậy... Mỗi lần từ giã lại trở nên khó khăn hơn so với lần trước đó.
"Đã đến giờ lên máy bay của hành khách bay chuyến 711 tới San Francisco, cửa sổ 18..."
- Chuyến của anh phải không? Cô vừa hỏi vừa nới vòng tay.
Anh gật đầu xác nhận, và vì anh biết rõ tính cô:
- Em muốn nói gì với anh trước khi anh đi phải không?
- Phải. Em sẽ tiễn anh ra tới cửa phòng chờ, cô vừa nói vừa cầm lấy tay anh.
Rồi vừa bước đi bên cạnh anh, cô vừa nói một tràng bằng giọng chứa âm sắc Nam Mỹ mà anh vô cùng yêu thích:
- Em vẫn biết thế giới này rồi sẽ gặp phải thảm hoạ. Elliott, nào là chiến tranh lạnh, cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân...
Mỗi lần họ chia tay nhau, anh đều nhìn cô như thể đây là lần cuối cùng anh được gặp cô. Cô đẹp như một ngọn lửa.
- ... sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên, đấy là còn chưa kể nạn ô nhiễm, sự phá huỷ các cánh rừng nhiệt đới hay...
- Ilena?
- Dạ?
- Em muốn nói chuyện gì vậy?
- Em muốn chúng ta có một đứa con, Elliott...
- Ở đây, ngay lúc này, giữa sân bay sao? Trước mặt tất cả mọi người à?
Đó là tất cả những gì mà anh tìm thấy để trả lời. Một chút hài hước để che giấu đi sự ngỡ ngàng của anh. Nhưng Ilena không hề có ý định đùa giỡn.
- Em không đùa đâu, Elliott. Thậm chí em còn khuyên anh nên suy nghĩ thật nghiêm túc về chuyện này, cô vừa nói vừa thả bàn tay anh ra và đi về phía lối ra.
- Chờ anh đã! Anh hét lên để níu cô lại.
"Đây là lần gọi cuối cùng, xin mời ông Elliott Cooper, hành khách đi chuyến bay số 711 đến...".
- Khỉ thật! Anh buột miệng và miễn cưỡng đi lên thang cuốn dẫn đến phòng chờ ra máy bay.
Lên gần đến bên trên, anh mới quay lại để vẫy tay chào cô lần cuối.
Ánh nắng tháng Chín tràn ngập sảnh khởi hành.
Elliott vẫy tay.
Nhưng Ilena đã biến mất từ lâu.


* * *


Trời đã tối khi máy bay hạ cánh xuống San Francisco. Chuyến bay kéo dài sáu tiếng và đã hơn 21 giờ ở California.
Elliott chuẩn bị ra khỏi sảnh sân bay và bắt một chiếc taxi nhưng anh chợt đổi ý. Anh sắp lả đi vì đói. Choáng váng vì lời đề nghị của Ilena, anh đã không hề đụng tới khay thức ăn được dọn ra trên máy bay và anh biết tủ lạnh nhà mình trống rỗng. Lên đến tầng hai, anh nhìn thấy một quán mang tên cầu Cổng Vàng Café, anh đã tới đây một lần cùng với Matt, người bạn thân nhất thỉnh thoảng cũng đi cùng anh đến bờ biển phía đông. Anh ngồi vào quầy và gọi một đĩa salat, hai cái bánh mì vòng và một ly chardonnay. Mệt mỏi vì chuyến bay này, anh dụi mắt trước khi yêu cầu cho anh một vài tấm thẻ để sử dụng máy điện thoại công cộng đặt ở cuối phòng. Anh quay số của Ilena nhưng không ai trả lời máy. Vì lệch giờ nên lúc này ở Florida đã là nửa đêm. Chắc chắn Ilena đang ở nhà nhưng rõ ràng cô không muốn trả lời anh.
Không nằm ngoài dự đoán...
Tuy vậy, Elliott không ân hận vì phản ứng của anh đối với đề nghị của Ilena. Sự thật là anh không muốn có con.
Vậy đấy.
Đó không phải là vấn đề tình cảm: anh rất yêu Ilena và tình yêu của anh đối với cô nhiều không kể xiết. Nhưng chỉ tình yêu thôi thì chưa đủ. Vì trong bầu không khí của những năm bảy mươi này, anh thấy nhân loại dường như vẫn còn chưa đi đúng hướng, và nói cho cùng, anh cũng không muốn gánh trách nhiệm sinh thành một đeứa bé.
Điều này chắc chắn Ilena sẽ không muốn nghe.
Quay trở lại quầy, anh ăn nốt khẩu phần của mình rồi gọi một tách cà phê. Anh rất căng thẳng và bẻ các ngón tay kêu răng rắc một cách gần như vô thức. Trong túi áo vest, anh cảm thấy bao thuốc lá như đang ngọ nguậy hồi theo và anh không hề cưỡng lại ý muốn đốt một điếu.
Anh biết anh cần phải dừng hút thuốc. Xung quanh anh, người ta nói ngày càng nhiều về tác hại của thuốc lá. Từ khoảng mười lăm năm nay, những nghiên cứu về dịch tễ đã chỉ ra sự phụ thuộc vào chất ni-cô-tin, và là một bác sĩ phẫu thuật, Elliott biết rất rõ rằng những nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi, cũng như nguy cơ tai biến tim mạch sẽ rất cao đối với những người hút thuốc lá. Nhưng giống như rất nhiều bác sĩ khác, anh quan tâm đến sức khoẻ của người khác nhiều hơn đến sức khoẻ bản thân. Cần phải nói thêm rằng ở thời đại của anh, người ta vẫn có thể hút thuốc bình thường trong nhà hàng hay trên máy bay. Là thời đại mà thuốc lá vẫn còn là biểu tượng của sự quyến rũ lịch lãm và của tự do văn hóa và xã hội.
Mình sẽ sớm bỏ thôi, anh nghĩ trong lúc phả ra một làn khói thuốc, nhưng không phải tối nay... Anh cảm thấy quá chán nản để thực hiện nỗ lực lớn lao đó.
Không biết làm gì, anh đưa mắt nhìn qua vách kính và đó là lúc anh nhìn thấy ông ta lần đầu tiên: một người đàn ông mặc một bộ pyjama kỳ quặc màu xanh da trời có vẻ như đang quan sát anh từ bên kia lớp kính. Anh nheo mắt lại để nhìn ông cho rõ hơn. Ông khoảng sáu mươi tuổi, dáng vẻ vẫn còn tráng kiện và một bộ râu quai nón ngắn hơi ngả màu xám khiến cho ông trông hơi giống Sean Connery khi già đi. Elliott nhíu mày. Người đàn ông này làm gì ở đây, chân trần và mặc pyjama, vào cái giờ muộn màng này, lại ở giữa sân bay?
Lẽ ra thì anh bác sĩ trẻ chẳng cần bận tâm làm gì, nhưng có một sức mạnh vô hình nào đó buộc anh rời chỗ ngồi và đi ra khỏi quán. Người đàn ông có vẻ mất phương hướng, giống như vừa từ một nơi nào lạc đến. Càng tiến đến gần ông, Elliott càng bị xâm lấn bởi một cảm giác khó chụ mà anh không dám thừa nhận với bản thân. Người đàn ông này là ai? Có thể là một bệnh nhân vừa trốn khỏi bệnh viện hay một cơ sở điều trị... Trong trường hợp đó, là một bác sĩ, chẳng phải anh có bổn phận giúp đỡ ông ta sao?
Khi chỉ còn cách chưa đầy ba mét, anh bỗng hiểu ra điều gì khiến anh bấn loạn đến như vậy: người đàn ông trông giống bố anh một cách kỳ lạ, ông đã qua đời cách đây năm năm vì bệnh ung thư tuyến tuỵ.
Bối rối, anh tiến lại gần hơn nữa. Càng đứng gần, càng thấy giống đến mức ấn tượng: cũng khuôn mặt ấy, cũng một lúm đồng tiền trên má mà anh đã được thừa hưởng...
Và nếu đó đúng là ông thì...
Không, anh cần phải lấy lại bình tĩnh! Bố anh đã qua đời và mất thật rồi. Anh đã chứng kiến nhập quan và hoả táng.
- Tôi có thể giúp gì được cho ông, thưa ông?
Người đàn ông lùi lại một bước. Ông ta có vẻ cũng bối rối y như anh và ở ông toát ra một sự tương phản giữa sức mạnh và sự cùng quẫn.
- Tôi có thể giúp gì ông? Anh nhắc lại.
Người kia chỉ thì thầm:
- Elliott...
Sao ông ta lại biết tên anh? Và giọng nói này...
Nếu nói rằng bố anh và anh chưa bao giờ gần gũi nhau thì cũng không hẳn. Nhưng giờ khi bố anh đã qua đời, đôi khi Elliott cũng ân hận vì đã không nỗ lực nhiều trong quá khứ để tìm cách hiểu ông hơn.
Đứng ngây người và hoàn toàn ý thức được sự vô lý trong câu hỏi của mình, Elliott không thể kìm được và hỏi bằng giọng nghẹn ngào cảm xúc:
- Bố?
- Không, Elliott, tôi không phải là bố anh.
Thật lạ, câu trả lời hợp lý đó lại chẳng hề khiến anh cảm thấy yên tâm hơn một chút gì, giống như có một linh cảm đã mách bảo anh rằng điều đáng ngạc nhiên nhất vẫn còn đang ở phía trước.
- Vậy thì ông là ai?
Người đàn ông đặt tay lên vai anh. Một tia sáng quen thuộc ánh lên trong mắt người đàn ông, và ông ta ngập ngừng giây lát trước khi trả lời.
- Tôi là anh, Elliott...
Chàng bác sĩ lùi lai một bước rồi đứng sững như bị sét đánh; người đàn ông kết thúc câu nói:
- ... tôi là anh, của ba mươi năm về sau.



* * *


Tôi, của ba mươi năm sau?
Elliott khoát tay tỏ vẻ không hiểu.
- Ông nói thế là ý gì?
Người đàn ông mở miệng, nhưng chưa kịp có thêm lời giải thích nào: một dòng máu bỗng rỉ ra từ mũi ông và rơi thành giọt to xuống phần trên bộ pyjama.
- Ngửa đầu ra phía sau! Elliott ra lệnh và rút từ trong túi áo ra một chiếc khăn giấy mà anh đã máy móc nhét vào đó khi còn ở trong quán và rịt lên mũi người mà giờ anh đang coi như một bệnh nhân của anh.
- Sẽ ổn ngay thôi, anh nói bằng giọng chắc nịch.
Trong giây lát, anh thấy tiếc vì đã không mang theo mình túi cứu thương, nhưng máu đã cầm lại tương đối nhanh.
- Đi với tôi, cần phải cho ông một ít nước lên mặt.
Người đàn ông nối bước theo anh không nói năng gì. Nhưng khi họ đi đến toa-lét, bỗng nhiên người ông ta chợt rung lên, giống như đang bị lên cơn động kinh.
Elliott muốn giúp ông ta, nhưng ông ta vùng đẩy anh ra.
- Cứ mặc tôi! Ông yêu cầu và đẩy cánh cửa phòng vệ sinh.
Bị ngăn lại, Elliott quyết định đứng chờ bên ngoài. Anh cảm thấy mình có trách nhiệm với người đàn ông này và anh chưa yên tâm về tình trạng ông ta.
Chuyện này thật kỳ lạ. Trước hết là sự giống nhau về vẻ bên ngoài, rồi câu nói không đầu không cuối - tôi là anh của ba mươi năm sau - và giờ thì việc chảy máu cam và cơn run lẩy bẩy.
Khỉ thật, ngày gì thế này!
Nhưng còn lâu mới kết thúc một ngày, vì sau một hồi lâu, cảm thấy mình chờ như vậy đã khá lâu, anh quyết định bước vào trong toa-lét.
- Này ông?
Đó là một căn phòng rất dài. Trước tiên Elliott nhìn dãy bồn rửa tay. Chẳng có ai. Nơi này chẳng có cửa sổ mà cũng chẳng có cửa thoát hiểm. Vậy là ông ta ở trong một buồng vệ sinh.
- Ông có ở đó không, thưa ông?
Không nghe ai trả lời. Sợ ông ta bị ngất, bác sĩ vội vàng mở cánh cửa đầu tiên ra: không có ai.
Cánh cửa thứ hai, không có ai.
Cánh cửa thứ ba, thứ tư... rồi cánh cửa thứ mười: trống trơn.
Không còn cách nào khác, anh đưa mắt nhìn lên trần, không một tấm ván nào có vẻ bị di chuyển.

Đúng là không thể, nhưng đành phải thừa nhận một điều hiển nhiên - người đàn ông đã biến mất.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 14-10-2011 14:29:02 | Xem tất
Chương 2


Tương lai hấp dẫn tôi: đó là nơi tôi đang
định trải qua những tháng năm sắp tới.
WOODY ALLEN




San Francisco
Tháng Chín năm 2006
Elliott 60 tuổi


Elliott mở choàng mắt. Ông đang nằm vắt ngang giường. Tim ông đập thình thịch và toàn thân ướt đẫm mồ hôi.

Cơn ác mộng đáng nguyền rủa!

Ông là người chẳng bao giờ nhớ nổi những giấc mơ của mình, vậy mà ông vừa mới có một giấc mơ vô cùng kỳ lạ: ông lang thang trong sân bay ở San Francisco, cho tới khi ông chợt gặp phải... một bản sao của chính mình. Nhưng là một bản sao trẻ hơn và anh ta có vẻ ngạc nhiên không kém khi nhìn thấy ông. Tất cả có vẻ như rất thật, đến mức khiến ông bối rối, giống như ông đã thực sự bị đưa tới ba mươi năm về trước.
Elliott nhấn vào nút bấm để rèm cửa sổ tự động mở ra rồi ném ánh mắt lo lắng về phía chiếc lọ đặt trên bàn đầu giường nơi để những viên nhộng màu vàng. Ông mở cái lọ ra: vẫn còn chín viên. Hôm qua, trước khi đi ngủ, ông đã tò mò uống thử một viên. Phải chăng nó là nguồn gốc dẫn đến giấc mơ bí hiểm của ông? Ông già người Campuchia đã đưa cho ông chiếc lọ nhưng chỉ nói mơ hồ về tác dụng của thuốc, cho dù cụ đã trịnh trọng khuyến cáo ông "không bao giờ được lạm dụng chúng".
Elliott khó nhọc đứng dậy và tiến lại gần cửa sổ rộng nhìn ra biển. Từ chỗ này, ông có được một góc nhìn tuyệt đẹp hướng ra đại dương, đảo Alcatraz và cầu Cổng Vàng. Mặt trời lúc bình minh chiếu xuống thành phố một làn ánh sáng đỏ liên tục đổi sắc thái mỗi phút đồng hồ. Ngoài khơi, những chiếc thuyền buồm và tàu thuỷ chạy xen kẽ nhau trong tiếng còi, và mặc dù mới sáng sớm song một vài người tập thể dục đã chạy bộ dọc theo Marina Green, một thảm cỏ dài nằm dọc theo bờ biển.
Nhìn những khung cảnh quen thuộc đó, ông cảm thấy bình tâm lại đôi chút. Những trăn trở của buổi đêm vừa qua chắc chắn sẽ nhanh chóng bị lãng quên. Ông vừa mới tự nhủ với mình như vậy thì lớp kính đã phản chiếu cho ông thấy một hình ảnh đáng kinh ngạc: một vết sẫm hiện lên trên vạt áo ngủ của ông. Ông cúi xuống để quan sát vết bẩn đó cho rõ hơn.
Máu ư?
Nhịp tim ông đổ dồn, nhưng điều đó kéo dài không lâu. Ông đã bị chảy máu cam trong đêm và đã mang cả biến cố đó vào trong giấc mơ. Đây là một chuyện hoàn toàn bình thường, chẳng có gì phải hoảng hốt lên cả.
Mới yên tâm được một nửa, ông đi vào buồng tắm để chuẩn bị tắm rửa trước khi đi làm. Ông điều chỉnh vòi hoa sen và đứng sững ra một lát, chìm trong luồng suy tư, trong khi buồng tắm bắt đầu ngập đầy hơi nước. Vẫn còn có điều gì đó khiến ông thấy băn khoăn. Nhưng là gì mới được? Ông bắt đầu cởi bỏ quần áo thì bỗng một trực giác xui khiến ông lục tay vào túi bộ pyjama. Trong túi có một tờ khăn giấy lấm lem máu. Sau những vệt huyết cầu tố còn vương lại, người ta vẫn có thể nhận ra được hình vẽ chiếc cầu nổi tiếng nhất thành phố và một dòng chữ vắt ngang: Quán cà phê cầu Cổng Vàng - Sân bay San Francisco.
Lại một lần nữa, tim ông đập rộn lên và lần này thì ông cảm thấy thật khó có thể lấy lại được bình tĩnh.


* * *



Có phải căn bệnh khiến đầu óc ông kém tỉnh táo rồi chăng?
Vài tháng trước, qua một lần xét nghiệm, ông biết được mình đã mắc bệnh ung thư phổi. Nói cho cùng, điều này chẳng hề khiến ông ngạc nhiên: người ta không thể hút hơn một bao thuốc mỗi ngày liên tục trong vòng bốn mươi năm mà lại không gặp trục trặc gì. Những hiểm hoạ, ông đã biết từ lâu và ông đã chấp nhận chúng. Vậy đấy, đó là rủi ro của cuộc sống. Ông chưa bao giờ tìm cách có một cuộc sống tinh khiết cũng như tự hào về mình bằng mọi giá để tránh khỏi những tổn thương trong cuộc sống. Bằng cáhc nào đó, ông tin vào số phận: mọi việc sẽ đến nếu như chúng phải đến. Và con người bắt buộc phải gánh chịu chúng.
Một cách khách quan, đây là một loại ung thư rất nguy hiểm: một trong những thể phát triển nhanh nhất và khó chữa trị nhất. Những năm gần đây, y học đã tiến bộ rất nhiều trong lĩnh vực này và những loại thuốc mới giờ đã cho phép kéo dài sự sống cho những người bệnh. Nhưng với ông thì đã quá muộn: khối u đã không được phát hiện đủ sớm và các xét nghiệm đã cho thấy sự di căn sang các cơ quan khác.
Người ta đã đề nghị ông theo điều trị một phác đồ điển hình - phối hợp giữa hoá trị và xạ trị - nhưng ông từ chối. Đến giai đoạn này, chẳng còn gì nhiều để thử nữa. Kết quả cuộc chiến đã được định sẵn: ông sẽ chết trong vài tháng nữa.
Cho tới giờ, ông đã thành công trong việc che giấu căn bệnh của mình, nhưng ông biết sẽ không thể tiếp tục như thế mãi. Các cơn ho của ông ngày một kéo dài, những cơn đau hai bên sườn và vai ngày một trở nên dữ dội và sự mệt mỏi đôi khi bất ngờ xâm chiếm ông, mặc dù ông vẫn nổi tiếng là người không bao giờ biết mệt.
Song đau đớn không phải là điều khiến ông sợ hãi. Điều đáng gờm nhất đối với ông là phản ứng của những người xung quanh. Đặc biệt là của Angie, đứa con gái hai mươi tuổi của ông, hiện đang là sinh viên ở New York, và của Matt, người bạn thân nhất mà ông vẫn thường chia sẻ mọi điều.
Ông bước ra khỏi vòi sen, nhanh chóng lau khô người và mở tủ quần áo. Hơn bao giờ hết, ông cẩn thận lựa chọn trang phục: áo sơ-mi bằng vải bông Ai Cập và com-lê Ý. Mặc quần áo xong, bóng đen của bệnh tật đã bị xoá bỏ để thay vào đó là một người vẫn còn trong độ tuổi sung mãn, dáng vẻ rất đàn ông. Cho tới gần đây, với sự quyến rũ không thể phủ nhận, thỉnh thoảng ông vẫn còn cặp với một vài phụ nữ trẻ đẹp đôi khi chỉ bằng nửa tuổi ông. Song những mối quan hệ đó không bao giờ kéo dài. Tất cả những ai đã từng thân cận với Elliott Cooper đều biết rằng chỉ có hai người phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời ông. Người thứ nhất là con gái ông, Angie. Và người thứ hai tên là Ilena.
Bà đã qua đời từ cách đây ba mươi năm.


* * *


Ông bước ra đường và được đón chào bởi ánh nắng, những đợt sóng và gió. Ông đứng lại giây lát để tận hưởng một ngày mới đang lên trước khi mở cánh cửa nhà để xe nhỏ. Rồi ông chui vào trong một chiếc Coccinelle kiểu cổ màu da cam, tàn tích cuối cùng của một thời hippi đã qua từ lâu. Hạ mui xe xuống, ông chậm rãi nhập vào dòng xe cộ trên đại lộ và chạy lên phố Fillmore về phía những căn nhà theo kiểu Victoria trên Pacific Height. Giống như trong các bộ phim, các con phố của San Francisco, quanh co và dốc đứng như đường tàu lượn. Nhưng Elliott đã qua cái tuổi thích chơi trò đánh võng mỗi khi tới chỗ ngoặt. Lên tới phố California, ông rẽ trái và gặp một chiếc xe điện đang chở những người khách du lịch đầu tiên về phía khu Chinatown. Trước khi chạy tới khu phố Tàu, ông chui thẳng vào một bãi đậu xe ngầm nằm cách Nhà thờ Grace hai toà nhà và đến Lenox Medical Center nơi ông làm việc từ hơn ba chục năm nay.
Là chủ nhiệm khoa phẫu thuật bệnh nhi, ông được coi như một trong những nhân vật có cỡ của bệnh viện. Nhưng ông mới chỉ được thăng chức cách đây không lâu và ông đạt được thành quả đó lúc đã có tuổi. Trong suốt cả sự nghiệp của mình, ông lúc nào cũng dành mọi ưu tiên cho bệnh nhân và luôn nỗ lực - một điều khá hiếm thấy ở một bác sĩ phẫu thuật - để không chỉ dừng lại ở những bài thuyết trình mang tính kỹ thuật, mà còn quan tâm cả tới phương diện tình cảm. Ông không bao giờ bị choáng ngợp bởi sự tôn vinh và cũng chẳng bao giờ tìm cách xây dựng cho mình một mạng lưới các mối quan hệ thông qua các buổi chơi golf hay các kỳ nghỉ cuối tuần bên hồ Tahoe. Mặc dù vậy, mỗi khi con cái của chính các đồng nghiệp của ông cần phải phẫu thuật, họ luôn tìm đến ông, một dấu hiệu không khi nào gây nhầm lẫn trong nghề này.


* * *


- Cậu có thể phân tích cái này cho tôi được không?
Elliott đưa cho Samuel Below, trưởng phòng xét nghiệm của bệnh viện, một túi nilon nhỏ trong đó ông đã gạt vào một chút bột vụn moi từ đáy chiếc lọ đựng thuốc.
- Cái gì thế này?
- Thì anh phải nói cho tôi biết mới được chứ...
Rồi ông nhanh chóng lướt qua căng-tin, nhập liều cafein đầu tiên rồi lên phòng mổ để thay đồ và tìm gặp kíp mổ của ông bao gồm một bác sĩ gây mê, một nữ y tá và một bác sĩ trẻ người Ấn do ông giám sát thực tập. Bệnh nhân là một trẻ sơ sinh yếu ớt mới bảy tháng tuổi tên Jack bị bệnh tim. Dị tật ở tim của em ngăn chặn sự chuyển hoá ô-xy trong máy khiến cho da em có màu tái xanh, các ngón tay cứng đờ và đôi môi thâm tím.
Trong khi chuẩn bị rạch dao vào lồng ngực đứa trẻ, Elliott không thể ngăn mình có một thứ cảm giác hồi hộp, giống như một nghệ sĩ trước lúc ra sân khấu. Đối với ông, những ca mổ tim luôn chiếm giữ một chút gì đó mầu nhiệm. Ông đã thực hiện được bao nhiêu ca mổ rồi? Hàng trăm, hàng ngàn thì phải. Năm năm trước, một đoàn làm phim truyền hình đã thực hiện một phóng sự về ông trong đó họ ca ngợi "những ngón tay vàng" có khả năng khâu lại những mạch máu mảnh như thân kim với những sợi chỉ không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Nhưng lần nào cũng đều căng thẳng như thế, cùng một nỗi sợ hãi thất bại.
Ca mổ kéo dài hơn bốn tiếng, trong thời gian đó tim phổi tạm ngừng hoạt động và được thay thế bằng một chiếc máy. Giống như một người thợ sửa ống nước, Elliott bít lỗ hổng giữa hai buồng tim lạ rồi mở một đường lên phổi để tránh cho máu xanh khỏi tràn vào động mạch chủ. Đây là một công việc tỉ mỉ đòi hỏi rất nhiều rèn luyện và tập trung cao độ. Đôi tay ông không hề run, nhưng một phần tâm trí của ông lại đang để ở nơi khác: nơi chính căn bệnh của bản thân mà giờ ông không thể tảng lờ đi được nữa và giấc mơ kỳ lạ đêm qua. Chợt ý thức được sự mất tập trung của mình, ông tự cảm thấy có lỗi và lại quay về với công việc mà ông phải hoàn thành.
Sau khi ca phẫu thuật kết thúc, Elliott giải thích với bố mẹ của bệnh nhi rằng giờ vẫn còn quá sớm để có thể đưa ra nhận xét về kết quả của ca mổ. Trong vòng vài ngày tới, đứa trẻ sẽ được theo dõi tại khoa săn sóc đặc biệt nơi vẫn tiếp tục được giúp thở bằng máy cho tới khi, từng chút một, các lá phổi và tim của bé phục hồi toàn bộ chức năng.
Vẫn còn trong trang phục phẫu thuật, ông đi xuống bãi đậu xe của bệnh viện. Mặt trời đã lên cao trên bầu trời, toả ánh nắng chói chang và trong một khoảnh khắc ông cảm thấy choáng váng. Ông mệt lử, kiệt sức, trong đầu đầy những câu hỏi: phủ nhận căn bệnh của mình như ông đang làm liệu có phải là một việc đúng đắn? Liệu có cẩn trọng khi tiếp tục phẫu thuật với nguy cơ mạo hiểm tính mạng của những người bệnh? Chuyện gì đã xảy ra sáng nay nếu ông bị choáng váng ngay giữa ca mổ?
Để tiếp sức cho dòng suy tưởng, ông châm một điếu thuốc và rít hơi đầu tiên với vẻ mãn nguyện. Đây là điều duy nhất chắc chắn đối với căn bệnh ung thư này: giờ thì ông có thể hút thuốc bao nhiêu tuỳ thích, việc đó chẳng hề thay đổi tiến triển của bệnh nữa.
Một làn gió nhẹ khiến ông rùng mình. Từ khi biết mình sắp chết, ông trở nên mẫn cảm hơn đối với tất cả mọi thứ xung quanh. Ông gần như có thể cảm nhận được hơi thở phập phồng của thành phố giống như đó là một cơ thể sống.Bệnh viện toạ lạc trên ngọn đồi nhỏ Nob Hill. Từ đây, người ta có thể mường tượng ra sự chuyển mình của mọi sự bên dưới khu cảng và trên các bến tàu. Ông rít một hơi cuối cùng trước khi dụi tắt điếu thuốc. Ông đã ra quyết định: ông sẽ dừng phẫu thuật vào cuối tháng này và sẽ thông báo để con gái và Matt biết về bệnh tình của mình.
Vậy đấy, thế là hết. Không thể nào quay lại được. Sẽ chẳng bao giờ ông còn thực hiện được công việc duy nhất mà trong đó ông cảm thấy mình thực sự sống có ích: chữa bệnh cho những người khác.
Ông cân nhắc thêm chút nữa về quyết định đột ngột đó và chợt cảm thấy mình già cỗi và đáng thương.
- Bác sĩ Cooper?
Elliott quay người lại và nhìn thấy Sharika, cô bác sĩ nội trú người Ấn đang đứng đối diện với ông. Cô đã thay đồ, cởi chiếc áo blouse trắng ra và mặc chiếc quần jean bạc phếch cùng chiếc áo hai dây mảnh mai. Gần như nhút nhát, cô đưa cho ông chiếc cốc nhựa đựng cà phê. Toàn thân cô toát ra vẻ đẹp, sự trẻ trung và sức sống.
Elliott nhận lấy cốc nước và cảm ơn cô bằng một nụ cười.
- Tôi đến để tạm biệt ông, thưa bác sĩ.
- Tạm biệt?
- Đợt thực tập của tôi ở Mỹ đến hôm nay là kết thúc.
- À phải, ông nhớ ra, cô sẽ quay trở về Bombay.
- Cảm ơn ông đã đón tiếp và đối xử tốt với tôi. Tôi đã học được rất nhiều với ông.
- Cám ơn sự giúp đỡ của cô, Sharika, cô sẽ là một bác sĩ giỏi.
- Còn ông, ông là một bác sĩ vĩ đại.
Elliott lắc đầu, gần như lúng túng trước lời khen.
Cô gái Ấn Độ tiến một bước sát đến chỗ ông.
- Tôi tự nhủ... tôi nghĩ có lẽ chúng ta có thể ra ngoài ăn bữa tối.
Trong vòng chưa đầy một giây, làn da màu đồng tuyệt đẹp của cô chuyển sang đỏ rực. Cô rất nhút nhát và đã phải cố gắng lắm mới có thể đưa ra lời đề nghị.
- Tôi xin lỗi, nhưng điều này thì không thể, Elliott trả lời và vô cùng ngạc nhiên vì câu chuyện đã xoay chuyển theo hướng đó.
- Tôi hiểu, cô nói.
Cô ngừng lại vài giây rồi nói thêm:
- Đợt thực tập của tôi chính thức kết thúc lúc mười tám giờ. Tối nay, ông sẽ không còn là cấp trên của tôi nữa và tôi cũng không phải tuân theo lệnh của ông. Nếu vì vậy mà ông cảm thấy ngại thì...
Elliott nhìn cô chăm chú hơn. Cô bao nhiêu tuổi nhỉ? Hai mươi tư? Cùng lắm là hai lăm. Ông chưa bao giờ cư xử khiến cô hiểu lầm và ông cảm thấy hơi lúng túng.
- Vấn đề không phải như vậy.
- Thật buồn cười, vậy mà tôi vẫn nghĩ rằng ông không hề thờ ơ với tôi...
Ông phải trả lời cô thế nào bây giờ? Rằng một nửa con người ông đã chết và nửa còn lại cũng sắp chết theo ư? Rằng người ta cứ bảo tình yêu không quan trọng tuổi tác, nhưng điều đó thật là vớ vẩn...
- Tôi chẳng biết nói gì với cô nữa.
- Vậy thì ông đừng nói gì cả, cô vừa nói thầm vừa quay gót.
Tự ái, cô bỏ đi song còn sực nhớ ra điều gì.
- À, tôi quên mất, cô nói song vẫn không quay người lại, tổng đài đã nhận được tin nhắn của người bạn ông tên là Matt: ông ấy đã chờ ông từ nửa giờ nay và bắt đầu thấy sốt ruột.


* * *


Elliott hối hả rời bệnh viện và vẫy vội một chiếc taxi. Ông đã hẹn ăn trưa với Matt và giờ đã trễ hẹn quá rồi.
Cũng giống như có những tình yêu sét đánh, đôi khi trong tình bạn cũng có những cú sét. Matt và Elliott đã gặp nhau cách đây bốn mươi năm trong hoàn cảnh thật đặc biệt. Nhìn bề ngoài, chẳng có gì khiến hai người có thể gần nhau: Matt là người Pháp, hướng ngoại, thích theo đuổi những cô gái đẹp và hưởng thụ cuộc sống; Elliott là người Mỹ, khá kín đáo và đơn độc. Họ đã cùng nhau một lại một đồn điền trồng nho trong thung lũng Napa, trang trại Périgord de la Californie. Những loại rượu vang mà họ sản xuất - rượu vang đỏ của vùng Sauvignon và rượu chardonnay có vị dứa và mơ lông - đã có được tiếng tốt nhờ vào những nỗ lực kiên trì của Matt để quảng bá cho sản phẩm của họ trên khắp đất nước cũng như ở châu Âu và châu Á.
Với Elliott, Matt là người bạn vẫn còn ở lại kể cả khi xung quanh ông không còn người bạn nào nữa, là người ông sẽ gọi vào giữa đêm nếu một ngày nào đó ông cần phải giấu một cái xác.
Nhưng giờ thì Elliott đang trễ hẹn và Matt chắc sẽ càu nhàu đây...


* * *



Nhà hàng rất tao nhã Bellevue, nơi họ thường xuyên ăn trưa với nhau, nằm dọc theo phóố Embarcadero và trông ra biển. Tay cầm ly rượu, Matt Delluca đã chờ từ nửa tiếng đồng hồ trên sân thượng không có mái che trông ra vịnh Bridge, đảo Treasure và những toà nhà chọc trời của khu phố thương mại.
Ông chuẩn bị gọi thêm ly thứ ba thì điện thoại của ông reo lên.
- Chào cậu, Matt, tớ xin lỗi, nhưng tớ sẽ đến muộn một chút.
- Cậu không cần vội, Elliott. Sau một thời gian, cuối cùng thì tớ cũng đã quen được với quan niệm đặc biệt của cậu về sự đúng hẹn...
- Tớ có nằm mơ không! Không phải cậu đang giận tớ đấy chứ?
- Ồ không, ông bạn thân mến: cậu là bác sĩ và việc cứu sống sinh mạng con người cho cậu mọi quyền, ai chẳng biết điều đó.
- Đúng như tớ nghĩ, cậu đang giận tớ...
Matt không thể không mỉm cười. Áp chặt điện thoại vào tai, ông rời khỏi sân thượng và bước vào trong gian phòng lớn của nhà hàng.
- Cậu có muốn tớ gọi thức ăn cho cậu không? Ông vừa đề nghị vừa tiến lại gần quầy đồ biển. Trước mặt tớ đang có một con cua bể đang giãy và nó sẽ rất vinh hạnh nếu được xuất hiện trong bữa ăn của cậu...
- Tớ tin tưởng cậu đấy.
Matt bỏ máy và gật đầu ra hiệu cho người phục vụ, số phận của con cua bất hạnh đã được định đoạt.
- Một con cua bể nướng, một thôi!
Mười lăm phút sau, Elliott chạy băgn qua gian phòng rộng được trang trí bằng gỗ quý và gương. Sau khi đã vướng chân vào chiếc xe đẩy bố bánh đựng đồ tráng miệng và vô tình va phải một cô phục vụ bàn, cuối cùng ông cũng tới được chỗ người bạn đang chờ ở bàn mà họ vẫn hay ngồi. Những lời đầu tiên của ông là giao hẹn:
- Nếu cậu vẫn còn coi trọng tình bạn của chúng ta, thì hãy tránh nói trong cùng một câu các từ "muộn" và "lại".
- Tớ có nói gì đâu, Matt trấn an. Chúng ta đã đặt bàn này cho giữa trưa, bây giờ là 13h20 nhưng tớ vẫn chưa nói năng gì. Thế nào, chuyến đi Campuchia của cậu ra sao?
Elliott vừa mới nói được vài lời thì bật ho thành tràng.
Matt rót cho bạn một cốc đầy nước khoáng.
- Chẳng phải cậu ho hơi nhiều sao? ông hoảng hốt.
- Cậu đừng lo lắng quá.
- Sao lại không chứ... Có lẽ cậu nên khám thử xem sao? Chụp cắt lớp hoặc cái gì đó tương tự thế...
- Tớ mới là bác sĩ, Elliott đáp và mở thực đơn ra. Thế nào, cậu đã gọi gì rồi?
- Nói cậu đừng giận, nhưng tớ thấy trông mặt cậu kém lắm.
- Sự tử tế này của cậu có kéo dài lâu không đấy?
- Đơn giản là tớ lo cho cậu thôi: cậu làm việc nhiều quá đấy.
- Tớ ổn cả, tớ nói với cậu rồi! Chỉ có điều chuyến đi Campuchia vừa rồi khiến tớ hơi mệt thôi!
- Lẽ ra cậu không nên đi, Matt vừa thẳng thắn nói vừa nhăn mặt. Với tớ, châu Á...
- Trái lại, chuyến đi rất bổ ích. Có điều ở đó tớ đã gặp phải một chuyện rất kỳ lạ.
- Tức là sao?
- Tớ đã gặp và giúp đỡ một cụ già người Campuchia và cứ như là một vị thần đèn, ông cụ đã hỏi tớ ước ao điều gì nhất...
- Thế cậu đã trả lời thế nào?
- Tớ đã xin một điều không thể.
- Cậu ước có thể thắng một trận golf ư?
- Thôi bỏ đi.
- Không, nói cho tớ nghe...
- Tớ đã nói với ông cụ rằng tớ muốn gặp lại một người...
Đến đây, Matt hiểu ra rằng bạn mình đang nghiêm túc và nét mặt ông biến đổi hẳn.
- Và cậu muốn gặp lại ai? Ông hỏi mặc dù đã biết trước câu trả lời.
- Ilena...
Một nỗi buồn chợt bao trùm lên hai người đàn ông. Nhưng Elliott không chịu để nỗi buồn xâm lấn. Trong khi người phục vụ bàn mang món khai vị tới, ông tiếp tục câu chuyện, kể lại cho bạn nghe điều kỳ lạ về chiếc lọ đựng những viên thuốc và cơn ác mộng bất thường mà ông đã gặp đêm hôm qua.
Matt tìm cách trấn an
- Nếu cậu muốn biết ý kiến của tớ thì hãy quên câu chuyện đó đi và bớt vơ việc vào mình đi thôi.
- Cậu không thể tưởng tượng được giấc mơ đó giống như thật và khiến tớ phải suy nghĩ đến mức nào đâu. Thật là lạ.. rất lạ khi gặp lại chính mình ở tuổi ba mươi.
- Cậu thực sự tin rằng chính những viên thuốc đã khiến cho cậu trở nên như vậy sao?
- Thế còn gì khác nữa?
- Rất có thể cậu đã ăn phải thứ gì đó không được tươi cho lắm. Matt đoán mò. Theo tớ, cậu đến cái cửa hàng bán đồ ăn Tàu đó hơi nhiều quá...
- Thôi đi...
- Tớ nghiêm túc đấy. Đừng có đặt chân tới chỗ lão Chow đó nữa: cái món vịt quay, tớ tin chắc là thịt chó đấy...


* * *


Phần còn lại của bữa ăn diễn ra trong không khí vui vẻ. Matt được phú cho biệt tài phân phát niềm vui xung quanh mình. Mỗi khi ở bên cạnh bạn, Elliott quên hẳn những ý nghĩ tối tăm và mọi lo âu. Cuộc trò chuyện đã bắt đầu chuyển sang giọng bông đùa và giờ đề cập tới những chủ đề phù phiếm hơn.
- Cậu có nhìn thấy cô gái ở gần quầy bar không? Matt vừa hỏi vừa ăn một miếng chuối nướng rượu. Cô ấy đang nhìn tớ phải không nhỉ?
Elliott quay về phía quầy rượu: một cô gái xinh đẹp quyến rũ, đôi chân thon dài và đôi mắt nai tròn đang mơ màng nhấp nháp ly rượu Martini.
- Gái gọi đấy, anh bạn ạ.
Matt lắc đầu.
- Không hề.
- Cậu muốn đánh cược không?
- Cậu nói thế là vì cô ấy nhìn tớ.
- Cậu đoán cô ấy bao nhiêu tuổi?
- Hai lăm.
- Còn cậu?
- Sáu mươi, Matt thừa nhận.
- Chính vì thế mà đó là gái gọi...
Matt im lặng một vài giây trước khi kịch liệt phản pháo.
- Chưa bao giờ tớ sung sức như bây giờ!
- Chúng ta già rồi, anh bạn ạ, như thế đấy, cuộc sống là như vậy và tớ nghĩ cậu nên bắt đầu chấp nhận nó đi.
Matt nghĩ về điều hiển nhiên đó với đôi chút lo âu.
- Thôi, tớ phải đi đây, Elliott vừa nói vừa đứng lên. Tớ sẽ đi cứu thêm vài sinh mạng nữa. Còn cậu? Cậu có chương trình gì cho chiều nay?
Matt ném một cái nhìn về phía quầy rượu rồi rầu rĩ nhận ra rằng cô gái đang tán gẫu với một khách hàng trẻ tuổi. Một vài năm trước, có thể ông đã tới nẫng cô gái xinh đẹp này khỏi tay anh chàng tốt mã vô duyên kia, nhưng giờ thì ông cảm thấy mình đã yếu thế, giống như một anh chàng đấm bốc sắp sửa tham gia một trận đấu vượt quá hạng cân.
- Xe của tớ đậu ở bãi, ông vừa nói vừa đuổi kịp Elliott. Tớ sẽ đưa cậu về bệnh viện. Một ông già như tớ có lẽ sẽ cần phải khám tổng quát một chút...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 19-10-2011 18:41:09 | Xem tất
Chương 3



Hãy thử ngồi một giờ bên cạnh một cô gái xinh đẹp, em sẽ thấy chỉ bằng một phút. Hãy thử ngồi một phút trên chiếc chảo nóng, anh sẽ thấy lâu như một giờ. Đó chínhh là tính tương đối.
ALBERT EINSTEIN




San Francisco, 1976
Elliott 30 tuổi


- Thế này không tốt sao? Matt vừa hỏi vừa nằm dài trên bãi cát và chỉ ra bờ vịnh rộng mêng mang được bao quanh bởi những dãy đồi đang trải dài ra trước mắt họ.
Vào thời đó, hai người bạn vẫn còn chưa phải là những người sung túc. Đối với họ không thể có chuyện mất thời gian vào nhà hàng dùng bữa trưa. Vào giờ ăn trưa, họ thường hẹn nhau trên bãi biển và nuốt vội một chiếc hot-dog (1) trước khi quay trở lại làm việc.
Đó là một ngày đẹp trời, nắng chứa chan. Phía xa, được phủ bởi một làn sương mù nhẹ nhẹ, cầu Cổng vàng trông như đang trôi bồng bềnh trên một thảm mây màu sữa.
- Cậu có lý, ở đây tốt hơn trong tù! Elliott đồng tình và cắn một miếng bánh.
- Hôm nay tớ có một tin quan trọng cần thông báo với cậu, Matt tuyên bố lấp lửng.
- Thật sao? Tin gì vậy?
- Cứ kiên nhẫn một chút đi, chàng trai, đến món tráng miệng cậu sẽ có một sự ngạc nhiên...
Xung quanh họ, cũng đến để tận hưởng những tia nắng cuối cùng của mùa thu muộn, một nhóm thanh niên theo kiểu mốt nhất: các chàng trai mặc quần ống loe, áo lót vải sa-tanh và tóc mai vuốt cong; các cô gái mặc áo thụng màu sắc sặc sỡ, áo khoác màu vỏ đào đeo trang sức bằng vỏ ốc.
Matt bật chiếc đài bán dẫn của anh lên và gặp đúng một ca khúc đang thịnh hành: giai điệu cuốn hút của Hotel California được trình diễn bởi nhóm Eagles.
Vừa huýt sáo theo điệp khúc, anh vừa đưa mắt nhìn khắp bãi biển.
- Cậu có nhìn thấy cô gái phía bên phải cậu không, cô ấy đang theo dõi chúng ta phải không nhỉ?
Elliott kín đáo quay sang: nằm dài trên chiếc khăn tắm, một cô gái trẻ xinh đẹp, dáng vẻ mĩ miều như một nữ thần đang uể oải nhấm nháp một ly kem Ý. Cô ta vừa bắt chéo cặp giò dài bất tận vừa liếc về phía họ.
- Có thể lắm.
- Cậu thấy cô ta thế nào? Matt vừa hỏi vừa gật đầu chào lại cô gái.
- Tớ nhắc để cậu nhớ là tớ đã có ý trung nhân rồi.
Matt xua tay phản đối:
- Thế cậu có biết rằng chỉ có 5% các loài động vật có vú sống cặp đôi không?
- Thì sao?
- Cậu còn chờ gì nữa mà không gia nhập 95% còn lại, không muốn làm cuộc sống trở nên phức tạp bằng những nguyên tắc đó?
- Tớ không biết Ilena có dồng tình với ý kiến của cậu không...
Matt nhét nốt miếng hot dog cuối cùng vào miệng và ném một cái nhìn lo ngại về phía bạn.
- Cậu có chắc là mọi chuyện ổn cả không? Trông mặt cậu hôm nay tệ lắm.
- Cậu có dừng ngay những lời khen ngợi đó lại không, cậu làm tớ lúng túng đây này.
- Đúng như điều tớ lo ngại: cậu làm việc quá nhiều.
- Lao động là sức khoẻ.
- Tớ hiểu rồi: cậu lại đến cửa hàng bán thức ăn sẵn của cái lão người Tàu ở ngay dưới nhà cậu...
- Ông Chow à?
- Phải. Cậu đã nếm thử cái món thịt vịt quay Bắc Kinh của lão ta chưa?
- Ngon tuyệt.
- Hình như đó là thịt mèo...
Một anh chàng bán kem rong ngắt lời họ:
- Các anh ăn kem gì: hạnh nhân? caramel? dừa?
Elliott để anh bạn đang vui vẻ mua kem cho cả hai. Anh chàng bán kem vừa đi khuất thì câu chuyện lại tiếp tục đúng chỗ vừa bị ngắt quãng:
- Kỳ nghỉ cuối tuần ở Florida của cậu thế nào? Cậu có vẻ băn khoăn điều gì...
- Tối qua tớ đã gặp một chuyện rất kỳ lạ, Elliott thừa nhận.
- Tớ nghe cậu đây.
- Tớ đã gặp một người ở sân bay.
- Một phụ nữ hả?
- Một người đàn ông... khoảng sáu chục tuổi.
Trong lúc Matt nhíu mày, Elliott kể lại cho bạn nghe về cuộc gặp kỳ lạ của anh với người khách bí ẩn đã biến mất trong toa-lét sân bay.
Matt để một vài giây trôi qua rồi nhăn mặt:
- Ui chà, vậy là còn nghiêm trọng hơn tớ nghĩ.
- Tớ thề với cậu là thật đấy.
- Tin tớ đi, anh bạn: cậu cần phải bớt ôm lấy việc vào mình đi thôi.
- Cậu đừng lo cho tớ.
- Sao cậu lại muốn tớ lo cho cậu, Elliott? Cậu bảo với tó là một người khác cũng là cậu đã từ tương lai đến để chuyện vãn với cậu? Chuyện bình thường thôi mà, phải không?
- Được lắm, chúng ta nói chuyện khác vậy.
- Thế Ilena yêu quý của cậu thế nào rồi?
Elliott quay ra nhìn biển và trong giây lát ánh mắt của anh mất hút trong làn sương mỏng bảng lảng quanh những trụ chống kim loại của cầu Cổng vàng.
- Cô ấy muốn chúng tớ có một đứa con, anh nói vẻ trầm ngâm.
Khuôn mặt Matt sáng rỡ:
- Thật là tuyệt vời, tớ có thể làm cha đỡ đầu được không?
- Tớ không muốn có con, Matt.
- Vậy à? Sao thế?
- Cậu biết rõ rồi đấy: thế giới đã trở nên quá bấn ổn, không lường trước được...
Matt ngước mắt lên nhìn trời.
- Cậu lẩn thẩn rồi, anh bạn ạ. Cậu sẽ luôn ở đó để bảo vệ nhóc con của cậu, rồi còn Ilena và cả tớ nữa cũng sẽ góp một phần. Đó chính là vai trò của bố mẹ, đúng không?
- Cậu nói thì dễ lắm: cậu sống như một gã dân chơi, cứ hai ngày lại đổi bạn gái một lần. Tớ chẳng thấy cậu có vẻ gì là đang chuẩn bị lập gia đình...
- Thì chính vì tớ không có may mắn gặp được một cô gái như Ilena. Những điều như thế chỉ toàn đến với cậu thôi. Trên đời này chỉ có một người như cô ấy và cậu đã nẫng tay trên mất rồi. Nhưng cậu quá ngốc nghếch để có thể nhận ra điều đó...
Elliott đưa mắt nhìn đi chỗ khác và không trả lời. Một đợt sóng lớn đổ ào lên bãi biển và hất văng một ít bọt biển về phía họ. Nhưng chỉ cần vài phút sau không khí vui vẻ đã xuất hiện trở lại và câu chuyện lại chuyển sang những chủ đề nhẹ nhàng hơn.
Rồi Matt cho rằng thời điểm để gây "ngạc nhiên" đã đến, anh lục tay vào túi và lôi ra một chai rượu sâm banh hồng.
- Chúng ta sẽ ăn mừng gì đây? Elliott hỏi.
Matt không thể giấu nổi sự phấn khích.
- Xong rồi, cuối cùng thì tớ cũng đã tìm thấy nó, anh bạn ạ! Anh thú nhận và bật nút chai.
- Người phụ nữ của đời cậu ư?
- Không!
- Cách giải quyết nạn đói trên thế giới ư?
- Mảnh đất của chúng ta, cậu ạ! Nông trại tương lai của chúng ta! Một mảnh đất tuyệt vời nằm trên đỉnh đồi với một ngôi nhà rộng bằng gỗ...
Matt đã thi lấy bằng lái máy bay cách đây vài năm. Anh đã mua một chiếc thuỷ phi cơ và kiếm sống rất tốt với việc đưa khách du lịch bay dạo phía trên khu vịnh. Nhưng từ lâu anh đã ấp ủ một dự định hơi điên rồ là cùng Elliott xây dựng một trang trại trồng nho trong lòng thung lũng Napa.
- Tớ cam đoan với cậu đây là thời điểm thích hợp để đầu tư, anh hào hứng giải thích thêm. Hiện nay, trong thung lũng chỉ còn lại có vài trang trại, trong khi rượu vang chính là tương lai của vùng California. Đó chính là vàng đỏ của chúng ta, cậu hiểu không... Nếu chúng ta khởi nghiệp ngay bây giờ, thì chúng ta sẽ giàu có!
Mặc dù chỉ tương đối bị thuyết phục nhưng hài lòng vì thấy bạn hạnh phúc, Elliott hứa sẽ tới thăm khu đất vào cuối tuần tới và thích thú nghe bạn say sưa với mộng làm giàu cho tới khi chuông báo thức từ chiếc đồng hồ đeo tay kéo anh trở về với thực tại.
- Thôi, tớ phải đi đây, anh vừa nói vừa vươn vai đứng lên, tớ phải đi cứu thêm vài sinh mạng nữa đây. Còn cậu? Chương trình chiều nay của cậu là gì?
Matt quay lại để xác nhận cô nàng mĩ miều vẫn chưa hề di chuyển. Cứ như đang nằm chờ anh, cô nàng ném cho anh một cái nháy mắt lộ liễu.
Matt cười rạng rỡ. Anh còn trẻ, đẹp trai và còn có cả cuộc đời ở phía trước.
- Tớ nghĩ có người đang yêu cầu tớ khám tim cho đây...


* * *



Bị ùn tắc trong dòng xe cộ, chiếc taxi lề mề lăn bánh dọc theo phố Hyde. Elliott trả tiền xe và sập cửa. Bệnh viện còn cách đây không xa lắm: với tốc độ này thì anh cuốc bộ còn nhanh hơn. Anh châm một điếu thuốc rồi rảo bước lên phố. Anh luôn cảm thấy có một nỗi lo lắng mơ hồ mỗi lần tiến gần đến nơi làm việc. Vẫn cùng những câu hỏi đó luôn làm anh trăn trở. Liệu anh có đưa ra được những quyết định đúng đắn không? Liệu anh có để mất bệnh nhân nào không?
Anh vẫn chưa đạt đến độ tuổi mà người ta tự cảm thấy mình rắn như thép. Anh chẳng có vỏ bọc, cũng chẳng có áo giáp trong người để tự vệ. Cho tới giờ, anh vẫn đi theo một lộ trình không hề phạm sai lầm: học rất giỏi ở Berkeley đến mức đã được đặc cách nhảy cóc hẳn một lớp, rồi theo học ngoại trú ở Boston, rồi bốn năm nội trú và theo học rất nhiều ngành chuyên sâu về nhi tại bệnh viện của anh. Mỗi lần kết thúc một kỳ, anh đều tốt nghiệp với những lời khen nồng nhiệt.
Tuy vậy, anh vẫn chưa thật tin tưởng là mình được sinh ra để làm nghề này. Tất nhiên, nó mang lại cho anh sự mãn nguyện khi được chăm sóc mọi người và tự cảm thấy mình có ích. Đôi khi, kết thúc một ngày đẹp trời, khi anh có cảm giác ca phẫu thuật của anh đã cứu được mạng sống choai đó, anh rời nơi làm việc với một cảm giác sảng khoái. Anh ra lấy xe và lái như bay dọc bờ biển. Anh đã đấu tranh vì sự sống và anh đã chiến thắng. Những tối như vậy, trong vài giờ đồng hồ, anh thường cảm thấy mình gần như ngang hàng với Chúa. Nhưng niềm hạnh phúc ấy thường không bao giờ kéo dài. Rồi luôn luôn có một ngày hôm sau, một ngày hôm sau nữa, khi bệnh nhân "lẽ ra không phải chết" lại vuột khỏi tay anh.
Anh nhìn đồng hồ, dụi tắt điếu thuốc lá và rảo bước. Bệnh viện giờ đã hiện ra chỉ còn cách anh khoảng trăm mét.
Có thật là mình sinh ra để làm việc này không? Lại một lần nữa anh tự đặt cho mình câu hỏi ấy.
- Anh sẽ trở thành loại bác sĩ nào đây? Anh đã lựa chọn con đường này để hoàn thành một lời hứa cũ, sau khi một sự kiện quan trọng đã xảy ra trong đời anh. Anh không hối hận về lựa chọn của mình, nhưng có những ngày anh rất thèm có được một cuộc sống vô lo vô nghĩ như Matt. Từ mười năm nay anh đã chẳng còn thời gian cho việc gì nữa cả: không đọc sách báo, không chơi thể thao, chẳng còn quan tâm đến điều gì khác ngoài việc của mình.
Anh bước vào trong sảnh bệnh viện, vớ lấy áo blu và leo lên tầng ba. Tấm gương trong thang máy phản chiếu hình ảnh một người đàn ông mỏi mệt. Đã từ lâu lắm anh không được ngủ một mạch tám tiếng đồng hồ. Từ khi những ca trực đêm đã dạy cho anh cách ngắt giấc ngủ ra và cuộn người ngủ thành từng quãng mười phút một, anh không thể cố ngủ muộn vào buổi sáng được nữa.
Anh đẩy cánh cửa một gian phòng lát gạch vuông sáng loáng nơi Ling, một bác sĩ nội trú khoa cấp cứu, đang đợi anh.
- Tôi muốn hỏi ý kiến anh về một trường hợp bệnh nhi, bác sĩ Cooper ạ, anh ta vừa thông báo vừa giới thiệu anh với ông bà Romano, cặp vợ chồng đi cùng.
Ông chồng, một người Mỹ gốc Ý thấp nhỏ tóc nâu, dễ dàng gây thiện cảm ngay tức thì. Bà vợ, cao hơn, tóc vàng, gốc Bắc Âu. Một sự kết hợp tuyệt vời của những mặt đối lập.
Họ không đến đây khám bệnh, mà vì cô con gái Anabel vừa mới chuyển vào trong khoa và giờ đang nằm bất động trên một trong những chiếc giường trong phòng bệnh.
- Mẹ cô bé buổi trưa về nhà đã thấy con gái trong tình trạng này. Chúng tôi nghĩ rằng sáng nay cô bé đã không hề tỉnh giấc, Ling giải thích. Tôi đã yêu cầu kiểm tra toàn bộ và bác sĩ Amendoza đã thử cho chụp X-quang.
Đó là một cái máy chẩn đoán hình ảnh kiểu mới đang bắt đầu xuất hiện trong các bệnh viện trên thế giới với tên gọi là "scanner".
Elliott bước lại gần thân hình đang chìm trong hôn mê. Anabel là một cô bé khoảng mười lăm tuổi với mái tóc vàng giống mẹ và nét mặt chân thành giống bố.
- Thời gian gần đây cô bé có bị đau đầu hay buồn nôn gì không?
- Không, người mẹ đáp.
- Cháu có dùng chất gây nghiện không?
- Không!
- Liệu có khi nào cháu bị đập đầu trong lúc ngủ hoặc ngã từ trên giường xuống không?
- Cũng không.
Chưa cần khám cho cô bé, Elliott đã cảm thấy sự sống đang dần dần rời bỏ và cái chết, lẩn quất đâu đó trong một góc phòng, đang chờ đến lượt.
Tuy vậy, thoạt đầu mới dùng ống nghe, kết quả có vẻ khả quan: Anabel thở tốt, tim và phổi vẫn hoạt động bình thường. Tiếp tới Elliott thử phản xạ giác mạc. Cũng không có gì đáng chú ý.
Song mọi chuyện trở nên đáng lo ngại hơn khi anh chuyển sang khám đồng tử. Trong khi xoay nhẹ đầu bệnh nhân từ phải sang trái, Elliott nhận thấy mắt cô bé không hề chuyển động theo chiều quay đầu. Rồi khi anh nhấn thử vào xương ức, cổ tay cô bé rụt lại một cách đáng lo ngại.
- Đó không phải là dấu hiệu tốt, phải không? Ông Romano hỏi. Có phải có vấn đề gì về não không?
Elliott vẫn thận trọng:
- Vẫn còn quá sớm để kết luận. Chúng ta hãy chờ kết quả khám nghiệm.
Các kết quả đó được chuyển tới chỉ sau vài phút. Khi người bác sĩ gắn các tấm phim chụp lên bảng đèn, anh đã nghi ngờ về điều mình sẽ phát hiện được. Vì họ đang làm việc trong một bệnh viện đại học, nên anh để bác sĩ nội trú đưa ra chẩn đoán:
- Chứng phù tiểu não phải không ạ?
- Chính xác, Elliott miễn cưỡng xác nhận. Vết phù ở tiểu não gây xuất huyết.
Anh rời khỏi phòng tối để quay lại tìm bố mẹ Anabel.
- Thế nào, thưa bác sĩ? Họ đồng thanh hỏi khi vừa nhìn thấy anh bước qua cửa.
Anh nhìn họ đầy cảm thông. Anh rất muốn trả lời họ bằng một câu nào đó nhẹ nhàng như "mọi chuyện đều tốt đẹp, cô bé sẽ tỉnh lại bất cứ lúc nào". Nhưng đó không phải là sự thật.
- Tôi rất lấy làm tiếc, song con gái ông bà đã bị tai biến mạch máu não và tình trạng của cô bé rất tuyệt vọng.
Một khoảnh khắc im lìm, một thoáng yên lặng dường như kéo dài vô tận cho tới khi hai bậc phụ huynh ý thức được tầm quan trọng của thông tin đó. Người mẹ cố ghìm một tiếng thét còn người cha nhất định không bỏ cuộc:
- Nhưng cháu vẫn còn thở! Nó vẫn còn sống!
- Lúc này thì như vậy, nhưng cô bé có một vùng não bị phù và nó sẽ tiếp tục phình ra khiến cho khả năng hô hấp của cháu trở nên quá tải và cô bé sẽ ngừng thở.
- Chúng ta có thể đặt máy thở! người mẹ khẩn khoản.
- Phải, thưa bà, chúng ta có thể đặt máy thở, song điều đó sẽ chẳng thay đổi được gì.
Người bố loạng choang bước tới bên đứa con gái
- Làm thế nào... làm sao nó có thể bị tai biến não được? Nó còn chưa đầy mười lăm tuổi...
- Điều đó có thể xảy đến bất cứ lúc nào và với bất kỳ ai, Elliott nói.
Ánh mặt trời chói loà xuyên qua cửa sổ, rọi bừng căn phòng bằng một thứ ánh sáng chói chang và như vuốt ve mớ tóc vàng óng của cô bé. Trông cô như đang say giấc và thật khó có thể tin được rằng cô sẽ không bao giờ tỉnh lại nữa.
- Nhưng ông không định thử phẫu thuật ư? Người mẹ ngạc nhiên và vẫn còn chưa tin vào sự thật.
Chồng bà tiến lại gần và cầm lấy tay vợ. Elliott đưa mắt nhìn bà và nói bằng giọng rất nhẹ.
- Đã hết rồi, thưa bà Romano, tôi rất lấy làm tiếc.
Anh rất muốn ở lại với họ lâu hơn nữa, gánh vác bớt cho họ một phần dù chỉ rất nhỏ trong nỗi bất hạnh này, tìm một vài lời an ủi, cho dùa biết chẳng có lời nào có thể an ủi được trong lúc này.
Nhưng một cô y tá đã gọi anh. Anh có một ca mổ được định sẵn vào lúc 15 giờ và anh đã bị muộn.
Trứoc khi rời khỏi phòng, lẽ ra anh đã phải thực hiện đến cùng công việc của mình và hỏi xem bố mẹ bệnh nhân có đồng ý cho hiến nội tạng hay không. Sau đó sẽ là cả một cuộc tranh luận siêu thực tế để anh thuyết phục họ rằng cái chết của con gái họ có thể sẽ góp phần cứu được một vài sinh mạng. Phải, lẽ ra Elliott phải thực hiện công việc của mình đến cùng nhưng hôm nay anh cảm thấy không đủ dũng khí để làm điều đó.
Anh bước ra khỏi phòng, hoàn toàn kiệt quệ và đầy phẫu uất. Trước khi đi lên phòng mổ, anh dừng lại trong toa-lét để vã nước lên mặt.
Mình sẽ không bao giờ có con, anh tự thề và nhìn mình trong gương. Mình sẽ không bao giờ có con để chúng không bao giờ chết!
Và nếu Ilena không hiểu thì cũng đành chịu vậy...

Orlando, Florida
1976
Màn đêm buông xuống trên khu nuôi nhốt rộng mênh mông của Ocean World. Trong khi những tia nắng cuối cùng làm biến dạng bóng những cây bách, một dòng người thưa thớt đang dần dần rời khỏi công viên nước, phấn khởi vì cuộc gặp gỡ với những chú cá voi, những chú rùa khổng lồ và những con sư tử biển.
Ilena cúi người trên hồ nước của lũ cá voi sát thủ để khích lệ Anouchka, con thú to nhất trong những con "cá voi sát thủ", để nó tiến lại gần bờ.
- Xn chào người đẹp!
Cô gái túm lấy vây con thú và dụ nó nằm ngửa ra.
- Đừng sợ, tao sẽ không làm mày bị đau đâu, cô vừa an ủi nó vừa cắm một chiếc kim vào thịt để lấy máu.
Đây luôn luôn là một công việc tế nhị. Cho dù cá voi sát thủ là loài thông minh nhất trong họ cá voi, chúng cũng là loài dữ tợn nhất. Mặc dù có dáng vẻ bề ngoài rất dễ mến,s ong Anouchka vẫn là một quái thú với chiều dài sáu mét và nặng bốn tấn, có thể quật chết người bằng một cái quẫy đuôi và xé rời một phần cơ thể với cặp hàm sắc nhọn gồm khoảng năm chục chiếc răng. Mỗi lần cần đụng tới nó, Ilena đều cố gắng có được sự hợp tác tự nguyện của con vật, bằng cách khiến cho sự chăm sóc trở nên giống như trò chơi. Nói chung, mọi chuyện đều diễn ra tốt đẹp. Cô có sự nhạy cảm rất đặc biệt đối với các con thú khiến cho cô trở thành một người coi sóc thú rất xuất sắc.
- Đấy, xong rồi, cô vừa nói vừa rút kim ra.
Để thưởng cho con vật, cô ném cho nó một xô cá đông lạnh và ban cho nó một vài cái vuốt ve.
Ilena vô cùng say mê công việc của mình. Là một bác sĩ thú y thường trực, cô phụ trách sức khoẻ thể chất và tinh thần cho tất cả các con thú trong công viên. Cô giám sát việc bảo trì các hồ nước, sự chuẩn bị thức ăn, và còn tham gia vào cả việc đào tạo những người dạy thú. Việc đảm đương cùng một lúc nhiều trách nhiệm như vậy thật là hiếm thấy đối với một người ở độ tuổi của cô, hơn nữa lại còn là một phụ nữ. Cũng phải nói thêm rằng cô đã phải đấu tranh cật lực để có được vị trí này. Từ khi còn rất nhỏ, cô đã say mê thế giới biển và đặc biệt là đối với những loài thuộc bộ cá voi. Ngoài bằng bác sĩ thú y, cô còn theo chuyên sâu về sinh học loài vật. Nhưng trong lĩnh vực này, vị trí luôn đắt giá và những nơi có nhu cầu tuyển dụng cực kỳ hiếm hoi, cơ may được làm việc với ca voi mơ và cá voi sát thủ cũng ít ỏi như cơ hội được trở thành nhà du hành vũ trụ. Mặc dù vậy, cô vẫn đeo đuổi ước mơ của mình và cô đã có lý. Vì năm năm trước, vào năm 1971, Walt Disney đã chọn thành phố nhỏ Orlando để xây dựng Disney World, khu vui chơi giải trí lớn nhất của tập đoàn. Trước dòng khách du lịch đông đảo đổ xô tới thăm quan, Orlando đã từ một thành phố nông nghiệp nhỏ nhảy lên thành trung tâm vui chơi giải trí hấp dẫn bậc nhất của Florida. Ocean World đã nối bước Mickey khi xây dựng trong vùng này công viên đại dương lớn nhất nước. Một năm trước ngày khánh thành công viên, Ilena đã trực tiếp tới gặp ban giám đốc để rồi giành được vị trí mà trước đó họ đã từng hứa hẹn cho một bác sĩ thú y lớn tuổi hơn cô. Người ta đã quyết định nhân cô vào thử việc và cuối cùng thì cô đã được nhận vào làm công việc này thay vì người đồng nghiệp kia! Đó chính là khía cạnh tích cực của nước Mỹ: cuối cùng thì năng lực cũng bắt đầu chiến thắng thâm niên, giới tính hay tầng lớp xuất thân.
Cô vô cùng yêu thích nghề của mình. Không phải cô không biết những người bạn của cô ở Hoà bình xanh đôi khi chỉ trích về việc bắt giữ các con thú, song cũng phải thừa nhận rằng Ocean World không hề thờ ơ đối với vấn đề môi trường. Thậm chí mới đây Ilena còn được ban giám đốc cho phép phụ trách hỗ trợ về tài chính cho một dự án khổng lồ nhằm bảo vệ loài heo biển.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 19-10-2011 18:44:33 | Xem tất
Cô gái rời khỏi khu vực hồ nước và đi sang hu hành chính. Cô dán nhãn vào chiếc lọ đựng mẫu máu con vật rồi đặt nó vào chiếc máy xét nghiệm nhỏ và bắt đầu phân tích. Trước khi bắt tay vào công việc, cô bỗng cảm thấy cần tạt qua toa-lét để vã lạnh nước lên mặt. Cả ngày hôm nay cô đã cảm thấy mình mệt mỏi.
Khi ngẩng lên soi mình trong tấm gương gắn bên trên bồn rửa, cô chợt nhận ra một giọt nước mắt đang lăn trên má. Điều này đã xảy đến mà cô hầu như không cảm thấy.
- Thật ngu xuẩn! Cô thốt lên và lấy tay dụi cặp mắt đỏ hoe.
Thật ra, cô biết rất rõ chuyện gì không ổn: cô vẫn không ngừng nghĩ tới cuộc tranh luận gần đây nhất với Elliott. Nghĩ tới phản ứng của anh khi cô nhắc với anh về việc muốn có một đứa con. Lần nào cũng vậy và cô không thể hiểu nổi sự ngần ngại của anh mà cô coi như một lời từ chối đính ước.
Mặc dù vậy, cô không mảy may nghi ngờ vào tình yêu của anh. Họ được gắn kết với nhau bằng một tình yêu cháy bỏng, được nuôi dưỡng bởi mong muốn lúc nào cũng làm cho người kia bất ngờ, kinh ngạc và mang lại hạnh phúc...
Nhưng liệu tình yêu đó có vượt qua được sự huỷ hoại của thời gian không? Cô sắp ba mươi tuổi, và trông bề ngoài cô vẫn còn rực rỡ: ở Florida này, các chàng trai vẫn lượn lờ xung quanh cô và cô ý thức được sức hấp dẫn của mình. Nhưng còn được bao nhiêu năm nữa? Tuổi trẻ của cô đang dần trôi qua. Ngay lúc này, cô đã cảm thấy mình không còn giữ được thể lực như trước, không còn vóc dáng và sự tươi trẻ như những thanh niên đang độ mười tám đôi mươi mà cô vẫn gặp trên các bãi biển hay trên các dãy ghế trong các buổi trình diễn.
Suy cho cùng, tuổi già tự nó cũng chẳng làm cho cô lo ngại đến mức đó. Nhưng xung quanh cô, mọi quan niệm đều đang biến đổi: người ta nói tới tình yêu tự do và cách mạng tình dục, và những biến chuyển đó không làm cô cảm thấy thích thú chút nào. Vì cô muốn mối quan hệ của họ phải bền vững dài lâu và cô hoàn toàn không hề muốn người đàn ông mà cô yêu sẽ thử qua tất cả các kiểu tư thế của Kama Sutra với những người phụ nữ khác.
Cô uống một chút nước và lau mắt bằng một chiếc khăn giấy Kleenex.
Phải chăng cô chưa chứng tỏ hết cho Elliott thấy cô gắn bó với anh đến mức nào. Cô là người bản tính kín đáo và những lời yêu thương không phải là sở trường của cô. Nhưng khi người ta yêu, chẳng cần thiết phải nhiều lời làm gì: điều đó có thể biết, có thể cảm nhận được, thế thôi. Còn nữa, khi một người phụ nữ đề nghị một người đàn ông trở thành bố của con mình, thì điều đó rõ quá rồi, chẳng phải vậy sao?
Cũng chính vì yêu anh mà cô muốn có một dứa con với anh. Cô không thuộc loại phụ nữ thích mang bầu đến mức phải có được một đứa con bằng mọi giá, chỉ để cho riêng bản thân mình. Cô muốn có một đứa con với Elliott, như một hệ quả của câu chuyện tình giữa hai người.
Chỉ có điều xem ra anh không hề muốn như vậy.
Và cô không hiểu nổi vì sao.
Cô ngờ rằng niềm mong mỏi có một đứa con có mối liên hệ rất mật thiết với việc trưởng thành và hoàn cảnh gia đình riêng của mỗi người. Ở Braxin, Ilena có may mắn được nuôi dạy trong một gia đình bình dân nhưng đầy tình thương và cô biết mình sẽ vô cùng hạnh phúc khi được làm mẹ. Còn Elliott, anh đã có những mối quan hệ đầy mâu thuẫn với bố mẹ. Phải chăng đó là nguyên nhân dẫn đến sự bế tắc của anh?
Tuy nhiên, cô không hề nghi ngờ khả năng mang lại hạnh phúc cho một đứa trẻ ở anh. Rất nhiều lần đến bệnh viện tìm gặp anh, cô đã nhìn thấy anh trong lúc làm việc. Anh là một bác sĩ phẫu thuật nhi và anh biết cách chiều lòng các bệnh nhân nhỏ tuổi. Anh là người cứng cỏi và cân bằng, không hề non nớt hay kích kỷ như một số người đàn ông mà cô biết. Cô dễ dàng hình dung ra anh trong vai trò một người cha đầy tình yêu thương, biết lắng nghe con cái. Đến mức cô đã nhiều lần nghĩ tới việc dừng uống thuốc tránh thai mà không nói cho anh biết và dàn dựng một "tai nạn" để đặt anh vào sự đã rồi, nhưng nếu làm như vậy, cô sẽ có cảm giác phá vỡ lòng tin mà họ đã dành cho nhau.
Vậy thì vấn đề nằm ở đâu?
Cô biết rất nhiều điều về anh: sự quyết đoán, lòng vị tha, sự thông minh, rồi mùi vị làn da anh, đường sống lưng của anh, lúm đồng tiền mỗi khi anh cười...
Song chẳng phải lúc nào cũng vẫn có một chi tiết mà ta không biết về người ta yêu hay sao? Và chẳng phải chính cái điều không biết đó lại khiến cho tình yêu trở nên bền bỉ ư?
Dù sao đi nữa, ít nhất cũng có một điều mà cô chắc chắn: người đàn ông của đời cô, người cha của những đứa con tương lai của cô, chắc chắn là anh chứ không phải ai khác.
Và đứa bé đó, cô sẽ sinh ra nó với anh hoặc sẽ không bao giờ có nó.

San Francisco
1976

Ngồi sau tay lái chiếc Coccinelle, Elliott trở về nhà, buồn bã. Tối nay, không thể có chuyện lái nhanh. Anh đã đấu tranh vì sự sống và anh đã thất bại. Anh không phải là Thượng đế, chỉ là một bác sĩ tài hèn sức mọn.
Màn đêm dần buông. Đèn đường và đèn ôtô đồng loạt bật lên. Mệt mỏi, bất ổn, người bác sĩ ôn lại trong tâm trí diễn biến hai ngày vừa qua: sự bất đồng của anh với Ilena, cuộc gặp gỡ ở sân bay, ngày hôm qua, với người đàn ông kỳ lạ và cô bé Anabel mà anh đã không thể cứu sống.
Tại sao lúc nào anh cũng có cảm giác sự sống đang tuột khỏi tay anh? Rằng anh không thực sự làm chủ được bản thân?
Chìm đắm trong suy tưởng, anh nhìn vào kính chiếu hậu hơi chậm trễ khi đi tới ngã giao nhau giữa đường Filmore và đường Union. Trong khi xe của anh hơi lạng lên vỉa hè, anh cảm thấy như có một lực cảm kèm theo một tiếng động trầm đục.
Lốp xe nổ chăng?
Anh tắt máy và bước ra khỏi xe. Anh kiểm tra bánh xe rồi thanh chắn.
Chẳng có gì.
Anh chuẩn bị đi tiếp thì chợt nghe thấy một tiếng kêu rên rỉ, đầy oán thán phát ra từ vỉa hè đối diện.
Anh ngẩng đàu lên và nhìn thấy một chú chó nhỏ đã bị cú va chạm hắt tung sang phía bên kia đường.
Lại còn thế nữa... anh thở dài.
Anh băng qua đường về phía con thú nhỏ, một con chó labrador lông màu be, nằm sóng sượt, cẳng chân phải phía trước gập lại.
- Thôi nào, cử động đi! Anh bảo chú chó, hy vọng mình không làm nó bị thương.
Nhưng chú chó con không mảy may động đậy.
- Biến đi! Anh nổi giận và tung một cú đá.
Lại một lần nữa, con vật kêu lên những tiếng nghèn nghẹn, chắc chắn do bị đau quá mức. Cẳng chân rỉ máu khiến nó không thể cử động được, nhưng Elliott vẫn không hề xúc động. Anh chưa bao giờ yêu quý loài vật. Công việc của anh là chăm sóc con người: đàn ông, đàn bà, trẻ em, người già... Tất cả các bệnh nhân mà anh điều trị ở bệnh viện. Nhưng thú vật thì...
Anh nhún vai và quay lưng lại với chú chó labrdor. Anh sẽ không mất thêm nhiều thời gian với con chó này nữa.
Anh quay lại xe và xoay chìa khoá khởi động không chút áy náy.
Tất nhiên, nếu ở địa vị anh, Ilena sẽ không bỏ đi như một tên trộm. Choáng váng, cô sẽ chăm sóc chú chó rồi xoay xở để tìm ra chủ nhân của nó.
Tất nhiên rồi, Ilena...
Cứ như có cô đang ngay cạnh anh, anh gần như nghe tiếng cô thì thầm: "Người không yêu quý loài vật nhất định không thực sự yêu quý con người".
Toàn điều vớ vẩn! Anh nghĩ và lắc đầu. Song anh vẫn dừng xe lại ở cách đó hai chục mét và quay trở lại một cách miễn cưỡng.
Ngay cả ở cách xa bốn ngàn cây số, người phụ nữ này vẫn có thể khiến anh phải thực hiện điều cô muốn!
- Thôi nào, anh bạn, anh vừa nói vừa đặt chú chó lên băng ghế phía sau, chúng ta sẽ dàn xếp chuyện này.

* * *


Ra đến bờ biển, Elliott thấy trong lòng nhẹ nhõm. Những dãy nhà nằm dọc theo bờ biển được pha trộn một cách đa dạng và khéo léo giữa kiến trúc đương đại và truyền thống. Những ngôi nhà với tháp nhỏ ốp sườn xen lẫn với những toà nhà hiện đại được xây dựng toàn bằng kính và thép, để tạo nên - không hiểu nhờ phép lạ nào - một quần thể không cân xứng nhưng lại rất hoà hợp.
Đêm đã xuống hẳn và gió thổi rất mạnh. Giữa bãi biển, trên thảm cỏ dài, một anh chàng lập dị dáng vẻ hippi đang say sưa tìm cách thả một con diều được trang trí bằng những lồng đèn.
Bác sĩ đậu xe trước cửa ra vào và thận trọng nhấc chú chó ra khỏi xe. Hai tay ôm cái "hành lý" ngọ nguậy đó, anh tiến về phía một ngôi nhà xinh xắn theo kiểu Địa Trung Hải.
Xoay khoá một vòng rồi Elliott bước vào trong căn hộ mà anh đã mua được nhờ vào món tiền thừa kế. Trông nó rất độc đáo: ngôi nhà được xây dựng đã năm chục năm nhưng đã được sửa sang lại hoàn toàn bởi kiến trúc sư John Lautner, một chuyên gia thiết kế nhà theo khuynh hướng tương lai lấy cảm hứng từ tiểu thuyết khoa học viễn tưởng.
Elliott nhấn công tắc đèn và bên trong căn nhà nhuốm một thứ ánh sáng màu xanh bồng bềnh giống như những gợn sóng biển.
Rồi anh đặt chú chó labrdor lên tràng kỷ, vớ lấy túi thuốc cứu thương và bắt đầu khám cho con vật. Ngoài một vết thương hở miệng khá nghiêm trọng ở chân, nó còn bị đau đớn bởi một vài vết giập khác. Có điều lạ là nó không hề đeo vòng cổ và luôn nhìn anh bằng ánh mắt ngờ vực.
- Nghe đây, Rastaquoère, mày chẳng quý mến tao và ngược lại tao cũng vậy! Thế nhưng mày vẫn cần tao, cho nên hãy cứ nằm yên nếu muốn tao chữa cho mày...
Sau khi cảnh báo nó như vậy, anh sát trùng cho vết thương và bắt đầu băng bó.
- Được rồi, mày hãy nghỉ ngơi tối nay đi và ngày mai thì, cuốn gói về chuồng! Anh vừa lệnh cho nó vừa đi khỏi tràng kỷ.
Anh đi ngang qua gian khách và thư viện rồi vào đến bếp. Cả ba khoảng không gian này đều nằm chung trong một gian phòng rộng mênh mông trông ra một mảng vườn tiểu cảnh với một cây thông tuyết màu vàng giống Alaska mọc ngạo nghễ được làm nổi bật một cách khéo léo bởi hệ thống đèn chiếu sáng.
Elliott lấy từ trong tủ lạnh ra chai rượu vang trắng đang uống dở, rót cho mình một ly rồi lên tầng trên nhấm nháp. Ở đó, sau một lớp cửa kính đúp, là cái sân thượng mái bằng trải dài theo kiểu ụ nổi trên boong tàu và gây cảm giác như đang chuẩn bị lao ra biển.
Cầm ly rượu trên tay, bác sĩ ngồi vào một chiếc ghế bành bện bằng vỏ liễu và thả mình cho gió mặc sức quét qua mặt.
Trong giây lát, khuôn mặt Anabel Romano chợt lướt qua tâm trí.
Một ngày tồi tệ, anh vừa nghĩ vừa nhắm mắt lại.
Trong giây phút đó, anh không thể nào hình dung được rằng ngày hôm nay còn lâu mới kết thúc..
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 19-10-2011 18:45:40 | Xem tất
Chương 4



Hãy giữ lấy những giấc mơ (...). Không bao giờ bạn biết được khi nào mình sẽ cần đến chúng.
CARLOS RUIZ ZAFON




San Francisco
Tháng Chín năm 2006
Elliott 60 tuổi

Khi Elliott ra đến bờ biển thì đêm đã xuống từ lâu. Ông đậu xe trên lối đi và bước vào trong căn nhà xinh xắn theo kiểu Địa Trung Hải nơi ông đã sống từ ba chục năm nay. Ngay khi ông bước vào, thiết bị dò biết sự hiện diện đã lập tức tự khởi động hệ thống đèn chiếu sáng bên trong: một luồng ánh sáng màu xanh bồng bềnh tạo cảm giác như gian phòng đang chìm trong những gợn sóng.
Bác sĩ đi ngang qua gian khách và thư viện rồi vào đến bếp. Từ khi con gái ông chuyển tới New York, căn nhà trở nên trống trải và tĩnh mịch. Rastaquoère, con chó labrador già của ông, đã chết cách đây mười hai năm và ông đã chẳng hề thay thế nó bằng bất cứ vật nuôi nào khác, Elliott lấy từ trong tủ lạnh ra một chai vang trắng và rót cho mình một ly. Với cơn đau đang vò xé vùng thắt lưng, ông khó nhọc leo lên những bậc thang bằng kim loại dẫn lên tầng trên. Ông dừng lại vài giây trong phòng đầu giường và mở ngăn kéo bàn ngủ để lấy chiếc lọ đựng những viên thuốc mà ông vẫn không ngừng nghĩ đến suốt cả ngày.
Rồi ông bước ra mảnh vườn tiểu cảnh với một tầm nhìn tuyệt đẹp trông ra cảng du thuyền và vịnh.
Ông thích thú lắng nghe tiếng rúc quen thuộc của Wave Organ, một công trình kiến trúc đặc biệt nằm ngay đầu con đê chắn sóng nơi phát ra những âm hưởng ngẫu hứng do nhịp sóng biển vỗ vào những lòng ống.
Một thứ như thế chỉ có thể tồn tại ở San Francisco, ông vừa nghĩ vừa ngồi vào chiếc ghế bành cũ kết bằng vỏ liễu.
Từng đợt sóng lướt qua mặt khiến ông rùng mình. Cũng giống như buổi sáng, ông nhìn chín viên thuốc còn lại trong vỏ với vẻ vừa như bị thôi miên lại vừa như ngờ vực.
Ông hoàn toàn không biết nó được làm từ nguyên liệu gì, nhưng ông rất muốn thử lại thí nghiệm của ngày hôm trước. Thật ra mà nói, ông không hề tự huyễn hoặc mình: có thể những viên thuốc này chẳng hề có liên hệ gì với giấc mơ của ông đêm hôm trước.
Nhưng ông vẫn muốn thử lại...
Chậm rãi, ông đổ một viên thuốc ra lòng bàn tay và thoáng ngập ngừng.
Thế nếu đây là thuốc độc hoặc một trong những của nợ kỳ quặc có thể khiến ông bị mất trí thì sao?
Có thể lắm, nhưng suy nghĩ cho cùng ông có gì để sợ đâu? Dù sao đi nữa, ông cũng sắp bị căn bệnh ung thư khuất phục rồi.
Sớm một chút hay muộn một chút thì cũng thế thôi... ông vừa nghĩ vừa nuốt viên thuốc bằng một ngụm rượu vang.
Thoạt tiên, chẳng có gì xảy ra cả. Ông ngồi sâu vào trong lòng ghế bành và chờ đợi. Căn bệnh khiến cho ông cảm thấy mình già nua và cùn mòn.
Ông hồi tưởng lại diễn biến những giờ vừa qua, nghĩ tới quyết định đột ngột và xót xa rằng ông sẽ dừng phẫu thuật kể từ cuối tháng trở đi.
Một ngày tồi tệ, ông vừa nghĩ vừa nhắm mắt lại.
Rồi ông thiếp đi...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 19-10-2011 18:46:52 | Xem tất
Chương 5

Lần gặp thứ hai




Minh chứng hùng hồn nhất rằng không thể nào đi du lịch vượt thời gian chính là việc chúng ta không hề bị tấn công bởi những đoàn khách du lịch đến từ tương lai.
STEPHEN HAWKING



San Francisco
Tháng Chín năm 1976
Elliott 30 tuổi


- Thế nào, đang nghỉ ngơi hả?
Elliott mở choàng mắt và bật dậy đột ngột đến mức ngã ra khỏi chiếc ghế bành. Ngã sấp mặt xuống đất, anh ngước mắt nhìn lên. Một cái bóng mờ mờ hiện ra trong ánh sao: bóng của người đàn ông mà anh đã gặp hôm qua tại sân bay. Hai tay khoanh trước ngực, ông ta nhìn anh với một nụ cười tủm tỉm, rõ ràng là thích thú với cú đùa ngoạn mục vừa xong
- Ông là cái trò gì trên sân thượng nhà tôi vậy? anh bác sĩ trẻ nạt nộ.
- Nhà anh cũng là nhà tôi... vị khách kỳ lạ vặc lại.
Cảm giác lẫn lộn giữa ngạc nhiên và tự ái, Elliott bực bội đứng lên. Hai tay nắm chặt, anh tiến về phía người đang nói chuyện với mình và trong vài giây, hai người im lặng gườm gườm nhìn nhau. Họ có chiều cao tuyệt đối giống nhau.
- Tôi có thể biết ông đang diễn trò gì được không? Elliott hỏi bằng giọng đe doạ.
Người kia lẩn tránh câu trả lời bằng cách hỏi lại nhẹ nhàng:
- Cậu không muốn hiểu ra, phải không?
- Không hiểu ra gì cơ?
- Sự thật...
Elliott nhún vai.
- Thế sự thật là gì vậy?
- Sự thật, tôi chính là cậu.
- Sự thật, ông đúng là một lão khùng!
- Còn cậu, anh bạn trẻ, đầu óc chậm chạp quá đấy.
Elliott chăm chú nhìn người đàn ông đang đứng đối diện với anh.
Tối nay, ông ta không còn mặc bộ pyjama nhàu nát như hôm qua nữa, mà là quần âu áo sơ mi sạch sẽ và áo vest cắt rất khéo. Ông ta trông thật tự tin và có nét quyến rũ. Nếu không có những lời nói vô nghĩa ấy, trông ông ta giống một doanh nhân nhiều hơn là một bệnh nhân tâm thần mới trốn khỏi nhà thương điên.
Elliott dùng giọng thuyết phục nhất có thể để tìm cách khuyên giải ông ta.
- Ông nghe này, tôi nghĩ ông đang bị bệnh. Có lẽ có một bác sĩ nào đang theo dõi ông và...
- Chính tôi là bác sĩ đây.
Ái chà, không xong rồi, Elliott vừa nghĩ vừa gãi đầu. Anh phải làm gì trong tình cảnh này bây giờ? Gọi cảnh sát ư? Hay xe cứu thương? Hay gọi cứu hộ nói bị người điên tấn công? Trông vẻ bề ngoài, người đàn ông này không có vẻ gì hung dữ, nhưng ông ta rất có thể sẽ nổi khùng lên.
- Chắc chắn những người thân cận với ông đang lo lắng lắm. Nếu ông cho tôi biết tên, tôi có thể tìm ra địa chỉ và đưa ông về nhà.
- Tên tôi là Elliott Cooper, người kia bình thản đáp.
- Không thể nào.
- Tại sao lại không chứ?
- Bởi vì tôi mới là Elliott Cooper.
- Anh có muốn xem giấy tờ của tôi không? Ông già đề nghị và rút ví ra.
Tất cả những chuyện này khiến ông có vẻ thích thú.
Elliott xem xét giấy tờ ông ta đưa cho và không tin được vào mắt mình: trên chứng minh thư có ghi cùng một cái tên và ngày sinh như của anh! Duy có tấm ảnh là trông già hơn khoảng ba chục tuổi.
Điều này chẳng nói lên gì cả, anh tìm cách tự trấn an, bất cứ ai cũng có thể làm giả giấy tờ.
Nhưng ai lại đi mất công làm chuyện đó và với mục đích gì?
Nếu nghĩ cho kỹ, chỉ có thể có một lý do: tất cả những chuyện này là một trò đùa do Matt bày ra. Thoạt tiên anh cố tin vào giả thiết này, song cũng không cảm thấy thật sự thuyết phục. Chắc chắn Matt là người thích đùa giỡn và cậu ta hay nghĩ ra những trò quỷ quái. Nhưng dù sao thì cũng không đến mức độ này. Và nếu cậu ta muốn bỡn cợt anh, thì cũng sẽ chẳng chọn một trò khiến anh phải nhức óc thế này, mà chỉ đơn giản như vỗ một cái vào mông là xong.
Nếu đùa, thì kiểu của Matt sẽ là gửi đến nhà mình một đám vũ nữ thoát y hay một cô gái gọi hạng sang, Elliott nghĩ, chứ sẽ không phải là một ông già sáu chục cứ khăng khăng tự nhận là mình.
Mải suy nghĩ mông lung, Elliott hơi chậm trễ khi nhận ra rằng người đàn ông đã bước đến ngay bên cạnh anh. Khuôn mặt ông ta trở nên nghiêm nghị hơn. Ông túm lấy cánh tay anh và nhìn anh đăm đăm.
- Nghe đây, anh bạn trẻ, cho dù chuyện này có vẻ như không thể nào tin được, xong tôi thực sự đã tìm ra cách để quay trở lại ba mươi năm về trước.
- Đúng vậy.
- Cậu phải tin tôi, khỉ gió!
- Nhưng điều ông đang nói thật vô nghĩa!
- Nếu như điều đó là vô nghĩa, thì cậu thử giải thích xem tại sao tôi lại có thể biến mất trong toa-lét sân bay mà cậu không hề nhìn thấy?
Lần này thì Elliott không biết phải trả lời ra sao. Quả thật, rất có thể ông ta bị điên nhưng ông ta biết cách lập luận vô cùng sắc bén.
- Thưa ông... anh mở lời, nhưng người kia lập tức cắt ngang:
- Cậu bỏ ngay cái Thưa ông khách sáo đó đi, có được không?
Đúng lúc đó, một tràng sủa rền rĩ cất lên từ phía bên kia lớp kính. Bác sĩ liếc nhìn sáng và tỏ vẻ ngạc nhiên. Chúa mới biết vì sao, chú chó labrador đã tìm cách lết được lên tận tầng trên mặt dù đang bị thương, nó vẫn cất những tiếng sủa vui vẻ để báo hiệu rằng nó đang ở đó.
- Rastaquoère! Người đàn ông thốt lên như thể vừa nhìn thấy một hồn ma.
Cuống quít vì mừng rỡ, con chó nhảy phốc lên tay ông ta và bắt đầu liếm hai bàn tay rồi đánh hơi khắp người ông, giống như đó đã trở thành một tập quán quen thuộc giữa họ với nhau.
- Ông đã từng gặp con chó này rồi sao? Elliott hỏi, càng lúc càng hoang mang.
- Tất nhiên rồi, nó là con chó của tôi!
- Của ông ư?
- Phải, của chúng ta.
Đến điên đầu lên mất thôi! Giờ thì người đàn ông này bắt đầu khiến anh cảm thấy căng thẳng thần kinh. Nhưng để tống cổ ông ta đi thì có lẽ phải sử dụng chiến thuật khác: vờ như đồng tình với ông ta.
Anh chờ một vài giây, rồi hỏi với vẻ hết sức nghiêm túc:
- Vậy là ông thực sự từ tương lai tới?
- Có thể nói như vậy cũng được.
Elliott làm ra vẻ đồng tình rồi tiến vài bước ra sân thượng và chống khuỷu tay lên ban công. Từ đây, anh chăm chú nhìn xuống đường giống như đang tìm kiếm thứ gì đó nhưng vô vọng.
- Lạ thật, một lát sau anh nói, tôi chẳng thấy cỗ máy thời gian của ông đâu cả. Ông đã đậu nó ngoài phố hay trong phòng khách của tôi?
Người đàn ông không thể giấu nổi một nụ cười mỉm:
- Phải, khéo đùa lắm. Cậu chưa từng nghĩ đến việc tạo dựng sự nghiệp one man show (1) sao?
Thay cho câu trả lời, Elliott gằn giọng:
- Nghe đây, ông bạn, tôi không hề quen ông, cũng chẳng biết ông từ đâu lạc đến, nhưng tôi nghĩ ông không hề điên như những lời ông nói. Thật sự, tôi biết chắc ông đang diễn kịch.
- Nhưng với mục đích gì?
- Tôi hoàn toàn không biết, nhưng nói thật với ông, tôi chẳng buồn để tâm. Tất cả những gì tôi muốn lúc này, là ông rời khỏi nhà tôi ngay và tôi báo để ông biết đây là lần cuối tôi đề nghị ông một cách nhã nhặn.
- Cậu yên tâm đi, tôi cũng chẳng ở lâu nữa đâu.
Nhưng thay vì bỏ đi, ông ta lại ngồi xuống ghế bành rồi lục tìm trong túi và lấy thuốc lá ra: một bao thuốc màu đỏ và trắng với nhãn hiệu nổi tiếng viết bằng chữ đen.
Elliott nhận ra đó là thứ thuốc mà chính anh cũng quenhút, nhưng anh chẳng quan tâm: nhãn hiệu thuốc cao bồi này cũng khá thông dụng.
- Này cậu, ông ta vừa nói vừa phả ra một vòng tròn khói thuốc rồi đặt bật lửa xuống trước mặt, tôi hiểu rất rõ rằng cậu không tin tôi. Cùng với thời gian, người ta sẽ đánh mất dần những niềm tin chắc chắn của mình, nhưng tôi vẫn nhớ khi còn trẻ mình là người như thế nào: một nhà khoa học chỉ luôn nói chuyện bằng lý lẽ.
- Vậy còn bây giờ, ông là người thế nào?
- Một con người có tín ngưỡng.
Một làn gió quét nhẹ qua sân. Trời buổi tối đầu thu thật đẹp. Vào cái thời bầu khí quyển ô nhiễm như thế này mà bầu trời lại có thể trong veo lạ thường, đẹp tuyệt với hàng ngàn vì sao và vầng trăng, tròn đầy và gần gũi, toả ra một thứ ánh sáng phơn phớt xanh. Như bị cuốn hút bởi sự êm dịu của đêm trăng tròn, người đàn ông hút hết điếu thuốc trước khi di nó trong chiếc gạt tàn đặt ngay trước mặt.
- Có lẽ đã đến lúc anh nên nhìn nhận tôi đúng như vai trò của tôi, Elliott ạ: tôi là đồng minh của anh.
- Một kẻ quấy rối thì đúng hơn.
- Nhưng là một kẻ quấy rối biết mọi điều về cậu.
Bác sĩ nổi cáu:
- Tất nhiên rồi: ông biết mọi thứ về tôi vì ông chính là tôi. Đó chính là điểm điên khùng của ông! Nhưng thực ra ông biết được gì về tôi cơ chứ? Hiệu thuốc lá tôi hay hút, ngày sinh của tôi... Còn gì nữa?
Elliott đã bắt đầu nổi cáu vì anh thấy sợ. Một cách mơ hồ,anh cảm nhận được tình thế đã bắt đầu xoay chuyển và anh đoán người đàn ông này vẫn còn chưa bắn đến viên đạn cuối cùng. Như để tán thành suy đoán của anh, ông ta tiếp tục bằng giọng nghiêm nghị:
- Tôi biết những điều mà cậu chưa từng nói với ai bao giờ, cả với người bạn thân nhất của cậu, cả với người phụ nữ mà cậu chia sẻ mọi điều trong cuộc sống.
- Ví dụ như điều gì?
- Những điều mà cậu không muốn nghe.
- Thôi đi, ông cứ thử nói ra xem nào. Tôi chẳng có gì để giấu giếm cả.
- Chắc chứ?
- Ông đang muốn nói đến chuyện gì mới được?
Người đàn ông nghĩ ngợi một lát rồi đề nghị:
- Cậu có muốn chúng ta nói chuyện về bố cậu không?
Câu hỏi này là một cú đánh như trời giáng mà anh không hề chuẩn bị tinh thần đón nhận.
- Bố tôi thì có liên quan gì tới chuyện này?
- Cho dù chưa bao giờ chịu thừa nhận, song bố của cậu là một người nghiện rượu, có phải không?
- Không đúng!
- Tất nhiên là có. Trong mắt mọi người, đó là một doanh nhân đáng kính, một người chồng yêu vợ và một người cha mẫu mực. Song khi đóng cửa nhà lại, đối với mẹ cậu và cậu, thì đó lại là một con người hoàn toàn khác, hả?
- Ông không biết gì hết.
- Cậu còn bảo tôi không biết à. Lúc về già ông ấy đã bớt đi nhiều, nhưng khi cậu còn bé, ông ấy táng cậu ra trò, cậu nhớ không?
Vì Elliott không lên tiếng, người đàn ông lại tiếp tục:
- Điều đó thường xảy ra vào những buổi tối, sau khi ông ấy đã nốc cạn vài ly. Mỗi lúc say mèm, ông ấy rất dễ nổi nóng và thượng cẳng chân hạ cẳng tay là một cách để giải toả...
Như một võ sĩ quyền anh đứng giữa vòng dây quanh võ đài, Elliott hứng trọn những lời nói trên mà không hề phản kháng.
- Trong rất nhiều năm, cậu đã chịu đựng. Thậm chí có đôi khi, cậu còn khiêu khích ông ấy nữa phải không nào? Bởi vì cậu biêt nếu ông ấy trút bớt lên người cậu, ông ấy sẽ không đổ dồn vào mẹ cậu.
Người đàn ông ngừng lại trong vài giây rồi hỏi:
- Cậu có muốn tôi nói tiếp không?
- Cút đi cho khuất mắt tôi!
Ông nghiêng người nhìn anh bác sĩ trẻ và nói thầm vào tai anh như tiết lộ bí mật:
- Năm lên mười tuổi, một buổi chiều từ trường về, cậu đã nhìn thấy mẹ mình, hai cổ tay bị cứa đứt, máu chảy lênh láng ra bồn tắm...
- Khốn nạn, Elliott gào lên và túm lấy cổ áo người đàn ông.
Nhưng người kia, không hề nao núng, vẫn kết thúc điều ông đang nói dở:
- Cậu đã kịp về để cứu sống mẹ. Cậu đã gọi cấp cứu, nhưng mẹ đã bắt cậu hứa không được tiết lộ điều gì và cậu đã làm đúng như vậy. Cậu đã giúp mẹ đập vỡ cửa kính trong buồng tắm và mẹ đã nói với những người cứu thương rằng mẹ đã bị đứt tay vì trượt chân trên sàn ướt. Đó là bí mật của hai người. Không một ai biết được điều đó.
Giờ thì hai người đã đứng đối diện và nhìn thẳng vào mắt nhau. Elliott đã bị nhắm trúng tim. Anh không hề nghĩ rằng bí mật gia đình lại bị phơi bày ra như vậy. Không phải tối nay, không phải như thế này. Những kỷ niệm này đã bị chôn vùi, đẩy sâu vào quá khứ, song lại vẫn sống động như ngày nào.
Nhức nhối.
- Thoạt đầu, cậu nghĩ mình đã làm đúng, chỉ có điều hai năm sau đó mẹ cậu đã nhảy lầu từ tầng mười hai của toà nhà nơi cậu sống.
Lần đầu tiên sau một thời gian rất dài, anh muốn bật khóc. Anh cảm thấy mình yếu đuối, tan nát, bị đo ván như trời trồng.
- Từ đó, cậu không khỏi trăn trở rằng mình có một phần trách nhiệm trong việc mẹ tự sát, rằng mọi thứ có thể sẽ khác đi nếu như cậu nói ra sự thật. Bởi vì mẹ có thể sẽ được hỗ trợ về tâm lý hoặc được đưa vào viện chăm sóc. Tôi nói tiếp chứ?
Elliott muốn mở miệng phản đối nhưng không một âm thanh nào phát ra.
Mặc dù chính ông cũng có vẻ vô cùng xúc động, song người đàn ông vẫn tiếp tục lội sâu hơn vào dòng xoáy của sự thật. Ông ta nung nấu điều tiết lộ cuối cùng và tung ra như một đòn ban ơn:
- Cậu vẫn luôn biện hộ với những người xung quanh rằng cậu không muốn có con vì thế giới ngày nay đã trở nên quá khủng khiếp và tương lai có vẻ như đang tiến tới gần tận thế, nhưng đó không phải là nguyên nhân thật sự, Elliott ạ...
Anh chàng bác sĩ nhíu mày. Đến giờ thì chính anh cũng không biết người đang nói chuyện với mình muốn đi đến đâu
- Cậu không muốn có con vì cậu vẫn luôn nghĩ rằng bố mẹ không yêu cậu. Và giờ đây, đến lượt cậu, cậu lại sợ rằng mình sẽ không thể yêu thương được những đứa con của chính mình. Lý trí của con người đôi khi hoạt động một cách kỳ lạ quá, phải không?
Elliott không phủ nhận. Vậy đấy, chỉ cần có ba phút thôi mà một người đàn ông anh trước đó chưa hề gặp đã đập tan mọi niềm tin chắc chắn trong con người anh và khiến anh nghi ngờ tất cả. Một đống những bí mật đáng tội nghiệp, đó là tất cả những gì mà chúng ta đang có đây.
Một cơn gió mạnh đổ ào xuống sân thượng. Người đàn ông dựng cổ áo lên, bước lại gần Elliott và đặt bàn tay lên vai anh, như để an ủi.
- Đừng có đụng đến tôi! Người bác sĩ trẻ nói và lùi về phía lan can. Anh cảm thấy ngạt thở và trong đầu anh mọi thứ quay cuồng. Nhất là anh cảm thấy như có một điều cơ bản mà anh vẫn chưa nắm bắt được: mục đích thật sự của việc bóc trần những sự thật này.

- Cứ cho là tất cả những điều đó đều đúng, anh vừa nói vừa nhìn chằm chằm vào người khách bí ẩn, thì ông muốn gì ở tôi?
Ông già lắc đầu:
- Tôi chẳng muốn gì ở anh cả, anh bạn ạ. Rất xin lỗi vì khiến anh thất vọng, nhưng tôi ở đây không phải vì anh.
- Vậy thì...
- Tôi quay trở lại là để gặp cô ấy..
Một lần nữa ông ta lại rút ví ra, nhưng lần này để lấy ra một tấm ảnh đã phai màu và đưa cho Elliott.
Một tấm ảnh chụp Ilena ở Central Park đang ném một nắm tuyết, nét mặt rạng ngời và hai má ửng hồng. Đó là tấm ảnh mà anh thích nhất. Nó đã được chụp vào mùa đông năm ngoái và kể từ lúc đó nó không bao giờ rời khỏi ví của anh.
- Làm thế nào mà ông có được tấm ảnh này? Cứ thử đến gần Ilena dù chỉ một lần và tôi sẽ đấm vỡ mặt ông cho đến khi...
Người đàn ông đứng lên mà không chờ anh doạ hết câu. Giống như đã đến lúc ông ta phải ra đi, ông vuốt ve đầu con chó rồi đi vài bước về phía bức tường kính. Lúc này Elliott chợt nhận ra ông ta đang run rẩy giống như như lần trước ở sân bay, ngay trước khi ông ta biến mất.
Lần này anh sẽ không để ông ta ra đi như vậy nữa!
Anh vội vã bước tới định tóm lấy ông ta, nhưng ... đã quá muộn! Ông ta đã rời khỏi sân thượng và đóng ngay cánh cửa kéo lại sau lưng.
- Mở ngay cánh cửa chết tiệt này ra! Bác sĩ vừa hét lên vừa đập tay vào tấm vách kính chạy dọc theo sân thượng.
Nhờ một lớp sơn huỳnh quang, buổi tối đến tấm kính được nhuộm bằng một màu xanh lá trông rất hài hoà. Phát minh này của kiến trúc sư đã biến tấm kính trở thành một dạng gương trong suốt. Bị kẹt lại ngoài sân thượng, Elliott đứng ở phía bất lợi hơn cảu tấm gương: anh không thể nhìn được phía bên kia, chỉ có người ở bên kia nhìn thấy anh.
- Mở ra! Anh lại hét lên.
Một quãng yên lặng, rồi giọng nói phía sau cánh cửa thì thầm:
- Đừng quên điều tôi đã nói với cậu: tôi là đồng minh của cậu, không phải kẻ thù.
Anh không thể để cho ông ta đi mất được. Giờ thì anh muốn biết nhiều hơn nữa. Không còn cách nào, anh bèn quờ lấy một chiếc ghế bằng sắt uốn và dùng hết sức lực ném mạnh vào bức tường kính khiến nó vỡ toang thành muôn ngàn mảnh nhỏ lấp lánh. Anh lách vào nhà, xuống cầu thang, lùng khắp các phòng và thậm chí còn ra cả ngoài phố.
Chẳng có ai.
Khi anh quay trở lại sân thượng, chú chó labrador, buồn rầu tiu nghỉu, đang tru lên trong đêm.
- Sẽ ổn thôi, anh vừa nói vừa ôm chú chó vào lòng, xong cả rồi.

Nhưng tự đáy lòng, anh lại tin chắc vào điều ngược lại. Những rắc rối vừa mới chỉ bắt đầu thôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 19-10-2011 18:51:41 | Xem tất
Chương 6



Tôi rất muốn anh nhớ lại những ngày hạnh phúc khi chúng ta còn là bạn của nhau. Quãng thời gian đó, cuộc sống tươi đẹp hơn và mặt trời toả sáng rực rỡ hơn hôm nay.
JACQUES PREVERT - JOSEPH KOSMA




1976
Elliott 30 tuổi


Một tay cắp con chó, Elliott chạy vội ra xe. Anh phải kể cho Matt nghe về chuyện vừa xảy ra với mình. Thoạt đầu anh đã định gọi cho Ilena, nhưng anh đã gác máy trước khi cô kịp trả lời. Làm thế nào để kể cho cô nghe mọi chuyện mà không bị cô coi như một gã ngớ ngẩn bây giờ? Không, tốt nhất là nên chờ để biết thêm vài thứ trước khi khiến cô phải lo lắng.
Anh mở cửa chiếc Coccinelle và đặt người bạn mới lên băng ghế phía sau. Anh bắt đầu cảm thấy gắn bó với chú chó labrador lúc này đang có vẻ chấn động chẳng kém gì anh sau những gì vừa trải qua.
Elliott rời khỏi bờ biển và rẽ vào khu phố Italie. Trời đã khá khuya và xe chạy rất thoải mái trên đường. Anh chạy vào đường Lombard và khéo léo lượn theo tám ngã rẽ hình zíc zắc khiến cho con đường vành đai này được gọi tên là con phố ngoắt ngoéo nhất thế giới. Đoạn đường này đẹp vô cùng và không hổ danh so với tên gọi của nó, có điều tối nay Elliott có quá nhiều mối bận tâm để có thể để mắt tới những thảm hoa và những ánh đèn trang trí.
Vội vã muốn đến nơi cho mau, anh lao thật nhanh qua North Beach, phóng vụt qua những ngọn tháp đôi của Nhà thờ Italie - nơi trước đó một vài năm Marilyn Monroe đã làm đám cưới với Joe Di Maggio - rồi lên tới đỉnh đồi Telegraph.
Những con phố dốc đứng của San Francisco hoàn toàn không phải chỉ có trong truyền thuyết. Lên đên đỉnh đồi, anh xoay xở để đậu ngang xe, quay bánh vào phía trong vỉa hè đúng theo quy định của thành phố.
- Rồi, giờ mày nằm lại đây, anh ra lệnh cho chú chó.
Con vật phát ra một tiếng kêu ư ử như phản đối, nhưng bác sĩ không hề mềm lòng.
- Xin lỗi mày, nhưng không thể mặc cả được, anh vừa nói dứt khoát vừa sập cửa xe.
Anh tiến vào một ngõ nhỏ nằm giữa hai hàng bạch đàn và đi xuống một dãy bậc thang có hàng rào hoa nở rộ xuôi theo chiều dốc sườn đồi Telegraph. Vùng này quả là quyến rũ và siêu thực, cứ như một góc nông thôn đã rơi lạc vào giữa lòng thành phố. Đứng ở đây, cả thành phố như nằm ngay dưới chân bạn, với hậu cảnh là ngọn tháp Coit toả ánh sáng trắng lung linh. Thảm thực vật um tùm và rực rỡ sắc màu, làm thành một chiếc tổ lớn cho mọi loại chim: vẹt, sẻ, sáo, chim hét... Elliott men theo cầu thang gỗ chạy uốn khúc giữa những bụi đỗ quyên,hoa chuông, hoa giấy dẫn tới những căn nhà gỗ bài trí theo kiểu nghệ thuật nằm vắt vẻo trên sườn đồi. Đi được nửa đường, anh dừng lại trước cánh cổng của một khu vườn ngổn ngang. Như mỗi lần tới đây, anh trèo qua hàng rào và đứng ngay trên bậc thềm của một ngôi nhà bằng gỗ sơn noi uể oải phát ra một đoạn điệp khúc của Marvin Gaye. Anh định gõ cửa, nhưng thấy cửa mở, anh vào luôn không gọi trước, rất nóng ruột muốn thổ lộ những mối bận tâm của mình với người bạn.
- Matt, cậu có đó không? Anh hét lên khi bước vào phòng khách. Cậu không thể đoán được chuyện gì đã xảy ra với tớ đâu...
Anh dừng phắt lại. Trên chiếc bàn thấp gần cửa sổ, anh vừa nhìn thấy hai chiếc ly dùng để uống rượu sâm banh đặt cạnh một đĩa bánh hạnh nhân. Mùi hương Ấn Độ dìu dịu rất dễ chịu. Elliott nhíu mày và đưa mắt nhìn quanh phòng rồi phát hiện ra một đôi giày cao gót chỏng chơ gần lò sưởi, một chiếc áo lót màu hồng phấn vất vưởng trên đi-văng và một chiếc quần lót đăng ten mắc lại lửng lơ trên một bức tượng nhỏ. Xem ra Matt không chỉ có một mình. Mà như thế còn hơn là anh chàng xỏ vào người tất cả những thứ đồ lót này, nếu quả thật như vậy thì đúng là anh chịu không thể nhận ra bạn mình được nữa! Elliott chuẩn bị nhón chân bỏ đi thì...
- Chào anh.
Anh quay phắt lại như vừa bị bắt quả tang. Trước mặt anh, trong trang phục Eva, là cô gái trước đó anh đã gặp trên bãi biển.
- Ờ... Xin chào, anh vừa ấp úng vừa đưa mắt nhìn đi chỗ khác, rất xin lỗi vì...
Một tay hờ hững che ngực, tay kia che dưới ngực, cô gái uốn éo đến gần anh, đầy vẻ phô diễn và gợi cảm.
- Matt không hề nói cho tôi biết anh cũng sẽ tham dự cuộc vui, cô tinh nghịch nói.
- Không, ờ... Tôi thậm chí không muốn biết cô đang nghĩ gì. Tôi chỉ đến để...
- Cậu làm gì ở đây vào giờ này? Matt cắt lời anh khi xộc vào phòng chỉ với một tấm ga trải giường quấn quanh bụng.
- Xem ra tớ đang làm phiền, Elliott nhận xét.
- Theo tớ thấy thì cậu tinh ra phết! Dù sao thì cũng để tớ giới thiệu với cậu Tiffany, cô ấy đến thành phố để tham dự buổi tuyển chọn diễn viên cho vai nữ chính trong phim James Bond.
- Rất hân hạnh, hừm... Tôi sẽ không bắt tay cô vì hai tay cô còn đang bận.
Tiffany nở một nụ cười để lộ lớp men răng trắng bóng chắc chắn không dính cao răng.
Elliott quay về phía bạn:
- Nghe này, Matt, tớ cần cậu giúp đỡ...
- Ngay bây giờ, ở đây ư! Có thể chờ ngày mai được không? Chàng trai người Phap hỏi và lo lắng khi thấy cuộc vui của anh với cô gái mỹ miều này có thể bị trì hoãn.
- Cậu nói đúng, mai tớ sẽ gọi cậu, Elliott nhượng bộ, vẻ thất vọng. Thứ lỗi cho tớ vì đã quấy rầy cậu.
Anh vừa đi được vài bước về phía cửa thì Matt chợt hiểu ra có điều gì đó nghiêm trọng đang làm cho bạn mình phải lo lắng, anh liền chộp lấy vai bạn.
- Chờ đã, anh bạn, kể cho tớ nghe cậu gặp chuyện gì.
Ở đầu kia căn phòng, Tiffany đã nhặt đồ của mình lên, và cảm giác bị bỏ rơi, cô thấy đã đến lúc ra về.
- Thôi chào các anh, tôi để các anh ở lại đây với nhau, cô vừa nói vừa mặc nốt quần áo. Nếu các anh thích cuộc chơi giữa các anh chàng với nhau hơn thì...
- Không, không, không, không, không! Matt lo cuống tìm cách giữ cô lại, điều em nghĩ HOÀN TOÀN không đúng. Elliott là một người BẠN.
- Đừng lo, anh yêu, cô vừa trấn an anh vừa bước ra khỏi nhà, chúng ta đang ở San Francisco, em biết mà...
Nửa người trần trùng trục, Matt đuổi theo cô ra tận vườn, vừa đi vừa thề thốt rằng anh không phải người đồng tính và tìm cách lấy số điện thoại của cô, nhưng cô gái quá tự ái vì bị bỏ rơi, từ chối không chịu cho anh. Matt ra sức năn nỉ nhưng một đợt gió từ Thái Bình Dương thổi ào tới cuốn phăng tấm ga giường anh đang dùng để che thân. Trần như nhộng, anh tóm ngay lấy chậu cây gần nhất mà tay anh có thể với tới - một cây xương rồng thân dẹp - và dùng nó để che vội chỗ kín. Anh kiên trì chạy theo Tiffany một đoạn nữa trong khi cô gái, mặc dù đi giày gót cao, song vẫn nhanh nhẹn sải bước như một con hươu. Trong căn nhà kế bên, ánh đèn bật sáng và một cánh cửa sổ bật mở. Thoáng thấy dáng vẻ bực bội của bà hàng xóm, Matt vội vã tháo lui thật nhanh vào nhà. Anh đã gần đến cửa thì trượt chân ngay trên bậc thềm cuối cùng và ngã sóng soài, thân xương rồng gai góc cắm ngay vào chỗ nhạy cảm nhất trên cơ thể anh.
Thét lên vì đau, anh đóng sập cánh cửa lại sau lưng rồi chỉ tay vào Elliott vẻ buộc tội:
- Tớ hy vọng là cậu có một lý do RẤT CHÍNH ĐÁNG để phá hoại phi vụ vừa rồi của tớ!
- Tớ đang phát điên lên đây, như vậy liệu đã đủ chưa?
- Cậu muốn làm tớ hài lòng chứ: đừng có nhìn tớ như vậy nữa! Và nhất là đừng có mở miệng ra đấy!
- Tớ có nói gì đâu, Elliott vừa trấn an vừa cố kiềm chế để khỏi bật cười.
- Được rồi, cứ tiếp tục đi, Matt nói với chui vào phòng ngủ. Tớ mặc quần áo đã rồi chúng ta sẽ nói về vấn đề của cậu.
Elliott vào bếp và đặt nước để pha cà phê. Mặc dù đã hứa song anh vẫn không thể ngăn mình hét lên với Matt:
- Nếu cậu muốn một lời khuyên: hãy dùng nhíp nhổ!


* * *



Trong ngôi nhà nhỏ, sự căng thẳng đã giảm đi một chút. Matt đã được "chăm sóc" và đã mặc vào một chiếc quần bò và áo pull. Tươi tỉnh và sảng khoái, anh ngồi vào bàn nơi bạn anh đang đợi.
- Nào, cậu kể cho tớ nghe chứ? Anh vừa nói vừa tự rót cho mình tách cà phê.
- Ông ấy quay lại, Elliott nói đơn giản.
- Để tớ đoán nhé: vị du khách vượt thời gian của cậu, phải không?
- Phải, ông ta hạ cánh ngay tại nhà tớ, trên sân thượng.
Matt nhăn mặt khi nếm thử món đồ uống và thả hai viên đường vào trong tách.
- Ông ta vẫn lải nhải chuyện lần trước à?
- Ông ấy tự nhận là tớ, có điều nhiều hơn ba mươi tuổi.
- Thật là một triệu chứng lạ, phải không, bác sĩ?
- Thật ra thì cũng rất đáng phải suy nghĩ: ông ta biết rất nhiều thứ về tớ. Toàn chuyện rất riêng tư, cá nhân...
- Ông ấy muốn tống tiền cậu à?
- Không chứ, ông ấy bảo ông ấy quay lại là để gặp Ilena.
- Dù sao đi nữa, nếu một lần nữa gặp lại ông bạn từ tương lai tới, cậu đừng có quên hỏi ông ta một vài tin tức về kết quả các trận thể thao sắp tới hoặc giá mọt vài loại chứng khoán nhé...
Một lần nữa, Matt nhăn mặt khi uống một ngụm cà phê. Anh cho thêm ba viên đường và một thìa đầy sữa rồi nói nốt câu:
- ... cốt để kiếm được ít tiền nhân dịp này ấy mà.
- Cậu không tin tớ, phải không? Elliott bực mình nhận xét.
- Có chứ, tớ tin rằng có một gã nào đó đang quấy rầy cậu, nhưng không, tớ không tin ông ta đến từ tương lai.
- Giá mà cậu thấy ông ta biến mất như thế nào... Elliott nói, vẻ suy tư.
- Cậu biết không? Cậu bắt đầu làm tớ lo thật rồi đấy. Tớ nhắc để cậu nhớ, trong hai đứa mình, tớ mới là người hay đùa giỡn...
Matt đứng lên đổ nước trong tách vào bồn rửa và càu nhàu:
- Khiếp, cà phê của cậu đúng là xúp bít tất.
Rồi anh lấy lại giọng phân tích:
- Tớ mới là đứa điên rồ và lố lăng, tớ mới là người được quyền làm những điều gàn dở và kể những chuyện đùa không được tế nhị lắm. Còn cậu, cậu là hiện thân của lý trí và sự thông thái. Thế nên, cậu đừng có tìm cách đảo ngược vai trò.
- Nói thì nghe hay lắm, song chẳng phải vì thế mà tớ không có một dự cảm chẳng lành về ông ta. Ông ta làm tớ sợ và cho dù ông ta có nói gì đi chăng nữa thì tớ cũng vẫn không thật tin là ông ta sẽ chỉ muốn cho tớ toàn điều tốt.
- Trong trường hợp đó, chúng ta phải tìm cho được ông ta và doạ một mẻ cho ông ta phát hoảng, Matt vừa nói vừa vớ lấy chiếc gậy bóng chày nằm lăn lóc trên tràng kỷ.
- Để cái đó xuống đi, Elliott thở dài, ông ta gấp đôi tuổi chúng mình đấy.
- Thế cậu có sáng kiến gì để có thể lần ra ông ta?
Elliott nghĩ ngợi giây lát rồi nhận định:
- Những điều ông ta nói điên khùng đến mức chỉ có thể có hai đáp án: hoặc ông ta bị loạn óc...
- Hoặc là sao?
- Hoặc ông ta nói đúng.
- Nếu cậu muốn, chúng ta sẽ dừng lại ở khả năng thứ nhất.
- Trong trường hợp này, chúng ta cần liên lạc với các bệnh viện và các trại tâm thần trong vùng để xem họ có bị thiếu bệnh nhân nào không.
- Nào, chúng ta bắt tay vào làm ngay đi! Anh chàng người Pháp nói và cầm điện thoại lên. Nếu ông ta có tồn tại thật, tớ hứa với cậu là chúng ta sẽ tìm ra.
Elliott mở những cánh cửa kính của tủ đựng sách và lôi ra cuốn danh bạ điện thoại. Trên giá, thay vì các tuyệt tác văn học là một bộ sưu tập đầy đủ Playboy và một vài cuốn sách nói về nghề trồng nho.
- Cậu có biết trên đời này còn có những vấn đề khác cũng thú vị ngoài phụ nữ và rượu vang không? Anh nói với bạn.
- Thật sao? Matt hỏi nửa đùa nửa thật, vì tớ đã nghĩ nhiều lắm rồi mà vẫn chẳng nghĩ ra thứ gì.
Sau khi đã tìm được số điện thoại, hai người bạn bắt đầu gọi tất cả các cơ sở y tế ở California xem người đàn ông mà họ đang tìm kiếm có nằm trong danh sách những người mới xuất hiện thời gian gần đây mà chưa được phép của bác sĩ. Phải nói thêm rằng từ vài năm nay, các bệnh viện tâm thần đều được khuyến khích thả bớt một phần bệnh nhân điều trị nội trú của họ ra ngoài. Để giảm mức thuế, đúng là Thống đốc Bang - một người tên Ronald Reagan - đã quyết định cắt giảm triệt để ngân sách của họ. Một chính sách mà ông ta định sẽ triển khai trên diện rộng nếu một ngày nào đó ông ta đắc cử tổng thống.
Elliott và Matt không hề tiếc sức, nhưng sau khoảng một tiếng đồng hồ, họ buộc phải thừa nhận rằng họ vẫn không hề có chút manh mối nào. Công việc quá khó khăn và thời điểm này của ngày chẳng hề thích hợp để tiến hành công việc chút nào.
- Cái lão già đó đúng là người có phép tàng hình, Matt than thở và thả rơi điện thoại. Cậu có muốn tiếp tục không?
- Tớ nghĩ chúng ta đã làm không đúng cách. Thật ra tất cả những gì tớ muốn có là một bằng chứng.
- Bằng chứng gì cơ?
- Bằng chứng là ông ta không phải tớ.
- Cậu điên rồi, anh bạn ạ. Đây là lần đầu tiên tớ nhìn thấy cậu trong tình trạng này và trong lúc này thú thật tớ không muốn để cậu phẫu thuật cho tớ chút nào. Hãy thư giãn đi, bạn ơi! Hãy lấy một tuần nghỉ phép, dưa Ilena đi Hawaii phơi nắng một tuần và cậu sẽ thấy ngay toàn bộ thế giới nhỏ bé của cậu lại trở nên hợp lý như cũ thôi.
Matt thả rơi người xuống tràng kỷ và bật tivi lên đúng vào lúc bộ phim Columbo đang chiếu dở chưng. Trên màn hình, vừa kể một hai câu chuyện về bà vợ của mình, viên trung uý nổi tiếng vừa tìm cách dồn thủ phạm phải tự thú tội bằng cách đẩy hắn vào chỗ mâu thuẫn trong lời khai.
- Thật tiếc là ông ta đã chẳng để lại thứ gì ở nhà cậu. Matt vừa nói vừa ngáp dài.
- Cậu muốn nói gì thế?
- Người du khách vượt thời gian của cậu, thật tiếc là ông ta đã không để lại nhà cậu vật gì có in dấu tay ông ta trên đó. Nếu có thì chúng ta đã có thể phân tích nó, giống như trong phim ấy.
Elliott ngập ngừng một lát, nhớ lại chi tiết buổi gặp gỡ của anh với "người khách", rồi túm chặt lấy vai bạn.
- Matt, cậu đúng là một thiên tài, cậu biết không?
- Đúng vậy, anh chàng người Pháp thừa nhận. Thật tiếc là vì cậu là người duy nhất biết điều đó. Nhưng thật ra tại sao cậu lại nói với tớ như vậy?
- Ông ta đã bỏ lại một cái bật lửa! Tớ gần như chắc chắn đấy: ông ta đã hút một điếu thuốc trước mặt tớ và đặt chiếc Zippo lên bàn trên sân thượng.
Phấn khích tột độ, Elliott vớ vội lấy áo khoác và chùm chìa khoá.
- Tớ về nhà đây.
- Tớ đi với cậu, Matt nói và đuổi kịp anh ở cửa. Tớ không muốn cậu lái xe trong tình trạng hiện giờ.
- Cảm ơn cậu đã quan tâm.
- Hơn nữa, tớ không thể bỏ rơi cậu đúng lúc mọi chuyện bắt đầu trở nên thú vị.
Hai người bạn ra khỏi nhà và bước lên bậc thang gỗ.
- Chúng ta đi xe của tớ nhé, Matt đề nghị, tớ luôn gặp vấn đề với cái xế hộp của cậu.
Nhưng khi họ ra đến bãi đậu xe, họ thấy chiếc xe Chevrolet Corvette tuyệt đẹp của Matt đã bị Tiffany phá. Một dòng chữ rất to viết bằng son đỏ chạy dọc trên tấm kính chắn gió:

BASTARD (1).


- Cô bạn gái của cậu dễ thương ghê, Elliott nhận xét.
- Cậu sẽ thấy là cuối cùng thì cô ấy cũng để lại cho tớ số điện thoại, Matt vừa nói vừa rút một tấm danh thiếp được gài vào thanh gạt nước. Chắc chắn ở tớ phải có một cái gì đó hấp dẫn không cưỡng lại được.
Trong khi anh bạn ra sức chùi lớp kính, Elliott quay trở lại xe của mình để tìm chú chó labrador.
- Giờ thì cậu lại còn nuôi cả chó nữa cơ à? Matt ngạc nhiên trợn tròn mắt. Tớ cứ tưởng cậu và lũ thú chẳng yêu thích gì nhau cơ mà.
- Cứ coi như nó là một con chó đặc biệt đi.
Matt ngồi vào sau tay lái và cài dây an toàn.
- Nó có gì đặc biệt cơ chứ? Nó biết lái xe và cậu dùng nó thay tài xế chắc?
- Đúng thế và thậm chí tớ còn dạy cả nó nói nữa cơ đấy.
- Nghiêm túc chứ?
- Được rồi, mở máy đi và nếu cậu ngoan ngoãn thì có thể nó sẽ hát cho cậu nghe bài La Marseillaise (2) đấy.
Matt nhấn ga và chiếc Corvette Roadster lao đi trong màn đêm. Elliott cảm thấy trong người nhẹ nhõm, giống như vừa trút bỏ được một gánh lo nặng ba tấn. Chỉ cần vài phút là tinh thần anh lại lao vút lên như một mũi tên. Đúng là anh đã lo sợ, quả thật, người đàn ông đó đã biết cách làm anh bất ổn bằng cách bới ra hai, ba điều bí mật trong gia đình. Nhưng giờ thì niềm tin và tâm trạng phấn khởi đã quay trở lại. Anh sẽ lấy được chiếc bật lửa và gọi điện cho một người bạn cảnh sát. Phân tích sẽ chứng tỏ ra rằng những dấu vân tay của người đàn ông đó hoàn toàn khác với dấu vân tay của anh và tất cả mọi thứ sẽ lại đâu vào đấy. Lúc đó anh có thể gọi điện cho Ilena và cùng cô cười khi kể chuyện này. Trong lúc chờ đợi,anh vẫn có thể trêu chọc Matt.
- Cậu biết không, cậu không nhất thiết phải cặp kè với những cô nàng mang chỉ số thông minh của loài ốc sên.
- Vì sao cậu lại nói thế?
- Vì cô nàng hấp dẫn ban nãy, cô ta chẳng có vẻ gì là phát minh ra nước ấm cả, cậu hiểu ý tớ chứ.
Matt đón nhận câu nói đó với vẻ hoàn toàn bình thản và đáp lại:
- Sao cũng được, cậu đã thấy cô ấy có một...
- Số đo vòng ngực không phải là yếu tố duy nhất để quyết định chọn phụ nữ đâu, Elliott cắt ngang. Cậu đã ba chục tuổi rồi, tớ nghĩ cậu đã vượt qua cái ngưỡng tuổi trẻ con, nhưng hoá ra lại chẳng phải chút nào.
Matt không hề đồng tình:
- Yếu tố thể chất cũng quan trọng chứ.
- Phải, quan trọng đối với điều mà cậu đang nghĩ tới, nhưng sau đó thì sao?
- Sau đó là gì?
- Thì trò chuyện, quan tâm tới nhau, trao đổi quan điểm...
Matt nhún vai:
- Nếu tớ muốn trò chuyện, tớ sẽ gọi cho cậu. Làm gì phải đi chơi với một cô gái được giải Nobel nếu chỉ cần có thế.
- Ờ... Trong lúc chờ đợi, cậu vừa mới bỏ lỡ lối rẽ vào nhà tớ.
- Không hề, Matt đáp, vẻ tự ái, tớ chỉ muốn đi một lối tắt mà cậu chưa biết thôi.
Lối tắt đó dẫu sao cũng khiến cho quãng đường bị kéo dài thêm vài cây số. Mãi mười phút sau họ mới về tới bãi biển. Elliott sôi lên vì nóng ruột, nhưng anh đủ lịch sự không hề nói năng gì.
Xe vừa đỗ lại trước cửa nhà thì anh đã vội vã chạy vào trong, leo thang bốn bậc một lên tận gác thượng. Giờ thì anh chỉ sợ có mỗi một điều: chiếc bật lửa đã biến mất.
Rất may là điều đó đã không xảy ra. Chiếc Zippo vẫn còn nằm đó, ngay trên mép bàn.
- Ở đây đã xảy ra chuyện gì thế này? Matt hỏi khi nhìn thấy những mảnh kính vương vãi trên mặt đất. Cậu đánh nhau với King Kong à?
- Tớ sẽ giải thích với cậu sau. Giờ thì tớ phải gọi điện cho một người đã.
- Hẵng gượm: bây giờ là hai giờ sáng! San Francisco không phải là "thành phố không bao giờ ngủ", cậu đã nhầm rồi đấy! Vào giờ này, đa số những người đầu óc không có vấn đề đều đã yên giấc.
- Tớ gọi điện cho cảnh sát, Matt ạ.
Elliott gọi điện tới đồn cảnh sát trung tâm và hỏi thanh tra Malden có trực đêm nay không. Đúng là ông có trực và người ta lập tức nối máy cho anh nói chuyện với phòng cảnh sát điều tra.
- Chào chú, chú Malden, Elliott Cooper ở đầu dây, rất xin lỗi vì làm phiền đến chú nhưng cháu rất cần chú giúp cho một việc.


* * *


Trong lúc chờ đợi viên thanh tra, hai người bạn quay trở lại sân thượng.
- Tớ không hề biết cậu có bạn làm trong ngành cảnh sát, Matt tỏ vẻ ngạc nhiên. Làm thế nào mà cậu quen được ông ấy?
- Chính ông ấy là người đã điều tra vụ tự tử của mẹ tớ, Elliott trả lời qua loa. Thời gian đó ông ấy đã giúp tớ rất nhiều và sau này tớ vẫn còn giữ liên lạc với ông ấy. Rồi cậu sẽ thấy, ông ấy là một người rất tốt.
Hai chàng trai tiến lại gần và cùng chăm chú quan sát chiếc bật lửa bị bỏ quên bởi người tự nhận là "du khách vượt thời gian". Đó là một kiểu bật lửa Zippo bằng bạc có khảm những ngôi sao nhỏ lấp lánh và khắc dòng chữ: Millenium Edition (3).
- Thật là lạ, cái dòng chữ này, Elliott nói.
- Phải, Matt đồng tình và quỳ xuống để nhìn vật đó cho rõ hơn. Cứ như là cái bật lửa này đã được sản xuất với số lượng có hạn cho một dịp kỷ niệm nào đó...
- ... bước sang năm 2000, Elliott nói nốt câu và chợt nhận ra điều anh vừa nói thật là quá thể.
- Thôi bỏ đi, chúng mình bắt đầu huyên thuyên rồi! Matt quyết định và đứng lên.
Vài phút sau, một chiếc xe cảnh sát dừng lại trước cửa nhà và Elliott vội vã chạy ra đón thanh tra Malden. Đó là một viên cảnh sát trông cổ điển, kiểu như anh chàng Humphrey Bogatt (4) nhưng già hơn, mặc áo khoác vải mưa và đội mũ phớt song lại có vóc dáng của một võ sĩ Anh. Ông đã bắt đầu sự nghiệp của mình từ nấc thang thấp nhất và học nghề từ trường học đường phố. Từ gần bốn chục năm nay ông rong ruổi trên các con đường và thành phố San Francisco chẳng còn gì là bí mật đối với ông nữa cả.
Nhưng viên thanh tra không chỉ tới một mình. Ông giới thiệu với Elliott đồng nghiệp mới của ông, nhân viên điều tra Douglas tốt nghiệp trường cảnh sát, và được đào tạo bài bản về tôi phạm học. Mái tóc được chải chuốt cẩn thận hất ra phía sau, trông Douglas thẳng đuỗn, được bọc gọn gàng trong một bộ com-lê cắt rất khéo và môt chiếc cà-vạt thắt hoàn hảo, ngay cả vào lúc hai giờ sáng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 19-10-2011 18:54:09 | Xem tất

- Cậu gặp phải chuyện gì vậy, Elliott? Malden hỏi khi bước lên sân thượng và chỉ vào đống kính vỡ. Cậu đã bị một quả tên lửa bắn trúng cửa sổ hay sao?
- Cháu muốn chú lấy những dấu tay trên chiếc bật lửa này, Elliott ngây ngô giải thích, giống như điều này chỉ là một thủ tục thông thường.
Giống như một học trò thuộc bài, Douglas đã lập tức rút ra một cuốn sổ và một cây bút.
- Có dấu hiệu bị phá cửa hay đột nhập không? Anh ta hỏi.
- Không hẳn, Matt đáp. Chuyện này phức tạp hơn thế nhiều...
- Nếu các anh không đưa đơn khiếu nại thì chúng tôi sẽ chẳng thể làm gì được cả! anh chàng thanh tra trẻ nói bằng giọng pha chút khó chịu.
- Bình tĩnh nào, Douglas! Malden can thiệp.
Elliott bắt đầu hiểu ra rằng anh khó có thể từ chối đưa ra một lời giải thích. Lấy cớ đi pha cà phê, anh kéo người cảnh sát già vào trong bếp để nói chuyện riêng.
- Giờ thì, Elliott, hãy giải thích cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra, Malden vừa yêu cầu vừa châm một điếu xì gà nhỏ.
Chàng bác sĩ trẻ lặng thinh không nói gì, Malden đã bắt đầu nhớ lại buổi đầu tiên họ gặp nhau. Mới đó mà đã gần hai mươi năm, song ông vẫn còn nhớ như mới chỉ ngày hôm qua.
Một tối trời mưa, ông được gọi tới chứng kiến vụ tự tử của một người phụ nữ đã nhảy lầu tại toà nhà Downtown. Ông đã tìm thấy giấy tờ trên thi thể của bà ta - bà ta tên là Rose Cooper - rồi ông có trách nhiệm phải thông báo cái tin khủng khiếp đó cho người chồng và cậu con trai của bà.
Khi mẹ cậu tự tử, Elliott chưa đầy mười hai tuổi. Malden vẫn còn nhớ đó là một cậu bé đáng yêu, thông minh và nhạy cảm. Ông đã gặp người cha của cậu bé: một doanh nhân xem ra chẳng hề bị chấn động khi được báo tin về cái chết của người vợ. Malden còn nhớ nhất là những vết xước và vết bầm tím mà ông đã thấy trên cánh tay của đứa trẻ.
Thật ra, những dấu vết đó, ông đã đoán ra được thì đúng hơn là nhìn thấy. Đó có lẽ là bản năng đã giúp ông trở thành một cảnh sát giỏi: ông "cảm thấy" nhiều điều. Và trong trường hợp đó, ông lại càng cảm thấy rõ ràng hơn vì chính ông cũng có một người bố từng thường xuyên bắt ông phải chịu những trận đòn thắt lưng mỗi khi trở về nhà sau một ngày làm việc ở nhà máy.
Tất nhiên, ông hoàn toàn có thể nhắm mắt cho qua: vào thời đó, người ta vẫn còn chưa thực sự coi trọng những điều này. Song ông đã quay trở lại gặp Elliott ngày hôm sau và cả sau đó nữa. Ông đã tận dụng những lần đó để buông vài câu với người bố tỏ ý cho ông ta hiểu ông "đã biết" và từ giờ trở đi, ông sẽ còn để mắt tới. Chính nhờ vậy mà từ ngày này qua ngày khác, Malden tiếp tục theo dõi Elliott và quan tâm tới việc học của cậu bé. Đó chính là cái quan niệm hơi có chút không tưởng của ông về nghề nghiệp: cảnh sát phải gần dân và không chỉ dừng hành động của mình ở việc bắt giữ tội phạm.
Viên cảnh sát đón lấy tách cà phê mà chàng bác sĩ đưa cho và dụi mắt để xua đi những kỷ niệm đang trỗi dậy. Ông cần phải tập trung vào thời điểm hiện tại.
- Nếu cậu không nói gì, Malden nói, tôi làm sao giúp cậu được.
- Cháu biết chứ, Elliott gật đầu, nhưng...
- Nhưng sao?
- Khi mẹ cháu qua đời, chú đã bảo cháu hãy tin ở chú và chú đã hứa khi nào cháu cần giúp đỡ, chú sẽ có mặt để giúp cháu...
- Điều đó vẫn còn đúng, con trai ạ.
- Vậy thì hôm nay là lúc cháu cần đến chú. Cháu không chỉ cần đến người cảnh sát, mà còn cần cả người bạn nữa: người cảnh sát sẽ giúp cháu tìm ra những dấu tay còn người bạn sẽ tin tưởng cháu cho dù cháu không thể giải thích bất cứ điều gì trong lúc này.
- Ôi chao, Malden thở dài, cậu nói toàn những lời hay ho nhưng tôi không thể tiến hành điều tra dấu tay như thế được! Cần phải lấy được giấy phép, lập báo cáo. Rồi phải điều cả một đội bên phòng thí nghiệm của bộ phận khoa học hình sự tới. Hơn nữa, việc này có thể kéo dài nhiều ngày, thậm chí vài tuần...
- Nhưng cháu cần phải có kết quả rất nhanh!
Malden gãi đầu suy nghĩ khoảng hơn một phút. Thời gian gần đây, ngôi sao may mắn của ông đã lu mờ dần trong đồn cảnh sát. Người ta công khai chỉ trích ông không tôn trọng cấp trên và thường xuyên sử dụng những phương thức không chính thống cho lắm để đạt được mục tiêu. Nhưng nhất là người ta đã không bỏ qua việc ông đã đi quá xa trong một cuộc điều tra về tham nhũng có liên quan tới rất nhiều nhân vật của toà thị chính. Malden biết giờ ông đã bị đặt vào tầm ngắm và anh chàng phụ tá mới của ông thực chất dđược cử tới chủ yếu để giám sát và chỉ chờ ông đi một bước sai lầm. Có quá nhiều lý do khiến ông phải thận trọng, song ông lại phải thực hiện một lời hứa. Một lời hứa mà ông đã hứa cách đây hai mươi năm, với một đứa trẻ vừa mới mất mẹ.
- Có lẽ tôi có một cách để lấy các dấu tay mà không cần phải thông qua các trình tự thông thường, đột nhiên ông tuyên bố.
- Bằng cách nào?
- Rồi cậu sẽ thấy, ông đáp vẻ bí ẩn. Cách này hoàn toàn không theo thông lệ một chút nào, nhưng có thể sẽ được.
Quay trở lại phòng khách, ông bảo Douglas chạy đi mua một tuýp keo loại mới, nhãn hiệu Super Glue mới xuất hiện trên thị trường.
- Tôi kiếm đâu ra cái của đó vào lúc hai giờ sáng? Douglas làu bàu.
Malden đưa cho anh trợ lý địa chỉ của một hiệu bán máy ảnh mở cửa qua đêm và có bán loại keo này, vì nó được sản xuất bởi nhãn hiệu Kodak.
Trong khi Douglas thi hành nhiệm vụ, viên thanh tra quỳ xuống và quan sát dòng chữ kỳ lạ được khắc trên bật lửa.
- Millenium Edition à? Thế có nghĩa là sao? ông vừa hỏi vừa quay về phía Matt.
- Cháu cũng chẳng biết gì hơn chú, Matt vừa thú nhận vừa bật nắp một lon Coca-Cola.
- Ít nhất các cậu cũng chưa đụng tay vào nó chứ? Nếu không thì xin tạm biệt các dấu tay...
- Chú cho tụi cháu là lũ ngốc hay sao! Matt thốt lên. Tụi cháu cũng có theo dõi Starky và Hutch (5) đấy.
Malden nhìn xoáy vào chàng trai rồi quay về phía Elliott.
- Tôi cần có một cái hộp bằng bìa các tông.
- To cỡ nào?
- Một hộp đựng giày có thể dùng được rồi.
Elliott vào trong phòng lục tìm trong tủ và tìm thấy một hộp các tông đựng đôi giày Stan Smith.
Trong khi đó, Malden lấy cây đèn nhỏ đặt trên chiếc bàn thấp trên sân thượng. Ông tháo chụp đèn ra và đặt bàn tay lên bóng đèn vẫn còn sáng để thử độ nóng.
Một vài phút sau, Douglas quay trở lại, hãnh điện giơ ra một tuýp keo Super Glue. Lúc đầu, anh cứ cho rằng Malden là một người lỗi thời, nhưng rồi anh buộc phải công nhận sự tài giỏi của viên cảnh sát già khiến anh ngạc nhiên mỗi ngày và chỉ trong vài tuần làm việc với ông, anh đã học được nhiều hơn cả những gì được đào tạo trong ba năm.
- Tất cả đã sẵn sàng, Malden thông báo, buổi diễn có thể bắt đầu.
- Chú định lấy dấu tay bằng một hộp các tông và một tuýp keo hay sao? Matt hỏi vẻ không tin.
- Chính xác. Và điều này thì, chàng trai của tôi ạ, cậu chưa bao giờ thấy được trên tivi, ngay cả trong Starky và Hutch.
Malden bảo Matt đưa cho ông vỏ lon Coca-Cola mà anh vừa uống hết. Viên cảnh sát rút từ trong túi ra một con dao nhíp và dùng nó để cắt đáy lon nhôm. Rồi ông đổ toàn bộ keo trong tuýp vào đáy hộp vừa lấy được và đặt nó bên cạnh chiếc bật lửa.
Rồi ông cầm lấy chiếc đèn bàn và dùng hơi nóng toả ra từ bóng đèn để hơ lớp keo. Rất nhanh chóng, một làn hơi khó ngửi toả ra khắp phòng. Malden dùng hộp các tông chụp lên toàn bộ các thứ đó rồi hài lòng quay về phía cử toạ.
- Vài phút nữa là có thể thử được rồi, ông thông báo, một nụ cười mãn nguyện nở trên môi.
- Thật ra chú làm gì thế? Matt hỏi, có vẻ không tin tưởng lắm.
Vẫn để mắt tới cái hộp, Malden dùng giọng rất chuyên nghiệp để giải thích:
- Tên khoa học của Super Glue là cyanoacrylate...
- Rất hân hạnh được biết điều này, Matt chế nhạo.
Malden ném cho anh chàng một ánh mắt sa sầm ngụ ý ông sẽ không để cho anh mở miệng cắt ngang lời giải thích của ông lần nữa và Matt nắm bắt ngay được thông điệp đó.
- Dưới tác dụng của hơi nóng, làn hơi khí cyanoacrylate sẽ bị hút bởi các axit amin và chất béo là những thành phần chủ yếu cấu tạo nên mồ hôi của con người vẫn còn đọng lại trong những dấu tay.
- Và rồi sẽ có sự thẩm thấu, Elliott thốt lên khi bắt đầu hiểu ra.
- Thẩm-cái gì? Douglas hỏi và cảm thấy càng lúc bị rớt lại phía su.
- Thẩm thấu, Malden giải thích. Điều đó có nghĩa là hơi bốc ra từ Super Glue sẽ bám trên những dấu vân tay vốn không thể nhìn thấy bằng mắt tôi hường và tạo thành một dạng vỏ bọc vừa khiến cho dấu tay hiện lên lại vừa có thể bảo vệ được chúng.
Matt và Douglas ngơ ngác nhìn viên cảnh sát già. Mặc dù vậy họ đang chứng kiến một thí nghiệm mang tính đột phá mà hcỉ vài năm sau đó sẽ tạo ra cuộc cách mạng đối với công tác điều tra trên toàn thế giới.
Về phần mình, Elliott vẫn không rời mắt khỏi cái hộp các tông, tỏ ra lo lắng vì những gì nó sắp giúp anh khám phá ra.
Một lúc sau, Malden cho rằng cuộc thí nghiệm đã kéo dài như thế là đủ và nhấc chiếc hộp lên: một lớp màu trắng và cứng đã p hủ lên ba nơi trên chiếc bật lửa, cho thấy rõ ràng ba dấu vân tay.
- Vậy là công việc đã xong, Malden vừa nói vừa cúi xuống. Thoạt nhìn thì chúng ta có một dấu vây tay tuyệt vời của ngón cái trên một mặt, và mặt bên kia thì theo tôi... một đầu ngón trỏ và ngón giữa.
Ông cẩn thận gói vật chứng vào trong một chiếc khăn mùi xoa và nhét nó vào trong túi áco khoác của ông.
- Nếu tôi không nhầm, ông vừa nói vừa quay về phía Elliott, thì cậu muốn tôi so sánh các dấu tay này với những dấu tay mà chúng tôi đã lưu trong hồ sơ.
- Không hẳn như vậy, bác sĩ chữa lại: cháu muốn chú so sánh chúng với dấu tay của cháu.
Rồi với một cử chỉ như để minh hoạ cho lời nói, anh rút từ trong túi áo vest ra một chiếc bút máy và để mực chảy một chút ra bàn rồi dùng từng ngón tay của anh chấm vào đó và in những dấu vân tay của chính anh lên một trang giấy trắng vừa xé ra từ cuốn sổ tay.
Malden cầm lấy tờ giấy và nhìn thẳng vào mắt Elliott.
- Mặc dù tôi không hiểu rõ lắm tính logíc của tất cả những chuyện này, tôi cũng sẽ làm điều đó, bởi vì chính tôi cũng có lòng tin đối với cậu.
Bác sĩ im lặng gật đầu, cũng là một cách riêng anh để nói lời cảm ơn với viên cảnh sát. Về phần Matt, cuối cùng anh cũng đánh liều hỏi thêm một câu:
- Liệu việc so sánh hai nhóm vân tay có mất nhiều thời gian không?
- Tôi sẽ bắt tay vào việc ngay lập tức, Malden trấn an. Vì các dấu tay khá rõ, nên tôi hy vọng sẽ nhanh chóng có kết quả.
Elliott tiễn hai người cảnh sát ra bậc thềm. Trong khi Douglas đi lấy xe, Malden hứa với anh:
- Tôi sẽ gọi cho cậu ngay khi nào xong.
Rồi sau đó một thoáng ngập ngừng, ông hỏi:
- Này, quan hệ của cậu với cái cô người Braxin, cô bé Ilena, vẫn tốt đẹp chứ?
- Vẫn tốt đẹp ạ, Elliott đáp, hơi ngạc nhiên vì câu hỏi này. Giữa cháu và cô ấy...
Dừng lại ngay giữa chừng vì ngượng ngập, anh không nói hết câu, song Malden đã nắm được ý chính.
- Tôi hiểu rồi, ông vừa nói vừa cúi đầu, khi một người phụ nữ bước vào trái tim cậu, cô ta sẽ ở đó mãi mãi...
Elliott xúc động nhìn người cảnh sát già đi xa dần. Anh biết đã từ vài năm nay, ông vẫn sát cánh bên vợ ông trong cuộc chiến vô vọng chống lại căn bệnh Alzheimer.
Và giờ phút cuối cùng của cuộc chiến cũng điểm.

* * *


Đã ba giờ sáng, nhưng Elliott không thấy buồn ngủ. Anh đã lái xe đưa Matt về nhà và lấy lại chiếc Coccinelle của mình. Anh dừng lại ở một trạm xăng đường Market. Đầu óc vẫn còn đắm chìm trng luồng suy tư, anh đã đổ đầy bình xăng trong khi một người đàn bà đã móm cả hàm răng chợt đến bắt chuyện với anh. Bà đẩy một chiếc xe chất đầy đồ vớ vẩn và giẻ rách, có vẻ như bà ta vừa phê thuốc hoặc đang say mèm. Bà trút một tràng chửi rủa vào anh nhưng anh chẳng buồn quam tâm. Cứ mỗi tháng hai ngày, anh làm việc như một bác sĩ tình nguyện tại Free Clinic, một trung tâm chăm sóc của thành phố dành cho người nghèo và anh biết rằng khi đêm xuống cả bộ mặt thành phố liền thay đổi. Trong các cuốn sách quảng bá cho du lịch và các bộ phim, San Francisco luôn được giới thiệu dưới ánh sáng ban ngày hào nhoáng và những khu phố đẹp như tranh vẽ, với quy mô rất nhân bản và rất nhiều không gian xanh. Người ta luôn nhắc đi nhắc lại rằng thành phố này đúng là biểu tượng của tự do cho chủ nghĩa hippi. Quả đúng là "Frisco" cũng đã từng có những giờ phút huy hoàng cách đây mười năm, vào thời mà hàng trăm flower~children (6) đã theo bước Janis Joplin (7) và Jimi Hendrix (8) tới định cư trong các ngôi nhà kiến trúc kiểu Victoria tại Haight Ashbury.
Song Summer of Love (9) đã bị lùi vào quá vãng. Phong trào hippi đã lặng dần xuống, bị nhấn chìm bởi chính sự thái quá của nó. Joplin và Hendrix đều đã qua đời, khi chưa đầy hai mươi bảy tuổi. Jimi đã tự nhồi mình bằng một đống thuốc ngủ và chết ngạt khi nôn chúng ra; còn Viên Ngọc Trai (10) thì đã chết do sốc thuốc khi sử dụng heroin quá liều.
Vào cuối năm 1976 này, tình yêu tự do và cuộc sống cộng thể đã chẳng còn hấp dẫn được mấy người. Nạn nghiện ngập đã gây ra nhiều hậu qủa không thể tưởng tượng được. Được cho rằng có thể khiến cho con người cởi mở tâm hồn và giải thoát họ khỏi sự ức chế, những chất LSD (11), methedrine và heroin lại khiến cho con người rơi vào vòng phụ thuộc trước khi từ từ giết chết họ. Ở bệnh viện, Elliott đã được chứng kiến những sự huỷ hoại tàn khốc của chúng: quá liều, viêm gan do sử dụng những kim tiêm bẩn, viêm phổi, những cơn bad trips (12) kết thúc một cách tầm thường bằng việc nhảy lầu tự tử.
Thêm vào đó là những vấn đề của các cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam, hàng trăm người đã quay trở về để gia nhập đội ngũ những người vô gia cư và họ ngày càng trở nên đông đảo hơn. Quân đội Mỹ đã rút khỏi Sài Gòn từ cách đây một năm, và rất nhiều cựu chiến binh, vẫn còn khiếp đảm bởi những gì họ đã phải trải qua "ở đó", giờ sống vất vưởng trong cảnh cùng quẫn tại các khu phố nghèo thuộc ngoại ô thành phố.
Elliott trả tiền xăng và lái xe chạy xuyên thành phố, cửa sổ xe mở toang, suy nghĩ về cuộc chạm trán khó tin mà anh đã gặp phải tối nay. Sau khi chia tay với Matt, anh lại cảm thấy cô độc và bị tước bỏ mọi vũ khí. Vì anh buộc phải thú nhận với bản thân: tất cả những gì người đàn ông đó nói với anh đều đúng, từ những trận đòn mà bố vẫn thường trút xuống đầu anh cho tới cảm giác tội lỗi khi mẹ anh tự tử.
Tại sao chưa bao giờ anh nói tất cả những chuyện này với Ilena? Tại sao chưa bao giờ anh nghĩ tới chuyện phơi bày những điểm yếu của mình với người phụ nữ mà anh yêu?
Rồi còn Matt? Anh cũng chẳng bao giờ kể cho bạn nghe. Có phải chỉ vì sự ngượng ngùng của đàn ông? Sự thật là như thế dễ dàng hơn. Với Matt, tất cả mọi thứ đều hời hợt và phù phiếm. Ở bên cạnh Matt là một cách dễ chịu để đương đầu với tất cả những sự thật phũ phàng của cuộc sống và để tự tiếp sức cho mình khi những trách nhiệm trong công việc của anh trở nên quá nặng nề.
Suy cho cùng, cho dù người ta vẫn chưa tìm thấy gì tốt hơn tình yêu và tình bạn để khiến cho cuộc sống trở nên dễ chịu, thì cũng vẫn có những tình huống mà con người buộc phải một mình vượt qua.

* * *


Ở cách đó một vài cây số, thanh tra Malden miệt mài làm việc trong phòng làm việc của ông ở Sở Cảnh sát trung tâm. Vài phút trước, ông đã lời qua tiếng lại với người phụ tá khi anh ta trách ông đã sử dụng giờ làm việc để giải quyết việc riêng. Malden biết Douglas là một anh chàng đầy tham vọng và anh ta chẳng hề che giấu việc muốn mau chóng loại bỏ ông để chóng được thăng chức. Khi anh chàng ngu xuẩn đó dọa sẽ viết một bản báo cáo, Malden đã nói thẳng vào mặt anh ta những gì ông nghĩ và tống cổ anh ta vào một phòng làm việc cách xa chỗ ông. Thật đáng tiếc: Douglas đã có thể trở thành một cảnh sát tốt với tất cả những cả những ưu điểm của anh ta, song anh ta đã không biết cách chọn đúng đắn để đạt được mục tiêu đó. Vào thời của ông, người ta không hề tìm kiếm thành công bằng mọi giá và sẵn sàng loại bỏ mọi người trên đường tiến thân của mình. Song cũng có thể Malden đã trở nên già nua. Có thể thế hệ trẻ ngày nay có những giá trị mới: nhiều tham vọng hơn, nhiều sáng kiến cá nhân hơn, giống như thỉnh thoảng thống đốc Reagan vẫn kêu gọi trên truyền hình.
Malden uống nốt cà phê. Lần này, ông không còn nghi ngờ gì việc anh chàng sẽ thực hiện lời đe doạ. Mặc lệ. Nếu như Sở Cảnh sát cứ tiếp tục làm ông điên đầu như thế này, ông sẽ bỏ việc để có nhiều thời giờ túc trực trong bệnh viện bên cạnh Lisa hơn. Dù sao đi nữa, ông cũng sắp đến lúc nghỉ hưu. Trong khi chờ đợi, ông sẽ giúp Elliott lần cuối cùng bằng cách thực hiện công việc mà anh đã yêu cầu.
Ông bắt đầu bằng việc nhuộm màu những dấu vân tay hiện lên trên chiếc bật lửa bằng một thứ phẩm huỳnh quang. Rồi ông dùng máy ảnh chụp lại một loạt ảnh mà ông định sẽ rửa rồi phóng to ra. Chỉ sau đó, công việc phân tích mới thực sự được bắt đầu. Ông lo lắng nhìn đồng hồ. Một công việc công phu đang chờ đợi ông. Một đêm chắc sẽ không thể đủ.


* * *


Trước khi quay trở lại bờ biển, Elliott dừng lại trong một siêu thị nhỏ ở Van Ness mở cửa 24/24h. Anh mua thuốc lá và một bao thức ăn khô cho chó.
- Chào mày, Rastaquoère, anh vừa gọi vừa đẩy cửa vào nhà.
Anh vừa bước chân qua ngưỡng cửa ra sân thượng thì chú chó labrador đã chạy đến liếm các ngón tay anh giống như nó đã làm hai tiếng trước đó với người khách lạ.
- Mày không cần phải nịnh bợ như thế, anh vừa đe nó vừa đổ thức ăn khô vào trong một khay thức ăn tự chế.
Anh ngồi một lúc ngắm nhìn con chó, vô cùng ngạc nhiên khi thấy mình bắt đầu thích thú với sự hiện diện của nó. Sau đó anh quét dọn đống kính vỡ và hút vài điếu thuốc, mắt mơ màng nhìn vào khoảng không vô định và tâm trí bắt đầu lang thang trở về với thời thơ ấu của mình. Cứ năm phút một, anh lại lo lắng liếc về phía điện thoại để chờ đợi lời tuyên án mà việc phân tích các dấu tay sẽ đưa ra. Cho dù toàn bộ câu chuyện này chẳng có chút cơ sở nào cả, song anh vẫn không thể kiềm chế nổi cảm giác bồn chồn như đang chờ đợi kết quả xét nghiệm y khoa có thể sẽ cho anh biết sự tồn tại của một căn bệnh chết người.

* * *


Phó thanh tra Douglas xé tan bản báo cáo mà anh vừa gõ xong trên máy chữ. Anh đứng dậy và đi xuống tầng trệt, vào căn phòng được dùng làm phòng giải lao cho cảnh sát. Tối nay, Sở Cảnh sát yên tĩnh một cách kỳ lạ. Douglas pha hai tách cà phê rồi lại leo lên tầng ba và gõ cửa phòng làm việc của Malden.
Thay cho câu trả lời, Malden phát ra một tràng làu bàu khiến Douglas quyết định hiểu đó như một lời mời vào.
- Ông có cần giúp một tay không? Anh vừa hỏi vừa thò đầu qua ô cửa.
- Cũng có thể... ông thanh tra già trả lời bằng giọng cộc cằn.
Douglas chìa cho người đồng nghiệp một tách cà phê và bắt đầu chăm chú nhìn xung quanh.
Trên tường có đính khoảng một chục tấm ảnh được phóng to nhiều lần làm thành một chuỗi dài những dấu vân tay. Cảnh sát bao giờ cũng yêu thích các dấu tay: "những người tố giác duy nhất không bao giờ lừa lọc hay dối trá", trong nghề người ta vẫn quen nói như vậy. Được đặt sát cạnh nhau, những bức ảnh làm thành một tấm thảm kỳ quặc giống như một tấm bản đồ địa hình khổng lồ: những dốc thoải, những lối rẽ đồi, những đường phân thuỷ, những cụm đảm nhỏ có thể phối ngẫu với nhau thành vô vàn những khả năng khác. Mỗi dấu vân tay là một tác phẩm nghệ thuật độc nhất ở mỗi người, đã được hình thành trong suốt quá trình từ khi còn là bào thai. Từ khi còn trong bụng mẹ, bào thai đã phải chịu vô số những tình huống gây áp lực diễn ra một cách ngẫu nhiên nối tiếp trên đầu các ngón tay. Tất cả những điều này xảy ra trước tháng thứ sáu của thai kỳ. Sau đó, các hình thù đó sẽ cố định và sẽ không bao giờ thay đổi cho tới tận lúc chết.
Ở trường cảnh sát, Douglas đã học được rằng mỗi ngón tay có khoảng một trăm năm mươi điểm đặc trưng. Để có thể quyết định hai dấu tay có trùng khớp nhau không, chỉ cần tìm ra những điểm tương đồng giữa những hình dạng đặc thù. Để kết quả xác định có giá trị pháp lý, cần phải tìm được khoảng mười hai điểm trùng hợp.
- Bắt tay vào việc thôi, anh nói với cấp trên.
Douglas có đôi mắt rất tinh tường.
Malden có sự kiên nhẫn.
Cả hai người kết hợp lại thành một tổ rất ăn ý.

* * *


Khi mặt trời lên, Elliott quyết định đi tắm. Anh thay quần áo sạch rồi rời khỏi nhà để bắt đầu ca trực tại bệnh viện. Trên đường, anh phải bật đèn pha và cần gạt nước lên. Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ, thời tiết đã hoàn toàn biến đổi. Bầu trời hôm trước vẫn còn trong trẻo là thế, vậy mà giờ đã đầy mây hứa hẹn một buổi sáng mưa dầm báo hiệu mùa đông.
Anh bật đài để nghe tin thời sự. Toàn những tin tức đáng lo ngại: một trận động đất khiến nhiều người thiệt mạng ở Trung Quốc, đàn áp quân sự ở Achentina, thuỷ triều đen ở Pháp, tàn sát do phân biệt chủng tộc ở Soweto, Nam Phi. Trong khi tại Houston, một kẻ điên loạn bị chặn lại trong nhà đã tìm cách nã súng vào đám đông.
Trong khi đó, tại châu Mỹ với vụ Watergate, chiến dịch bầu cử tổng thống đang đến hồi quyết định Carter hoặc Ford ai sẽ là người nắm quyền định đoạt số phận của đất nước.
Quá chán nản, Elliott đổi sang tần số khác và đi nốt chặng đường còn lại cùng với ban nhạc Beatles và Let It Be.
Anh vừa mới bước vào sảnh bệnh viện thì người gác cửa gọi lại.
- Có điện thoại cho bác sĩ đây!
Elliott cầm lấy chiếc điện thoại ông đưa cho.
- Tôi có kết quả cho cậu rồi đây, Malden thông báo với anh.
Bác sĩ hít một hơi thật sâu trước khi hỏi:
- Thế kết quả ra sao?
- Các dấu tay hoàn toàn trùng khớp.
Elliott ngừng lại vài giây để tiếp nhận thông tin này.
- Chú có chắc về kết quả đó không?
- Chắc chắn. Chúng tôi đã kiểm tra nhiều lần rồi.
Cho dù vậy, Elliott vẫn chưa sẵn sàng chấp nhận sự thật hiển nhiên đó.
- Nếu tính tuyệt đối, anh hỏi, thì có bao nhiêu khả năng để hai người khác nhau có dấu tay giống hệt nhau?
- Một trên vài chục tỷ. Ngay cả anh em sinh đôi cũng có dấu tay khác nhau.
Thấy anh bác sĩ không có phản ứng gì, Malden khẳng định lại kết luận của mình cho thật rõ.
- Tôi không hiểu vấn đề của cậu là gì, Elliott, nhưng hai dấu tay là của cùng một người. Không thể nghi ngờ gì được nữa. Và người đó chính là cậu.

Chú thích:
1. Khốn nạn
2. Quốc ca Pháp
3. Dòng sản phẩm Thiên niên kỷ
4. Tên một tài tử Mỹ nổi tiếng những năm 50
5. Một sêri phim truyền hình về cảnh sát hình sự rất nổi tiếng trong những năm 1970.
6. Là một từ dùng để ám chỉ những người theo trào lưu hippi, bắt nguồn từ sự kiện hàng chục ngàn người đã tụ họp tại San Francisco vào mùa hè năm 1967, còn được giọ là Summer of Love (Mùa hè của Tình yêu). Họ đội trên đầu những tràng hoa tượng trưng cho hoà bình và tình yêu, phân phát hoa cho tất cả những người qua đường và cùng nhau ca hát, nhảy múa liên tục trong vòng ba ngày làm nên một "ngày hội của âm nhạc, tình yêu và hoa".
7. Là một phụ nữ da trắng thuộc tầng lớp trung lưu đã hát nhạc blue cùng với ban nhạc Big Brother tại San Francisco. Từ một ban nhạc địa phương, họ đã trở nên nổi tiếng trên khắp đất nước sau khi họ trình diễn năm 1967 tại Liên hoan nhạc Pop Monterey.
8. Một nghệ sĩ ghi-ta điện nổi tiếng trong những năm 1960.
9. Mùa hè của Tình yêu: mùa hè năm 1967 tại San Francisco.
10. Pearl (Viên Ngọc Trai) là biệt danh của Janis Joplin.
11. Lysergic acid diethylamide: tên gọi chung chỉ chất gây nghiện tổng hợp.
12. Từ dùng để chỉ những cơn khủng hoảng do sốc khi sử dụng chất gây nghiện.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách