Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: redapple
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết - Xuất Bản] Con Gái Người Giữ Ký Ức | Kim Edwards

[Lấy địa chỉ]
51#
 Tác giả| Đăng lúc 9-7-2012 09:25:37 | Chỉ xem của tác giả
Nó tỉnh dậy, thấy ánh bình minh rực rỡ rọi qua ô cửa sổ phía Đông và bóng của bố đổ dài xuống, ông cất tiếng nói từ chính giữa luồng sáng đó.

"Paul," ông nói. "Cái quái gì đây?"

Paul ngồi dậy, cố gắng định hình xem mình đang ở đâu và chuyện gì đã xảy ra. Những tấm ảnh và phim rách nát vung vãi khắp sàn nhà, lấm lem những vết chân đầy bùn đất. Những cuộn phim âm bản bung ra như suối. Mảnh thủy tinh vỡ vương khắp phòng, để lại những vết rạch sâu hoắm trên sàn nhà. Nỗi sợ hãi tràn ngập trong Paul; nó cảm thấy như mình sắp nôn thốc nôn tháo. Nó đưa tay che mắt để tránh ánh nắng chói chang buổi sáng.

"Chúa ơi, Paul!" bố nó vẫn đang nói. "Chuyện gì xảy ra ở đây thế?" Cuối cùng ông bước ra khỏi luồng sáng, khom người ngồi xổm xuống. Ông nhặt tấm ảnh chụp gia đình xa lạ kia lên từ mớ hỗn độn trên sàn nhà và ngắm nhìn nó một lát. Sau đó ông ngồi tựa lưng vào tường, tấm ảnh vẫn cầm trên tay, và nhìn quanh phòng.

"Chuyện gì đã xảy ra ở đây thế con?" ông hỏi lại, giọng nhẹ nhàng hơn.

"Có mấy đứa bạn đến chơi. Con nghĩ là mọi việc hơi vượt quá tầm kiểm soát."

"Ừ," bố nói. Ông áp tay lên trán. "Duke có ở đây không?"

Paul ngập ngừng, rồi gật đầu. Nó cố ngăn nước mắt, và mỗi lần nhìn vào đống giấy tờ rách nát, có gì đó siết chặt trong lồng ngực nó như một nắm đấm.

"Con có làm chuyện này không, Paul?" bố hỏi, giọng ông mềm mỏng một cách kỳ lạ.

Paul lắc đầu. "Không ạ. Nhưng con đã không ngăn tụi nó."

Bố gật đầu.

"Phải mất mấy tuần mới dọn xong đống này," cuối cùng ông nói. "Con sẽ làm việc đó. Con phải giúp bố khôi phục lại các tập tài liệu nữa. Cả một núi việc đấy. Sẽ tốn thời gian lắm. Con sẽ phải ngưng tập nhạc."

Paul gật đầu, nhưng khối căng thẳng chèn trong ngực nó cứ lớn dần lên, đến độ nó không thể ghìm lại lâu hơn nữa. "Bố chỉ muốn tìm lý do nào đó để không cho con chơi nhạc nữa thôi."

"Không phải thế. Chết tiệt, Paul, con biết là đấy không phải sự thật."

Bố lắc đầu và Paul sợ rằng ông sẽ đứng dậy bỏ đi, nhưng thay vào đó ông lại nhìn xuống tấm ảnh cầm trên tay. Đó là một tấm ảnh đen trắng, với đường viền trắng hình răng cưa bao quanh hình một gia đình đứng trước ngôi nhà nhỏ thấp lè tè.

"Con biết đây là ai không?" bố hỏi.

"Không ạ," Paul đáp, nhưng vừa nói dứt miệng nó đã nhận ra là mình biết. "Ô," nó kêu lên, rồi chỉ tay vào cậu bé đứng trên bậc thềm nhà. "Ô, đây là bố."

"Đúng rồi. Hồi đó bố vừa bằng tuổi con. Kia là ông nội con đứng ngay phía sau. Bên cạnh bố là em gái bố. Em gái bố, con biết chưa nhỉ? Tên cô ấy là June. Cô rất giỏi nhạc, giống như con ấy. Đây là tấm ảnh cuối cùng mà mọi người được chụp chung với nhau. Cô June bị bệnh tim, đến mùa thù năm sau đó thì cô mất. Việc June qua đời gần như đã giết chết bà nội con."

Giờ thì Paul nhìn tấm ảnh theo cách khác hẳn. Những con người này không còn xa lạ nữa, mà chính là ruột thịt của nó. Bà của Duke sống ở tầng trên nhà thằng nhãi, vẫn làm bánh táo và xem phim truyền hình vào mỗi buổi chiều. Paul ngắm nhìn người phụ nữ trong tấm ảnh đang cố nén cười – người phụ nữ mà nó chưa bao giờ biết đến lại chính là bà nội nó.

"Rồi bà ấy có chết không ạ?" nó hỏi.

"Bà con ấy hả? Có. Nhưng nhiều năm sau cơ. Ông con cũng thế. Cả hai ông bà đều không thọ. Ông bà sống vất vả lắm, Paul ạ. Họ chẳng có tiền bạc gì cả. Không phải chứ không giàu có thôi đâu. Ý bố là đôi khi cả nhà còn chẳng biết liệu có thứ gì để mà ăn không nữa. Điều đó làm ông con đau lòng lắm, ông con là một người làm việc rất chăm chỉ. Và nó làm cả bà con đau lòng nữa, vì họ không thể giúp gì nhiều cho cô June. Khi bố bằng tuổi con, bố đã kiếm được một công việc, nhờ thế bố có thể đi học trung học dưới thị trấn. Rồi cô June mất, bố đã tự hứa với mình. Bố sẽ đi và cứu giúp cuộc đời." Ông lắc đầu. "Ừm, tất nhiên bố đã không thực sự làm được như thế. Nhưng chúng ta ở đây, Paul ạ. Chúng ta có rất nhiều thứ. Chúng ta không bao giờ phải lo xem có đủ thức ăn để ăn không. Con có thể vào bất cứ trường đại học nào con muốn. Vậy mà tất cả những gì con có thể nghĩ đến là hút hít với lũ bạn và vứt bỏ mọi thứ."

Cơn bức bối trong bụng Paul giờ đã dâng lên đến tận họng, nó không biết phải nói sao. Cảnh vật xung quanh vẫn quá sáng chói và chưa thật sự đứng yên. Nó muốn nỗi phiền muộn trong giọng nói của bố biến mất, muốn xóa tan bầu không khí im lạnh đang choán lấy cả ngôi nhà họ. Hơn tất cả mọi thứ, nó đã mong sao giây phút này – bố ngồi bên cạnh nó và kể cho nó nghe mẩu câu chuyện về gia đình – đừng bao giờ kết thúc. Nó đã sợ rằng mình sẽ nói gì không phải và phá hỏng tất cả, giống như quá nhiều ánh sáng chiếu lên giấy sẽ làm hỏng bức ảnh. Một khi điều đó xảy ra bạn chẳng thể nào làm lại được nữa.

"Con xin lỗi," nó nói.

Bố gật đầu, nhìn xuống. Rất nhanh và khẽ khàng, tay ông lướt qua mái tóc Paul.

"Bố biết," ông nói.

"Con sẽ dọn dẹp mọi thứ."

"Ừ," ông nói. "Bố biết mà."

"Nhưng con yêu âm nhạc," Paul nói, nó biết rằng đó là điều không nên phát ngôn, một luồng ánh sáng đột ngột có thể khiến tấm giấy ảnh đen thui lại, nhưng nó không ngăn nổi bản thân mình. "Chơi nhạc là cuộc sống của con. Con sẽ không bao giờ từ bỏ đâu."

Bố ngồi im lặng một lúc lâu, đầu ông cúi xuống. Sau đó ông thở dài và đứng dậy.

"Bây giờ con đừng vội đóng lại bất kỳ cánh cửa nào," ông nói. "Bố chỉ yêu cầu có thế thôi."

Paul nhìn bố biến mất trong phòng tối. Rồi nó quỳ xuống và bắt đầu nhặt nhạnh những mảnh kính vỡ. Xa xa, tàu chạy hối hả, bầu trời bên ngoài những ô cửa sổ trải dài đến vô tận, trong vắt và xanh thăm thẳm. Paul ngừng lại một lát trong ánh nắng gắt buổi sớm, lắng nghe tiếng bố làm việc trong buồng tối, hình dung ra cảnh chính đôi bàn tay ấy đã cử động thật cẩn trọng bên trong cơ thể của một người nào đó, tìm kiếm để hàn gắn những vết thương.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

52#
 Tác giả| Đăng lúc 9-7-2012 09:29:46 | Chỉ xem của tác giả
Chương 14

Tháng Chín Năm 1977


Caroline dùng ngón cái và ngón trỏ kẹp vào góc tấm ảnh polaroid khi nó trôi ra từ máy ảnh, hình ảnh dần hiện lên. Chiếc bàn với tấm khăn trải màu trắng trông như đang lơ lửng giữa một biển cỏ sẫm màu. Những bông hoa bạch cúc, trắng muốt và tỏa ánh dạ quang dịu nhẹ, rải trên sườn đồi. Phoebe trông mờ nhạt trong bộ váy mặc cho lễ Kiên tín. Caroline vẩy bức ảnh cho khô giữa không gian thơm ngát. Có tiếng sấm ở đằng xa, một cơn bão cuối hạ đang hình thành; cơn gió nhẹ thổi qua làm lay động đống khăn giấy.

"Một lần nữa," cô nói.

"Ôi, mẹ," Phoebe phản đối, nhưng nó vẫn đứng yên.

Đúng lúc máy ảnh kêu tách thì con bé biến mất, nó chạy ào qua bãi cỏ đến chỗ cô bé hàng xóm tên Avery, tám tuổi, tay đang ôm một chú mèo con bé tí có lông màu cam sậm giống hệt màu tóc cô. Phoebe, giờ đã mười ba, vẫn còn khá lùn so với tuổi mình, vóc người mập mạp, tính tình vẫn còn bốc đồng và hay bị kích động, học rất chậm nhưng có thể thay đổi cảm xúc từ mừng rỡ sang đăm chiêu sang buồn bã rồi trở lại mừng rỡ với một tốc độ đáng kinh ngạc. "Tớ được làm lễ Kiên tín rồi nhá!" con bé hét to, quay ngoắt ra bãi cỏ, hai cánh tay tung tẩy trong không khí, khiến khách khứa đều liếc về phía nó chạy và mỉm cười, ly nước cầm trong tay. Váy xoay tròn, con bé chạy đến chỗ cậu con trai Sandra, Tim, giờ cũng đã là một cậu thiếu niên. Nó vòng hai tay quanh người thằng bé, rồi hớn hở hôn lên má cậu chàng.

Đoạn nó khựng người và quay lại lấm lét nhìn Caroline. Đầu năm nay, ôm hôn đã trở thành một vấn đề ở trường học. "Tớ thích cậu," Phoebe thường nói, rồi ôm chặt thằng bé hơn; con bé không hiểu tại sao lại không được làm thế. Caroline đã nói đi nói lại với nó, Ôm là hành động rất đặc biệt. Ôm chỉ dành cho gia đình thôi; dần dần Phoebe cũng hiểu ra. Dẫu vậy, trong lúc này đây, nhìn thấy Phoebe phải kìm nén tình cảm của mình, cô phân vân không biết liệu việc mình làm có đúng đắn hay không.

"Không sao đâu, con yêu," Caroline hét to. "Con có thể ôm bạn con trong bữa tiệc được mà."

Phoebe thở phào. Nó và Tim chạy đi nựng con mèo con. Caroline nhìn tấm ảnh polaroid trong tay mình: khu vườn sáng lung linh và nụ cười của Phoebe, một khoảnh khắc thoáng qua được ghi lại, đã biến mất. Thêm nhiều tiếng sấm đì đùng ở phía xa, nhưng buổi tối vẫn dễ chịu, ấm áp và rực rỡ đầy hoa. Phía bên kia bãi cỏ mọi người đi lại, chuyện trò, cười nói và rót đầy rượu vào cốc nhựa. Một chiếc bánh, ba tầng và phủ kem trắng, đặt giữa bàn, được trang trí bằng những bông hồng đỏ thẫm hái trong vườn. Ba lớp bánh, cho ba dịp kỷ niệm: lễ Kiên Tín cho Phoebe, kỷ niệm lễ cưới của chính cô, và ngày Doro về hưu, một lời chúc thượng lộ bình an.

"Bánh của tớ đấy." Tiếng Phoebe vang lên giữa âm thanh trầm bổng của những cuộc trò chuyện, các giáo sư Vật lý, hàng xóm láng giềng, thành viên đội thánh ca, bạn học, các gia đình trong Hội Bệnh nhân Down, đủ loại trẻ con đang chạy lông nhông. Cả những người bạn mới của Caroline ở bệnh viện nơi cô bắt đầu làm việc bán thời gian những lúc Phoebe đi học. Cô đã đưa những con người này đến với nhau, cô đã lên kế hoạch cho bữa tiệc đẹp đẽ này bừng lên giữa bóng tối như một bông hoa. "Bánh của tớ đấy." Tiếng Phoebe lại vang lên, cao và vang. "Tớ được làm lễ Kiên tín rồi nhé."

Caroline nhấp một ngụm rượu, không khí ấm như hơi thở mơn man trên làn da cô. Cô không nhìn thấy Al đi tới nhưng đột nhiên anh xuất hiện, vòng tay qua eo cô và hôn lên má cô, sự hiện diện của anh, mùi hương của anh, tràn qua cô. Năm năm trước họ đã kết hôn trong một bữa tiệc vườn rất giống với bữa tiệc hôm nay, những trái dâu bập bềnh trong rượu sâm banh và bầu không khí đầy đom đóm bay, tràn ngập hương hoa hồng. Năm năm, và cảm giác mới lạ vẫn chưa hề phai nhạt. Căn phòng của Caroline trên tầng ba ngôi nhà của Doro đã trở thành một chốn đầy bí ẩn và khoái cảm cũng như khu vườn này. Cô yêu những lúc thức dậy bên Al, đang chìm trong giấc ngủ sâu và ấm áp, bàn tay dịu dàng đặt lên cái bụng phẳng của cô, mùi hương của anh – mùi xà phòng thơm mát và lăn khử mùi Old Spice – dần dần lan tỏa khắp căn phòng, bám vào khăn trải giường, khăn tắm. Anh ở đó, hiện diện thật sống động đến mức cô có thể cảm thấy anh trong từng giác quan. Ở đó, rồi thoắt biến mất.

"Mừng ngày kỷ niệm," anh nói, ép nhẹ bàn tay lên eo cô.

Caroline mỉm cười, lòng tràn ngập hạnh phúc. Buổi tối ngả dần về đêm, mọi người đi lại và cười nói trong luồng hơi ấm cùng hương thơm phảng phất, sương đọng trên những ngọn cỏ tối thẫm, những đốm hoa trắng lấm tấm khắp nơi. Cô nắm lấy bàn tay Al, rắn rỏi và chắc chắn, gần như cười thành tiếng vì anh mới về và còn chưa biết tin gì. Doro sắp lên đường cho chuyến đi vòng quanh thế giới kéo dài một năm với người tình của mình, người đàn ông tên Trace. Al đã biết chuyện đó; các kế hoạch đã lên trong nhiều tháng qua. Nhưng anh chưa biết rằng Doro, trong một động thái mà chị gọi là sự giải phóng sung sướng khỏi quá khứ, đã chuyển giao cho Caroline giấy tờ sở hữu căn nhà cũ này.

Doro cũng vừa tới, chị đi từ lối đường vườn xuống bậc thang trong bộ váy lụa. Trace đi ngay sau chị, tay bê một túi đá viên. Anh kém chị một tuổi, sáu mươi nhăm, với mái tóc bạc ngắn ngủn, khuôn mặt dài nhỏ thó, cặp môi dày. Anh có làn da trắng tự nhiên, là người rất để ý đến vấn đề cân nặng, và ăn uống cầu kỳ, một người yêu chuộng opera và xe thể thao. Trace từng là vận động viên bơi lội Olympic, suýt nữa đã đạt huy chương đồng, và đến tận bây giờ, anh cũng không ngại ngần nhảy xuống sông Monongahela rồi bơi một mạch sang bờ bên kia. Một chiều nọ anh trồi lên từ mặt nước và loạng choạng đi lên bờ sông, tái nhợt và ướt sũng gia nhập vào cuộc dã ngoại thường niên của khoa Vật lý. Họ đã gặp nhau như thế. Trace rất ân cần và tử tế với Doro, người rõ ràng vô cùng tôn sùng anh, và giả thử anh có tỏ ra thiếu thân thiện với Caroline, có phần xa cách và giữ kẽ, thì chị cũng chẳng lấy thế làm quan tâm.

Một cơn gió mạnh thổi tung chồng khăn giấy trên bàn. Caroline bèn khom người xuống để giữ chúng lại.

"Chị mang gió tới đấy hả," Al nói, khi Doro bước lại gần.

"Tuyệt quá," chị nói, đoạn giơ hai tay lên. Càng ngày chị càng giống Leo, những đường nét trông sắc sảo hơn, mái tóc chị, giờ được cắt ngắn, đã toàn một màu trắng bạc.

"Al giống như các thủy thủ hồi xưa ấy nhỉ,"Trace nói, rồi đặt túi đá lên bàn. Caroline lấy một viên đá nhỏ để chặn chồng khăn giấy. "Cậu ấy có thể cảm nhận được sự thay đổi không khí cơ đấy. Ôi, Doro, em cứ đứng yên như thế nhé," ông trầm trồ. "Trời đất, nhưng mà em đẹp thật. Thật đấy. Trông em chẳng khác nào nữ thần gió cả."

"Nếu chị là nữ thần gió," Al nói, rồi bắt lấy những chiếc đĩa giấy đang bị gió nhấc bổng lên, "thì làm ơn thổi nhẹ đi một tí để chúng ta còn được tiệc tùng nữa chứ."

"Chẳng phải là rất tuyệt sao?" Doro hỏi. "Đúng là một bữa tiệc lộng lẫy, một lời tạm biệt tuyệt vời."

Phoebe chạy đến, tay ôm một con mèo con bé tí, một cuộn len màu cam nhạt. Caroline giơ tay ra và vuốt tóc cô bé, miệng mỉm cười.

"Nhà mình nuôi nó được không ạ?" cô bé hỏi.

"Không được," Caroline trả lời như mọi khi. "Bác Doro bị dị ứng.

"Mẹ," Phoebe nỉ non, nhưng ngay lập tức con bé đã bị phân tâm bởi làn gió, và chiếc bàn đẹp đẽ. Nó bám lấy tay áo lụa của Doro. "Bác Doro ơi. Bánh của cháu đấy."

"Bánh của bác nữa chứ," Doro nói, rồi quàng một tay lên vai Phoebe. "Bác sắp đi xa rồi, đừng quên nhé, nên đây cũng là bánh của bác nữa đấy. Bánh của mẹ cháu và bố Al nữa vì bố mẹ đã cưới được tròn năm năm rồi mà."

"Cháu cũng đi với bác," Phoebe nói.

"Ồ, không, cháu yêu," Doro nói. "Lần này thì không được. Đây là chuyến đi cho người lớn thôi, cưng ạ. Cho bác với bác Trace."

Vẻ thất vọng hiện lên khuôn mặt của Phoebe, cũng sâu sắc như niềm vui sướng trước đó của con bé. Hiếu động, hay thay đổi – cảm xúc của con bé trong mỗi giây phút đều vô cùng mãnh liệt.

"Này, con yêu," Al nói, rồi ngồi xổm xuống. "Con nghĩ sao? Con có nghĩ bạn mèo con này thích ăn ít kem không?"

Con bé cố nén cười nhưng chịu thua, lại gật đầu, quên ngay giây phút thất vọng vừa nãy.

"Tuyệt," Al nói, cầm lấy tay nó và nháy mắt với Caroline.

"Không được đem mèo vào nhà đâu đấy," Caroline đe.

Cô xếp đầy một khay cốc và len lỏi giữa đám khách khứa, trong lòng vẫn chưa hết kinh ngạc. Cô là Caroline Simpson, mẹ của Phoebe, vợ của Al, người tổ chức các cuộc biểu tình – một con người hoàn toàn khác với người phụ nữ nhút nhát đứng trước văn phòng tuyết phủ im lìm mười ba năm về trước với một đứa bé sơ sinh trên tay. Cô quay lại nhìn căn nhà, những viên gạch nhợt nhạt bỗng trở nên sống động đến kỳ lạ trên nền trời xam xám. Đây là nhà của mình, cô thầm nghĩ, tai văng vẳng câu nói trước đó của Phoebe. Cô mỉm cười vì ý nghĩ tiếp sau của mình, thích hợp đến kỳ lạ: Mình đã được chứng thực rồi (1).

------------------------
1.  Nguyên bản: "I am confirmed". Động từ "confirmed" vừa có nghĩa là "làm lễ Kiên tín", vừa có nghĩa là "chứng thực". Cả Phoebe lẫn Caroline đều dùng câu này. Câu nói của Phoebe mang nét nghĩa thứ nhất, câu nói của Caroline mang nét nghĩa thứ hai. Ở đây, Caroline đã được chứng thực là chủ sỡ hữu của căn nhà.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

53#
 Tác giả| Đăng lúc 9-7-2012 09:33:36 | Chỉ xem của tác giả
Sandra đang cười với Doro bên bụi kim ngân, còn bà Soulard đang đi trên con đường vườn với một bình cắm đầy hoa huệ. Trace, gió thổi những món tóc bạc lòa xòa quanh mặt, đang chụm tay che que diêm, cố thắp mấy ngọn nến. Ngọn lửa kêu lách tách, le lói, nhưng cuối cùng cũng bùng lên được, soi sáng cả tấm khăn trải bàn bằng lanh trắng, những chiếc cốc Tạ ơn trong suốt nhỏ xíu, những lọ hoa trắng, và chiếc bánh phủ kem tươi. Xe cộ lướt qua vù vù, bị át đi bởi tiếng cười nói, tiếng lá cây xào xạc. Trong giây lát Caroline đứng im, nghĩ đến Al, bàn tay anh tìm đến cô trong bóng tối của màn đêm đang đến. Đây là hạnh phúc, cô tự nhủ thẩm. Hạnh phúc nghĩa là thế này đây.

Bữa tiệc kéo dài đến tận mười một giờ đêm. Doro và Trace còn nán lại đến khi những người khách cuối cùng ra về, dọn dẹp khay cốc và bánh thừa, những lọ hoa, kê bàn ghế vào ga ra. Phoebe lúc ấy đã buồn ngủ díp mắt; Al bế con bé vào nhà sau khi nó khóc một trận thảm thiết, mệt nhoài và kích động quá mức, mất bình tĩnh vì bác Doro sắp đi xa, con bé thổn thức đến độ gần như không thở được nữa.

"Thôi đừng làm nữa," Caroline nói, đoạn chặn chị lại nơi bậc thang trên cùng, người cô lướt qua đám lá mềm rậm rạp của bụi tử đinh hương. Cô đã trồng dải hàng rào từ ba năm trước, trong một thời gian dài chỉ có vài nhánh con nảy lên, nhưng giờ rễ bắt đầu ăn vào đất và cây đã lớn bổng lên. Năm sau, những bụi cây này sẽ trĩu hoa. "Mai em sẽ dọn mà, chị Doro. Chị còn có chuyến bay sớm nữa. Chắc chị háo hức được đi lắm nhỉ."

"Ừ," Doro đáp, giọng chị khẽ đến mức Caroline phải căng tai ra mới nghe thấy. Chị gật đầu về phía ngôi nhà nơi Al và Trace đang lúi húi trong căn bếp sáng rực, tráng sạch thức ăn trên chén đĩa. "Nhưng Caroline ạ, nó là cảm giác vừa buồn vừa vui ấy. Vừa rồi, chị đã đi khắp các phòng, một lần cuối cùng. Chị đã sống gần trọn đời mình ở đây. Phải xa rời nơi đây chị thấy lạ lắm. Nhưng mà, cùng lúc, chị lại thấy háo hức vì được đi xa."

"Lúc nào chị quay về cũng được mà," Caroline nói, cố nén nỗi xúc động đột ngột trào dâng.

"Chị mong rằng mình sẽ không muốn thế," Doro nói. "Dù sao cũng chẳng hơn một cuộc viếng thăm." Chị nắm lấy khuỷu tay Caroline. "Ra đây em," chị nói. "Ra hiên nhà ngồi đi."

Họ đi dọc hông nhà, dưới vòm cây đậu tía, rồi ngồi lên xích đu, một dòng sông xe cộ đi lại nườm nượp trên đường lớn. Những chiếc lá cao vút trên vòm cây tiêu huyền, to tướng như chiếc đĩa, rung rinh trong ánh đèn đường.

"Chị sẽ không nhớ giao thông ở đây đâu," Caroline nói.

"Ừ, đúng thế. Ở đây đã từng rất yên tĩnh. Người ta từng chặn nguyên cả con phố trong mùa đông. Bọn chị còn cưỡi xe trượt tuyết chạy thẳng ra giữa đường, ngay đây này."

Caroline đẩy xích đu, nghĩ đến cái đêm xa xưa khi ánh trăng chảy tràn trên bãi cỏ và rơi rớt qua cửa sổ phòng tắm. Phoebe ho húng hắng trên tay cô, và những chú diệc bay lên từ cánh đồng thời thơ ấu của Doro.

Cánh cửa lưới bật mở và Trace bước ra.

"Sao?" anh hỏi. "Em sẵn sàng đi chưa, Doro?"

"Sắp rồi," chị đáp.

"Thế anh đi lấy xe rồi đánh ra trước cửa nhé."

Anh quay trở vào trong nhà. Caroline đếm xe, có đến hai mươi chiếc. Khoảng mười hai năm về trước cô đã tìm đến trước cửa ngôi nhà này, Phoebe vẫn là một đứa bé đỏ hỏn trong tay cô. Cô đã đứng ngay chính tại đây, chờ đợi điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.

"Mấy giờ chị bay?" cô hỏi.

"Sớm lắm. Tám giờ. Ôi, Caroline," Doro nói, rồi ngã người ra sau và dang rộng hai tay. "Sau bao nhiêu năm trời, giờ đây chị cảm thấy tự do biết bao. Ai mà biết được chị sẽ đi đến tận đâu?"

"Em sẽ nhớ chị lắm," Caroline nói. "Cả Phoebe cũng thế."

Doro gật đầu. "Chị biết. Nhưng chị em ta sẽ còn gặp lại nhau mà. Chị sẽ gửi bưu thiếp từ khắp nơi nữa."

Ánh đèn pha đổ xuống sườn đồi, chiếc xe thuê đi chậm lại và cánh tay dài của Trace giơ lên vẫy vẫy.

"Đường xa vẫy gọi rồi!" anh hét lớn.

"Chị giữ gìn sức khỏe nhé," Caroline nói. Cô ôm chặt lấy Doro, cảm thấy bầu má mềm mại của chị. "Bao nhiêu năm trước chị đã cứu đời em, chị biết không."

"Em à, em cũng đã cứu cả đời chị nữa đấy." Doro buông tay ra. Đôi mắt sẫm của chị đẫm nước. "Bây giờ đây là nhà của em rồi. Chúc em vui vẻ nhé."

Và rồi Doro bước xuống bậc thềm, chiếc áo len trắng của chị phất phơ trong gió. Chị ngồi vào xe và vẫy chào tạm biệt; chị đã ra đi.

Caroline nhìn chiếc xe hòa vào con đường lớn rồi biến mất trong dòng ánh sáng hối hả. Cơn bão vẫn vần vũ trên đồi, thi thoảng lại xẹt ra những tia sáng trắng trời, tiếng sấm trầm đục dội lại từ xa. Al bước ra với mấy ly nước, đá chân để mở cửa. Họ cùng ngồi xuống xích đu.

"Chà," Al nói. "Bữa tiệc tuyệt quá."

"Vâng," Caroline đáp. "Vui thật. Em kiệt sức rồi."

"Còn đủ sức mở cái này không?" Al hỏi.

Caroline đỡ lấy gói quà và bóc lớp giấy gói sơ sài. Một trái tim bằng gỗ rơi ra, được đẽo bằng gỗ anh đào, trơn mượt như một viên đá được nước mài nhẵn trong lòng bàn tay cô. Cô khum tay nắm lấy trái tim, nhớ đến cách chiếc mề đay lấp lánh ánh sáng lạnh lẽo trong khoang xe của Al và sau đó vài tháng, bàn tay nhỏ xíu của Phoebe đã túm lấy nó.

"Đẹp quá," cô nói, đoạn áp chặt trái tim trơn nhẵn lên má. "Ấm quá. Rất vừa vặn, trong lòng bàn tay em."

"Anh tự đẽo đấy," Al nói, giọng sung sướng. "Trong những đêm trên đường. Anh nghĩ mấy món này hơi sến, nhưng một cô phục vụ anh quen ở Cleveland nói em sẽ thích. Anh mong là em thích."

"Em thích mà," Caroline nói, khoác tay anh. "Em cũng có thứ này cho anh." Cô đưa cho anh một chiếc hộp các tông nhỏ. "Em không có thời gian gói lại."

Anh mở hộp và lấy ra một chiếc chìa khóa đồng mới tinh.

"Cái gì đây, chìa khóa mở cửa trái tim em à?"

Cô cười. "Không. Đây là chìa khóa ngôi nhà này."

"Sao cơ? Em vừa thay khóa à?"

"Không." Caroline đẩy xích đu. "Doro đưa cho em đấy. Không tuyệt sao? Em có tất cả giấy tờ sở hữu ngôi nhà này. Chị ấy nói muốn có một khởi đầu hoàn toàn mới."

Một nhịp tim đập. Hai, ba, và rồi tiếng xích đu kẽo kẹt, đưa đi đưa lại.

"Có vẻ hơi phóng tay quá nhỉ," Al nói. "Nhỡ chị ấy muốn quay về thì sao?"

"Em cũng hỏi chị ấy đúng câu đấy. Chị ấy nói bác Leo đã để lại rất nhiều tiền. Bằng sáng chế, các khoản tiết kiệm, em không biết là có những gì nữa. Với lại Doro đã sống tằn tiện suốt cả đời mình rồi, nên chị ấy cũng chẳng cần đến tiền làm gì. Nếu quay về, chị ấy và Trace sẽ mua một căn hộ hay gì đó."

"Hào phóng thật," Al nói.

"Vâng."

Al chỉ im lặng. Caroline ngồi lắng nghe tiếng xích đu kẽo kẹt trên hiên nhà, tiếng gió, tiếng xe cộ.

"Chúng ta có thể bán nó đi," anh trầm ngâm. "Rồi lên đường. Đi bất cứ nơi đâu."

"Căn nhà cũng chẳng đáng giá là bao," Caroline chậm rãi đáp. Ý tưởng bán ngôi nhà này đi chưa bao giờ vụt qua đầu cô. "Vả lại, chúng ta sẽ đi đâu bây giờ?"

"Ôi, anh chẳng biết nữa, Caroline ạ. Em biết anh rồi đấy. Cả đời anh đã lang bạt khắp nơi rồi. Anh chỉ đang tính thế. Tiêu hóa cái tin này thôi mà."

Sự êm dịu của bóng tối, tiếng xích đu đều đặn, đã nhường chỗ cho cảm giác bất an ẩn sâu bên dưới. Người đàn ông ngồi bên cạnh cô là ai nhỉ, Caroline tự hỏi, người vẫn về nhà mỗi buổi tối cuối tuần và suồng sã thả mình xuống chiếc giường của cô, người mỗi sáng luôn nghiêng đầu theo một góc quen thuộc để vỗ nước khử mùi Old Spice lên cằm và cổ? Cô thực sự biết gì về những giấc mơ, những cảm xúc riêng tư của anh? Gần như chẳng gì cả, bỗng nhiên cô cảm thấy vậy, hay nói cách khác, cô chưa hiểu biết về người đàn ông của mình.

"Vậy là anh không thích có một ngôi nhà chứ gì?" cô nhấn mạnh.

"Không phải. Doro quả là tử tế."

"Nhưng nó làm vướng chân anh."

"Anh thích được về nhà với em, Caroline ạ. Anh thích đi xuôi cung đường cuối cùng trên đường cao tốc và biết rằng em và Phoebe đang ở đây, nấu nướng trong bếp, trồng hoa, hay làm bất cứ việc gì. Nhưng chắc chắn là, những gì họ đang làm cũng hấp dẫn lắm chứ. Gói ghém đồ đạc. Lên đường. Lãng du khắp thế giới. Anh nghĩ thế cũng hay. Cảm giác được tự do như thế."

"Em không còn khao khát những thứ đó nữa rồi," Caroline đáp, nhìn ra khu vườn tối om, những ánh đèn rải rác trên thành phố và những chữ cái đỏ thẫm trên tấm biển báo khu vực dành cho người đi bộ, cả những đốm lá giữa tán cây mùa hè rậm rạp. "Em hạnh phúc được ở chính nơi em đang sống. Rồi anh sẽ chán em thôi."

"Bậy. Chuyện đó chỉ làm chúng ta hợp nhau thôi, em yêu ạ," Al nói.

Họ ngồi trong im lặng một lúc lâu, lắng nghe tiếng gió, tiếng dòng xe cộ lướt qua.

"Phoebe không thích thay đổi," Caroline nói. "Con bé không thích nghi tốt lắm."

"Ừ, cả chuyện đó nữa," Al nói.

Anh đợi một lát, rồi quay sang cô.

"Em biết đấy, Caroline. Phoebe bắt đầu lớn rồi. Con bé bắt đầu không còn là một đứa trẻ con nữa."

"Nó đã gần mười ba tuổi còn gì." Caroline nói, nghĩ đến Phoebe với con mèo, con bé mới dễ sa vào những thú vui vô tư lự của trẻ con làm sao.

"Phải. Nó mười ba tuổi rồi, Caroline ạ. Nó - ừm, em biết đấy - đã bắt đầu phát triển rồi. Anh thấy không thoải mái lắm khi phải bế nó lên như tối nay anh vừa làm."

"Thế thì đừng làm như vậy nữa," Caroline gay gắt đáp, nhưng cô còn nhớ lúc Phoebe ở bể bơi hồi đầu tuần, nó bơi đi rồi bơi lại, ôm chặt lấy cô lúc ở dưới nước, những núm vú mềm mại mới nhú của con bé áp lên cánh tay cô.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

54#
 Tác giả| Đăng lúc 9-7-2012 09:36:03 | Chỉ xem của tác giả
"Em không cần phải nổi cáu như thế đâu, Caroline. Chỉ là chúng ta chưa bao giờ nói đến chuyện này, phải không? Rồi con bé sẽ ra sao. Rồi chúng ta sẽ thế nào khi cả hai về hưu, như Doro và Trace." Anh dừng lại, và cô cảm giác rằng anh đang lựa chọn từng lời rất thận trọng. "Anh chỉ muốn nghĩ là có lẽ chúng ta sẽ tính đến chuyện đi du lịch. Anh có cảm giác hơi ngột ngạt khi nghĩ đến việc ở lì trong căn nhà này suốt đời. Còn Phoebe thì sao? Liệu con bé có sống mãi với chúng ta không?"

"Em không biết nữa," Caroline đáp, cảm giác mệt mỏi bao lấy cô, đặc quánh như màn đêm. Cô đã phải trải qua bao nhiêu cuộc chiến để cho Phoebe có một cuộc sống trong cái thế giới lãnh đạm này. Cho tới nay cô đã giải quyết được mọi vấn đề, và đến khoảng năm vừa rồi cô mới có thể nghỉ ngơi một chút. Nhưng việc Phoebe sẽ làm ở đâu và sống ra sao khi lớn lên – tất cả đều vẫn còn mờ mịt. "Ôi, Al, em không thể nghĩ được tất cả những chuyện này trong đêm nay. Xin anh."

Chiếc xích đu đưa đi đưa lại.

"Rồi cũng đến lúc chúng ta phải nghĩ đến thôi."

"Nó chỉ mới là đứa trẻ con thôi. Anh nói thế là có ý gì?

"Caroline. Anh chẳng có ý gì cả. Em biết là anh cũng yêu Phoebe. Nhưng em hoặc anh, chúng ta có thể chết ngay ngày mai. Không phải lúc nào ta cũng có thể ở bên cạnh để chăm lo cho nó được, thế thôi. Và cũng sẽ đến lúc nó không muốn được chúng ta chăm sóc nữa. Anh chỉ hỏi xem liệu em đã bao giờ nghĩ đến lúc đó chưa. Em tiết kiệm ngần ấy tiền bạc để làm gì. Anh chỉ đặt ra vấn đề cho mình cùng bàn luận thôi. Ý anh là, thử nghĩ mà xem. Thỉnh thoảng em đi xa cùng anh cũng hay đấy chứ? Chỉ một buổi cuối tuần thôi cũng được?"

"Vâng," cô khẽ đáp. "Như thế cũng hay."

Nhưng cô cũng không dám chắc. Caroline cố gắng hình dung ra cuộc sống của Al, một căn phòng khác mỗi đêm, một thành phố khác, và con đường trải ra như một dải ruy băng xám đơn điệu. Ý nghĩ đầu tiên xuất hiện cũng chính là ý nghĩ luôn thường trực trong đầu anh: bán căn nhà, lên đường, chu du khắp thế giới.

Al gật đầu, uống cạn cốc nước, rồi dợm đứng dậy.

"Đừng đi vội," cô nói, nhẹ nhàng đặt tay lên cánh tay anh. "Em có chuyện này cần nói với anh."

"Nghe có vẻ nghiêm trọng nhỉ," anh nói, đoạn ngồi xuống xích đu. Anh cười vẻ hoang mang. "Em không định bỏ anh đấy chứ? Sau khi em có được món thừa kế này và những thứ khác nữa?"

"Dĩ nhiên là không; không có chuyện ấy đâu." Cô thở dài. "Tuần vừa rồi em nhận được một lá thư," cô nói. "Đó là một lá thư kỳ lạ. Và em phải nói."

"Thư của ai?"

"Bố của Phoebe."

Al gật đầu và khoanh tay lại, nhưng anh không nói gì. Anh biết về những lá thư, dĩ nhiên. Chúng đã được gửi tới nhiều năm nay, chứa tiền mặt số lượng khác nhau và một mẩu giấy chỉ vỏn vẹn một câu nguệch ngoạc. Xin hãy cho tôi biết cô đang sống ở đâu. Cô đã không làm theo, nhưng trong những năm đầu cô thường kể cho David Henry mọi chi tiết khác. Những bức thư đầy tâm sự chân thành, như thể anh là một người bạn chí thiết của cô, một người bạn tâm giao. Thời gian trôi qua, cô dần tỏ ra thực tế hơn, chỉ gửi ảnh đi kèm cùng lắm là một hai dòng ngắn. Cuộc sống của cô đã trở nên viên mãn, phong phú và phức tạp; chẳng có cách nào để viết hết từng chi tiết lên mặt giấy, nên cô chỉ đơn giản là thôi không cố nữa. Vì vậy đó thực sự là một cú sốc khi cô nhận được phong thư dày cộp từ David Henry, ba trang giấy kín đặc, viết bằng nét chữ sin sít của anh, một bức thư thống thiết mở đầu bằng Paul, tài năng và giấc mơ của nó, sự nổi loạn và giận dữ của nó.

Tôi biết đó là một sai lầm. Việc tôi đã làm, giao con gái của mình cho cô, tôi biết đó là một việc làm khủng khiếp, và tôi biết mình không thể thay đổi được. Nhưng tôi muốn gặp cô, Caroline. Tôi muốn sửa chữa, bằng cách nào đó. Tôi muốn biết thêm về Phoebe, và về cuộc sống của cô.

Cô thấy mềm lòng trước những hình ảnh anh miêu tả - Paul, một cậu bé mới lớn, chơi ghi ta và mơ mộng về Juilliard, Norah với công ty riêng của mình, và David, người gắn chặt trong tâm trí cô suốt bao nhiêu năm qua, vẫn rõ ràng như một tấm ảnh trong cuốn sách, đầu cúi xuống tờ giấy này, lòng tràn ngập hối hận và khao khát. Cô bỏ lá thư vào một hộc ngăn kéo, như thể làm vậy có thể kìm giữ nó, nhưng những câu chữ cứ lởn vởn trong đầu cô từng giây từng phút suốt tuần lễ bận rộn và nhiều cảm xúc này.

"Anh ấy muốn được gặp con bé," Caroline nói, ngón tay mân mê dải tua chiếc khăn choàng Doro dùng để bao ngoài tay vịn xích đu. "Để bằng cách nào đó trở lại là một phần trong cuộc đời nó."

"Anh ta cũng tử tế đấy chứ," Al nói. "Đúng là người dám làm dám chịu, sau ngần ấy thời gian."

Caroline gật đầu. "Nói gì thì nói, anh ta cũng là bố con bé."

"Thế thì anh không hiểu mình là cái gì vậy?"

"Em xin anh," Caroline nói. "Anh là ông bố mà Phoebe biết và yêu thương. Nhưng em đã không nói với anh tất cả mọi chuyện, Al, về việc làm sao em có được Phoebe. Và em nghĩ em nên nói ra."

Anh nắm lấy bàn tay cô.

"Caroline. Anh đã lang thang khắp Lexington sau khi em bỏ đi. Anh đã nói chuyện với mấy người hàng xóm của em, và nghe được rất nhiều câu chuyện. Thật ra, anh cũng chẳng được học hành gì nhiều, nhưng anh không phải thằng ngốc, và anh biết rằng bác sĩ David Henry đã mất một đứa con gái đúng vào khoảng thời gian em bỏ đi. Anh muốn nói rằng bất cứ chuyện gì xảy ra giữa hai người bọn em đều không quan trọng. Không quan trọng đối với anh. Không quan trọng đối với chúng ta. Thế nên anh không cần biết chi tiết làm gì hết."

Cô ngồi trong im lặng, ngắm nhìn xe cộ lao đi trên đường cao tốc.

"Anh ấy không muốn giữ con bé," cô nói. "Anh ấy định đưa nó đến một nhà cứu tế - một viện làm phúc. Anh ấy nhờ em đưa con bé đến, và em đã làm theo. Nhưng em không thể bỏ nó ở đấy. Đó là một nơi kinh khủng."

Al không nói năng gì một lúc lâu. "Anh đã được nghe nhiều thứ như thế," cuối cùng anh cất lời. "Anh đã được nghe những câu chuyện tương tự dọc đường. Em dũng cảm lắm, Caroline ạ. Em đã làm đúng. Khó mà tưởng tượng nổi Phoebe phải lớn lên ở một nơi như thế."

Caroline gật đầu, nước dâng đầy mắt cô. "Em xin lỗi, Al. Lẽ ra em nên nói cho anh biết từ nhiều năm trước."

"Caroline," anh nói. "Chuyện đó như nước chảy qua cầu rồi còn gì."

"Anh nghĩ em nên làm thế nào đây?" cô hỏi. "Ý em là, về lá thư kia. Em có nên trả lời không? Để anh ấy gặp con bé chăng? Em không biết nữa, chuyện này đã giày vò em suốt cả tuần nay. Lỡ anh ta mang con bé đi thì sao?"

"Anh không biết phải nói gì với em mới phải," anh đáp, chậm rãi. "Anh không có quyền quyết định."

Cô gật đầu. Cũng phải thôi, đó là hậu quả của việc giữ kín bí mật này cho riêng mình.

"Nhưng anh sẽ ủng hộ em," Al nói thêm, siết chặt tay cô. "Bất cứ điều gì em cho là tốt nhất, anh sẽ ủng hộ em và Phoebe một trăm phần trăm."

"Cảm ơn anh. Em đã rất lo lắng."

"Em lo lắng quá nhiều về những thứ không đâu, Caroline ạ."

"Vậy là chuyện này không ảnh hưởng gì đến chúng ta đúng không?" cô hỏi. "Việc trước đây em không nói cho anh biết ấy – nó không ảnh hưởng gì đến chúng ta đúng không?"

"Không hề," anh đáp.

"Thế thì tốt rồi."

"Ừ." Anh đứng dậy, vươn vai. "Quả là một ngày dài. Em lên gác không?"

"Một lát nữa thôi."

Cánh cửa lưới mở kẽo kẹt rồi đóng lại. Gió tràn qua chỗ trống nơi anh vừa ngồi.

Trời bắt đầu mưa, lúc đầu chỉ tí tách rơi trên mái nhà, sau đó táp xuống ràn rạt. Caroline khóa cửa căn nhà – nhà của cô. Đi lên gác, cô dừng lại để xem Phoebe ra sao. Da con bé ấm và ẩm; nó giật mình và ú ớ những từ gì không rõ, rồi lại ngoan ngoãn chìm vào giấc mơ. Con ngoan, Caroline thì thầm, và kéo chăn lên đắp cho con bé. Cô đứng một lúc trong căn phòng vang vọng tiếng mưa rơi, xúc động trước sự nhỏ bé của Phoebe, trước tất cả những thứ cô không thể làm để bảo vệ con gái mình trong thế giới này. Sau đó cô quay về phòng riêng của mình, chui vào khoảng chăn lạnh tanh bên cạnh Al. Cô nhớ bàn tay anh lướt trên da cô, râu anh cọ lên cổ cô, và tiếng thét của cô giữa đêm tối. Một người chồng tốt đối với cô, một người cha tốt đối với Phoebe, người đàn ông thức dậy mỗi sáng thứ Hai, tắm rửa, mặc quần áo rồi biến mất trên chiếc xe tải của anh trong suốt tuần, tin tưởng mọi việc cô làm mà cô cho là tốt nhất đối với David Henry và lá thư của anh ta. Caroline nằm một lúc lâu, lắng nghe tiếng mưa rơi, bàn tay đặt lên ngực anh.

Cô tỉnh giấc khi trời vừa sáng, Al giậm chân thình thình xuống cầu thang để lấy đồ nghề thay dầu xe cho sớm sủa. Mưa tuôn xối xả từ máng nước và ống xối, đọng thành vũng và đổ xuống triền đồi như suối.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

55#
 Tác giả| Đăng lúc 9-7-2012 09:40:24 | Chỉ xem của tác giả
Caroline đi xuống tầng một và pha cà phê, đắm chìm trong những suy nghĩ của riêng mình, trong không khí kỳ lạ của căn nhà yên ắng, đến độ không nghe thấy tiếng Phoebe cho đến tận khi con bé đứng trên ngưỡng cửa sau lưng cô.

"Mưa," Phoebe nói. Chiếc áo choàng tắm khoác sơ sài trên người con bé. "Như trút nước." (2)

"Ừ," Caroline đáp. Một lần hai mẹ con đã dành hàng giờ để học câu thành ngữ này, dùng một bức tranh khổ lớn do Caroline vẽ, với hình những đám mây xám xịt, chó và mèo rơi xuống từ trên trời cao. Đó là một trong những thứ Phoebe thích nhất. "Hôm nay thì trông giống hươu cao cổ với voi hơn."

"Bò với lợn," Phoebe nói. "Lợn với dê."

"Con có muốn ăn bánh mì nướng không?"

"Muốn một con mèo cơ," Phoebe đáp.

"Con muốn gì?" Caroline hỏi. "Nói cả câu đi nào."

"Mẹ ơi, con muốn có một con mèo ạ," Phoebe nói.

"Nhà mình không nuôi mèo được con ạ."

"Bác Doro đi rồi," Phoebe nói. "Con có thể nuôi một con mèo được mà."

Đầu Caroline ong lên. Liệu con bé sẽ thành người như thế nào đây?

"Này, Phoebe, bánh của con đây. Mẹ con mình sẽ nói chuyện con mèo sau, được không?"

"Con muốn có một con mèo," Phoebe lại nằn nì.

"Để sau đi."

"Con mèo," Phoebe nói.

"Chết tiệt," lòng bàn tay Caroline đập mạnh lên mặt quầy bếp, khiến hai mẹ con đều giật bắn mình. "Đừng có nói chuyện con mèo với mẹ nữa. Con không nghe thấy gì à?"

"Ngồi ngoài hiên," Phoebe nói, mặt rầu rĩ. "Ngắm mưa."

"Con muốn gì? Nói cả câu đi."

"Con muốn ra ngồi ngoài hiên ngắm mưa ạ."

"Thế thì con bị cảm lạnh mất."

"Con muốn…"

"Rồi, tốt thôi," Caroline ngắt lời, phẩy tay. "Tốt thôi. Ra ngoài đi, ngồi trên hiên. Ngắm mưa. Gì cũng được."

Cánh cửa mở ra và đóng lại. Caroline nhìn ra ngoài thấy Phoebe đang ngồi trên xích đu trên hiên nhà với tán ô xòe ra và chiếc bánh nướng đặt trong lòng. Cô giận chính mình vì đã nổi nóng. Không phải do Phoebe. Chỉ là vì Caroline không biết phải trả lời David Henry như thế nào, và cô thấy e sợ.

Cô gom lại album ảnh và những bức ảnh lẻ cô định phân loại rồi ngồi trên sofa nơi có thể để mắt trông Phoebe, bị bao phủ bởi chiếc ô, đang đu đưa trên chiếc xích đu trên hiên nhà. Cô rải những tấm ảnh mới chụp gần đây lên bàn uống cà phê, xé ra một tờ giấy và viết cho David.

Phoebe vừa được làm lễ Kiên tín hôm qua. Con bé trông rất dễ thương trong bộ váy trắng vải lưới và ruy băng hồng. Nó còn biểu diễn cả một bài đơn ca ở nhà thờ. Tôi gửi kèm một tấm ảnh chụp bữa tiệc chúng tôi vừa tổ chức trong vườn. Khó mà tin nổi con bé đã lớn đến thế, và tôi bắt đầu lo lắng về tương lai của nó. Tôi cho rằng đó là điều anh cũng đã nghĩ tới vào cái đêm anh đưa nó cho tôi. Tôi đã phải đấu tranh rất vất vả trong suốt những năm qua và đôi lúc tôi cảm thấy sợ hãi trước những điều có thể xảy ra tiếp theo, tuy nhiên…

Viết đến đây cô dừng lại, tự hỏi không hiểu động cơ gì khiến cô trả lời. Không phải vì tiền. Từng đồng lẻ trong số đó đã được gửi vào ngân hàng, trong suốt những năm qua Caroline đã tiết kiệm được gần 15.000 đô la, tất cả Phoebe đều được hưởng. Có lẽ đó đơn giản là một thói quen cũ, hoặc chỉ để giữ cho mối liên hệ giữa hai người tiếp tục tồn tại. Có lẽ Caroline chỉ đơn giản muốn anh hiểu được anh đã bỏ lỡ những gì. Đây này, cô muốn túm lấy cổ áo David Henry mà nói, con gái anh đấy: Phoebe, mười ba tuổi, nụ cười trên khuôn mặt nó rạng rỡ như mặt trời ấy.

Cô đặt bút xuống, nghĩ đến Phoebe trong bộ váy trắng, hát cùng dàn đồng ca, tay ôm con mèo. Làm sao cô có thể nói cho anh tất cả những điều này mà không tôn trọng yêu cầu muốn gặp con gái của anh? Ngộ nhỡ anh đến đây, sau ngần ấy thời gian, thì chuyện gì sẽ xảy ra đây. Cô không nghĩ mình còn yêu anh nữa, nhưng có lẽ là còn. Có lẽ cô vẫn còn giận anh nữa, vì những lựa chọn mà anh đã theo, vì đã không bao giờ thực sự nhìn ra con người của cô. Cô hoang mang khi khám phá ra những trăn trở đó trong trái tim mình. Nếu rốt cuộc anh đã thay đổi thì sao? Nhưng nếu anh chưa thay đổi thì sao? Có thể anh sẽ làm Phoebe tổn thương như đã từng làm cô tổn thương, mà không hề biết gì về chuyện đó.

Có gạt bức thư sang một bên. Thay vào đó, cô trả vài tờ hóa đơn, rồi đi ra ngoài để cho vào thùng thư. Phoebe đang ngồi trên bậc thềm trước nhà, tay giơ cao chiếc ô để che mưa. Caroline nhìn con trong giây lát rồi thả cho cánh cửa đóng lại và vào bếp để lấy thêm một cốc cà phê nữa. Cô đứng một lúc lâu ở cửa sau, nhìn đăm đăm những chiếc lá ướt rượt, bãi cỏ sũng nước, dòng nước nhỏ chảy dọc theo vỉa hè. Một chiếc cốc giấy mắc chỏng chơ dưới bụi cây, một mẩu khăn giấy mủn ra bên ga ra. Trong vài giờ nữa Al sẽ lại lái xe đi. Cô thoáng nhận ra, chỉ trong khoảnh khắc thôi, cảm giác đó tự do tự tại đến thế nào.

Đột nhiên mưa rơi nặng hạt hơn, rào rào giội xuống mái nhà. Có thứ gì đó cồn lên trong lòng cô, một thứ bản năng mãnh liệt khiến Caroline quay gót và bước vào phòng khách. Cô biết trước cả khi đặt chân ra hiên nhà rằng cô sẽ thấy ở đó trống không, chiếc đĩa đặt gọn gàng trên mặt sàn bê tong, cây xích đu đứng im lìm.

Phoebe đã đi mất.

Đi đâu? Caroline chạy ra bờ rìa hiên nhà và nhìn khắp con phố qua làn mưa dày. Tiếng tàu hỏa văng vẳng phía xa; con đường bên tay trái trườn lên đồi dẫn ra đường ray. Bên phải, con đường kết thúc ở đoạn dốc dẫn lên đường cao tốc. Được rồi, nghĩ đi. Nghĩ đi! Con bé có thể đi đâu nào?

Dưới phố đám trẻ con nhà Swan đang nghịch trong mấy vũng nước, chân để trần. Caroline nhớ ra sáng hôm nay Phoebe đã nói, Con muốn có một con mèo, và Avery đứng giữa bữa tiệc tay ôm một cuộn lông. Nhớ đến Phoebe, thích thú trước sự bé bỏng, tiếng kêu nho nhỏ của con mèo ấy. Và quả đúng như vậy, khi cô hỏi đám trẻ nhà Swan về Phoebe, mấy đứa chỉ ngang qua đường ra hướng bụi cây. Con mèo con đã chạy mất. Phoebe và Avery đã đi cứu nó.

Ngay khi dòng xe vừa thưa đi, Caroline chạy ào qua đường. Mặt đất ướt nhoẹt, nước tràn vào lấp đầy vết chân cô để lại. Cô luồn lách qua bụi cây rậm và cuối cùng cũng ra đến bãi đất trống. Avery ở đó, đang quỳ gối bên cạnh ống cống dẫn nước từ trên đồi xuống con mương bê tông. Chiếc ô màu vàng của Phoebe vứt chỏng chơ, như một lá cờ, bên cạnh con bé.

"Avery!" Cô ngồi xổm xuống bên cạnh con bé, đặt tay lên bờ vai ướt sũng của nó. "Phoebe đâu rồi cháu?"

"Bạn ấy đi bắt con mèo rồi," Avery nói, đoạn chỉ vào trong ống cống. "Nó chạy vào kia kìa."

Caroline rủa thầm rồi khom gối trước cửa ống cống. Nước lạnh buốt táp ồ ạt vào đầu gối cô, tay cô. Phoebe! Cô hét lên, giọng vang vọng trong bóng tối. Mẹ đây, con yêu, con có ở đây không?

Im lặng. Cô lần bò vào bên trong. Nước lạnh buốt. Tay cô đã tê cóng lại. Phoebe! Cô hét lên thật to, giọng lạc đi. Phoebe! Cô căng tai lắng nghe. Rồi một tiếng động, mơ hồ. Caroline bò vào sâu hơn một chút, mò mẫm đường đi trong làn nước chảy ràn rạt vô hình lạnh giá. Rồi tay cô chạm phải lớp vải, làn da lạnh buốt, và Phoebe đang run lẩy bẩy, giờ nằm gọn trong vòng tay cô. Caroline ôm chặt con bé, nhớ đến cái đêm cô bế Phoebe trong căn phòng tắm sơn màu tím ẩm ướt, cố vuốt cho nó thở.

"Chúng ta phải ra khỏi đây ngay, con yêu. Chúng ta phải ra ngay."

Nhưng Phoebe không nhúc nhích.

"Con mèo của con," nó nói, giọng cao, kiên quyết, và Caroline nhận thấy có thứ gì quằn quại dưới lớp áo của Phoebe, nghe có tiếng meo meo khe khẽ. "Đấy là con mèo của con."

"Quên con mèo đi," Caroline quát. Cô nhẹ nhàng kéo Phoebe theo hướng cô vừa đi. "Đi nào, Phoebe. Đi ngay đi con."

"Mèo của con," Phoebe nói.

"Thôi được rồi," Caroline nói, nước đã dâng cao hơn, đến gần đầu gối cô. "Được rồi, được rồi, đấy là mèo của con. Đi đi nào!"

Phoebe bắt đầu di chuyển, chậm chạp lần bước về phía vòng tròn ánh sáng. Cuối cùng họ nhô đầu ra, nước lạnh cuồn cuộn chảy quanh hai mẹ con trong con mương bê tông. Phoebe ướt sũng nước, tóc bết chặt vào mặt, cả con mèo cũng ướt như chuột lột. Qua những bụi cây Caroline thoáng thấy căn nhà của mình, chắc chắn và ấm áp, như một chiếc bè giữa thế giới đầy hiểm nguy. Cô tưởng tượng ra Al, đang rong ruổi trên con đường cao tốc xa xôi nào đó, và cảm giác bình an thân thuộc về những căn phòng giờ đã là của cô.

"Ổn rồi," Caroline vòng tay quanh người Phoebe. Con mèo con oằn mình, cào những chiếc móng nhỏ xíu lên mu bàn tay cô. Mưa vẫn rơi, nhỏ tí tách trên những chiếc lá thẫm màu, tươi xanh.

"Người đưa thư đến kìa," Phoebe nói.

"Ừ," Caroline đáp, nhìn ông ta leo lên hiên nhà và lấy những hóa đơn cô vừa mang ra cho vào chiếc túi da.

Lá thư cô viết cho David Henry vẫn còn nằm dở dang trên bàn. Cô đã đứng ở cửa sau ngắm nhìn cơn mưa, chỉ mông lung nghĩ đến bố của Phoebe, trong khi Phoebe lang thang giữa hiểm nguy. Đột nhiên nó giống như một điềm báo, và cô để mặc bản thân biến nỗi sợ hãi trước sự biến mất của Phoebe thành sự căm giận. Cô sẽ không viết thư cho David nữa: anh đòi hỏi quá nhiều ở cô, và anh đòi hỏi quá muộn. Người đưa thư đã quay gót bước xuống bậc thềm, chiếc ô sặc sỡ của ông lấp loáng.

"Phải rồi, con yêu," cô nói, vuốt ve cái đầu xương xẩu của con mèo con. "Phải rồi. Ông ấy đấy."


--------------------
2. Nguyên văn "It rains dogs ang cats": nghĩa là mưa rất to, mưa như trút nước. Phoebe và Caroline vận dụng câu thành ngữ này để biến thể, không phải chó và mèo nữa, mà là các con vật to lớn hơn nhiều; ý là câu thành ngữ này cũng chưa diễn tả hết cơn mưa ngày hôm đó.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

56#
 Tác giả| Đăng lúc 9-7-2012 09:54:18 | Chỉ xem của tác giả
Chương 15

Tháng Tư Năm 1982


Caroline đứng ở bến xe buýt gần góc đường giao giữa phố Forbes và Braddock, ngắm nhìn vẻ hiếu động tinh nghịch của lũ trẻ trên sân chơi, tiếng la hét vui vẻ của chúng át đi cả tiếng gầm rú đều đều của xe cộ trên đường. Xa hơn, trên sân bóng chày, những dáng hình trong bộ đồ màu xanh đỏ từ các đội chơi của mấy quán rượu trong vùng di chuyển nhịp nhàng lặng lẽ trên nền cỏ mới nhú. Đang độ vào xuân. Trời bắt đầu tối dần. Chừng vài phút nữa các ông bố bà mẹ đang ngồi trên ghế dài hay đứng đút tay túi quần sẽ bắt đầu gọi các con về nhà. Cuộc chơi của người lớn sẽ còn kéo dài đến lúc trời gần tối hẳn, và khi kết thúc những người chơi sẽ vỗ lưng nhau rồi chia tay, hẹn nhau tụ tập ở quán rượu làm vài ly, tiếng cười của họ vang vang và sảng khoái. Bà và Al đã nhìn thấy họ khi hai người ra ngoài buổi tối. Cùng xem một buổi diễn sớm ở Regent, rồi ăn tối và – nếu Al không vướng việc gì – thì sau đó sẽ là vài ly bia.

Tuy nhiên tối nay ông không ở nhà, mà đang rong ruổi ở một nơi xa xôi nào đó trong bóng tối nhập nhoạng, hướng lên phía Nam từ Cleveland xuống Toledo, rồi qua Columbus. Caroline có một tờ giấy ghi lộ trình của ông treo trên tủ lạnh. Nhiều năm về trước, trong những ngày lạ lùng sau khi Doro ra đi, Caroline đã thuê người trông Phoebe trong khi bà lên đường cùng Al, mong nối liền khoảng cách giữa hai người. Nhiều giờ đồng hồ trôi qua; bà ngủ rồi thức và mất hết ý niệm về thời gian, con đường xoáy rộng ra mãi dưới bánh xe của họ, một dải ruy băng sẫm màu bị cắt đôi bởi những vệt màu trắng đều đặn, lôi cuốn và mê hoặc. Cuối cùng Al, mệt rã rời, dừng lại tại bến đỗ xe tải và đưa bà vào một nhà hàng chẳng khác gì mấy so với nhà hàng hai người đã tới trong thành phố nào đó mà họ vừa ở lại hôm trước. Cuộc sống rong ruổi trên đường giống như bị rơi vào những cái lỗ kỳ dị của vũ trụ, cứ như là ta có thể bước vào nhà vệ sinh tại một thành phố ở Mỹ rồi vẫn cánh cửa đó, ta bước ra và thấy mình đã ở một nơi khác: những tiệm tạp hóa ven đường, trạm xăng và cửa hàng đồ ăn nhanh, tiếng rù rù nhàm chán của bánh xe cán lên mặt đường. Chỉ có những cái tên là khác nhau, ánh sáng, những khuôn mặt. Bà đã đi cùng Al hai chuyến, sau đó thì không một lần nào nữa.

Chiếc xe buýt vòng qua góc phố và rít lên khi dừng lại. Những cánh cửa xếp kéo ra, Caroline leo lên xe và kiếm một chỗ ngồi cạnh cửa sổ, những bóng cây lướt qua khi xe ầm ầm đi qua cầu và con đường phía dưới. Xe lao nhanh qua nghĩa trang, lảo đảo xuyên đồi Squirrel, rồi ì ạch vượt khu vực lân cận để tới Oakland, ở đó Caroline xuống xe. Bà đứng trước bảo tàng Carnegie một lúc, trấn tĩnh lại, rồi nhìn lên tòa nhà đá sừng sững với những bậc thang đổ dài và cột chống Ionic. Một tấm băng rôn treo trên đỉnh mái cổng bay phất phơ trong gió: ẢNH GƯƠNG: NHIẾP ẢNH GIA DAVID HENRY.

Tối nay là đêm khai mạc: ông sẽ có mặt ở đây để phát biểu. Tay run rẩy, Caroline nhét mẩu báo vào túi. Bà đã mang theo nó trong suốt hai tuần nay, tim bà rộn lên mỗi khi chạm vào nó. Phải đến chục lần, có lẽ là hơn, bà đã thay đổi ý định. Làm thế thì ích gì cơ chứ?

Và rồi, ngay giây sau đó, có hại gì đâu nhỉ?

Nếu Al đang ở đây, bà sẽ ngồi nhà. Bà sẽ để cơ hội trôi đi mà không mảy may bận tâm, liếc nhìn đồng hồ cho đến khi buổi khai mạc kết thúc và David Henry biến mất, quay về với bất cứ cuộc đời nào mà ông đang sống.

Nhưng Al gọi về bảo tối nay ông vẫn chưa về, và đã có bà O’Neil ở nhà trông Phoebe, với lại xe buýt cũng đến đúng giờ nữa.

Trái tim Caroline như đang gào thét. Bà đứng im lặng, hít những hơi thật sâu, trong khi thế giới xoay vần quanh bà, tiếng phanh xe kin kít cùng mùi khói xăng, và tiếng xào xạc rất khẽ của đám lá non nhẹ như lông hồng tiết xuân. Tiếng người nói lớn dần khi mọi người tiến lại gần, rồi nhỏ đi, những mẩu chuyện trò lơ lửng như các mảnh giấy bị cuốn theo gió. Hàng dòng người, xúng xính diện váy lụa, giày cao gót và những bộ vest đắt tiền sẫm màu, ùa lên những bậc đá dẫn vào viện bảo tàng. Bầu trời thuần một màu chàm sẫm, đèn đường đã được thắp sáng; không khí tràn ngập hương chanh và bạc hà tỏa ra từ bữa tiệc của Giáo hội Chính thống Hy Lạp cách đó một dãy phố. Caroline nhắm mắt lại, nghĩ đến món ô liu đen bà chưa từng nếm qua cho đến khi tới thành phố này. Nghĩ đến những mảng màu hỗn độn của phiên chợ sáng thứ Bảy ở Strip, những ổ bánh mì tươi, hoa quả và rau cỏ, một bữa đại tiệc của thực phẩm và sắc màu ở những gian hàng trải dọc con sông, điều mà cả đời bà có lẽ sẽ không bao giờ biết đến nếu không nhờ có David Henry và cơn bão tuyết bất ngờ. Bà dấn một bước rồi thêm một bước nữa, hòa mình vào dòng người đông đúc.

Viện bảo tàng có trần nhà trắng cao vút và sàn nhà ốp gỗ sồi, đánh véc ni cho thành màu vàng thẫm, bóng lộn. Caroline được phát một tờ chương trình in trên giấy màu kem dày dặn với cái tên của David Henry nằm ở phía trên. Tiếp đó là danh sách các bức ảnh. "Đồi cát buổi hoàng hôn," bà đọc. "Cây mọc trong tim." Bà bước vào phòng tranh và nhìn thấy bức ảnh nổi tiếng nhất của ông, bãi biển nhấp nhô – thực chất không chỉ có bãi biển, có đường cong ở hông một người phụ nữ, tiếp nối bằng chiều dài mượt mà của chân bà, ẩn dưới những đụn cát. Hình ảnh đó như run lên, chơi vơi trên ranh giới của một thứ gì đó khác, và đột nhiên nó chính là thứ gì đó khác. Caroline đã nhìn chằm chằm bức ảnh trong suốt mười lăm phút ngay lần đầu tiên bà thấy nó, bà biết những đường cong này thuộc về Norah Henry, nhớ đến ngọn đồi trắng muốt hay chính là bụng của bà ta rùng rùng theo từng cơn co thắt, sức mạnh ghê gớm khi bà ta siết tay. Trong nhiều năm trời bà đã tự an ủi mình bằng cái nhìn khinh thị, có phần thiên kiến dành cho Norah Henry, một người hơi độc đoán quen sống thoải mái và trật tự, Norah Henry – người phụ nữ đó hẳn đã có thể vứt bỏ Phoebe trong một nhà cứu tế. Nhưng tấm ảnh này đã phá tan ý nghĩ ấy. Những tấm ảnh này cho thấy một người phụ nữ bà chưa từng biết.

Khách khứa đổ vào phòng; ghế ngồi được lấp đầy. Caroline ngồi xuống, chăm chú theo dõi từng chi tiết. Ánh đèn ban đầu mờ dần rồi bừng sáng trở lại, sau đó bỗng nhiên tiếng vỗ tay rộ lên và David Henry bước vào, cao dong dỏng và thân thuộc, dạo này trông có vẻ béo lên, mỉm cười với khán giả. Bà bị sốc khi thấy ông không còn là một người đàn ông trẻ trung nữa. Mái tóc của ông đã ngả bạc và bờ vai đã hơi còng xuống. Ông bước đến bục diễn thuyết và chăm chú nhìn khán giả, Caroline nín thở, bà chắc rằng ông đã nhìn thấy bà, chắc rằng ông phải nhận ra bà ngay, như bà nhận ra ông. Ông hắng giọng và pha trò về thời tiết. Khi tiếng cười lan ra quanh bà và thưa dần, khi ông nhìn vào tập giấy của mình và bắt đầu nói, Caroline mới hiểu rằng bà chỉ là một khuôn mặt bình thường trong đám đông.

Ông phát biểu bằng một chất giọng tự tin du dương, mặc dù Caroline hầu như chẳng để ý đến điều ông đang nói. Thay vào đó, bà ngắm nhìn những cử chỉ quen thuộc của bàn tay ông, những vết chân chim mới xuất hiện ở khóe mắt ông. Tóc ông đã dài hơn, dày dặn và kiểu cách dù đã ngả bạc, trông ông thật mãn nguyện, điềm tĩnh. Bà nhớ lại đêm đó, tính ra cũng đã gần hai chục năm trời, kể từ ngày ông tỉnh giấc và ngẩng đầu lên từ bàn làm việc, bắt gặp bà đứng trên ngưỡng cửa, phô bày không chút giấu giếm tình yêu bà dành cho ông, trong khoảnh khắc đó hai người bỗng trở nên thật quá mong manh trong mắt nhau. Khi ấy bà đã nhận ra có điều gì đó, điều gì đó mà ông đang che giấu, một thứ trải nghiệm, hy vọng hay mơ ước riêng tư đến mức chẳng thể chia sẻ. Và đó là sự thật, ngay cả lúc này bà vẫn có thể nhìn ra điều đó: David Henry có một cuộc đời bí mật. Sai lầm của bà hai mươi năm trước chính là ở chỗ bà tin rằng bí mật của ông hẳn có liên quan đến tình yêu ông dành cho bà.

Khi bài phát biểu kết thúc, tiếng vỗ tay rộ lên, nồng nhiệt, sau đó ông rời khỏi bục diễn thuyết, uống một hơi dài ở cốc nước của mình, và trả lời các câu hỏi. Có vài người – từ một người đàn ông cầm cuốn sổ ghi chép, một phụ nữ đứng tuổi tóc đã bạc, một phụ nữ trẻ mặc đồ đen với mái tóc đen huyền suôn dài – đặt câu hỏi khá quyết liệt về hình thể. Toàn thân Caroline căng lên và tim bà đập thình thịch đến độ bà gần như không thở nổi. Những câu hỏi kết thúc và im lặng lan dần, David Henry hắng giọng, một nụ cười giãn ra khi ông nói lời cảm ơn khán giả và quay đi. Caroline cảm thấy mình đứng lên liền sau đó, gần như ngoài tầm kiểm soát của bản thân, chiếc túi che phía trước như một tấm khiên. Bà đi qua căn phòng và hòa vào nhóm người đang vây quanh ông. Ông liếc nhìn bà và mỉm cười lịch sự, không hề nhận ra. Bà đợi qua vài câu hỏi nữa, cảm thấy vững dạ hơn sau mỗi phút trôi qua. Người tổ chức buổi triển lãm đứng ngay mé ngoài, lo lắng David sẽ bị cuốn theo đám đông, nhưng khi vừa có một khoảng trống giữa các câu hỏi, Caroline đã bước lên phía trước và đặt tay lên cánh tay David.

"David," bà nói. "Anh không nhận ra tôi sao?"

Ông quan sát khuôn mặt bà.

"Tôi có thay đổi nhiều lắm không?" bà thì thầm.

Ngay lúc đó bà thấy ông đã hiểu ra. Khuôn mặt ông biến đổi hẳn, rúm ró, như thể trọng lực đột nhiên mạnh lên. Máu dồn lên cổ ông và cơ mặt ông giật giật. Caroline cảm thấy một điều gì kỳ dị đang xảy ra với thời gian, như thể họ đang trở lại phòng khám cách đây bao năm, tuyết rơi rơi ngoài trời. Họ nhìn nhau đăm đăm không nói, cứ như cả căn phòng và những con người trong đó đã biến mất hoàn toàn.

"Caroline," cuối cùng ông nói, có vẻ đã tĩnh trí lại. "Caroline Gill. Một người bạn cũ," ông đế thêm, giải thích với những người vẫn vây quanh họ. Ông giơ một tay lên và chỉnh cà vạt, một nụ cười nở rộng trên môi ông, mặc dù đôi mắt không hề tươi vui. "Xin cảm ơn," ông nói. "Cảm ơn tất cả các bạn đã đến đây. Bây giờ, xin thứ lỗi cho chúng tôi."
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

57#
 Tác giả| Đăng lúc 9-7-2012 09:56:12 | Chỉ xem của tác giả
Sau đó họ đi qua phòng. David sóng bước bên bà, một tay đặt nhẹ nhàng nhưng chắc chắn trên lưng bà, như thể bà có thể sẽ biến mất trừ phi ông giữ bà thật chắc.

"Vào đây," ông nói, bước ra sau một tấm panô trưng bày, ở đó có một cánh cửa không có khung hình gần như hòa lẫn vào bức tường trắng. Ông dẫn bà đi vào trong, rất nhanh, và đóng cánh cửa lại sau lưng họ. Đó là một cái nhà kho, nhỏ thôi, một chiếc bóng trần rót ánh sáng lên những chiếc kệ xếp đầy sơn và dụng cụ. Họ đứng mặt- đối- mặt, chỉ cánh nhau có vài centimet. Mùi hương của ông tràn ngập khắp căn phòng, mùi nước hoa Cologue ngòn ngọt, và ẩn dưới đó là một mùi hương bà vẫn còn nhớ, mùi gì đó ngai ngái như mùi thuốc pha lẫn chút adrenaline. Căn phòng nhỏ nóng sực, và đột nhiên bà bỗng thấy choáng váng, những đốm đom đóm quay cuồng trong mắt.

"Caroline," ông nói. "Lạy Chúa tôi, cô sống ở đây à? Ở Pittsburgh sao? Sao cô không nói với tôi cô sống ở đâu?"

"Tôi không phải người khó tìm lắm đâu. Đã có những người khác tìm ra tôi rồi đấy," bà chậm rãi đáp, nhớ lại lúc Al đi lên con hẻm, lần đầu tiên bà hiểu được sự bền bỉ vô hạn của ông. Và giả thử sự thực là David đã không tìm kiếm hết sức, thì thật ra chính bà cũng không muốn bị tìm thấy.

Bên ngoài cánh cửa có tiếng bước chân, tiến đến gần và dừng lại. Tiếng nói ồn ào và xì xào. Bà nhìn khuôn mặt ông. Bao nhiêu năm qua ngày nào bà cũng nghĩ về ông, vậy mà giờ đây bà lại không biết phải nói gì.

"Có lẽ anh nên ra ngoài kia chăng?" bà hỏi, liếc nhìn ra cửa.

"Họ sẽ đợi được."

Sau đó họ nhìn nhau, không nói gì. Caroline đã giữ hình ảnh của David trong óc bà suốt thời gian qua như một tấm ảnh, một trăm thậm chí một ngàn tấm ảnh. Trong tấm nào David Henry cũng là một người đàn ông trẻ trung, luôn tràn đầy sức mạnh kiên quyết. Giờ đây, nhìn sâu vào đôi mắt sẫm và đôi má bầu bầu của ông, mái tóc chải chuốt cẩn thận, bà nhận ra rằng, thật ra, nếu bà có đi ngang qua ông trên phố, rốt cuộc bà cũng sẽ chẳng nhận ra.

Khi ông cất lời trở lại, giọng ông đã dịu dàng hơn, mặc dù thớ cơ trên mặt vẫn giần giật. "Tôi đã đến căn hộ của cô, Caroline ạ. Chính ngày hôm đó, sau lễ tưởng niệm. Tôi đến, nhưng cô đã đi mất rồi. Trong suốt thời gian qua…" ông nói, rồi lại im lặng.

Có tiếng gõ cửa rất khẽ, rồi đến một giọng hỏi han nghe lùng bùng không rõ.

"Đợi tôi một lát," David nói vọng lại.

"Tôi đã yêu anh," Caroline nói nhanh, sững sờ trước lời bộc bạch của mình, vì đó là lần đầu tiên bà nghe thấy điều đó được thốt ra thành lời, thậm chí là chỉ với chính mình, mặc dù đó là ý niệm bà đã cùng chung sống trong bao nhiêu năm ròng. Lời thú nhận khiến bà thấy đầu hơi ong ong, bà thấy mình liều lĩnh, và rồi lại tiếp tục: "Anh biết không, tôi đã dành không biết bao nhiêu thời gian mơ mộng về cuộc sống có anh bên cạnh. Và chính trong cái giây phút ở nhà thờ tôi nhận ra rằng tôi chưa bao giờ vụt qua tâm trí anh, chưa hề."

Ông cúi đầu nghe bà nói, rồi ngước mắt lên.

"Tôi biết," ông nói. "Tôi biết cô yêu tôi. Nếu không làm sao tôi dám nhờ cô giúp? Tôi xin lỗi, Caroline. Bao nhiêu năm qua, tôi đã… rất hối hận."

Bà gật đầu, mắt đẫm nước, phiên bản thời trẻ của bà vẫn còn sống, vẫn còn đứng bên lề buổi tưởng niệm, không ai thừa nhận, không ai nhìn thấy. Ngay cả lúc này, bà vẫn thấy giận dữ vì khi ấy ông đã không nhìn thấy bà. Và rằng, dù không hề hiểu bà, ông vẫn không ngần ngại nhờ bà đưa con gái mình đi.

"Cô có hạnh phúc không?" ông hỏi. "Cô sống có hạnh phúc không, Caroline? Cả Phoebe nữa?"

Câu hỏi của ông, và sự dịu dàng trong giọng nói của ông, xua tan nỗi oán giận trong bà. Bà nghĩ tới Phoebe, nghĩ đến con bé đã gắng hết sức để học cách xếp chữ, để buộc dây giày. Phoebe, vui vẻ cười đùa ở sân sau trong khi Caroline gọi hết cú điện thoại này đến cú điện thoại khác, đấu tranh cho việc học hành của con bé. Phoebe, vòng đôi cánh tay mềm mại quanh cổ Caroline chẳng vì lý do gì cả và nói, Mẹ ơi, con yêu mẹ. Bà nghĩ đến Al, đi biền biệt tối ngày nhưng cuối mỗi tuần lễ dài dằng dặc ông đều bước qua cửa, tay ôm hoa hoặc một túi đầy những cuộn bánh mới ra lò hoặc một món quà xinh xinh, quà cho bà, lúc nào cũng vậy, và quà cho Phoebe nữa. Khi bà còn làm ở phòng khám của David Henry, bà vẫn còn quá trẻ, quá cô đơn và ngây thơ, đến mức bà đã tưởng tượng bản thân mình giống một chiếc lọ rỗng cần được lấp đầy bằng tình yêu. Nhưng thực tế không phải vậy. Tình yêu luôn ẩn sâu bên trong bà, và cách duy nhất để làm mới nó là đem cho đi tình yêu.

"Anh thực sự muốn biết ư?" Cuối cùng bà hỏi, nhìn thẳng vào mắt ông. "Vì anh chưa bao giờ hồi âm một dòng nào cả, David ạ. Chỉ trừ có lần đó, còn lại anh chưa từng hỏi một câu nào về cuộc sống của chúng tôi. Chưa từng, suốt bao nhiêu năm qua."

Khi Caroline nói ra, bà bỗng nhận ra đó là lý do tại sao bà đến đây. Hoàn toàn không phải vì tình yêu, hay bất cứ thứ bổn phận nào đối với quá khứ, thậm chí cũng không phải vì cảm giác có lỗi. Bà đã đến đây vì nỗi oán giận và ước muốn làm rõ mọi chuyện.

"Bao nhiêu năm qua anh chẳng cần biết tôi sống ra sao. Phoebe sống ra sao. Anh không thèm quan tâm, phải không? Và rồi đến lá thư cuối cùng ấy, lá thư mà tôi không bao giờ trả lời. Đột nhiên, anh muốn nhận lại con bé."

David bật ra một tiếng cười ngắn đầy hoảng hốt. "Đấy là cách cô nhìn nhận sự việc hay sao? Có phải vì thế mà cô thôi không viết cho tôi nữa không?"

"Tôi còn nhìn nhận thế nào được nữa?"

Ông chậm chạp lắc đầu. "Caroline, tôi đã xin cô cho tôi địa chỉ. Hết lần này đến lần khác – mỗi lần tôi gửi tiền cho cô. Và đến lá thư cuối cùng đó tôi chỉ xin cô cho tôi được hiện diện trở lại trong cuộc sống của cô thôi. Tôi còn có thể làm gì hơn được nữa? Nghe này, tôi biết cô không nhận ra, nhưng tôi đã giữ mọi lá thư cô từng gửi. Và khi cô thôi không viết nữa, tôi có cảm giác như cô vừa đóng sập cánh cửa trước mặt tôi."

Caroline nghĩ đến tất cả những lá thư của bà, bao nhiêu lời bộc bạch chân thành đã theo dòng mực trải lên mặt giấy. Bà không còn nhớ những gì mình đã viết nữa: những tiểu tiết về cuộc sống của Phoebe, hy vọng, ước mơ và những nỗi lo sợ của bà.

"Chúng ở đâu?" bà hỏi. "Anh giữ những lá thư tôi gửi ở đâu?"

Trông ông có vẻ ngạc nhiên. "Trong tủ đựng hồ sơ đặt trong buồng tối của tôi: ngăn dưới cùng. Lúc nào cũng khóa. Sao cơ?"

"Tôi đã không nghĩ anh sẽ đọc chúng," Caroline đáp. "Tôi có cảm giác như mình đang viết thư gửi vào khoảng không. Có lẽ vì thế mà tôi cảm thấy thật thoải mái. Giống như tôi có thể nói bất cứ điều gì."

David cọ tay lên má, một cử chỉ bà nhớ ông thường làm khi mệt mỏi hoặc nản chí. "Tôi đã đọc tất cả. Bao đầu tôi phải cố ép mình, nói thật là vậy. Sau đó, tôi muốn biết mọi chuyện diễn ra thế nào, mặc dù rất đau lòng. Cô giúp tôi biết vài nét về Phoebe. Những mẩu nhỏ từ cuộc sống của hai người. Tôi luôn mong mỏi điều đó."

Bà không trả lời, nhớ lại cảm giác thỏa mãn của mình vào cái ngày mưa đó, khi bà đưa Phoebe lên gác cùng con mèo con của nó, Mưa, để thay quần áo ướt trong khi bà đứng trong phòng khách, xé lá thư viết cho anh thành bốn mảnh, rồi tám mảnh, rồi mười sáu mảnh, và thả chúng rơi như hoa giấy vào thùng rác. Thỏa mãn, và cả cảm giác hài lòng vì đã giải quyết xong vấn đề. Bà đã tận hưởng những cảm xúc đấy, lỡ quên đi – thậm chí là không thèm để ý – xem David đã cảm thấy như thế nào.

"Tôi không thể đánh mất con bé," bà nói. "Tôi đã căm giận anh rất, rất lâu rồi, nhưng sau đó chủ yếu tôi lại lo sợ rằng nếu anh được gặp con bé anh sẽ đưa nó đi. Đó là lý do tại sao tôi ngừng viết thư."

"Đó chưa bao giờ là ý định của tôi cả."

"Anh không định gây ra bất cứ chuyện nào trong số này," Caroline đáp. "Nhưng nó vẫn xảy ra đấy thôi."

David Henry thở dài, và bà tưởng tượng ông đứng trong căn hộ trống không của bà, đi từ phòng này sang phòng khác và nhận ra rằng bà đã ra đi mãi mãi. Nói cho tôi biết kế hoạch của cô là gì, ông sẽ nói thế. Chỉ vậy thôi.

"Nếu tôi không chịu mang con bé đi," bà nhẹ nhàng nói thêm. "Có lẽ anh đã xử sự khác."

"Tôi đã không ngăn cô lại," ông nói, ánh mắt lại bắt gặp cái nhìn đăm đăm của bà. Giọng ông gay gắt. "Lẽ ra tôi đã có thể làm thế. Hôm đó cô mặc chiếc áo choàng đỏ ở lễ tưởng niệm. Tôi trông thấy cô và tôi nhìn cô lái xe đi."

Caroline đột nhiên cảm thấy kiệt sức, gần như muốn ngất lịm. Bà không biết mình đã hy vọng những gì từ đêm nay, nhưng khi tưởng tượng ra cuộc nói chuyện này, bà đã không tưởng tượng ra những gì ẩn chứa trong đó: nỗi đau đớn và giận dữ của ông, và của chính bà nữa.

"Anh nhìn thấy tôi?" bà nói.

"Tôi đến thẳng nhà cô ngay sau đó. Tôi đã hy vọng cô có ở đó."

Caroline nhắm mắt lại. Khi ấy bà đang lái xe thẳng hướng đường cao tốc, trên đường đến với nơi này, đến với cuộc sống này. Có lẽ bà đã đi trước cuộc viếng thăm của David Henry mất vài phút hoặc một tiếng. Bao nhiêu chuyện đã xoay vần từ cái khoảng khắc ấy. Cuộc sống của bà có lẽ đã đi theo một hướng rất khác rồi.

"Cô vẫn chưa trả lời tôi," David nói, hắng giọng. "Cô có được hạnh phúc không, Caroline? Cả Phoebe nữa? Sức khỏe con bé có ổn không? Tim nó ra sao rồi?"

"Tim con bé vẫn ổn," Caroline đáp, nhớ đến những năm đầu luôn thường trực lo lắng cho sức khỏe của Phoebe – những chuyến đi đến gặp bác sĩ, nha sĩ, bác sĩ chuyên khoa tim mạch và các chuyên gia về tai, mũi, họng. Nhưng con bé đã lớn lên; nó vẫn khỏe mạnh; nó ném bóng rổ trên lối vào nhà và thích nhảy múa. "Những cuốn sách tôi đã đọc khi con bé còn nhỏ dự đoán là đến giờ nó đã chết rồi, nhưng nó vẫn khỏe. Tôi đoán là nó cũng may mắn nữa; nó chưa bao giờ gặp vấn đề gì về tim cả. Nó thích hát. Nó có một con mèo tên là Mưa. Nó đang học dệt. Nó đang ở đấy. Ở nhà. Ngồi dệt." Caroline lắc đầu. "Con bé được đến trường. Trường công, cùng với những đứa trẻ khác. Tôi phải đấu tranh rất vất vả để xin họ nhận nó. Đến bây giờ nó gần như trưởng thành rồi tôi không biết điều gì sẽ xảy ra nữa. Tôi có một công việc tốt. Tôi làm việc bán thời gian cho một phòng khám nội khoa ở bệnh viện. Chồng tôi, anh ấy đi công tác nhiều lắm. Hàng ngày Phoebe thường đến khu nhà tập thể chơi. Con bé có nhiều bạn tốt ở đó. Nó cũng đang học cách làm công việc văn phòng. Tôi còn nói gì được nữa đây? Anh đã bỏ qua rất nhiều chuyện đau tim, chắc chắn rồi. Nhưng David ạ, anh cũng bỏ lỡ rất nhiều niềm vui nữa."
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

58#
 Tác giả| Đăng lúc 9-7-2012 09:58:38 | Chỉ xem của tác giả
"Tôi biết," ông nói. "Nhiều hơn mức cô nghĩ."

"Thế còn anh?" bà hỏi, lại giật mình vì trông ông già đi nhiều quá, bà vẫn đang cố ghi nhận thực tế về sự hiện diện của ông, ở đây bên bà, trong căn phòng nhỏ bé này sau bao nhiêu năm qua. "Anh có hạnh phúc không? Norah thế nào? Cả Paul nữa?"

"Tôi không biết nữa," ông chậm chạp trả lời. "Cũng hạnh phúc như mọi người thôi, tôi nghĩ vậy. Paul rất thông minh. Nó có thể làm bất cứ việc gì. Điều nó mong muốn là vào Juilliard học và chơi ghi ta. Tôi nghĩ nó đang sai lầm, nhưng Norah không đồng tình. Thế nên cũng căng thẳng lắm."

Caroline nghĩ đến Phoebe, con bé thích dọn dẹp và sắp đặt đến thế nào, nó thích hát một mình khi đang rửa bát đĩa hoặc lau chùi sàn nhà ra sao, nhớ con bé yêu âm nhạc bằng cả trái tim mình và sẽ không bao giờ có cơ hội được chơi ghi ta.

"Còn Norah thì sao?"

"Cô ấy sở hữu cả một đại lý du lịch," David nói. "Cô ấy cũng đi công tác suốt. Giống chồng cô."

"Một đại lý du lịch ư?" Caroline lặp lại. "Norah ư?"

"Tôi biết. Tôi cũng thấy ngạc nhiên. Nhưng cô ấy điều hành công ty nhiều năm nay rồi. Cô ấy làm rất tốt."

Nắm đấm cửa xoay vòng, và cánh cửa mở ra vài phân. Người tổ chức triển lãm thò đầu vào, đôi mắt xanh của anh ta đầy vẻ tò mò và quan tâm. Anh ta vừa căng thẳng đưa tay lên vuốt mái tóc đen dày vừa nói. "Thưa bác sĩ Henry," anh ta nói. "Ông biết đấy, có rất nhiều người đang ở ngoài kia. Hy vọng ông có thể… à… có thể tham gia cùng mọi người. Mọi chuyện vẫn ổn chứ?"

David nhìn Caroline. Ông có vẻ phân vân, nhưng ông cũng không còn kiên nhẫn nữa, và Caroline biết rằng chỉ một giây nữa ông sẽ quay lưng, chỉnh lại cà vạt, đi ra ngoài. Điều được chịu đựng suốt bao nhiêu năm trời đang kết thúc trong khoảnh khắc này. Đừng, bà thầm nghĩ, nhưng người tổ chức đã hắng giọng và cười vẻ không thoải mái. David nói, "Không có vấn đề gì đâu. Tôi ra đây… Cô sẽ ở lại chứ?" ông nói với Caroline, tay giữ khuỷu tay bà.

"Tôi phải về nhà," bà đáp. "Phoebe đang đợi."

"Xin cô." Ông dừng lại bên ngoài ngưỡng cửa. Bà bắt gặp đôi mắt ông và nhìn thấy chính nỗi buồn đau và lòng thương cảm mình vẫn nhớ từ xa xưa lắm, khi họ còn rất trẻ. "Còn quá nhiều điều phải nói, đã bao nhiêu năm rồi còn gì. Làm ơn hãy nói là cô sẽ đợi đi? Không lâu đâu." Bà cảm thấy bụng dạ cồn cào, một cảm giác bất an mà bà không thể định nghĩa được, nhưng bà cũng khẽ gật đầu, và David Henry mỉm cười. "Tốt quá. Chúng ta sẽ cùng ăn tối, được không? Mấy cuộc trò chuyện xã giao này – tôi phải làm xong đã. Nhưng tôi đã sai, trong suốt bao năm qua. Tôi muốn biết nhiều hơn nữa ngoài những chi tiết vụn vặt."

Bàn tay ông dặt lên tay bà khi họ quay trở lại chỗ đám đông. Caroline dường như không nói được lời nào. Mọi người đang chờ, mắt nhìn chòng chọc về phía họ, tò mò và xì xào. Bà thò tay vào túi đưa cho David một phong bì đã chuẩn bị sẵn, trong đó chứa những tấm ảnh mới nhất chụp Phoebe. David cầm lấy, ông chạm mắt bà và nghiêm trang gật đầu, liền ngay sau đó một người phụ nữ mảnh khảnh diện chiếc váy len màu đen nắm lấy cánh tay ông. Đó chính là người phụ nữ trong khán phòng, xinh đẹp và có phần thách thức, lại đặt một câu hỏi khác về hình thể.

Caroline đứng nguyên tại chỗ trong vài phút, nhìn ông đưa tay chỉ một tấm ảnh mô phỏng những cành nhánh đen thẫm của một cái cây, vừa nói với người phụ nữ bận váy đen. Ông đã từng rất đẹp trai và đến giờ vẫn thế. Đã hai lần ông liếc mắt nhìn về phía Caroline và rồi, nhìn thấy bà, ông lại dồn toàn tâm vào bài phát biểu. Đợi đã, ông đã nói. Xin hãy đợi tôi. Và ông mong rằng bà sẽ đợi. Cảm giác cồn cào lại rộn lên trong bụng bà. Bà không muốn đợi; vấn đề là thế. Bà đã dành quá nhiều thời gian tuổi trẻ để chờ đợi rồi – chờ được nhận ra, chờ những cuộc phiêu lưu, chờ tình yêu. Chỉ đến khi bà bước đi với Phoebe trên tay và rời căn nhà của mình ở Louisville, đến khi bà gói ghém đồ đạc và dọn đi, cuộc sống của bà mới thực sự bắt đầu. Chưa từng có gì tốt đẹp tìm đến bà nhờ chờ đợi cả.

David đang đứng, đầu hơi cúi xuống, gật gù, lắng nghe người phụ nữ tóc sẫm, chiếc phong bì nắm chặt trong tay, giấu sau lưng. Khi bà nhìn theo, ông đưa tay lên và thản nhiên nhét cái phong bì vào túi, như thể nó chứa thứ gì chẳng mấy quan trọng và có phần phiền toái – một cái hóa đơn điện nước, hay một tấm vé giao thông.

Trong chốc lát bà đã ở bên ngoài, hối hả bước xuống những bậc đá và lao vào đêm tối.

Đang là mùa xuân, bầu không khí mát lành, ẩm ướt, và Caroline quá xúc động để đứng chờ xe buýt. Thay vào đó bà rảo bước, qua hết dãy nhà này đến dãy nhà khác, mặc kệ xe cộ hay mọi người đi qua hay thậm chí cả những nguy hiểm nhỏ nhặt khi bà ở ngoài đường có một mình vào giờ này. Các khoảnh khắc ùa về trong bà, trong những cơn lốc và hình ảnh thoáng hiện, những chi tiết rời rạc kỳ dị. Có một lọn tóc sẫm phía trên tai phải của ông, móng tay ông được cắt đến sát da. Những ngón tay móng vuông, bà vẫn còn nhớ, nhưng giọng nói của ông đã thay đổi, nghe trầm hơn xưa. Thật hỗn độn: những hình ảnh bà đã từng giữ trong tâm trí suốt thời gian qua đã bị xáo trộn ngay giây phút bà nhìn thấy ông.

Còn bà thì sao? Không hiểu tối nay trông bà thế nào trong mắt ông? Ông đã nhìn thấy gì, ông đã từng nhìn thấy gì, ở Caroline Lorraine Gill? Và cảm xúc riêng tư của bà? Không gì cả. Không một chút gì. Bà cũng biết vậy, bà đã biết nhiều năm nay rồi, kể từ cái khoảnh khắc đứng bên ngoài nhà thờ khi cái vòng quay cuộc sống của ông đóng lại trước mắt bà, khi bà quay gót ra đi. Tận sâu thẳm trong trái tim mình, Caroline vẫn giữ mãi cái ý niệm lãng mạn ngốc nghếch rằng David Henry đã từng hiểu bà theo cách mà không ai khác có thể hiểu nổi. Nhưng đó không phải là sự thật. Ông thậm chí chưa từng liếc nhìn bà.

Bà đã đi qua năm dãy nhà. Trời bắt đầu đổ mưa. Mặt bà ướt đẫm, cả áo choàng và giày cũng vậy. Đêm tối lạnh buốt dường như đã thấm vào bà, len lỏi tận sâu bên trong da thịt bà. Bà đi đến gần góc phố thì chiếc xe buýt 61B phanh rít lên đỗ vào bến và bà chạy nhanh để bắt kịp xe, vuốt lại tóc, rồi ngồi xuống chiếc ghế nhựa nứt nẻ. Ánh sáng neon và ánh đèn pha màu đỏ nhờ nhờ, nhợt nhạt loang loáng lướt qua cửa sổ. Không khí tiết đầu xuân lạnh và ẩm phả lên mặt bà. Chiếc xe buýt ì ạch chạy qua những con phố, phi nhanh dần khi đến đoạn đường tối mù uốn quanh công viên, quanh những dải đồi dài thấp lè tè.

Bà xuống xe ở trung tâm quảng trường Regent. Tiếng la hét, reo hò dội ra từ quán rượu khi bà đi ngang qua, và sau cửa kính bà thoáng thấy hình dáng lờ mờ của những cầu thủ mình bắt gặp trước đó, tay cầm cốc rượu và đấm tung vào không khí trong lúc túm tụm quanh ti vi. Ánh đèn từ chiếc máy hát tự động hắt những sọc sáng màu xanh neon lên cánh tay bà phục vụ khi bà ta quay lưng rời khỏi chiếc bàn kê sát cửa sổ. Caroline dừng bước, dòng adrenaline sôi sục từ cuộc gặp của bà với David Henry đột nhiên biến mất, tan vào đêm xuân như sương mù. Bà bỗng cảm nhận sâu sắc sự cô độc của chính mình, những người trong quán bar được kết nối với nhau bởi một mục đích chung, những người đang bước đi quanh bà trên vỉa hè bị kéo theo dòng đời tới những nơi bà thậm chí không thể tưởng tượng nổi.

Nước dâng lên trong mắt bà. Màn hình ti vi sáng nhấp nháy và thêm một đợt reo hò rộ lên qua cửa kính. Caroline rời bước, huých phải một người phụ nữ ôm túi giấy đựng đồ tạp phẩm, bước qua một đống thức ăn nhanh còn thừa ai đó vứt trên vỉa hè. Men xuống triền đồi rồi đi lên con ngõ dẫn đến nhà mình, ánh đèn ngoài phố dần nhường chỗ cho những ngôi nhà thật thân thương quen thuộc: nhà O’Neils, ánh đèn vàng chảy tràn trên tán cây sơn thù du; nhà Soulards, với khu vườn tối đen, và cuối cùng là thảm cỏ nhà Margolis, những khóm bạch cúc mọc dại ven sườn đồi khi hè về, xinh đẹp và hoang dã. Những ngôi nhà xếp thành hàng giống như các bậc thang dẫn xuống triền đồi và, ở phía cuối, là ngôi nhà của bà.

Bà dừng lại ở ngõ, nhìn căn nhà cao, hẹp của mình. Bà đã hạ mành che xuống, chắc chắn là thế, nhưng giờ chúng lại được kéo lên và bà có thể nhìn rõ rành qua những ô cửa sổ phòng ăn. Chiếc đèn chùm tỏa ánh sáng lung linh trên bàn nơi Phoebe vừa trải hết những cuộn chỉ của mình lên. Con bé đang cúi đầu trên khung cửi, đưa đi đưa lại con thoi bình thản, chăm chú. Mưa cuộn tròn trong lòng nó, một quả bông màu cam mềm như tơ. Caroline ngắm nhìn, lo lắng thấy con gái mình dường như mong manh biết bao, thiếu sự che chở biết bao trước cái thế giới đang xoay vần bí ẩn trong bóng đêm sau lưng bà. Bà nhăn trán, cố nhớ lại giây phút ấy – tay bà vặn chiếc cần nhựa nhỏ xíu và tấm mành mành hạ dần xuống. Rồi bà thoáng thấy ai đó di chuyển ở sân trong nhà, một bóng đen đi đi lại lại bên ngoài những cánh cửa kiểu Pháp dẫn ra phòng khách.

Caroline nín thở, giật mình nhưng vẫn chưa đến mức hoảng hốt, rồi bóng đen hiện ra và bà thở phào. Chẳng phải ai xa lạ mà chỉ là Al, về nhà sớm sau chuyến đi dài, đang lăng xăng chạy quanh nhà. Bà thấy nhạc nhiên và hân hoan kỳ lạ; Al đã nhận thêm nhiều việc và thường mỗi chuyến đều đi biền biệt hai tuần liền. Nhưng ông ở đây, ông đã về nhà. Ông đã kéo tấm rèm lên cho bà thưởng thức khoảnh khắc này, hình ảnh thoáng qua của cuộc sống bà đang có, được bao bọc giữa những bức tường gạch, được đóng khung trong những bữa ăn do chính tay bà sửa soạn, cây si bà vẫn chưa nghĩ ra cách nào để chặt đi, những lớp kính và sơn bà đã chùi rửa với bao yêu thương trong ngần ấy năm qua. Phoebe rời mắt khỏi công việc đang làm, ngước lên nhìn mông lung ra bãi cỏ tối om ướt đẫm ngoài cửa sổ, tay vuốt ve lên sống lưng mềm mại của con mèo. Al bước qua căn phòng, tay cầm một cốc cà phê. Ông đứng bên cạnh con bé, và dơ cái cốc chỉ về tấm thảm nó đang dệt dở.

Trời mưa nặng hạt hơn, mái tóc bà đã sũng nước, nhưng Caroline vẫn không nhúc nhích. Cảm giác trống trải khi đứng bên ngoài cửa sổ quán rượu, một khoảng trống mênh mông và đáng sợ, đã biến mất trước khung cảnh gia đình bà. Mưa rơi trên má bà và chảy dài trên ô cửa sổ, lấm tấm trên chiếc áo khoác len dày dặn của bà. Bà tháo găng tay và sục sạo trong túi để tìm chìa khóa. Trong bóng tối của bãi cỏ, dòng xe cộ không ngớt vun vút lao trên đường lớn, ánh đèn pha nhảy múa trên những bụi đinh tử hương sum suê bà trồng làm hàng rào nhiều năm về trước, Caroline đứng im một lúc lâu nữa. Đây là cuộc sống của bà. Không phải cuộc sống bà từng mơ tới, không phải cuộc sống mà chính bà thời trẻ từng tưởng tượng ra hay khao khát, nhưng là cuộc sống bà đang sống, với mọi sự phức tạp của nó. Đây là cuộc sống của bà, được xây dựng bằng tình yêu thương và ân cần, và nó rất tốt.

Rồi bà đóng túi lại. Bà bước lên bậc thềm. Bà đẩy cánh cửa sau ra và bước vào nhà.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

59#
 Tác giả| Đăng lúc 11-7-2012 16:22:36 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16

Tháng Tư Năm 1982


Ba ta là giáo sư lịch sử nghệ thuật ở Canergie Mellon, và đang đặt câu hỏi cho ông về vấn đề hình thể. Vẻ đẹp là gì? Bà ta muốn biết, bàn tay bà ta nắm lấy cánh tay ông, dẫn ông đi trên sàn nhà ốp gỗ sồi bóng loáng, giữa những bức tường trắng tinh treo đầy những bức ảnh của ông chụp. Liệu vẻ đẹp có thể tìm thấy trong hình thể hay không? Và ý nghĩa của nó? Nữ giáo sư quay lại, mái tóc hất ra sau lưng; bà ta đưa tay gài lọn tóc ra sau tai.

Ông cúi xuống nhìn bà ta chăm chú, nhìn mảng tóc bạc, khuôn mặt trắng xanh mịn màng của bà ta.

"Sự giao thoa", ông ôn tồn trả lời, liếc mắt về phía Caroline đang nấn ná trước một tấm ảnh chụp Norah trên bãi biển, trong lòng nhẹ nhõm khi thấy bà vẫn còn ở đó. Gắng hết sức, ông quay lại phía người giáo sư. "Sự hội tụ. Đó là điều tôi theo đuổi. Tôi không tiếp cận theo hướng lý thuyết. Tôi chỉ chụp lại những gì khiến tôi rung động."

"Không có ai nằm ngoài lý thuyết cả!" bà ta kêu lên. Nhưng rồi bà ta ngừng hỏi, mắt nheo lại, khẽ cắn bờ môi. Ông không nhìn thấy răng bà ta nhưng ông tưởng tượng ra chúng, thẳng tắp, trắng lóa và đều đặn. Căn phòng quay cuồng xung quanh ông, những tiếng nói rộ lên rồi lắng xuống, trong một khoảnh khắc im lặng ông nhận ra tim mình đang đập thình thịch, rằng mình vẫn còn đang cầm chiếc phong bì Caroline vừa đưa. Ông liếc về phía bên kia phòng một lần nữa – phải, tốt rồi, bà vẫn ở đấy - và cẩn thận nhét nó vào túi áo sơ mi; tay ông hơi run lên.

Tên bà ta là Lee, người phụ nữ tóc sẫm đang nói. Bà ta là nhà phê bình tự do, đến tham dự một hội nghị lưu trú. David gật đầu, chỉ nghe lơ mơ. Có phải Caroline sống ở Pittsburgh không nhỉ, hay bà đọc được quảng cáo về buổi triển lãm và đi từ nơi khác đến, từ Morgantown, Columbus hoặc Philadelphia? Bà đã gửi thư cho ông từ tất cả những nơi đó, rồi bà rời khỏi đám khán giả vô danh và bước lên phía trước, trông vẫn rất giống ngày xưa nhưng đã già hơn, có phần cứng rắn và cương quyết hơn, vẻ ủy mị thời trẻ không còn nữa. David, anh không nhận ra tôi sao? Và ông đã nhận ra, ngay cả khi ông không chịu ghi nhận thực tế đó.

Ông nhìn lướt khắp căn phòng để tìm bà lần nữa nhưng không thấy bà, và mối chỉ đầu tiên của nỗi sợ hãi bắt đầu xâu vào tim, nhỏ xíu, lan tỏa, như những sợi nấm náu mình trong khúc gỗ. Bà đã đi cả quãng đường dài, bà đã nói sẽ ở lại; chắc chắn bà sẽ không bỏ đi. Một người bê khay rượu sâm panh đi ngang qua và ông lấy một ly. Nhân viên tổ chức triển lãm lại xuất hiện, để giới thiệu ông với các nhà tài trợ của buổi triển lãm. David cố gắng tập trung hết mức để nói năng thật khúc chiết, nhưng ông vẫn không thôi nghĩ về Caroline, hi vọng có thể nhìn thấy bà ở một góc phòng. Ông đã rời đi với niềm tin rằng bà sẽ chờ, nhưng giờ đây, thật chẳng dễ dàng gì, ông chợt nhớ lại buổi sáng xa xưa ở lễ tưởng niệm, Caroline đứng trong cái rét căm căm, vận chiếc áo choàng màu đỏ. Ông nhớ cái giá lạnh của bầu không khí độ xuân về, bầu trời ngập nắng, và trong gió Paul đạp chân liên hồi dưới những lớp chăn. Ông nhớ rằng ông đã để bà ra đi.

"Xin thứ lỗi" ông thì thầm, ngắt lời người đang nói. Ông đi thẳng qua mặt sàn ốp gỗ cứng ra sảnh chờ ở cửa chính, đến đó ông dừng chân và quay lưng lại để bao quát cả khu triển lãm, sục sạo trong đám đông. Chắc chắn là, khi đã tìm thấy bà sau bao năm trời như thế, ông không thể để mất bà một lần nữa.

Nhưng bà đã ra đi. Bên ngoài cửa sổ, ánh đèn thành phố lấp lánh đầy mê hoặc, rải rác như kim sa trên sườn đồi sắc nét, nhấp nhô. Ở đâu đó, ngay tại đây hoặc gần đây thôi, Caroline Gill đang rửa bát quét nhà, dừng lại để nhìn qua ô cửa sổ tối om. Mất mát và nỗi đau: tất cả tràn qua ông như một đợt sóng, mạnh mẽ đến mức ông phải tựa lưng vào tường và gục đầu xuống, để chống lại cơn buồn nôn đang cồn lên trong ruột. Những cảm xúc của ông quá dạt dào, hỗn độn. Dù sao ông cũng đã sống mà không gặp Caroline Gill trong bao nhiêu năm trời rồi còn gì. Ông hít một hơi thật sâu, rồi nhẩm qua bảng tuần hoàn trong đầu mình- bạc catmi indi thiếc- nhưng dường như ông không thể giúp bản thân mình trấn tĩnh lại được.

David lần tay vào túi lấy ra chiếc phong bì bà đưa, có lẽ bà có để lại địa chỉ hoặc số điện thoại cũng nên. Bên trong là hai tấm ảnh Polaroid, giấy cứng, màu sắc khá tối, nhợt nhạt và nhuốm tông xám bàng bạc. Tấm đầu tiên chụp hình Caroline, đang cười, cánh tay quàng quanh một cô bé ngồi bên mặc váy xanh lơ vải cứng, eo thấp, với một dải đai buộc. Họ đứng ngoài trời, trước bức tường gạch của một ngôi nhà, bầu không khí ngập nắng nhuốm vàng cả khung cảnh. Con bé trông khỏe mạnh; chiếc váy vừa in với thân người nhưng không làm nó thêm xinh. Mái tóc rủ xuống mặt thành những dợn sóng mềm mại, và nó nở một nụ cười rạng rỡ, đôi mắt gần như nhắm tít lại, hớn hở trước cái máy ảnh hoặc ai đó đứng sau máy. Khuôn mặt nó to bè, trông có vẻ hiền lành, và dường như góc chụp làm đôi mắt nó hơi xếch lên. Phoebe trong ngày sinh nhật. Caroline đã ghi ở mặt sau. Tuổi mười sáu ngọt ngào.

Ông gài tấm ảnh thứ nhất bên dưới tấm ảnh thứ hai, chụp gần đây hơn. Lại là Phoebe, đang chơi bóng rổ. Cô bé chuẩn bị ném bóng, gót chân kiễng cao khỏi mặt sàn bê tông. Bóng rổ, môn thể thao mà Paul đã từ chối chơi. David nhìn vào mặt sau tấm ảnh và kiểm tra lại cả chiếc phong bì, nhưng không có dòng địa chỉ nào. Ông uống cạn ly sâm banh và đặt chiếc ly xuống mặt bàn đá cẩm thạch. Khu triển lãm vẫn đông nghịt người, lao xao tiếng nói chuyện. David dừng lại trên ngưỡng cửa và nhìn ngắm với vẻ dửng dưng khó hiểu, như thể khung cảnh này là thứ gì đó ông tình cờ nhìn thấy, chẳng liên quan gì đến ông cả. Sau đó ông quay đi, bước vào làn không khí êm dịu, mát lạnh, đẫm nước mưa. Ông nhét chiếc phong bì cùng những tấm ảnh vào túi áo ngực, và chẳng biết mình sẽ đi đâu, ông bắt đầu cất bước.

Oakland, khu trường học cũ của ông, đã có nhiều đổi thay, tuy vậy về cơ bản vẫn thế. Sân Forbes, nơi ông đã dành không biết bao nhiêu buổi chiều lom khom trên khán đài cao tít, tắm ngập trong ánh nắng, reo hò cuồng nhiệt khi gậy đập vào khiến trái bóng bay vút lên khỏi mặt sân xanh mướt rực rỡ, đã không còn nữa. Một tòa nhà đại học mới, vuông vức và tẻ nhạt, mọc lên giữa không gian nơi tiếng hò hét của hàng ngàn người đã một thời vang dội. Ông dừng lại, quay mặt ra phía Đại học Đường, một khối đá xám thanh thoát, một bóng đen in hằn lên nền trời đêm, để lấy lại bình tĩnh.

Ông đi tiếp, men theo những con phố nội thành tối tăm, đi qua đám người ùa ra từ các nhà hàng và rạp hát, Ông không thực sự nghĩ mình sẽ đi đâu, dù ông biết rõ. Ông thấy mình bị mắc kẹt, bị đông cứng suốt bao năm qua trong đúng khoảnh khắc giao con gái mình cho Caroline. Cuộc sống của ông xoay vần quanh hành động duy nhất ấy: một đứa trẻ sơ sinh trong tay ông – rồi ông vươn người ra để đem cho nó đi. Như thể ông đã chụp ảnh lại tất cả những năm qua để cố gắng mang lại cho một khoảnh khắc khác thứ phẩm chất, sức nặng tương tự. Ông đã muốn cố gắng để ghìm lại cái thế giới quay cuồng, và những dòng sự kiện, nhưng dĩ nhiên điều đó là không thể.

Ông đi tiếp, trong lòng rung động, chốc chốc lại lầm bầm với chính mình. Những gì chôn chặt trong tim ông suốt bao nhiêu năm qua đột nhiên trở lại sống động sau cuộc gặp gỡ của ông với Caroline. Ông nghĩ đến Norah, người đã trở thành một người phụ nữ độc lập và đầy quyền lực, người gặp gỡ khách hàng là các tập đoàn lớn với vẻ tự tin lấp lánh và trở về nhà sau bữa tối, người xông lên mùi rượu và mưa, dấu vết của tiếng cười, của chiến thắng và thành công vẫn đọng trên khuôn mặt bà. Bà đã có hơn một lần ngoại tình trong những năm qua, ông biết, và bí mật của bà, cũng như bí mật của chính ông, đã lớn dần lên thành một bức tường chắn giữa hai người bọn họ. Đôi khi vào buổi tối ông thoáng thấy, chỉ trong chớp mắt thôi, người phụ nữ mà ông đã lấy làm vợ: Norah, đứng bế đứa bé đỏ hỏn là Paul trên tay; Norah, đôi môi còn vương vết nước dâu, đang dở tay buộc chiếc tạp dề; Norah với tư cách là một nhân viên đại lý du lịch non nớt, thức rất khuya để quyết toán các khoản chi thu. Nhưng bà đã rũ bỏ từng lớp bản ngã như những lớp da, và giờ đây họ sống như hai kẻ xa lạ trong căn nhà rộng lớn của mình.

Paul đau khổ vì điều đó, ông biết chứ. David đã cố gắng hết sức để dành cho nó mọi thứ. Ông đã cố gắng để làm một ông bố tốt. Hai bố con cùng đi gom nhặt các mẫu hóa thạch với nhau, phân loại và dán từng món rồi trưng bày trong phòng khách. Ông tận dụng mọi cơ hội để đi câu cá với Paul. Nhưng dù có cố gắng đến đâu để giúp cuộc sống của Paul êm đềm và dễ dàng hơn, thì sự thật vẫn là David đã xây dựng cuộc sống đó trên nền tảng một sự dối trá. Ông cố gắng bảo vệ con trai khỏi những gì mình phải chịu đựng khi còn bé: nghèo đói, lo âu và đau đớn. Dẫu vậy những nỗ lực của ông đã gây ra nhiều mất mát mà David không bao giờ có thể lường nổi. Lời nói dối đã lớn dần lên giữa bọn họ như một tảng đá, ép họ thành ra méo mó theo, như những cái cây mọc cong queo quanh một hòn cuội.

Phố xá giao nhau, rồi hợp lại thành một ở những góc kỳ dị, khi thành phố thu hẹp lại ở điểm hai con sông lớn gặp nhau, sông Monongahela và sông Allegheny, hợp lưu của hai sông này tạo thành sông Ohio, sông Ohio tiếp tục chảy đến Kentucky và xa hơn nữa trước khi hòa mình vào sông Mississippi và biến mất. Ông bước ra sát mép nước. Khi còn là một chàng trai trẻ, một sinh viên, David Henry thường đến chốn này, đứng ở bờ đất, ngắm nhìn hai con sông hợp nhất. Đôi lúc ông đứng đâu, ngón chân lơ lửng trên dòng nước đen thẫm của con sông, thờ ơ tự hỏi không hiểu dòng nước đen kia lạnh giá đến thế nào, liệu ông có đủ sức bơi vào bờ nếu lỡ chân rơi xuống không. Giờ đây, cũng như ngày xưa, gió luồn qua lớp vải bộ quần áo ông đang mặc, và ông nhìn xuống, nhìn dòng sông đang cuộn chảy giữa hai mũi giày. Ông nhích ra thêm hai phân, đổi góc nhìn. Một thoáng nuối tiếc vụt qua giữa cảm giác mệt mỏi: đây sẽ là một bức ảnh đẹp, nhưng ông đã để lại máy ảnh ở khách sạn.

Xa tít bên dưới dòng nước cuộn xoáy, ngầu lên bọt trắng xóa vỗ quanh chân cột xi măng, rồi trôi xa. Gan bàn chân, đó là nơi David cảm nhận được sức ép của gờ bê tông. Nếu ông sảy chân rơi xuống hoặc nhảy xuống mà không thể bơi đến nơi an toàn, họ sẽ tìm thấy những thứ này: một chiếc đồng hồ đeo tay có tên bố ông khắc ở mặt sau, chiếc ví của ông với hai trăm đô tiền mặt, bằng lái xe, một viên sỏi nhặt được ở con suối gần căn nhà ông sống hồi nhỏ mà ông đã mang bên mình ba chục năm nay. Và những tấm ảnh, trong chiếc phong bì nhét trong túi bên trên trái tim ông.

Đám tang của ông sẽ đông nghịt người. Dòng người đưa đám có lẽ sẽ kéo dài mấy dãy nhà.

Nhưng tin tức chỉ đến thế là hết. Caroline có lẽ sẽ không bao giờ biết. Và cái tin cũng sẽ chẳng lan xa hơn, chẳng thể nào đến được vùng đất nơi ông đã sinh ra.

Kể cả có đi chăng nữa, sẽ không có ai ở đó nhận ra tên ông.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

60#
 Tác giả| Đăng lúc 11-7-2012 16:23:59 | Chỉ xem của tác giả
Một ngày nọ sau buổi tan trường, lá thư đang chờ ông, được gài sau lon cà phê rỗng đặt ở góc cửa tiệm. Không ai nói gì, nhưng mọi người đều nhìn ông chằm chằm, họ biết đó là cái gì; biểu tượng của Đại học Pittsburgh lồ lộ ra đấy. Ông đã mang chiếc phong bì lên gác và đặt lên bàn kê cạnh giường, quá hồi hộp không dám mở ra. Ông còn nhớ bầu trời xám xịt buổi chiều hôm đó, trống trải và nhợt nhạt bên ngoài cửa sổ, bị rạch ngang bởi những cành cây bạch đàn trụi lá.

Trong hai tiếng đồng hồ ông không cho phép mình được xem. Rồi ông đã xem, và đó là tin tốt: ông đã được nhận vào trường với một suất học bổng toàn phần. Ông ngồi trên mép giường, quá sững sờ, quá đề phòng trước tin tốt - như ông vẫn luôn thế, suốt cả cuộc đời mình - đến mức không cho phép bản thân tận hưởng chút niềm vui thực thụ. Chúng tôi rất vui mừng được thông báo với em…

Nhưng sau đó ông nhận thấy lỗi sai, một sự thật ảm đạm trỗi dậy và khỏa lấp vừa vặn vào đúng nơi ông chờ đợi, trong cái hố nông ngay bên dưới những đốt xương sườn của ông: cái tên trong thư không phải của ông. Địa chỉ đúng, mọi chi tiết khác từ ngày sinh cho đến số bảo hiểm xã hội của ông – tất cả đều chính xác. Và hai tên đầu của ông, David cho tên cha và Henry cho tên ông nội cũng đúng, được gõ chỉn chu bởi một cô thư ký, người có lẽ đã bị làm phiền bởi một cuộc điện thoại hay một người khách. Hoặc cũng có thể chính làn gió xuân dịu dàng đã khiến cô rời công việc ngẩng đầu lên, mơ màng tưởng tượng ra chính mình trong buổi tối hôm ấy, vị hôn phu của cô xuất hiện với bó hoa trên tay, khiến trái tim cô run rẩy như một chiếc lá. Rồi có tiếng cửa sập mạnh. Tiếng chân dội lại gần, sếp của cô. Cô giật mình, cố trấn tĩnh và trở về với thực tại. Vừa chớp chớp mắt, cô nhấn phím Return và quay lại với công việc.

David Henry cô đã gõ xong, chính xác.

Nhưng họ của ông, McCallister, đã bị bỏ xót.

Ông chưa từng nói cho ai biết. Ông đã đến trường đại học ghi danh, và không có ai từng biết. Dù gì thì đó cũng là tên thật của ông. Tuy vậy David Henry là một con người hoàn toàn khác so với David Henry McCallister, ông biết vậy, và có vẻ rõ ràng chính David Henry mới là người được đi học đại học, một người không có tiểu sử, không chút vướng bận bởi quá khứ. Một người với cơ hội để làm mới chính mình.

Và ông đã làm vậy. Cái tên cho phép ông làm thế; xét theo một phương diện nào đó, thì cái tên đòi hỏi phải làm thế: mạnh mẽ và hơi có chất con nhà dòng dõi. Chẳng phải đã có Patrick Henry, chính trị gia và nhà hùng biện đấy sao. Trong những ngày đầu, giữa những cuộc nói chuyện nơi ông có cảm tưởng như mình đang ở giữa biển khơi, bị bao quanh bởi những người giàu có và quan hệ rộng vượt xa mức ông có thể đạt tới, bởi những người sống hoàn toàn thoải mái trong cái thế giới mà ông đã phải cố gắng đến tuyệt vọng để hòa nhập, thỉnh thoảng ông cũng gợi chuyện bóng gió, dù không bao giờ nói trực tiếp, về một người họ hàng xa nhưng có dòng dõi thế phiệt, viện dẫn những vị cha ông tưởng tượng để đứng sau hỗ trợ cho ông.

Đó là món quà mà ông cố gắng đem đến cho Paul: một vị trí trong cuộc đời này mà không ai có thể nghi ngờ.

Dòng nước chảy giữa hai bàn chân ông ngầu lên một màu nâu, được viền quanh bởi lớp bọt trắng lờ lờ. Gió cuộn lên, và làn da ông bỗng trở nên xôm xốp như bộ đồ đang mặc. Gió luồn trong huyết quản ông, dòng nước cuồn cuộn quay cuồng, dâng lên gần hơn và rồi acid trào lên cổ họng khiến ông quỵ xuống, tì lên cả hai tay lẫn đầu gối, những phiến đá lạnh buốt dưới tay ông, ông nôn thốc nôn tháo xuống con sông xám xịt cuồng dại, nôn cho đến khi không còn thứ gì có thể thải ra được nữa. Ông nằm đó một lúc lâu, trong bóng tối. Cuối cùng, thật chậm chạp, ông đứng dậy, đưa mu bàn tay quệt ngang miệng, và quay về thành phố.

° ° °


Ông ngồi ở ga Greyhound suốt đêm, lúc ngủ gà gật lúc thì giật mình choàng tỉnh, đến buổi sáng ông bắt chuyến xe buýt đầu tiên trở lại ngôi nhà thời ấu thơ ở Tây Virginia, đi sâu vào những quả đồi bao quanh ông như một vòng tay ôm ấp. Sau bảy tiếng, xe buýt đỗ ở nơi nó vẫn luôn dừng lại, ở góc phố Main và Vine, rồi rồ ga phóng đi, để lại David Henry trước cửa tiệm tạp hóa. Phố xá tĩnh lặng, một tờ báo dán trên bốt điện thoại công cộng, cỏ mọc lên qua những kẽ nứt trên vỉa hè. Ông đã từng làm việc trong cửa hàng này để đổi lấy phòng trọ trên tầng hai và tiền cơm hàng tháng, cậu bé sáng dạ rời những quả đồi xuống thị trấn học tập, sững sờ trước tiếng chuông và tiếng ồn của xe cộ, những bà nội trợ đi mua sắm, bọn học sinh túm tụm mua soda bên cạnh đài phun nước, tối tối cánh đàn ông tụ tập với nhau, nhổ bã thuốc, chơi bài và giết thời gian bằng chuyện gẫu. Nhưng tất cả đã không còn nữa, tất cả. Những hình vẽ graffiti màu đỏ và đen phủ kín những ô cửa sổ ốp gỗ ván nứt nẻ thành những hạt màu, không còn đọc ra nổi nữa.

Cơn khát thiêu đốt cổ họng David. Phía bên kia đường, hai người đàn ông, tầm trung tuổi, một người hói đầu, người kia có mái tóc bạc mỏng dính dài chấm vai, đang ngồi chơi cờ dưới hiên nhà. Họ ngước nhìn lên, vẻ tò mò, pha lẫn ngờ vực, và trong khoảnh khắc David bỗng nhìn thấy mình theo trong mắt họ, quần của ông lấm bẩn và nhăn nhúm, áo sơ mi đã mặc cả một ngày và một đêm, cà vạt không còn trên cổ, mái tóc bẹp rúm sau giấc ngủ chập chờn trên xe buýt. Ông không thuộc về nơi đây, chưa bao giờ. Trong căn phòng chật hẹp phía trên tiệm tạp hóa, sách vở bày la liệt ra giường, ông đã nhớ nhà đến không thể nào tập trung nổi, tuy vậy khi ông trở về núi, nỗi cồn cào cũng không vì thế mà bớt nguôi ngoai. Trong căn nhà ván ghép bé nhỏ của bố mẹ ông, được xây vững chãi trên sườn đồi, những giờ đồng hồ cứ kéo dài và trải rộng ra mãi, được đo bằng tiếng bố ông gõ tẩu lên thành ghế, tiếng thở dài của mẹ ông, cơn run rẩy của em gái ông. Có một cuộc sống ở dưới thung lũng và một cuộc sống khác ở trên đó, nỗi cô đơn xâm chiếm khắp nơi, như một bông hoa bí ẩn.

Ông gật đầu với mấy người đàn ông, rồi quay gót bước đi, vẫn cảm thấy cái nhìn chằm chặp của họ bám theo mình.

Cơn mưa nhỏ, dịu nhẹ như sương mù, bắt đầu rơi. Ông bước tiếp, dù cẳng chân nhức nhối. Ông nghĩ đến khu văn phòng sáng sủa của mình, cách đây cả một cuộc đời hoặc một giấc mơ. Khi ấy trời đã ngả chiều muộn. Norah có lẽ vẫn ở công ty, còn Paul thì chắc đang nhốt mình trong phòng, trút hết nỗi cô đơn và giận giữ vào âm nhạc. Họ nghĩ tối nay ông sẽ về, nhưng ông không về được. Ông sẽ phải gọi điện báo, để sau, cho đến khi nào ông biết mình đang làm gì đã. Ông có thể nhảy lên một chiếc xe buýt khác và quay trở về với họ ngay bây giờ. Ông biết thế, nhưng dường như cuộc sống đó không thể tồn tại trong cùng một thế giới với cuộc sống này được.

Dải vỉa hè mấp mô chẳng mấy chốc đã bị chia cắt bởi những bãi cỏ ở rìa thị trấn, một kiểu chấm- dứt- và- khởi đầu giống như một loại mã Morse, bị đứt đoạn ở một vài nơi rồi biến mất hoàn toàn. Những rãnh nước nông chạy dọc theo lề con đường hẹp; ông còn nhớ ở đó có lúc tràn ngập hoa hiên, từng dải màu cam nở rộ trải dài như đám lửa. Ông luồn tay xuống dưới cánh tay để sưởi ấm. Ở đây mùa thường đến sớm hơn. Hoa tử đinh hương ở Pittsburgh và cơn mưa ấm áp đã biến mất. Từng mảng tuyết nứt vỡ ra dưới chân ông. Ông đá những lưỡi băng đen sì xuống rãnh, nơi có nhiều tuyết đọng, điểm xuyết cỏ dại và gạch vụn.

Ông đến đường cao tốc của thị trấn. Xe cộ lao như điên ép ông đi sát vào lề cỏ bên vệ đường, dây khắp người ông một lớp bùn mỏng. Nơi đây từng là một con đường vắng lặng, tiếng động cơ vọng lại từ cách đó hàng dặm trước khi xe xuất hiện, và thường thì một khuôn mặt quen thuộc sẽ hiện ra sau kính chắn gió, xe đi chậm lại, rồi dừng hẳn, và một cánh cửa mở ra để cho ông vào. Mọi người biết ông, biết cả gia đình ông, rồi thì sau vài câu trò chuyện lặt vặt – Bố mẹ cháu có khỏe không; vườn tược năm nay thu hoạch khá không?- không khí im lặng sẽ bao trùm tất cả, khi đó người lái xe và những hành khách khác bắt đầu thận trọng cân nhắc xem nên và không nên nói gì với cậu bé thông minh đã nhận được học bổng, cậu bé có đứa em gái quá ốm yếu không thể đến trường được. Ở miền núi, mà có lẽ là trên toàn thế giới nói chung, có một thuyết về sự bù trừ trong đó cho rằng với tất cả mọi thứ có thêm sẽ có một thứ khác ngay lập tức hiển nhiên bị mất đi. Ừ thì cậu thông minh đấy, cho dù không bảnh trai bằng em họ cậu. Những lời khen, dẫu quyến rũ như một bông hoa, vẫn đầy gai góc của những điểm đối nghịch: Phải rồi, cậu cũng sáng dạ đấy, nhưng mà mặt thì xấu như quỷ; trông cô thì xinh mà đầu óc thì đần lắm. Sự bù trừ; cân bằng trong vũ trụ. David nghe thấy lời buộc tội trong từng câu khen ngợi thành tích học tập của ông – ông đã lấy đi quá nhiều, lấy đi tất cả - và trong những chiếc xe hơi và xe tải sự im lặng lớn dần lên cho đến khi dường như một giọng nói con người cũng không bao giờ có thể phá vỡ nổi.

Con đường rẽ ngoặt, rồi lại rẽ ngoặt tiếp: con đường nhảy múa của June. Sườn đồi dốc hơn, suối đổ xuống như thác, còn nhà cửa thưa thớt, xơ xác hơn. Những căn nhà lưu động dần hiện ra, nằm trên triền đồi như các món trang sức mờ xỉn trong một cửa tiệm rẻ tiền, màu xanh ngọc, bạc và vàng bợt đi thành màu kem. Đây là cây tiêu huyền, tảng đá hình trái tim, ngã rẽ nơi ba cây thập giá sơn trắng, được trang trí bằng hoa úa và ruy băng, đóng sâu xuống đất. Ông rẽ sang và đi dọc theo con suối tiếp theo, con suối của ông. Lối mòn đã bị cây cỏ mọc lên che khuất gần hết, nhưng vẫn chưa biến mất hẳn.

Phải mất gần một tiếng đồng hồ ông mới về đến ngôi nhà cũ, sau bao nhiêu năm mưa nắng dãi dầu đã phủ một màu xám nhạt, mái nhà võng xuống ở chính giữa thanh xà ngang và tấm ván lợp mái đã bay mất. David dừng bước, bị cuốn vào quá khứ mãnh liệt đến mức ông tưởng như sắp được nhìn thấy họ: mẹ ông bước xuống bậc thang, tay cầm một chiếc chậu thiếc mạ kẽm để múc nước giặt, em gái ông ngồi trên hiên nhà, tiếng rìu bổ vào gỗ vọng lại từ nơi bố ông chẻ củi, chỉ ở đâu đó ngay ngoài tầm mắt thôi. Ông đã rời nhà đi học, June đã mất, còn bố mẹ ông ở lại đây đến chừng nào có thể, do dự không muốn bỏ mảnh đất này. Nhưng cuộc sống của họ cũng chẳng khấm khá hơn là mấy, rồi sau đó bố ông mất, khi còn quá trẻ, và cuối cùng mẹ ông cũng chuyển về miền Bắc sinh sống, dọn đến với em gái cụ cùng lời hứa hẹn về một việc làm trong nhà máy ô tô. David hiếm khi đi từ Pittsburgh về thăm nhà và không bao giờ quay trở lại nữa kể từ ngày mẹ mất. Nơi này thân thuộc với ông như hơi thở nhưng cách xa cuộc sống của ông bây giờ như mặt trăng.

Gió thổi mạnh thêm. Ông bước lên bậc thềm. Cánh cửa gá vẹo vọ trên bản lề không khép kín lại được. Bầu không khí trong nhà lạnh giá, xông lên mùi mốc meo. Chỉ có căn phòng duy nhất, căn gác xép dung làm chỗ ngủ giờ được gia cố bằng một thanh xà cong oằn. Những bước tường loang lổ vì ẩm ướt; qua các kẽ hở, ông thoáng nhìn thấy bầu trời nhợt nhạt. Ông đã giúp bố cất nóc nhà, mồ hôi chảy đầm đìa trên khuôn mặt và nhầy nhụa đầy tay họ, tay búa của họ giơ cao trong nắng, trong mùi hương nồng gắt của gỗ tuyết tùng mới chặt.

Theo như David được biết, thì đã nhiều năm nay không có ai sống trong ngôi nhà này. Tuy vậy vẫn có một cái chảo rán nằm trên chiếc bếp lò cũ, lạnh tanh, lớp mỡ đã đóng váng lại, nhưng không hề có mùi ôi khi ông cúi xuống ngửi. Trong góc là chiếc giường sắt cũ, trên phủ một tấm chăn tả tơi giống tấm chăn bà ngoại và mẹ ông đã may. Lớp vải lạnh ngắt, âm ẩm dưới tay ông. Không có đệm, chỉ có mấy lớp chăn xếp chồng lên nhau trên tấm giát giường. Mặt sàn ốp ván đã được quét sạch, và có ba củ nghệ tây để trong chiếc lọ trên cửa sổ.

Có người đang sống ở đây. Một cơn gió nhẹ tràn qua căn phòng, lay động những hình cắt bằng giấy được treo khắp nơi - trên trần nhà, trên cửa sổ, trên đầu giường. David đi quanh nhà, ngắm nhìn chúng với cảm giác sửng sốt ngày càng tăng. Những hình này hơi giống với hình bông tuyết ông đã cắt ở trường, nhưng vượt xa về độ tinh xảo và tỉ mỉ, mô tả toàn bộ cảnh trí đến từng chi tiết nhỏ nhất: hội chợ tỉnh, một căn phòng khách gọn gàng trước lò sưởi, một buổi dã ngoại với những bông hoa pháo hoa rực rỡ. Tinh xảo và chính xác, chúng khiến cả căn nhà phảng phất một bầu không khí bí ẩn. Ông chạm tay vào mép răng cưa của một hình cắt cảnh xe thồ, các cô bé đội mũ có dải nơ, các cậu bé mặc quần sắn đến tận gối. Vòng đu quay, vòng tròn ngựa gỗ rung rinh, xe chạy trên đường lớn: những hình này được giăng trên đầu giường, khẽ lay động trên dây treo, mỏng manh tựa đôi cánh.

Ai đã cắt những hình này với sự khéo léo và kiên nhẫn nhường ấy? Ông lại nghĩ đến những bức ảnh của chính mình: ông đã cố gắng hết sức để chớp lại từng khoảnh khắc, ghim nó lại một chỗ, để nó tồn tại mãi, nhưng khi hình ảnh dần hiện lên trong buồng tối thì cũng là lúc chúng bị thay thế. Nhiều giờ, nhiều ngày đã trôi qua kể từ đó; ngay chính ông cũng đã trở thành một người hơi khác. Dẫu vậy ông vẫn khao khát giữ chặt tấm màn đang rung động, để giữ lại hình ảnh của vạn vật ngay cả khi chúng biến mất, một lần rồi lần nữa và lần khác nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách