Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: nail65
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết - Xuất Bản] Dòng Máu | Sidney Sheldon

[Lấy địa chỉ]
21#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2012 22:51:37 | Chỉ xem của tác giả
Chương 6  
        

NEW YORK


Thứ hai, 7 tháng Chín, 11 giờ sáng.

Chiếc Boeing tư nhân 707-320 đang hoàn tất chặng cuối cùng đến sân bay Kennedy, lướt nhẹ ra khỏi đường hướng dẫn hạ cánh. Đây là chuyến bay dài, buồn tẻ và Rhys Wilhams đã gần như mệt lả nhưng anh không tài nào ngủ được trong suốt cả đêm. Anh đã quá nhiều lần đi trên chiếc phi cơ nầy với Sam Roffe. Ở đâu cũng thấy tràn ngập sự có mặt của ông. Elizabeth Roffe đang mong chờ anh.

Rhys đã gửi cho nàng một bức điện từ Istanbul, chỉ thông báo là anh sẽ đến vào ngày hôm sau. Anh cũng có thể báo tin cái chết của bố nàng qua điện thoại nhưng nàng đáng được quan tâm hơn thế. Máy bay đã hoàn toàn tiếp đất và đang hướng đến bãi đậu, Rhys mang theo rất ít hành lý và nhanh chóng làm xong các thủ tục hải quan.

Bên ngoài, bầu trời xám xịt và ảm đạm, báo hiệu mùa đông giá lạnh sắp đến. Một chiếc limousine sang trọng đã đợi sẵn để đưa anh đến toà nhà của Sam Roffe ở Long Island, nơi mà có thể Elizabeth đang chờ anh. Trong suốt quãng đường, Rhys cố nhẩm lại những lời anh định nói với nàng, cố xoa dịu sự bất hạnh, nhưng khi Elizabeth mở cửa trước đón chào anh, những lời ấy đã nhanh chóng bay khỏi đầu anh.

Mỗi khi Rhys thấy Elizabeth, sắc đẹp của nàng lại khiến anh phải sững sờ. Nàng thừa hưởng nhan sắc của mẹ, cùng một gương mặt sang trọng, cặp mắt đen láy dưới cặp lông mi dài và rậm. Da nàng trắng và mịn màng, mái tóc nàng đen bóng. Dáng người nàng đậm đà và rắn chắc. Nàng mặc một chiếc áo lụa hở cổ màu kem với chiếc váy có nếp gấp bằng nỉ xám và mang đôi giầy màu nâu vàng. Không có chút dấu vết nào của cô bé vụng về Rhys gặp lần đầu tiên hồi chín năm trước. Nàng đã trở thành một thiếu nữ với vẻ đẹp trong sáng, nồng nàn và hoàn toàn có ý thức về nó.

Giờ đây nàng đang cười với anh, vui mừng được gặp anh. Nàng nắm tay anh và nói,

- Vào đây, Rhys, - rồi dẫn anh vào thư viện rộng rãi có tường lát gỗ sồi . - Sam về cùng anh chứ?

Không còn cách nào để báo tin một cách nhẹ nhàng. Rhys hít một hơi dài và nói:

- Sam đã gặp một tai nạn khủng khiếp, Liz ạ.

Anh thấy rõ sắc hồng trên má nàng biến mất. Nàng đợi anh nói tiếp.

- Ông đã chết.

Nàng đứng như bị đóng băng. Cuối cùng khi nàng lên tiếng, Rhys chỉ còn nghe loáng thoáng.

- Chuyện… chuyện gì đã xảy ra?

- Chúng tôi chưa có một chi tiết nào cả. Ông đang leo núi Mont Blanc. Sợi dây bị đứt. Ông rơi xuống một kẽ nứt.

- Họ có tìm thấy… Nàng nhắm nghiền mắt lại một lúc rồi mở ra.

- Kẽ nứt không đáy.

Mặt nàng đã trở nên trắng bệch. Rhys thấy lo lắng.

- Em không sao chứ?

Nàng mỉm cười và nói:

- Dĩ nhiên. Em không sao, cám ơn anh. Anh có muốn một tách trà hoặc một chút gì để ăn không?

Anh ngạc nhiên nhìn nàng và định lên tiếng, nhưng anh chợt hiểu. Nàng đang bị xúc động mạnh. Nàng nói lung tung mà không có chút cảm giác nào, cặp mắt sáng ngời bất thường, nụ cười bất động.

- Sam là một vận động viên tuyệt vời, - Elizabeth vẫn nói. - Anh đã trông thấy những chiếc cúp của bố em. Ông luôn dành chiến thắng, phải không? Anh biết rằng ông đã từng leo lên ngọn Mont Blanc chứ? Dĩ nhiên anh phải biết. Anh đã một lần đi cùng ông, phải không Rhys?

Rhys để yên cho nàng nói, nàng đang cố tự giải toả nỗi đau, cố xây một lớp bảo vệ bằng ngôn từ để lẩn tránh phút giây phải đối mặt với nỗi đau khổ của chính mình. Trong một lúc, khi đang lắng nghe nàng, anh chợt nhớ về cô bé yếu đuối mà anh đã gặp lần đầu, quá dễ tổn thương, quá đỗi rụt rè đến nỗi không tài nào tự bảo vệ mình trước những sự thật phũ phàng. Giờ dây nàng đang bị kích động một cách nguy hiểm, căng thẳng tột cùng và xung quanh nàng là một sự yếu ớt khiến Rhys phải lo ngại.

- Để anh gọi bác sĩ, - anh nói. - Ông ấy sẽ giúp em.

- Ồ không. Em vẫn hoàn toàn bình thường mà. Nếu anh không thấy ngại, em nghĩ em nên nằm một phút. Em thấy trong người hơi mệt.

- Em có cần anh ở đây không?

- Cám ơn anh. Có lẽ không cần như vậy đâu.

Nàng đưa anh ra cửa và khi anh bước vào xe, Elizabeth chợt gọi:

- Rhys!

Anh quay lại.

- Cám ơn anh đã đến. Chúa ơi!

*     *     *

Nhiều giờ sau khi Rhys Williams đi khỏi, Elizabeth Roffe vẫn nằm trên giường, nhìn chằm chằm lên trần nhà, theo dõi những hình ảnh chợt ẩn chợt hiện được vẽ nên bởi ảnh nắng tháng chín yếu ớt. Và cơn đau kéo đến. Nàng không uống thuốc vì nàng muốn đau.

Nàng và Sam giống nhau ở điểm đó. Nàng có thể chịu đựng được vì nàng là con gái của Sam. Và nàng cứ nằm đó, suốt ngày suốt đêm, không nghĩ gì, rồi lại nghĩ đến tất cả mọi thứ, hồi tưởng, xúc động. Nàng cười, nàng lại khóc, rồi nàng nghĩ mình đang lên cơn điên loạn. Chẳng sao cả. Không ai nghe thấy gì hết. Nửa đêm, nàng thấy đói cồn cào và xuống bếp ăn ngấu nghiến một chiếc sandwich to rồi lại nôn thốc nôn tháo. Nàng vẫn không thấy khá hơn.

Không gì có thể làm dịu cơn đau tràn ngập trong lòng. Nàng cảm giác như các đầu dây thần kinh đang bùng cháy. Tâm hồn nàng không ngừng trôi ngược về những năm tháng trước với bố nàng. Nàng quan sát bình minh qua cửa sổ phòng ngủ. Một lúc sau, người giúp việc gõ cửa và Elizabeth bảo cô ta đi.

Một lần chuông điện thoại reo, tim nàng giật thót lại, nàng với tay về phía nó và nghĩ, là Sam! Rồi nàng chợt nhớ ra và rút tay lại. Ông sẽ không bao giờ còn gọi điện cho nàng nữa. Nàng cũng không bao giờ được nghe tiếng của ông nữa. Nàng sẽ không bao giờ được gặp ông nữa. Một kẽ nứt không đáy.

- Không đáy. Elizabeth nằm đó, để mặc cho dĩ vãng cuốn đi, hồi tưởng lại tất cả.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2012 23:03:45 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7


Sự ra đời của Elizabeth Rowane Roffe quả là một tấn bi kịch kép. Bi kịch nhỏ là mẹ của Elizabeth qua đời ngay trên bàn đẻ. Bi kịch lớn là Elizabeth là con gái.

Trong chín tháng, cho tới khi cô chào đời, cô là đứa bé được mong đợi một cách tha thiết nhất trên thế giới, người sẽ kế thừa một vương quốc vĩ đại trị giá hàng tỉ tỉ đô la - tập đoàn Roffe và các con. Vợ của Sam Roffe, Patricia, là một phụ nữ tóc đen có nhan sắc hơn người. Nhiều người đàn bà đã cố tìm trăm phương ngàn kế để lấy cho được Sam Roffe vì địa vị của ông, uy tín của ông, sản nghiệp của ông. Còn Patricia đã kết hôn với ông vì bà thật lòng yêu ông. Đó là lý do tồi tệ nhất.

Sam Roffe luôn tìm cách sắp xếp công việc làm ăn và Patricia rất phù hợp với yêu cầu của ông. Sam Roffe không có thời gian cũng như tính khí của một người đàn ông thuộc về gia đình. Không còn chỗ nào khác ngoài Roffe và các con trong cuộc sống của ông. Ông miệt mài hiến dâng mình cho tập đoàn và ông trông mong những người xung quanh ông cũng giống như ông vậy.

Đối với ông, tầm quan trọng của Patricia chỉ bó gọn trong những gì mà bà đóng góp cho hình ảnh của tập đoàn. Tới lúc Patricia nhận thức được thực trạng cuộc hôn nhân của mình thì đã quá muộn. Sam giao cho bà một vai diễn và bà đã diễn xuất thật tuyệt vời. Bà là một nữ chủ nhân hoàn hảo, một bà Sam Roffe hoàn hảo. Bà không nhận được một chút tình yêu nào từ chồng và bà cũng kịp học cách không ban phát tình yêu. Bà phục vụ Sam không khác gì một cô thư ký hạng bét đang làm công trong Roffe và các con.

Bà luôn có mặt để trả lời điện thoại hai mươi tư giờ một ngày, sẵn sàng bay đến bất cứ nơi nào Sam cần bà, thừa khả năng chiêu đãi một công ty vào loại hàng đầu thế giới hay tổ chức một bữa tiệc thịnh soạn cho một trăm thực khách dựa theo thông báo hàng ngày với đầy đủ khăn trải bàn thêu, bộ ly thuỷ tinh Baccarat lóng lánh, bộ đồ ăn bạc kiểu Georgian nặng trịch. Patricia là một thứ tài sản không được liệt kê của Roffe và các con.

Bà làm việc quần quật mà vẫn giữ được nhan sắc, nhờ tập luyện và ăn kiêng đều đặn như những người Spartan thuộc đất nước Hy Lạp cổ xưa. Thân hình của bà thật hoàn hảo, quần áo được thiết kế riêng bởi các hãng thời trang nổi tiếng như Norell ở New York, Channel ở Paris, Harnell ở London và Sybil Connoly ở Dublin. Nữ trang của bà cũng được đặt làm riêng ở tận Bulgaria do tay của Jean Schlumbrger. Cuộc sống của bà luôn bận rộn và đầy ắp nhưng cũng hết sức vô vị và trống rỗng.

Việc bà có mang đã làm thay đổi tất cả. Sam Roffe là người thừa kế nam cuối cùng của triều đại Roffe, và Patricia biết rõ rằng ông tha thiết có một đứa con trai như thế nào. Ông đang trông chờ ở bà. Và bây giờ bà trở thành mẫu hậu, bận rộn với đứa con trong bụng, vị hoàng tử bé tí xíu, người mà một ngày kia sẽ kế thừa vương quốc. Khi họ đẩy xe đưa bà vào phòng đẻ, Sam nắm chặt tay bà và nói "Cám ơn em".

Bà qua đời ba mươi phút sau đó vì một cơn tắc mạch, và điều hạnh phúc duy nhất về cái chết của Patricia là bà chết mà không biết mình đã làm ông chồng thất vọng đến nhường nào. Sam Roffe dảnh bớt thời gian trong thời gian biểu mệt nhoài của ông để tổ chức ma chay cho vợ, rồi tập trung vào vấn đề ông phải làm sao với đứa con vừa mới mất mẹ của mình.

Một tuần sau ngày Elizabeth ra đời, nàng được đưa về nhà và giao cho một bà vú, người khởi đầu cho một loạt các bà vú sau nầy. Trong suốt năm năm đầu tiên của cuộc đời, Elizabeth rất hiếm khi được thấy mặt bố mình. Ông không hơn gì một bóng mờ, một người xa lạ luôn chợt đến chợt đi. Ông thường xuyên đi khắp mọi nơi và Elizabeth là một sự phiền toái mà ông phải mang theo, một thứ hành lý thừa.

Một tháng Elizabeth thấy mình sống tại toà nhà ở Long Island với những bãi chơi ki, sân tennis, bể bơi và sân bóng quần. Vài tuần sau, bà vú của nàng lại thu dọn quần áo và nàng bay đến ở tại toà biệt thự của gia đình ở Barritz. Nó có đến năm mươi phòng và ba mươi hecta đất khiến Elizabeth cứ bị lạc luôn. Ngoài ra, Sam Roffe còn sở hữu một căn nhà mái bằng lớn ở Beekman Place và một toà biệt thự khác trên bờ biển Smeralda ở Sardinia.

Elizabeth qua lại tất cả những nơi nầy, từ nhà qua biệt thự, từ biệt thự qua nhà và nàng lớn lên giữa cảnh thanh lịch xa hoa. Nhưng nàng vẫn luôn cảm thấy mình như một người ngoài đi lạc vào một bữa tiệc sinh nhật lộng lẫy được tổ chức bởi những người xa lạ vô tình.

Khi Elizabeth lớn lên, bấy giờ nàng mới hiểu con gái của Sam Roffe là như thế nào. Mẹ nàng đã là một nạn nhân tội nghiệp của tập đoàn, và giờ đây đến lượt nàng. Nếu như nàng không có cuộc sống gia đình, cũng chỉ bởi vì chẳng có gia đình nào cả, mà chỉ có những người giám hộ được trả tiền và hình bóng xa cách của người được gọi là bố của nàng, người dường như không hề để tâm đến nàng, chỉ biết có tập đoàn mà thôi.

Patricia có thể chấp nhận hoàn cảnh của mình, nhưng với đứa con thì như thế thật là tàn nhẫn. Elizabeth cảm thấy không ai cần tới mình, không ai yêu thương mình, không biết làm gì để chống đỡ niềm thất vọng và cuối cùng nàng tự trách bản thân mình là không dễ thương. Nàng cố gắng dành lấy tình cảm của bố mình trong vô vọng.

Khi Elizabeth đến tuổi đi học, nàng ngồi trong lớp và làm nhiều món đồ cho ông, những bức tranh vẽ bằng màu nước ngây ngô, những chiếc gạt tàn xiêu vẹo, và nàng cẩn thận cất giữ chúng, chờ đợi bố đi công tác về để đem ra làm cho ông ngạc nhiên, làm cho ông vui lòng và nghe ông nói "Đẹp lắm, con yêu. Con thật là giỏi".

Khi ông trở về, Elizabeth mang những món quà yêu quý cho ông và ông liếc qua chúng một cách thờ ơ rồi gật đầu hoặc lắc đầu. "Con sẽ không bao giờ trở thành nghệ sĩ, phải không?".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2012 23:05:47 | Chỉ xem của tác giả
Có đôi lần Ehzabeth chợt bừng tỉnh giữa đêm khuya, và bước xuống cầu thang dài uốn cong trong căn nhà ở Beekman Place, đi qua đại sảnh mênh mông tới căn phòng làm việc của bố nàng. Nàng bước vào trong căn phòng trống trải như đang bước vào chốn linh thiêng.

Đây là phòng của ông, nơi ông làm việc, ký những văn kiện quan trọng và điều hành cả thế giới nầy. Elizabeth bước tới cái bàn khổng lồ bọc da và từ từ miết hai tay lên mặt bàn. Rồi nàng vòng ra đằng sau bàn, ngồi vào chiếc ghế da của ông. Nàng cảm thấy ở đó gần gũi với bố mình hơn. Tức là đến nơi nào ông đã đến, ngồi nơi nào ông đã ngồi, nàng sẽ trở thành một phần của ông.

Nàng luôn nói chuyện với ông trong trí tưởng tượng, và ông sẽ lắng nghe, sẽ thấy thú vị và sẽ tỏ ra ân cần khi nàng giải bày những vấn đề của mình. Một đêm, khi Elizabeth đang ngồi ở chỗ của ông trong bóng tối, bỗng nhiên đèn trong phòng bật sáng. Bố nàng đang đứng ở ngưỡng cửa. Ông nhìn Elizabeth ngồi sau bàn làm việc, mặc một cái áo ngủ mỏng, và hỏi, "Con làm gì một mình ở đây trong bóng tối vậy?" Rồi ông bế nàng lên, đưa nàng lên gác, tới giường ngủ, và Elizabeth đã thao thức cả đêm đó, nghĩ đến việc bố đã bế mình như thế nào.

Sau lần đó, đêm nào nàng cũng xuống nhà và ngồi trong phòng làm việc của ông, chỗ ông đến bế nàng lên gác nhưng chuyện đó đã không bao giờ còn xảy ra. Không một ai nói chuyện về mẹ với Elizabeth, nhưng có một bức chân dung toàn thân tuyệt đẹp của Patricia treo trong phòng khách và Elizabeth thường đứng ngắm nó hàng giờ. Rồi nàng nhìn lại mình trong gương. Xấu quá.

Người ta đã đặt vòng chỉnh răng nên trông nàng cứ như nửa người nửa thú vậy. Chẳng lạ lẫm gì khi bố không hề để ý đến mình, Elizabeth nghĩ. Chẳng bao lâu sau, nàng liên tục thèm ăn và ăn uống rất ngon miệng, rồi nàng bắt đầu lên cân. Bởi vì nàng đã hiểu ra một sự thật tuyệt vời: Nếu nàng béo ra và xấu xí, sẽ không còn ai trông mong nàng sẽ giống mẹ mình.

Khi Elizabeth được mười hai tuổi, nàng được gửi vào học tại một trường tư thục đặc biệt ở khu Đông Manhattan. Nàng đi học bằng chiếc Rolls-Royce có tài xế riêng, vào lớp và ngồi một chỗ, yên lặng, không biết đến mọi người xung quanh. Nàng không bao giờ xung phong trả lời câu hỏi, và khi bị gọi tên, nàng cũng chẳng bao giờ tỏ ra là biết câu trả lời. Rồi các giáo viên cũng sớm quen đi và phớt lờ nàng. Họ thảo luận về nàng và nhất trí với nhau rằng nàng là đứa bé hư nhất mà họ từng thấy.

Trong một báo cáo cuối năm gửi cho bà hiệu trưởng, cô giáo của Elizabeth đã viết: "Chúng tôi không thu được một tiến triển nào ở trường hợp Elizabeth Roffe. Em xa rời các bạn cùng lớp và từ chối tham gia bất kỳ một sinh hoạt nhóm nào. Em không kết bạn với bất cứ ai trong trường. Điểm số của em không đạt nhưng thật khó xác định đó là bởi vì em không cố gắng hay không đủ khả năng xứ lý mợi việc. Em ngạo mạn và ích kỷ. Nếu bố em không phải là ân nhân lớn của trường, tôi sẽ cương quyết yêu cầu đuổi học em".

Bản báo cáo cách xa thực tế đến hàng năm ánh sáng. Sự thật đơn giản là Elizabeth Roffe không có một tấm lá chắn bảo vệ, không có một cái áo giáp chống lại sự cô đơn tột cùng đã nhấn chìm nàng. Tâm hồn nàng tràn đầy cảm giác sâu sắc về sự vô dụng của mình khiến nàng sợ phải kết bạn, sợ rằng họ sẽ khám phá rằng nàng là đồ vô dụng, khó có cảm tình. Nàng không ngạo mạn mà chỉ hầu như là bị bệnh nhút nhát quá độ. Nàng có cảm giác rằng mình không thuộc về cùng một thế giới mà bố nàng đang sống. Nàng chẳng thuộc về đâu cả.

Nàng miễn cưỡng ngồi xe Rolls-Royce đến trường vì nàng biết rằng mình không đáng được như thế. Trong lớp, nàng cũng biết trả lời các câu hỏi của cô giáo nhưng nàng lại không dám nói ra vì sợ mọi người chú ý đến mình. Nàng thích đọc sách và nàng thường thức khuya để vùi đầu vào sách. Nàng cũng mơ màng, và những mơ ước thật kỳ quặc nhưng cũng rất dễ thương.

Nàng đang ở Paris cùng bố và họ ngồi xe ngựa chạy qua rừng, rồi những căn phòng khổng lồ giống nhà thờ Saint-Patrick, và thiên hạ không ngừng bước vào với giấy tờ trên tay xin ông chữ ký, còn ông thì vừa vẩy tay xua họ đi vừa nói "Các người không thấy tôi đang bận sao? Tôi đang nói chuyện với con gái tôi, Elizabeth".

Nàng và bố đang trượt tuyết ở Thuỵ Sĩ, song song chạy xuống một con đồi dốc, những ngọn gió lạnh buốt đập mạnh vào người họ, đột nhiên ông ngã xuống và kêu lên đau đớn vì chân ông đã gãy và nàng nói "Bố đừng lo! Con sẽ chăm sóc cho bố". Rồi nàng trượt xuống bệnh viện và nói "Nhanh lên, bố tôi đang bị thương", và một tá người mặc áo khoác trắng đưa ông lên một chiếc xe cứu thương bóng loáng, nàng ở bên giường của ông, đút cho ông ăn (có thể là tay ông bị gãy chứ không phải là chân), và mẹ nàng đi vào trong phòng, không hiểu sao bà lại sống lại, và bố nàng nói "Anh không thể gặp em lúc nầy được, Patricia. Anh và Elizabeth đang nói chuyện với nhau".

Hoặc là họ đang ở trong ngôi biệt thự xinh đẹp ở Sardinia, và tất cả đám gia nhân đều đi vắng nên Elizabeth nấu bữa tối cho bố nàng. Ông ăn hết mọi thứ và nói "Con nấu ăn giỏi hơn mẹ nhiều, Elizabeth". Những cảnh tượng với bố nàng luôn được kết thúc theo cùng một cách. Chuông cửa reo vang và một người đàn ông cao lớn, cao hơn cả bố nàng chợt xuất hiện và cầu xin Elizabeth nhận lời kết hôn với anh ta, và bố nàng liền nài nỉ nàng "Elizabeth, bố xin con, đừng bỏ rơi bố. Bố cần có con". Và nàng đồng ý ở lại.

Trong tất cả những ngôi nhà mà Elizabeth đã từng ở, căn biệt thự ở Sardinia được nàng yêu thích nhất. Không phải vì nó lớn nhất mà là nó có nhiều mầu sắc nhất, thân thiết nhất. Bản thân Sardinia đã hấp dẫn Elizabeth rồi. Đó là một hải đảo bị núi đá vây hãm tạo nên ấn tượng mạnh cách bờ biển phía Tây Nam Italia khoảng 160 hải lý, là một quần thể thiên nhiên hùng vĩ bao gồm núi, biển và trang trại xanh tươi. Những vách đá của núi lửa khổng lồ đã phun lên từ hàng nghìn năm trước từ lờng biển hoang sơ, và những doi đất ven biển quét một hình bán nguyệt đến xa đến ngút tầm mắt, biển Tyrrhenie tạo nên một vành đai xanh xung quanh đảo.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

24#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2012 23:07:07 | Chỉ xem của tác giả
Đối với Elizabeth, hòn đảo có những hương vị riêng đặc biệt độc đáo, đó là mùi của gió biển và rừng cây, mùi hoa macchia trắng và vàng, loại hoa yêu thích của Napoleon. Đó là những bụi cây corbeccola cao khoảng gần hai mét có trái mầu đỏ, vị giống vị quả dâu tây và cây guarcias, cây sồi đá vĩ đại có vỏ được xuất vào đại lục để sản xuất nút chai rượu vang.

Nàng rất thích nghe những hòn đá hát, những hòn đá huyền bí khổng lồ với muôn vàn những lỗ nhỏ xuyên qua. Khi gió thổi qua các lỗ nhỏ ấy, những hòn đá lại phát ra những âm thanh kỳ quái, như tiếng than vãn ai oán, như bài hát buồn của các linh hồn vất vưởng. Gió vẩn vơ không ngừng thổi. Elizabeth dần dần cũng hiểu được hết các loại gió. Mistrale, ponente, tramontana grecate và levante. Gió dịu dàng và gió hung dữ. Rồi lại còn scirocco, ngọn gió nóng bức khó chịu thổi đến từ sa mạc Sahara.

Biệt thự Roffe ở bờ biển Smeralda, phía trên cảng Cervo, toạ lạc trên một vách đá cao trông xuống biển, tách biệt hẳn bởi những dẫy cây bách và cây ôliu quả đắng mọc hoang. Xa tít xuống phía dưới là cảnh đẹp hấp dẫn của khu bến cảng và xung quanh đó, rải rác trên các ngọn đồi xanh là những ngôi nhà bằng đá trát vữa với những mầu sắc hỗn độn kỳ quặc như bức vẽ nguệch ngoạc của trẻ con.

Toà biệt thự cũng được trát vữa, nhưng là loại vữa trộn với hạt cây bách. Nó được xây theo nhiều nấc với nhiều căn phòng rộng lớn, tiện nghi, mỗi phòng đều có lò sưới và ban công. Phòng khách và phòng ăn có cửa sổ nhìn ra toàn cảnh của hòn đảo. Một cầu thang kiểu tự do dẫn lên lầu trên, nơi có bốn phòng ngủ. Đồ đạc trong nhà kết hợp một cách hoàn mỹ với môi trường xung quanh. Đó là những bàn ăn và ghế dài thô sơ, những chiếc ghế bành êm ái. Cửa sổ được che bằng loại màn xếp len trắng dệt tay trên đảo, sàn nhà được lát gạch serasada sặc sỡ của Sardinia và nhiều loại gạch khác nữa của Tuscany. Phòng tắm và phòng ngủ có trải thảm len địa phương cổ truyền.

Ngôi nhà trở nên rực rỡ hơn với nhiều bức tranh, một sự pha trộn giữa trường phái ấn tượng Pháp, các hoạ sĩ bậc thầy Italia và các hoạ sĩ trước thời phục hưng ở trên đảo. Hai bước chân dung Samuel Roffe và Terema Roffe, ông bà tổ của Elizabeth được treo trong phòng lớn của toà nhà. Nét đặc biệt của toà nhà mà Elizabeth yêu thích nhất là căn phòng trên cùng, ở ngay dưới mái dốc. Nó được nối xuống dưới bằng một cầu thang hẹp từ tầng hai và Sam Roffe dùng nó làm văn phòng.

Trong đó có một bàn làm việc lớn và một ghế xoay có lót nệm. Dọc theo các bức tường là các giá sách, các bản đồ phần lớn là có liên quan đến đế chế Roffe. Cái cửa kiểu Pháp dẫn đến một ban công nhỏ xây chìa ra phía trên một vách đá dựng đứng, và đứng đó nhìn ra quang cảnh thấy thót hết cả tim. Chính trong căn nhà nầy, năm mười ba tuổi Elizabeth đã khám phá ra nguồn gốc gia đình nàng, và lần đầu tiên trong đời nàng cảm thấy mình thuộc về ai đó, rằng nàng là một phần thuộc dòng họ của mình.

Sự việc bắt đầu vào ngày mà nàng tìm thấy Quyển sách. Sam lái xe đi Olbia và Elizabeth đi vẩn vơ lên căn phòng trên cùng. Nàng chẳng hề để ý đến những quyển sách trên giá, đã từ lâu nàng biết chúng là sách khoa học kỹ thuật về dược lý, dược phẩm, những sách viết về các công ty đa quốc gia, luật quốc tế. Buồn tẻ và chán ngắt. Chỉ có một số ít sách viết tay được cất trong tủ kính. Một quyển là sách y học bằng tiếng La tinh tên là Circa Instans được viết từ thời Trung cổ, một quyển khác tên là De Materia Medica.

Vì đang học tiếng La tinh và cũng vì tò mò muốn xem một quyển sách cổ mà cô mở tủ kính lấy nó ra. Đằng sau nó, nằm khá kín đáo trong một góc khuất là một quyển khác. Elizabeth nhấc nó ra. Đó là một cuốn sách dầy, bìa bọc da đỏ và không có tên. Ngạc nhiên, Ehzabeth mở cuốn sách ra. Như mở cánh cổng đưa nàng sang một thế giới khác. Đó là cuốn tiểu sử của ông tổ nàng, Samuel Roffe, bằng tiếng Anh, in trên giấy da.

Cuốn sách không có tên tác giả, không ghi ngày tháng, nhưng Elizabeth chắc rằng nó đã có từ hơn một trăm năm vì hầu hết các trang sách đã bạc mầu, một số trang khác đã ố vàng và long ra vì quá cũ. Nhưng tất cả các điều đó đều không hề quan trọng. Chỉ có câu chuyện trong đó mới thực sự đáng kể, một câu chuyện làm sống lại các bức chân dung treo dưới phòng lớn.

Elizabeth đã nhìn các bức chân dung của các cụ tổ nàng hàng trăm lần: một người đàn ông và một người đàn bà cổ lỗ, mặc những bộ quần áo lạ lùng. Người đàn ông không đẹp trai nhưng lại toát ra một sức mạnh đặc biệt và vẻ thông minh trên gương mặt. Tóc ông mầu vàng hoe, gò má cao của dân tộc Slavơ và cặp mắt xanh sáng, tinh nhanh. Người đàn bà rất đẹp. Tóc đen, nước da bóng láng không một tì vết và cặp mắt đen như than. Bà mặc một chiếc váy dài bằng lụa trắng với một áo khoác ngắn, vạt trên thêu kim tuyến. Hai người xa lạ không có ý nghĩa gì với Elizabeth.

Nhưng giờ đây, một mình trong căn phòng áp mái, Elizabeth mở cuốn sách ra và bắt đầu đọc, Samuel và Terenia Roffe trở nên sống động. Elizabeth cảm tưởng như mình đang đi ngược thời gian, đang sống trong khu người Do Thái Krakow vào năm 1853 với Samuel và Terenia. Càng đọc cuốn sách, nàng biết rằng ông tổ Samuel của nàng, người sáng lập ra Roffe và các con, là một người lãng mạn, rất thích phiêu lưu. Và là một tên giết người.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
 Tác giả| Đăng lúc 14-6-2012 03:20:35 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8


Hồi ức xa xưa nhất của Samuel Roffe, như Elizabeth đọc là việc mẹ ông bị giết trong một tàn sát người Do Thái đẫm máu năm 1855 khi Samuel được năm tuổi. Cậu bé trốn trong hầm rượu của căn nhà gỗ nhỏ nơi gia đình Roffe cư ngụ cùng nhiều gia đình khác thuộc khu người Do Thái ở Krakow.

Khi cuộc náo loạn cuối cùng trôi qua, hàng giờ đồng hồ dài dằng dặc sau đó và âm thanh duy nhất còn sót lại là tiếng khóc than của những người sống sót, Samuel thận trọng rời khỏi chỗ nấp và đi lên trên phố của người Do Thái tìm mẹ. Đối với cậu bé, cả thế giới dường như đang bốc cháy. Bầu trời bị nhuốm màu đỏ rực từ những căn nhà đang chìm trong lửa, làn khói đen đặc quánh cuồn cuộn khắp nơi. Đàn ông, đàn bà nháo nhác lên tìm kiếm người thân hoặc cố tìm cách cứu lấy căn nhà hoặc số tài sản ít ỏi của họ.

Krakow, vào giữa thế kỷ mười chín, có một khu thương mại cho thuê nhưng người Do Thái bị cấm đến đó. Nơi đây, trong khu Do Thái ở ven thành phố, họ buộc phải chiến đấu với sự tàn sát bằng tay không, với nước kéo lên từ giếng, và tạo thành đội quân xô thùng để dập tắt ngọn lửa. Samuel nhìn đâu cũng thấy cảnh chết chóc, vô số các xác đàn ông và đàn bà không còn nguyên vẹn nằm la liệt như những con búp bê dập nát; những phụ nữ bị cưỡng hiếp nằm trần truồng và đám trẻ con, máu vẫn chảy đang rên rỉ kêu cứu.

Samuel thấy mẹ mình nằm trên phố, nửa tỉnh nửa mê, máu me đầm đìa trên mặt. Cậu quỳ xuống bên cạnh bà, tim đập thình thịch "Mẹ ơi!" Bà mở mắt nhìn thấy cậu, cố cất tiếng nói, và Samuel biết mẹ mình đang hấp hối. Cậu muốn cứu bà nhưng không biết làm cách nào và thậm chí khi cậu nhẹ nhàng lau sạch các vết máu thì việc ấy cũng đã quá muộn. Lâu sau đó, Samuel đứng nhìn đội mai táng cẩn thận đào đất bên dưới xác mẹ cậu: vì máu bà chảy quá nhiều ướt sũng cả đất, và theo Kinh Thánh, tất cả phải được chôn theo bà thì bà mới được về bên Chúa một cách toàn vẹn. Chính vào lúc đó Samuel đã quyết định rằng mình cần phải trở thành bác sĩ.

Gia đình Roffe và tám gia đình khác sống trong một căn nhà gỗ hẹp ba tầng. Samuel sống trong một căn phòng nhỏ với bố và bà dì Rachel, và cả đời cậu chưa bao giờ được ở phòng riêng hoặc ăn ngủ một mình. Cậu cũng không thể nhớ được lúc nào tai cậu không nghe được những tiếng nói, nhưng Samuel cũng không khát khao được riêng tư, vì cậu cho rằng chuyện đó là hoàn toàn không có. Cậu luôn sống trong một trạng thái hỗn độn.

Mỗi buổi tối Samuel và các thân nhân cùng bạn bè bị khoá chặt trong khu Do Thái như những người Do Thái vẫn nhốt dê, bò, gà của họ. Vào lúc mặt trời lặn, hai cánh cổng gỗ đồ sộ của khu Do Thái được đóng lại và khoá bằng một ổ khoá kim loại lớn. Đến bình minh cổng mới được mở và các thương nhân Do Thái mới được phép đi vào thành phố Krakow để điều khiển việc kinh doanh với những người không phải dân Do Thái, nhưng họ phải trở về ở bên trong khu Do Thái trước khi mặt trời lặn.

Bố Samuel đến từ nước Nga, ông trốn khỏi một cuộc tàn sát ở Kiev và ông đã lên đường đi Krakow, nơi ông gặp gỡ cô dâu của mình. Bố của Samuel lưng hơi gù, tóc hoa râm, gương mặt nhăn nheo và mệt mỏi. Ông là người bán hàng rong với những món đồ lặt vặt nữ trang rẻ tiền và dụng cụ làm bếp, ngày ngày ông đẩy xe qua những đường phố chật hẹp của khu Do Thái.

Cậu bé Samuel rất thích được rong chơi trên các con phố lát đá đông đúc và nhộn nhịp. Cậu cũng khoái được hít hà mùi bánh mì nướng xen lẫn với mùi cá khô, pho mát, trái cây chín hoà với mùi mùn cưa và da thuộc. Cậu thích nghe những người bán hàng rong hát rao các món hàng của họ và các bà nội trợ mặc cả bằng giọng xúc phạm dễ mích lòng. Các loại hàng hoá mà những người bán hàng rong tiêu thụ được thật khó tưởng tượng: vải lanh, đăng ten, vải bọc, đồ da, thịt và rau, kim chỉ, xà phòng, gà nguyên con đã làm sạch lông, nến, nút chai các loại, xirô giầy dép.

Sinh nhật lần thứ mười hai của Samuel cũng là ngày đầu tiên bố cậu đưa cậu vào thành phố Krakow. Cái ý nghĩ được bước qua cánh cổng gỗ và nhìn thấy tận mắt Krakow, nhà cửa của những người không phải Do Thái khiến tâm hồn cậu tràn đầy những kích thích không sao chịu nổi. Sáu giờ sáng, Samuel, xúng xính trong bộ quần áo đẹp đứng trong bóng tối bên cạnh ông bố trước cánh cổng vẫn còn khép kín, xung quanh là một đám đông ồn ào với những chiếc xe đẩy thô sơ tự đóng, xe bò hoặc xe ba gác. Không khí lạnh và ẩm thấp làm cho Samuel phải co người vào trong chiếc áo len lông cừu đã xơ chỉ.

Dường như sau đến vài tiếng đồng hồ, vầng mặt trời màu cam sáng chói mới chịu ló dạng ở chân trời phía đông và đám người xôn xao cả lên. Một lúc sau, hai cánh cổng gỗ từ từ mở ra và các lái buôn bắt đầu ào ra như một đàn kiến cần cù, hướng về thành phố. Càng đến gần thành phố kỳ diệu, khủng khiếp, tim Samuel càng đập nhanh hơn. Cậu đã có thể nhìn thấy những công sự nhô cao khỏi mặt sông Vistula. Samuel bám vào bố chặt hơn. Cậu đã thực sự ở trong Krakow, xung quanh là những người không phải Do Thái, những người mà đêm nào cũng khoá chặt cánh cổng, giam cầm bố con cậu.

Cậu liếc nhanh những người qua lại bằng ánh mắt lấm lét và lo sợ, ngạc nhiên khi thấy họ khác hẳn. Họ không đeo khoá tai, và áo choàng dài đen, và nhiều người trong bọn họ râu ria nhẵn nhụi. Samuel và bố đi dọc theo đường Plante hướng về phía Rynek, nơi họp chợ đông đúc, ở đây họ đi qua gian hàng quần áo và tới nhà thờ có hai cái tháp Saint-Mary. Samuel chưa bao giờ trông thấy khung cảnh tuyệt vời như vậy. Cái cảm giác kích thích vì được tự do làm cho Samuel ngộp thở.

Những ngôi nhà ở hai bên hè phố đều tách biệt với nhau chứ không liền lại một khối và phần lớn chúng đều có một mảnh vườn nhỏ phía trước. Chắc chắn, Samuel nghĩ, mỗi người ở Krakow phải là một triệu phú. Samuel đi theo bố đến khoảng sáu nhà buôn sỉ, nơi bố cậu mua hàng hoá và chất lên xe đẩy. Khi chiếc xe đã đầy, ông và cậu bé quay trở lại khu Do Thái.

- Mình không thể ở lại lâu hơn sao? - Samuel nài nỉ.

- Không, con trai ạ. Chúng ta phải về nhà.

Samuel không muốn về. Đây là lần đầu tiên cậu được ra ngoài cánh cổng và trong người cậu tràn đầy cảm xúc khoan khoái mãnh liệt tựa hồ làm cậu nghẹt thở. Những người đó có thể sống thế nầy, tự do đi bất cứ nơi nào họ muốn, làm bất cứ cái gì họ thích… Tại sao cậu không được sinh ra bên ngoài cổng?

Ngay lập tức cậu cảm thấy xấu hổ với bản thân vì đã có ý nghĩ bất nghĩa như vậy. Đêm hôm đó khi lên giường, Samuel đã nằm thao thức rất lâu, nghĩ về Krakow và những ngôi nhà đẹp với mảnh vườn xanh tươi trồng rất nhiều hoa. Cậu phải tìm cách để tự do. Cậu muốn nói chuyện với ai đó về những gì cậu cảm thấy, nhưng không ai có thể hiểu được cậu.

*     *     *

Elizabeth đặt Quyển sách xuống và ngả người, nhắm mắt, cố hình dung lại nỗi cô đơn của Samuel, sự phấn khích, cảm giác thất vọng của ông. Đó chính là lúc Elizabeth bắt đầu đồng cảm với ông, cảm thấy mình là một phần của ông. Dòng máu của ông đang chảy trong người nàng, một cảm giác hoà hợp diệu kỳ đang được nung nóng.

Elizabeth chợt nghe thấy tiếng xe hơi của bố và nàng nhanh chóng giấu Quyển sách đi. Nàng không còn cơ hội nào khác để đọc nó ở đây. Nhưng khi trở về New York, Quyển sách đã được giấu kỹ tận đáy va-li của nàng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
 Tác giả| Đăng lúc 14-6-2012 03:24:21 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9


So với ánh nắng mùa đông ấm áp ở Sardinia, New York giống như miền Siberi. Các đường phố ngập tuyết và bùn loãng, gió thổi qua sông Đông lạnh cóng, nhưng Elizabeth chẳng hề quan tâm. Nàng đang ở Ba Lan, ở thế kỷ trước, tham gia những cuộc phiêu lưu của ông tổ nàng.

Mỗi buổi chiều sau lúc tan trường, Elizabeth vội vàng chui vào phòng riêng, khoá cửa lại và lôi Quyển sách ra. Nàng đã định bàn luận về Quyển sách với bố nhưng lại sợ ông sẽ lấy nó đi. Về một phương diện kỳ diệu và bất ngờ, chính cụ tổ Samuel là người đã cho Elizabeth lòng can đảm. Đối với Elizabeth, họ rất giống nhau. Samuel suốt ngày thui thủi một mình. Ông không có ai để trò chuyện. Như mình, Ehzabeth nghĩ. Và bởi vì họ gần như cùng tuổi - dù cách nhau cả một thế kỷ - nên nàng vẫn có thể đồng cảm với ông.

*     *     *

Samuel muốn trở thành bác sĩ. Chỉ có ba thầy thuốc được phép khám bệnh cho hàng ngàn người sống chen chúc trong những căn nhà bẩn thỉu, thường xuyên bị bệnh dịch quấy rầy của khu Do Thái, và trong ba người đó, người phát đạt nhất là bác sĩ Zeno Wal.

Ngôi nhà của ông đứng giữa những kẻ láng giềng nghèo khổ không khác gì một toà lâu đài giữa những căn lều lụp xụp. Nó có ba tầng, qua khung cửa sổ có thể thấy những tấm ren trắng mới giặt và thấp thoáng những đồ đạc sáng loáng. Samuel có thể hình dung ra ông bác sĩ ở bên trong đang khám cho bệnh nhân, giúp đỡ họ, điều trị cho họ lành bệnh: đang làm điều mà cậu mong muốn được làm. Chắc chắn, nếu một người như bác sĩ Zeno quan tâm đến cậu, Samuel nghĩ, người đó có thể giúp được cậu trở thành bác sĩ.

Nhưng tới gần được bác sĩ Wal thật khó không khác gì tới gần bất kỳ một người không phải Do Thái nào sống ở Krakow, bên ngoài bức tường cấm. Thỉnh thoảng Samuel cũng có dịp được liếc nhìn bác sĩ Zeno Wal vĩ đại đi tản bộ dọc theo hè phố, say sưa nói chuyện với một đồng nghiệp. Một ngày kia, khi Samuel đi ngang qua nhà bác sĩ, cửa trước bỗng mở và ông bác sĩ bước ra cùng cô con gái. Cô ta cũng cỡ tuổi cậu và là người xinh đẹp nhất mà cậu từng thấy. Ngay lúc nhìn cô ta, Samuel đã biết người nầy sẽ là vợ cậu. Cậu chưa biết mình sẽ giải quyết điều kỳ diệu đó như thế nào, chỉ biết là mình phải vậy. Mỗi ngày sau đó, Samuel lại tìm một lý do để đến gần nhà cô ta, hy vọng sẽ thoáng thấy cô ta lần nữa.

Một buổi chiều khi Samuel có việc đi ngang nhà bác sĩ Wal, cậu nghe thấy tiếng dương cầm vọng ra và cậu biết rằng chính cô ta đang dạo đàn. Cậu phải gặp cô ta. Nhìn quanh để chắc chắn không có ai, Samuel bước sang phía ngôi nhà. Tiếng nhạc vọng xuống từ trên lầu, ngay phía trên đầu cậu. Samuel lùi lại và nhìn kỹ bức tường. Có nhiều chỗ bám tay cho cậu trèo lên và cậu bắt đầu ngay không do dự. Tầng hai cao hơn cậu tưởng và khi lên tới cửa sổ thì cậu đã ở cách mặt đất hơn ba mét. Cậu nhìn xuống mặt đất và thấy hơi chóng mặt. Tiếng nhạc đã to dần lên và cậu có cảm giác cô ta đang đánh đàn cho cậu nghe.

Cậu bám vào một chỗ khác và đu người lên tới cửa sổ. Từ từ, cậu ngẩng đầu lên cho đến lúc liếc mắt qua được ngưỡng cửa. Cậu thấy mình đang nhìn vào một phòng khách được bày biện bởi những đồ đạc tuyệt đẹp Cô gái ngồi chơi trước chiếc dương cầm mầu vàng - trắng đang dạo nhạc và đằng sau cô ta là bác sĩ Wal ngồi đọc sách trong chiếc ghế bành. Samuel không hề để mắt đến ông. Cậu chỉ chăm chú vào hình ảnh đẹp đẽ đang ở cách cậu có mấy bước chân. Cậu yêu cô ta! Cậu sẽ làm một điều gì đó thật đặc biệt và can đảm để cô ta có thể yêu cậu. Cậu sẽ… Samuel quá tập trung vào cơn mộng tưởng nên nắm tay lỏng ra và rơi vào khoảng không. Cậu hét to một tiếng và thấy hai khuôn mặt hốt hoảng nhìn vào mình trước khi cậu chạm đất.

Samuel tỉnh dậy trên bàn mổ trong phòng làm việc của bác sĩ Wal, một căn phòng rộng rãi có nhiều tủ thuốc và một bộ dụng cụ giải phẫu. Bác sĩ Wal đang giữ một miếng bông có mùi ghê tởm dưới mũi cậu. Samuel ngạt thở và ngồi dậy.

- Tốt hơn rồi, - Bác sĩ Wal nói. - Tôi định lấy bộ óc cậu ra cơ, nhưng tôi không biết cậu có nó hay không? Cậu định ăn trộm cái gì ở đây hả nhóc?

- Không gì cả, - Samuel bực bội trả lời.

- Tên cậu là gì?

- Samuel Roffe.

Những ngón tay của ông bác sĩ bắt đầu thăm dò cổ tay phải của Samuel và cậu hét lên vì đau.

- Hừm. Cổ tay cậu đã gẫy, Samuel Roffe. Có thể chúng ta phải để cho cảnh sát lo vụ nầy.

Samuel rên lớn. Cậu đang nghĩ xem chuyện gì sẽ xảy ra khi cảnh sát mang cậu về nhà trong tình trạng nhục nhã thế nầy. Trái tim của dì Rachel sẽ vỡ tung còn bố cậu sẽ giết chết cậu. Nhưng quan trọng hơn, làm sao cậu còn hy vọng chinh phục được con gái của bác sĩ Wal? Cậu là tên tội phạm, một người tay đã nhúng chàm. Samuel chợt thấy cổ tay đau nhói lên một cái, và cậu ngước mắt nhìn ông bác sĩ bằng ánh mắt đầy ngạc nhiên đau buồn.

- Tốt rồi, - Bác sĩ Wal nói. - Tôi đã xong. - ông đặt một thanh nẹp vào cổ tay cậu rồi hỏi, - Cậu sống ở gần đây hả, Samuel Roffe?

- Không ạ, thưa ông.

- Cậu thường lai vãng quanh đây phải không?

- Vâng, thưa ông?

- Tại sao?

Tại sao? Nếu Samuel nói ra sự thật, ông ta sẽ cười vào mũi cậu.

- Cháu muốn trở thành bác sĩ, - Samuel thốt lên, không sao dằn lòng được.

Bác sĩ Wal nhìn sững cậu với vẻ hoài nghi:

- Đó là lý do khiến cậu trèo lên tường nhà tôi như một tên trộm sao?

Samuel kể hết tất cả. Cậu kể về người mẹ bị chết trên phố, về ông bố, về chuyến đi đầu tiên đến Krakow và nỗi thất vọng về việc đêm nào cũng bị nhốt trong khu Do Thái như những con vật. Cậu kể về cảm giác của mình với con gái của bác sĩ. Cậu kể tất cả mọi thứ và bác sĩ Wal lắng nghe trong im lặng. Câu chuyện có vẻ lố bịch ngay cả đối với tai của Samuel và khi kết thúc, cậu thì thầm:

- Cháu… cháu xin lỗi.

Bác sĩ Wal nhìn cậu một lúc lâu, rồi ông nói:

- Bác cũng xin lỗi. Cho cháu, cho bác, và cho tất cả chúng ta. Mỗi người là một tù nhân và sự trớ trêu nhất của tất cả là phải trở thành tù nhân của người khác.

Samuel ngỡ ngàng ngước nhìn ông.

- Cháu không hiểu, thưa bác sĩ.

Ông bác sĩ thở dài.

- Một ngày kia cháu sẽ hiểu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
 Tác giả| Đăng lúc 14-6-2012 03:26:24 | Chỉ xem của tác giả
Ông đứng dậy, đi về phía bàn làm việc, chọn một cái ống điếu, từ từ nhét thuốc vào đầy nõ.

- Bác e rằng hôm nay là một ngày tồi tệ cho cháu, Samuel Roffe. - Ông đặt que diêm lên nõ điếu, thổi tắt và quay lại phía cậu bé. - Không phải vì cái cổ tay bị gãy của cháu. Nó sẽ lành lại. Nhưng bác sắp phải gây cho cháu một vết đau mà chắc là sẽ không liền nhanh như vậy.

Samuel nhìn ông, cặp mắt mở to. Bác sĩ Wal đến bên cạnh cậu và khi ông nói giọng ông thật dịu dàng.

- Rất ít người có được một giấc mơ. Còn cháu có đến hai giấc mơ. Và bác e rằng mình sắp phải phá vỡ cả hai giấc mơ của cháu.

- Cháu không…

- Hãy nghe cho kỹ lời bác nói, Samuel. Cháu sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ, - không bao giờ trong cái thế giới nầy. Chỉ có ba người bọn bác được phép hành nghề trong khu Do Thái nầy. Ở đây có đến hàng tá bác sĩ giỏi đang chờ bọn bác về hưu hoặc chết đi để có thể thế chỗ. Không có cơ hội nào dành cho cháu cả. Không. Cháu đã sinh lầm thời rồi, lầm nơi rồi. Cháu có hiểu lời bác nói không, cậu bé?

Samuel nuốt nước bọt.

- Dạ hiểu.

Ông bác sĩ do dự rồi tiếp tục.

- Về giấc mơ thứ hai của cháu,… bác nghĩ rằng giấc mơ nầy cũng không thể được. Cháu không có cơ may nào để lấy được Terenia.

- Tại sao? - Samuel hỏi.

Bác sĩ Wal nhìn cậu.

- Tại sao? Vì cùng một lý do khiến cháu không thể trở thành bác sĩ. Gia đình bác sống theo quy tắc, theo truyền thống. Con gái của bác sĩ lấy một người cùng giai cấp với nó, một người có khả năng giúp nó tiếp tục nếp sống mà nó đã từng được sống. Nó sẽ lấy một chuyên gia, một luật sư, một bác sĩ hoặc một giáo sĩ. Cháu… thôi, cháu phải quên nó đi.

- Nhưng…

Ông bác sĩ dẫn cậu ra cửa.

- Cháu nhớ giữ gìn mấy thanh nẹp đó trong vài ngày. Nhớ giữ chúng sạch sẽ.

- Vâng, thưa bác sĩ. - Samuel nói. - Cám ơn bác sĩ Wal.

Bác sĩ Wal ngắm nhìn cậu bé tóc vàng có vẻ thông minh trước mặt mình.

- Chào cháu, Samuel.

Đầu giờ chiều ngày hôm sau, Samuel nhấn chuông cửa nhà bác sĩ Wal. Ông lặng lẽ ngắm nghía cậu bé qua khung cửa sổ. Bác sĩ Wal biết mình phải đuổi cậu bé đi.

- Cho cậu ấy vào, - bác sĩ Wal nói với người giúp việc.

Sau đó, cứ mỗi tuần Samuel lại đến nhà bác sĩ Wal đôi ba lần. Cậu giúp bác sĩ làm các công việc vặt và bù lại ông bác sĩ để cho cậu được quan sát khi ông điều trị bệnh nhân hoặc làm việc trong phòng thí nghiệm, phòng điều chế thuốc. Cậu bé quan sát, nghiên cứu và ghi nhớ tất cả. Cậu quả là một tài năng thiên bẩm. Càng ngày bác sĩ Wal càng cảm thấy mình có lỗi vì ông biết rằng như thế là mình đang khích lệ Samuel, cổ vũ cậu trở thành con người mà cậu không bao giờ có thể đạt tới, nhưng ông lại không nhẫn tâm xua đuổi cậu.

Không hiểu là tình cờ hay cố ý mà Terenia rất hay ở quanh quẩn bên Samuel mỗi khi cậu bé có mặt ở nhà cô. Thỉnh thoảng cậu lại liếc nhìn cô đi qua phòng thí nghiệm hoặc ra khỏi nhà, và một lần cậu đã đâm sầm vào cô ta trong bếp, tim cậu đập mạnh đến nỗi cậu tưởng mình sắp xỉu đi. Cô ta nhìn cậu một lúc lâu, vẻ xét đoán lộ rõ trong mắt, rồi cô ta lạnh nhạt gật đầu và bước đi. It nhất thì cô ta cũng đã chú ý đến cậu! Đó là bước đầu tiên. Còn lại chỉ còn là vấn đề thời gian. Samuel không còn nghi ngờ gì nữa. Đây là số phận.

Terenia đã trở thành phần chính trong giấc mơ của cậu về tương lai. Trước kia cậu mơ ước cho bản thân mình thì nay cậu mơ ước cho cả hai người. Bằng cách nào đó cậu sẽ đưa cả hai người ra khỏi khu Do Thái khủng khiếp, cái nhà tù đông đúc bẩn thỉu nầy. Và cậu sẽ trở thành một người thành đạt vĩ đại. Nhưng bây giờ sự thành công của cậu không phải chỉ dành cho mình cậu mà là dành cho cả hai người. Cho dù việc đó là bất khả thi.

*     *     *

Elizabeth ngủ thiếp đi trong lúc đọc về cụ Samuel. Sáng hôm sau khi thức giấc, nàng cẩn thận giấu Quyển sách đi và bắt đầu thay quần áo đi học. Nàng không tài nào gạt được Samuel ra khỏi tâm trí. Làm cách nào ông cưới được Terenia? Làm cách nào trốn thoát khỏi khu Do Thái? Và làm sao để trở nên nổi tiếng?

Elizabeth đã bị Quyển sách lôi cuốn hoàn toàn và nàng luôn cảm thấy bực bội mỗi khi bi bắt buộc phải xa rời nó trở về với thế kỷ 20. Một trong những môn học bắt buộc của Elizabeth là ba-lê và nàng cảm thấy ghê tởm nó. Nàng thường tự ấn mình vào trong chiếc váy xoè mầu hồng, nhìn kỹ mình trong gương và cố tự bảo với bản thân rằng thân hình của mình thật khêu gợi. Nhưng sự thật thì ở ngay trước mặt. Nàng quá mập. Nàng sẽ không bao giờ trở thành một diễn viên ba-lê.

Một thời gian ngắn sau lễ sinh nhật lần thứ mười bốn của Elizabeth, bà Netturova, cô giáo ba-lê của nàng, thông báo rằng hai tuần nữa lớp học sẽ tổ chức một buổi vũ hội theo thông lệ hàng năm trong giảng đường và các học sinh phải mời bố mẹ đến. Elizabeth rơi vào trạng thái phập phồng lo sợ. Chỉ cần nghĩ đến cảnh phải bước lên sân khấu đứng trước khán giả thôi đã đủ làm cho nàng kinh hoàng rồi. Nàng không thể làm được việc đó.

Một cô bé đang chạy qua đường trước mặt một chiếc xe hơi, Elizabeth trông thấy cô ta, chạy nhanh ra và giật cô bé khỏi nanh vuốt tử thần. Không may thay, thưa các quý bà quý ông, ngón chân của Elizabeth Roffe bị xe bánh xe hơi cán lên, và cô sẽ không thể tham gia buổi vũ hội tối nay.

Một người hầu gái đã sơ ý để bánh xà phòng trên đầu cầu thang. Elizabeth bị trượt chân và ngã lăn xuống các bậc thang, vỡ xương chậu. Bác sĩ cho biết không có gì đáng ngại. Vết thương sẽ lành hẳn sau ba tuần. Nhưng không may mắn như thế. Vào ngày biểu diễn Elizabeth vẫn hoàn toàn khoẻ mạnh nhưng tâm trạng gần như hoá rồ.

Một lần nữa, lại là cụ Samuel ra tay giúp đỡ nàng. Nàng nhớ lại cụ đã hoảng sợ thế nào nhưng cụ vẫn quay lại gặp gỡ bác sĩ Wal. Nàng sẽ không làm điều gì để cho cụ Samuel phải mất mặt. Nàng sẽ đương đầu với thử thách. Elizabeth thậm chí đã không hề nhắc đến buổi biểu diễn với bố nàng. Từ trước đến giờ nàng vẫn từng yêu cầu ông dự các buổi họp hoặc các buổi liên hoan của nhà trường mà các bậc phụ huynh được đề nghị tham gia, nhưng bao giờ ông cũng tỏ ra quá bận rộn.

Tối hôm đó, khi Elizabeth chuẩn bị đến vũ hội, bố nàng chợt về nhà. Ông đã vắng nhà suốt mười ngày nay. Ông đi qua phòng ngủ của nàng, nhìn thấy nàng và nói:

- Chào con, Elizabeth. Con béo ra một chút thì phải.

Nàng đỏ mặt và cố thắt chặt co.

- Vâng, bố ạ.

Ông định nói gì, nhưng lại đổi ý.

- Việc học hành của con ra sao rồi?

- Vẫn tốt, cám ơn bố.

- Không có vấn đề gì chứ?

- Không, bố ạ.

- Tốt.

Đó là đoạn hội thoại mà họ đã lặp đi lặp lại trong mấy năm qua, đoạn kinh cầu nguyện vô nghĩa mà dường như là hình thức giao tiếp duy nhất giữa hai bố con. Việc học hành của con ra sao rồi? Vẫn tốt, cảm ơn bố. Không có vấn đề gì chứ? Không bố ạ. Tốt. Hai người xa lạ nói chuyện thời tiết, người nọ lại không lắng nghe hoặc quan tâm đến ý kiến của người kia. Thế đấy, chỉ có một trong hai người quan tâm, Elizabeth nghĩ.

Nhưng lần nầy Sam Roffe vẫn đứng đó, ngắm nhìn con gái với vẻ suy tư trên khuôn mặt. Ông đã quen giải quyết các vấn đề cụ thể và mặc dù ông cảm thấy đây cũng là một vấn đề, nhưng ông không biết nó là gì và nếu ai đó nói cho ông thì câu trả lời chắc sẽ là "Đừng vớ vẩn. Tôi đã cho Elizabeth đủ mọi thứ".

Lúc bố nàng quay lưng rời đi, Elizabeth nghe thấy chính mình nói:

- Lớp… lớp… ba-lê của con tổ chức một buổi biểu diễn. Bố không muốn đến xem hay sao?

Và ngay cả khi nói xong mấy lời đó, trong lòng nàng vẫn tràn đầy cảm giác sợ hãi. Nàng không muốn ông đến đó chứng kiến sự vụng về của nàng. Tại sao nàng lại đề nghị ông? Nhưng nàng biết tại sao. Bởi vì nàng là cô gái duy nhất trong lớp mà bố mẹ thường xuyên vắng mặt tại giảng đường: Dù sao thì điều đó cũng không quan trọng, nàng tự nhủ, vì ông sẽ nói "Không".

Nàng lắc đầu, tự giận mình và quay đi. Và đằng sau nàng, không thể tin nổi, nàng nghe thấy giọng bố trả lời, "Bố muốn đến lắm".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

28#
 Tác giả| Đăng lúc 14-6-2012 03:28:12 | Chỉ xem của tác giả
Giảng đường chật ních các bậc phụ huynh, người thân và bạn bè, chăm chú theo dõi các học sinh múa theo tiếng nhạc đệm từ hai chiếc dương cầm lớn ở hai bên sân khấu. Bà Netturova đứng tránh sang một bên, đếm nhịp rất to trong khi bọn trẻ múa, cố thu hút sự chú ý của bố mẹ lũ trẻ. Một số ít học sinh đặc biệt duyên dáng và tỏ ra thực sự có tài. Còn những em khác thì diễn bằng cả lòng nhiệt tình thay thế cho phần tài năng còn thiếu. Chương trình thông báo ba đoạn nhạc trích Coppélia, Cinderella và như thường lệ Hồ Thiên Nga. Đặc biệt sẽ có tiết mục múa đơn, mà lúc đó mỗi em sẽ được hưởng một khoảnh khắc vinh quang, một mình.

Đằng sau cánh gà, Elizabeth đang ngập chìm trong sự sợ hãi. Nàng không ngừng liếc ra phía khán đài và mỗi khi nhìn thấy bố mình ngồi ở chính giữa dãy thứ hai nàng lại nghĩ mình thật là dại dột khi đề nghị bố đến đây. Trong suốt buổi trình diễn Elizabeth không tài nào bắt kịp nhạc đệm và nàng luôn phải nấp sau các bạn khác. Nhưng rồi thì đoạn độc diễn của nàng cũng đã đến. Nàng cảm thấy mình phì nộn trong chiếc váy xoè như một đồ vật trong rạp xiếc. Nàng chắc rằng tất cả mọi người sẽ cười ồ lên chế giễu khi nàng đơn độc bước ra sân khấu - và nàng đã mời bố đến xem sự bẽ bàng của mình.

Điều an ủi duy nhất của Elizabeth là màn độc diễn của nàng chỉ dài có một phút. Bà Netturova luôn tỉnh táo. Nó sẽ kết thúc rất nhanh để không ai kịp bình phẩm nàng. Tất cả những gì bố của Elizabeth phải làm là liếc qua trong một phút và tiết mục của nàng sẽ kết thúc. Elizabeth ngắm nhìn các cô gái khác trong lúc họ múa, từng người một, đối với nàng thì họ chẳng khác gì Markova, Maximova, Fontefin. Nàng bỗng giật mình vì một bàn tay giá lạnh nắm vào cánh tay trần của mình, và bà Netturova rít lên.

- Nhón gót lên, Elizabeth, em là người tiếp theo.

Elizabeth cố nói "Vâng, thưa cô" nhưng cổ họng nàng khô khốc đến độ không một lời nào được thốt ra. Hai chiếc dương cầm bắt đầu dạo bản nhạc quen thuộc cho màn diễn của Elizabeth. Nàng đứng đó như bị đóng băng, bất động và bà Netturova thì thầm "Ra ngoài đi!", rồi Elizabeth cảm thấy lưng bị đẩy mạnh và nàng ở trên sân khấu, gần như trần trụi, trước mắt hàng trăm cặp mắt xa lạ không thiện cảm.

Nàng không dám nhìn bố mình. Tất cả những gì nàng muốn là mau mau chóng chóng thoát khỏi thử thách nầy và bỏ chạy thật xa. Việc nàng phải làm thật dễ dàng, vài cái nhún gối, một vài động tác múa và nhảy lên. Nàng bắt đầu vào các bước đi, cố theo đúng nhạc, tự nghĩ mình mảnh dẻ và mềm mại. Khi nàng kết thúc, có tiếng vỗ tay lịch sự nhưng rời rạc vọng lên từ phía khán giả. Elizabeth nhìn xuống hàng ghế thứ hai, và ở đó là bố nàng, đang mỉm cười tự hào và vỗ tay - vỗ tay cho nàng và lòng nhiệt tình trong Elizabeth chợt trỗi dậy.

Nhạc đã ngừng. Nhưng Elizabeth vẫn tiếp tục múa, vẫn nhún gối, vẫn bước qua bước lại, xoay người, như đang trong trạng thái vô thức. Các nhạc công bối rối bắt đầu chơi tiếp, đầu tiên là một chiếc dương cầm, rồi chiếc kia, cố gắng bắt theo nhịp bước của nàng. Đằng sau sân khấu, bà Netturova ra dấu cho Elizabeth một cách cuồng loạn, gương mặt tràn đầy sự tức giận. Nhưng Elizabeth đã không nhận biết được gì hết vì quá sung sướng, cứ tự mình nhảy múa. Điều duy nhất đáng kể với nàng là nàng đang ở trên sân khấu, múa cho bố nàng xem.

- Tôi chắc rằng ông hiểu, ông Roffe, rằng ngôi trường nầy không thể nào tha thứ cho kiểu thái độ đó. - Giọng bà Netturova rung lên vì giận dữ. - Con gái của ông đã không thèm để ý đến ai khác và hành động như… như thể cô ta là một thứ ngôi sao vậy.

Elizabeth có thể cảm thấy bố quay sang nhìn mình và nàng sợ phải thấy ánh mắt của ông. Nàng biết rằng điều nàng vừa làm là không thể tha thứ nhưng nàng đã không tài nào kiềm chế được bản thân. Trong một khoảng thời gian ngắn trên sân khấu, nàng đã cố tạo ra một cái gì đó thật đẹp cho bố nàng, cố gây ấn tượng với ông, làm ông quan tâm đến nàng, tự hào vì nàng. Và yêu thương nàng. Còn bây giờ thì nàng nghe thấy ông nói:

- Cô Netturova, cô hoàn toàn đúng. Tôi sẽ xem xét để trừng phạt Elizabeth một cách đích đáng.

Bà Netturova ném cho Elizabeth một cái nhìn đắc thắng và nói:

- Cám ơn ông, ông Roffe. Tôi xin giao việc nầy cho ông.

Elizabeth và bố đứng ngoài trường học. Ông không hề nói nửa lời từ lúc rời khỏi văn phòng của bà Netturova. Elizabeth cố gắng sáng tác ra một lời xin lỗi - nhưng nàng có thể nói gì đây? Làm sao nàng có thể giải thích cho ông hiểu tại sao nàng lại làm cái điều mà nàng vừa làm? Ông là một người xa lạ và nàng sợ ông. Nàng đã được nghe chuyện ông trút những cơn giận khủng khiếp lên đầu những người khác vì lỗi lầm của họ hoặc vì họ không nghe lời ông. Bây giờ nàng đứng đây chờ đợi sự tức giận tột cùng của ông đổ xuống đầu. Ông quay sang nàng và nói:

- Elizabeth, tại sao chúng ta không tới Rumpelmayers uống một cốc sôcôla sôđa nhỉ? Và Elizabeth oà lên khóc.

Đêm đó Elizabeth nằm trên giường thao thức, không ngủ được vì quá kích thích. Nàng ôn lại sự việc xảy ra lúc tối. Và nàng gần như không chịu được sự kích động mà nó gây ra cho mình. Bởi vì đây không phải là mộng mơ giả tạo. Nó đã xảy ra, nó có thật. Nàng có thể thấy mình và bố ngồi trong quán Rumpelmagers, xung quanh là lũ gấu, voi, sư tử, ngựa vằn nhồi bông lớn vàng sặc sỡ. Elizabeth gọi một cốc kem chuối và khi nó được mang tới thì nàng mới thấy là nó thật sự vĩ đại nhưng bố nàng không hề phê bình gì.

Ông đang nói chuyện với nàng. Không phải là việc học hành của con ra sao rồi, vẫn tốt, cảm ơn bố, không có vấn đề gì chứ, không bố ạ, tốt.. Mà là nói chuyện thực sự. Ông kể cho nàng nghe về chuyến đi gần đây đến Tokyo và người chủ tiệc đã đặc biệt mời ông món sôcôla đầy châu chấu và kiến ra sao và ông đã phải ăn hết để khỏi làm ông ta mất mặt như thế nào. Khi Elizabeth đã xử lý xong thìa kem cuối cùng, bố nàng bỗng nói:

- Cái gì đã khiến con làm như vậy, Liz?

Nàng biết mọi việc giờ đây đang sắp sửa hỏng hết, rằng bố nàng chuẩn bị trách mắng nàng, nói với nàng ông thất vọng về nàng biết bao nhiêu. Nàng trả lời:

- Con muốn giỏi hơn bất cứ người nào. - Nàng không thể kìm được lời nói thêm, - Cho bố thấy.

Ông nhìn nàng, dường như là lâu lắm, rồi phá lên cười:

- Chắc chắn là con đã làm cho đến cả quỷ thần cũng phải ngạc nhiên.

Có chút gì kiêu hãnh lộ ra trong giọng nói của ông. Elizabeth cảm thấy máu dồn lên má và nàng nói:

- Bố không giận con sao?

Cặp mắt ông ánh lên một vẻ lạ kỳ mà nàng chưa bao giờ được thấy.

- Vì con muốn trở thành người giỏi nhất hay sao? Tất cả người của dòng họ Roffe đều như vậy.

Những ý nghĩ cuối cùng của Elizabeth trước khi nàng chìm vào giấc ngủ là: Bố mình thích, ông thật sự thích mình. Từ giờ trở đi, hai bố con sẽ luôn được ở bên nhau. Ông sẽ đưa mình đi theo ông. Hai người sẽ nói với nhau nhiều chuyện và sẽ trở thành đôi bạn thân thiết.

*     *     *

Buổi chiều hôm sau, thư ký của bố nàng thông báo cho nàng biết mọi việc đã được lo liệu để gửi Elizabeth sang học ở một trường nội trú tận đất nước Thuỵ Sĩ xa xôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

29#
 Tác giả| Đăng lúc 14-6-2012 04:17:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10


Elizabeth được đăng ký vào học ở International Château Lemand, trường dành riêng cho nữ ở làng Sainte - Blaise, nhìn ra hồ Neuchâtel. Tuổi của các cô gái học trong trường là từ mười bốn đến mười tám. Đây là một trong những trường tốt nhất trong hệ thống giáo dục tuyệt vời ở Thuỵ Sĩ.

Elizabeth căm ghét mọi giây phút ở đó. Nàng có cảm giác mình bị đi đày. Nàng bị đưa đi xa nhà, nó giống như sự trừng phạt về một tội lỗi mà nàng không hề phạm phải. Vào buổi tối kỳ diệu duy nhất đó nàng đã cảm thấy mình sắp đạt được điều tuyệt diệu, khám phá được bố nàng, và bố nàng khám phá được nàng, và họ đang trở nên thân thiết. Nhưng giờ đây nàng đã cách xa bố hơn bao giờ hết.

Elizabeth vẫn có thể theo dõi các hoạt động của bố nàng qua các tờ báo hàng ngày và tạp chí. Trên đó thường xuyên có những bài viết và ảnh về cuộc gặp gỡ của ông với thủ tướng hoặc tổng thống, khánh thành một nhà máy dược phẩm mới ở Bombay, về cuộc leo núi, ăn tối với giáo chủ Iran. Elizabeth dán tất cả những tin tức đó vào một quyển vở và nàng thường xuyên giở ra ngắm nghía. Nàng giấu nó bên cạnh Quyển sách về cụ Samuel.

Elizabeth luôn tìm cách xa rời các sinh viên khác. Một vài cô gái ở chung phòng với hai hoặc ba cô khác nhưng Elizabeth đã yêu cầu được ở một mình một phòng. Nàng viết cho bố nhiều bức thư dài rồi xé nát những bức nào bộc lộ tình cảm của mình. Đôi khi nàng cũng nhận được những bức thư ngắn của bố và vào ngày sinh nhật là nhiều món quà bọc giấy hoa mua ở các cửa hàng sang trọng, được người thư ký đích thân đưa đến.

Elizabeth thấy nhớ bố kinh khủng. Nàng sắp được gặp ông tại biệt thự ở Sardinia vào lễ Noel, và trong lúc thời gian ngày càng đến gần thì sự chờ đợi thật là không thể chịu đựng nổi. Nàng phát ốm vì kích động. Nàng lập ra một danh sách những việc quyết tâm làm và cẩn thận viết chúng ra: - Không gây phiền phúc - Tỏ ra quan tâm - Không phàn nàn về bất cứ chuyện gì, đặc biệt là chuyện ở trường. - Không cho bố biết là mình đang cô đơn. - Không ngắt lời khi bố đang nói. - Ăn mặc chỉnh tề vào bất kỳ lúc nào, kể cả bữa sáng. - Cười thật nhiều để cho ông biết mình đang hạnh phúc thế nào.

Những lời ghi chú như cuốn kinh cầu nguyện, lời cầu xin của nàng với các vị thần. Nếu nàng thực hiện tất cả những điều nầy, có thể… có thể… những quyết tâm của Elizabeth sẽ trở thành kỳ cục. Nàng đã điều tra nghiên cứu về thế giới thứ ba và mười chín nước đang phát triển, và bố nàng sẽ nói, "Bố không ngờ là con lại quan tâm đến vậy. (điều số hai). "Con là cô gái xuất sắc, Elizabeth". Sau đó ông sẽ quay sang người thư ký và nói: "Tôi không nghĩ rằng Elizabeth cần trở lại trường. Tại sao tôi không giữ nó ở đây với tôi? Một lời cầu nguyện.

*     *     *

Một chiếc Learjet của tập đoàn đón Elizabeth ở Zurich và đưa nàng đến sân bay ở Olbia, nơi có một chiếc limousine đã chờ sẵn. Elizabeth ngồi vào băng sau của xe, im lặng, ép chặt hai đầu gối vào nhau để cho đỡ run. Dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, nàng quả quyết nghĩ, không được để cho ông thấy mình khóc, ông phải không được biết mình nhớ ông thế nào. Chiếc xe lướt qua xa lộ dài và quanh co dẫn đến bờ biển Smeralda rồi rẽ vào con đường nhỏ chạy vòng quanh lên đỉnh đồi.

Con đường nầy luôn làm Elizabeth sợ hãi. Đây là đoạn đường hẹp và dốc, bên nầy là núi cao và bên kia là vực sâu muôn trượng. Chiếc xe dừng lại ở trước nhà, và Elizabeth bước ra khỏi xe, đi về phía ngôi nhà, và rồi nàng chạy, chạy với hết sức lực của mình. Cửa trước mở ra và Margherita, bà quản gia người Sardinia đứng đó, mỉm cười:

- Chào cô Elizabeth.

- Bố tôi đâu? - Nàng hỏi.

- Ông chủ có việc gấp phải đi Úc. Nhưng ông ấy đã để lại rất nhiều món quà xinh đẹp cho cô. Một mùa Noel dễ thương lại sắp đến rồi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

30#
 Tác giả| Đăng lúc 14-6-2012 04:22:33 | Chỉ xem của tác giả
Chương 11


Elizabeth đã cầm Quyển sách theo. Nàng đứng trong phòng lớn của toà biệt thự ngắm nhìn chân dung của Samuel Roffe, và bên cạnh, Terenia, cảm thấy sự có mặt của họ, như thể họ đã sống lại. Một lúc lâu sau, nàng quay lại và đi lên căn phòng áp mái, lấy Quyển sách. Mỗi ngày nàng bỏ ra nhiều giờ ở trong căn phòng đó, đọc đi đọc lại, mỗi lần đọc lại có cảm giác gần gũi hơn với Samuel và Terenia, và thời gian một trăm năm ngăn cách họ cũng đang dần biến mất…

Suốt vài năm sau đó, Elizabeth đọc, Samuel đã ở lại hàng giờ trong phòng thí nghiệm của bác sĩ Wal, giúp đỡ ông pha chế thuốc mỡ và thuốc uống, nghiên cứu các tác động của chúng. Và đằng sau luôn là Terenia xinh đẹp, quyến rũ. Chỉ cần thoáng bóng của Terenia cũng đủ giữ giấc mơ một ngày nào đó nàng sẽ thuộc về anh sống mãi. Samuel và bác sĩ Wal rất hợp nhau nhưng với mẹ của Terenia thì không. Bà là một phụ nữ miệng lưỡi độc địa, hay gây gổ, hợm mình và bà ghét Samuel. Và anh cố tránh xa bà.

Samuel bị mê hoặc bởi nhiều loại thuốc có thể chữa khỏi bệnh cho con người. Một quyển sách giấy cói được tìm thấy, trong đó liệt kê 811 toa thuốc được người Ai Cập sử dụng vào năm 1550 trước công nguyên. Tuổi thọ trung bình vào thời đó là mười lăm và Samuel có thể hiểu được khi anh đọc một vài toa: Phân cá sấu, thịt thằn lằn, máu dơi, nước dãi lạc đà, gan sư tử, chân ếch, bột kỳ lân. Dấu hiệu Rx trên mỗi toa thuốc là lời cầu nguyện xa xưa cho thần Horace, vị thần chữa bệnh của người Ai Cập. Thậm chí từ "chemistry"(1) cũng xuất phát từ tên cổ của nước Ai Cập, vùng đất của Kahmi hay Chemi.

Những tu sĩ - thầy thuốc được gọi là các thầy tư tế, điều mà Samuel mới được biết. Các nhà thuốc trong khu Do Thái và thành phố Krakow đều rất thô sơ. Đa số các chai lọ được đổ đầy các dược phẩm chưa qua thử nghiệm, một số thì vô dụng còn một số thậm chí có hại. Samuel trở nên quen thuộc với tất cả những thứ đó. Có dầu thầu dầu, caloment, đại hoàng, iôt, codeine, ipecac. Bạn có thể mua thuốc bách bệnh để chữa ho gà, đau bụng, sất thương hàn. Bởi vì không có biện pháp phòng ngừa vệ sinh nào được thực hiện nên trong thuốc mỡ và thuốc súc họng đầy những xác sâu bọ, gián, phân chuột và lông thú.

Phần đông các bệnh nhân uống thuốc đã chết vì bệnh hoặc vì thuốc. Có vài tờ tạp chí thường đăng các tin tức về dược phẩm và Samuel đọc hết tất cả. Anh thảo luận ý kiến của mình với bác sĩ Wal.

- Hợp lẽ là, - Samuel nói, giọng rung lên vì tin tưởng, - phải có cách điều trị cho tất cả các loại bệnh tật. Sức khoẻ là tự nhiên và bệnh tật là phi tự nhiên.

- Có thể, - bác sĩ Wal trả lời, - nhưng đa số các bệnh nhân của bác thậm chí còn không chịu cho bác thử các loại thuốc mới với họ. - ông lạnh nhạt nói thêm, - Và bác nghĩ rằng họ rất là khôn.

Samuel đọc ngấu nghiến tủ sách về dược phẩm nghèo nàn của bác sĩ Wal. Và khi anh đã đọc đi đọc lại những quyển sách đó, Samuel lại thấy thất vọng bởi quá nhiều những vấn đề chưa được làm sáng tỏ trong đó. Samuel bị thôi thúc bởi cuộc cách mạng đang diễn ra. Một số nhà khoa học tin rằng có thể chống lại nguyên nhân gây bệnh bằng cách tạo nên sức đề kháng nhằm tiêu diệt cơn bệnh.

Bác sĩ Wal cũng đã thử qua một lần. Ông lấy máu của một bệnh nhân bị bệnh bạch hầu và tiêm vào một con ngựa. Khi con ngựa chết, bác sĩ Wal đã bỏ cuộc thí nghiệm. Nhưng chàng trai Samuel lại tin chắc rằng bác sĩ Wal đã đi đúng đường.

- Bác không nên ngừng lúc nầy, - Samuel nói. - Cháu biết việc nầy sẽ có kết quả.

Bác sĩ Wal lắc đầu.

- Đó là vì cháu mới mười bảy tuổi, Samuel. Khi nào cháu bằng tuổi bác bây giờ, cháu sẽ không còn chắc chắn một điều gì nữa. Quên nó đi.

Nhưng Samuel không bị thuyết phục dễ dàng như thế. Anh muốn tiếp tục thí nghiệm của bác sĩ Wal, vì vậy mà Samuel phải cần nhiều thú vật, nhưng anh không biết kiếm ở đâu ra ngoại trừ lũ mèo hoang và chuột anh có thể bắt được. Dù liều lượng có nhỏ đến đâu thì sau khi bị Samuel tiêm, chúng đều chết. Chúng quá nhỏ, Samuel nghĩ. Mình cần một con vật lớn hơn. Một con ngựa, hoặc bò, hoặc cừu. Nhưng phải đi đâu mới tìm được đây.

Một buổi chiều muộn khi Samuel về đến nhà, anh thấy một con ngựa già và một chiếc xe hai bánh đứng trước cổng. Một bên chiếc xe là dòng chữ "Roffe và con trai" được viết một cách sơ sài. Samuel như không tin vào mắt mình, chạy vào nhà tìm bố.

- Con… con ngựa ngoài đó, - anh nói, - Bố lấy nó ở đâu?

Bố anh mỉm cười kiêu hãnh.

- Bố mới mua. Chúng ta có thể đi nhiều nơi hơn với con ngựa nầy. Có thể trong bốn, năm năm nữa chúng ta sẽ mua được một con nữa. Con cứ suy nghĩ đi. Chúng ta sẽ có hai con ngựa.

Đó là phạm vi tham vọng của bố anh, làm chủ hai con ngựa ốm kéo xe qua những con đường đông đúc, bụi bặm của khu Do Thái ở Krakow. Điều nầy làm Samuel muốn khóc.

Đêm ấy, khi mọi người đã ngủ say, Samuel đi ra ngoài chuồng ngựa và kiểm tra con ngựa mà họ gọi là Ferd. Không cần hỏi cũng thấy ngay con ngựa thuộc loại gầy yếu nhất. Nó là một con ngựa già, lưng võng khớp sưng. Không hiểu nó có thể đi nhanh hơn bố của Samuel hay không. Nhưng tất thảy những chuyện đó không quan trọng. Điều quan trọng là Samuel đã có trong tay một vật thí nghiệm ưng ý. Anh không cần phải vừa làm thí nghiệm vừa lo nghĩ chuyện bắt chuột và mèo hoang nữa. Dĩ nhiên là anh sẽ phải hết sức cẩn thận. Bố anh sẽ không bao giờ biết được con trai mình đang làm cái gì.

Samuel ve vuốt cái đầu con ngựa già:

- Mày sắp bước vào ngành kinh doanh dược phẩm rồi đấy. - Anh thông báo cho nó.

Samuel tạo ngay cho mình một phòng thí nghiệm riêng, ở ngay trong góc chuồng ngựa nơi con Ferd bị nhốt. Anh nuôi vi khuẩn bạch cầu trong một cái đĩa đựng đầy nước thịt luộc. Khi nước trở nên đục, anh san một ít qua một cái đĩa khác rồi làm cho nó yếu đi bằng cách pha thêm nước và đun nóng lên một chút. Anh rút đầy một ống tiêm và đến gần Ferd.

- Mày nhớ những gì tao nói đấy chứ? - Samuel thì thầm. - Tốt, hôm nay là ngày đặc biệt với mày đấy!- Samuel bơm tất cả nước trong ống tiêm vào chỗ thịt mềm trên vai con ngựa như cách mà anh từng thấy bác sĩ Wal làm.

Ferd quay lại nhìn anh trách móc và nó tưới nước tiểu đẫm người anh. Samuel ước lượng rằng cũng phải 72 giờ sau vi khuẩn mới phát triển trong cơ thể Ferd. Vào cuối thời gian đó Samuel sẽ tiêm thêm vào nó một liều lượng lớn hơn. Rồi lại một lần nữa. Nếu lý thuyết về kháng thể đúng, mỗi lầm tiêm sẽ tạo cho máu một sức đề kháng mạnh hơn với cơn bệnh. Samuel sẽ thu được vaccine. Sau nầy, anh sẽ phải tìm một người để thử, dĩ nhiên, và chuyện nầy sẽ khó khăn lắm. Một nạn nhân của căn bệnh chết người sẽ vui lòng thử loại thuốc có thể cứu sống mình.

Hai ngày đó Samuel luôn ở bên cạnh Ferd khi nó thức dậy.

Chú thích:
(1)chemistry: hoá học
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách