Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 3429|Trả lời: 15
Thu gọn cột thông tin

[Cổ Đại - Xuất Bản] Đại Mạc Hoang Nhan | Thương Nguyệt (Hồi 11 - Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
Đăng lúc 7-2-2013 14:21:49 | Xem tất |Chế độ đọc


Đại Mạc Hoang Nhan

Tác giả: Thương Nguyệt

Dịch giả: Ngô Minh Vân - Nhà xuất bản Văn Học
(Đồng kết hợp bản dịch của Quần Xà Lỏn tại trang web nhanmonquan.com)

Tình trạng sáng tác: Hoàn Thành
Sách đã xuất bản năm 2010

Đánh máy: Vũ khúc của Gió@e-thuvien.com (Hồi 1 đến hồi 8)

Nguồn: vnthuquan.come-thuvien.com

Rate

Số người tham gia 1Sức gió +5 Thu lại Lý do
hoaquynh + 5 thik Thương Nguyệt ^^

Xem tất cả

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 7-2-2013 14:23:16 | Xem tất
MỤC LỤC


Hồi 1 - Công tử Thư Dạ

Hồi 2 - Sa Mạn Hoa

Hồi 3 - Oanh Sào

Hồi 4 - Cực Lạc Thiên Quốc

Hồi 5 - Công tử Liên Thành

Hồi 6 - Dạ yến

Hồi 7 - Đỉnh kiếm hầu

Hồi 8 - Mai Nghê Nhã

Hồi 9 - Kỳ Liên

Hồi 10 - Huynh đệ

Hồi 11 - Trở Về

Hết.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 7-2-2013 14:27:27 | Xem tất
Hồi 1 - Công tử Thư Dạ



Tái ngoại mênh mang, ba vạn dặm ngập tràn gió cát.

Trông ra xa, tất cả chỉ là một màu vàng bất tận. Cát bị cuốn theo từng cơn gió xoáy dựng đứng lên giữa không trung. Mây trôi chầm chậm in những chiếc bóng khổng lồ trên cát. Trời và đất như đang âm thầm lặng lẽ đưa mắt nhìn nhau, nhưng giống như hai mặt phẳng song song, mãi mãi chẳng bao giờ có thể giao kết.

Tiếng chuông lạc đà vang lên giữa sa mạc mênh mông, thưa thớt mà lề mề, chậm chạp. Bóng râm của những tầng mây tạo chút cơ hội hít thở quý giá cho lữ khách giữa tiết trời nắng gắt. Khách thương mặt đầy cát bụi, ngồi ngật ngưỡng trên lưng lạc đà, dường như đã bị cái nóng như thiêu như đốt làm cho tiêu tán hết sức lực. Hầu bao, hòm xiểng nặng trịch treo lủng lẳng, lắc lư đập vào hai bên lưng lạc đà theo từng nhịp bước chậm chạp, uể oải.

Tiếng chuông lạc đà xa dần, cổ đạo mênh mang, con đường Tơ Lụa kéo dài lê thê.

Đội lạc đà hơn trăm người ấy đến từ Lan Châu, mướn đao thủ và người dẫn đường qua Ngọc Môn quan, đi thẳng tới Tây Thành, men theo hành lang Hà Tây, xuyên qua vùng sa mạc nóng bỏng này để đến các quốc gia xa xôi miền Tây Vực như Đại Thực, Ba Tư, Sư Tử quốc... Khi đến được đầu bên kia của sa mạc, hàng hóa là trà và tơ lụa ở trong những chiếc hòm xiểng kia có thể bán được với giá gấp mười lần so với ban đầu.

Hán tử trên lưng con lạc đà đầu đàn có ánh mắt sáng như chim ưng đang dõi thẳng về phía trước bỗng vươn người lên, khạc ra một miệng đất cát, lớn tiếng nói với giọng hứng khởi: “Đôn Hoàng! Sắp đến Đôn Hoàng rồi! Tất cả hãy mau theo ta, trước mặt chúng ta chính là Đôn Hoàng!”

Đôn Hoàng? Tất cả mọi người đều phấn chấn hẳn lên, những con lạc đà bị thúc rảo bước nhanh hơn, tiếng chuông lạc đà vang lên réo rắt, dồn dập.

Đôn Hoàng nghĩa là đại thịnh. Từ khi con đường Tơ Lụa khai thông cho đến nay, mỗi năm có không biết hàng bao nhiêu đội lạc đà và thương lữ đi qua đây, Dương quan và Ngọc Môn quan trở thành hai “tai mắt” trọng yếu ở vùng biên cương của Trung Nguyên trên con đường dẫn đến Tây Vực. Và Đôn Hoàng cũng trở thành cổ thành trọng yếu nhất trên cổ đạo giữa chốn sa mạc mênh mang này, nắm giữ yết hầu của con đường Tơ Lụa, khống chế mệnh mạch Tây Vực và Trung Nguyên.

“Bên trong Đôn Hoàng thành hẳn đang rất náo nhiệt!” – Chàng trai trẻ bên cạnh hán tử nhìn đăm đăm về phía trước một hồi lâu, chợt lên tiếng.

Chàng trai trẻ tuổi này cũng có thể nghe thấy âm thanh từ cách mười mấy dặm ư?

Hán tử đầu đoàn là lão Đao, đã có mười mấy năm lai vãng qua đây, nghe thấy thế, thoáng giật mình, bất giác quay sang. Với nhãn thần tinh nhanh mẫn tiệp của mình, chỉ một cái liếc đã bao quát chàng trai trẻ từ đầu đến chân. Không giống như những đao thủ khác, gương mặt người này chưa dạn dày sương gió, giọng điệu văn nhã và bàn tay thì luôn nắm chặt lấy bội kiếm – đao thủ mới vào nghề chăng? Trẻ trung, trong sáng, tao nhã, hoàn toàn không giống với những kẻ ở đại mạc chuyên sinh sống bằng nghề đao thủ trên con đường này.

Đao thủ bảo vệ đội lạc đà được mướn từ khi xuất phát ở Lan Châu, suốt cả chặng đường không cởi thắt lưng, kiếm không rời tay – từ sau chiến loạn Tứ Vương, triều đình Đại Dận ở Trung Nguyên quốc lực suy vi, không còn đủ sức duy trì ổn định mậu dịch Tây Vực. Thổ Phồn, Hồi Hột thừa dịp liên tục tác loạn quấy nhiễu vùng biên thùy, đạo tặc hoành hành khắp trên con đường Tơ Lụa, đã cướp trắng tài sản của bao nhiêu thương đội. Vì thế mà các thương lữ muốn qua đây đều buộc phải bỏ ra một khoản tiền lớn để thuê mướn đao thủ bảo vệ.

“Tiểu tử, ngươi lần đầu đến Đôn Hoàng phải không? Có biết hôm nay là ngày gì không?” – Lão Đao nhìn chàng trai trẻ một cách dò xét rồi vừa cười vừa hỏi.

“Có chuyện gì vậy?” – Chàng trai trẻ có phần hơi căng thẳng, ngập ngừng một lúc rồi khẽ cất tiếng – “Tôi... tôi vốn là người Đôn Hoàng, nhưng lâu lắm rồi mới được trở lại.”

Lão Đao lặng lẽ gật đầu, nhìn lại một lượt, rồi khạc ra một nắm cát mới bay vào miệng – “Hôm nay là ngày lễ tế tự rước thần đuổi tà – Thành chủ sẽ xử tử tất cả các giáo đồ ma giáo, chả trách mà náo nhiệt đến vậy. Mà kể cũng lạ, đi xem người chết mà sao thiên hạ háo hức thế!”

Chàng trai trẻ ngạc nhiên hỏi – “Sao cơ, Đôn Hoàng muốn tiêu diệt Minh giáo?”

Lão Đao gật đầu – “Đúng vậy, gần đây Đế đô đã hạ lệnh diệt sạch ma giáo khắp nơi, Đôn Hoàng đương nhiên không phải ngoại lệ. Đâu dâu cũng thấy bắt người đốt sách, lẽ nào suốt cả chặng đường ngươi chưa từng nghe nói đến hay sao?”

Minh giáo nguyên là từ Ba Tư, nguyên danh là Ma Ni Giáo, sau khi truyền nhập Tây Vực được Hồi Hột Khả Hãn sùng kính, đã đứng vững ở đó. Sau đó lại theo con đường tơ lụa truyền nhập Trung Nguyên, khoát đạt thịnh hành trong dân gian, nội trong vài thập niên đã phát triển có tới ngàn vạn giáo đồ, trở thành ngoại đạo lớn nhất chỉ sau chính đạo là đạo Phật, và dần dần tranh đoạt giang hồ với chính phái, nên bị võ lâm chính phái gọi là “ma giáo”.

Một năm trước, sự khuếch trương tấn tốc của Minh giáo ở Trung Nguyên đã câu dẫn sự chú ý của triều đình và chính phái, hai phái Thích - Đạo thay phiên sai cử trưởng lão nhập cung diện thánh, ngự tiền cố lòng thuật tả đủ thứ nguy hại mà Ma giáo mang đến. Đầu năm nay, hoàng thượng cuối cùng đã nghe lời can gián của Đỉnh Kiếm Hầu, ra lệnh cho tiêu diệt Minh giáo khắp thiên hạ.

Không chỉ có các quan phủ ra sức tiêu diệt, các chính phái trong giang hồ cũng kết thành liên minh, cùng nhau dẹp bỏ Minh giáo. Ba tháng trước, thất đại môn phái bao vây tấn công Hắc Mộc Nhai, Giáo chủ Minh giáo ở Trung Nguyên là Tiêu Vân Hạc đã quyết chiến đến bỏ mạng, một số giáo chúng khác kịp thoát thân, chạy trốn đi Triết Giang, Phúc Châu… Hiện nay Minh giáo đang phấn tán lưu lạc, thất thời quần long vô thủ.

“Cũng có nghe qua…” – Sắc mặt chàng trai bỗng nhiên trầm lắng, rồi như không chịu được, lẩm bẩm – “Ở Trường An đã xử trảm sáu toán giáo đồ Minh giáo rồi, đâu đâu cũng thiêu đốt thư kinh thành tro tàn, không ngờ ở Đôn Hoàng cũng vậy… Hồi Hột Khả Hãn chẳng phải đã lập Minh giáo là quốc giáo rồi hay sao? Với sức mạnh hiện nay của Hồi Hột tại vùng Tây Vực, ta cứ nghĩ là ở đây sẽ khác chứ?”

“Ngươi từ Đế đô tới?” - Lão Đao giật mình đã nhìn lầm.

“Ừm.” - Chàng trai tay nắm chặt kiếm, dõi mắt nhìn về nghìn trùng cát vàng phía đằng đông - “Là từ Trường An đến.”

Chỉ câu nói ngắn nhủi đó, ánh mắt tinh tường của lão Đao đã phát hiện ra nét u uẩt hằn lên trên trán chàng trai. Lão khẽ nhướng mày, mắt sáng lên những tia lạnh lẽo, rồi chợt dừng lại – hàm rằng ấy... đi suốt cả chặng đường dài giữa cát bụi mịt mù như thế, vậy mà không hề lọt vào một chút cát bụi!

Lão Đao thở dài một hơi không thành tiếng, tự nhủ sao lại không tra xét kỹ càng từ lúc xuất phát ở Lan Châu? Trong đội lạc đà bỗng nhiên trà trộn một kẻ nguy hiểm không rõ lai lịch như thế này... May mà sắp đến Đôn Hoàng, không sợ xảy ra chuyện gì nữa.

“Hồi Hột Khả Hãn chẳng phải đã lập Minh Giáo làm quốc giáo rồi sao? Thổ Phồn và Vu Điện nghe nói cũng tin tưởng Minh giáo lắm cơ mà? Vùng Tây Vực này, trời ở trên cao, hoàng đế thì ở xa, trước nay vẫn luôn tồn tại rất nhiều giáo phái khác nhau, tại sao cũng phải truy bắt ráo riết như vậy?” - Đội lạc đà tiến ngày càng gần Đôn Hoàng, khi những dãy tường thành và phong hỏa đài đã nằm trong tầm mắt, chàng trai không kìm được thắc mắc, bèn cất tiếng hỏi.

“Cũng đọc không ít kinh sách phải không? Xem ra hiểu biết khá nhiều chuyện lớn nhỏ trong thiên hạ.” - Lão Đao nhìn chàng trai, trong mắt tỏ ý châm chọc - “ Người có biết Đôn Hoàng vì sao lại muốn tiêu diệt tận gốc Minh giáo không?”

“Tại sao?” - Chàng trai liền hỏi.

Lão Đao tựa lưng vào chiếc bướu lạc đà ở đằng sau lưng, lim dim nhắm mắt tận hưởng cảm giác khoan khoái đó trong giây lát, rồi nhìn về phía Đôn Hoàng đang hiện rõ dần lên giữa làn khói bụi, hạ giọng nói -“ Là vì Công tử Thư Dạ.”

“An Tây tiết đô sứ? Đôn Hoàng thành chủ Cao Thư Dạ?” - Quả nhiên kiến thức thông quảng, chàng trai thở dài thốt lên, bất chợt có gì thay đổi trong ánh mắt.

“Ha ha... cái gì mà tiết đô sứ, Đôn Hoàng thành chủ cơ chứ?... Chỉ có khách thương vãng lai mới gọi như thế.” - Lão Đao khẽ lắc đầu.

“Công tử Thư Dạ...” - Chàng trai lẩm bẩm cái tên đó, rồi cúi đầu xuống.

“Đúng thế!” - Gương mặt khô khốc của Lão Đạo chợt cười, hở ra hàm răng vàng dính đầy cát bụi - “Đó là con trai độc nhất của Nguyễn Phối phu nhân và lão thành chủ, cũng là cháu đích tôn của Đôn Hoàng Cao thị. Hồi công tử mới ba tuổi, Nguyễn Phối phu nhân sớm qua đời, thành chủ lấy vợ kế là Dao Hoa phu nhân, nhưng rất mực yêu thương công tử. Hồi ấy Đôn Hoàng kỳ nhân dị sĩ lai vãng nhiều, vì thế thành chủ thường xuyên chăm nom chu đáo, mời những cao nhân khắp chốn về dạy công tử thi thư khúc nghệ, văn võ kỵ xạ.”

Dừng lại một hồi, lão Đao tiếp - “Công tử Thư Dạ vốn vô cùng thông minh lanh lợi, nên học rất nhanh, nghe nói mới lên ba đã học thuộc lòng ba trăm bài thơ, lên năm đã thông thạo sáu thứ tiếng, lên mười đã đảm nhận mọi việc của Đôn Hoàng thành mỗi khi phu nhân đi vắng, tiếp kiến các thương đội đến từ các nước khác nhau. Ôi, quả là một thần đồng!”

Chàng trai lặng thinh, ánh mắt lúc sáng lúc tối một cách bất định theo từng lời kể của lão Đao.

“Nhưng đến năm mười ba tuổi, một đêm nọ, công tử Thư Dạ đột nhiên mất tích.” - Lão Đao thở dài - “Suốt năm năm trời, không biết sống hay chết... ai cũng nghĩ công tử sẽ không bao giờ quay trở lại. Lão thành chủ đành phải nghe theo lời Dao Hoa phu nhân, lập đứa con mới mười tuổi của bà là công tử Liên Thành làm tân thế tử - nhưng ai ngờ đúng lúc đó công tử Thư Dạ lại đột nhiên xuất hiện!”

Nói đến đây, lão Đao lại dừng lại trầm ngâm – Cách đây mười năm, ông cũng đang ở trong thành, đến giờ vẫn nhớ y nguyên dáng vẻ của công tử khi trở về Đôn Hoàng: thân người rũ xuống từ lưng ngựa, trên ngực có một vết thương vô cùng đáng sợ. Dường như đã có người trói công tử khi đã bị hôn mê rồi đặt lên lưng ngựa, thúc cho ngựa phi nhanh vào thành. Khi đó không ai nhận ra công tử nhưng trên đầu ngựa lại có khắc rõ bốn chữ màu đỏ bằng máu: Công tử Thư Dạ! Người xung quanh nhìn thấy, lập tức liền hô hoán lên, tin tức lan truyền làm chấn động khắp toàn thành, ai nấy đều vui mừng hân hoan.

Lão Đao nhớ lại niềm vui của Đôn Hoàng thành vào ngày thế tử sống sót trở về, ánh mắt đầy cảm khái – “Công tử bỗng nhiên thay đổi hẳn, từ một đứa trẻ thông minh hoạt bát, sau khi về lại trở nên trầm ngâm, hỉ nộ bất thường, có lúc độc đoán đến đáng sợ. Lão thành chủ muốn sắc lập lại ngôi vị thế tử, nhưng Dao Hoa phu nhân kịch liệt phản đối, thế là mọi chuyện đành tạm gác lại.”

Giờ thì bọn họ đã tiến gần sát thành Đôn Hoàng, lão Đao trầm mặc – “Sau này thì… Ài… không biết nói sao cho phải nhỉ? Dao Hoa phu nhân đột nhiên lâm trọng bệnh, thậm chí còn qua đời trước lão thành chủ vài ngày. Công tử Thư Dạ ỷ vào thân phận đích tôn liền lên thừa kế vị trí thành chủ, sau đó lập tức đẩy tiểu đệ của mình đi Trường An để làm con tin. Con bà nó, sao mà nhẫn tâm đến vậy!”

Đôn Hoàng nằm ở vị trí trọng yếu trên con đường Tơ Lụa, phía đông khống chế Trung Nguyên, phía tây nối liền với nhiều quốc gia, nên được vương triều Đại Dận hết sức chú trọng. Đã thành thông lệ từ nhiều đời nay, để thể hiện lòng trung thành đối với triều đình, các thành chủ kế tiếp nhau thường phải cử một người thân nhất của mình đến Đế đô làm con tin.

Chàng trai trẻ cứ lặng thinh, sắc mặt thoáng chút biến đổi theo từng lời lão Đao nói.

“Dao Hoa phu nhân chết một cách thật kỳ lạ, nhưng không ai dám bàn tán điều gì, đến cả a hoàn thân cận nhất của phu nhân là Lục Cơ cũng bị giam cầm trong cung.” – Lão Đao lắc đầu, thở dài thượt – “Không hiểu vì sao mà công tử bỗng nhiên trở nên tàn độc thế!”

“Công tử Thư Dạ.” – Dường như không để ý nghe những lời lão Đao nói, chàng trai trẻ chỉ cúi mặt và không ngừng gọi cái tên đó.

“Nhưng giáo đồ ma giáo quả là chẳng biết sợ chết là gì – từng đám từng đám bị tiêu diệt, ấy vậy mà vẫn từng đám từng đám kéo đến. Chúng cải trang trà trộn vào đám khách thương để đi qua Đôn Hoàng, tiến về phía đông, với ý đồ mang đạo giáo của mình truyền bá rộng rãi khắp Trung Nguyên, đến cả mạng sống cũng không cần nữa.” – Lão Đạo nhăn mặt, nhíu mày – “Vừa rồi Đế đô hạ lệnh tiêu diệt tận gốc ma giáo, Trung Nguyên truy bức ghê lắm – mà Trung Nguyên càng căng thẳng thì giáo đồ ở tổng đàn Ba Tư xâm nhập càng đông, xem ra, công tử sẽ có rất nhiều việc phải làm.”

“Công tử Thư Dạ!” – Chàng trai trẻ dường như không để ý nghe đến nửa câu, bất chợt hét lớn một tiếng, khiến lão Đao giật mình.

“Công tử Thư Dạ!” – Tiếng gào rung chuyển cả một trời gió cát. Cổ tay chàng trai khẽ cử động, rồi một ánh kiếm vụt lên, chém ngang làn gió, kiếm khí lạnh băng và sáng chói, khiến người ta không sao mở mắt nổi. – “Công tử Thư Dạ!”

Giữa sa mạc mênh mông gió cát rền rĩ, những khách thương xung quanh không ai nghe thấy người dẫn đường và chàng trai trẻ nói gì với nhau, nhưng bây giờ tất cả bọn họ đều giật mình trước tiếng kêu gào đầy phẫn nộ, quay lại nhìn thì thấy chàng trai trẻ đang vung kiếm giữa muôn trùng gió cát, gào thét tên một kẻ nào đó, dường như muốn chém cái tên đó thành muôn mảnh.

Không biết có phải hoa mắt hay không mà trong mỗi nhát kiếm, lão Đao kinh ngạc thấy giữa không trung mơ hồ có một bóng trắng lướt qua, rồi nhanh chóng biến mất vào đầu thành.

Cách đó không xa, cùng với gió cát chốn đại mạc, có một đoàn người khác cũng đang tiến vào Đôn Hoàng thành.

Khi những nhát kiếm vung lên chém vào cái tên kia, dường như có một tình cảm gì đó, ánh mắt đằng sau một chiếc mặt nạ bạch ngọc khẽ chớp chớp. Đôi mắt có màu xanh thẫm tựa hồ chiếc giếng cổ không đáy, dù có ném một hòn đá xuống cũng vẫn tĩnh lặng không dậy chút sóng.

“Đến rồi ư? Là ai? Là nó hay là nàng?” – Giọng nói âm trầm vang lên từ đôi môi sau chiếc mặt nạ - “Mặc Hương, ngươi tính toán thật chuẩn. Quả nhiên vừa kịp lúc, bọn họ cũng đã đến cả.”

Bây giờ là tháng mười năm Cảnh Đế thứ mười tám, đúng vào mùa gió lạnh Nam Hạ vùng cao nguyên phương bắc. Giữa không trung thi thoảng có cơn cuồng phong cuộn xoáy, gào rú, như mang theo hàng trăm ngàn con rồng cát nhảy múa, uốn lượn, kéo theo những cây hồ dương rì rào hòa nhịp. Thành Đôn Hoàng hôm nay thật khác, đường xá không một bóng người vì dân chúng đã tụ tập hết ở quảng trường trung tâm để quan sát lễ Tế tự - nghi lễ đuổi tà ma, tống quỷ dịch này là truyền thống lưu truyền từ bao nhiêu đời nay, nhưng từ khi công tử Thư Dạ lên làm thành chủ, nội dung tế lễ còn thêm một việc: đem máu của các giáo đồ ma giáo hiến tế trời cao.

Tiếng trống chiêng đổ dồn cùng lời ca tiếng hát vang vọng làm chấn động cả mây trời, nghi lễ đã bước vào hồi kết. Năm trăm Đôn tử mang mặt nạ nối tiếp nhau bước ra, vây quanh đống lửa, cùng nhảy múa theo tiếng ca bài “Hô Thần Danh”, tượng trưng cho việc dẹp đuổi tà ma ở tứ phương.

“Công tử, Lục Cơ vẫn chưa đến ạ!” – Một giọng cung kính bẩm báo cất lên từ phía sau – Mặc dù đã bị giảm lỏng bấy lâu nay, nhưng Lục Cơ vẫn là cung nữ nổi tiếng nhất toàn thành Đôn Hoàng, những việc bốc phệ như quy – triệu – dịch – thức trong khi hành lễ đều không thể thiếu ả. Tuy nhiên công tử Thư Dạ xua tay nói – “Mặc kệ ả, mau tìm người khác thay thế, hôm nay nên kết thúc sớm một chút thì tốt.”

“Vâng!” – Tấm áo bào nhẹ bẫng được khoác lên người công tử Thư Dạ một cách cung kính – đây là chiếc áo được làm từ da gấu săn được ở trên đỉnh núi tuyết cao nhất của Quý Sương quốc, là bảo vật do một thương đội từ phía tây dâng tặng. Đôn Hoàng thành chủ đeo mặt nạ bạch ngọc và đội hắc báo tử kim quan, sau khi khoác thêm chiếc áo bào da gấu, toàn bộ dân chúng trong thành nhất loạt hò reo, vô vàn cánh tay giơ lên vẫy - “Công tử Thư Dạ! Công tử Thư Dạ!”

Xung quanh quảng trường có rất nhiều tửu lầu, là chốn nghỉ chân và vui thú của các thương khách giàu có. Giờ phút này bọn họ cũng vội rời khỏi giường, chạy đến bên cửa sổ để cúi mình cung kính hành lễ trước Đôn Hoàng thành chủ.

Thành chủ khoác áo da gấu, đeo mặt nạ bạch ngọc đứng dậy dang rộng cánh tay vẫy chào bá tánh và khách thương xung quanh.

“Công tử Thư Dạ! Công tử Thư Dạ!” – Tiếng reo hò vang dội khắp thành Đôn Hoàng, theo gió cát cuốn lên tận chín tầng mây. Toàn thành không ai là không nể sợ vị thành chủ uy nghi và sắt đá đó. Thế nhưng công tử Thư Dạ tính tình vốn phóng khoáng, không câu nệ nghi lễ, hình thức, mỗi lần hành lễ, hình thức, mỗi lần hành lễ đều tự mình đóng vai thầy pháp, trực tiếp tiến hành đuổi tà ma, cùng với năm trăm Đôn tử cũng đeo mặt nạ và áo da gấu xua đuổi tà ma tới cửa đông thành, sau đó sát sinh và làm lễ hiến máu tế trời.

“Lục Cơ sao vẫn chưa đến? Một cung nữ bị giam cầm mà còn dám không nghe lệnh sao?” – Khi bóng thành chủ đã hòa vào trong biển người, có tiếng thầm thì nho nhỏ - “Công tử không nói năng gì, kiểu này e là sẽ có chuyện.”

Giữa đám đông huyên náo, không ai để ý đến một bóng áo xanh vội vã xuyên qua ngõ hẻm vắng lặng, âm thầm tiến vào đám đông như để né tránh mọi ánh nhìn, nhằm đi ra ngoài thành.

Túm gọn tà váy của mình, trong nháy mắt, Lục Cơ đã nhập vào đám đông, như một giọt nước hòa vào biển cả. Hiếm khi gặp dịp tổ chức lễ tế, vậy có cơ hội này, ả phải trốn khỏi phủ đệ. Phải thật mau, bởi vì… Liên Thành nhị công tử sắp quay trở về!

Giữa sắc xanh của dân chúng, công tử Thư Dạ trông thật nổi trội, bạch y tung bay trong gió, tựa như một cánh hạc cô lẻ bay giữa bầu trời bao la.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 7-2-2013 14:33:42 | Xem tất
HỒI 2: SA MẠN HOA


Lên tới đầu đông thành, năm trăm Đôn Tử lập tức tản ra, chia thành hai nhóm, thái bộc thự lệnh chủ trì nghi thức dâng lên một thanh đao sáng loáng. Cầm đao trên tay, ánh mắt đằng sau mặt nạ bạch ngọc lấp lánh nụ cười mãn nguyện.

Công tử Thư Dạ nhìn Hoắc Thanh Lôi đã sung nhậm chức thái bộc thự lệnh, gật đầu nhè nhẹ, không hổ là đại tướng của Đôn Hoàng.

Thanh đao được chọn là danh đao mang đến từ Đại Mã Sĩ Cách (Damascus). Đao như thu thủy, dọc theo thân đao màu xám lạnh ràng rịt hoa văn nhỏ xíu đặc thù. Trung Nguyên kêu là “tấn thiết”. Bởi vì cho đến nay chưa biết được phương pháp rèn giũa, cho nên người người đều coi nó là vật chí bảo. Vừa cầm lên liền biết là một thanh đao tốt vừa tay.

Giáo đồ bộ hạ của Minh giáo đã bị áp giải lên đầu thành, nhất tề quỳ một hàng trước mặt. Không khí tế điển đã lên đến mức cao trào nhất, tất cả mọi người đều đang hoan hô, muốn giết chết đám giáo đồ Ma giáo kia. Những giáo đồ y phục lam lũ nhìn công tử Thư Dạ đang chú thị rút đao, nhãn thần lãnh khốc, ai ai cũng biết đại kiếp trong nháy mắt sẽ đổ ụp xuống, nhưng vẫn không khóc la nài nỉ, theo một niên trưởng xếp bằng ngồi xuống, giơ tay trước ngực, kết thủ ấn hình ngọn lửa, hướng về phía tây phương chậm rãi tụng nhỏ.

“Sinh diệc hà hoan?” (Sống có gì vui?) - Giáo đồ dẫn đầu Minh giáo râu tóc bạc phơ, vừa mở miệng hô một câu, ánh đao lúc lướt qua, đầu lìa khỏi cổ, miệng còn chưa kịp khép lại. Đao sáng như cước, không vương chút huyết tích. Người cầm đao liếc một cái buốt lạnh ngạo nghễ, nhìn đám giáo đồ Ma giáo gần chết mà chưa ngộ, ánh mắt đằng sau mặt nạ bạch ngọc chợt tràn ngập nét khinh tởm - “Những người này lẽ nào thật sự nghĩ vì Minh Tôn mà chết là có thể đi đến xứ trời vui hưởng?... “Từ Phụ” kia không ngờ đã săn bẫy được một số đông những người theo chân vô tri mù lòa như vậy”.

“Tử diệc hà khổ?” (Chết có gì khổ?) - Giáo đồ cao tuổi nhất đã bỏ mạng, giáo đồ kế bên lên tiếng, tuy giọng có phần hơi run, nhưng vẫn dứt khoát không mở miệng cầu xin – hoàn toàn không do dự. Ánh đao lại lướt qua, một vòi máu phun lên.

Hoắc Thanh Lôi, ái tướng của công tử Thư Dạ, ra lệnh cho hai sỹ binh cầm những chiếc đầu đẫm máu đó ném ra ngoài thành, tượng trưng tà ma đã bị nghi thức tế lễ Đại Na đuổi đi, dân chúng ở phía dưới hò reo hoan hô, tiếng vang chấn động ngoài thành.

Huyết quang rắc rải hướng về đông phương, hoạch vẽ hai hình cung, dân chúng dưới thành hò reo hoan hô, tiếng vang chấn động ngoài thành. Đà đội gần sắp nhập quan dưới thành tránh né không kịp, trên mặt mấy người đi đầu bị máu nhuốm lắc rắc, trên mặt của đám khách thương cũng đều có thần sắc kiêng dè, run sợ.

“Thương cho thế nhân, ốm đau buồn khổ quá nhiều!” - Thủ lĩnh đã chết, cả đám Minh giáo nhất loạt hô to hai câu cuối cùng, rồi tự động nhắm mắt lại, chờ lưỡi dao chém xuống.

“Tà ma yêu nghiệt, chết đến nơi còn mê muội cố chấp?” - Đôi mắt màu xanh thẫm bỗng nhiên ngưng lại, lạnh băng, vung tay chém xuống.

Giữa lúc đó, một ánh chớp lóe lên, chiếu ngời bức tường thành hoàng thổ!

Cảm thấy có sát khí mạnh mẽ ùa đến, công tử Thư Dạ khẽ xoay cổ tay, dựng đao lên trời. “Keeng” – tiếng va chạm kim loại vang lên, cổ tay công tử bị chấn động nhẹ. Một mũi tên kim loại rớt xuống tường thành, bên trên có khắc hình ngọn lửa rất tinh xảo. Thân người rung lên nhè nhẹ, ánh mắt đằng sau mặt nạ nhanh chóng quét ngang, bỗng chốc sáng lên như băng tuyết!

“Ai?” – Tất cả mọi người đều giật mình kinh sợ, quay đầu lại nhìn.

Trên một lầu gác phía tây, không biết từ lúc nào đã xuất hiện một bóng áo vàng, nhìn không rõ mặt, nghe giọng nói thì có vẻ như là của một lão phụ, truyền vọng rõ ràng giữa gió cát mãnh liệt, vang dậy khắp toàn thành – “Đại Quang Minh cung, Tinh Thánh Nữ, muốn hỏi Đôn Hoàng thành chủ công tử Thư Dạ, Minh Tôn độ thế, giáo dân có tội gì? Vô cớ mà chém giết, tội nghiệt sâu nặng, đồ đao không buông, cuối cùng tất thành ma!”

“Ma giáo yêu nghiệt!” - Trên thành dưới thành ầm ầm tiếng la mắng, ngay lập tức, bá tánh và khách thương nhìn bóng người trên góc lầu, sắc mặt sợ hãi.

“Là trưởng lão Diệu Thủy trong Minh giáo Ngũ Minh Tử” – Hoắc Thanh Lôi đang đứng sau khẽ nhắc, nhãn thần ngưng lại. – “Ba tháng trước bà ta chẳng phải đã bị công tử đánh bại, trong thương mà bỏ chạy, hôm nay không ngờ còn dám quay lại? Công tử! Phải chăng mụ ta đã về tổng đàn Ba Tư cầu viện, cao thủ ma giáo đến đây lần này e rằng sẽ không đơn giản, ta nên cẩn thận.”

Dường như bỏ ngoài tai lời nhắc nhở của thuộc hạ, công tử Thư Dạ bất giác đặt tay lên ngực, bên trong như có một ngọn lửa mạnh mẽ đang bùng lên cháy bỏng. – “Cuối cùng cũng đã đến!” – Vào lúc nhìn thấy mũi tên vụt bay đến, đôi mắt đằng sau mặt nạ bạch ngọc bỗng nhiên thấp thoáng nụ cười như đã dự liệu được sự việc, sắc thái tình cảm như vừa tuyệt vọng lại vừa hoan hỉ, miệng gọi thầm: “Sa Mạn Hoa!”

Mặc dù cổ tay bị chấn động nhẹ, nhưng cũng không đợi nói dứt câu, đao lại chém xuống. “Keeng!” Quả nhiên một luồng sáng vụt tới, đâm thẳng vào lưỡi đao, khiến đao chệch xuống phá tung xích sắt của kẻ tử tội. Được thoát chết và lấy lại tự do, giáo đồ này lộ rõ niềm vui trong ánh mắt, nhảy dựng lên rồi quay về phía tây bái lạy - “Cung nghênh thánh nữ! Cung nghênh thánh nữ tây lai!”

Cây nói vừa dứt thì mười tia chớp lóe lên trên đầu thành, như giăng một tấm lưới dày đặc.

Công tử Thư Dạ liên tục xuất đao, chém xuống mười giáo đồ còn lại, song đều bị tiễn chẫn chệch đi. Sau mười nhát dao, xiềng xích của tên giáo đồ cuối cùng cũng tung ra, cả đám bất chấp tất cả chạy về phía lầu gác phía tây.

Liền đó, mũi tên thứ mười ba phá không lao tới với sức mạnh kinh hồn chấn nát bảo đao sắc bén của công tử Thư Dạ. Tiễn thuật quả nhiên lợi hại.

Từ khi trận kịch chiến vừa bắt đầu, bá tánh đều hốt hoảng bỏ chạy, tản ra tứ phía. Chỉ có năm trăm Đôn tử do Hoắc Thanh Lôi dẫn đầu vẫn đứng yên tại chỗ, không hề kinh sợ, sẵn sàng chờ lệnh.

“Tháo mặt nạ! Nghênh chiến!” - Hoắc Thanh Lôi hét lớn, năm trăm Đôn Tử đồng loạt giơ tay tháo mặt nạ, cởi bỏ áo pháp y rộng thùng thình bên ngoài. Bấy giờ chỉ còn một mình công tử Thư Dạ vẫn còn mang mặt nạ bạch ngọc của thầy pháp trong nghi thức.

Không gian yên tĩnh trong giấy lát, rồi bị phá vỡ bởi tiếng cười ngạo nghễ của công tử Thư Dạ - “Ta biết nàng luôn chỉ mang theo mười ba mũi tên! Haha...” - Câu nói chưa dứt, bóng bạch y thấp thoáng, công tử Thư Dạ vụt bay lên như gió, vung tay về phis trước, một ngón tay lướt qua cắt đứt yết hầu của tên giáo đồ bỏ chạy ban nãy, cười lớn – “Lại đây, hãy cho ta xem tên thứ mười bốn của nàng! Sa Mạn Hoa!”

Bỗng nhiên một luồng sát khí ghê rợn lao vụt đến, nhanh tới mức mắt thường không sao thấy được!

Công tử Thư Dạ giật mình, quay người lại, vung tay lên. Kình phong ngưng lại, một tiếng nứt vỡ vang lên như kim gẫy, trên đầu ngón tay, một giọt máu tươi khẽ chảy xuống.

“Vô Sắc Chi Tiễn?” - Ánh mắt đằng sau chiếc mặt nạ bạch ngọc khẽ biến đổi, miệng thốt lên kinh ngạc.

Lão phu áo vàng Diệu Thủy đứng trên lầu gác cất tiếng, giọng điệu bắt đầu có sát khí – “Tinh Thánh Nữ một lần nữa mong Đôn Hoàng thành chủ thả hết giáo dân Minh giáo, để chúng ta tiến về phía đông, tuyệt không tương phạm.”

“Giết chết được ta, các ngươi cứ việc thẳng tiến!” - Công tử Thư Dạ lạnh lùng vẩy giọt máu trên tay mình - “Còn không thì ta sẽ thiêu chết hết lũ ma giáo yêu nghiệt các ngươi!”

Thuận theo cái chỉ tay của Thành chủ, Hoắc Thanh Lôi lên tiếng hạ lệnh, năm trăm chiến sĩ đao kiếm rút ra khỏi võ, bao vây ngay lập tức mười tên giáo đồ Minh giáo vừa trốn chạy. Thành đầu quá hẹp, không có đường chạy, chỉ trong nháy mắt mấy giáo đồ Minh giáo vừa thoát chết đã lại bị bao vây, có một vài người biết chút võ công, tay không đoạt đao kiếm, đánh giết với quân sĩ.

Hoắc Thanh Lôi nhìn công tử Thư Dạ giơ tay lên, ngón tay hơi cong lại.

“Phóng tiễn!” - Hoắc Thanh Lôi được lệnh, hô lớn, tay chỉ về góc lầu phía tây. Ý tứ của Thành chủ là muốn bắn chết Diệu Thủy đang bộc phát xông qua và cả con người thần bí trong góc lầu sau lưng mụ ta. Thành đầu chật hẹp, đất xoay trở không nhiều, hơn nữa thân người lão phụ áo vàng đang ở giữa trời, càng vô phương tránh né. Công tử một khi động sát cơ, quả thật tàn nhẫn đến mức cùng cực. Năm trăm mũi tên được phóng ra, đầu tên đen sì nhọn hoắt hướng về phía những giáo đồ đang chạy loạn.

Trong giây phút đó, trên góc lầu bỗng phát hiện ra một tiếng rít như thể một loại vũ khí lợi hại phóng ra giữa không trung!

Tất cả đám binh sĩ kinh hãi ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy một cảnh tượng kỳ lạ trên không trung: dường như có một lưỡi đao vô hình đang chém liên hồi khiến cho cát vàng trên không bị dạt sang hai bên, tạo thành một thông lộ. Đồng thời sức mạnh vô hình đó trong phút chốc đã khiến cho hàng trăm phi tiễn bắn về phía lầu gác giảm tốc độ, bất ngờ bay chậm lại! Từ góc lầu, lại một tiếng rít nữa vang lên. Phi tiễn đầy trời lại chậm đi, và sau ba lần giảm tốc độ, những mũi tên đó không còn tiến đến mục tiêu, va vào nhau hỗn loạn.

“Liêu Châu Thần Nỏ?!” - Ánh mắt công tử Thư Dạ có sự biến đổi rõ rệt, rồi nhanh chóng giơ tay lên, hô lớn ra lệnh – “Mau lui xuống dưới thành!” - Công tử Thư Dạ xoay cổ tay, rút ra một trường kiếm sáng lấp lánh – Đó là thanh bội kiếm rất ít dùng tới: Thừa Ảnh. Một khi bội kiếm xuất ra, chứng tỏ tình hình đã rất nguy cấp, Hoắc Thanh Lôi lập tức hô lớn, thôi thúc bọn thủ hạ - “Mau lui xuống dưới thành! Mau lui xuống dưới thành!” – Nhưng, đã quá muộn.

Từ góc lầu, một luồng sáng trắng bay lướt qua đầu thành, tiếng rít như mưa rào. Khi luồng sáng đến gần, mọi người mới nhận ra, đó là con sư tử lông trắng như tuyết! Cưỡi trên sư tử là một mỹ nữ đầu đội hoa quan, mình khoác trường bào trắng muốt, cổ áo và ngực áo thêu đầy những đóa hoa Mạn Châu Sa nở rộ.

Quả nhiên không ngoài dự liệu của công tử Thư Dạ, ống tên trên lưng nàng đã trống không. Bạch y thiếu nữ tay cầm ngân cung, trên cung không có tên, nhưng vẫn móc tay không kéo dây cung, không ngừng làm tư thế như đang bắn tên. Và kỳ lạ thay, mỗi lần nàng buông tay, dường như có những mũi tên sắc nhọn vô hình được bắn ra, nên cát vàng trong không trung cũng phải dạt sang bên để nhường đường!

Mấy trăm mũi tên đám quân sĩ bắn về phía góc lầu vẫn đang bay giữa không trung. Khi thiếu nữ trên lưng sư tử bay đến, buông tay kéo cung, chỉ trong chốc lát đã hoàn thành tư thế bắn hàng trăm mũi tên, vô hình “tiễn” lập tức bay khắp đất trời. Tựa như song tiễn đối kích, mấy trăm mũi tên đồng màu xanh đuôi lông chim thi nhau gãy đoạn, rơi vãi trên đất.

Sau khi vô hình tiễn bắn gãy hết trường tiễn, tốc độ tiến vẫn chưa tiêu tán, tiếp tục bắn về phía đám binh sĩ đang vội vã triệt thoái. Người người lớp lớp ngã gục, thét gào.

Người bị những mũi vô hình tiễn đó bắn trúng, thương thế hoàn toàn bất đồng: có những người lồng ngực bị tét một lỗ hổng, bay mùi cháy khét; có những người lại sắc mặt trắng nhợt, đồng tử như kết một lớp băng. Cát vàng trên không ngưng tụ thành một cuộn, giảo động như rồng vàng.

Nơi vô hình khí tạt ngang qua, những binh sĩ bình thường căn bản nhìn không thấy, cũng tránh không kịp, chia nhau la hét thảm thiết.

Nhưng ngay sau đó, ánh sáng màu lam đã bao trùm kín đầu thành. Công tử Thư Dạ đột nhiên vung kiếm, một nhát nghênh phong chém giữa hư không. Đường kiếm mãnh liệt đã bẻ gãy vô hình tiễn đang tung hoành giữa không gian! Khi mũi kiếm và kình khí chạm nhau, ánh sáng tỏa ra tứ phía, cát vàng giữa không trung xoáy đập vào nhau, từng hạt bắn lên trên mặt nạ bạch ngọc của công tử Thư Dạ.

“Liệt Hỏa Minh Kim Tiễn? Di Hình Tất Sát Tiễn? Giỏi, giỏi lắm! Cung tuy không có tên, nhưng một tên trong tâm có thể hóa thành vạn tên.” - Công tử Thư Dạ cười vang, thần sắc phức tạp – “Sa Mạn Hoa, cuối cùng nàng đã luyện thành Vô Sắc Chi Tiễn? Chẳng trách mà Giáo vương phái nàng đến Đôn Hoàng!”.

Luồng bạch quang đột nhiên ngưng định, bạch sư rùn chân trên đầu thành, gầm gừ khe khẽ. Nữ tử ngồi trên bạch sư ngón tay còn kéo dây ngân cung, lại đã ngưng bắn, đôi mắt màu lam sâu hun hút nhìn y chăm chăm, tựa hồ muốn nhìn ra chân dung đằng sau mặt nạ bạch ngọc, hồi lâu sau mới mở miệng hỏi – “Ngươi là ai? Dường như ngươi đã sớm liệu được rằng ta sẽ đến? Sao ngươi biết Giáo danh của ta là Sa Mạn Hoa? Lại còn biết cả Vô Sắc Chi Tiễn?”

“Ta là Đôn Hoàng thành chủ.” – Một nụ cười lạnh lẽo ẩn sâu trong đôi mắt, công tử Thư Dạ thu kiếm, nhìn thiếu nữ - “Khỏi phải nghĩ cũng biết chắc Giáo vương sẽ phái nàng đến. Ma giáo tại Trung Nguyên đã bị triều đình, dân chúng vây chặn, cả bằng hữu năm xưa Nam Cương Bái Nguyệt giáo cũng đã khoanh tay đứng nhìn, tình thế đang hồi nguy cấp. Các người không thể vượt qua Đôn Hoàng tới Trung Nguyên chi viện, đến cả Ngũ Minh Tử cũng bị đánh đuổi chạy về, tổng đàn không thể không điều phái Tam Thánh Nữ ra mặt. Giáo vương lão còn có cách nào khác chứ? Không thể tự mình cầm Thánh Hỏa lệnh đến giết ta, lão đã già quá rồi, căn bản vô phương bôn ba thiên lý, vượt sa mạc đến Đôn Hoàng khiêu chiến với ta.”

Ngưng một lát, công tử Thư Dạ lại tiếp tục cười lạnh – “Nhưng, trong Tam Thánh Nữ ‘Nhật Nguyệt Tinh’, Nhật Thánh Nữ Tô Tát San là công chúa Ba Tư, lúc nhập giáo đã thề nguyện vĩnh viễn thủ hộ Minh giáo tổng đàn; Nguyệt Thánh Nữ Mai Nghê Nhã đang ở Hồi Hột đảm nhiệm làm Giáo mẫu quốc giáo; vì thế lần này đến đây chỉ có thể là Tinh Thánh Nữ trẻ tuổi nhất, Sa Mạn Hoa. Hơn nữa, trong Tam Thánh Nữ, trình độ võ thuật của nàng là cao nhất.”

Thiếu nữ trên lưng bạch sư sững người, không ngờ người này lại nắm rõ tình hình giáo nội như trong lòng bàn tay – “Sao ngươi biết những chuyện này?”

“Những gì ta biết còn hơn nàng tưởng rất nhiều.” - Công tử Thư Dạ mỉm cười, lạnh lùng đáp – “Ta biết mọi chuyện xảy ra ở Sơ Tế, Trung Tế và Hậu Tế, ở quá khứ, hiện tại và tương lai.”

“Nhảm nhí, chỉ có Minh tôn mới có khả năng đó.” – Sa Mạn Hoa phản bác, rồi chợt kinh ngạc – “Sơ Tế, Trung Tế và Hậu Tế? Ngươi… ngươi cũng biết Nhị tông Tam tế, cũng hiểu Giáo nghĩa Minh giáo bọn ta? Ngươi… thật ra ngươi là ai?”

“Ta là công tử Thư Dạ.” – Bạch y công tử đứng trên đầu thành đáp – “Đôn Hoàng thành chủ, công tử Thư Dạ.”

“Công tử Thư Dạ… Ta chưa bao giờ nghe qua cái tên này.” – Thiếu nữ trầm ngâm, rồi bống nhiên cảm thấy giật giật ở thái dương, trong đầu bắt đầu đau nhức nhối – “Từ phụ phái ta đông tiến Trung Nguyên thay thế Giáo chủ Tiêu Vân Hạc qua đời. Từ phụ nói Đôn Hoàng thành chủ là một ác nhân giày xéo Minh Tôn, ta phải dùng Vô Sắc Chi Tiễn đánh phá Đôn Hoàng, đông tiến Trung Nguyên để cứu những giáo dân đang bị hoàng đế và chính giáo vây đánh. Tại sao ngươi lại đối địch với Minh giáo ta?”

“Nếu ta không đối địch với ma giáo, lẽ nào để cho các ngươi tiến tới quấy nhiễu Trung Nguyên? Để các ngươi biến những đứa trẻ thơ dại thành sát thủ trong Tu La Trường, đem bá tánh vô tri biến thành tử dân?” - Công tử Thư Dạ cười vang, trong mắt ánh lên phẫn nộ, giơ kiếm chỉ những thi thể chết cháy trên những giá hỏa hình trong thành – “Ma giáo còn muốn hại bao nhiêu người nữa? Ta hận là không thể thiêu hết đám giáo đồ ma giáo các ngươi, trong đó có cả Từ phụ của nàng!”

“Ác đồ!” – Sa Mạn Hoa nhíu mày, vô hình tiễn lập tức vụt bay ra.

Mũi tên đâm thẳng khiến mặt nạ bạch ngọc nứt ra thành bảy miếng, nhưng công tử Thư Dạ thì vẫn đứng yên không hề động đậy. Trong giờ phút mặt nạ vỡ ra, đôi mắt xanh thẫm nhìn chăm chăm vào người con gái đang giương ngân cung, dường như muốn nắm gọn từng chút thần sắc trên gương mặt nàng.

Thế nhưng, vẻ mặt Tinh Thánh Nữ không hề bộc lộ chút cảm xúc, chỉ chút tâm định thần vận khí. Bạch sư tiếp tục nhảy lên và gầm rú, thiếu nữ giương cung phóng tiễn, vô vàn kình khí kêu lên rống rít. Lúc này công tử Thư Dạ như bị mất hồn, thất thần đứng lặng yên giữa trời gió bão mà vẫn không rút kiếm ra.

“Công tử!” - Trong bao nhiêu người dưới thành chỉ có Hoắc Thanh Lôi nhìn thấy sự lợi hại của Vô Hình Tiễn, thoát miệng la hoảng - “Xuất kiếm!”

Mũi tên chưa chạm thân, nhưng luồng khí tiễn thì dường như biến không khí nóng như thiêu đốt xung quanh công tử Thư Dạ ngưng tụ thành băng, ngàn vạn lợi khí đang chực xông thẳng vào người, nhưng công tử Thư Dạ vẫn đứng yên nhìn ngắm bóng dáng người con gái đằng xa, và rồi đột nhiên cảm thấy có một mũi tên lạnh băng xuyên qua tim mình – “Chẳng lẽ không còn nhớ chút gì hay sao? Ta đã ở đây đợi chờ suốt mười năm, còn nàng tại sao lại hoàn toàn không nhớ?”

“Công tử, xuất kiếm!” – Hoắc Thanh Lôi vội vàng thúc giục. Sự lo lắng của viên tướng đã ảnh hưởng đến tất cả binh sĩ, mọi người dưới thành đều nhất loạt hô lên, âm thanh vọng khắp đại mạc – “Công tư, xuất kiếm!”

Trong giờ khắc cuối cùng trước khi những mũi tên lao tới, công tử Thư Dạ đột nhiên hét lên một tiếng, Thừa Ảnh chớp nhoáng vụt lên.

Bảy mươi tư kiếm – nàng đã phóng ra bảy mươi tư mũi tên, nên công tử phải xuất bảy mươi tư kiếm, chém gãy từng mũi tên một. Khi nàng phóng tiễn, đã dùng tám loại kình khí, công tử cũng phải dùng tám loại kiếm pháp khác nhau để lần lượt chống đỡ.

Cuôi cùng bạch sư dừng lại, không kêu gào nữa. Thiếu nữ kinh ngạc – “Từ trước đến nay chưa ai có thể dỡ được tiễn của ta. Rốt cuộc ngươi là ai?”

“Ha ha ha… Xem ra trí nhớ của nàng không tốt, nhưng con mắt thì không đến nỗi nào!” - Công tử Thư Dạ cười vang, nhìn gương mặt còn đang kinh ngạc của Sa Mạn Hoa, lạnh lùng hỏi – “Nàng có thể đoán ta ở môn phái nào không?”

Sa Mạn Hoa nhíu mày trầm tư hồi lâu không đáp, và bỗng nhiên thu cung lại, hai tay bắt chéo trước ngực, tựa như một vầng trăng tròn, chậm rãi tạo thành tư thế kéo cung trong hư không. Vô hình tiễn này không nhanh như đợt mưa tiễn trước, động tác chậm rãi, hơi thở lắng sâu, nhưng không biết có phải do ảo giác hay không, giữa bàn tay không của thiếu nữ bỗng ẩn hiện một luồng ánh sáng bạc!

Mũi tên bắn đến, vô hình vô chất, công tử Thư Dạ chỉ nghe thấy tiếng cát vàng từng hạt từng hạt va đập vào nhau – trong giây phút vô cùng ngắn ngủi, công tử nhìn thấy tất cả gió cát xung quanh trong vòng mười trượng đều ngưng lại.

Nguyệt Băng Tật Phong Tiễn? Giới tối cao của Vô Sắc Chi Tiễn!

Công tử Thư Dạ vội vàng hét lớn với đám quân sĩ và quần chúng dưới thành – “Lùi lại! Lùi lại mười trượng!”

Trong khi Hoắc Thanh Lôi thống lĩnh quân sĩ lùi lại, công tử dùng toàn lực, không biết là kiếm pháp của lưu phái nào, xuất ra một kiếm. Thừa Ảnh rền rĩ ngân lên đáng sợ. Dường như muốn loại bỏ tất cả. Nhưng, nhát kiếm đó lại chỉ đánh rơi cát bụi giữa hư không. Ánh sáng trắng chói lòa trên đầu thành Đôn Hoàng bùng lên, khuếch tán, cát vàng bắn tung tóe, rơi xuống dưới thành, tưng hạt từng hạt nhỏ xíu bị tiễn khí đánh bật trở lại rồi bắng ra như những mũi tên bén nhọn, đâm vào mặt đám quân sĩ ứa máu.

Thiếu nữ trên bạch sư chợt buông tay, một tiễn đó xem ra đã tiêu hao gần hết chân khí của nàng, nàng cúi đầu thở hổn hển, hai bên trán lấm tấm mồ hôi. Bạch sư dường như cũng bị lực phản hồi của tiễn này đẩy lui ra sau mấy bước, suýt chút nữa rơi xuống.

Ở bên kia thành, nhân lúc đang hỗn loạn, trưởng lão Diệu Thủy dẫn mười mấy tên giáo đồ phá bỏ vòng vây, xuyên qua cửa đông chạy về phía sa mạc. Thở lấy hơi một chút, lão phụ quay đầu lại quan sát tình thế chiến đấu trên đầu thành, giật mình kinh hãi – Tinh Thánh Nữ hóa ra vẫn ở thế hạ phong! Nội trong Minh giáo, Tinh Thánh Nữ Sa Mạn Hoa võ học đệ nhất, không ngờ đã xuất hết toàn lực mà cũng vô phương đánh bại được Đôn Hoàng thành chủ sao? Nỗi lo của Giáo chủ cuối cùng cũng đã thành sự thật: Cả Minh giáo, không có ai có thể đối phó với một tên phản đồ của Tu La Trường!

Lẽ nào, buộc phải cầu chi viện Nguyệt Thánh Nữ Mai Nghê Nhã ở tận Hồi Hột xa xôi?

“Thiết Mã Băng Hà? Nội công tâm pháp ngươi dùng là Thiết Mã Băng Hà!” - Sa Mạn Hoa ngồi yên trên lưng bạch sư hồi lâu, rồi chợt kinh ngạc cất tiếng – Khi dùng hết sức giao thủ một đòn quyết định, bất cứ ai đều không thể che giấu võ học căn bản của mình, thế nhưng võ công của Đôn Hoàng thành chủ không ngờ lại là... Trong đôi mắt lam sâu thẳm ấy tỏa ra những tia sáng huyền diệu và thần bí, nàng lặng người nhìn nam tử uy phong đứng trên đầu thành. - “Đó là bí điển trong Thánh Hỏa Lệnh của Minh giáo bọn ta! Ngươi sao lại có thể biết được? Ngươi, lẽ nào ngươi là...”

“Phải, ta đã từng ở Tu La Trường” - Công tử Thư Dạ cười một tiếng, xoay cổ tay thu kiếm lại - “mười năm trước.”

“Tu La Trường?” - Ba chữ đó khiến cho đầu Sa Mạn Hoa bỗng chốc đau nhức nhối, như muốn vỡ tung ra, nàng dùng tay ấn sau ót, lẩm bẩm – “Tu La Trường trong tổng đàn đàn Đại Quang Minh cung? Mười năm trước... Côn Luân...?”

“Phải. Côn Luân tuyết vực. Đại Quang Minh cung. Tu La Trường” - Công tử Thư Dạ chợt mỉm cười, nhưng nụ cười lại đầy cay đắng - “Từ ngày ta và Mặc Hương rời khỏi nơi đó, cách biệt đã mười năm trời, không ngờ hôm nay lại có may mắn được gặp lại Tinh Thánh Nữ Sa Mạn Hoa.”

Nhìn nụ cười ấy, Sa Mạn Hoa bỗng cảm thấy có chút gì đau đớn xót xa, như có ba mũi kim châm đâm thẳng vào nơi sâu kín nhất trong tim mình. Nàng như muốn nghẹt thở, dùng tay ấn vào gáy, cảm nhận rõ nhịp đập loạn xạ của huyết mạch dưới chân tóc, nhãn thần cũng bắt đầu dao động - “ Ngươi, ngươi nói người từng ở Tu La Trường? Tại sao... tại sao ta chưa từng gặp ngươi?”

Công tử Thư Dạ lại cười, ánh mắt thâm trầm, nhìn người con gái trên lưng bạch sư đang dùng tay ấn vào gáy một cách khổ sở, khẽ cất lời - “Thật đáng thương... là bị kim châm vào não phảo không? Từ phụ của nàng từ ái quá!”

Sa Mạn Hoa sờ tìm phía sau gáy, ấn vào ba gốc kim cứng ngắc và lạnh buốt.

Đó là nơi bắt nguồn tất cả mọi ký ức của nàng – Từ lúc nàng bắt đầu có ký ức, trên đầu đã có ba mũi kim châm như vậy, mọi chuyện xảy ra trước đó đều bị chôn vùi.

Lớn lên thành thiếu nữ, lúc chải tóc, hình như lược của nàng thường chạm vào châm dưới mái tóc, nàng từng soi kiếng mò tìm la làng, sau đó lại không nhớ gì nữa.

“Mười năm trước... khi đó ta mười sáu tuổi. Ta không nhớ được chuyện trước đây.” - Nàng lẩm nhẩm, đầu càng đau nhức nhối - “Ta quen ngươi sao?.. Tổng đàn Minh giáo trên Côn Luân tuyết sơn? Tu La Trường... Đó là nơi bồi dưỡng sát thủ trong giáo! Ngươi, ngươi lẽ nào là sát thủ của giáo?... Nhưng tại sao ta lại không nhận ra ngươi nhỉ...”

“Nàng đại để không nhận ra ta, nhưng cung tiễn của nàng tất nhiên còn nhận ra ta” - Công tử Thư Dạ cười phá lên, cánh tay cử động, chiếc áo khoác da gấu trắng rơi xuống đất. Công tử gập tay chỉ vào chính giữa ngực mình - “ Một tiễn của nàng đã từng bắn ghim ta trên vách hậu sơn Lạc viên – nàng đã quên rồi sao?”

Lúc ngón tay chỉ điểm, ngực áo toạt ra. Trên lồng ngực săn chắc như ngọc thạch không ngờ có một vết thương vàng sẫm cực lớn!

“Á... á!” - Nhìn thấy vết thương đáng sợ đó, Sa Mạn Hoa như bị kích thích mãnh liệt, lập tức hét lên kinh hoàng, ngân cung trên tay rơi xuống - “A... đây là, đây là... ngươi...A... a... a...”

Lúc này Sa Mạn Hoa đã không thể kiềm chế được nữa, nàng chỉ biết ôm lấy đầu mà gào thét, khác hẳn phong thái ung dung, thanh thoát lúc trước.

“Phi Quang! Phi Quang!” - Trưởng lão Diệu Thủy dưới thành chứng kiến tình thế không hay diễn ra trên đầu thành, bèn mở cửa dưới thành hô gọi bạch sư - “Mau đưa thánh nữ trở về.”

Bạch sư nghe hiệu lệnh của trưởng lão, nhanh như cơn gió lốc, lập tức phóng ra ngoài thành, cùng quay về với đám giáo đồ Minh giáo. Cát vàng cuộn sóng theo sau bước chân của đám người đi về phía tây.

Công tử Thư Dạ lặng đứng, giơ tay ngăn quân sĩ thủ hạ xuất thành truy đuổi, mặc cho đoàn người đi xa dần rồi chìm vào trong gió cát xa xăm. - “Mặc Hương, đúng như ngươi dự liệu, cuối cùng ta đã được gặp lại nàng. Mặc dù nàng không nhớ ta.” - Nhìn đoàn người ngựa Minh giáo mất hút dần giữa đại mạc mênh mang, một nụ cười lạnh lùng, thấp thoáng khóe miệng của Đôn Hoàng thành chủ - “Ngày chạy thoát khỏi Tu La Trường, ngươi có nói với ta: chỉ cần ta trấn thủ Đôn Hoàng, ngăn chặn được Minh giáo, ắt sẽ có một ngày được gặp lại nàng.”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 7-2-2013 14:35:30 | Xem tất

HỒI 3: OANH SÀO


Trong nháy mắt bạch quang bao trùm thành đầu, bá tánh và đội quân dưới thành không nhìn thấy gì hết, chỉ nghe tiếng la hét thất thanh cuối cùng của nữ tử Ma giáo trên thành đầu, sau đó nghe đám giáo đồ Minh giáo hò hét đằng xa. Tất cả mọi người đều nhìn nhau ngờ vực, không biết có phải Thành chủ đã đánh bại Ma giáo?

Hơn mười tên giáo đồ Minh giáo đã được cứu thoát khỏi buổi lễ tế tự - trong gần mười năm từ khi công tử Thư Dạ làm thành chủ ở Đôn Hoàng, dưới bàn tay sắt đá ấy, chuyện như vậy chưa từng xảy ra.

Sau đó, công tử Thư Dạ từ thành đầu chầm chậm bước xuống, mặt không một chút biểu tình đi xuyên qua đám đông dày kín. Miệng Hoắc Thanh Lôi mấp máy, chung quy nhẫn nhịn không hỏi, chỉ phất tay dẫn thần võ quân theo công tử hồi doanh.

Gió lạnh Bắc phương vẫn còn ập vào thành, cuộn kéo ngàn vạn hạt cát vàng.

Cả thành Đôn Hoàng chìm trong tĩnh lặng. Hàng trăm ngàn đôi mắt đang dõi theo từng cử động của thành chủ. Không khí não nhiệt hoan hỉ ban nãy đã hoàn toàn tiêu biến. Tất cả các khách thương, bá tánh, vũ cơ, ca nữ đều trốn vào trong phòng, né tránh cơn giận lôi đình có thể xảy ra của vị thành chủ hỉ nộ bất thường.

Đến cả người đã theo công tử Thư Dạ từ nhỏ như Hoắc Thanh Lôi cũng không khỏi bồn chồn lo lắng. Thế nhưng công tử Thư Dạ vẫn đeo mặt nạ, bước về phủ điện nguy nga mà không hề bộc lộ chút cảm xúc gì, cũng không nói một câu nào.

“Lục Cơ vẫn còn chưa về ư?” – Lúc bước chân vào phủ, công tử Thư Dạ đột nhiên hỏi.

Hoắc Thanh Lôi giật mình, đáp – “Thưa vâng.” - Một lát sau, lại tiếp – “Thuộc hạ lập tức sai người đi tìm!”

“Khỏi cần.” - Công tử Thư Dạ cười – “Mặc kệ ả. Ả tưởng có thể thoát khỏi tay ta ư?”

“Vâng!” – Nghe giọng điệu đó, Hoắc Thanh Lôi lạnh người run sợ, nghĩ một lát rồi mới dám cất tiếng – “Công tử đừng trách nàng… có thể là do bị giam giữ trong phủ quá lâu, nên không chịu được…”

“Ha ha…” - Công tử Thư Dạ chợt cười lớn – “Lão Lôi, đừng lo, ngươi không phải nói hộ cho ả. Ta biết ngươi thích Lục Cơ. Nếu muốn, sau lần này, ta sẽ tặng ả cho nhà ngươi.”

“Công tử!” - Hoắc Thanh Lôi thoáng giật mình, mặt bỗng chốc đỏ lên, rồi quỳ xuống vái lạy – “Đa tạ thành chủ!”

“Đừng có vui mừng quá sớm như vậy!” - Công tử Thư Dạ giơ tay mở cửa, cánh cửa nặng nề, phát ra âm thanh kẽo kẹt, chậm rãi – “Người con gái đó nay đã không còn giống như người con gái trong ký ức của ngươi nữa đâu.”

Hoắc Thanh Lôi băn khoăn không rõ thực hư – hắn đã chứng kiến Lục Cơ trưởng thành. Lúc đó hắn bất quá là hài tử của một môn khách của lão Thành chủ, Lục Cơ là một nữ nô trong phủ đã được mua lại từ trong tay thương nhân Ba Tư, lúc nhập phủ bất quá mới tám chín tuổi. Ả thiện lương ôn nhu, thông minh lanh lợi, mới nửa năm đã quen với sinh hoạt của người Hán, lên mười ba đã làm thị nữ hầu bên cạnh Thành chủ phu nhân tiền nhiệm, đạt được sự chăm sóc dạy dỗ của Dao Hoa phu nhân, học đàn, học múa, không ngờ đã không khác gì là một tiểu thư trong cung. Sau đó, không biết ả học được Bốc thuật từ đâu, phàm nói cái gì cũng linh nghiệm, kinh động trên dưới Đôn Hoàng. Sau này cả lão Thành chủ cũng cực kỳ tin tưởng tài chiêm bốc của ả, mỗi lần có sự tình khó quyết đoán, liền kêu ả đến bói một quẻ.

Ngoài ra ả cũng chỉ là một người con gái yếu đuối, tại sao công tử lại nói những lời khó nghe như thế?

Hoắc Thanh Lôi bước chân vào phủ cùng công tử, tay vẫn vò đầu bứt tóc. Hầu môn sâu hun hút, tầng tầng lớp lớp sân viện nối tiếp nhau tưởng như vô tận.

Dòng họ Cao nắm chức Đôn Hoàng thành chủ đã gần trăm năm nay, các đời nối tiếp nhau, phủ điện có quy mô rộng lớn vô cùng. Đến cả Hoắc Thanh Lôi là môn khách lớn lên từ nhỏ ở đây, đã có hơn ba mươi năm qua lại nơi này, mà cũng chỉ rành có hai, ba phủ trong số mười phủ điện đó.

“Hôm nay theo ta đến Oanh sào!” - công tử Thư Dạ chợt nói, rồi bước vào tòa giả sơn “Thiên Điệp Chướng”.

Hoắc Thanh Lôi nghe đến đây lại giật mình thêm một lần nữa. Hôm nay đến Oanh sào ư?

Trong tòa giả sơn này có một hang động bí mật dẫn thẳng đến Oanh sào, là nơi hưởng lạc những Thành chủ đời trước kiến khởi dùng để nuôi giữ cơ thiếp ca kỹ.

Đôn Hoàng nằm ở vị trí trọng yếu trên con đường Tơ Lụa, thương mậu hưng vượng, bá tánh đủ loại người, đà đội và thương nhân từ các nơi đến không ngừng mang theo tài phú vào thành, Đôn Hoàng thành chủ đời này qua đời nọ giàu có sánh quốc gia, tích lũy trăm năm nay, về phương diện hưởng lạc, Đôn Hoàng thành chủ thậm chí còn hơn cả hoàng đế ở Trung Nguyên.

Oanh Sào là nơi các Thành chủ đầu tư một phần tài lực và vật lực khổng lồ, kiến tạo một khu ăn chơi bí mật, để cung phụng hưởng dụng một cách phung phí ngông cuồng. Chỉ có một số ít lần, vì muốn khoe khoang tài phú, Đôn Hoàng thành chủ mới mời một số cực ít khách nhân làm khách trong Oanh Sào.

Những khách nhân có hân hạnh được ghé qua Oanh Sào lúc ra về đều như là nằm mộng, nói mình mới từ Cực Lạc Chi Quốc trở về.

Theo lời thuật lại của những khách nhân đó, đó là một thế giới tạo thành từ lưu ly bảo thạch, lầu các bóng loáng ánh màu sắc rực rỡ, bên trong có vô số tiên tử khả ái. Mặt trong điểm xuyết đá cẩm thạch, ngọc thạch, san hô, hổ phách, mã não, trân châu, lưu ly, có cả cây hoàng kim bát bảo, suối phỉ thúy bích ngọc, trong suối ngâm trân châu, nước suối phún ra toàn là rượu ngọt lịm, trong rừng có những đóa hoa bảo thạch vĩnh viễn không tàn lụi. Giữa rừng cây suối nước, vô số loài chim chóc kỳ lạ líu lo ríu rít, dị thú khó mà thấy qua duỗi người tắm nắng. Bên cạnh suối, giữa rừng, trong lầu các, người qua kẻ lại đều là thiếu nữ mỹ lệ và đồng tử anh tuấn, đến từ Ba Tư, Thiên Trúc, đủ các quốc gia, tóc vàng như hoàng kim, da trắng như ngọc, dùng ánh mắt xanh thẫm mỉm cười nhìn khách, dịu dàng đáp ứng tất cả mọi yêu cầu của bọn họ.

Lời tự thuật của đám khách nhân đại để đều giống nhau, nhưng trên chi tiết lại có những chỗ vào ra khác biệt, tựa hồ mỗi một người ở đó đều có cảm giác thần trí mê ly mờ mịt. Nhưng nói chung, đó là một “Cực Lạc Thế Giới”, một lạc viên xa hoa cùng cực vượt quá lực tưởng tượng của người phàm.

Nhưng từ sau khi công tử Thư Dạ trở thành Đôn Hoàng thành chủ, không ngờ đã đầu tư một số kim tiền và nhân lực nhiều chưa từng thấy, khiến Oanh Sào đạt đến mức cực tận xa hoa.

Hoắc Thanh Lôi đã theo công tử nhiều năm, nên cũng đã ra vào nơi đây nhiều lần. Giữa chốn lạc viên đó, người thô lỗ cục mịch như hắn không thể không thốt lên lời cảm thán, không ngờ thế gian lại có nơi ăn chơi xa hoa và ngông cuồng đến vậy. Nhưng hôm nay, sau khi Minh giáo đã đến rồi cướp đi mười mấy giáo đồ như thế, công tử còn tâm trạng đến Oanh sào vui thú hay sao?

Chiều tối, Hoắc Thanh Lôi hầu công tử dùng bữa tại mê lầu của Oanh sào.

Toàn bộ căn phòng được lát bằng ngọc thạch trắng toát, trên rèm là vô số châu báu to bằng long nhãn, tỏa sáng lấp lánh khắp nơi, đến nỗi chẳng cần thắp đèn. Những mĩ nhân tuyệt thế ở đây bị sử dụng như những kẻ hầu người hạ, sau khi bê mười tám đĩa bạc lên lại lặng lẽ lui vào bên trong. Trước mặt là một mâm cỗ thịnh soạn, với những món ngon vật lạ mà kẻ phàm tục như Hoắc Thanh Lôi chưa bao giờ được thấy. Khó khăn lắm hắn mới nhận ra, trong đó có một món hình như là tay gấu hầm, trên một đĩa khác là một con cá thờn bơn khổng lồ.

“Thử cái này đi!” – Công tử Thư Dạ dùng đũa gắp một miếng cá thờn bơn, cười nói - “Đây là quà của khách thương đến từ Lạc Dương, nghe nói là được nuôi bằng nước biển suốt dọc đường, nên khi mang tới Đôn Hoàng vẫn còn tươi nguyên.”

Mang cá thờn bơn sống từ Đông Hải đến tận Đôn Hoàng? Hoắc Thanh Lôi không giấu nổi tò mò, nhấc đũa nên nếm thử một miếng, hương vị thơm ngon đến nỗi hắn không sao diễn tả thành lời.

“Quả nhiên là ngon lắm… người nấu bữa tối này được mời từ Trường An tới, nghe nói trước kia từng là chủ quán thiện giám trong đại nội.” - Công tử Thư Dạ nếm một miếng, rồi buông đũa xuống, nâng ly lên, mỉn cười – “Kẻ này ban đầu không chịu theo ta đến sa mạc, nhưng ta đã cho y số vàng gấp mười lần, sau đó lệnh cho ngươi cắt cụt một tai thả vào nồi, thế là phải đồng ý.”

“Công tử!” – Miếng thức ăn trong miệng còn chưa kịp nuốt như bị nghẹn lại, Hoắc Thanh Lôi ấp úng nhìn vị thành chủ trẻ tuổi nhưng hỉ nộ bất thường của mình.

Sao lại trở nên như thế... Sau lần mất tích năm mười ba tuổi, công tử Thư Dạ khi trở về bỗng hoàn toàn đổi khác, bên trong dáng vẻ nho nhã cao quý ẩn chứa sự nguy hiểm đáng sợ, khiến cho bất cứ ai khi tiếp xúc cũng phải hồi hộp lo âu.

Vũ nữ bên cạnh đang múa vũ điệu Hồi, dáng người mảnh mai, tươi trẻ, nước da bánh mật, mặc bộ vũ y ôm sát người, để lộ ra chiếc eo thon thả và bờ vai mịn màng, xoay tròn người trên một tấm thảm rộng ba thước, nhún nhảy về phía trước, rồi sang ngang, hai chân không rời khỏi thảm. Cặp lông mày vút lên, ánh mắt không ngừng đưa qua đưa lại, những chuỗi dây chuyền ngọc trai quấn quanh người va đập vào nhau phát ra tiếng róc rách như nước chảy. Một hàng hai nhạc sư tay cầm đàn tỳ bà, ngũ huyền, khèn, sáo, tiêu... hợp tấu nhạc khúc Quy Từ mang tên “Thác Chi”.

Mĩ nhân đẹp như ngọc, ca hát nhảy múa suốt đêm. Công tử Thư Dạ đắm chìm trong tiếng nhạc du dương, dìu dặt và men say nồng nàn.

“Lão Lôi, có muốn thử cái này không?” – Dùng xong bữa, công tử tựa lưng bên giường, lấy ra một bình bích ngọc nhỏ, khoan thai hỏi – giữa hai đầu ngón tay là một viên thuốc màu xanh nhạt, to bằng hạt đậu, tỏa ra hương thơm dịu nhẹ.

Không biết đây là lần thứ bao nhiêu được mời thứ thuốc này rồi, nhưng Hoắc Thanh Lôi vẫn cảnh giác lắc đầu, và đáp lời như mọi khi – “Thuộc hạ không có bệnh, không cần uống thuốc ạ.”

Hắn không biết đó là thuốc gì – chỉ biết rằng công tử luôn mang nó theo người, suốt mười năm qua hầu như ngày nào cũng phải uống. Sau khi uống thứ thuốc kỳ lạ này, công tử bỗng trở nên ngẩn ngơ, mê mẩn, hơi thở chậm rãi, giống như chìm vào tiên cảnh, trên mặt bộc lộ niềm hoan hỉ phấn chấn, người bên cạnh nói gì cũng hầu như không nghe thấy.

“Thật là cố chấp... ngươi không thử một lần, cả đời sẽ hối tiếc.” - Công tử Thư Dạ thả một viên vào chén rượu, thuốc lập tức tan ra. Công tử nâng chén lên uống liền một hơi, nhắm mắt lại rồi thở dài – “Uống loại cựa lạc đơn này, có thể nhìn thấy bỉ ngạn Thiên Quốc.”

“Cực lạc đơn? Rốt cuộc đó là thứ gì?” - Hoắc Thanh Lôi không kìm được thắc mắc.

“Đó là gì ư?” - Công tử Thư Dạ lim dim mắt, khóe miệng hé cười – “Đó là tinh dầu cây gai… ngoài ra còn có nha phiến Thiên Trúc, mê điệp hương Ba Tư, cà độc dược Miêu Cương… những loại thảo dược này hòa trộn với nhau tạo thành một thứ thuốc kỳ diệu… chỉ cần ngươi thử qua ma lực của nó, liền có thể nhìn thấy tất cả những gì ngươi muốn… ngươi sẽ tin vào sự tồn tại của… thế giới cực lạc…”

Tiếng nói càng lúc càng nhỏ dần, đứt đoạn, rồi chìm vào đê mê.

Hoắc Thanh Lôi giật mình – “Ngài nói gì cơ? Nha phiến? Cà độc dược? Đó chẳng phải là những loại độc thảo hay sao?”

Nhưng công tử Thư Dạ lúc này đã nửa tỉnh nửa mê, hơi thở chậm dần, chậm dần.

Rồi bỗng nhiên y mở to mắt, ánh mắt ngẩn ngơ, mê dại, đồng tử màu lam sẫm dãn ra, tản mạn và vô định. Sau đó y chầm chậm ngồi dậy, mỉm cười, trên mặt có nét hoan hỉ kỳ lạ và niềm vui không thể nắm bắt, khiến Hoắc Thanh Lôi vừa kinh sợ, vừa phẫn nộ, không dám cất lời. công tử Thư Dạ mỉm cười với hư không, dường như cánh cửa mĩ lệ huyền ảo của chốn Cực lạc Thiên quốc đang từ từ mở ra trước mắt.

Vũ nữ tuyệt sắc vẫn đang xoay tròn trong vũ điệu, làn da bánh mật dưới ánh sáng của ngọc thạch và châu báu tỏa ra những sắc màu đắm say lòng người. Những chuỗi ngọc trai vẫn không ngừng phát ra tiếng động leng keng, tư thế nhảy múa mềm mại, uyển chuyển đến mê hồn.

“Hàiii…” – Bỗng nhiên công tử Thư Dạ thở dài một tiếng, ngồi trên giường, dang rộng hai tay. Được sự cho phép, vũ nữ kiều diễm kia quay lượn một vòng rồi sà vào lòng công tử. Đôi tay bánh mật mềm mại quấn quyện hông công tử, ngẩng mặt dâng lên bờ môi đỏ căng mọng.

Nhạc khúc đã đổi từ điệu “Thác Chi” sang điệu “Xuân Oanh Chuyển” đầy xa hoa, ướt át.

Hoắc Thanh Lôi vốn muốn đứng dậy hỏi chuyện gì đã xảy ra với công tử, nhưng nhìn thấy tình cảnh như vậy cũng chỉ còn nước vội vàng lui ra, một hàng vũ nữ xúm xít đi theo hắn ra ngoài. Vũ nữ đi cuối cho thêm một nhúm tô hợp hương và chậu vàng, thuận tay khép kín cửa lại.

Dược lực biến mọi thứ đều trở nên hư ảo phiêu diêu, dường như tất cả đều diễn ra đúng như những gì công tử mong đợi, bao gồm cả người con gái trước mắt – khi con người ta không thể đạt được một điều gì đó, sự lựa chọn duy nhất phải chăng là chỉ còn biết cố gắng không quên? Nhưng nàng lại đã quên y... Y đã đợi ở Đôn Hoàng mười năm trời, người y đợi chờ không ngờ lại đã quên như vậy? Nàng tại sao lại quên? Tự nguyện? Hay bị bức bách?

“Sa Mạn Hoa…” – Trong trạng thái ngơ ngẩn, mơ hồ, công tử Thư Dạ bất giác khẽ gọi, hai tay ghì chặt lấy vũ nữ tuyệt sắc, kéo nàng ngã trên chiếc giường phủ đầy da chồn tuyết, giật tung dây chuyền ngọc và yếm lụa đỏ, dụi đầu vào da thịt nàng, thì thào - “Sa Mạn Hoa… cuối cùng nàng đã trở về rồi sao?”

Vũ nữ đã quen với dáng điệu và xử sự của công tử sau mỗi lần uống thuốc, vẫn vuốt ve trìu mến, và nhẹ nhàng giúp công tử cởi bỏ tấm áo bên ngoài.

Giữa lồng ngực có một vết sẹo cực lớn nâu sẫm. Vũ nữ nhè nhẹ hôn lên vết sẹo.

Sáng sớm hôm sau, đẩy mĩ nhân đang say ngủ bên cạnh sang một bên, Đôn Hoàng thành chủ khoác áo đi ra. Bên ngoài gió cát lẫm liệt, cát vàng bao trùm toàn thành, bầu trời nhập nhạng sáng. Hoắc Thanh Lôi đã đứng đợi bên ngoài từ lâu, dường như cả đêm không ngủ.

“Sao dậy sớm vậy?” – Có vẻ như đã quên đi cơn say đêm qua, công tử Thư Dạ nhíu mày, thần thái trở lại với vẻ lạnh lùng, nghiêm nghị mọi khi. - “Lẽ nào đám mỹ nhân không hầu hạ ngươi chu đáo?”

Câu nói vừa dứt, một cú đấm mạnh đập thẳng vào ngực, khiến Thư Dạ như muốn bật lùi lại phía sau.

“Cao Thư Dạ, người thật điên rồ!” - Hoắc Thanh Lôi mặt mày đen kịt lại, nỗi tức giận trong lòng bấy lâu bùng phát, dường như quên đi sự phân biệt chủ tớ - “Công tử vẫn dùng loại mê dược đó ư? Muốn chết hay sao?”

“Hả? Hôm qua ta nói với ngươi là ta dùng mê dược à?” - Công tử Thư Dạ đã hết giật mình sau cú đấm, chợt cười đau khổ - “Ta quả thật đã trở nên lắm lời rồi... từ khi nàng ấy đến.”

“Nàng ấy?” - Hoắc Thanh Lôi giật mình, rồi nhanh chóng hiểu ra – “Người con gái của Minh giáo đến ngày hôm qua?”

“Sa Mạn Hoa... Sa Mạn Hoa.” - Công tử Thư Dạ thở dài, quay đầu lại nhìn vương quốc bí mật của mình – “Suốt bao năm qua, ta vẫn luôn đợi đến ngày nàng xuất hiện trước mặt ta, và rồi...” – Ngón tay y luồn vào bên trong vạt áo phía trước, đặt lên đúng chỗ vết thương giữa ngực – “Sau đó, giống như mười năm về trước, một mũi tên xuyên qua đây.”

“Gì cơ?” - Hoắc Thanh Lôi giật mình thảng thốt – “Mười năm trước người suýt mất mạng chính là do ả hại?”

“Đúng vậy!” - Công tử Thư Dạ khẽ gật đầu, khóe miệng lóe lên nụ cười đầy giày vò, dằn vặt, nhìn về cuối trời Tây, sau dãy cát vàng ẩn ước có thể nhìn thấy Tuyết Sơn nguy nga - “Lúc đó, ta và Mặc Hương chạy ra khỏi Đại Quang Minh cung, vượt leo vách đứng của Côn Luân Tuyết Sơn... Nàng cầm loan cung dưới núi, liên tục bắn ta mười ba tiễn. Tiễn cuối cùng xuyên qua ngực ta, ghim ta trên vách núi băng giá”.

“Thập tam tiễn...” - Nghĩ đến hôm qua trên thành nhìn thấy tiễn pháp kinh người của nữ tử kia, Hoắc Thanh Lôi rùng mình lạnh người, do dự, cuối cùng nhịn không được phải hỏi - “Nói như vậy, công tử quả thật đã đến Côn Luân Tuyết Sơn? Một thân tuyệt kỹ ngày nay cũng là học luyện từ đó mà ra? Nhưng... công tử bắt đầu dùng thứ mê dược kia từ hồi nào vậy? Cũng là từ lúc đó?”.

“Ha ha” - Công tử Thư Dạ vỗ tay lên lan can bạch ngọc, nhưng cười không nói gì, lại tựa hồ đầy dẫy tâm sự vô hạn.

“Công tử, trong quãng thời gian năm năm đó... rốt cuộc công tử đã gặp điều gì ở Côn Luân tuyết sơn?” - Hoắc Thanh Lôi vốn dĩ không phải kẻ nhiều chuyện, nhưng quả thật đến giờ hắn không sao kiềm chế nổi nỗi niềm thắc mắc bấy lâu trong lòng.

“Gặp được tiên cảnh.” - Bỗng nhiên công tử Thư Dạ phá lên cười.

“Tiên cảnh?” - Hoắc Thanh Lôi ngạc nhiên - “Côn Luân chim bay còn khó qua, tuyệt không có bóng người, làm sao lại có tiên cảnh cho được?”

Công tử Thư Dạ lắc đầu, mỉm cười - “Ngươi đã đặt chân tới nơi sâu thẳm nhất ở Côn Luân tuyết sơn chưa? Sao ngươi biết ở đó không có người? Ta nói cho ngươi biết, ở đỉnh cao nhất của Côn Luân tuyết vực, trên vách núi dựng đứng hàng vạn trượng, chính là tổng đàn Minh giáo Đại Quang Minh cung.”

“Đại Quang Minh cung?” - Hoắc Thanh Lôi thốt lên, nghĩ đến giáo phái đang bị vây đánh khắp Trung Nguyên – “Vậy giáo chủ Minh giáo, người được các nước Tây Vực tôn xưng là “Từ phụ”, là “Giáo vương”, cũng cư trú trên Côn Luân tuyết sơn?”

“Phải... Đó là nguyên nhân tại sao các giáo chủ đời trước của Minh giáo còn được các quốc gia Tây Vực gọi là Sơn Trung lão nhân.” - Nhắc đến cái tên đó, đến con người vốn lạnh lùng, ngang tàn như công tử Thư Dạ cũng phải trầm lặng đi, cất giọng điềm đạm – “Ngươi lẽ ra cũng đã phải nghe qua truyền thuyết về Sơn Trung lão nhân lưu truyền ở vùng Tây Vực chứ?”

Hoắc Thanh Lôi im lặng gật đầu, ánh mắt có phần kính nể kinh sợ và thận trọng. Làm sao có thể chưa từng nghe quá cơ chứ?

Truyền thuyết kể rằng, trên một đỉnh núi cao hiểm trở ở vùng cực tây Côn Luân, có một cung điện như một chốn thế ngoại đào nguyên, gọi là Đại Quang Minh cung. Đó là tổng đàn của Minh giáo, là nơi Giáo vương bao đời thường tiếp kiến giáo dân và các phân đàn. Đồng thời, tại đây cũng bồi dưỡng đội ngũ sát thủ khiến người ta chỉ nghe danh tiếng thôi cũng đã đủ kinh sợ. Các tiểu vương quốc vùng Tây Vực đều phải nhất nhất kính nể lão nhân đó – bởi vì ông ta khống chế lực lượng sát thủ hùng hậu vô cùng, quốc gia Tây Vực nào dám bất kính với Minh Tôn, vương quân nước đó lập tức sẽ bị thích khách giết chết.

Hơn hai mươi năm trước, Hồi Hột Khả Hãn tiền nhiệm vốn đã áp chế được Minh giáo, nhưng rồi không rõ tại sao lại bị chết bất đắc kỳ tử sau có một đêm, khi tuổi đời còn rất trẻ. Tiểu đệ của ông ta kế vị, tuyên bố lập Minh giáo làm quốc giáo, còn phái trưởng nữ yêu thương nhất là Mai Nghê Nhã tới Đại Quang Minh cung, về sau trở thành một trong ba vị thánh nữ của Minh giáo.

Được sự ủng hộ to lớn của Hồi Hột, thế lực của Minh giáo gia tăng mạnh mẽ, càng hưng thịnh hơn ở khắp các vùng Tây Vực, thậm chí còn thông qua cả con đường Tơ Lụa để đưa thế lực xâm nhập vào Trung Nguyên.

Đó là thời thịnh vượng nhất của thế lực Minh giáo. Nhưng rồi không biết vì sao, mười năm gần đây thế lực của Minh giáo đột nhiên giảm sút, sức uy hiếp cũng không còn mạnh như trước. Ngay cả khi công tử đại diệt giáo dân ở thành Đôn Hoàng, Đại Quang Minh cung cũng một mực không dùng thủ đoạn tàn độc nào, mà chỉ phái hai thích khách tầm thường đến hành thích, công tử chẳng tốn mấy sức lực để giải quyết chúng nhanh gọn.

Nghĩ đến đây, Hoắc Thanh Lôi không khỏi lắc đầu lẩm bẩm – “Sát thủ do Đại Quang Minh cung phái ra chỉ có bấy nhiêu thôi sao?! Chắc là các võ sĩ của Tây Vực võ học cũng không thật cao siêu, nên mới để đám thích khách đó dễ dàng lấy đầu quân vương.”

“Ngươi chỉ nghĩ mấy tên sát thủ Đôn Hoàng đó đại biểu cho trình độ sát thủ của Đại Quang Minh cung sao?” - Công tử Thư Dạ bật cười, gương mặt ngạo nghễ, quay đầu nhìn Hoắc Thanh Lôi - “Ngươi phải hiểu rằng, nơi chuyên huấn luyện sát thủ trong tổng đàn Đại Quang Minh cung là Tu La Trường. Ở đấy các sát thủ được chia thành “Tam Giới” tùy theo năng lực cao thấp: Lục Súc Giới, Sinh Tử Giới và Quang Minh Giới. Mấy tên thích khách đến Đôn Hoàng nếu không phải là phế vật ở Lục Súc Giới thì cùng lắm cũng chỉ là mấy tay mới lọt vào Sinh Tử Giới! Sát thủ chân chính đạt trình độ “Quang Minh giới”, e rằng sau mười năm còn chưa bồi dưỡng nổi!”

Hoắc Thanh Lôi giật mình ngạc nhiên, nhưng không dám hỏi tiếp – “Công tử sao lại nắm rõ nội bộ Đại Quang Minh cung của ma giáo như vậy?”

Dường như hiểu được sự hoài nghi trong đầu thuộc hạ, công tử Thư Dạ mỉm cười. Không biết tại sao hôm nay công tử lại kể về những chuyện xảy ra trong quá khứ bí ẩn mà không hề có ý định che giấu - “Mười lăm năm trước, khi đến Đại Quang Minh cung, ta cũng từng là một sát thủ thuộc Lục Súc Giới, mạng như cỏ rác – giống như Mặc Hương vậy.”

“Mặc Hương?” – Mười năm nay, Hoắc Thanh Lôi đã nhiều lần nghe công tử mình lẩm bẩm nhắc đến cái tên đó. Có lẽ chỉ có người tâm phúc như hắn mới biết rằng, người mang tên Mặc Hương đó là người duy nhất được công tử coi là “bằng hữu”.

Công tử Thư Dạ đứng dựa lan can trông ra xa, giữa ánh châu ngọc sáng ngời, ánh mắt lại vô cùng hoang vắng, u sầu, tựa như đang hồi ức về quá khứ xa xăm. Thế sự như một băng tuyết... Khi tất cả mọi thứ đều tan thành mây khói, những chuyện xưa ở Côn Luân đã bị trận băng tuyết đó chôn vùi đến nay công tử chưa từng kể cho ai biết.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 7-2-2013 14:39:33 | Xem tất
HỒI 4: CỰC LẠC THIÊN QUỐC


Mười lăm năm trước khi bị đưa đến Đại Quang Minh cung, Thư Dạ mới có mười ba tuổi.

Đại kiếp đầu tiên trong cuộc đời thật chóng vánh, xuyên vượt bể Hãn Hải cát vàng, bị mang lên tuyệt đỉnh Côn Luân, một công tử được cưng chiều từ nhỏ xém chút đã đông đá mà chết. Lúc đó, một hài tử đồng hành quần áo rách mướp, ăn rau trừ bữa đã lẳng lặng chiếu cố đến y, không những chia sẻ thức ăn nước uống cho y lúc sinh bệnh, lên đến Tuyết Sơn không ngờ còn cởi cái áo bông rách nát duy nhất, xé phân nửa nhét trước ngực áo y.

Trôi dạt cơ cực trên Tuyết Sơn, y đã kết bạn chi giao sẵn sàng liều chết vì nhau với đứa bé đó. Hài tử đó không có tên, nghe nói là một trong ba trăm thiếu niên nô lệ mà Hồi Hột Khả Hãn hiến dâng cho Giáo vương.

Cho đến sau này, hài tử đó trở thành đệ nhất cao thủ của Tu La Trường, sau khi được Giáo vương ban tặng “Mặc Hồn”, mới tiện đó mang cho mình cái tên: Mặc Hương.

Chúng là hai đứa trẻ mới đến, khi tới Đại Quang Minh cung, được xếp vào Lục Súc Giới, nơi xuất phát điểm của những đứa trẻ không biết chút võ thuật nào để huấn luyện trở thành sát thủ, mạng người bị coi rẻ như súc sinh. Tuy ở đó nhân số ban đầu phức tạp, nhưng vì mức độ đào thải kinh hồn, cuối cùng có thể còn sống sót chỉ thưa thớt một số ít. Khảo nghiệm học nghệ gần như tàn khốc: cứ hai tháng sẽ có một cuộc quyết đấu, trong đó chỉ có một kẻ sống sót.

Bởi vì trong Lục Súc Giới cổ vũ khích lệ hành vi ám sát lẫn nhau giữa các sát thủ, cả sau lúc huấn luyện ra, mỗi một người vô luận là đang nghỉ ngơi, ăn uống, tắm rửa đều không dám sơ suất. Bởi vì chỉ cần có chút xíu không phòng bị, lúc nào cũng đều có thể gặp nguy cơ bị đồng bạn giết chết.

Ai cũng đều không dám tín nhiệm người kề bên, ai cũng đều không dám thả lỏng tâm tư, ai cũng đều không quên nắm bắt mọi cơ hội có thể giết chết đồng bạn.
Mỗi người đều cần cù khổ luyện, chỉ mong mau chóng nâng cao kỹ năng ám sát và võ nghệ của mình, mỗi người đều tự mình phấn đấu. Nhưng cả Lục Súc Giới vẫn có một đôi sát thủ đã trở thành chí hữu: đó là y và Mặc Hương. Bọn họ cùng luyện tập kỹ nghệ, luân lưu đề phòng ngoại nhân, bọn họ dựa dẫm vào nhau, vượt qua giai đoạn đào thải nghiêm khốc nhất năm đầu tiên ở Lục Súc Giới.

Một năm sau, trong gần một ngàn thiếu niên tiến nhập Lục Súc Giới, chỉ còn lại thưa thớt hai mươi mấy người còn sống, tiến nhập Sinh Tử Giới, trong số đó có y và Mặc Hương. Bọn họ bằng vào chiến tích toàn thắng, cùng dựa vai ra khỏi Lục Súc Giới của Tu La Trường.

Mười bốn tuổi, chúng bắt đầu trận quyết đấu đầu tiên ở Sinh Tử Giới. Với thành tích nội trong mười chiêu đã có thể chặt đầu đối phương, Thư Dạ đã đạt được danh hiệu “ Ngũ minh tử” của Sinh Tử Giới, được ban tặng áo Thiên Tàm hộ thân và bắt đầu được truyền thụ võ công Thánh Hoả Lệnh.

Trong giờ tắm, ngâm mình trong làn nước mát, Thư Dạ không giấu được niềm vui sướng, bèn tâm sự với người bạn thân. Nào ngờ Mặc Hương nghe thế, thản nhiên nói – y đã được ban áo Thiên Tàm và đã tập luyện võ công Thánh Hoả Lệnh cách đây một tháng.

Lúc ấy, cảm giác đầu tiên thua kém người khác khiến Thư Dạ vừa tủi hổ, vừa phẫn nộ, tính hiếu thắng bỗng chốc bùng lên mạnh mẽ.

Từ đó trở đi hai người tập luyện võ công với nỗ lực phấn đấu đến chính bản thân cũng phải kinh ngạc. Mỗi lần nhập cảnh đều với tốc độ cực kỳ nhanh chóng. Thứ động lực đó không những tạo ra tín niệm sinh tồn giữa những giết chóc tàn khốc, không ngờ còn khơi dậy trong lòng ý chí thiếu niên không phục không chịu thua một chút nào. Đó tựa hồ đã trở thành lực lượng tranh đấu cầu sinh duy nhất dưới hoàn cảnh gian khổ ác liệt của bọn họ.

Sự xuất sắc của hai người đã làm chấn động cả Sinh Tử Giới, thậm chí Giáo vương ở vị trí tối cao cũng nghe đếnn tên của hai sát thủ trẻ tuổi, lấy danh nghĩa “Từ Phụ” ban cho Mặc Hương thanh kiếm “Mặc Hồn” và ban cho Thư Dạ thanh kiếm “Thừa Ảnh”. Khi cùng quỳ gối trước ngọc toạ để đa tạ Giáo vương, hai người nhìn nhau, rồi bất giác cùng phá lên cười.

Nụ cười ấm áp đầy thiện chí đó đâm xót ánh mắt của mỗi một giáo đồ Minh giáo: trong Tu La Trường, nụ cười đó không biết đã bao lâu rồi chưa từng xuất hiện qua.

Trong giờ phút đó, trong ba vị thánh nữ đang đứng nhìn từ đằng xa, thiếu nữ trẻ tuổi xinh đẹp nhất khẽ mỉn cười. Cô bé xung quanh người phát ra ánh sáng dịu dàng lợt lạt đó tóc dài ngang vai đen nhánh, trên trán cột dải lụa, bên trên dải lụa lấp loáng ánh sáng đá quý. Bên dưới bảo thạch, đôi mắt nàng sáng như sao trời, hoàn toàn khác biệt với hai vị Thánh Nữ đoan trang lặng im đứng kề bên.

Nhưng rồi mệnh lệnh được ban xuống, trận quyết chiến cuối cùng của Sinh Tử Giới: Thư Dạ đấu với Mặc Hương!

“Cái gì? Giáo vương đó thật là một tên điên!” - Nghe đến đó, Hoắc Thanh Lôi nhịn không được thoát miệng la lên - “Tại sao lại muốn hai người quyết sinh tử? Đó không phải là làm hao tổn mất một tinh anh sao?”

Công tử Thư Dạ cười cười, trong mắt lấp lánh hàn quang:

“Phải, đương thời ta cũng không minh bạch. Cho đến sau này... ta đã biết được thế tình nhân tâm, mới minh bạch dụng ý của Giáo vương: chính là nụ cười cuối cùng của bọn ta đã khiến cho Giáo vương khơi lòng cảnh giác. Lão không thể dung dưỡng dạng “bằng hữu” đó trong Tu La Trường, không thể dung dưỡng vũ khí sát nhân có cảm tình của riêng mình. Lão sợ có một ngày hai người bọn ta sẽ liên thủ tạo phản, liền phải cắt đứt mối quan hệ giữa ta và Mặc Hương ngay!”

Hoắc Thanh Lôi kinh hãi không nói gì, một hồi lâu sau mới thấp giọng hỏi – “Cuối cùng... công tử đã giết Mặc Hương?”

Đã là cho đến hôm nay công tử còn sống đứng ở đây, vậy kết quả của trận chiến đó đã thấy rõ rồi.

Công tử Thư Dạ nhướng mày cười cười, vừa ngạo nghễ vừa tự hào – “Không, ta và Mặc Hương liên thủ giết người giám trường, trưởng lão Diệu Phong.”

Mỗi một đôi sát thủ tiếp nhập Tỷ Võ Trường, chỉ có một người có thể sống sót đi ra. Minh giáo kiến lập trăm năm nay, quy tắc quyết đấu của Tu La Trường chưa từng có ngoại lệ. Nhưng đôi thiếu niên kinh thế đó mười ba năm trước đã viết lại lịch sử của Tu La Trường.

Sau trận quyết chiến, cánh cửa mở ra, thật bất ngờ, hai thiếu niên trẻ tuổi kề vai nhau cùng bước ra, nhìn mọi người trong Đại Quang Minh cung với nụ cười ngạo nghễ, Mặc Hương tay xách một chiếc đầu người bê bết máu ném về phía ngọc tọa của Giáo vương, đó là đầu của người giám trường - Diệu Phong!

Tất cả các giáo đồ trong Đại Quang Minh cung, bao gồm cả Tam Thánh Nữ đều thốt lên kinh hãi.

“Bọn ta có thể vì Giáo vương mà đi giết bất cứ người nào, nhưng tuyệt không giết huynh đệ mình!” - Hai vị thiếu niên vai kề vai, trên hai thanh trường kiếm đẫm máu, hai người bọn họ vết thương đầy mình, nhưng trong ánh mắt chiến ý và sát khí như liệt hỏa bừng cháy, hệt như hai con thú nhỏ bị bức đến tuyệt cảnh, bất chấp mọi thứ muốn phản công lại tất cả những người uy hiếp đến sự sinh tồn của chúng.

Các trưởng lão và sứ giả của Đại Quang Minh cùng đứng cả dậy, bao vây lấy hai thiếu niên và sát khí đằng đằng.

Bỗng nhiên thánh nữ nhỏ tuổi nhất cất tiếng – “Xin đừng!” - Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Tinh Thánh Nữ quỳ xuống – “Từ phụ, xin người hãy nể tài năng của họ mà tha cho tội bất kính!”

Bóng người trên ngọc toạ trầm hồi lâu, đến khi không khí căng thẳng dồn nén tới mức không chụi nổi nữa, chợt cất tiếng cười – “Hãy cho chúng vào Quang Minh Giới!”

Lúc này, Thư Dạ và Mặc Hương mới thở dài nhẹ nhõm, và thầm cảm kích tiểu thánh nữ đã cứu mạng mình.

Sang năm thứ ba trên Côn Luân, y và Mặc Hương cùng tiến nhập Quang Minh Giới. Đó là cảnh giới tối cao của đám sát thủ trong Tu La Trường: vượt qua Lục Súc và Sinh Tử lưỡng Giới, đến Đại Quang Minh. Đó là tượng trưng của ba năm khổ luyện cuối cùng xuất đầu, trong quá trình đào thải nghiêm khốc, chỉ có một số cực ít sát thủ có thể sống còn tiến nhập Quang Minh Giới. Trong số ba bốn trăm thiếu niên cùng vào đến Đại Quang Minh cung, chỉ có mười hài tử còn sống. Người còn sống đều trở thành sát thủ tinh anh hàng đầu của Đại Quang Minh cung.

Hơn nữa, người chịu trách nhiệm về Quang Minh Giới chính là Nhật Nguyệt Tinh Tam Thánh Nữ.

Nhật Thánh Nữ Tô Tát San là con gái của quốc vương Ba Tư, trán cao, mắt xanh thẫm, tóc dài lấp lánh vàng chói, biểu tình trắng nhợt nghiêm túc. Nàng chấp chưởng Giáo Nghĩa Dụ Kỳ của Quang Minh Giới, hàng ngày có nhiệm vụ giảng thuật giáo nghĩa, dùng đủ thứ phương pháp lặp đi lặp lại không chán ngán không ngừng nghỉ chỉ dạy cho đám sát thủ thiếu niên rằng – Minh tôn là chúa tể duy nhất, chỉ có đem sinh mệnh và tâm linh dâng hiến cho Minh Tôn, sau khi chết mới có thể tới Lạc viên Thiên quốc, được hưởng khoái lạc vô bờ bến.

Nguyệt Thánh Nữ Mai Nghê Nhã là công chúa Hồi Hột, do địa vị bá chủ của Hồi Hột ở Tây Vực, thân phận của nàng trong giáo cũng cực kỳ hiển hách. Nàng trực tiếp tiếp nhận mệnh lệnh từ Giáo vương, thống lĩnh một đám sát thủ tinh anh, sắp xếp những vụ ám sát chấn động ở Tây Vực. Vị công chúa Hồi Hột đó cả nam nhân cũng khó lòng bì kịp thủ đoạn độc lạt quyết đoán, hành sự chu mật, từng bước từng bước vững chắc, được sự tín nhiệm sâu đậm của Giáo vương.

Tinh Thánh Nữ Sa Mạn Hoa là trẻ tuổi nhất, chính là thánh nữ đã lên tiếng xin cho hai người họ ngày hôm đó. Nghe nói Sa Mạn Hoa nguyên là thần nữ Bái Nguyệt Giáo ở Miêu Cương, tên của nàng lấy từ một loại thánh hoa của Bái Nguyệt giáo: Mạn Châu Sa. Bái Nguyệt giáo bị võ lâm Trung Nguyên gồm chung với Minh giáo như là hai đại ma giáo, mấy năm trước đã kết minh cùng Đại Quang Minh cung, vì để biểu thị thành ý, liền phái Nguyệt Thần Nữ đến Côn Luân Tuyết Vực. Cho nên trên mình thiếu nữ gần mười ba tuổi đó nắm được võ học tinh thông nhất của hai giáo phái: Minh giáo và Bái Nguyệt giáo.

Sa Mạn Hoa xuất thân không cao quý bằng hai thánh nữ kia, lại nhỏ hơn họ năm sáu tuổi. Lúc Thư Dạ và Mặc Hương vào Quang Minh giới nàng mới mười ba tuổi, tính còn trẻ con và cơ thể chưa trưởng thành. Thế nhưng điều khiến các sát thủ kinh ngạc đó là, tiểu thánh nữ này lại là người truyền dạy võ thuật cho cả Quang Minh Giới.

Lần dạy kỹ thuật tấn công đầu tiên, thiếu nữ này đã biểu diễn một màn võ nghệ tuyệt đỉnh với chiếc ngân cung màu bạc, mười tiễn liền đều ghim trúng mép áo của mười sát thủ, khiến hàng trăm thiếu niên mới vào Quang Minh giới phải khiếp sợ và bái phục. Sau đó, thiếu nữ ngồi trên sư tử trắng ấy mỉm cười nói với bọn họ bằng giọng điệu tinh nghịch và có phần hãnh diện – “Hãy gọi ta là sự phụ!”

Rất nhiều năm trôi qua, bao lần tỉnh ngộ sau những giấc mơ, và bao lần giấc mơ tan vỡ, Thư Dạ không sao quên được cảm giác năm mười lăm tuổi khi lần đầu gặp Sa Mạn Hoa. Trên thế giới này sao lại có thể có dạng nữ tử như vậy? Giống như một cơn mộng tan vỡ, tuyết bay giữa không trung mà rơi rớt.

Có thể do tuổi còn nhỏ, hoặc có thể do chỉ biết chú tâm vào võ thuật, Tinh Thánh nữ Sa Mạn Hoa hoàn toàn không giống hai sư tỉ mình, thậm chí là khác hẳn so với tất cả mọi người trong Đại Quang Minh cung. Nàng xuất thân từ Bái Nguyệt giáo, nên không quá sùng bái giáo nghĩa của Minh Tôn, hơn nữa nghĩ đến việc nàng vẫn phải tín phụng Nguyệt thần, nên Giáo vương cũng không miễn cưỡng nàng. Nàng vẫn còn là một đứa trẻ, trong ánh mắt vẫn còn nhìn thấy nụ cười nhí nhảnh, hồn nhiên và sự quan tâm ấm áp chân thành, khác hẳn với những giáo quan tàn nhẫn, vô tình ở Lục Súc Giới và Sinh Tử Giới trước đó. Nàng chỉ dẫn tận tình, chu đáo, thỉnh thoảng cũng có nghiêm khắc nhắc nhở đám sát thủ phải chuyên tâm tập luyện, nhưng lý do đôn đốc là – “Nếu các ngươi không muốn mất mạng trong lần thực hiện nhiệm vụ sắp tới thì hãy cắn răng mà tập luyện.”

Đám sát thủ như đuợc tắm trong là gió xuân dịu mát. Chúng đã từng trải qua thời gin ở Lục Súc Giới, khi tính mạng bị coi như cỏ rác, thời gian ở Sinh Tử Giới tàn khốc ác nghiệt. Giờ đây khi tới Quang Minh giới, lần đầu tiên nhận được ự dịu dàng ấm áp, từ sâu thẳm trong lòng, ai nấy đều vô cùng cảm kích.

Nhiều năm sau khi trở thành Đôn Hoàng thành chủ, công tử Thư Dạ nghĩ - phải chăng đó là sự sắp đặt khéo léo của Giáo vương? Để cho một thiếu nữ xinh đẹp và không hề có chút sát khí nào cai quản Quang Minh giới, khiến cho đám sát thủ tuân phục hoàn toàn.

Ban đầu, giống như những người bạn khác, Thư Dạ đã âm thầm ngưỡng mộ và yêu mến tiểu thánh nữ.

Y đã ngắm nhìn dáng điệu thanh thoát của nàng khi ở trên tỷ võ trường, và ghi nhớ từng lời nói, từng nụ cười, thậm chí là từng tấc đất nàng đi quan từng đồ vật nàng chạm vào, len lén hôn lên hình bóng của nàng ở trên tường mà hồn vía như ở trên mây.

“Ha ha ha... thật điên rồ phải không?” - Người kể bỗng nhiên dừng lại và cười phá lên, quay đầu nhìn Hoắc Thanh Lôi đang lắng nghe chăm chú – “Lão Lôi, ngươi không tưởng tưởng được dáng vẻ tẩu hoả nhập ma của ta lúc đó phải không?”

Hoắc Thanh Lôi lúng túng lắc đầu - Thành chủ thiếu niên anh tuấn, quyền thế kim tiền không thiếu thứ nào, nữ sắc hễ muốn là có, trong Oanh Sào nuôi vô số mỹ nữ từ đủ các quốc gia. Suốt bao nhiêu năm qua, hắn chưa từng thấy công tử thực sự lưu tâm đến một người con gái nào, đã ngần đấy tuổi mà dường như vẫn chưa từng có ý định lấy vợ, lúc nào trông cũng lãnh đạm, lạnh lùng.

“Cả ta cũng không tưởng tượng nổi bộ dạng của mình lúc đó” - Công tử Thư Dạ trường y bay phấp phới, ngón tay gõ gõ trên lan can bạch ngọc, cười lạnh - “Có thể lúc đó ta mới mười sáu tuổi, lại ở địa vị thấp kém như vậy, ngươi tưởng tượng không ra tâm tình của ta lúc đó đâu. Ta thật điên lên vì yêu nàng! Hầu như mọi người đều phải trải qua bộ dạng điên cuồng đó, trong đời phải có một hai lần. Tỷ như Lục Cơ đối với ngươi, tỷ như Sa Mạn Hoa đối với ta.”

“Lúc đó, cả ngày trời ta hồn xiêu phách lạc, không sao tập trung được để tập luyện võ công. Kết quả là trong một lần hành động, Mặc Hương vì cứu ta mà suýt nữa gặp nguy. Sau đó y cảnh cáo ta: Nếu cứ như thế, có ngày ta sẽ hại chết y mất.” - Ánh mắt công tử Thư Dạ bỗng nhiên sáng lên – “Ta có thể không cần mạng sống của mình, nhưng không thể không quan tâm đến tính mạng của huynh đệ! Từ đó trở đi, ta lại chuyên tâm vào võ thuật, mỗi lần đều không dám nhìn thẳng vào Sa Mạn Hoa, chỉ nghe thật kỹ từng lời nàng nói và rồi vùi đầu tập luyện.”

“Hai tháng sau ta đuổi kịp tiến độ của Mặc Hương. Sa Mạn Hoa thường khen ta và Mặc Hương là hai sát thủ xuất sắc nhất của Quang Minh Giới.” - Công tử Thư Dạ cười đau khổ - “Nhưng hễ động thủ đánh với nàng là ta lại thua một cách thảm hại. Sa Mạn Hoa còn nhỏ tuổi, nên chỉ thấy kinh ngạc về điều đó, đã cho chúng ta thêm thời gian tập luyện. Nhưng hai năm sau, cho đến khi ta mười bảy tuổi, vẫn không thể qua nổi hai mươi chiêu của nàng, thậm chí càng ngày càng tệ, gần như không chịu nổi một chiêu... Nhưng mặt khác dù được giao nhiệm vụ có khó khăn gian khổ đến đâu, ta cũng hoàn thành một cách dễ dàng và suôn sẻ, khiến nàng càng ngày càng ngạc nhiên.”

“Ha ha...” - Hoắc Thanh Lôi không nhịn nổi cười, nhưng mới cười lên một tiếng đã vội nín lại, sợ công tử tức giận.

Nhưng công tử Thư Dạ chỉ mỉm cười, dường như đang mải mê hồi tưởng lại quá khứ, tâm trạng chưa bao giờ yên tịnh, an lành như thế - “Ba năm trôi qua, Sa Mạn Hoa ngày càng đẹp. Nàng không ngạc nhiên trước sự thất thường của ta nữa, hình như nàng đã dần tự hiểu và càng thân thiết với ta hơn. Khi đó ta và Mặc Hương đã trở thành những cao thủ thực sự, vì thế để chúng ta thêm tin phụng Minh Tôn, Nhật Thánh Nữ Tô Tát San bắt đầu cố gắng miêu tả cho chúng ta nghe về cảnh tượng của chốn Cực lạc Thiên quốc, rằng nếu hết mình cống hiến sinh mạng và linh hồn cho Minh Tôn, sau khi chết sẽ được bay lên chốn Cực lạc ở thế giới bên kia, nơi có tất cả những gì mà con người mong muốn.”

“Chốn Cực lạc?” - Hoắc Thanh Lôi giật mình, sắc mặt nghiêm trọng dần - cuối cùng công tử đã nói về điều quan trọng nhất!

“Đúng, chốn Cực lạc. Một ngày, Tô Tát San dẫn chúng ta đến trước Thánh Hoả, rồi đưa mỗi người một chén rượu, nói rằng uống xong sẽ thấy được Cực lạc Thiên quốc. Chúng ta liền uống ngay lập tức, sau đó...” - Sắc mặt công tử bỗng nhiên trắng bệch, nhìn quanh Oanh Sào, lẩm nhẩm – “Cửa của chốn Cực lạc quả nhiên đã từ từ mở ra trước mắt chúng ta.”

Tất cả những gì ở đó khiến những thiếu niên trẻ tuổi lần đầu bước tới không khỏi ngạc nhiên và bỡ ngỡ: Một thế giới với đầy vàng bạc, đá lưu ly và đá quý. Những cây hoàng kim bát bảo, dòng suối xanh như ngọc, đâu đâu cũng thấy rượu nồng, sữa thơm, mật ngọt, và những đoá hoa bảo thạch bất tử. Giữa quang cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, bao loài chim kỳ lạ đang cất cao tiếng hót, bao loài thú chưa bao giờ thấy đang thong thả dạo chơi. Bên bờ suối, trong rừng, trong mê lầu, là những nam thanh nữ tú luôn mỉm cười và sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của du khách.

Sau bao ngày khổ cực tập luyện, những sát thủ trẻ tuổi nhanh chóng chìm đắm trong chốn Cực lạc diệu kỳ. Điều duy nhất khiến td có phần hoài nghi đó là, tại sao ngóng tìm mãi, vẫn cảm thấy cảnh vật xung quanh không có thực – Thân thể người thiếu nữ mềm mại, nuột nà trong vòng tay, rượu ngon tỏa hương thơm nồng, thậm chí đến cả vết thương đằng sau lưng khi đi làm nhiệm vụ nửa tháng trước cũng hoàn toàn không còn đau nữa. Tất cả những điều kỳ diệu này, sao lại có thể có ở chốn phàm trần?

Những người đồng môn cùng đến đã không chần chừ tìm đến những mĩ nữ để vui thú, đến cả Mặc Hương cũng vậy, chỉ có y là vẫn ngẩn ngơ tự hỏi: Nếu Lạc viên có tất cả những gì con người ta muốn có, vậy thì... tại sao không thấy nàng? Sa Mạn Hoa!

Thiếu nữ trong vòng tay đầy nhiệt tình và nóng bỏng, bằng đôi môi đỏ mọng và những ngón tay linh hoạt, mềm mại, đã khơi gợi dục vọng của một gã nam nhi đã bị đè nén trong bao năm tập luyện khắc khổ. Y nhanh chóng thấy người mình rạo rực, cố xua đuổi hết những nghi vấn trong đầu – dù sao đây cũng chỉ là trong mơ... việc gì phải suy nghĩ nhiều quá như vậy?

Y nóng lòng đẩy mỹ nữ ngã xuống, động tác mạnh mẽ và có phần thô lỗ. Nhưng mỹ nữ không hề để ý đến điều đó, mỉm cười và áp sát cơ thể nóng bỏng của mình vào người y... Nhưng rồi chốc lát, Thư Dạ cảm thấy có cảm giác kỳ lạ, bất chợt ngẩng đầu - một ánh mắt thấp thoáng sau tán cây rậm rạp bỗng nhiên biến mất.

Chỉ một cái nhìn đó thôi, Thư Dạ thấy người mình lạnh toát. Là nàng! Nàng đã nhìn thấy... nàng đã nhìn thấy ta...

Y lập tức bật dậy, đuổi theo nàng. Đằng sau tán cây không có một bóng người. Nhưng do vội vàng bỏ đi, nàng đã để lại một sợi tóc dài mềm mại bay phất phơ trên cành lá. Y gỡ sợi tóc ra, thẫn thờ quay trở lại, ngồi phệt xuống đất và không ngừng tu rượu, sau đó trong cơn giận dữ còn tiện tay đẩy bay mĩ nữ kiều diễm ban nãy.

Đó là Sa Mạn Hoa... Người nấp sau bóng cây nhìn ta chính là Sa Mạn Hoa!

Ánh mắt ấy đã đi theo Thư Dạ từ đó cho đến nay, cả đời không thể nào quên. Trong đó ẩn chứa thật nhiều cảm xúc lần đầu mới bộc lộ: thất vọng, phẫn nộ, đau thương... và... tình yêu. Tất cả là một giấc mơ hão huyền, chỉ duy nhất có ánh mắt là thực sự ghi tâm khắc cốt.

Trong phút chốc, tất cả cảnh tượng phồn hoa, lộng lẫy trước mắt y như tàn thanh mây khói, những mỹ nhân yêu kiều, cung điện nguy nga, những loài thú lạ,.. đều mờ đi trước mắt. Y chỉ còn biết vùi đầu vào rượu, rồi chìm vào hôn mê lúc nào không hay.

Những sát thủ trẻ khi tỉnh dậy thì đã thấy mình ở trong căn phòng tăm tối và lạnh lẽo. Mọi thứ không có gì thay đổi. Trong mắt mọi nguời đều thấp thoáng nỗi thất vọng.

Lúc này, Nhật Thánh Nữ xuất hiện, nghiêm khắc nói – “Các ngươi đã được đến Lạc viên Thiên Quốc, đã tin vào sự tồn tại của nó rồi chứ? Đó là nơi linh hồn của mỗi giáo đồ trở về, chỉ cần các ngươi tận tâm với Minh giáo, sau này sẽ được tới Lạc viên, được hưởng hoan lạc mãi mãi.”

Tất cả mọi người đều vỗ tay hoan hô, chỉ có Thư Dạ là trầm ngâm, trong mắt ánh lên vẻ nghi ngờ. Thư Dạ luồn tay vào bên trong ngực áo, mân mê sợi tóc của Sa Mạn Hoa – đó là thứ chân thực duy nhất mang về từ chốn Lạc Viên ấy – và về sau vẫn luôn được y cất giấu cẩn thận trong ngực áo cho đến cái ngày bị mũi tên của nàng xuyên qua.

Ngày hôm sau, khi gặp Sa Mạn Hoa ở tỉ võ trường, trong lòng Thư Dạ có bao nhiều điều muốn nói nhưng không biết phải bắt đầu từ đâu, lại sợ sát thủ bên cạnh nghe thấy, nên đành day dứt mà nín thinh. Sắc mặt của Sa Mạn Hoa quả thật khác với mọi ngày, dường như đã mất đi sự hồn nhiên, mà thay vào đó là chút giận hờn, phẫn nộ. Khi hai người cùng tỉ thí, chân tay y bỗng nhiên lóng ngóng lạ lùng, chẳng thể động thủ, nhưng không ngờ lần này Tinh Thánh Nữ lại chẳng dung tình, liên tiếp hạ thủ, đến nỗi khiến y phải thổ huyết.

Những đồng môn bên cạnh đều giật mình hoảng sợ, chỉ có Mặc Hương đứng bên quan sát khẽ mỉm cười.

“Đừng uống thứ rượu mà Tô Tát San đưa nữa!” – Trước khi ra đòn cuối cùng, Sa Mạn Hoa nói một câu – “Nếu không ta sẽ đánh gãy xương sống ngươi!”

Thư Dạ biết mình đã sai, không hề đánh trả. Trong lòng gã chợt nghĩ, tất cả mọi thứ coi như đã hết, nàng thực sự đã nhìn thấy mình hôm đó.

Nhưng rồi, khi được dìu vào phòng nghỉ, nghe Mặc Hương thì thầm – “Đồ ngốc! Tinh Thánh Nữ rõ ràng là đã yêu ngươi, vì ngày hôm qua ngươi đến Thiên quốc vui chơi hưởng lạc, nên hôm nay nàng mới đánh ngươi như thế.”

Một kẻ vốn thông minh như Thư Dạ vậy mà đến giờ mới nhận ra điều đó... Không nén được niềm sung sướng, y hét lên thật to, khiến những kẻ sát thủ xung quanh phải giật mình quay lại.

“Ồ, tôi hiểu ra rồi – nơi công tử đến trước kia là một hoa viên bí mật như kiểu Oanh sào này.” – Nghe đến đây, người thô lỗ vô tâm như Hoắc Thanh Lôi cũng đã hiểu ra – “Thứ rượu Nhật Thánh Nữ cho công tử uống, có lẽ là loại mê dược tên là Cực lạc đơn?”

“Ha ha... đúng vậy. Đó là lòng từ ái mà “Từ phụ” dành cho chúng ta.” - Công tử Thư Dạ cười lạnh, nhìn vào khung cảnh đầy vàng bạc, lưu ly xung quanh, lẩm nhẩm – “Ta đã nghe lời dặn của Sa Mạn Hoa, không uống thứ mê dược đó nữa mà chỉ giả vờ mơ màng. Nhờ thế ta đã thấy Tô Tát San đưa từng tốp năm người đến mười người đồng môn của ta vào một hoa viên bí mật.”

Mê dược sản sinh ra hoang tưởng, biến tất cả mọi thứ xung quanh đều trở nên đẹp đẽ, tuyệt vời nhưng không chân thực: cảm quan trở nên nhạy cảm, vết thương không còn đau đớn, toàn thân lâng lâng bay bổng như đi vào tiên cảnh. Mọi thứ đều yên lành, ngọt ngào, khiến lòng người mê đắm, chỉ muốn vui đùa thỏa thích, quên hết tất cả. Chỉ sau ba đến năm lần đó, giấc mộng Thiên quốc đã chinh phục được lòng người. Những sát thủ của Quang Minh Giới không còn hoài nghi về sức mạnh của Minh Tôn, không còn hoài nghi về sự tồn tại của Lạc viên, đã trở nên rất mực trung thành mà quỳ gối trước ngọc tọa của Giáo vương. Những con người lớn lên trong sự khắc nghiệt, lạnh lẽo, cần biết bao giấc mơ tuyệt đẹp để sưởi ấm tâm hồn, và vì thế sẽ không thể thiếu được loại mê dược đó.

Từ phụ chỉ cần cho những thanh niên trẻ tuổi ấy một giấc mơ là đã có được cả linh hồn họ.

Những sát thủ tuổi đời chưa đầy hai mươi đã coi Giáo vương là hóa thân của Minh Tôn tối cao, coi mỗi câu nói của Giáo vương là thần dụ, họ không còn sợ chết, coi nhẹ sinh mệnh mình, muốn được trở về hoa viên sau khi chết, thậm chí còn coi cái chết là điều mong mỏi bấy lâu. Vì thế, mỗi lần đi thực hiện nhiệm vụ hành thích, họ đều không quản đến tính mạng, khi thất bại hay bị bắt đều không mảy mayrun sợ hay do dự, thậm chí chết đi rồi mà nụ cười vẫn còn nở trên môi.

Những tử sĩ dũng cảm như thế đã khiến tất cả các quốc gia vùng Tây Vực phải khiếp sợ, do đó không dám làm trái với bất cứ mong muốn nào của Minh giáo.

Tưởng tượng đến cảnh biết bao chàng trai trẻ đáng thương phải từ bỏ mạng sống mà không hề hay biết mình đã bị mê hoặc, Hoắc Thanh Lôi nổi cơn thịnh nộ - “Độc ác quá! Chính vì biết rõ chân tướng nên công tử mới liều chết thoát khỏi đó phải không?”

Nhưng công tử Thư Dạ lại lắc đầu, trầm mặc hồi lâu rồi nói – “Ta trốn thoát là vì Sa Mạn Hoa.”

Hoắc Thanh Lôi nhìn công tử Thư Dạ đầy thắc mắc. Thư Dạ giơ tay xoa nhẹ vết thương nơi ngực – “Ta không sợ Tu La Trường. Lúc đó chúng ta yêu nhau... chỉ cần có nàng, với ta địa ngục cũng hóa thành lạc viên. Nhưng những nhiệm vụ ta nhận được càng lúc càng nguy hiểm, lần nào Sa Mạn Hoa cũng lo sợ ta sẽ không thể quay lại. Còn ta, ta cũng trở nên biết quý trọng sinh mạng của mình hơn, hạ thủ cũng e dè hơn. Nếu không có Mặc Hương mấy lần âm thầm trợ giúp, thì ta đã chết từ lâu rồi.”

Thư Dạ thở dài, dường như đang hồi tưởng lại quá khứ năm nào – “Sa Mạn Hoa ngày nào cũng phải lo lắng sợ hãi, u sầu tới mức gầy hẳn đi. Nàng vốn là người của Bái Nguyệt giáo, lòng trung thành với Minh giáo cũng có hạn... Nàng đã quyết định cùng ta rời khỏi Đại Quang Minh cung. Nàng bí mật nói với ta: đi xuyên qua hoa viên sau ngọn núi, có một con đường nhỏ dẫn tới đỉnh núi Vạn Nhẫn, có thể thông ra thế giới bên ngoài. Vượt qua đỉnh núi đó là tới sa mạc rộng lớn.”

“Nàng ấy muốn cùng công tử trốn thoát?” – Hoắc Thanh Lôi ngạc nhiên hỏi.

Công tử Thư Dạ mỉm cười, khẽ gật đầu. Rõ ràng trong suốt bao năm qua y vẫn luôn cảm thấy vui sướng và được an ủi khi nghĩ tới quyết định đó của nàng. – “Chúng ta đã hẹn nhau vào giờ tý ngày mùng chín tháng chín, sẽ cùng trốn về Đôn Hoàng. Việc này đương nhiên hoàn toàn cơ mật, ta chỉ nói cho duy nhất mình Mặc Hương – y là huynh đệ của ta, ta không thể bỏ y được. Thế nhưng, ngoài dự liệu của ta, y đã không đồng ý.”

“Không đồng ý?” - Hoắc Thanh Lôi không nhịn được, thốt lên – “Rồi sau đó?”

Hỏi đến đây, hắn chợt dừng lại, bởi vết thương ở ngực của công tử đã trả lời cho tất cả nghi vấn đó.

Sa Mạn Hoa đã không thể cùng td trốn đi... công tử đã bất tỉnh khi ngựa trở về thành Đôn Hoàng, với mũi tên của nàng xuyên qua ngực. Không rõ là ai đã đưa công tử trở về, chỉ thấy trên đầu ngựa có khắc dòng chữ bằng máu: “Công tử Thư Dạ”

Hoắc Thanh Lôi chợt rùng mình. Lúc này, tì nữ đã tới, quỳ gối bẩm báo, bữa sáng đã chuẩn bị xong.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 7-2-2013 14:42:30 | Xem tất

HỒI 5: CÔNG TỬ LIÊN THÀNH


Công tử Thư Dạ thở dài khe khẽ, rồi không nói thêm gì nữa. Y khoác áo hồ cừu qua vai, quay đầu đi theo người đẹp vào sảnh đường. Ở đó đã bày biện chén vàng mâm ngọc, trân tu mỹ thực, nhưng Đôn Hoàng thành chủ ngồi ghế chủ tọa đại yến tối nay, đồ ăn thức uống không thua gì đại nội, lại nhắm nghiền mắt mi.

Hoắc Thanh Lôi nhẹ nhàng ngồi bên cạnh, không khí yên lặng đến nghẹt thở, ăn cũng không có chút cảm giác. Hóa ra công tử căm hận Minh giáo đến vậy là có lí do. Vì những ngày tháng sống không bằng chết đã trải qua trong Tu La Trường, cho nên y không chịu để Minh giáo tiếp tục khuếch trương, vào Trung Nguyên đầu độc càng nhiều người? Y không chịu để càng có nhiều thiếu niên trở thành sát thủ như y?

Bỗng nhiên có tiếng gió xuyên vù qua cửa sổ, tiếp theo một luồng ánh sáng kim loại loáng lên, công tử Thư Dạ không buồn ngẩng đầu, tay cầm con dao vàng đưa lướt qua chân của bồ câu đưa thư, cứa đúng vào sợi dây, ống thư bạch ngọc nằm gọn trong tay công tử. Trên ống bạch ngọc có khắc một chữ “Mặc”.

Hoắc Thanh Lôi nhanh chóng nhận ra đó là mật báo từ một người mà công tử thường xuyên nhận được trong suốt nhiều năm qua. Thế nhưng mặc dù là người được công tử tin cậy nhất, hắn cũng chưa bao giờ được nghe công tử kể về người đó – cho đến ban nãy lúc công tử hồi tưởng lại quá khứ, hắn mới biết đến chủ nhân của chữ “Mặc” đó nguyên lai là đồng bạn cùng vào sinh ra tử với công tử trên Côn Luân.

Con người như công tử... có thể coi một người là “bằng hữu” cũng là chuyện không dễ dầu phi thường!

Thấy công tử xé thư mật báo, Hoắc Thanh Lôi tính lui đi, nhưng công tử ra hiệu không cần. Một hồi lâu, sau khi đọc thư, thần sắc giữa đôi mày của công tử sáng tối bất định. Bỗng nhiên công tử đẩy ghế đứng lên, hỏi đám tì nữ bên cạnh – “Lục Cơ đã về chưa?”

Một tì nữ vội vàng cúi đầu bẩm – “Dạ thưa thành chủ, Lục Cơ về rồi ạ.”

“Về lúc nào?” – Công tử hỏi, mặt không hề biểu lộ cảm xúc.

“Canh ba đêm qua.” – Tì nữ mặt hơi biến sắc, hoảng sợ nói – “Thần thiếp đã nhắc nhở Lục Cơ rồi ạ.”

Hoắc Thanh Lôi vừa nghe y đề cập tới Lục Cơ, cũng hơi bối rối.

“Giỏi lắm... vẫn còn dám về cơ à?” - Công tử Thư Dạ cười khẽ, ánh mắt quắc lên, rồi chợt kéo Hoắc Thanh Lôi đi – “Ngươi chắc là nhớ ả lắm hả? Nào, chúng ta cùng đi thăm ả.”

Hoắc Thanh Lôi biết rõ là công tử đang giận, định cất tiếng cầu xin hộ. Công tử Thư Dạ thúc giục – “Đi thôi, đi thôi, ngươi còn chần chừ gì nữa? Đi theo ta, để xem ả lại sắp giở trò gì nào!”

Các tì nữ đã quen với những hỉ nộ bất thường của thành chủ, nên lập tức từ từ lui vào trong.

Những con đường ngoằn nghèo quanh co, đi từ Oanh sào đến cửa động giả dơn tưởng như đi qua thiên sơn vạn thủy, âm u và tĩnh mịch vô cùng. Hoắc Thanh Lôi chỉ cảm thấy mấy ngày nay công tử có vẻ khác với ngày thường, lại không nói ra được bất đồng chỗ nào. Hắn từ nhỏ đã là gia thần của Cao thị, từ lúc hiểu biết đã theo hầu công tử Thư Dạ, trung tâm không thắc mắc, kính công tử như người trời, không dám hỏi nửa câu dư thừa.

Đến cửa động, công tử Thư Dạ chợt dừng chân, nhìn chăm chăm về một phía, ánh mắt biến hóa khôn lường.

“Công tử?” - Hoắc Thanh Lôi khẽ nhắc. Nhìn theo ánh mắt của công tử, hắn giật mình: Giữa thành Đôn Hoàng, trên quảng trường diễn ra tế lễ ngày hôm qua, bỗng nhiên xuất hiện hai mươi cỗ quan tài được xếp ngay ngắn và đều tăm tắp. Xác những giáo đồ chết hôm qua không thấy đâu, rõ ràng là có người đã thu lượm.

Kẻ nào mà to gan đến vậy, dám ngỗ ngược làm trái ý thành chủ.

Xung quanh quảng trường, người dân và khách thương đang đứng nhìn từ xa, che miệng xì xào bàn tán gì đó, còn trong quảng trường chỉ có duy nhất một thanh niên trẻ tuổi mặc áo vải đay.

“Lão Lôi...” – Bỗng nhiên Hoắc Thanh Lôi nghe thấy công tử thở dài, rồi tay cầm vật gì đó đưa cho hắn – đó là một chiếc chìa khóa nhỏ màu bạc – “Cái này ngươi hãy giúp ta cất giữ - nếu một ngày nào đó ta không quay trở lại Đôn Hoàng nữa, ngươi nhớ giao nó cho tân thành chủ.”

“Gì cơ ạ?” - Hoắc Thanh Lôi giật mình, ngẩng đầu lên kinh ngạc nhìn công tử Thư Dạ đột nhiên lại nói ra những lời nói kinh người đó.

“Chớ hỏi nhiều, ngươi cứ nhớ lời ta dặn là được rồi.” - Công tử quay đầu lại, mỉm cười nhìn kẻ thuộc hạ trung thành – “Ngươi sẽ có thành chủ mới – Đôn Hoàng có thể sẽ đổi khác rất nhiều.”

Không để thuộc hạ kịp định thần, công tử Thư Dạ cất bước, vội vã đi men theo con đường lát đá.

Dao Hoa lâu vẫn u ám đổ nát. Màn treo sắc thái ảm đạm ủ rũ, mạng nhện giăng phủ khắp nơi, hơi đông sắp đến, gió luồn qua giấy dán song cửa rách nát, thanh âm phát ra như tiếng khóc tỉ tê.

Trong phủ của Đôn Hoàng thành chủ, Dao Hoa lâu vốn dĩ là tòa lầu đẹp nhất, ban đầu lão Thành chủ vì muốn làm vừa lòng tân phu nhân Dao Hoa, đặc ý dùng gỗ đàn hương Nam Hải và bạch ngọc trúc Lam Điền mà xây thành tòa lầu đó. Nhưng từ khi Dao Hoa phu nhân qua đời, căn lầu đó để không, bên trong chỉ có duy nhất một nữ nhân bị giam cầm – đó là thị nữ thân cận nhất của Dao Hoa phu nhân trước kia: Lục Cơ.

Công tử Thư Dạ dẫn theo Hoắc Thanh Lôi đi qua mười tám bức rèm mới nhìn thấy nữ tử đó.

Bị giam cầm suốt mười năm, thiếu nữ vốn trẻ trung xinh đẹp nay đã ngoài ba mươi, tuy trong Dao Hoa lâu mọi vật đều bất biến, nhưng nếp nhăn trên trán, tóc bạc bên màng tang đã đủ để tỏ bày năm tháng vô tình dạt trôi không trở lại. Thấy Đôn Hoàng thành chủ bước vào, lục y nữ tử thậm chí không buồn ngẩng đầu lên, vẫn tiếp tục chăm chú dùng cỏ thi bốc quả, rồi tung ra sàn.

Hoắc Thanh Lôi nhận ra vật Lục Cơ cầm trong tay là cỏ thi dùng để chiêm bốc.

“Ha ha ha...” – Nhìn những nhánh cỏ thi rơi trên sàn nhà, Lục Cơ chợt cười lớn, ngẩng đầu nhìn thẳng vào công tử Thư Dạ, cất giọng – “Đại hung. Ngươi sắp chết rồi... Cuối cùng cũng đến líc ngươi phải chết!”

“Lục Cơ!” - Hoắc Thanh Lôi vội vàng ngăn lại, sợ Lục Cơ tiếp tục nói lời vô lễ, khiến thành chủ nổi giận.

Nhưng công tử Thư Dạ lại vẫn không tái mặt, đứng yên tại chỗ, lạnh lùng nhìn mấy cọng cỏ thi rơi vãi dưới đất, y tịnh không hiểu biết gì về bốc thuật, nhưng đối với tiếng cười lạnh của nữ tử kia, y chỉ thò mũi chân ra, tùy ý dẫm loạn trên đám cỏ thi, sau đó gia tăng lực khí lên mũi chân, dày xéo nhè nhẹ, trong nháy mắt đống cỏ đã biến thành một đống bụi phấn li ti.

- “Cái gọi là mạng như cỏ rác, đại để là như vậy đó” - Trong góc lầu tối mờ, công tử Thư Dạ chợt mỉm cười - “Lục Cơ, ta biết Dao Hoa phu nhân đối với ngươi ân trọng như núi, sau khi bà ta chết, ngươi hận ta đến thấu xương, nhưng rất tiếc mạng của ta do ta định, không phải do trời định”.

Cái nhìn ngạo nghễ đó khiến cho tiếng cười của nữ tử im bặt hẳn, Lục Cơ nhìn Thư Dạ với ánh mắt hận thù – “Liên Thành đã trở về” - rồi lại cười như điên dại.

Tiếng cười của nữ tử đó vừa bén nhọn vừa cuồng dại, làm kinh động đến bầy chim tránh rét, vội vỗ cánh bay xa. Hoắc Thanh Lôi bỗng có cảm giác trước mặt là một người xa lạ, không phải là Lục Cơ của mười năm nay... Phụ nhân trước mắt là một phụ nhân u oán ác độc, thật chính là cô gái linh tuệ năm nào sao?

“Ngươi quay về phủ chỉ để báo cho ta điều này thôi sao?” - Công tử Thư Dạ vẫn không hề bộc lộ chút biểu cảm – “Liên Thành đang ở quảng trường thu lượm thi thể, sắp vào đến cửa, ngươi còn không mau ra tiếp đón con trai của ân nhân sao?”

Giọng điệu dửng dửng không một chút kinh ngạc, khiến cho Lục Cơ phải sững sờ.

“Ngươi thật làm ta thất vọng quá...” - Công tử Thư Dạ thở dài, lắc đầu – “Ta cứ tưởng ngươi quay về phủ tất có thâm ý gì đó, ai ngờ ngươi chỉ có thể nói ra vài lời cay độc ấy thôi sao?” - Rồi công tử quay đầu nhìn Hoắc Thanh Lôi đang đứng ngây người – “Ngươi đã thấy rồi chứ, Lão Lôi? Tiểu a đầu của ngươi từ lâu đã biến thành như vậy đó... cho nên ta nhiều lần muốn khuyên ngươi sớm từ bỏ ý định đó đi, nhưng ngươi khăng khăng muốn cưới ả cho bằng được. Đúng thật là ngu xuẩn!”

Công tử phẩy tay áo bỏ đi, để lại hai người giữa khoảng không u ám, tĩnh mịch.

Nghe câu nói cuối cùng của công tử Thư Dạ trước khi rời đi, ánh mắt Lục Cơ sáng lên đôi chút, ngẩng đầu lên nhìn người trong bộ quân phục tướng quân đang đứng trước cửa, nhưng rồi lại không dám nhìn thẳng, bèn cúi đầu xuống.

Tiểu Hoắc, Tiểu Hoắc, làm sao quên được? Lúc bị người ta mua vào đây, nữ nô cô khổ không ai giúp đỡ đã được thiếu niên tráng kiện nhiệt tình đó chiếu cố. Hắn là hài tử của một môn khách, gia thần của Đôn Hoàng Cao thị. Bọn họ đã cùng nhau trưởng thành. Gia thần và cung nữ, giày cỏ phối xứng giày cỏ, môn đăng hộ đối. Lúc đó tuy vai vế thấp hèn, thời thiếu niên lại xán lạn tươi vui, Dao Hoa phu nhân từng hứa, khi Lục Cơ mười tám tuổi, sẽ đến cầu xin thành chủ ban chuẩn hôn sự, gả cho Hoắc Thanh Lôi.

Thế nhưng năm ấy, vòng xoáy cay nghiệt của những mưu tính quyền lực đã khiến cho điều đó không thể thành sự thât. Phu nhân chết đi. Tình cảnh của ả cũng như là rơi từ trên cao ngàn trượng xuống, từ đó sống trong thù hận ấm ức.

“Lục nhi, nàng thực sự... đã thay đổi quá nhiều.” - Hoắc Thanh Lôi bối rối xoa xoa tay, không biết nói gì hay hơn, nhìn khuôn mặt phụ nhân già nua chỉ cảm thấy tim mình đau nhói – “Hà cố phải khổ như vậy... Phu nhân tuy đối tốt với nàng, nhưng cũng đã chết mười năm rồi, nàng còn hận công tử gì nữa?”

“Chàng thì biết gì!” - Lục Cơ bỗng hét lên, quẳng đống cỏ thi còn lại vào mặt y – “Ta không có mẹ, chỉ có phu nhân là đối xử tốt với ta, bà chính là mẹ của ta! Cao Thư Dạ là kẻ súc sinh, đã xúi giục lão thành chủ giết phu nhân, còn bắt công tử Liên Thành đi làm con tin – không thấy y chết, ta tuyệt không thể nhắm mắt!”

Hoắc Thanh Lôi lặng thinh. Mười năm trước, khi công tử mới trở về Đôn Hoàng, thủ đoạn quả là có phần cay độc, đó là điều không thể phủ nhận,

“Nhưng giờ thì tốt rồi... ha ha...” - Lục Cơ hạ giọng, cười lanh – “Ta biết công tử Liên Thành phúc lớn mạng lớn, nay đã đem ý chỉ từ Đế Đô về, sẽ thay thế Cao Thư Dạ làm thành chủ Đôn Hoàng!”

Mặt Hoắc Thanh Lôi đột nhiên biến sắc – tân thành chủ? Ý chỉ của Đế Đô?

“Tiểu Lôi, nếu công tử Liên Thành trở về, chàng phải vui mừng mới phải chứ?” - Trong bóng tối, ánh mắt Lục Cơ sáng lên, phảng phất như ẩn tàng yêu ma đen tối – “Liên Thành đã chấp nhận chuyện của chúng ta, chỉ cần chàng dẫn thần võ quân...”

“Câm miệng!” - Hoắc Thanh Lôi quát lên một tiếng, bụi bặm trên xà nhà bị chấn động rơi lả tả, ánh mắt đầy phẫn nộ nhìn Lục Cơ – “Nàng muốn ta phản bội thành chủ? Nàng muốn mượn tay ta để giết Thư Dạ? Đừng có mơ! Hoắc Thanh Lôi ta là hạng người gì đây? Ngươi không thể phản bội Dao Hoa phu nhân, ta cũng không thể phụ rẫy công tử Thư Dạ!”

Mắt Lục Cơ sáng lên, lạnh lùng nói – “Nhưng Liên Thành đã có ý chỉ của Đế đô, sẽ trở thàng tân thành chủ, chàng tính sao đây?”

Hoắc Thanh Lôi sững người, hồi lâu sau, kẻ bộc trực thẳng tính ấy mới cất lời – “Ta không cần biết, dù sao ta cũng chỉ nghe lệnh của thành chủ thôi. Thành chủ muốn ta làm gì, ta có phải dâng đầu cũng đi làm cho người!”

“Cao Thư Dạ là hạng người thế nào? Y nắm giữ Đôn Hoàng bao năm nay, tuyệt không dễ dàng để mất quyền bính.” – Lục Cơ hạ giọng lẩm bẩm, ngẩng đầu lên nhìn Hoắc Thanh Lôi – “Tiểu Hoắc, nếu y bảo chàng giết Liên Thành, chàng nhất định sẽ giết, dù rằng Liên Thành cũng là cốt nhục của lão thành chủ, phải không?”

Hoắc Thanh Lôi cắn răng khiến cơ hai bên má phồng lên, mặt mũi nhăm nhúm trông thật khiếp sợ. Chần chừ một hồi không đáp, cuối cùng cũng gật đầu.

“Chàng nói ra trung thành một cách xuẩn ngốc, còn chàng thì không ư?” – Lục Cơ cười nhạt – “Vậy thì... chúng ta... ai vì chủ nấy!”

Cả Đôn Hoàng thành tràn ngập gió lạnh đầu đông, cát vàng đập bám vào vách tường và giấy dán cửa sổ, tiếng động rào rạt. Mặt mày đi ngoài gió chỉ trong chốc lát là đau rát thấu tim, cho nên người qua kẻ lại ai nấy đều vội vàng cất bước. Tuy vậy, dòng người thưa thớt đi ngang qua quảng trường giữa thành đều không khỏi bước chậm lại, rồi dần dần tụ tập đông đúc.

Một hàng hai mươi cỗ quan tài gỗ hồ dương được xếp ngay ngắn giữa quảng trường, ánh sáng âm u lạnh lẽo tỏa ra giữa gió cát xác xơ tiêu điều.

Tất cả người đứng xem đều lùi ra xa, che miệng xì xào bàn tán. Không ngờ có người lại dám làm trái ý thành chủ, thu liệm thi thể của giáo đồ Minh giáo! Thiếu niên vận áo vải đay kia tựa hồ mới từ xa đến, mặt bám đầy cát bụi, nhưng vừa vào thành đã gặp phải thảm huống thi thể bị xử trảm không đầu phơi mình giữa quảng trường, không nói tiếng nào liền lập tức đi mua hai chục cỗ quan tài kia, cũng không lo nghĩ gì tới cấm lệnh, đi thu liệm những thi thể kia mà không xin phép một ai cả.

Đám thần võ quân gần đó la lối ngăn trở, nhưng khi chàng trai trong bộ áo vải đay giơ ra một vật gì đó, họ lập tức lui đi. Thủ lĩnh đội quân mặt mày biến sắc, vội vàng chạy về phía phủ đệ của thành chủ, mới nửa đường đã gặp công tử Thư Dạ.

“Thành chủ!” – Hiệu úy thần võ quân quỳ một gối xuống, thở hồng hộc, vẻ mặt căng thẳng – “Bẩm thành chủ, nhị công tử... nhị công tử Liên Thành... đã về đến Đôn Hoàng!”

“Ừm” - Công tử Thư Dạ chỉ hững hờ đáp một tiếng, hoàn toàn không tỏ vẻ ngạc nhiên.

Thư Dạ bước đến ven quảng trường, lẳng lặng nhìn bóng áo vải đay đã mười năm cách biệt – đó là tiểu đệ duy nhất của y.

Mặc dù đã bị mọi người cô lập, nhưng chàng trai trở về từ vạn dặm xa xôi vẫn giữ được vẻ tráng kiện và ngời sáng. Ánh mắt tuy có phần phẫn nộ và đau thương, nhưng hoàn toàn không u ám. Khóe miệng khẽ nhấc lên, nét mặt rắn lại, một tay nắm chặt cán kiếm dắt hông, tay kia dùng chuôi đao gõ chặt đinh đóng nốt chiếc quan tài cuối cùng.

Đó là Liên Thành ư? Thư Dạ chợt giật mình sửng sốt, đột nhiên có một nỗi thất vọng trào dâng – làm con tin Đế Đô suốt mười năm trời, lẽ ra phải khác chứ? Sống giữa vòng xoáy của quyền lực và mưa toan, tạm bợ cầu sinh, quay trở về sau mười năm, tại sao Liên Thành lại như thế này? Kẻ trước mặt hoàn toàn khác so với tưởng tượng của công tử Thư Dạ.

“Nhị đệ!” – Không kìm nén được cảm xúc trong lòng, Thư Dạ cất tiếng gọi.

Chàng trai trẻ quay đầu lại, nhìn thấy vị công tử quyền quý đội hắc bào tử kim quan, ngừng tay lạnh lùng nói – “Cao Thư Dạ, đệ đã về.”

Sau đó, chàng trai đưa mắt nhìn xung quanh, thấy những người dân và khách thương đang đứng túm tụm bàn tán, một tay luồn vào trong ngực áo, lấy ra một cuộn lụa vàng, mở ra và giơ cao. “Đế đô có chỉ...”

Nhìn thấy màu sắc đại diện cho quyền lực tối cao đó, tất cả dân chúng và khách thương lập tức quỳ xuống. Nhưng, ở một góc quảng trường, bạch y công tử vẫn đứng yên không động đậy.

“Đôn Hoàng thàng chủ Cao Thư Dạ, xa xỉ dâm dật, bạo ngược hà khắc, lập tức truất ngôi thành chủ Đôn Hoàng và An Tây đại tướng quân. Kỳ đệ Liên Thành kế nhiệm, nhận hết tước vị của Cao thị. Khâm thử.”

Lúc này Cao Thư Dạ vẫn đứng yên, không quỳ xuống lĩnh chỉ, cũng không lên tiếng hạ lệnh sai thần võ quân bắt giữ - chỉ có khóe miệng là khẽ nhếch lên một nụ cười khó hiểu, mắt vẫn nhìn chăm chăm vào tiểu đệ.

Chiếu chỉ đã đọc xong, nhưng dân chúng và khách thương quỳ dưới đất cũng không ai dám đáp một lời.

Suốt mười năm qua ai cũng biết công tử Thư Dạ đã thống trị Đôn Hoàng bằng bàn tay sắt đá, tuy Đôn Hoàng xưng thần với Đế đô nhưng ở một nơi cách xa hoàng đế thế này, thánh chỉ cũng không đáng sợ bằng mười vạn quân thần võ của thành chủ. Cho nên, khi công tử Thư Dạ giữ thái độ trầm mặc không chấp nhận cũng không phủ nhận, không ai dám cất lời dù chỉ một lời.

Trong yên lặng chỉ có tiếng gió đang kêu gào, mang theo cái lạnh lẽo của tuyết sơn từ phương bắc. Hai mươi cỗ quan tài phản xạ ánh sáng âm u.

“Đệ thương tình cho những giáo đồ ma giáo này ư?” - Công tử Thư Dạ cuối cùng cũng cất lời, nhưng lại hỏi một câu chẳng liên quan gì tới vấn đề - “Đệ không hận Minh giáo? Ở Trường An suốt mười năm mà đệ không hề hận Minh giáo?”

Liên Thành sững người, cười nhạt – “Tại sao phải hận Minh giáo? Đệ không phải là thứ người tàn ác, đến cả phụ nữ, trẻ em, người già cũng không tha như huynh!”

Công tử Thư Dạ dường như lại càng ngạc nhiên, hỏi tiếp – “Ở Trường An, không ai dạy đệ hận Minh giáo sao?”

“Không có. Đệ hận cái gì, đâu cần người khác phải dạy?” - Ánh mắt Liên Thanh sáng trong và thẳng thắn – “Đệ không phải giáo đồ Minh giáo, cũng không phải là nhân sĩ của võ lâm chính phái, nhưng đệ không thể nhìn những cái cảnh giáo dân không một tấc sắt bị thiêu chết hàng loạt! Huynh quá tàn bạo rồi!’

Công tử Thư Dạ bỗng chốc thất thần, đứng lặng thinh không nói lên lời.

“Cao Thư Dạ, thánh chỉ này huynh có tiếp nhận không?” - Liên Thành giơ thánh chỉ lên, cao giọng.

Công tử Thư Dạ nhìn tiểu đệ, rồi chợt cười vang, âm thanh chấn động cả cổ thành.

“Huynh cười cái gì? Muốn tạo phản ư? Dám coi khinh chiếu chỉ của Đế đô ư?” - Liên Thành thịnh nộ, tay nắm cán kiếm – sớm nghĩ rằng công tử Thư Dạ sẽ không chấp thuận, e rằng phải dùng đến vũ lực.

“Liên Thành ơi Liên Thành, sao đệ ngây thơ quá vậy?” - Thư Dạ cười lớn, giữa hai lông mày hiện lên thứ cảm xúc vô cùng phức tạp – “Đệ nghĩ cứ một mình một kiếm đơn độc quay về, cầm cái thứ gọi là thánh chỉ kia là có thể tước đoạt được mười vạn thần võ quán và hắc bao tử kim quan của ta ư?”

Giữa tiếng cười lớn, Đôn Hoàng thành chủ từ từ giơ một bàn tay lên rồi ra hiệu lệnh.

Ngay lập tức, vô số binh sỹ ùa ra, giương cung nỏ chĩa về phía chàng trai trẻ đứng giữa quảng trường, đám bộ binh thần võ quân xung quanh cũng tuốt đao ra khỏi vỏ, vây chặt tứ phía. Liên Thành nhìn đám quân tinh nhuệ, sát khí đằng đằng mặt có phần tái đi. Thật không ngờ sau mười năm, Thư Dạ đã rèn luyện đoàn quân yếu nhược ngày nào thành một đội binh tinh nhuệ như thế!

“Liên Thành, nhị đệ của ta, có biết ta thất vọng về đệ đến chừng nào không?” - Công tử Thư Dạ cười đau khổ, nụ cười ấy dường như lại có vẻ rất thật, không có một chút tâm ý châm chọc, chế giễu – “Không ngờ sau mười năm mà đệ vẫn không tiến bộ gì hơn, dám ngang nhiên chỉ mang một tấm lụa vàng này xông về Đôn Hoàng – thời gian mười năm khổ nạn làm con tin ở Đế đô không dạy cho đệ học được gì sao?”

“Học cái gì?” - Liên Thành tỏ vẻ căng thẳng, tay nắm chặt bội kiếm.

“Quyền mưu! Thủ đoạn! Khả năng chọn lựa quyết định giữa chính cục, võ lực nhân tình, dân ý!” - Công tử Thư Dạ nhìn nhị đệ, giận dữ - “Không ngờ đệ vẫn chẳng hiểu gì hết! Không khác gì đệ mười năm trước! Ta đã đợi đệ suối mười năm qua, để đến ngày đệ trở về, dùng mọi thủ đoạn để chiếm lấy tất cả từ trong tay ta...”

Nghe những câu nói này Liên Thành sững người – “Thủ đoạn gì?”

“Lại còn để ta phải dạy đệ ư?” - Công tử Thư Dạ dường như đã giận đến bật cười –“Lẽ nào đệ không biết kết thân với đám quyền quý ở Đế đô, sau đó mượn binh về thành? Lẽ nào không biết lén lút thâm nhâp, trước hết trông vào sự tiếp ứng của Lục Cơ? Sau khi ả hạ độc, đệ vào giết; hoặc mua chuộc tướng sỹ tả hữu của ta, bất ngờ dồn ta vào chỗ chết. Lúc đó mới thuận theo thiên ý mà rút thánh chỉ ra, tuyên bố mình kế vị chức Đôn Hoàng thành chủ! Đệ và Lục Cơ quả thật đã làm ta quá thất vọng... một tên khờ đơn thuần hữu dũng vô mưu, một ả đàn bà chỉ biết oán hận mà vô dụng, có chút đại sự mà cũng làm không xong!”

Hàng loạt câu nói cất lên từ miệng của Thư Dạ, công tử Liên Thành mặt mày đầy ngỡ ngàng, nghe đến câu cuối thì tỏ vẻ phẫn nộ, cười lạnh lùng – “Tại sao phải thế? Ta có ý chỉ của Đế đô, quang minh chính đại – hà cớ phải lén lén lút lút? Huynh không phục, dám kháng chỉ, ta sẽ dùng sức lực của chính mình chém huynh bằng thanh thượng phương bảo kiếm này, chứ không cần đến những thủ đoạn thâm độc đó.”

Công tử Thư Dạ dường như lại sững người, nhìn gương mặt quang minh lỗi lạc của tiểu đệ, chợt cười đau khổ - “Sao lại thế cơ chứ... đệ sao có thể nói những lời này. Y dạy đệ như thế nào? Rút cuộc đệ có phải là con trai của kẻ tiện nhân Dao Hoa kia không?”

Nghe nhắc đến mẫu thân, mặt Liên Thành lập tức biến sắc, tức giận vung kiếm lên chĩa thẳng về phía trước – “ Cao Thư Dạ, ta phải giết huynh!”

Nhưng các chiến sĩ thần võ quân ở xung quanh đã nhanh chóng động thủ trước.

Chỉ thấy một bóng áo vải đay ngập chìm giữa trùng trùng điệp điệp quân binh khối giáp, tiếng binh khí va chạm nhau leng keng, còn công tử Thư Dạ thì vẫn đứng yên bất động. Một hồi lâu sau, y khẽ nhắm hờ mắt, thở dài rồi quay người bỏ đi, không muốn nhìn thấy cảnh nhị đệ bị vây đánh nữa. Gặp Hoắc Thanh Lôi đang tất tưởi chạy tới, Thư Dạ dặn nhỏ một câu – “Tuyệt đối không được giết nó.”

Nói rồi công tử tiếp tục rảo bước.

Hoắc Thanh Lôi ngẩn người, trong lòng bao nhiêu cảm xúc xáo trộn – dù sao vẫn là huynh đệ ruột thịt, huyết mạch tương thông, mặc dù nhị công tử vừa quay về đã lập tức muốn đoạt quyền gây loạn, nhưng thành chủ thực sự vẫn không muốn dồn cậu ta vào chỗ chết.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 7-2-2013 14:48:44 | Xem tất
HỒI 6: DẠ YẾN


Trăng lưỡi liềm lạnh lùng lặng lẽ treo mình trên trời đại mạc, rải rắc ánh lạnh khắp mặt đất. Xa xa bóng dáng Kỳ Liên sơn xám lạnh như một đường viền sắt thép bao bọc, gió gào rít ào ạt, luồn vào đêm tối giá buốt thấu xương trên đại mạc.

Nhưng trong Đôn Hoàng thành lại là một cảnh tượng khác. Khác với Trung Nguyên vẫn còn có giới nghiêm, trọng trấn trên cổ đạo Tơ Lụa này đến đêm trái lại lại càng phồn hoa.

Thương đội ở các nơi vào nghỉ chân, mang hàng hóa kim tiền phung phá vung vẩy trong tửu lâu ca uyển, oanh hò yến hót, đèn hồng rượu lục, một vùng ca múa thanh bình.

Nhìn từ trên cao vọng xuống, bóng tối tràn ngập khắp cao lầu. Mĩ nhân nhảy múa ca hát suốt đêm.

Mặc dù ban ngày đã xảy ra việc hệ trọng như thế, nhưng Đôn Hoàng thành chủ vẫn làm như chẳng có chuyện gì xảy ra, vẫn tiệc tùng ăn uống thâu đêm, gõ chén hát ca, tay ôm tay ấp những giai nhân tuyệt đẹp. Hoắc Thanh Lôi phụng mệnh đi bắt nhị công tử Liên Thành vẫn chưa về, bá quan văn võ còn lại chỉ biết ngồi nhìn công tử Thư Dạ chìm đắm trong men rượu và lời ca tiếng hát, cười nói cuồng say, ai nấy đều chần chừ do dự, nhưng không dám cất tiếng nói một lời.

Công tử Thư Dạ thật là một nhân vật đáng sợ, bao năm nay bằng bàn tay sắt quản thúc trọng trấn tơ lụa Đôn Hoàng, sinh hoạt xa xỉ, đối với vãng khách thương chinh luôn thu thuế hoa lợi mức cao, tính tình âm trầm kiêu ngạo đa biến, cấp dưới cũng có tướng lãnh thương gia len lén chê trách không ưa. Nhưng công tử Thư Dạ đồng thời cũng là một Thành chủ anh minh, mười năm rèn binh luyện mã, chỉnh đốn chính vụ quân vụ Đôn Hoàng, tu kiến kênh ngòi thương dịch, thống lãnh thần võ quân nhiều lần đánh lui các quốc gia Tây Vực, Hồi Hột, Thổ Phồn gườm gườm như hổ báo rình mồi gây hấn, vì vậy mà đã kiến lập uy danh trọng vọng trên con đường Tơ Lụa.

Ngày hôm nay, bỗng dưng một kẻ trẻ tuổi non nớt đơn thương độc mã không có chút binh quyền đến đòi thay thế, há chẳng phải chuyện nực cười hay sao?

Đôn Hoàng thành trên danh nghĩa là theo Đại Dận, nhưng dù Đế đô đã có chỉ, công tử Thư Dạ vẫn từ chối không tiếp nhận, lại còn sai thần võ quân đi vây bắt nhị đệ. Sự tình bất lành như vậy, không biết thành chủ định ứng phó như thế nào?

Khúc “Lan Lăng Vương” vừa dứt, Hoắc Thanh Lôi đã về tới, ghé sát bên tai thì thầm bẩm báo. Công tử Liên Thành đã bị bắt giữ, nhưng đội thiết giáp ba ngàn người cũng bị thương vong khá nặng nề, ngoài mấy chục người chết tại trận, còn có hơn trăm người phải nghỉ ngơi an dưỡng vài ngày.

“Bị thương trên trăm người? Hóa ra cũng không đến nỗi khiến ta hoàn toàn thất vọng. Nhưng bằng chút tài nghệ đó thì vẫn chưa đủ sức đoạt Đôn Hoàng trong tay ta!” - Công tử Thư Dạ bỗng cười lên, cầm đũa sừng tê giác gõ vào mâm bạc, ca lớn - “Tương Quân đàm tiếu loan cung, Tần Vương nhất nộ kích phữu. Thiên hạ thùy dữ phó ngô câu? Biến kỳ quần hùng thúc thủ! Tích thì khấu, tẫn vương hầu, không huyền đoạn linh hà sở cầu?”

(Tạm dịch: Tương Quân chê trách giương cung, Tần Vương tức giận gõ vùa. Thiên hạ ai giao phó ngô câu? Quần hùng xung quanh thất thủ. Năm xưa giặc, tận hết vương hầu, buông cung bẻ tên còn muốn gì nữa?).

Lời ca mãnh liệt, uyển chuyển như dòng ngân hà, vô thủy vô chung. Mọi người nhấp nhỏm, không biết công tử giờ phút này nội tâm vui hay giận, đều cầm chén trầm mặc, bạch y công tử chễm chệ trên cao, gõ chén ca hét như ở chỗ không người, mỹ nữ trong vòng tay không biết phải làm gì, chỉ biết mỉm cười gượng gạo.

“Công tử!” – Chỉ duy có Hoắc Thanh Lôi là không tỏ vẻ sợ hãi, hạ giọng bẩm báo – “Thuộc hạ đã mời nhị công tử vào phủ, nên sắp đặt sao đây ạ?”

“Một trăm cỗ xe vàng bạc châu báu của năm nay đã kiểm đủ hay chưa?” - Công tử đột nhiên dừng tay, quay đầu hỏi vị quan tư khố bên cạnh, ánh mắt lạnh lùng. Điều này từ lâu đã trở thành thông lệ bất thành văn của phủ Đôn Hoàng, cứ gần đến cuối năm, thành chủ sẽ lấy ra ba phần mười số tài sản ngân khố để đưa vào trong phủ, nhưng cụ thể khoản tiền khổng lồ đó được đưa đi đâu thì không một ai hay biết.

Công tử Thư Dạ nổi tiếng khắp vùng Tây Vực bởi sự xa hoa hưởng lạc vô độ của mình, rất nhiều thương gia và dân chúng cho rằng số tiền đó đã bị công tử bỏ túi và phung phí vào Oanh sào bí mật. Vì thế, trong dân gian càng có nhiều lời chỉ trích, phê phán Đôn Hoàng thành chủ.

Viên quan kia vốn đang sợ hãi, vội vàng rời khỏi chỗ ngồi, quỳ xuống đáp – “Dạ, tất cả đã kiểm xong rồi ạ.”

“Tốt, mang vào sân sau của phủ như thường lệ, năm ngày sau sẽ có người đến lấy.” - Công tử Thư Dạ dặn dò. Số của cải khổng lồ này bằng một phần ba số thuế thu được trong cả năm ở Đôn Hoàng, vậy mà qua lời công tử Thư Dạ lại như chẳng bõ bèn gì.

Quan tư khố vâng dạ cáo lui, Hoắc Thanh Lôi cũng không hỏi công tử đưa số tiền đó đi đâu, chỉ tiếp tục hạ giọng hỏi – “Phải xử trí nhị công tử Liên Thành thế nào ạ?”

Hắn cố ý nhấn mạnh ba chữ “nhị công tử”, hy vọng thành chủ niệm tình máu mủ mà nhẹ tay với tiểu đệ của mình.

“Nhốt vào Dao Hoa lâu cùng với ả điên Lục Cơ.” - Công tử Thư Dạ tay cầm chén vàng, hai mày nhíu lại – “Nếu ở Đế đô nó không học được gì, ta đành phải đích thân dạy bảo vậy! Ta không tin cả đời nó sẽ khờ khạo như thế này mãi!”

“Công tử?” - Hoắc Thanh Lôi giật mình, không hiểu tại sao công tử lại thất vọng và bực tức đến vậy. Lẽ nào công tử hy vọng Liên Thành nhị công tử càng lãnh khốc, càng chai đá, càng mưu mô? Công tử không lẽ trông mong lúc nhị đệ của mình từ Đế đô quay trở về sẽ bằng vào tài nghệ của chàng mà đoạt lấy quyền khống chế trong tay công tử?

Công tử Thư Dạ vẫn chễm chệ trên cao ôm mỹ nữ, rượu chè ca hát, phóng túng buông thả, nhưng những suy nghĩ thật sự trong lòng thành chủ, có mấy ai hiểu thấu? Có ai biết vị Thành chủ trẻ trung với bàn tay sắt tự tin đã từng có một đoạn năm tháng thiếu niên làm sát thủ sinh nhai không thấy mặt trời, làm bạn với bóng tối. Những sinh tử kích biến, ái hận vinh nhục trong đoạn thời gian đó, e rằng người ngoài không thể nào tưởng tượng nổi.

Đêm về khuya, công tử đã say túy lúy, nhưng hứng chí lại càng cao, cứ say sưa dùng đũa tê giác gõ chén vàng bát sứ, cất tiếng hát vang, rồi bắt các vũ nữ nhảy múa theo lời ca của mình, trông buông thả, phóng đãng đến gai mắt. Văn võ bá quan lúc này đã nhấp nhổm không yên, lần lượt cáo lui, công tử Thư Dạ cũng không buồn bận tâm, phẩy tay cho đi.

Nửa đêm, trên tất cả chỗ ngồi của quan khách chỉ còn lại một mình Hoắc Thanh Lôi ngồi lẳng lặng nhìn thành chủ mải mê ca hát, cười như điên dại, rồi đứng dậy nhảy múa, hát khúc nhạc mình tự chế. Tiếng ca như lẫn với nước mắt, khiến người bộc trực đơn giản như hắn cũng cảm thấy được một nỗi niềm tuyệt vọng và phẫn nộ bị đè nén, chất chồng trong lòng công tử suốt bao năm qua.

Hắn bỗng nhớ lại câu chuyện sáng nay vẫn còn đang kể dang dở - cuối cùng, Tinh Thánh Nữ tại sao lại không cùng công tử trốn khỏi Quang Minh cung? Công tử nói, khi công tử đang men theo tường để định rời Côn Luân, người con gái ấy đã giương ngân cung, bắn liền mười ba mũi tên! Mũi tên cuối cùng đã trúng ngực và ghim chặt công tử trên tường.

Rút cuộc là vì sao? Hoắc Thanh Lôi không dám hỏi. Nếu công tử không nói, sẽ chẳng bao giờ có ai dám hỏi về những chuyện như thế.

Cuối cùng, dường như đã hết hứng thú, công tử dừng tiếng hát. Lúc này công tử đã say mèm, loạng choạng dìu mỹ nữ vào phòng trong, chợt thấy Hoắc Thanh Lôi vẫn còn đang chống kiếm xuống đất ngồi yên một chỗ như đang chờ đợi điều gì, ngạc nhiên – “Người còn chưa đi sao?”

“Công tử đã quá say rồi, vi tướng lo xảy ra chuyện gì.” - Hoắc Thanh Lôi thật thà đáp.

Công tử Thư Dạ bật cười, giơ tay vỗ vỗ vai vị tướng tâm phúc. – “Tốt lắm, ngươi vẫn chưa bị Lục Cơ lôi kéo. Xứng đáng là trang nam tử lắm! Nếu không thì hẳn ngươi đã mài kiếm cho sắc rồi nhân lúc ta say xỉn mà chém đầu ta rồi, đúng không? Có điều, ngươi nghĩ là ta say thật ư?”

Công tử Thư Dạ người nồng nặc mùi rượu, bỗng nhiên khẽ hỏi, ánh mắt trông ma quái đến đáng sợ.

“Cả đời này, ta chỉ dám say trước mặt duy nhất có một người... Đó là bằng hữu tâm giao, ngươi có hiểu không? Chỉ cần y muốn giết ta, ta chấp nhận chết trong tay y.” - Công tử Thư Dạ một tay dắt mỹ nữ, một tay sờ lên cổ mình, loạng choạng cười lớn – “Cái đầu này chỉ dành cho tri kỷ - đó là bằng hữu tâm giao!”

Ánh trăng bên ngoài thật đẹp, tựa như dát bạc khắp không trung. Hoắc Thanh Lôi bỗng có dự cảm không lành, hôm nay công tử nói những câu này, dường như đang hồi tưởng lại ký ức của cả cuộc đời.

“Là Mặc Hương?” – Cuối cùng thì Hoắc Thanh Lôi cũng khong nhịn được sự tò mò, bèn hỏi.

Công tử Thư Dạ rùng mình, ngưng bước, ngẩng đầu vọng nhìn ánh trăng như màn sương lạnh ngoài đình, không biết đang nghĩ ngợi gì. Một hồi lâu sau, thanh âm của y mê mẩn bần thần thầm thì – “Mặc Hương? Đó chỉ là cái tên giả dựa theo tên thanh kiếm mà thôi... Ta cũng chẳng rõ tên thật của y là gì nữa, nhưng chúng ta lại trở thành huynh đệ tốt...”

Hoắc Thanh Lôi không nói thêm lời nào, chỉ lặng thinh lắng nghe. Hắn biết, rất ít khi công tử dốc bầu tâm sự như thế này.

Công tử ngẩng đầu nhìn vầng trăng lạnh lẽo trên không trung – “Cũng vào một đêm trăng như thế này... cả Côn Luân ngập tràn trong bể máu! Khi định cùng Sa Mạn Hoa bỏ trốn, ta đã không quên y. Ta cho y biết vị trí mật đạo, muốn y cùng chúng ta chạy trốn. Kết quả là... ha ha... cái đêm ngày chính tháng chín ấy, ta chưa đợi được Sa Mạn Hoa thì đã thấy vô số cao thủ võ lâm Trung Nguyên bỗng nhiên xuất hiện ở Đại Quang Minh cung! Bọn chúng xâm nhập vào chính từ con đường bí mật đó!”

Hoắc Thanh Lôi thất thanh la nhỏ - “Đi xuống từ trong mật đạo đó? Nói như vậy...”

Giọng nói của công tử Thư Dạ mỗi lúc một nhỏ dần, mang theo một nỗi u sầu vô tận lắng đọng trong lòng suốt bao nhiêu năm – “Không rõ vì sao, đám võ lâm hễ thấy ai cũng chém giết đó lại trừ ta ra – sau đó ta mới biết rằng chính Mặc Hương đã dặn chúng không được động đến ta. Hóa ra y là nội ứng của võ lâm Trung Nguyên mai phục trong tổng đàn Minh giáo. Ta và y cùng nhau vào sinh ra tử suốt năm năm, vậy mà ta không hề biết thân phận của y. Lúc đó, phải chăng là ta còn ngu ngốc hơn cả Liên Thành bây giờ?”

“Võ lâm Trung Nguyên đến ngày nay vẫn nên ghi nhớ cái đêm đó: thất đại môn phái đột nhập Côn Luân Quang Minh đỉnh, sát thủ Tu La Trường toàn quân không còn một người sống sót, cả Giáo vương cũng thụ trọng thương. Cao thủ dẫn đầu của thất đại môn phái không ngờ cũng không ai sống sót trở về” - Công tử Thư Dạ chợt nhớ lại trận huyết chiến đó, giọng nói trở nên đìu hiu buồn bã – “Sau đó, võ lâm Trung Nguyên suy thoái đi nhiều, nhưng ma giáo thì gần như sụp đổ không sao gượng dậy nổi. Hai bên phải chấm dứt chiến tranh và lặng lẽ nuôi dưỡng đội quân tinh nhuệ mới.”

Trong đêm chết chóc hỗn loạn đó, gã thanh niên mười tám tuổi là Thư Dạ thẫn thờ đứng trên mật đạo đằng sau núi với ánh mắt tuyệt vọng khôn cùng – y biết mình sẽ không còn có thể được cùng người con gái mình yêu trở về cố hương được nữa... Sa Mạn Hoa người dính đầy máu thoát ra từ đám đông, vô tình đã nhìn thấy y. Ánh mắt ấy... cho đến tận ngày hôm nay, mỗi khi nhắm mắt lại, y đều có thể hình dung ra. Không sao có thể biện hộ được! Giờ phút đó, Thư Dạ chỉ muốn chết, nếu cái chết có thể chứng minh được y không phải đồng đảng của Mặc Hương, không phải là nội gián do Trung Nguyên phái đến.

Công tử Thư Dạ thở dài, ánh mắt dần như lạnh buốt – “Ta đã thực sự muốn rũ bỏ tất cả, nhưng Mặc Hương kéo lấy ta lao về phía mật đạo Thiên Thê. Sa Mạn Hoa quá căm hận, từ bên dưới bắn liên tục mười ba mũi tên. Mười hai mũi đầu đều bị Mặc Hương gạt đi, nhưng đến mũi cuối cùng thì đã bắn ghim người ta trên vách đứng. Đến cả sợi tóc của nàng – vật báu mà ta luôn cất giữ trong ngực áo – cũng bị mũi tên bắn nát, ăn sâu vào da thịt! Nếu không nhờ có áo Thiên Tàm hộ thân, ta đáng lẽ đã chết ngay lúc đó.

Nói đến đây, công tử Thư Dạ giơ tay sờ vết sẹo trên ngực, dường như vết thương cũ lại đau nhức nhối.

“Lúc đó ta thấy Mặc Hương vừa cố bám leo lên, vừa dùng kiếm chém đứt chiếc cọc gỗ bí mật để dẫn tới Thiên Thê. Ta vô cùng kinh ngạc: không ngờ y lại muốn cắt đứt thông lộ duy nhất đó, để cho đám quân tinh anh của võ lâm Trung Nguyên cùng chết trên tuyệt đỉnh Côn Luân! Y đã bị võ lâm Trung Nguyên coi như một con cờ, để rồi đến khi có cơ hội, bọn họ sẵn sàng lật đổ bàn cờ đó!” – Giọng nói của công tử Thư Dạ hơi run run, rồi đột nhiên lặng im không nói. Rõ ràng ký ức ngày nào vẫn còn khiến y không khỏi bàng hoàng và đau đớn.

Hoắc Thanh Lôi nghe chuyện, mặt cũng biến sắc, nhưng cố kiềm chế bản thân không cất một lời.

“Khi ta tỉnh lại, thấy Mặc Hương đang cõng ta trên lưng, tay bám chặt vào những vách đá băng dựng đứng mà cố sức trèo lên. Toàn thân y đầy máu, mệt mói đến kiệt sức... là y đã cứu ta.”

Huynh đệ của y đã bán đứng y, nhưng khi y bị thương nặng gần chết, lại không chịu quăng bỏ y mà tìm sống một mình. Mặc Hương cõng y từ Đại Quang Minh cung chạy ra, băng qua núi tuyết, xuyên qua đại mạc... biết bao nhiêu lần bọn họ kề cận bến bờ tuyệt vọng, Mặc Hương lại thủy chung không chịu buông y, bao nhiêu đồ ăn còn lại đều giữ cho y, bất kể y chửi mắng cỡ nào cũng không rời bỏ. Lúc giữa đại mạc tìm không ra nguồn nước, thậm chí còn cắt cổ tay dùng máu của mình cho y giải khát! Trên chặng đường quay trở về thập tử nhất sinh, Thư Dạ đã bao lần được Mặc Hương cứu sống.

Sau khi trở về thành Đôn Hoàng, vì lo lắng Thư Dạ sẽ lại tiếp tục bị hãm hại bởi người mẹ kế thâm độc, Mặc Hương lại âm thầm bảo vệ, bao lần thay y chống lại sự ám sát và những âm mưu quỷ kế.

Thư Dạ đã từng có ý muốn tìm đến cái chết, nhưng lại gạt bỏ bởi lời dặn dò của phụ thân trước khi qua đời: Liên Thành còn chưa trưởng thành, dòng họ Cao đã trấn giữ Đôn Hoàng suốt bao năm qua, cho đến khi có người thích hợp kế vị, y không được vì chuyện này mà bỏ mặc tất cả.

Y đối với Mặc Hương cũng đã từng thù hận ghét giận khắc cốt, lại chung quy đã ngã quỵ dưới sự đền bù và bảo vệ cố chấp của đối phương.

“Y nói y coi ta là huynh đệ. Nhưng y lại nói y không thể không bán đứng ta. Y chỉ là một quân cờ, tất cả những gì y nắm được đều ở trong tay kỳ thủ.” - công tử Thư Dạ cúi xuống, bật cười, giọt lệ lóng lánh nơi khóe mắt – “Ban đầu, ta cũng rất hận y, nhưng sau chặng đường thập tử nhất sinh kia, cuối cùng ta đã tha thứ cho y. Ta hiểu được nỗi khổ tâm làm một con cờ của Mặc Hương. Bằng vào thân phận địa vị đương thời của y, làm được như vậy, tận hết toàn lực bảo vệ ta đã là mức độ cao nhất rồi. Trong suốt bao nhiêu năm qua, chúng ta vẫn là huynh đệ tốt của nhau.” - Công tử Thư Dạ bất chợt quay đầu nhìn Hoắc Thanh Lôi – “Cho nên, nếu một ngày nào đó ngươi không thể không rời bỏ ta, ta tất cũng sẽ tha thứ cho ngươi.”

“Công tử!” – Hoắc Thanh Lôi giật mình, lập tức quỳ xuống – “Thuộc hạ tuyệt không phản bội công tử!”

“Không cần hứa sẽ không phản bội ta... hãy hứa không phản bội Đôn Hoàng!” – Ánh mắt của công tử Thư Dạ trở lại lạnh lùng, dìu mỹ nữ vào phòng trong – “Chỉ cần ngươi bảo vệ tòa thành này là được rồi, bất luận chủ của nó là ai.”

Hoắc Thanh Lôi sững sờ, càng lúc càng cảm thấy những lời công tử nói hôm nay thật không lành. Nhưng công tử đã dìu mỹ nữ đi xa.

Đang bước đi, công tử mùi rượu đầy mình bỗng lại lên giọng hát vang – “... tùng lai thành bại nhất bôi trung. Đương thì thùy gia nữ, cố phán hữu tương phùng. Trung gian lưu liên ý, họa lâu kỉ vạn trọng. Thập bộ sát nhất nhân, khảng khái tại Tần cung. Linh linh bất khẳng đạn, phiên tiên ảnh kinh hồng. Nại hà giang sơn sanh không đồng, tri kỷ sanh tử lưỡng tranh vanh. Bảo đao ca khốc đạn chỉ mộng, vân vũ tung hoành phúc thủ không. Bằng lan vô ngữ ngôn, đê ngang mạn tam lộng: vấn anh hùng, thùy thị anh hùng?”

(Tạm dịch:... từ đây thành bại trong một chén. Bóng hồng lo sớm tối, trông mong ngày tương phùng. Lòng tràn niềm lưu luyến, ngăn trở vạn dặm trùng. Mười bước lấy một mạng, khảng khái tại Tần cung. Trù trừ không muốn bắn, vùn vụt cánh chim run. Giang sơn sao cứ xoay sấp ngửa, tri kỷ sinh tử đứng chênh vênh. Bảo đao khóc ca vùng tỉnh mộng, mây mưa tung hoành bỗng tay không. Dựa cột không cất tiếng, thăng trầm buông ba vần: hỏi anh hùng, ai là anh hùng?)

Trên thành cao, đèn lửa sáng ngời, ca múa không ngưng. Ở ngoài thành, giữa biển gió cát lạnh lẽo, cũng có người đang cất cao tiếng hát.

Đốm lửa cháy rừng rực, ngọn lửa bập bùng như nhảy múa, run rẩy chiếu rọi lên mặt người. Giọng ca cũng run rẩy, người bắt nhịp là một đứa trẻ tóc quăn chừng mười tuổi, mặc bộ y phục trắng toát, quỳ gối trước đống lửa hát bằng tiếng Ba Tư – “Trời đất là quán trọ phiêu diêu, ngày đêm là cửa ngõ thời gian, bao nhiêu đế vương và vinh hoa đều đã trôi đi vội vã – đến như nước chảy, đi như gió cuốn.”

Đứng sau lưng đứa trẻ là Tinh Thánh Nữ Sa Mạn Hoa, đầu đội giáo quan có hình chiếc lá vàng, thân mang trường bào trắng muốt, khoác thêm chiếc áo choàng màu đậm. Phía sau là đám giáo đồ Minh giáo trong bộ trang phục trắng từ đầu đến chân, đứng thẳng tắp và đều đặn, lắng nghe bài ca cổ xưa với vẻ mặt bi ai. Thiếu niên Già Á, người thường hát những lời ca truyền bá giáo nghĩa của Minh Tôn, lúc này đang cầu khấn cho những giáo đồ tử nạn.

Thiếu niên Già Á nhìn tường thành cao xa xa đèn lửa không dứt, tiếp tục ca – “Người ta nói nhà trời là cái chậu lật ngược, bọn ta bò lổm ngổm giữa sinh và tử.
Minh Tôn là Từ phụ của ta, dẫn dắt bọn ta cùng trở lại vùng đất hứa bến bờ bên kia - đến như nước chảy, đi như gió cuốn. Không biết đến từ đâu, cùng về lại chỗ đó!”

Sa Mạn Hoa lẳng lặng lắng nghe lời ca của thiếu niên Già Á, rồi bỗng nhiên dòng lệ tuôn trào. Nàng quỳ xuống trước đống lửa, tất cả giáo đồ của Minh giáo cũng cùng quỳ theo thánh nữ, cùng nhất tề xướng ca:

“Đến như nước chảy, đi như gió cuốn. Không biết đến từ đâu, cùng về lại chỗ đó! Sinh mệnh tiêu tan, cũng chỉ là như vậy thôi sao? Cầu nguyện Minh Tôn phù hộ cho những gió đồ đã chết, để họ được đến vùng cực lạc ở bờ bên kia!”

“Thánh nữ, người sẽ báo thù cho chúng ta chứ?” – Thiếu niên Già Á bò về phía trước, hôn lên đầu ngón chân của Sa Mạn Hoa, rồi ngẩng đầu, ngước nhìn vị thánh nữ tối cao với ánh mắt trông đợi.

Nàng hoang mang cúi nhìn đứa bé, trong đôi mắt nâu sẫm của nó không ngờ đã tụ tập biết bao cừu hận và hắc ám như vậy, khiến cho nàng không khỏi rùng mình run rẩy.

Giết Đôn Hoàng thành chủ? Cứ nghĩ tới kẻ đã giao đấu với mình trên thành ngày hôm qua, không hiểu sao trong đầu nàng lại đau nhức như muốn nghẹt thở.

“Đúng thế, Tinh Thánh Nữ nhất định sẽ bắn một phát tiễn phá nát Đôn Hoàng, rồi dẫn chúng ta tiến tới Trung Nguyên!” – Trưởng lão Diệu Thủy đứng bên cạnh thay nàng trả lời.

Thiếu niên Già Á hoan hỉ hôn lên đầu ngón chân của Tinh Thánh Nữ liên tục, ca hát – “Tỉnh dậy đi, Đôn Hoàng thành kia! Vầng thái dương đã xua tan đêm đen, bóng tối đã trốn chạy khỏi bầu trời, kim tiễn sáng lạn bắn trúng mái Đôn Hoàng; Thánh nữ với ngân cung kim tiễn, thống lãnh bọn ta đông khứ!”

Tất cả giáo đồ đều quỳ xuống xung quanh đống lửa, nhìn Tinh Thánh Nữ đầy tôn kính và cùng cất tiếng hát vang trời.

Thế nhưng, lúc này Tinh Thánh Nữ chỉ biết đứng lặng như tượng gỗ, chỉ cảm thấy cơn đau trong não càng lúc càng kịch liệt, cơ hồ không còn thở nổi. Trưởng lão Diệu Thủy một mực đứng kề bên quan sát sắc mặt của Thánh Nữ, nhìn thấy biểu tình lao đao của nàng, lập tức kéo nàng đi xa xa. Sắc mặt của lão phụ vừa từ ái vừa quan thiết. Lúc Sa Mạn Hoa từ Miêu Cương Bái Nguyệt Giáo đến Côn Luân còn chưa đầy mười tuổi, bà ta đảm đương chức trách sư phụ, một mực coi vị tiểu Thánh Nữ đó như con ruột của mình, thương yêu vô bờ bến.

Sa Mạn Hoa thình lình ngồi bệt trên gò cát, ôm lấy đầu mình, dường như không sao hít thở được nữa – “Trưởng lão, đầu ta thật ra là bị làm sao vậy? Ba mũi kim này...”

“Đó là vì không nhớ được quá khứ cho nên tâm lý nghi ngờ, không dám hạ thủ, có phải không?” - Trong mắt Diệu Thủy tràn ngập vẻ thương cảm tội nghiệp. Trong trường biến loạn mười năm trước, đứa bé này đã chịu biết bao khổ ải! Đến hôm nay, cho dù đã ghim kim châm phong bế não bộ mà vẫn thống khổ như vậy sao? Lão phụ thở dài - “Ta biết, Thánh Nữ luôn luôn lo nghĩ thắc mắc về chuyện kim châm phong não”.

“Tại sao Từ phụ lại phải phong bế ký ức của ta?” - Sa Mạn Hoa tỏ vẻ hoang mang.

Sắc mặt Diệu Thủy trầm xuống, khẽ thở dài – “Chính Thánh Nữ đã cầu xin Từ phụ dùng kim châm phong não cho mình!”

“Thật sao?” - Sa Mạn Hoa giật mình, ngẩng đầu hỏi – “Ta cầu xin Từ phụ? Ta muốn quên đi chuyện gì?”

“Quên rằng Cao Thư Dạ đã bán đứng con – Quên rằng con đã từng vì y mà phản bội Minh Tôn – Quên rằng chỉ vì một ý niệm sai trái mà đã gây nên tai họa khủng khiếp cho toàn giáo.”

Giữa cái lạnh giá thấu xương nơi sa mạc mênh mông, từng lời nói như kết tụ bao nhiêu hàn khí, và ánh mắt của trưởng lão cũng thật lạnh lùng.

“Con năm đó bắn liên tục mười ba mũi tên ghim người Thư Dạ trên vách đứng, khi trở về hai năm tròn vô phương cầm được cung. Con quỳ trước ngọc tọa của Giáo vương, khẩn cầu Giáo vương dùng kim châm phong não cho mình. Từ Phụ yêu thương con, liền đáp chuẩn”.

Sa Mạn Hoa cảm thấy mỗi câu nói của Diệu Thủy như một mũi đinh sắc nhọn đâm vào trái tim đau nhói, rồi bỗng như bị kích động, nôn nóng muốn biết sự thật, nàng bất chấp tất cả giơ tay về sau ót để rút ba mũi kim châm.

“Ngừng tay!” – Diệu Thủy kịp thời ra tay ngăn cản, quát lớn – “Nếu con tự mình loạn động kim châm, tức là con sẽ tự phá hủy đầu mình!”

Vị trưởng lão nhìn vẻ mặt tái nhợt của Tinh Thánh Nữ mà xót xa, chẳng biết làm cách nào ngoài thở dài não nuột – “Con đừng nôn nóng – Giáo vương đã nói, nếu lần này con không thể hoàn thành nhiệm vụ, thì sẽ lệnh cho Nguyệt Thánh Nữ đến tiếp nhận thay con. Ta cũng đã phái người tới Hồi Hột thông báo cho Nguyệt Thánh Nữ, nội trong vài ngày tới ắt sẽ thống lĩnh nhân mã đến Đôn Hoàng chi viện.”

“Nhị tỷ tỷ...” – Nghe đến cái tên đó, trước mắt Sa Mạn Hoa hiện ra một gương mặt cương nghị quyết đoán, nàng dần dần bình tĩnh trở lại – “Tỷ tỷ sẽ đến sao? Ta thật là vô dụng, khiến nhị tỷ phải cất công lặn lội từ Hồi hột đến.”

Nguyệt Thánh Nữ Mai Nghê Nhã, Công chúa và Giáo mẫu của Hồi Hột phải dẫn đám hắc y sát thủ của Tu La Trường đến Đôn Hoàng sao?

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 7-2-2013 14:50:39 | Xem tất
HỒI 7: ĐỈNH KIẾM HẦU


Cho tới tận khi công tử Thư Dạ đã trở về Oanh Sào. Hoắc Thanh Lôi mới ngoảnh đầu về phía giam giữ công tử Liên Thành.

Dù sao công tử cũng là tiểu đệ của thành chủ, lại là khách quý từ Trường An tới. Hoắc Thanh Lôi chỉ điểm huyệt Khí Hải và huyệt đạo ở hai tay chứ không dám dùng gông xiềng. Người thanh niên áo vải đay vẫn nhất định không chịu khuất phục, nhưng sau đó nghe nói sẽ được dẫn đến Dao Hoa lâu của mẫu thân đã qua đời, bèn yên tĩnh lại, đi theo sau Hoắc Thanh Lôi.

Vừa đến gần căn lầu u tịch đó đã nghe thấy tiếng rầm rầm đọc chú đầy ma quái của Lục Cơ. Suốt mười năm qua, đêm nào người con gái bị giam cầm đó cũng dùng phù thuật yêu ma để nguyền rủa thành chủ, mong báo thù cho chủ mẫu.

Hoắc Thanh Lôi nghe những âm thanh chẳng giống tiếng người đó mà thấy rùng mình.

Nhị công tử Liên Thành ở bên cạnh vừa bước vào đột nhiên quỳ gối trước thềm, lạy ba lạy trước cánh cửa đen sì, ánh mắt vừa đau thương vừa đầy thù hận. Trên bức tường bên trong cửa sổ có treo bộ khôi giáp của lão thành chủ truyền lại.

Liên Thành đã rời nơi này được mười năm. Ngày đó, đứa trẻ mười một tuổi ấy đã phải chứng kiến cảnh đám quân thần võ lôi xềnh xệch mẫu thân của mình, rồi dùng vải trắng xiết chặt cổ bà. Lục Cơ ôm thật chặt và che mắt không muốn Liên Thành phải chứng kiến cảnh tượng đau thương đó. Nhưng Liên Thành đã nhìn thấy, gương mặt vốn dĩ vô cùng xinh đẹp của mẫu thân dần tím tái đi, hai mắt vẫn trợn tròn không thể nhắm lại, và giọt máu tươi chảy ra từ khóe mép.

Vị huynh trưởng Thư Dạ đang bị trọng thương ngồi chiễm chệ trên chiếc giường êm, lạnh lùng quan sát và lệnh cho quân sĩ đưa xác Dao Hoa phu nhân vào quan tài, để hai ngày sau chôn cất cùng lúc với lão thành chủ.

Liên Thành vùng vẫy khỏi vòng tay của Lục Cơ, xông thẳng về phía huynh trưởng một cách căm hận, nhưng bị quân sĩ ngăn lại.

Tân Đôn Hoàng thành chủ lạnh lùng nhìn tiểu đệ nhỏ tuổi, rồi bỗng giơ tay ra hiệu – lập tức hàng loạt thanh kiếm sắc nhọn được rút ra. Nhưng công tử Thư Dạ lắc đầu, phẩy tay một cách mệt mỏi – “Chớ có giết, hãy đưa đi Đế đô.”

Thế là năm mười một tuổi, Liên Thành phải rời xa quê hương đến Trường An xa xôi làm con tin.

Nếu không gặp được quý nhân phù trợ, lo liệu mọi việc chu toàn ở Đế đô suốt mười năm qua, thì Liên Thành có lẽ đã trở thành vật hy sinh của sự tranh giành đấu đá quyền lực, chứ đừng mong có chuyện cầm thánh chỉ trở về cố hương như ngày hôm nay. Nghĩ đến quá khứ năm xưa, lòng căm hận sâu sắc lại dấy lên trong ánh mắt.

“Cậu có ý gì?” – Bỗng nhiên Hoắc Thanh Lôi cười lạnh, dường như có nỗi niềm phẫn nộ đè nén suốt bao năm – “Công tử đối đãi với cậu thế là quá tốt rồi! Nếu không, mười năm về trước, công tử đã sớm để cậu chết cùng với mẫu thân của mình để diệt trừ hậu họa rồi!”

Cao Liên Thành chợt quay đầu lại, nhìn kẻ tay sai của huynh trưởng, tức giận quát – “Đồ nô tài to gan, dám nói những câu này với ta ư? Không được nhục mạ mẫu thân ta! Ngươi chẳng qua cũng chỉ là một kẻ gia thần của Cao thị mà thôi!”

Hoắc Thanh Lôi mỉm cười – “Mẫu thân cậu? Nói cho cậu biết, người giết bà ta là lão thành chủ! Cậu có biết mẫu thân tốt đẹp của mình đã làm những gì không? Khi công tử Thư Dạ mười ba tuổi, bà ta đã ngầm cấu kết với yêu nghiệt Minh giáo dồn công tử vào chỗ chết, khi công tử trở về sau bao nhiêu gian khổ, vất vả, bà ta lại âm mưa hãm hại công tử hết lần này đến lần khác. Lão thành chủ sau khi biết chuyện đã sai người giết chết bà trước khi mình qua đời, như thế thành chủ mới có thể yên tâm nhắm mắt.”

“Nói láo!” - Liên Thành tức giận quát lớn – “Ngươi nói láo, mẫu thân ta đến một con kiến cũng không dám giẫm lên, sao có thể có ý giết Thư Dạ? Sao lại thế được?”

Hoắc Thanh Lôi sầm mặt, vạch trần những điều xấu xa – “Cậu đi hỏi lão Lưu thị vệ hay Trương ma ma đi! Trong phủ ai chả biết, chỉ có điều vì danh dự dòng họ Cao nên đã phải nói với người ngoài rằng phu nhân bị bệnh mà chết. Công tử đối với cậu thế là nhân nghĩa lắm rồi! Phải người khác, liệu cậu có còn sống sót đến ngày hôm nay không?”

Liên Thành trợn mắt nhìn Hoắc Thanh Lôi, không dám tin điều đó là sự thật, lùi bước chân – “Mẫu thân ta không giết người... không thể nào... Bà tín Phật, không bao giờ sát sinh! Không tin ngươi hỏi Lục Cơ xem!”

Trong khi giật lùi, gót chân Liên Thành chạm vào bậc cửa, loạng choạng suýt ngã. Đột nhiên có bàn tay nhẹ nhàng đỡ lấy.

Người con gái mặc áo xanh đã đứng trước cửa tự bao giờ, từ trong bóng tối giơ tay đỡ vị thiếu chủ. - “Đúng vậy, nhị công tử, phu nhân là người tốt, bà thương yêu cậu vô cùng, và đã làm tất cả vì cậu.” - Lục Cơ ngưng lại một hồi, nhìn ánh đèn phát ra từ phía Oanh sào, khẽ cất giọng qua kẽ răng – “Vậy mà tự dưng có kẻ dám ngăn cản vinh hoa phú quý của cả đời cậu – phu nhân làm sao có thể tha cho y!”

Liên Thành sững sờ nhìn gương mặt trong bóng tối – dì Lục đây ư? Là dì Lục năm xưa từng bế cậu ra ngoài chơi, xem dân Tây Phồn nuốt đao nhả lửa, xem thương đội lạc đà, xem mặt trời lặn bên sông? Mười năm cách biệt, gương mặt ngoài ba mươi tuổi trước mắt sao già nua, nhợt nhạt đến thế? Liên Thành bỗng nhiên có cảm giác vô cùng xa lạ.

Hoắc Thanh Lôi nhìn chăm chăm vào gương mặt ngày một già nua và đầy oán độc, ánh mắt từ hoang mang chuyển sang đau đớn.

“Lục nhi, hà cớ phải khổ như vậy?” – Hắn không thể không khuyên nhủ người bạn thanh mai trúc mã một lần nữa. – “Nàng xem, nhị công tử chẳng phải đã trở về rồi sao? Những ân oán ngày xưa đừng nhắc đến nữa được không? Dù sao cũng là máu mủ ruột già, thành chủ sẽ không làm khó nhị công tử đâu, sẽ cùng hưởng phú quý như trước. Ta xin thành chủ đồng ý cho cưới nàng, sau đó chúng ta cùng nhau sống ở thành Đôn Hoàng này, như vậy không phải là tốt rồi hay sao?”

Những lời nói thành khẩn, thật thà như vậy được nói ra từ miệng vị tướng quân tay nắm trọng binh, mang sức mạnh khiến người ta không thể không tin.

Vẻ mặt của Liên Thành vẫn trắng bệch, dường như vẫn chưa tin nổi năm xưa mẫu thân của mình đã từng âm mưa hãm hại huynh trưởng. Lục Cơ lạnh lùng nhìn Hoắc Thanh Lôi, rồi đột nhiên phá lên cười – “Được thôi, nếu chàng đảm bảo thành chủ không hại đến công tử Liên Thành, ta đồng ý lấy chàng!”

“Tốt lắm!” - Hoắc Thanh Lôi vui mừng khôn xiết, không cầm nổi lòng bước tới nắm lấy tay Lục Cơ.

Lục Cơ khẽ cưỡng lại, đầu ngoảnh về phía bóng tối. Đôi bàn tay của người con gái ấy khô gầy như củi, lạnh lẽo mà ẩm ướt, không ngừng run rẩy. Thế nhưng, đã mười năm trời không được nắm bàn tay ấy, nỗi niềm hạnh phúc lẫn với xót xa trào dâng trong lòng, Hoắc Thanh Lôi cứ nắm mãi không nỡ buông ra.

Hắn không hề hay biết bên trong bóng tối, có dòng lệ đang tuôn dài nơi khóe mắt của người con gái trước mặt. Tiểu Hoắc, bọn ta là thanh mai trúc mã, ngày nay không ngờ đã đến mức phải biểu lộ cảm tình bằng cách bàn thảo giao dịch trao đổi như vậy sao?

Thành Đôn Hoàng cuối mùa thu lại chìm trong phù hoa và huyên náo.

Các đội lạc đà ra ra vào vào, khách thương các nước nối đuôi nhau tới xin cầu kiến thành chủ. Mức thuế cao gấp mười khiến họ lẩm nhẩm rủa thầm trong bụng, nhưng vẫn phải chấp nhận để có được dấu ngọc tỷ vào giấy tờ phá quan, để được ra khỏi Đôn Hoàng thành, hi vọng hàng hóa khi tới nơi sẽ bán được giá cao.

Công tử Thư Dạ vẫn là đế vương nắm quyền sinh sát của cả vùng, quyết định tất cả mọi việc trên cổ đạo này. Công tử vẫn luôn ăn chơi xa xỉ, nhưng đồng thời cũng vẫn điều khiển, sắp xếp mọi việc chính sự, quân sự trong thành một nghiêm chỉnh, trật tự. Không một ai dám cả gan phá vỡ trật tự như thép này, lại càng không ai dám hỏi: công tử Liên Thành trở về mấy hôm trước tình hình ra sao?

Mấy ngày qua Dao Hoa lâu dần dần có hơi người nhiều hơn, không u ám trầm mặc như trước nữa.

Có lẽ được sự cho phép của thành chủ, mấy ngày nay Hoắc Thanh Lôi thường xuyên đến Dao Hoa lâu, nét mặt rạng rỡ trông thấy. Trong khi đó, thần sắc Lục Cơ vẫn lạnh nhạt, chỉ thỉnh thoảng thuận miệng đáp vài câu, ánh mắt muốn lảng tránh. Hoắc Thanh Lôi là kẻ dễ dàng mãn nguyện, hắn sợ Lục Cơ bị giam cầm lâu ngày không quen với thế giới bên ngoài, bèn nhiệt tình đưa Lục Cơ đi khắp mọi nơi, trong ngoài không hề cấm kỵ. Còn nhị công tử Liên Thành thì ngày nào cũng ở trong lầu hò hét đòi gặp huynh trưởng, nhưng khi thấy công tử Thư Dạ say túy lúy dắt mĩ nữ đến, chàng lại không biết phải nói gì, đành câm lặng đứng nhìn.

Vài ngày trôi qua. Dường như trong thành đang có một hố băng lạnh lẽo ngăn cách, bề mặt thì bằng phẳng không gợn sóng, dưới đáy lại đang âm thầm cuộn lên những đợt sóng ngầm dữ dội, chỉ trực trào dâng mạnh mẽ.

Ngày thứ tư, sau khi cùng Lục Cơ dùng bữa sáng, Hoắc Thanh Lôi ra sân sau kiểm tra như thường lệ.

Vừa vào đến nơi, hắn đã giật mình khi trăm cỗ xe vàng bạc châu báu đã không cánh mà bay chỉ sau một đêm.

Đã mười năm nay, hằng năm cứ đến mùng mười tháng mười, công tử lại dặn thuộc hạ chuẩn bị một trăm cỗ xe đầy vàng bạc châu báu, năm ngày sau, tức là vào đêm rằm, những cỗ xe sẽ bí mật biến mất, không ai biết là đi đâu.

Thế nhưng hôm nay mới là mười bốn, những cỗ xe đã được mang đi rồi sao? Tại sao lại sớm một ngày so với mọi khi?

Hoắc Thanh Lôi đã thấy trong lòng lo lắng, muốn tìm gặp thành chủ để bẩm báo, nhưng không ngờ lại bị ngăn không cho vào. Đám lính canh Oanh sào nói, công tử dặn hôm nay không tiếp khách, cũng cho bất cứ một ai bước chân vào Oanh sào.

Hoắc Thanh Lôi buồn bã trở về, trước sự thăm hỏi ân cần của Lục Cơ, hắn đã kể cho ả nghe điều kỳ lạ vừa xảy ra, Lục Cơ cười, nói hắn là hay nghĩ ngợi, công tử Thư Dạ ở trong chốn phồn hoa đó ăn chơi hưởng lạc vài ngày cũng không có gì lạ. Nhưng ẩn sau nụ cười ấy, dường như trong lòng ả đang ngấm ngầm một điều gì đó, ánh mắt sắc nhọn có vẻ gian tà, tay không ngừng chuốc rượu Hoắc Thanh Lôi.

Hơi rượu khá mạnh khiến Hoắc Thanh Lôi uống được ba chén đã say, gục đầu xuống bàn thiếp đi lúc nào không biết.

Lục Cơ dáo dác ngó nhìn xung quanh, thấy Liên Thành không để ý, bèn nhẹ nhàng lấy trộm lệnh bài và chùm chìa khóa dắt bên hông Hoắc Thanh Lôi, lấy ra nắm đất mềm đã chuẩn bị sẵn, ấn chìa khóa vào để đánh một chiếc mới, sau đó nhanh chóng trả lại chỗ cũ. Xong xuôi, Lục Cơ nhìn kẻ đang say xỉn trước mặt, cười thầm, ánh mắt vô cùng phức tạp. Quả nhiên không ngoài dự liệu của ả: công tử Thư Dạ khó đối phó, nhưng tên thuộc hạ khờ khạo của y thì thật đơn giản. Nhưng rồi ả cười đau khổ, nếu Tiểu Hoắc không phải là tâm phúc của Cao Thư Dạ thì tốt biết mấy... như thế, ả sẽ không phải làm như vậy với hắn. Nhưng sự đời quả là dồn ép con người, đến tình cảnh như ngày hôm nay, nếu ả không nhanh tay, thì e rằng công tử Liên Thành sẽ chết mất!

Những năm qua, tuy bị giam lỏng trong thành Đôn Hoàng, hành động không tự do, nhưng Lục Cơ vẫn không ngừng nghe ngóng tin tức, động thái của cả thành. Ả ngầm đoán rằng, công tử Thư Dạ ngông nghênh coi thường phép tắc, lại sa đọa như thế, vậy mà vẫn có thể ngồi yên trên vị trí thành chủ suốt bao năm, ắt là phải có một thế lực triều đình hùng mạnh nào đó hỗ trợ đằng sau. Những cỗ xe vàng bạc châu báu hằng năm không rõ được đi đâu còn là một dấu hỏi lớn. Công tử Thư Dạ chắc chắn phải có đồng đảng trong triều đình Đại Dận.

Thế nhưng, ả không ngờ kẻ đó lại ra tay nhanh như thế. Liên Thành vừa mới cầm thánh chỉ trở về thành Đôn Hoàng không đầy mười ngày, kẻ đó đã từ Đế đô tới!

Công tử Thư Dạ chưa giết Liên Thành, có phải vì e ngại thánh chỉ? Nhưng hôm nay, kẻ bí ẩn kia đã đến, công tử Thư Dạ được đồng đảng yểm trợ liệu có lập tức trở mặt? Vì thế ả phải nhanh chóng nghĩ ra cách nào đó, không thể để thiếu chủ chết trong tay Cao Thư Dạ được!

Liên Thành là máu mủ duy nhất còn lại của Dao Hoa phu nhân, ả làm sao có thể ngồi nhìn cho được?

Trong mật thất, mĩ nhân ai nấy mặt mày thất sắc nhìn công tử Thư Dạ giận dữ gạt đổ chén bát, quát nạt chửi mắng.

Hắc y nam tử ngồi đối diện không hề động đậy, nhìn những ly vàng đĩa ngọc vỡ tan ở dưới đất, miệng khẽ nhếch lên một nụ cười. Tay y cầm một con dao nhỏ, phong thái ung dung nhàn nhã. Đầu đội ngọc quan, thân mang trường bào có thêu hình rồng tinh xảo, rõ ràng là trang phục của đệ nhất vương hầu.

Nếu là dân chúng ở Đế đô Trường An, vừa thấy chiếc áo trường bào có thêu hình rồng đó hẳn sẽ nhận ra ngay đó là ai – Đỉnh Kiếm Hầu!

Trong cuộc loạn chiến Tứ Vương nhà Đại Dận, vị hầu gia trẻ tuổi đó xuất thân từ trong dân gian, nhưng không biết tư đâu mà có được tài lược hùng mạnh đến thế, đã tổ chức một đội quân, dùng binh dẹp loạn.

Với khẩu hiệu “Bảo vệ hoàng thượng, thanh trừ nội loạn”, đội quân này đã tiêu diệt bốn phiên vương tác loạn. Sau khi dẹp yên thác loạn, triều đình vương thất suy vị, Đỉnh Kiếm Hầu nhanh chóng trở thành người được Đại Dận đương kim hoàng thượng tín nhiệm nhất, đã đặc chuẩn cho thêu hình rồng trên hắc bào, chứng tỏ ân sủng. Con gái của những dòng dõi tôn thất cao quý đều mong muốn được vinh hạnh kết giao với vị hầu gia trẻ tuổi xuất thân bình dân đó. Hầu gia được phong hiệu “Đỉnh Kiếm”, nghe nói con người cũng như kỳ danh, thủ nhãn thông thiên, trên đến cửu đỉnh chí tôn, dưới đến đao kiếm giang hồ, đều có thể hô mưa gọi gió.

Trong lần các đại môn phái chính giáo liên hợp trình thư khẩn cầu triều đình hạ lệnh tiêu diệt Minh giáo, Đỉnh Kiếm Hầu đã đóng vai trò quyết định.

Nhưng giờ phút này, nhân vật anh hùng có thể một tay xua mây che mưa đó lại bí mật rời Đế đô, xuất hiện trong căn mật thất của Đôn Hoàng thành xa xôi, để rồi ngồi đây nghe chửi mắng! Y nhìn quanh, bỗng thấy một bình bích ngọc nhỏ trên bàn, không khỏi chau mày, rồi nhét vào trong ống tay áo – “Sao vẫn dùng cái thứ này? Muốn chết thì chết cho dứt khoát chứ? Ta tịch thu.”

Công tử Thư Dạ đang vô cùng giận dữ, hoàn toàn mất đi vẻ lạnh lùng hằng ngày, quát mắng – “Mặc Hương, suốt mười năm qua ngươi đã làm gì thế hả? Hàng năm ngươi nhận của ta bao nhiêu tiền như thế, vậy mà lại đem trả cho ta một thằng khờ!”

Dường như tức giận đến đỉnh điểm, một ánh gương sáng choang lóe lên - Công tử muốn giết người! Đám mĩ nữ sợ hãi kêu lên thất thanh, sau tiếng kim thiết giao kích, Thừa Ảnh kiếm chỉ cách cổ của người khách có một tấc.

Trên tay Đỉnh Kiếm Hầu là một thanh trường kiếm có màu đen, trong tích tắc đã ngăn được nhát kiếm của công tử Thư Dạ.

“Hừ, dù sao cũng là tiểu đệ của ngươi, sao cứ mắng là tên khờ thế?” - Đỉnh Kiếm Hầu cười, cổ tay chuyển động, thân kiếm không ngừng rung động nhẹ, trong chốc lát đã đỡ gọn bảy nhát kiếm, vừa nói vừa thở - “Mặc dù... đối với chúng ta thì nó thật khờ khạo... khờ giống như...”

Nhát kiếm cuối cùng, hỏa tinh bắn tứ phía. Hai thanh kiếm giao nhau, hai nam tử đều lùi ba bước, bất phân thắng bại.

“Khờ khạo giống như ngươi mười năm về trước!” - Đỉnh Kiếm Hầu thở một hơi rồi buông ra câu nói đó – “Cho nên ngươi nhìn nó không thuận mắt đúng không?”

Công tử Thư Dạ tức giận nhìn đối phương, nhưng quả thật câu nói vừa rồi giống như một lưỡi dao sắc nhọn đâm trúng vào tim đau nhói, khiến y không sao cất lên lời. Hồi lâu sau, y vứt thanh Thừa Ảnh xuống đất, quát – “Người như thế, làm sao có thể làm thành chủ Đôn Hoàng? Ta coi ngươi như huynh đệ mới nhờ cậy ngươi chăm sóc dạy dỗ Liên Thành – nhưng ngươi lại dạy nó thành một kẻ khờ!”

“Tại sao ta phải dạy nó để trở thành một thành chủ? Đôn Hoàng thành chủ là ngươi!”

Công tử Thư Dạ dường như muốn nói điều gì đó nhưng lại im lặng. Lát sau, y phẩy tay bảo đám người hầu lui ra, quay người đi và hạ giọng nói – “Hôm nay mới là mười bốn, sao ngươi đã thân chinh đến lấy một trăm xe vàng bạc châu báu? Ngươi dễ dàng bỏ Đế đô đi như thế mà không sợ chính cục ở đó có biến sao?”

“Ai thèm một trăm cỗ xe đó của ngươi? Chính cục có biến mà ta dám rời đi sao?” - Đỉnh Kiếm Hầu búng tay lên thanh trường kiếm, lắng nghe tiếng rung ngân vang, ánh mắt chợt sáng lên – “Ta biết nàng đã đến. Ta muốn đến Đôn Hoàng trước khi ngươi gặp nàng.”

“Sao ngươi biết là nàng đã đến?” – Không cần hỏi “nàng” là ai, công tử Thư Dạ ngạc nhiên.

“Tại sao ta lại không biết chứ?” – Ánh mắt Đỉnh Kiếm Hầu lướt khỏi thân kiếm, nhìn thẳng vào Đôn Hoàng thành chủ - “Ta là Mặc Hương, ngươi là Cao Thư Dạ. Chúng ta là huynh đệ, có chuyện gì có thể giấu được ta chứ? Ngươi bất chợt viết thư, muốn ta đưa Liên Thành từ Đế đô về, ta đã biết ngay là có biến. Lúc đó, ngươi đã liệu đến việc tổng đàn Minh giáo phái Sa Mạn Hoa đến Đôn Hoàng?”

Công tử Thư Dạ không đáp, quay đầu nhìn ra ngoài sân, trầm mặc một cách cố chấp.

“Không liên quan đến ngươi. Trước đây chẳng phải đã nói rõ ràng rồi sao, ngươi phụ trách Trung Nguyên, ta phụ trách Tây Vực.” – Thư Dạ lạnh lùng – “Mỗi năm ta giao cho ngươi số tài sản lớn như vậy để ngươi tổ chức quân đội, tư thông với triều đình trên dưới, ngươi chỉ cần nắm chắc chính cục ở Đế đô, chăm sóc Liên Thành. Việc ở Đôn Hoàng, không cần ngươi nhúng tay.”

“Sao lại không cần ta nhúng tay? Lẽ nào ta phải giương mắt nhìn ngươi đi vào chỗ chết ư?” - Đỉnh Kiếm Hầu bực mình, vung kiếm chém xuống một nhát, một đoạn lan can bạch ngọc vỡ vụn. Rồi y rút bình ngọc bích ban nãy từ ống tay áo của mình, giơ lên lắc nhẹ - “Mười năm rồi, ngươi vẫn còn dùng loại thuốc này sao? Hãy tỉnh lại đi! Ta biết ngươi nghĩ gì: Mười năm trước, ngươi đã muốn được chết trong tay nàng, đến nay vẫn vậy! Cho nên ngươi giục ta phải đưa Liên Thành về gấp để ngươi đi chết, phải không?”

“Phải đấy, vậy thì sao nào?” – Bị hàng loạt câu hỏi đầy phẫn nộ kia dồn ép đến không nói được gì, công tử Thư Dạ phá lên cười và thừa nhận – “Ta thấy sống chẳng có gì vui, chi bằng chết đi cho rồi. Coi như một đời người, cái gì cũng đã trải qua!”

Đỉnh Kiếm Hầu sững người, lặng thinh nhìn người huynh đệ bề ngoài trẻ trung, tuấn tú, vậy mà bên trong thì suy sụp, chán chường.

Suốt mười năm qua, y đã xoay chuyển binh quyền giữa chiến loại, tận lực phấn đấu và thăng tiến, đây là lần đầu tiên dừng bước khi nhìn thấy tử khí nặng nề trong ánh mắt người huynh đệ của mình. Từ ngày mất đi Sa Mạn Hoa ở trên đỉnh Côn Luân năm ấy, nội tâm của Thư Dạ đã bắt đầu trầm mặc. Cố hương Đôn Hoàng không thể mang đến cho y sự ấm áp: phụ thân, mẫu thuân, tiểu đệ... những người quan trọng nhất trong cuộc đời đều lần lượt bỏ y mà đi, để lại y cô độc giữa chốn xa hoa thác loạn này, say rồi tỉnh, tỉnh rồi say, chỉ còn biết nương tựa vào hoang tưởng, ảo ảnh.

Những năm qua, mặc dù nắm giữ Đôn Hoàng, phú quý giàu sang, nhưng sâu thẳm trong tim Thư Dạ, hóa ra đã bị ăn mòn đến tệ hại.

Đỉnh Kiếm Hầu nhìn người huynh đệ cùng vào sinh ra tử, bất giác khẽ thở dài.

Đã mười năm không gặp... trải qua ác mộng bị người ta coi như quân cờ, sau chặng đường thập tử nhất sinh quay về được Đôn Hoàng thành, hai thiếu niên xuất thân từ Tu La Trường năm ấy đã quyết định trở thành kỳ thủ, tự mình nắm giữ cục diện bàn cờ. Họ đã thiết lập thế công thủ liên minh, mỗi người trấn giữ một phương. Mười năm qua, một kẻ khống chế yết hầu của con đường Tơ Lụa, tích lũy tài lực khổng lồ, một kẻ điều binh khiển mã nổi lên từ chiến loạn ở Trung Nguyên, xoay chuyển thời cuộc.

Hai người đã ngấm ngầm hợp tác suốt mười năm qua, dần dần thâu tóm cả thiên hạ về tay mình. Triều đình Đại Dận sau cuộc nội loạn, chư vị phiên vương đều bị tiêu diệt, nhưng nguyên khí của vương thất cũng yếu đi trầm trọng, khắp nơi bắt đầu vùng lên khởi nghĩa, không chịu nghe chỉ lệnh của Đế đô. Đỉnh Kiếm Hầu lấy xuất thân bình dân mà phong hầu, dùng binh thao túng thời cuộc. Vua Cảnh Đế lâm bệnh hiểm nghèo, lại bất tài, bạc nhược. Giờ đây một lời nói của Đỉnh Kiếm Hầu có thể quyết định được cả sự phế lập tân vương. Cả thiên hạ này, không có gì bọn họ không đạt được, không làm được. Thế mà, đến giờ phút này, Thư Dạ lại nói y sẽ không tiếp tục nữa?

Đỉnh Kiếm Hầu trong bộ áo gấm cùng với đai ngọc thất vọng ngồi xuống, nhìn Đôn Hoàng thành chủ hồi lâu rồi hạ giọng – “Chẳng giấu gì ngươi, Cảnh Đế chắc không qua nổi cuối năm nay, ở Đế đô ta đã chọn được một tôn thất yếu kém để chuẩn bị đưa lên kế vị - Đứa trẻ đó sinh ra đã dần độn, không quá tám tuổi, chỉ có một chị gái, không vây cánh, không thế lực hỗ trợ, và đã nhận ta làm á phụ... Năm quyền nhiếp chính vài năm, sau khi mọi thứ tạm ổn thỏa, chúng ta hoàn toàn có thể loại trừ rồi thay thế. Khi đó, thiên hạ chẳng phải sẽ thuộc về chúng ta sao?” – Giọng điệu mưu phản đại nghịch bất đạo như vậy lại cất lên từ miệng của một vương hầu như chuyện hàn huyên thường ngày.

Công tử Thư Dạ khẽ nhíu mày, rồi thơ ơ – “Việc ở Đế đô không cần nói với ta, ngươi tự mình lo là được. Ngươi có con mắt tinh đời, ra tay nhanh gọn, quyết đoán. Ván cờ này, ngươi nhất định có thể nắm trọn.”

“Đây là ván cờ hai ta cùng chơi mà! Ngươi đã quên minh ước dưới thành Đôn Hoàng rồi sao?” - Đỉnh Kiếm Hầu đập lên tay vịn ghế, giận dữ - “Chúng ta sẽ cùng là hoàng đế! Ta làm chính hoàng đế, ngươi làm phó hoàng đế - hoặc giả ngược lại cũng được!”

Nghe vậy công tử Thư Dạ chỉ lắc lắc đầu mệt mỏi – “Ngươi sai rồi. Lúc đó ta định ước với ngươi chỉ là hy vọng có thể liên thủ thực hiện hai việc: một là, diệt trừ Minh giáo; hai là, bố trí cho Liên Thành. Việc thứ nhất, năm nay ngươi đã làm được: Đế đô đã hạ lệnh diệt trừ Minh giáo khắp thiên hạ, chắc chắn rằng công của ngươi là nhiều nhất. Còn việc thứ hai...” - Công tử Thư Dạ thở dài, cười khổ sở - “Năm nay Liên Thành đã hai mươi mốt, mà vẫn khờ khạo như vậy... Nhưng thôi không dài dòng nữa. Minh ước chúng ta coi như đã đến hồi kết thúc.”

Đỉnh Kiếm Hầu nhíu mày, rồi dần hạ bớt khẩu khí – “Ngươi tưởng rằng Đế đô hạ lệnh diệt trừ Minh giáo chỉ là do ân oán cá nhân của ta thôi sao? Diệt Minh giáo, chỉ là để tấn công thế lực Hồi Hột tại Trung Nguyên. Những năm gần đây, thế lực của Hồi Hột quá mạnh, đâu đâu cũng bức ép người. Thương nhân Hồi Hột có quan hệ buôn bán thường xuyên với Trung Nguyên, chủ yếu là mượn Ma Ni miếu của Minh giáo địa phương làm chỗ dừng chân, gửi một số tài vật khổng lồ vào đó, đến cuối năm bắt đầu không ngừng đưa về Hồi Hột. Minh giáo được tôn là quốc giáo của Hồi Hột, sau đó truyền nhập mạnh mẽ vào Trung Nguyên, đến mức độ triều đình đã không thể dung nhận – do đó, sau khi bình định đại loạn Đế đô, phải diệt trừ Minh giáo ngay, qua đó trấn áp thế lực Hồi Hột. Đó là xu hướng của thời thế.”

Công tử Thư Dạ chợt quay đầu nhìn người huynh đệ: ánh mắt lạnh lùng mà sắc sảo ẩn chứa sức mạnh có thể chi phối thiên hạ. Đỉnh Kiếm Hầu tiếp tục nói – “Thực ra, ta cũng không hận Minh giáo, mặc dù quãng thời gian ở Tu La Trường quả thật cực khổ, sống không bằng chết. Nhưng ngươi không biết trước khi ta đi Tu La Trường, đám võ lâm chính phái đã phải chịu đựng gian khổ còn ghê gớm hơn thế rất nhiều lần! Trên dưới triều đình Đại Dận, rồi trong ngoài cung đình, còn bao chuyện tàn khốc ác độc như thế... Ngươi vì mất Sa Mạn Hoa mới hận Minh giáo đến thấu xương. Nhưng thực ra, người ngươi hận phải là ta.”

“Ngươi tưởng ta không hận ngươi sao?” - Công tử Thư Dạ lạnh lùng. Trong thoáng chốc, Đỉnh Kiếm Hầu chợt sững lại. Câu nói lạnh băng kia tựa như một mũi đinh xuyên qua nội tạng của y.

“Làm huynh đệ mười lăm năm, ta chẳng nhẽ lại không hiểu ngươi?” - Công tử Thư Dạ xoa tay trên lan can bạch ngọc – “Có thật ngươi sẽ chịu nhường cho ta làm chính hoàng đế không? Con người của ngươi luôn không cam tâm làm người dưới, muốn tự mình thao túng cục diện, nếu bị người ta sử dụng, tất coi là sỉ nhục lớn, thủ đoạn báo thù ắt khốc liệt. Ở võ lâm Trung Nguyên như vậy, trên Côn Luân như vậy, và tại Đế đô lại càng như vậy!”

Yết hầu của Đỉnh Kiếm Hầu khẽ rung nhẹ như muốn nói điều gì, nhưng rồi lại không nên lời.

“Ta và ngươi vốn khác nhau, hồi đó ta chỉ cần được cùng Sa Mạn Hoa bình an giai lão, có lẽ cũng chẳng nghĩ đến ý thoát khỏi Tu La Trường. Còn ngươi thì chí lớn bay xa, mưu cầu không giới hạn.” - Công tử Thư Dạ sắc mặt tái xanh, như có một sự mệt mỏi tồn tích bao ngày, giọng nói bình tĩnh mà sắc bén – “Rồi sẽ có lúc ngươi thấy không dung được ta. Mà ta lại không muốn chết trong tay ngươi.”

“Nói láo!” - Đỉnh Kiếm Hầu không nhẫn nhịn được nữa, cất tiếng quát lớn – “Cao Thư Dạ! Đừng tự cho là mình thông minh như thế!”

“Vậy tại sao ngươi lại dạy Liên Thành thành một kẻ như vậy?” - Công tử Thư Dạ bất chợt quay đầu lại, ánh mắt sáng lên đầy yêu ma, cực kỳ đáng sợ - “Hay là ngươi nghĩ người như vậy thích hợp trở thành minh hữu của mình hơn? Liên Thành ở Đế đô mười năm, việc gì cũng nhất nhất nghe lời ngươi giáo huấn, coi ngươi như cha, như thầy, hoàn toàn tin tưởng ngươi – ngươi muốn minh hữu như thế có phải không?”

Đỉnh Kiếm Hầu nhìn công tử Thư Dạ, ánh mắt biến đổi, có vẻ như bắt đầu không còn nhận ra người bằng hữu đã từng cùng vào sinh ra tử - “Mà có khi cũng tốt... Liên Thành tính khí như vậy, được ngươi chiếu cố cho, có khi lại có thể bình an lâu dài.” - công tử Thư Dạ hít một hơi thật sâu, cười lạnh – “ta đưa nó đến Trường An, một là để tránh khỏi phải thường trực đề phòng, hai là vì nghĩ nếu để nó làm con tin bên cạnh ngươi, ngươi nắm con bài đó, ít nhất nội trong mười năm, ngươi cũng không dễ dàng trở mặt với ta.”

Mấy câu nói bình tĩnh mà sắc bén, như lưỡi kiếm nhọn cứa vào lòng đau nhói, sắc mặt Đỉnh Kiếm Hầu từ từ biến chuyển, muốn nói nhưng không sao cất nên lời, các ngón tay khép chặt thành nắm đấm, ánh mắt sâu thẳm như vô tận...

“Ngươi nghĩ vậy thật sao?” - Một hồi lâu sau, Đỉnh Kiếm Hầu mới từ từ mở miệng – “Mưu tính của ngươi thâm sâu lắm!”

Công tử Thư Dạ khẽ mỉm cười – “Ngươi cũng vậy.”

Tiết trời đầu đông lạnh giá như băng, giữa bầu không khí của buổi sớm mai, một màn sương trắng mỏng mảnh đang buông mình trên những đoá quỳnh rực rỡ. Trong sương, ngói lưu ly lấp lánh ánh vàng, quang cảnh thật lộng lẫy, xa hoa. Đỉnh Kiếm Hầu nhìn Đôn Hoàng thành chủ một hồi lâu, rồi cầm lấy bình bích ngọc, vuốt áo đứng dậy, lạnh lùng nói – “Cáo từ!”

Công tử Thư Dạ chỉ khẽ gật đầu – “Không tiễn!”

Bóng áo đen vội vã bước đi trên mật đạo ở Oanh sào, xuyên qua tầng tầng lớp lớp khinh sa mỏng mềm. Tiếng chim oanh, yến không ngừng ríu rít. Đỉnh Kiếm Hầu có cảm giác như được quay về chốn Lạc viên trên Côn Luân tuyết vực – đã mười lăm năm trôi qua – bọn họ đã từng cùng tìm hơi ấm trong cái mền bông rách tươm, cùng chém bay đầu đối thủ tại Tu La Trường Sinh Tử Giới, cùng liên thủ hành thích, chấn động các quốc gia Tây Vực, cùng quyến luyến khói đất hứa xứ trời, cùng tạo phản trốn ra khỏi Quang Minh đỉnh, một đường lặn lội xuyên vượt núi tuyết đại mạc về đến Đôn Hoàng...

đã từng kề vai nhau ứng chiến loạn thế, từ chỗ là một con cờ nay đã thành kỳ thủ có thể thao túng cả thiên hạ, bao nhiêu sinh tử vinh nhục đều đã trải qua - đến cuối cùng, người huynh đệ cùng vào sinh ra tử kia sao quá lắm mưu tính, sao bỗng nhiên như người xa lạ? Đỉnh Kiếm Hầu chợt thấy lệ dâng nơi khoé mắt, bao nhiêu cảm xúc trào lên. Kẻ quyết đoán hành xử tàn độc như y vẫn không khỏi dừng bước, quay đầu nhìn bóng bạch y giữa mê lầu trùng điệp. Huynh đệ sinh tử của ta!

Gió sớm mang theo hơi lạnh, luồn qua những sợi tóc đen dài bay phấp phới. Đôn Hoàng thành chủ đứng dựa lan can, không hề quay đầu lại, tay gõ nhịp lên thành lan can, cất tiếng hát:

“Chẳng ngại giang sơn khốn cùng, tử sinh tri kỷ chênh vênh. Bảo đao ca khóc về ảo mộng, mây gió tung hoành phủ tay không. Tựa lan can không nói, thăng trầm buông tiếng đàn: hỏi anh hùng, đâu hỡi anh hùng?”

“Hỏi anh hùng, đâu hỡi anh hùng?” - Đỉnh Kiếm Hầu lẩm nhẩm nhắc lại, chuẩn bị ra về, nhưng chợt ngẩng đầu nhìn lên trời.

Tì nữ thấy khách đã ra về, định vào trong thay áo cho công tử, bỗng nhìn thấy một luồng sáng vụt qua như điện, cắm vào mái ngói lưu ly của mê lầu.

Công tử Thư Dạ lướt nhẹ như cánh hạc, nhảy lên trong tích tắc, chiếc kim tiễn đã nằm gọn giữa hai đầu ngón tay. Trên tiễn có kẹp một phong thư trắng: “Côn Luân Đại Quang Minh cung Tinh Thánh Nữ Sa Mạn Hoa, gửi Đôn Hoàng thành chủ Cao Thư Dạ.”

Đó là một phong chiến thư, hẹn chính ngọ ba ngày sau, trên đỉnh Kỳ Liên sơn bên ngoài Đôn Hoàng thành, quyết một trận tử chiến. Nếu nàng may mắn chiến thắng, Thư Dạ phải mở cửa Đôn Hoàng thành, để Minh Giáo tiến về Trung Nguyên; còn nếu nàng thất bại, sẽ lập tức dẫn giáo dân trở về tổng đàn ở Côn Luân, tuyệt không đặt chân tới Trung Nguyên nữa. Thư viết ngắn gọn, nhưng y lại ngơ ngẩn hồi lâu, khoé miệng hé lộ một nụ cười.

Cuối cùng thì nàng đã đến. Cũng may là Mặc Hương đã ra khỏi Oanh sào. Nếu y thấy phong thư này mà nhúng tay vào, thì mọi an bài của Thư Dạ sẽ ta tành hết.

Không cần bút mực giấy nghiên, công tử Thư Dạ khẽ vuốt ngón tay lên lưỡi kiếm sắc nhọn, dùng máu viết hai chữ: “Như hẹn.”

Sau đó công tử gập ngón tay trỏ, búng một cái lên đuôi kim tiễn, luồng chớp điện màu vàng đó lập tức lần theo quỹ đạo cũ, xuyên qua tầng tầng lớp lớp cao lầu và cây cối, rồi mất hút trong thoáng chốc.

Lúc này, khi người tì nữ tiễn khách quay đầu lại, bóng vị khách thần bí cũng đã mờ xa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 7-2-2013 14:56:22 | Xem tất
HỒI 8: MAI NGHÊ NHÃ


Ngoài Đôn Hoàng thành, những chiếc lều vải được chăng ngay giữa biển cát, bao quanh một chiếc lều vải màu vàng ở giữa.

Bên trong lều vàng, hàng trăm giáo đồ đang vây quanh một nữ tử, quỳ lạy dưới đất, sắc mặt cung kính, hoan hỉ. Cả trưởng lão Diệu Thủy là người có công lao và danh phận to lớn cũng phải cung đứng một bên nghe lệnh của nữ tử đó.

Nữ tử đó là người Hồ vùng Tây Vực, tuổi đã quá tam tuần, có làn da bánh mật và đôi mắt xanh thẫm, tuy không thật đẹp, nhưng vầng trán cao ngời và ánh mắt quyết đoán lại ẩn chứa một sức hấp dẫn kỳ lạ - Đó chính là Nguyệt Thánh Nữ Mai Nghê Nhã, vừa trải qua chặng đường ngày đêm không ngừng nghỉ từ Hồi Hột về đến đây, cũng là nhân vật quyền lực thứ hai chỉ sau có Giáo vương trong Minh giáo, là công chúa và giáo mẫu của Hồi Hột. Một kẻ áo đen dâng lên mũi kim tiễn có ghim tờ phúc đáp của chiến thư.

“Hừ, quả nhiên không ngoài dự liệu của ta. Cao Thư Dạ đã chịu ứng chiến. Nhưng kỳ lạ thật tại sao lại đẩy giờ hẹn lên lúc mặt trời mọc? Thế này ta phải lệnh cho quân Phụ Hãn vượt hiểm nguy cấp tốc đến ngay.” – Vừa trải qua vùng biển cát mênh mông ngàn dặm để đến Đôn Hoàng, ánh mắt Mai Nghê Nhã hoàn toàn không có chút mệt mỏi, vẫn lạnh lùng và kiên định – “Tinh Thánh Nữ chưa tỉnh sao?”

Đám giáo dân y phục lam lũ còn chưa kịp trả lời, một bóng áo đen đã quỳ gối, dõng dạc đáp – “Chưa ạ.”

Kẻ đó là một trong số thập nhị hắc y đao khách đi cùng với Nguyệt Thánh Nữ Mai Nghê Nhã, đều xuất thân từ Tu La Trường của Côn Luân Quang Minh đỉnh, là đội ngũ tinh anh được đào tạo bồi dưỡng sau trường hạo kiếp mười năm trước, kỹ thuật cao siêu vô cùng. Nguyệt Thánh Nữ Mai Nghê Nhã chính là chủ nhân của đám cao thủ đó.

“Hừ, xem ra kim châm có ảnh hưởng rất lớn đến não bộ của nó.” - Mai Nghê Nhã khẽ cau mày, nhìn mũi kim tiễn thủ hạ mang về lẩm bẩm – “Nếu không thì sao ta chỉ làm một thuật pháp nho nhỏ mà tới giờ nó vẫn chưa tỉnh?”

Trưởng lão Diệu Thủy thận trọng cúi mình, trong lòng lo lắng – “Nguyệt Thánh Nữ, hôm trước khi giao thủ với Đôn Hoàng thành chủ, Tinh Thánh Nữ đã rơi vào thế hạ phong – thuộc hạ e rằng Tinh Thánh Nữ không đủ sức dẫn dắt giáo đồ vượt qua Đôn Hoàng, nên mới phải khiến Nguyệt Thánh Nữ nhọc công từ xa đến. Chỉ là... thuộc hạ rất lo lắng, cuộc quyết đấu ở Kỳ Liên sơn lần này, Tinh Thánh Nữ e rằng không phải là đối thủ của Cao Thư Dạ.”

“Con bé này vẫn thật hồ đồ quá!” - Mai Nghê Nhã cười lạnh – “Thật nực cười... Võ nghệ của y là do Sa Mạn Hoa dạy, vậy mà mười mấy năm sau, đồ đệ lại vượt cả sư phụ ư?”

Trưởng lão Diệu Thủy mặc nhiên đáp – “Nguyệt Thánh Nữ hiểu cho, năm sau đó sau khi bắn tiễn trúng ngực Cao Thư Dạ, suốt hai năm liền Tinh Thánh Nữ không hề động vào cung tên, võ thuật cũng bỏ bê. Vì thế đến nay kẻ tiến người lùi cũng là đương nhiên.”

Mai Nghê Nhã lại cười, ánh mắt đầy miệt thị - “Con bé này làm gì cũng không xong! Thảo nào Giáo vương ra lệnh: nếu Sa Mạn Hoa không thể phá được Đôn Hoàng thành để dẫn giáo đồ tiến về Trung Nguyên, toàn cục sẽ do ta đương đảm – Ta đã sớm có kế hoạch rồi, ngươi cứ yên tâm.”

E ngại trước giọng điệu và uy phong của Nguyệt Thánh Nữ, trưởng lão Diệu Thủy chỉ biết cúi đầu vâng lệnh.

Một hắc y sát thủ tiến vào trong lều, quỳ xuống báo cáo – “Bẩm Nguyệt Thánh Nữ, Tinh Thánh Nữ đã hồi tỉnh!”

“Tốt lắm!” - Mai Nghê Nhã gõ án, lập tức đứng dậy – “Mau dẫn ta đi thăm nó, nhanh lên.”

Trưởng lão giật mình trước sự nóng vội của Nguyệt Thánh Nữ, còn do dự chưa muốn đi theo. Thế nhưng, khi bà mở tấm rèn căn lều nơi Sa Mạn Hoa đang nghỉ ngơi thì bàng hoàng bởi cảnh tương trước mắt: Nguyệt Thánh Nữ kéo Tinh Thánh Nữ trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê ngồi dậy dựa vào cột giữa lều, lẩm bẩm dặn dò gì đó, âm thanh kéo dài và quái dị.

Diệu Thủy cố gắng lắng nghe, thấy thần trí dần mơ hồ.

Nhiếp tâm thuật! Nguyệt Thánh Nữ đang dùng Nhiếp tâm thuật đối với Tinh Thánh Nữ!

Trưởng lão tròn mắt kinh sợ, muốn thốt lên nhưng lại kịp thời kìm được. Đợi đến khi Mai Nghê Nhã thực hiện xong Nhiếp tâm thuật, Sa Mạn Hoa đã thiếp đi, trưởng lão mới thở dài nhẹ nhõm.

Nguyệt Thánh Nữ quay lại nhìn vẻ hoảng sợ của trưởng lão, nhếch miệng cười – “Sao, kinh ngạc lắm hả?”

Diệu Thủy không dám nhìn thẳng vào ánh mắt lạnh lùng sắc bén kia, luống cuống cúi xuống – “Không dám, Nguyệt Thánh Nữ ắt có lý do riêng ạ”

“Diệu Thủy, bà càng già càng biết ăn nói đấy nhỉ?” - Nguyệt Thánh Nữ cười như phá lên đặt Sa Mạn Hoa xuống giường, cúi đầu xuống mở mi mắt nàng, rồi gật đầu – “Ta dùng Nhiếp tâm thuật để cho nó từ bỏ những ý niệm vớ vẩn, có thể toàn tâm đối phó với Cao Thư Dạ. Ngươi nói xem, đó có phải là cách tốt không?”

Diệu Thủy rùng mình, không dám trả lời.

Nguyệt Thánh Nữ đứng lên, thở dài – “Ngươi nói tam muội thất bại là do võ công kém ư? Năm xưa Cao Thư Dạ đã phụ nó, nó phẫn nộ đến cùng cực mà bắn liền mười ba tiễn – Với tiễn thuật của nó, nếu không vì dung tình, tại sao mười ba tiễn vẫn không trúng tim? Mười năm trước khi trong lòng căm hận mà còn như thế, đến giờ ta e con bé chẳng giương nổi cung lên.”

Trưởng lão thấp thỏm không dám cắt lời, trong lòng nghĩ thầm: Tam thánh nữ của Quang Minh Giới chỉ là tỉ muội trên danh nghĩa, mặc dù cùng nhau lớn lên trên đỉnh Côn Luân, nhưng rất ít khi đi lại với nhau, thậm chí còn không ngừng câu kết đấu đá. Nhưng không ngờ rằng, Nguyệt Thánh Nữ lại hiểu rõ về tiểu muội bé nhất của mình đến thế.

Mai Nghê Nhã nhìn Sa Mạn Hoa say sưa ngủ hồi lâu, ánh mắt vẫn lạnh lùng – “Không được mền lòng, Sa Mạn Hoa! Mười năm trước chính tại muội đã khinh suất, khiến Quang Minh đỉnh đẫm máu – Mười năm sau, ta lệnh cho muội hễ nhìn thấy y, không được nghe bất cứ lời xảo biện nào của y, hãy giương ngân cung lên bắn thẳng vào tim y!”

Sa Mạn Hoa như đang gặp phải ác mộng, toàn thân co giật, giẫy giụa, trám đẫm mồ hôi, môi mấp máy nhưng không sao cất lời.

Diệu Thủy đứng lặng hồi lâu mới dám hỏi – “Ngộ nhỡ Tinh Thánh Nữ thua thì sao? Chúng ta phải ăn nói thế nào với Bái Nguyệt Giáo ạ?”

Mai Nghê Nhã vẫn lạnh lùng – “Thua thì thôi – Chỉ cần nó cầm chân Cao Thư Dạ một ngày là đủ. Không phải nghĩ đến Bái Nguyệt Giáo: Khi giáo phái chúng ta bị bao vây tiêu diệt, bọn họ là minh hữa ở Nam Cương mà lại khoanh tay đứng nhìn! Quan hệ giữa giáo ta và Bái Nguyệt giáo đã cắt đứt, không cần phải e ngại gì cả.”

Câu nói lạnh lùng đó khiến vị trưởng lão rùng mình, cúi đầu không nói. Bà ta biết, Nguyệt Thánh Nữ chỉ coi Tinh Thánh Nữ một quân cờ có thể gạt bỏ bất cứ lúc nào.

Dường như cũng cảm thấy câu nói của mình hơi quá vô tình. Mai Nghê Nhã mỉm cười, bổ sung một câu – “Đương nhiên nếu sống sót trở về được là tốt, dù sao thì để nuôi dưỡng được Tinh Thanh Nữ như ngày hôm nay, giáo ta đã tốn không ít công sức. Vì thế, ba ngày nữa, bà hãy đi cùng với Tinh Thánh Nữ đến Kỳ Liên Sơn – sau cuộc quyết chiến hãy đưa nó đuổi theo đội quân của ta.

Nói đến đây có một hắc y đao khách quỳ gối bên ngoài, tay cầm một tờ giấy da dê, bẩm báo – “Nguyệt Thánh Nữ có tin bẩm báo từ Đôn Hoàng thành!”

Vừa nghe tin báo, nét mặt vui mừng hiện lên giữa hàng lông mày, Mai Nghê Nhã bật dậy – “ Mau mang lại đây cho ta!”

Cuộn giấy da dê mền mại được từ từ mở ra, Trưởng lão Diệu Thủy thốt lên kinh ngạc – “Trời ơi, đây là... binh đồ phòng thủ của Đôn Hoàng thành!” Mai Nghê Nhã phá lên cười hả dạ, ngón tay chỉ vào những nét vẽ dầy đặc chi chít trên tấm bản đồ - “Đúng là trời giúp ta, đúng vào lúc này lại mang đến cho ta món quà quý giá thế này!”

Trưởng lão Diệu Thủy giật mình nhìn Nguyệt Thánh Nữ - “Là ai vậy ạ?”

Mai Nghê Nhã gật đầu, mỉn cười – “Lục Cơ. Đó là ả đàn bà mà từ lâu Cao Thư Dạ đã không để mắt tới. Vốn dĩ ả là người Hồi Hột, vì cuộc sống bức bách nên phải vào phủ Cao thị làm tì nữ. Sau đó, ả được Dao Hoa phu nhân yêu thương, đã coi bà ta như mẹ ruột của mình. Để diệt trừ Cao Thư Dạ, Dao Hoa phu nhân đã gia nhập giáo ta, tín phụng Minh Tôn.”

Trưởng lão Diệu Thủy ngộ ra – “Năm đó giáo ta bắt cóc Cao Thư Dạ là vì thế?”

“Đúng vậy.” - Nguyệt Thánh Nữ lạnh lùng gật đầu – “Ban đầu vốn định giết y nhưng Giáo vương lại thấy y có tư chất xuất chúng, muốn giữ lại làm sát thủ trong Tu La Trường. Kết quả là gây ra bao phiền phức... Cao Thư Dạ bị bắt đi, Dao Hoa phu nhân lập Liên Thành lên làm thế tử, như thế, Đôn Hoàng thành không phải cũng là một phần của Minh giáo chúng ta hay sao? Ai ngờ Cao Thư Dạ mười năm sau đột nhiên quay về, tất cả những sắp đặt đề bị phá hỏng...”

Nhắc đến chuyện năm xưa, Mai Nghê Nhã không khỏi nghiến răng tức giận – “Sau khi Dao Hoa phu nhân bị bức tử, Lục Cơ cũng mất liên lạc với tổng đàn – bên ngoài không có hỗ trợ, bên trong không có đồng đảng, ả chỉ biết âm thầm chờ cơ hội. Ả coi Dao Hoa phu nhân như mẹ mình, vì thế hận Cao Thư Dạ đến tận xương tận tủy, không lúc nào quên ý định trả thù. Sau đó, ả chủ động liên lạc với tổng đàn, tình nguyện tận lực giết được Cao Thư Dạ. Nhưng khi đó nguyên khí tổng đàn bị tổn thương trầm trọng, không đủ khả năng nghĩ đến chuyện ở Đôn Hoàng, đành để tên tiểu tử đó làm thành chủ.”

Mai Nghê Nhã lần ngón tay trên tấm bản đồ da dê, những chỗ dùng mực đỏ khoanh tròn trên tấm bản đồ dày đặc là cửa thành, kênh mương và vị trí bố trí quân binh. Nguyệt Thánh Nữ gật gù tán thưởng – “Ả đã nhẫn nhục bao lâu... cuối cùng cũng đã tìm được cơ hội đưa vật tối quan trọng này đến đây.” Ngưng một chút, Mai Nghê Nhã ngẩng đầu – “Ba ngày sau, chúng ta sẽ tấn công thành Đôn Hoàng, tiến thẳng về phía đông!”

Trưởng lão Diệu Thủy dường như bị những tia sáng trong mắt Nguyệt Thánh Nữ làm cho lặng đi, một hồi lâu sau mới nhỏ giọng – “Kể cả khi Cao Thư Dạ rời Đôn Hoàng thành, và chúng ta có địa đồ, nhưng d thành, và chúng ta có địa đồ, nhưng Đôn Hoàng còn có mười vạn thần quân võ quán túc trực – chúng ta làm sao có thể dẫn đám giáo đồ đông như thế đi cho được?”

Mai Nghê Nhã mỉn cười, ánh mắt sắc bén – “Thần võ quân hiệu xưng là mười vạn, nhưng thực tế binh lực chỉ có hơn năm vạn thôi – ta từ chỗ phụ vương đã dẫn theo năm van quân, nếu đột ngột tấn công sẽ dư sức đối phó Đôn Hoàng.”

“Cái gì?” Trưởng lão Diệu Thủy không khỏi giật mình kinh ngạc –“Thánh nữ... người định điều động đội quân Hồi Hột tấn công Đôn Hoàng?” – Mặc dù Mai Nghê Nhã là trưởng nữ của Hồi Hột Khả Hãn, là giáo mẫu của Minh giáo Hồi Hột, nhưng việc điều động quân đội khổng lồ như vậy đi mở đường cho Minh giáo tấn công Trung Nguyên là chuyện không thể tưởng đến. Cuộn tấm da dê lại, Mai Nghê Nhã cười lạnh – “Ngày nay Hồi Hột đã là bá chủ ở Tây Vực, mà vương triều Đại Dân ở Trung Nguyên lại đang nội loạn, quốc lực suy vị. Chúng muốn diệt Minh giáo, sát thương vô số thương lữ giáo dân của nước ta – phụ vương ta đã để ý đến Đôn Hoàng thành từ lâu, chỉ có điều chưa có cơ hội thích hợp để một lần thâu tóm tất cả, triệt để khống chế con đường Tơ Lụa – Nay có cơ hội tốt như vậy, làm sao có thể bỏ qua cho được?” Trưởng lão tóc bạc trắng lúc này chỉ còn biết ngây người nhìn Nguyệt Thánh Nữ.

Từ khi in được mẫu chìa khóa của Hoắc Thanh Lôi, mở được tủ mật, tất cả những tài liệu tìm được: bản đồ thủy văn, bản đồ phòng vệ Đôn Hoàng thành, thậm chí cả bản đồ chi tiết phủ nội – đều được Lục Cơ gửi đến tay Minh giáo ở bên ngoài thành. Sứ giả của Mai Nghê Nhã nói với ả rằng, trong khi công tử Thư Dạ đến Kỳ Liên sơn quyết đấu, Nguyệt Thánh Nữ sẽ dẫn quân xông vào Đôn Hoàng – đợi đến khi giết được công tử Thư Dạ, Liên Thành sẽ được lên ngôi vị thành chủ.

Chỉ vì lời hứa ấy, ả đã lập kế hoạch cùng Mai Nghê Nhã nội ứng ngoại hợp, nhằm nắm trọn Đôn Hoàng thành.

Lúc này, Lục Cơ đang ngồi trong bóng tối của Dao Hoa lâu, thần người trước chiếc chìa khóa màu bạc cuối cùng ở trong tay – chiếc chìa này rút cuộc là của chiếc tủ nào? Ả đã lần lượt sử dụng tất cả những chiếc chìa khóa, chiếc nào cũng mở ra những cánh tủ chứa đầy những bí mật quân cơ, chỉ có chiếc chìa này, ả không thể tìm ra chiếc tủ mật tương ứng ở đâu.

Theo thứ tự chìa khóa, chiếc chìa nhỏ màu bạc này có lẽ là mới được Hoắc Thanh Lôi xâu vào chùm. Nhưng có thể mở chiếc tủ nào? Lục Cơ chau mày suy nghĩ nhưng không sao tìm được câu trả lời.

Bỗng nhiên từ phía sau có một tiếng thở dài khe khẽ và tiếng chân người. Lục Cơ vội vàng giấu chìa khóa đi, quay lại nhìn chàng trai trẻ trong bộ áo vải đay. Bị giam lỏng suốt nhiều ngày qua, Cao Liên Thành không còn nhuệ khí và sát khí như lúc mới về Đôn Hoàng thành nữa, hàng ngày chỉ thấy đi đi lại lại trên Dao Hoa lâu, lòng đầy tâm trạng, không ngừng thở dài, dường như nội tâm đang dằng xé dữ dội.

“Thiếu chủ, sao cứ thở dài mãi vậy?” - Lục Cơ không cầm được lòng, đến bên an ủi – “Thiếu chủ yên tâm, vài ngày nữa cậu sẽ được ra khỏi đấy.”

Cao Liên Thành ngẩng đầu nhìn Lục Cơ, ánh mắt hoang moang, hỏi – “Dì Lục... năm xưa có đúng là mẫu thân ta... mẫu thân ta thực sự muốn giết Thư Dạ?”

“Đúng vậy.” – Lục Cơ thản nhiên đáp – “Phu nhân một lòng vì thiếu chủ, đương nhiên không thể dung tha y.”

Ánh mắt Cao Liên Thành bỗng chốc xáo động mãnh liệt, rồi bực bội quay lại – “Tại sao? Ta đâu có muốn làm thành chủ! Tại sao các ngươi lại phải giết Thư Dạ?”

Lục Cơ ngạc nhiên trước thái độ của Liên Thành, không hiểu nổi tại sao thiếu chủ lại có ý nghĩ đó – “Phu nhân một lòng vì thiếu chủ! Tại sao các người lại phải giết Thư Dạ?”

Lục Cơ ngạc nhiên trước thái độ của Liên Thành, không hiểu nổi tại sao thiếu chủ lại có ý nghĩ đó – “Phu nhân chỉ muốn tốt cho thiếu chủ thôi mà! Ai chẳng muốn làm thành chủ, được an hưởng vinh hoa? Nắm được Đôn Hoàng là khống chế được con đường Tơ Lụa, khống chế mệnh mạch Trung Nguyên và Tây Vực! Phu nhân chỉ có một người con trai duy nhất là thiếu chủ, đương nhiên luôn mong thiếu chủ có được tất cả.”

“Nhưng cũng không được giết đại huynh của ta chứ!” – Cao Liên Thành không nhịn nổi mà thét lên – “Các ngươi đã bắt cóc huynh ấy đến Côn Luân, rồi lại định mưu sát huynh ấy bị trọng thương? Sao các người lại có thể làm những việc như vậy?”

Bỗng một bạt tai mạnh khiến câu nói đột ngột dừng lại.

Liên Thành nhìn chăm chăm vào người vừa đánh mình, không thể ngờ nổi – từ nhỏ đến lớn, đây là lần đầu tiên Liên Thành bị dì Lục đánh.

“Thiếu chủ đã phải đi làm con tin ở Đế đô suốt mười năm, chẳng lẽ vẫn chưa hiểu hay sao?” – Lục Cơ cất tiếng như kêu gào, ánh mắt đầy thất vọng và phẫn nộ - “Thiếu chủ vẫn không hiểu cho nỗi khổ của phu nhân ư? Cứ cho là không hạ thủ đối phó với Thư Dạ ngay, nhưng với tính cách của y, ắt cũng chẳng thể bỏ qua cho thiếu chủ đâu – Phu nhân cũng chỉ là vì không muốn cậu bị thiệt thòi mà thôi! Phu nhân đã toàn tâm toàn ý để sắp đặt cho thiếu chủ vào chỗ an toàn nhất!”

Cao Liên Thành ngẩng đầu nhìn gương mặt nhăn nhúm già nua trước mặt, cảm thấy lòng mình nguội lạnh.

(Tiếp theo đây là bản dịch của bạn Quần Xà Lỏn@Nhanmonquan nên giọng văn sẽ khác)

“Ngươi làm sao mà còn chưa minh bạch được a ...” Lục Cơ nhìn chàng thiếu niên nhãn thần trong sáng đơn thuần kia, bỗng không nhịn được khóc rống lên:

“Mười năm làm con tin ở đế đô, ngươi vẫn chưa hiểu thấu ? Không phải ngươi giết y thì là y giết ngươi ! Làm sao có thể dung tình phần nào được ? Phu nhân phí tận tâm lực lập ngươi lên ngai vị thế tử, nhưng lão Thành Chủ nhung nhớ không quên Thư Dạ, còn lưu hạ thủ dụ trong cái tủ vàng trong Oanh Sào, nói nếu quả Thư Dạ có một ngày nếu có thể về đến Đôn Hoàng, vị trí thế tử sẽ trả về cho y -- Phu nhân làm sao có thể không nghĩ ngàn phương trăm kế dồn y vào tử địa cho được ?”.

Cao Liên Thành sắc mặt tái nhợt, chợt lẩm bẩm:

– Thì ra y đối xử như vậy với ta cũng coi là quá công bình rồi.

“Sinh ra trong nhà đế vương phú quý, không bao giờ có thể nói tới huynh đệ gì -- bởi vì quyền bính chỉ có một, tay lại có nhiều đôi”. Lục Cơ nhướng mắt, trong ánh mắt là luồng ánh sáng âm lãnh độc đoán, nhìn đứa con của Dao Hoa phu nhân:
“Nhân bất vị kỷ, thiên tru địa diệt. Cao Thư Dạ đối với ngươi như vậy, thật cũng có thể coi là tự nhiên – - cho nên, ngày nay ngươi nếu muốn giết chết y, cũng là chuyện đương nhiên”.

Tay ả nhấc lên, chỉ lên bộ khôi giáp treo trên tường -- Đó là bộ bảo giáp truyền từ đời này qua đời nọ cho các Đôn Hoàng Thành Chủ đương nhiệm, sau khi lão Thành Chủ đời trước qua đời đã treo luôn trong Dao Hoa Lâu. Ả mỉm cười:
– Không quá hai ngày nữa, ngươi liền có thể mặc lên bộ khôi giáp đó, cai quản Đôn Hoàng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách