Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 4549|Trả lời: 27
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết - Xuất Bản] Chuyến Tàu 16h50 | Agatha Christie

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Tên tác phẩm: Chuyến tàu 16h50
Tác giả: Agatha Christie
Dịch giả: Đình Phòng Vũ
Thể loại: Tiểu thuyết
Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành
Nguồn: http://vanhoc.xitrum.net/tieuthuyet/505.html
-


Tiểu thuyết đầu tiên của Agatha Christie, The Mysterious Affair at Styles được xuất bản năm 1920 và lần đầu tiên giới thiệu cho độc giả nhân vật thám tử nổi tiếng Hercule Poirot, người sẽ xuất hiện trong 30 tiểu thuyết và 50 truyện ngắn khác của Christie.

Nhân vật thám tử nổi tiếng nữa của Christie là Bà Marple (Miss Marple) xuất hiện lần đầu trong The Murder at the Vicarage xuất bản năm 1930.

Trong Thế chiến thứ hai, Christie viết hai tiểu thuyết Curtain và Sleeping Murder, bà dự định đó sẽ là những vụ án cuối cùng của hai thám tử Hercule Poirot và Bà Marple. Hai tác phẩm này được giữ trong nhà băng hơn 30 năm và chỉ được phát hành vào cuối đời của tác giả, khi Christie nhận ra rằng mình không thể viết thêm tiểu thuyết nào nữa.

Cũng giống Arthur Conan Doyle, Christie đã từng trở nên chán ngán với những nhân vật thám tử của mình. Vào cuối thập niên 1930, Christie đã viết trong nhật ký rằng bà nhận thấy Poirot là "không thể chịu đựng nổi", tuy nhiên khác với Doyle, Agatha Christie đã chống lại được cảm giác muốn kết liễu nhân vật thám tử của mình khi anh ta vẫn còn đang nổi tiếng. Bà coi mình là một người làm nghề giải trí mà công việc là sáng tạo ra những thứ công chúng ưa thích, và thứ mà công chúng ưa thích lại chính là nhân vật thám tử Poirot.

Trái ngược với Poirot, Christie rất yêu thích nhân vật Bà Marple. Đáng ngạc nhiên là số tiểu thuyết có xuất hiện Bà Marple lại chưa bằng một nửa số tiểu thuyết có xuất hiện ông thám tử người Bỉ Poirot.

Poirot là nhân vật hư cấu duy nhất cho đến nay được đăng cáo phó trên tờ New York Times sau khi tiểu thuyết Curtain xuất bản năm 1975 trong đó Poirot bị bà Christie "giết chết". Tiếp nối thành công của Curtain, Christie cho xuất bản tiểu thuyết Sleeping Murder vào năm 1976, nhưng bà lại chết trước khi tác phẩm của mình được phát hành. Điều này giải thích một số mâu thuẫn của tác phẩm này với loạt truyện về Bà Marple, có lẽ Christie không còn thời gian để xem lại bản thảo trước khi bà qua đời. Miss Marple được "đối xử" tốt hơn viên thanh tra Piorot khi bà vẫn sống sau khi giải quyết xong vụ án của Sleeping Murder.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 23:24:05 | Chỉ xem của tác giả
Chương 1

Bà Gilucuddy hấp tấp và hổn hển cố bước theo một người nhân viên đội vận chuyển đang vác chiếc vali to của bà lách qua đám khách hành khách chen chúc trong ga xe lửa Paddington của thủ đô London. Bà đã có tuổi, vóc lại thấp, hơi béo, nặng nề rảo bước cố gắng theo kịp nhân viên trẻ, chân dài, đang băng băng đi về phía sân ga. Đã thế, bà còn ôm xách đủ thứ lỉnh kỉnh, toàn quà Noel bà vừa mua sắm ở thủ đô.

Sắp đến ngày lễ lớn nên hành khách rất đông, bà Gilucuddy bị xô đẩy từ các phía, cả đám khách vừa xuống tàu, cả đám khách chen lấn để ra cho kịp chuyến tàu tới, chưa kể những hành khách vây chặt các quầy ăn uống giải khát và các bàn chỉ dẫn. Được thần May Mắn phù hộ, cuối cùng bà Gilucuddy ra được đến đường sắt số 3, nơi đoàn tàu "của bà" đang đỗ, chuẩn bị xuất phát. Đó là chuyến tàu 16h50'. Đúng lúc đó, loa điện trên cao vang lên: "Chuyến tàu đi Brackhampton và Milchester sẽ chuyển bánh sau đây 4 phút".

Thở phào nhẹ nhõm, bà khách Gilucuddy lúc này mới nghĩ đến vé. Bà vội lục trong túi xách, cuối cùng lần được nó tận dưới đáy, giữa đủ thứ vặt vãnh. Bà ngẩng lên nhìn, ngạc nhiên thấy nhân viên bốc vác đứng trước toa hạng ba. Hơi thở vẫn còn hổn hển, bà nhăn mặt khó chịu:

- Tôi đi toa hạng nhất cơ mà, bà nói giọng đĩnh đạc.

Không tỏ vẻ khó chịu, người nhân viên bốc vác liếc nhìn tấm áo măng tô của bà khách màu muối tiêu, may cắt theo kiểu đàn ông, lẩm bẩm nói:

- Tôi không ngờ đấy.

Anh ta nhấc vali đi lên và đi về phía toa hạng nhất. Cuối cùng bà đã leo lên được toa tầu. Sau khi xếp hành lý vào một căn trống, chưa có hành khách nào, bà quay lại trả tiền công kèm theo một khoản "trà thuốc" nhỏ.

Ngồi thoải mái xong, bà Gilucuddy liếc nhìn xuống sân ga rồi lật tung trang tạp chí ra xem. Liền sau đấy, bà gục đầu, để rơi tờ tạp chí xuống sàn, thiếp ngủ. Phải đến lúc tàu phanh lại, lắc mạnh, bà mới choàng tỉnh. Nỗi mệt mỏi lúc trước đã tan biến, bà sửa lại chiếc mũ nhỏ trên đầu, lơ đãng nhìn phong cảnh lướt qua ngoài cửa sổ. Đúng ra, chỉ là những bóng đem lờ mờ, bởi mùa đông tối nhanh. Chỉ 5 ngày nữa là Noel, tuy nhiên những ánh đèn phía xa vẫn đem lại cho bà một chút vui vui.

Một nhân viên đường sắt đi ngang qua bên ngoài lối đi, rao to, phá không khí yên tĩnh của toa tàu:

- Đã có trà, quý khách nào dùng xin cho biết!

Bà Gilucuddy ngập ngừng, nhớ lại đã tiêu gần cạn số tiền mang ở nhà đi trong các cửa tiệm của thủ đô London. Một linh cảm khiến bà giật mình, đưa mắt kiểm tra số hành lý vẫn còn ngổn ngang trên giá.

Yên tâm, bà lại quay nhìn ra cửa sổ. Đột nhiên một tiếng còi tàu rú lên rung chuyển tấm kính làm bà giật mình. Tiếng bánh xe lăn ầm ầm trên đường ray, một đoàn tàu khác chạy tới trên đường ray bên cạnh. Một điều rất đặc biệt xảy ra: Hai đoàn tàu chạy song song bên nhau, cùng chiều, như thể trong một cuộc đua tốc độ, không đoàn tàu nào chịu kém đoàn nào.

Đang nhàn tản, bà Gilucuddy tò mò ngó những hành khách trên đoàn tàu bên kia. Nhưng đêm mùa đông lạnh giá và tối tăm, hầu hết cửa sổ các toa tàu đều buông rèm, bà không nhìn thấy gì bên trong.

Do chạy cùng chiều, cùng tốc độ, hai đoàn tàu như thể chạy chậm lại hẳn. Một tấm rèm cửa sổ ngang tầm với chỗ bà ngồi ở toa tàu bên kia bị cuốn lên khiến bà được thoả mãn trí tò mò. Nhưng cảnh tượng bà nhìn thấy bên đó làm bà thét lên một tiếng nhỏ. Bà cố đứng lên, nhưng lại rơi phịch xuống ghế đệm, thở dồn dập. Trong ngăn ở toa bên kia, một người đàn ông đứng quay lưng về phía cửa sổ, đang bóp họng một phụ nữ, rồi từ từ tàn bạo xiết chặt cổ họng chị ta. Cặp mắt người phụ nữ từ từ lồi hẳn ra, mặt đỏ xậm vì xung huyết, rồi chị ta oặt người ngã xuống. Kinh hoàng, bà Gilucuddy không sao rời mắt được cảnh tượng khủng khiếp ấy.

Một sự ngẫu nhiên khiến đoàn tàu "16h50'" của bà chạy chậm lại và đoàn tàu "song song" kia vọt lên, biến vào bóng đêm.

Bà Gilucuddy cố níu thành ghế, lần ra chỗ dây chuông báo động, nhưng toàn thân bà co cứng, không sao lê chân được. Đúng lúc đó, cửa căn phòng giường nằm của bà mở ra, nhân viên soát vé vào:

- Xin mời quý khách vui lòng cho xem giá.

Bà Gilucuddy cố gắng lắm mới thốt lên được, giọng bà hổn hển, đứt quãng:

- Một… người phụ nữ…. bị bóp cổ…trong đoàn tàu vừa chạy qua đây… Tôi nhìn thấy rõ.

"Lại một bà già hoang tưởng", hẳn người nhân viên thầm nghĩ như vậy. Anh ta nhìn bà khách bằng cặp mắt nghi ngờ:

- Một người phụ nữ bị bóp cổ? anh thản nhiên hỏi lại.

"Anh ta không tin", bà Gilucuddy thầm nghĩ.

- Đúng thế! Tôi đã nhìn thấy! Chính mắt tôi nhìn thấy, ông phải làm cái gì ngay đi!

Người nhân viên khẽ ho, thản nhiên hỏi:

- Quý bà vừa ngủ phải không? Rất có thể quý bà tưởng tượng đấy thôi…

Bà Gilucuddy không để cho anh ta nói hết câu:

- Quả thật tôi có ngủ thiếp đi một lúc, nhưng nếu ông cho rằng tôi ngủ mê thì hoàn toàn không phải. Tôi nhìn thấy thật! Cam đoan với ông là tôi nhìn thấy thật!.

"Thì ra bà ta có ngủ và đấy là một giấc mê", người nhân viên kiểm soát vé thầm nghĩ và nói:

- Vậy thì quý bà tưởng tượng ra đấy! Chắc quý bà đọc một câu chuyện hình sự và tưởng tượng ra là nhìn thấy cảnh giết người thật. Những chuyện hình sự đó dễ gây ấn tượng mạnh lắm.

Bà khách lại ngắt lời người nhân viên:

- Tôi không tưởng tượng! Tôi không mê. Tôi rất tỉnh. Hoàn toàn tỉnh táo! Tôi nhắc lại, tôi nhìn qua cửa sổ sang đoàn tàu vừa chạy ngang bên kia, thấy rõ một người phụ nữ bị giết bằng cách bóp cổ. Tôi nghĩ là ông phải thi hành biện pháp nào đi chứ!

Người nhân viên đường sắt vẫn không tin. Anh ta thở dài liếc nhìn đầu hồ:

- Thôi được! Chỉ 7 phút nữa, đoàn tàu chúng ta sẽ đỗ ở ga Brackhampton. Quý bà chịu khó nán đợi. Mà đoàn tàu quý bà vừa nói đến chạy theo hướng nào?

- Tất nhiên là cùng hướng với đoàn tàu này. Bởi nếu chạy ngược chiều với chúng ta thì làm sao tôi lại nhìn thấy rõ ràng như thế?

Người nhân viên đường sắt vẫn tin rằng bà khách tưởng tượng ra, nhưng anh ta thận trọng, không làm mất lòng khách.

- Quý bà hãy tin ở tôi. Tôi sẽ báo cáo điều quý khách nhìn thấy với người có trách nhiệm. Xin bà vui lòng cho biết họ tên và địa chỉ, được không ạ? Chỉ đơn giản để nếu trường hợp…

Không đợi người nhân viên nói hết câu, bà Gilucuddy cho anh ta biết tên, họ và địa chỉ của bà tại nơi bà định lưu lại vài ngày tới, cả địa chỉ thường trú của bà ở Scotland.

Ghi vào sổ tay, nhân viên đường sắt bước ra đóng cửa văn phòng lại, vẻ mặt hài lòng là đã giải quyết khôn ngoan một vụ "hoang tưởng" của khách đi tàu. Trong cương vị này, anh ta đã gặp biết bao trường hợp khách đi tàu tưởng tượng ra đã "nhìn thấy" đủ thứ quái đản.

Về phần mình, bà Gilucuddy vẫn chưa yên tâm. Liệu người nhân viên đường sắt kia có làm đúng như lời anh ta nói với mình không? Hay anh ta chỉ nói cốt để đối phó. Tất nhiên nhiều bà khách có tuổi, nhút nhát, khi ngồi trên tàu rất dễ tưởng tượng ra đủ mọi thứ chuyện khủng khiếp. Thậm chí có bà kêu ầm lên là vừa nhìn thấy một đĩa bay của người ngoài hành tinh. Anh nhân viên soát vé này đã gặp nhiều trường hợp khác như thế và anh ta tin rằng bà khách hôm nay cũng là một trong những trường hợp như vậy.

Bà Gilucuddy đã nhìn thấy bên ngoài cửa sổ những ánh đèn rực rỡ như sao sa của một thành phố lớn. Tàu đến Brackhampton! Bà Gilucuddy mở xách tay, lấy giấy bút và một tờ giấy, viết ra vài dòng rồi gấp tờ giấy nhét vào phong bì, là thứ bà thường xuyên mang sẵn theo người, đề phòng khi cần đến.

Đúng lúc đó, đoàn tàu chạy chậm lại rồi đỗ hẳn vào một bên ga sáng choang ánh đèn và đông kín người. Bà Gilucuddy lo lắng nhìn ra ngoài cửa sổ. Trên sân ga, hành khách thì quá nhiều và nhân viên khuân vác lại quá ít. Bà đã bắt đầu thất vọng thì chợt nhìn thấy một nhân viên khuân vác đi về phía mình.

Bà Gilucuddy gọi to:

- Anh kia, lại đây tôi nhờ. Anh vui lòng chuyển giúp chiếc phong bì này ngay cho ông trưởng ga! Và anh nhận cho một hào gọi là tiền trà thuốc.

Trao lá thư và đồng hào xong, bà khách cảm thấy mệt rũ, bà ngồi phịch xuống ghế. Bà Gilucuddy không phải là người dễ bị kích động, nhưng cảnh tượng nhìn thấy lúc nãy trong đoàn tàu bên cạnh khiến bà đến giờ vẫn còn thấy run rẩy. Tuy nhiên, bà thầm nghĩ mình chẳng thể làm gì hơn, dần dần hình ảnh kia mờ dần trong óc bà. Bà chợt nghĩ đến số tiền "trà thuốc" bà vừa đưa người nhân viên khuân vác. Lẽ ra chỉ cần một nửa số tiền đó là đủ, bà thầm tiếc rẻ. Để khỏi phải ân hận chuyện đó, bà chuyển sang tiếp tục suy nghĩ về tấn thảm kịch lúc này.

Sự ngẫu nhiên quả là kỳ lạ. Sao đúng lúc đó thì gió thổi cuốn tấm rèm lên khiến bà nhìn rõ mọi chuyện diễn ra trong ngăn của đoàn tàu bên kia? Và chỉ một mình bà! Không một ai khác nhìn thấy. Số phận đã định bà là nhân chứng duy nhất của vụ án này.

Nhưng trên sân ga đang ồn ào náo nhiệt. Các cửa lên toa tàu ầm ĩ khép lại. Một hồi còi rú lên và đoàn tàu lại tiếp tục chuyển bánh, từ từ ra khỏi ga.

Một giờ sau, tàu đỗ ở ga Milchester. Bà Gilucuddy vội vã chuẩn bị hành lý để xuống. Bà đứng lại, chờ nhân viên khuân vác. Lát sau bà đi theo người khuân vác hành lý đi ra khỏi ga. Một chiếc taxi đã đợi bà ngoài cửa ga.

Người lái xe bước ra:

- Bà là phu nhân Gilucuddy phải không ạ? Tôi được thuê bà đến thị trấn Mary Mead.

Vali, các hộp gói lỉnh kỉnh được nhét vào khoang xe hẹp. Xe lao đi trong đêm: quãng đường sắp tới dài 15 cây số. Ngồi trong xe, bà Gilucuddy không sao bình thản được. Đầu óc bà vẫn rối mù, mọi ý nghĩ ngổn ngang. Cuối cùng bà nhận ra xe đang chạy trên phố chính của thị trấn quen thuộc. Xe taxi đỗ lại.

Tim đập rộn ràng, bà Gilucuddy bước ra, theo sau là người lái xe xách vali. Bà bước nhanh trên lối đi dẫn đến một ngôi biệt thự đồ sộ. Một bà người làm, tuổi trung niên, vồn vã đón bà. Bà chỉ kịp đáp lại "Chào chị" rồi đi nhanh vào gian tiền sảnh. Một bà phu nhân già vẻ ốm yếu, đang đứng chờ ở phòng khách:

- Chị Gilucuddy thân mến!- bà chủ nhà reo lên mừng rỡ. Nhưng không sao vẻ mặt chị căng thẳng thế kia? Có chuyện gì chăng?

Chưa kịp ôm hôn bà bạn thân thiết, bà khách đã vừa hổn hển vừa nói:

- Chị Marple, tôi vừa chứng kiến một vụ án mạng!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 23:26:23 | Chỉ xem của tác giả
Chương 2

Trung thành với nguyên tắc mà mẹ và bà đã giáo dục, cụ thể là, một phụ nữ quý tộc trong bất cứ trường hợp nào cũng không được tỏ thái độ sửng sốt, thậm chí ngạc nhiên, bà Marple chỉ khẽ dướn đôi lông mày, gật gù nhẹ mái đầu.
Bà nói:

- Nhìn thấy tận mắt cảnh tượng như thế, chị chấn động là phải, Gilucuddy thân mến! Nhưng chị có thể kể tỉ mỉ toàn bộ cho tôi nghe bây giờ được không?

Thì đó cũng chính là điều bà Gilucuddy đang muốn làm. Để bà bạn ngồi chiếc ghế nệm bên lò sưởi ấm áp, bà Gilucuddy tháo đôi găng tay, bắt đầu kể, giọng vẫn còn thảng thốt.

Bà Marple lặng lẽ, nín thở chăm chú lắng nghe. Nghe xong, bà mới cố ghìm cơn cảm xúc, thở ra thật nhẹ, rồi mới nói, giọng kiên quyết:

- Chị Gilucuddy thân mến, tôi nghĩ tốt nhất là chị cần lên phòng nghỉ ngơi. Vào đấy, chị có thể tháo mũ, rửa mặt mũi, rồi xuống ăn tối. Ta tạm gác tất cả các câu chuyện này, bàn bạc kỹ lưỡng mọi khả năng xem thế nào.
Bà Gilucuddy tán thành.

Thế là trong bữa tối, đôi bạn trò chuyện hàn huyên, bình luận về cuộc sống đang diễn ra trong thị trấn Mary Mead này. Trong câu chuyện bà Marple kể có chuyện về một vụ tai tiếng mới xảy ra gần đây về cách xử sự của bà vợ ông chủ hiệu thuốc tây và câu chuyện về cô giáo trường tiểu học phản đối nhà chức trách địa phương. Lát sau câu chuyện chuyển sang bình phẩm về thời tiết khắc nghiệt mùa đông năm nay. Nhưng trong khi trò chuyện, khách vẫn còn có vẻ bồn chồn, không tập trung hoàn toàn vào câu chuyện. Thấy vậy, bà Marple chủ nhà bèn mời bạn sang phòng khách, ngồi bên lò sưởi, rồi bà bước đến tủ rượu, lấy ra một chai pha lê chạm trổ tinh vi và hai chiếc ly.

- Tôi không muốn chị dùng cà phê! - bà Marple nói: Thần kinh chị đã căng thẳng quá mức rồi. Tôi muốn chị nhấp một chút rượu anh thảo tôi tự ngâm lấy, rồi sau đó dùng một tách nước sắc cam túc.

Bà Gilucuddy ngoan ngoãn tuân theo. Nhưng nhấp xong một ngụm chất an thần quả là khó nuốt, bà không nhịn được hỏi luôn:

- Marple, chị không nghĩ là tôi tưởng tượng ra tất cả câu chuyện đấy kia chứ? Hay chị cho tôi là đã tưởng tượng?

- Tất nhiên tôi không cho là chị tưởng tượng, bà Marple chân thành đáp.

Khách thở phào nhẹ nhõm:

- Nghe chị nói thế tôi thấy nhẹ cả người, vì từ lúc người nhân viên soát vé nói, tôi cứ băn khoăn mãi. Chẳng nhẽ không ai tin là tôi đã nhìn thấy thật hay sao? Tất nhiên anh nhân viên đường sắt kia nói năng rất lịch sự, nhưng tôi thấy rõ anh ta không tin… anh ta…

Bà Marple lấy giọng dịu dàng ngắt lời bạn:

- Nên thông cảm với anh ta. Chị phải công nhận là câu chuyện của chị, mới thoạt nghe, người ta dễ nghi là không có thật. Nó có vẻ quá quái đản. Hơn nữa anh ta đã biết chị là ai đâu…

Bà Gilucuddy lại lộ vẻ bực bội.

Bà Marple liền nói tiếp:

- Câu chuyện kỳ quái, nhưng trên cõi đời này, thiếu gì chuyện kỳ quái như thế! Nghe chị kể, tôi chợt nhớ có một lần tôi đã chứng kiến một cảnh tượng xảy ra đúng trong một đoàn tàu chạy song song với đoàn tàu của tôi. Một đứa bé gái chơi với con gấu bông, bỗng quăng con gấu, trúng vào đầu một ông già đang thiu thiu ngủ, khiến ông ta choàng tỉnh dậy và nổi cáu. Tôi đã tận mắt chứng kiến câu chuyện xảy ra giữa ông và đứa bé, cùng thái độ của những người ngồi gần đó. Đang rỗi rãi, tôi quan sát kỹ đến mức có thể kể lại hình dạng, quần áo từng người, họ đã nói gì và thái đội ra sao, chính xác một trăm phần trăm. Chị Gilucuddy này, chị bảo gã đàn ông đó đứng quay lưng về phía chị, nghĩa là chị không thấy rõ mặt y phải không?

- Đúng thế, tôi không nhìn được mặt gã.

- Còn người phụ nữ? Chị thấy hình dạng chị ta chứ? Trẻ hay già?

- Khá trẻ. Khoảng ba mươi, ba mươi nhăm gì đó. Tôi khó nói được chính xác.

- Đẹp không?

- Làm sao tôi biết? Lúc đó mặt cô ta méo xệch, lưỡi thì lè ra…

- Măng tô bằng lông thú, nhưng tôi thấy có vẻ cũ vì màu đã bạc. Không đội mũ, tóc vàng.

- Tuy gã đàn ông không quay mặt về phía chị, nhưng chị có nhận xét thấy đặc điểm nào của gã không?

Bà Gilucuddy suy nghĩ một hồi lâu rồi đáp:

- Gã cao lớn. Tóc đen, hình như thế. Tấm măng tô hắn mặc rất dày nên không đoán được khổ vai.

Bà thở dài, thất vọng nói thêm:

- Mấy chi tiết đó quá ít ỏi, chẳng giúp ích được gì mấy!

- Chị đừng nghĩ thế, bà Marple trấn an ban. Mấy chi tiết đó không phải không có giá trị đâu. Đợi sáng mai, chúng ta sẽ còn biết thêm nữa.

- Sáng mai?

- Đúng thế! Tôi đoán báo chí sáng mai sẽ đưa tin về vụ việc này. Bởi giết người thì không khó, nhưng cái khó là làm sao thủ tiêu được cái xác. Tôi đoán sau khi gây án, hung thủ tất phải xuống ngay chỗ ga tàu đỗ gần nhất… Mà là toa giường ngủ phải không?

- Không!

- Nghĩa là không phải tàu chạy chặng xa. Dù sao thì chắc chắn ga tàu đó đỗ liền sau đấy là ga Brackhamton. Ta đặt khả năng, hung thủ bỏ lại xác nạn nhân ở một góc kín đáo trên toa tàu, rồi xuống ga, không quên dựng cổ áo măng tô lên che mặt, cốt để không ai nhìn thấy mặt hắn… Chà, tôi tin là sự việc đã diễn ra đúng như tôi đoán. Nếu vậy, sớm muộn người ta cũng tìm thấy thi thể nạn nhân. Tôi tin rằng chuyện một phụ nữ bị giết trên toa tàu hỏa, các báo chí không đời nào bỏ qua. Rồi chúng ta sẽ thấy!

Sáng hôm sau, không một tờ báo nào nói đến vụ án mạng. Thấy vậy, lúc ăn điểm tâm, đôi bạn già chìm đắm trong dòng suy nghĩ miên man, không ai nói lên một lời. Sau bữa điểm tâm, họ ra vườn dạo chơi, nhưng niềm thích thú mọi khi hôm nay không còn. Quả thật bà Marple có chỉ cho bạn thấy mấy cây hoa đẹp, nhưng bản thân bà cũng không thiết tha là bao.

Hai người lặng lẽ một lúc rồi đột nhiên bà Gilucuddy đứng lại, nhìn thẳng vào mắt bạn:

Vậy theo chị, ta nên làm thế nào bây giờ?

Câu hỏi đơn giản, nhưng chứa đựng cả một nỗi băn khoăn lớn lao. Bà Marple không đoán lầm.

- Tôi còn đang nghĩ, bà đáp.

Bà Gilucuddy khẽ rùng mình,

Thấy vậy, bà Marple nói tiếp:

- Tôi tính tốt nhất ta ra đồn cảnh sát trình bày toàn bộ câu chuyện với trung sĩ Cornish. Anh ta rất thông minh, biết kiên nhẫn lắng nghe, lại rất quen biết tôi. Tôi tin Cornish sẽ báo cáo lên cấp trên toàn bộ câu chuyện này.

Thế là sau đấy 45 phút đồng hồ, hai bà đứng trước một người đàn ông khoảng 30-40 tuổi, khuôn mặt sáng sủa, thái độ niềm nở, nhưng vẫn giữ vẻ nghiêm túc.

- Chào bà Marple! Bà cần tôi giúp gì đây?

- Tôi muốn ông lắng nghe câu chuyện của bà bạn tôi, bà Gilucuddy.

Lời đề nghị được trung sĩ chấp nhận ngay.

Nghe xong, viên trung sĩ im lặng suy nghĩ một lúc lâu. Anh kín đáo chăm chú quan sát người kể chuyện và anh tin bà Gilucuddy này không thuộc loại phụ nữ nhẹ dạ, dễ bị cuốn theo các thứ hoang tưởng. Hơn nữa, bà Marple tỏ vẻ rất tin vào bà bạn mà trung sĩ thì đã biết rất rõ bà. Bà Marple không phải là người nông nổi. Không cứ anh mà cả thị trấn Mary Mead này biết rõ tính tình bà: Bên ngoài có vẻ sởi lởi, thật ra bà rất hiểu biết và có nghị lực.

Viên trung sĩ cảnh sát ho nhẹ một tiếng thông cổ họng rồi nói với bà Gilucuddy:

- Tất nhiên có thể bà nhìn nhầm, nhưng tôi không tin là như thế. Dù sao, đó mới chỉ là môt khả năng. Đôi khi hành khách ngồi trên tàu dễ buồn chán, thả cho trí tưởng tượng bay bổng. Cho nên cũng có khả năng điều bà nhìn thấy không phải là chuyện trầm trọng như bà nghĩ.

Câu nói đó làm bà Gilucuddy bực bội:

- Tôi biết tôi nhìn thấy gì chứ!, bà chua chát nói.

"Vậy là bà ta không chịu buông xuôi sự việc này, viên trung sĩ thầm nghĩ. "Mà bản thân mình cũng phải thận trọng, nhưng mình vẫn cảm thấy bà này nói có lý".

Nghĩ như vậy, nhưng khi nói ra miệng, anh ta lại tỏ ý nghi hoặc:

- Bà đã báo nhà ga và vừa rồi bà đã tường trình cho tôi. Theo đúng nguyên tắc, chúng tôi sẽ tiến hành điều tra theo đúng trình tự. Bà có thể tin ở tôi là cuộc điều tra sẽ được tiến hành.

Mãn nguyện, bà Marple nghiêng đầu lịch sự cảm ơn. Bà Gilucuddy, tuy không chia sẻ niềm lạc quan ấy, nhưng cũng không nói gì.

Viên trung sĩ Cornish nói tiếp. Lần này anh ta hướng về phía bà Marple. Không phải để nghe những gợi ý, mà để biết bà này nghĩ thế nào về toàn bộ câu chuyện.

- Căn cứ vào tất các sự kiện kia, theo bà thì thi thể nạn nhân hiện ra sao?

Bà Marple đáp ngay, không hề ngập ngừng:

- Tôi nghĩ có hai khả năng. Tất nhiên cách đầu tiên hiện ra trong trí óc hung thủ là giấu thi thể nạn nhân vào một góc nào đó trên tàu, nhưng chuyện đó không thể có, vì nếu vậy, đến ga cuối cùng, khi làm vệ sinh các toa, nhân viên đường sắt tất phải phát hiện thấy cái xác.

Trung sĩ Cornish làm một cử chỉ tán thành.

Bà Marple nói tiếp:

- Do đấy, thủ phạm chỉ còn một cách duy nhất, đẩy thi thể nạn nhân ra khỏi tàu giữa lúc tàu đang chạy. Vậy thì xác người phụ nữ kia ắt phải nằm bên cạnh đường ray, khốn nhưng cho đến nay chưa ai nhìn thấy. Theo tôi phán đoán thì ngoài cách ấy ra hung thủ không còn cách nào khác để giấu xác chết.

Lúc này bà Gilucuddy mới lên tiếng:

- Người ta đã từng nói đến những xác chết giấu trong hòm xiểng. Nhưng thời nay hành khách không mang hòm mà xách va li. Mà va li nhỏ như thế, thì làm sao có thể nhét thi thể một con người vào được?

Viên trung sĩ suýt bật cười, nhưng vì lịch sự anh ta cố nén lại:

- Tôi đồng ý với cả hai bà. Nếu như có xác chết, thì lúc này người ta đã phải phát hiện ra rồi, nếu không thì cũng chỉ chờ vài hôm nữa thôi. Dù sao, tôi cũng xin hứa với hai bà là biết được gì thêm về vụ này tôi sẽ báo hai bà biết ngay. Nhân đây tôi thấy cần nêu thêm một khả năng: Tuy bị bóp cổ nhưng người phụ nữ kia không chết. Và không phải không có khả năng bà ta đã ra khỏi tàu.

- Nếu vậy ắt phải có người giúp, bà Marple nói. Và nếu như thế, khách đi tàu không chỉ chú trọng ý đến tình trạng chị ta, mà chú ý cả người dìu chị ta. Và khi đó, anh ta sẽ trả lời rằng chị ta bị ốm.

- Bà hoàn toàn có lý, trung sĩ Cornish nói. Và nếu người ta phát hiện có người đau nặng hoặc bất tỉnh trên tàu, họ sẽ gọi cấp cứu, đưa chị ta đến bệnh viện ngay. Khi đó cảnh sát sẽ được thông báo. Cho nên chỉ ngày mai, hai bà sẽ được nghe đăng tin về vụ việc này.

Nhưng đến hết ngày hôm ấy, vẫn không nghe thấy có tin tức gì hơn. Cả hôm sau cũng thế. Rồi chập tối ngày thứ ba, bà Marple nhận được thư của trung sĩ Cornish:

Một cuộc điều tra kỹ lưỡng đã được tiến hành xung quanh vụ việc bà kể tôi nghe, nhưng không đem lại kết quả nào. Người ta không thấy một xác chết nào. Không bệnh viện nào đã tiếp nhận một phụ nữ như hai bà vừa kể. Người ta cũng không tìm thấy dấu vết nào của một người ra khỏi ga có người khác dìu đi. Xin bà tin rằng mọi việc tìm kiếm có thể tiến hành đều đã được thực hiện. Tôi nghĩ đến khả năng, có thể bà bạn của bàn nhìn thấy cảnh tượng như thế, nhưng sự thật không đến nỗi trầm trọng như bà ấy tưởng chăng?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 23:27:53 | Chỉ xem của tác giả
Chương 3

- Vớ vẩn, làm như trò đùa ấy, bà Gilucuddy kêu lên giận dữ. Đây là một vụ án mạng một trăm phần trăm!

Nói xong bà quay sang nhìn bà bạn bằng cặp mắt nghi ngờ, mặc dù bà Marple thản nhiên.

Bà Gilucuddy nói tiếp, không giấu giếm nỗi bực bội:

- Marple, chị nói thẳng ra. Chị cũng cho là tôi nhìn nhầm chứ gì? Hoặc chị cho là tôi đã tưởng tượng ra tất cả những chuyện đó? Chị nói thật đi, Marple! Thật lòng chị cho là thế nào?

Bà Marple đĩnh đạc nói:

- Bất cứ ai cũng có lúc lầm. Đúng thế, bất cứ ai, kể cả chị Gilucuddy. Nhưng tôi vẫn tin rằng trong trường hợp này chị không lầm. Khốn nhưng bây giờ chị không còn cách nào nữa.

Nếu bà Gilucuddy đang trong tâm trạng điềm tĩnh, hẳn bà đã chú ý đến chữ "chị" được nhấn mạnh kia.

- Chị đã báo cho trưởng ga, rồi trình bày toàn bộ sự việc cho cảnh sát, đúng thế không nào?

Trái với sự chờ đợi của bà Marple, bà bạn chỉ im lặng.

Lát sau bà Gilucuddy nói:

- Về một mặt nào đó, nhận định của chị làm tôi đỡ áy náy. Bởi chị biết đấy, sau lễ Noel này tôi sẽ đi Ceylan ngay. Tôi hoàn toàn không muốn hoãn chuyến đi mà tôi mong đợi lâu nay. Nhưng chị đã thừa biết tính tôi đấy, khi thấy bổn phận phải làm một việc gì đó, bao giờ tôi cũng gạt mọi trở ngại để cố làm tròn.

- Tôi biết tính chị chứ, Gilucuddy, nhưng tôi nhắc lại, chị ở lại đây cũng chẳng ích gì.

- Điều này phụ thuộc vào cơ quan cảnh sát. Và nếu họ cố tình ngu xuẩn...

- Chị bạn thân mến, cảnh sát không ngu xuẩn đâu. Điều họ cần biết là sự thật diễn ra như thế nào.

Vẻ ngạc nhiên trên mặt bà Gilucuddy chứng tỏ bà chưa thấy hết tầm quan trọng của lời nhận xét kia. Nhìn thấy bạn như vậy, bà Marple hiểu ra rằng bà bạn mình tuy sống rất nghiêm túc, nhưng lại thiếu óc tưởng tượng.

Bà Gilucuddy một lần nữa bực tức ngắt lời bạn:

- Nhưng rõ ràng một người phụ nữ đã bị giết.

- Đồng ý! Nhưng kẻ giết người là ai? Vì động cơ gì? Và hiện nay xác chị ta đang ở đâu?

- Tìm hiểu nhiệm vụ đó là nhiệm vụ của cảnh sát.

- Đúng thế! Nhưng hiện nay họ chưa tìm ra. Do đấy chúng ta có thể nhận định: Hung thủ hết sức khôn ngoan! Hết sức! Tôi có thể suy ra như thế này. Gã đàn ông đã giết chị ta trong một cơn giận dữ, y không ghìm được, có nghĩa y không có chủ định giết người từ trước. Tôi đoán là như thế, bởi nếu y suy tính cẩn thận từ trước, hẳn không đời nào y giết người đúng vào lúc chỉ vài phút nữa tàu đến ga. Tôi cho rằng giữa hung thủ và nạn nhân đã diễn ra một cuộc cãi lộn ghen tuông và đến lúc không ghìm nổi, y mới gây án.

Bà Marple cau mày suy nghĩ. Bà mải suy nghĩ đến mức bà Gilucuddy gọi hai lần mà bạn vẫn không nghe thấy.

- Tai chị điếc hay sao đấy?, bà Gilucuddy kêu lên.

- Có thể! Tôi cảm thấy thời nay người ta không phát âm rành rọt như xưa nữa. Nhưng sẽ không đúng nếu chị bảo tôi không nghe thấy chị nói. Đúng ra tôi không muốn nghe.

Hơi tự ái, bà Gilucuddy nói tiếp:

- Tôi chỉ định hỏi chuyện khác: Về tàu đi London. Liệu tôi đáp chuyến tàu trưa, tôi có đến kịp để dùng bữa phụ giữa buổi chiều với bà chị họ của tôi được không?

- Nếu vậy tôi khuyên chị nên đáp chuyến tàu 12h15'. Như thế chị vẫn kịp dùng bữa trưa ở đây với tôi. Tất nhiên tôi sẽ bảo chị nấu bếp chuẩn bị bữa ăn sớm hơn thường lệ một chút.

- Được đấy, nhưng…

Muốn chặn trước sự từ chối, bà Marple nói ngay:

- Tôi không muốn biết bà chị họ liệu có bực mình nếu thấy chị đến không kịp bữa ăn phụ buổi chiều không?

Bà Gilucuddy lo lắng nhìn bạn:

- Chị nói thế nghĩa là sao?

- Bởi tôi đang nghĩ, có lẽ tôi nên cùng đi London với chị. Sau đó, hai chúng ta sẽ đi ngược lại chặng đường từ ga Paddington đến thành phố Brackhamton. Ta sẽ ngồi trên đúng chuyến tàu chị đã đi hôm qua để đến đây. Sau đó, chị cứ chuyển tàu tiếp tục lên thủ đô, còn tôi quay trở lại đây một mình... Tôi xin nói thêm là chị cho tôi cho tiền vé được không?

Bà Marple một mực nài nỉ về điều đề nghị này. Bà biết tính bạn mình bao giờ cũng sòng phẳng. Tuy nhiên ý định đi một chuyến tàu nữa làm bà Gillicuddy ngạc nhiên. Bà hỏi:

- Chị định đi như thế là nhằm mục đích gì? Để chứng kiến một vụ án mạng nữa hay sao?

- Tất nhiên là không rồi. Nhưng thú thực tôi muốn kiểm nghiệm trên thực tế điều chị đã kể tôi nghe... biết nói với chị thế nào đây? Thôi tôi nhớ ra rồi: Tôi muốn nhìn thấy khung cảnh xảy ra vụ án.

Thế là hôm sau, khi đến ga Paddington - London, đôi bạn già vội vã xuống rồi lại lên chuyến tàu 16h50 kia. Chỉ có hai người ở trong căn phòng của toa hạng nhất, họ ngồi đối diện nhau, mỗi người một góc phòng.

Lần này không có đoàn tàu nào chạy song song bên cạnh. Chốc chốc lại có một đoàn tàu từ phía London tới, lao vun vút vượt lên rồi mất hút vào bóng đêm. Mỗi lần thấy có tiếng ầm ầm bên cạnh, bà Gillicuddy, mắt chăm chú nhìn đồng hồ tay, lại giật mình nhỏm dậy. Lát sau bà quyết định đáp lại cặp mắt dò hỏi của bà bạn:

- Tôi rất khó nói chính xác giờ đến lúc mỗi ga, bởi tôi phải nhìn kỹ mới nhận được ra.

Bà Marple nói:

- Năm phút nữa tàu sẽ đến ga Brackhamton.

Đúng lúc đó nhân viên soát vé mở cửa phòng bước vào. Bà Marple đưa mắt nhìn bạn, nhưng bà Gillicuddy ra hiệu ý nói không phải người nhân viên hôm trước. Bấm lỗ vào tấm vé xong, người nhân viên bước ra, loạng choạng vì đường tàu đi vào một đoạn đường vòng cung.

- Ga Brackhamton kia rồi, bà Marple nói.

Đúng thế, đoàn tàu đang giảm tốc độ chỗ đường tránh. Cau có, bà Gillicuddy nói:

- Cuộc đi thế này là vô ích. Hay chị thấy thêm được gì chăng chị Marple?

- Tôi e là không thấy thêm được gì, bà Marple đáp, giọng ngập ngừng.

- Thế là phí tiền vô ích! Bà Gillicuddy nhăn mặt.

Bà không nói câu này nếu như bà bạn không nhất quyết từ chối nhận cho bà chi một nửa tiền vé.
Đoàn tàu chạy vào nhà ga lớn này một cách bình thường, giống hệt như mọi khi: vẫn tiếng cửa mở toa ầm ầm, tiếng người huyên náo chen chúc nhau. Nhìn quang cảnh này, bà Marple nảy ra nhận xét: Tình trạng nhốn nháo như thế này thì một người dễ dàng trà trộn vào đám đông, rồi lẻn ra cửa ga, thậm chí lên một toa khác cũng không ai biết. Nhưng còn xác chết thì y giải quyết bằng cách nào mà bỗng nhiên mất tăm như thể bốc thành khói bay lên trời vậy? Nhận xét thứ hai: Nếu người ta không thấy xác chết trong toa tàu nơi xảy ra vụ án, có nghĩa nó đã giấu được ở một nơi không ai ngờ tới.

Lúc xuống sân ga để lên chuyến tàu đi thủ đô London, bà Gillicuddy chia tay với bạn:

- Viết thư cho tôi nhé, Marple. Nhưng chị nên nhớ một điều là chị không còn trẻ trung gì đâu, đừng lao vào cuộc phiêu lưu nào nữa!

Trong lúc nhìn theo bà bạn đi xa dần, bà Marple ngắm nghía dáng đi đường bệ của bạn. Gillicuddy lên đường sang Ceylan với một lương tâm thanh thản. Chị ấy đã làm tròn bổn phận của mình và không phải áy náy gì nữa.

Sau khi tàu chuyển bánh, bà thu mình vào góc phòng, vẫn không thấy thanh thản. Bà miên man suy nghĩ. Bà đang đứng trước một băn khoăn cần giải quyết: phải xử sự thế nào đây? Lạ một nỗi là bà có cảm giác, giống như bạn bà lúc trước, đó là phận sự kia bà có bổn phận phải làm tròn.

Quả là chị Gillicuddy cho rằng hai người đã làm tất cả những gì có thể làm. Mà về phía chị ấy như thế là đúng. Nhưng khi suy nghĩ kỹ, bà Marple lại thấy mình không thể như vậy. Bà cảm thấy mình muốn khám phá ra vụ án này cần phải hết sức khôn khéo. Nhưng làm như vậy liệu có phải mình kiêu căng không? Có thể nhưng nếu thế, ta nên xử sự như thế nào bây giờ? Đột nhiên, bà nhớ lại câu dặn dò của bà bạn: Chị không còn trẻ trung nữa đâu!

Nhưng nỗi do dự kết thúc rất nhanh. Trong đầu Marple đã hình thành cả một kế hoạch chiến đấu, giống như một bản kế hoạch chi thu, lỗ lãi của một doanh nghiệp. Đối với việc tiến hành một cuộc điều tra, bà kê ra các lập luận “nên” và “không nên”.

Về mặt thuận lợi, bà nhẩm tính:

1. Mình đã có khá nhiều kinh nghiệm về cuộc đời và con người.

2. Huân tước Henry Clithering vốn có tình bạn chân thành với mình, lại có con trai đang làm việc ở Cục Điều tra tại thủ đô London.

3. David, con trai thứ hai của cháu mình là Raymond West lại là nhân viên cao cấp trong công ty hoả xa.

4. Leornard, con trai chị bạn mình là Griselda chuyên sưu tầm các bản đồ đường xá.

Marple suy nghĩ rất lâu về bốn thuận lợi trên, nhưng như thế phải chăng mình chưa tính đến các khó khăn. Mà khó khăn thứ nhất là sức khỏe của mình. Điều này không được quên.

Bà thầm nghĩ: "Mình không còn ở tuổi có thể đi hết chỗ này đến chỗ kia để tiến hành cuộc điều tra, tìm ra điều bí mật".

Tuy vào tuổi này mình vẫn còn được thế này là rất quý, nhưng cần phải công nhận mình đã già. Bác sĩ Haydock đã cấm bà làm vườn, vậy liệu ông ta có đồng ý để bà lao vào việc điều tra một vụ sát nhân không? Bởi việc bà dự tính làm chính là như thế. Liệu bà có gỡ được cái nút rắm rối này không? Mà đã làm, bà sẽ phải nhận trách nhiệm về mình. Trước kia, việc săn lùng một tên thuỷ thủ tùy thuộc vào nhiều hoàn cảnh đưa đẩy, nhưng lần này bà chỉ có thể tự mình giải quyết.

Nghĩ đến đây, Marple thấy ngại lao vào một cuộc phiêu lưu đầy gian khó. Lúc này, sau một ngày căng thẳng, bà thấy không muốn vạch ra bất cứ một kế hoạch nào. Mong ước duy nhất chỉ là về nhà cho thật nhanh, rồi đi ngủ. Mai bà sẽ dạo chơi thanh thản trong vườn, cố tránh làm bất cứ thứ gì có thể khiến bà mệt.

Gạt đi mọi suy nghĩ, bà Marple cố bắt mình nhích lại gần cửa sổ để nhìn ra ngoài, đúng lúc trước mắt bà hiện ra một đoạn đường vòng cung của đường ray. Một đoạn đường vòng cung…

Rất chậm chạp, một ý nghĩ từ từ hiện ra trong đầu bà, vậy là nhân viên soát vé đến bấm lỗ trên tấm vé đúng vào trước lúc đoàn tàu đi vào đoạn đường vòng cung này và đoạn tàu đi hết đường vòng cung là đến ga Brackhamton.

Trong óc bà đột nhiên nảy ra một ý nghĩ! Mới chỉ là ý nghĩ thôi, nhưng hoàn toàn khác với....

Bà Marple bỗng thấy mặt bà nóng bừng lên, bao mệt mỏi đột nhiên tan biến. Bà tự nhủ mình phải viết thư ngay cho David. Và một ý nghĩ thứ hai loé lên trong đầu bà: Tại sao mình lại chưa nghĩ đến chị người làm cũ của mình nhỉ: Florence trung thành?


Không chút ngập ngừng, bà Marple lập tức nghiên cứu lại hết sức tỉ mỉ bản kế hoạch hành động vạch ra lúc trước. Nhận thấy kỳ nghỉ lễ Noel sắp tới là một yếu tố trì hoãn, bà tự nhủ: Ít ra mình cũng nhân dịp gửi thư chúc mừng Noel, yêu cầu luôn đưa cháu là David West gửi theo một số thông tin.

Thêm nữa, trong bữa tiệc ông mục sư chồng bà bạn tổ chức, bà có thể trò chuyện với Leonard, con trai ông. Ai cũng biết Leornard say mê sưu tầm các loại bản đồ đường bộ cũng như đường sắt và bà thấy nhất thiết phải khai thác anh ta. Biết đâu anh ta chẳng có một bản đồ với tỷ lệ xích cao, có thể giúp bà tìm hiểu sâu địa thế vùng này?

Leonard không hề dò đoán động cơ thầm kín của bà bạn mẹ anh mà vui vẻ đáp ứng, chỉ yêu cầu bà dùng xong thì trả lại ngay.

Mấy hôm sau, bà Marple nhận được thư trả lời của Daniel West:

Bà yêu quý,

Bà lại có âm mưu làm chuyện gì thế? Nhưng dù là chuyện gì đi nữa thì cháu cũng xin trả lời câu hỏi của bà:

Hai chuyến tàu bà quan tâm là hai chuyến 16h33 và 17h. Chuyến thứ nhất tàu thường, chuyến thứ hai tàu tốc hành. Thông thường, chuyến thứ nhất chạy trước và cũng đến ga Brackhamton trước chuyến 16h50 của bà, còn chuyến tàu tốc hành khởi hành sau, nhưng đuổi kịp và vượt lên trước chuyến tàu 16h50 của bà ở chỗ sắp đến ga Brackhamton.

Cháu đoán điều bà muốn biết liên quan đến vụ tai tiếng ở thị trấn gần đây và trong một chuyến đi tàu bà đã tình cờ nhìn thấy vợ ông thị trưởng trong vòng tay ông thanh tra cung đường, có đúng thế không ạ? Một cuộc ngao du tình cảm vào kỳ nghỉ cuối tuần mà! cảm ơn bà về chiếc áo len cho, đúng thứ cháu đang ao ước.

Cháu yêu của bà.
David.


Bà Marple mỉm cười trước khi nghiên cứu các thông tin. Bà bạn Gillicuddy đã kể lại rõ ràng là đoàn tàu có vụ án mạng không có toa giường ngủ. Như vậy không thể là chuyến tàu nhanh mà chỉ có thể là chuyến tàu 16h33. Thế thì mình phải đi thử chuyến đó vậy.

Hôm sau, bà Marple đi London. Lúc về tất nhiên, bà chọn chuyến tàu 16h33, chuyến của đoàn tàu có vụ án mạng. Khách thưa thớt, ngăn bà ngồi chỉ có một mình bà. Chuyến đi yên ổn, không có biến cố nào. đến mỗi ga số khách lên xuống lẻ tẻ. Trước khi đến ga Brackhamton, đoàn tàu chạy vào đường vòng cung mà bà đã chuẩn bị đón trước. Đến lúc đó, bà Marple vội vàng đứng lên, rồi thử “diễn lại” vụ án bằng cách quay lưng ra phía cửa sổ, giống tư thế của tên hung thủ hôm đó. Cửa sổ này bà đã buông rèm xuống sẵn.

Bà Marple nhận thấy lúc chạy trên đoạn vào cung, đoàn tàu luôn thay đổi tốc độ cho nên những ai không ngồi mà đứng sẽ rất mất thăng bằng, thậm chí bị hất ngửa ra phía cửa sổ, làm chệch rèm. Bà Marple nhìn ra ngoài nhưng lúc này trời đã tối, bà rất khó nhìn thấy gì.

Bà Marple vốn có ưu điểm kiên trì nhẫn nại. Thế là sáng hôm sau bà lại ra tàu đi London. Bà tranh thủ thời gian ở đây đi mua sắm vài thứ cần thiết. Mua bán xong, bà Marple quay ra ga Paddington, lên chuyến tàu 12h10, là chuyến đến Brackhampton vào lúc trời còn sáng để dễ quan sát.

Trước khi tàu đến ga Brackhampton khoảng 15 phút, bà lấy trong cặp tấm bản đồ của Leonard ra nhận xét. Tấm bản đồ này bà đã nghiên cứu đến mức thuộc lòng từng chi tiết nhỏ, cho nên bây giờ bà dễ dàng xác định đúng vị trí của đoàn tàu từng lúc là đang ở điểm nào trên bản đồ. Đoạn đường vòng cung này khá dài. Bà áp mũi vào kính cửa sổ chăm chú nhìn mặt đất bên dưới. Trên đoạn này, đường sắt được đắp khá cao, từ đó xuống bãi cỏ là sườn khá dốc. Rỗi bà đưa mắt nhìn rộng ra xung quanh. Nhà ga Brackhampton đã hiện ra ở cuối đoạn vòng cung.

Ngay tối hôm đó, bà Marple viết một lá thư gửi cho Florence Hill số 4, đại lộ Madeson, thành phố Brackhampton. Sáng hôm đó, lúc ra thư viện thị trấn bà nghiên cứu kỹ lưỡng bản danh bạ của thành phố và cuốn từ điển địa lý của tỉnh, không quên nghiên cứu cả một cuốn lịch sử địa phương.

Cho đến lúc đó, chưa co một thứ gì trái với ý nghĩ đang ám ảnh bà, một ý nghĩ hiện lên vãn còn lờ mờ. Vậy là điều bà phỏng đoán đã có lý. Bây giờ chỉ cần đẩy tiếp lên.

Nhưng bước đi thứ hai này đòi hỏi tốn nhiều công sức và tuổi tác của bà không kham nổi. Muốn đẩy cuộc điều tra đến cùng, không thể tự làm một mình, phải có thêm lực lượng hỗ trợ. Nếu không, bao công sức bỏ ra đến giờ chỉ là công cốc.

Bà Marple đã nghĩ đến rất nhiều người, nhưng chưa thấy ai thích hợp. Người thì không đủ thông minh để đảm nhiệm, người có đủ thì lại đang quá bận, không thể bỏ ra một thời gian giúp bà.

Đang lúc gần như tuyệt vọng, chợt mặt bà rạng rỡ và cái tên buột ra khỏi miệng bà:

- Lucy Eyelessbarrow!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 23:28:54 | Chỉ xem của tác giả
Chương 4

Lucy Eyelessbarrow năm nay 32 tuổi. Tên của cô đã được biết đến trong một số giới. Do thành tích học tập xuất sắc tại trường Đại học Oxford, Khoa Toán, cô có triển vọng tiến xa hơn trên con đường sư phạm. Nhưng ngoài năng khiếu toán học, Lucy còn có thêm cách suy nghĩ tỉnh táo khiến cô nhận thấy nghề nhà giáo là một nghề bạc bẽo.

Không những thế, quanh quẩn mãi ở các trường đại học làm Lucy thấy chán ngấy. Cô thích giao du với những người bình thường, trình độ học thức kém mình, mà số này thì lại rất đông, cho nên cô không ở lại với ai lâu. Lucy thích cuộc sống liên tục thay đổi. Cuối cùng, vì không phải không cần tiền, cô sẵn sàng nhận làm một việc nào đó để có tiền.

Ai cũng biết rằng, muốn thoả mãn nhu cầu đó, cần phải tìm một lĩnh vực hoạt động không quá vướng chân. Và nếu cần, Lucy không ngần ngại làm cả chân phục vụ các gia đình miễn là có tiền mà lại không mất tự do, lại luôn được thay đổi khung cảnh. Những người quen biết đều ngạc nhiên thấy một cô gái tốt nghiệp Đại học Oxford lại đi vào cuộc sống kiểu làm thuê cho các gia đình như vậy.

Lucy đạt thành công ngay và thành công lâu bền. Độ bền mà không hiếm những bà vợ bảo chồng: "Kỳ này em có thể đi cùng với anh sang Mỹ, vì giao nhà cửa cho Lucy Eyelessbarrow thì yên tâm hoàn toàn".

Và các bà vợ ấy nói không ngoa: Không thể kiếm được một người quản gia nào thông minh, đảm đang như Lucy. Cô phục dịch người già, người ốm, trẻ con và bất cứ ai cũng hoàn toàn thoả mãn. Lucy còn có tài đối xử tế nhị, khéo léo với những người nổi tiếng khó tính khó nết nhất, kể cả những người nghiện ngập rượu chè. Và lòng kiên nhẫn của cô đối với các con vật thì quả không ai bằng. Lucy đúng là một viên ngọc quý.

Số người nhờ cô nhiều đến nỗi Lucy cuối cùng quyết định chỉ phục vụ trong một phạm vi nhỏ, gồm những gia đình cô đã biết hợp với sở thích cá nhân của cô hơn cả.

Chính vào lúc Lucy vừa quyết định như vậy thì cô nhận được thư của bà Marple. Cô quen biết bà cách đây 2 năm, khi ấy anh chàng Raymond West mà ta đã biết, có điều kiện gửi cô đến chăm sóc cho bà lúc đó vừa chữa khỏi bệnh viêm màng phổi, đang thời kỳ dưỡng bệnh.

Gạt kỷ niệm cũ đó đi, Lucy đọc đi đọc lại lá thư của bà già. Trong thư bà Marple hỏi xem cô có muốn đọc một sứ mệnh, "một sứ mệnh khá đặc biệt", bà nhấn mạnh như vậy và nếu muốn thì mời cô đến gặp bà thử trao đổi xem.

Lucy bối rối. Cô đang có quá nhiều nơi tha thiết mời, nhưng mấy chữ trong thư "sứ mệnh khá đặc biệt" làm cô chú ý. Không những thế lòng mến mộ đối với bà Marple đã vượt lên trên mọi suy tính khác. Thế là Lucy lập tức gọi điện thoại cho bà báo rằng cô có thể gặp bà ngay từ ngày mai tại London, trong câu lạc bộ riêng của cô. Câu trả lời của cô được bà Marple chấp nhận ngay.

Kết quả là cuộc đối thoại đã diễn ra tại nơi quy định. Không khí yên tĩnh ở nơi này hoàn toàn thích hợp với cuộc trò chuyện kín đáo. Sau những lời ca tụng thường lệ. Lucy đi ngay vào việc:

- Tôi e chỉ có thể rảnh rỗi được một thời gian không dài. Vì vậy xin bà cho biết bà định giao cho tôi việc gì vậy?

- Một công việc bình thường, quả là như thế!, bà Marple bình thản nói, rất đơn giản nhưng nhưng hơi bất ngờ đấy: Tôi muốn cô tìm một tử thi.

Lucy không ngạc nhiên, nhưng một nỗi hoài nghi lướt qua trên gương mặt cô: Bà này định khai thác tất cả mọi khả năng của cô sao? Nhưng ý nghĩ khó chịu đó lập tức tan biến: Bà Marple nổi tiếng tỉnh táo, thăng bằng. Do đấy bà nói ra điều gì đều đã qua suy nghĩ chín chắn.

- Tử thi nào vậy, thưa bà Marple? Cô điềm tĩnh hỏi.

- Tử thi một người phụ nữ bị giết, nói cụ thể là bị bóp cổ chết trên một đoàn tàu hoả, bà Marple đáp cũng điềm tĩnh không kém.

- Thế thì đúng là bất ngờ thật! Xin bà cho biết thêm một số chi tiết?

Khi nghe xong một cách hết sức chăm chú, Lucy chỉ đưa ra một nhận xét:

- Tất cả còn tùy thuộc vào bà Gilucuddy kia nhìn thấy thật hay chỉ là do tưởng tưởng ra…

Câu nói có giá trị tương đương một câu hỏi.

Bà Marple đáp không chút ngập ngừng.

- Bà Gilucuddy không thuộc loại người tưởng tượng ra bất cứ thứ gì bao giờ. Chính vì thế mà tôi tin bà ấy. Bà bạn tôi thuộc loại phụ nữ phải khó khăn lắm mới chịu tin vào một chuyện vượt ra ngoài mức bình thường. Bà ấy không bao giờ tưởng tượng ra điều gì, hoặc bị một ám ảnh nào đó chi phối. Có thể nói bà Gilucuddy vững chãi như một khối đá.

- Tôi hiểu, Lucy nói, nhưng tại sao bà lại nghĩ đến tôi?

- Hồi cô đến nhà giúp tôi một thời gian, cô đã để lại trong tôi một ấn tượng rất đậm, bà Marple dịu dàng đáp. Và cô thấy đấy, tôi yếu sức rồi, không còn đủ sức khoẻ để liên tục di chuyển nơi này nơi khác nữa.

- Nghĩa là bà muốn tôi tiến hành cuộc điều tra. Nhưng phải chăng cảnh sát đã làm tất cả những gì cần thiết? Hay bà cho rằng họ chưa dồn sức vào đó?

- Hoàn toàn không phải thế. Vấn đề ở đây chỉ là phỏng đoán cá nhân của tôi, xung quanh chuyện cái xác chết biến mất. Tôi cho rằng cái xác tất nhiên phải đang ở đây đó, làm sao "mất tăm" được? Người ta không thấy trên toa tàu, có nghĩa là nó bị đẩy ra ngoài đoàn tàu. Nhưng lại chưa ai nhìn thấy nó trên đường ray. Chính vì thế mà đã hai lần tôi lên tàu, mỗi lần đi theo một hướng cốt để nghiên cứu xem nếu hung thủ đẩy xác chết ra ngoài, thì chỗ nào hắn có thể đẩy xuống để khi nếu ai chỉ nhìn lướt qua rất khó thấy được? Và tôi đã phát hiện ra có một chỗ như thế. Trước khi đến gia Brackhampton, đoàn tàu phải chạy trên một đoạn vòng cung, ở đoạn này đường ray được đắp khá cao. Cô có thể đoán được là khi chạy trên đoạn vòng cung, đoàn tàu phải hơi nghiêng và nếu có kẻ đẩy xác chết ra ngoài, cái xác ắt phải rơi ra ngoài và lăn xuống chân dốc.

- Đúng thế! Nhưng nếu xảy ra như thế thì tìm ra có gì khó đâu?

- Tôi công nhận. Nhưng đó là khi…

- Khi thế nào, thưa bà?

- Khi cái xác vẫn nằm yên chỗ đó! Nhưng rõ ràng hung thủ đã đem nó đi khỏi đấy rồi… Chuyện này tôi sẽ bàn với cô sau. Trước mắt, xin cô xem tấm bản đồ này đã, đặc biệt là chân dốc ở chỗ tôi đoán hung thủ đã đẩy thi thể nạn nhân xuống.

Lucy cúi nhìn trong khi bà Marple đưa ngón tay chỉ giải thích:

- Chỗ này này, bên rìa một khu trang viên rất rộng nằm ở ngoại ô thành phố Brackhamton. Trang viên này có một toà nhà lớn nằm trên, là sở hữu tư nhân, thường được gọi là dinh cơ Rutherford Hall. Toà nhà do một kỹ nghệ gia giàu có tên là Josiah Crackenthorpe xây năm 1884. Vào thời điểm đó dinh cư này gồm cả toà nhà và trang viên, nằm trơ trụi một mình. Nhưng ngày nay đã có nhiều ngôi nhà xây xung quanh. Nghe nói hiện nay người thừa kế của kỹ nghệ gia giàu có kia là một ông già đang ở trong dinh cư này cùng với cô con gái. Tên ông là Luther, họ là Crackenthorpe.

- Vậy bà muốn tôi làm gì?

- Bà Marple trả lời luôn.

- Tôi muốn cô xin được vào làm chân gia nhân trong dinh cơ Rutherford Hall. Theo tôi biết thì dễ thôi vì tôi đã đọc thấy họ đăng cần thuê người giúp việc trên báo địa phương mãi mà chưa ai đến nhận làm. Mà hiểu được thôi, ai cũng ngại vào làm ở chỗ hẻo lánh vắng vẻ ấy.

- Điều ấy tôi công nhận, Lucy nói ngay.

Bà Marple khẽ ho một tiếng thông cổ họng rồi nói:

- Theo tôi biết, ông già Crackenthorpe có tính bủn xỉn. Chính vì thế, nếu ông ta trả lương cho cô quá thấp, tôi xin bù thêm để cô có được hưởng một khoản tiền công cao hơn mức cô nhận của người khác.

- Vì trong sứ mệnh này, tôi sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn, phải không thưa bà Marple?

- Nói nguy hiểm có lẽ thích hợp hơn, bởi công việc của cô có thể sẽ nguy hiểm đấy. Cô cần biết trước là như thế.

Lucy đăm chiêu nói:

- Vấn đề nguy hiểm hình như không ảnh hưởng đến suy nghĩ của tôi thì phải.

- Tôi cũng đoán như thế. Cô không thuộc loại người ngại nguy hiểm.

- Và bà cho rằng tôi thích nguy hiểm chăng? Sự thật là cho đến nay tôi chưa gặp chuyện gì nguy hiểm. Nhưng quả thật bà cho rằng trong trường hợp này, công việc có thể sẽ nguy hiểm?

- Tất nhiên. Cô thử nghĩ xem có một kẻ đã dám giết người và hắn đã tiến hành rất đạt, không bị ai nghi ngờ gì hết. Hai bà già kể lại một câu chuyện khó tin cho cảnh sát nghe và họ tiến hành điều tra nhưng không đạt kết quả. Cuối cùng là vụ giết người của hắn được nhà chức trách cất vào hộc tủ thôi không điều tra nữa. Trong điều kiện như thế, tôi không tin hung thủ chịu để yên cho ai muốn bới tung vụ án của hắn lên, nhất là người đó muốn thành công.

- Tất nhiên rồi, công việc đầu tiên của tôi ở đấy là gì?

- Trước hết cô cần tìm những dấu vết ở gần đường tàu. Muốn thế, cô phải đi men theo bên rìa khu trang viên kia, biết đâu còn một mảnh vải, một vật dụng nào đó, tôi chưa biết. Cô cũng đừng quên quan sát xem tình trạng các bụi cây, đám cỏ gần đấy có gì khác thường không.

- Nếu tìm thấy thứ gì đó thì tôi phải làm thế nào?

- Tôi sẽ đến gần chỗ đó. Chị hầu phòng cũ của tôi hiện rút về thành phố Brackhampton, mở một nhà trọ kiểu gia đình rất sang. Tôi sẽ thuê của chị ta một phòng nhỏ và tiếp tục dưỡng bệnh giống như ở nhà tôi vậy. Về phần cô, cô cũng nên nói cho chủ nhà là cô có một bà dì không được khoẻ ở gần đấy cho nên cô muốn làm ở đó để thỉnh thoảng có thể chăm sóc bà dì. Đồng thời cô đề nghị nhà chủ tạo cho cô một số thời gian để chăm sóc bà dì.

Lucy không ngập ngừng nói ngay:

- Lẽ ra tôi có một việc phải đi vào ngày kia, nhưng tôi có thể hoãn lại. Dù sao tôi cũng chỉ dành được ba tuần lễ để làm việc bà giao.

- Ba tuần là thừa đủ, bà Marple trấn an cô gái. Nếu trong ba tuần chúng ta không tìm thấy gì, tôi sẽ bỏ cuộc. Sức đâu mà theo đuổi một cái bóng!

Bà Marple đi rồi. Lucy ngồi suy nghĩ thêm vài phút, rồi cô gọi điện đến văn phòng tuyển người làm ở thành phố Brackhampton, báo cho bà giám đốc, cũng chính là người quen của cô, là cô muốn tìm một việc làm ở thành phố này để được ở gần bà dì đã có tuổi đang đau ốm. Bà giám đốc kể ra một loạt chỗ làm, cô đều khéo léo thoái thác cho đến khi bà ta kể đến nhà Rutherford Hall.

- Đúng rồi, chỗ như thế rất hợp với tôi đấy! Bây giờ Lucy mới dứt khoát nhận lời.

Văn phòng liên hệ với tiểu thư Crackenthorpe. Và hai ngày sau, Lucy rời London đến nơi làm việc mới.

Ngồi cầm tay lái chiếc ôtô nhỏ của mình, Lucy Eyelessbarrow cho xe chạy giữa hai cánh cổng sắt đồ sộ. Một bên cổng là ngôi nhà nhỏ xây dành cho người bảo vệ, ngôi nhà đã đổ nát. Có thể cho chiến tranh hoặc không ai trông nom. Lucy cho xe chạy trên đồi ngoằn nghèo, hai bên trồng lộn xộn những cây cao rậm lá, đến bậc thềm dẫn lên toà nhà chính. Cô suýt nghẹn thở vì đau lòng khi nhìn thấy các bậc thang bằng đá nham nhở thảm hại, cỏ mọc um tùm giữa các khe đá.

Lucy giật dây chuông, tiếng chuông cũ kỹ rè rè kêu lên trong nhà. Vài phút sau, một phụ nữ trung niên ăn mặc nhem nhuốc chậm chạp ra mở cửa. Chùi hai bàn tay vào tạp dề màu nước dưa, bà ta chăm chú nhìn người lạ.

- Có phải chị là người nhà này đang đợi và có cái tên rất khó đọc đấy không?, bà ta cau có hỏi.

- Vâng, chính tôi, Lucy bình thản đáp.

Bà giúp việc nhún vai rồi ra hiệu bảo Lucy đi theo vào nhà. Không gian trong nhà lạnh lẽo. Đi hết gian tiền sảnh, bà ta mở một cánh cửa, tạo ra một tiếng động khô khốc. Lucy ngạc nhiên bước vào một phòng khách khá lịch sự. Cô chú ý đến chiếc tủ chật cứng những cuốn sách gáy mạ vàng.

- Chị đợi đây để tôi vào báo cô chủ, bà giúp việc nói, vẫn giọng cấm cảu.

Bà ta đi ra, đóng sập cửa lại. Lát sau, cửa lại mở và thoạt nhìn, Lucy hiểu ngay rằng tiểu thư Emma Crackenthorpe là người sẽ làm cô mến.

Con gái vị chủ nhân toà nhà Rutheford Hall là một phụ nữ không trẻ lắm, không đẹp nhưng cũng không xấu, tóc đen thả xuống ngang lưng, cặp mắt đen láy nhìn thẳng thắn. Tấm váy vải tuýt và áo len dệt chui đầu hợp màu nhau chứng tỏ tiểu thư là người có khiếu thẩm mỹ. Giọng nói của tiểu thư cũng khá dịu dàng.

- Chị Eyelessbarrow? Tiểu thư Emma Crackenthorpe chìa tay.

Tuy nhiên tiểu thư có dáng vẻ lo âu.

- Tôi đang lo, chưa biết liệu công việc tôi sẽ giao cho chị có làm chị vừa ý xong không? Nói thật, tôi không cần một quản gia chỉ tay năm ngón, mà tôi cần một người làm việc thật sự.

Lucy đáp ngay rằng đó là bình thường, người chủ nào chẳng lo như thế. Nhưng ngay bản thân cô cũng có những nỗi lo.

Tiểu thư Crackenthorpe nói tiếp:

- Nhiều người cho rằng chỉ cần phủi bụi qua loa là đủ, nhưng tôi lại không tán thành như thế và tôi tự làm cái công việc đơn giản ấy.

- Tôi rất hiểu. Cô chủ muốn tôi nấu bếp và giặt giũ phải không? Những việc đó tôi hoàn toàn có thể làm được.

- Tòa nhà của chúng tôi rất rộng, tôi e cách bố trí các phòng rất không thuận tiện cho việc chăm sóc. Tuy nhiên cha tôi và tôi chỉ sử dụng một phần của toà nhà. Cần nói thêm để cho chị biết, cha tôi gần như một người tàn phế. Tôi có nhiều anh em trai nhưng ít khi thấy mặt họ. Chết, tôi suýt quên. Nhà còn có 2 chị giúp việc. Bà Kidder đến làm các buổi sáng. Chị Hart chuyên lau chùi đồ đồng và làm thêm một số việc vặt, nên chỉ đến đây mỗi tuần 3 buổi chiều. Vậy ra chị có ôtô riêng?

- Vâng, nhưng có thể để nó ngoài trời, nếu nhà không có gian để xe. Tôi quen để nó ngoài trời rồi.

- Không sao, nhà tôi có rất nhiều chuồng ngựa bỏ không, cho nên có tha hồ chỗ để ôtô.

Tiểu thư Crackenthorpe suy nghĩ một lát rồi mới đưa ra một câu hỏi nữa:

- Tên chị rất nhiều người biết. Gia đình Kenedy quen tôi có kể tôi nghe về một chị giúp việc tên là Lucy Eyelessbarrow. Có phải chính là chị đấy không?

- Chính tôi. Tôi có giúp việc phu nhân Kenedy thời gian bà ấy sinh con.

Một nụ cười làm rạng rỡ khuôn mặt tiểu thư Emma Crackenthorpe.

Bà ấy ca ngợi chị lắm. Nhưng tôi e lương của chị ở đây không được cao. Tôi đã báo văn phòng môi giới việc làm biết lương chị sẽ là bao nhiêu rồi…

- Tôi biết. Ngần ấy là rất đủ đối với tôi! Thưa tiểu thư, tôi muốn kiếm việc làm ở thành phố Brackhampton này chủ yếu vì tôi có bà dì tuổi cao lại ốm yếu đang ở đây. Lương chỉ là chuyện thứ yếu. Vả lại, tôi không muốn ngồi rỗi. Nhân đây, xin hỏi tiểu thư, liệu tôi có thể đôi lúc rảnh rỗi được không?

- Tất nhiên là được! Chị được tự do các buổi chiều, từ 12 đến 18 giờ, như thế có thuận tiện cho chị không?

- Thế là quá thuận tiện.

Tiểu thư Crackenthorpe lại có vẻ ngập ngừng, rồi sau khi ho thông cổ họng, cô nói tiếp:

- Lúc nãy tôi có kể là cha tôi không được khỏe, nhưng tôi thấy phải nói thêm rằng cha tôi còn khó tính hơn nhiều, nhiều lúc nói những câu…

- Cô chủ yên tâm, tôi đã quen phục vụ những người già nên rất hiểu tính cách các cụ.

Tiểu thư Crackenthorpe có vẻ yên lòng. Về phần mình, Lucy linh cảm thấy hai cha con nhà này có vẻ xung khắc. Hẳn ông già tính nết lỗ mãng, cục cằn, cô thầm nghĩ.

Tiểu thư Emma dẫn Lucy lên phòng dành cho cô, rộng nhưng lạnh lẽo. Có một lò sưởi điện, không biết có chạy được không. Lucy chưa kịp mở thử thì tiểu thư Emma đã vội vã đưa cô đi xem toàn bộ toà nhà, rất rộng, nhưng trông hoang tàn thế nào ấy.

Lúc hai người đi đến một cánh cửa, tiếng quát từ bên trong vọng ra:

- Emma đấy phải không? Cô "quý nữ" đã đến! Ai dẫn nó đến đây cho ta nhìn, xem mặt mũi nó khả ố đến mức nào!

Tiểu thư Emma ngượng ngùng nhìn Lucy, nhưng cô người làm này đã đáp lại bằng một cái nhìn thông cảm.Hai người bước vào phòng. Đó là một gian phòng rộng lớn, tường bọc thảm nhung. Các cửa sổ hẹp, chỉ để lọt vào một làn sáng yếu ớt nhưng cũng đủ để Lucy thấy ngổn ngang bàn tủ bằng gỗ gụ, đóng theo kiểu thời Nữ hoàng Victoria.

Cụ Crackenthorpe ngồi trên ghế dài, cây gậy có tay cầm bịt bạc đặt ở tầm tay.

Vóc dáng cao, chủ nhân toà nhà Rutherford Hall trông cụ như người rừng. Bộ râu quai nón rậm rì khiến ông cụ có dáng của một con chó xù. Mái tóc dầy, đen, chen một số sợi bạc. Cặp mắt rất nhỏ và nhấp nháy liên tục lộ ra một vẻ đa nghi.

- Cô cho tôi nhìn cô một cái, đột nhiên ông già hướng về phía Lucy.

Lucy tươi cười tiến về phía ông cụ.

Nhưng cụ Crackenthorpe có vẻ không chú ý đến thái độ niềm nở ấy:

- Tôi phải nói để cô biết ngay một điều. Cô thấy toà nhà lớn, nhưng đừng tưởng chủ nhân nó lắm tiền. Nhà tôi không giàu, chỉ đủ ăn. Chúng tôi sống rất đạm bạc. Nói cho cùng thì cá mè ngon không kém cá thu. Cô nhớ cho kỹ là tôi không bao giờ chịu nổi thói hoang phí. Nếu tôi ở toà nhà này thì chỉ vì cha tôi đã xây nó và tôi thích sống ở đây. Sau khi tôi chết, người ta sẽ bán nó đi, tôi biết chắc chắn như thế. Thời nay có đứa nào tha thiết đến gia tộc đâu! Người ta quên mất rằng khu trang viên mênh mông này đã giúp chúng tôi tránh xa được thế giới bên ngoài. Tất nhiên, nếu đem bán toàn bộ dinh cư này để xây những ngôi nhà mới thì được ối tiền, nhưng tôi còn sống ngày nào tôi không cho đứa nào làm thế. Chúng phải đợi đến lúc chở xác tôi ra khỏi cái nhà này đã.

Cặp mắt ông già chăm chú nhìn Lucy, trong khi cô lo lắng nghe ông cụ nói.

Lucy chỉ đáp đơn giản:

- Tóm lại, toà nhà này là lâu đài của ông cụ.

- Cô mỉa mai tôi đấy hẳn?

- Hoàn toàn không! Tôi chỉ nghĩ rằng giữa thành phố mà có một dinh cơ rộng rãi, thoáng đãng như thế này để ở thì thật là quý.

- Cô nói đúng! Chỉ khi gió thổi theo một hướng nào đó, ở đây mới nghe thấy tiếng xe cộ ngoài phố xá vẳng đến, còn phần lớn thời gian, nơi đây yên tĩnh như thôn quê.

Rồi ông cụ chuyển ngay sang nói với con gái:

- Chị gọi điện đến cho gã bác sĩ ngu xuẩn kia để biết, thứ thuốc cho ta vừa rồi chẳng ăn thua gì hết!

Lúc đó hai người phụ nữ trẻ bước ra, ông cụ quát theo:

- Bảo cái mụ thích hút bụi ấy đừng có mà vào phòng này! Mụ chỉ làm rối tung sách vở của ta thôi!

- Ra đến hành lang, Lucy hỏi:

- Cụ đau ốm đã lâu chưa tiểu thư?

Emma hững hờ đáp:

- Lâu lắm rồi… còn đây là bếp.

Một gian phòng thênh thang nhưng trống rỗng. Bếp lò rất to, nhưng lạnh tanh và đầy rác rưởi. Lucy ngó vào chạn, rồi hỏi giờ giấc các bữa ăn.

Sau đó, tôi không bình phẩm gì hết, cô chỉ nói:

- Bây giờ thì tôi đã biết cả rồi! Tiểu thư cứ để mặc tôi làm và tôi đề nghị tiểu thư không phải lo lắng gì hết.

Lúc quay về phòng chập tối, Emma thở vào nhẹ nhõm.

Cô tự nhủ: "Bà Kenedy nhận xét đúng. Chị người là mới đến này quả là tuyệt vời".

Sáng hôm sau, Lucy dậy từ 6h, dọn dẹp một lúc cho tương đối ngăn nắp, sạch sẽ xong, cô chuẩn bị bữa điểm tâm. Sau đó, bà người làm Kidder giúp cô sắp xếp chăn đệm các giường ngủ. Xong xuôi, hai người ngồi vào bếp, ăn một bữa điểm tâm đạm bạc.

Nhận thấy "cô mới đến không kênh kiệu" và nhấm nháp tách trà được Lucy pha rất khéo, bà người làm thấy hào hứng muốn kể đủ thứ chuyện. Tuy vẻ ngoài thấp bé và khô khan, nhưng tính tình bà ta lại khá sởi lởi.

- Cô biết không, cụ chủ Crackenthorpe là loại người hết sức bủn xỉn, luôn miệng đe doạ con gái là chớ tiêu hoang. Nói riêng với cô, cô chủ khi cần dám chống lại ông bố đấy. Nhất là khi mấy "ông quý tử" kia đến, cô chủ muốn bữa ăn phải tươm tất.

- Mấy ông quý tử nào vậy?

- Cụ chủ có nhiều con chứ đâu phải có mỗi mình cô con gái. Anh cả là ông Edmund thì đã chết trong chiến tranh. Anh thứ hai là Cedric chưa vợ hiện đang sống ở nước ngoài, hình như làm nghề vẽ tranh thì phải. Ông thứ ba tên là Harold, mở văn phòng kinh doanh ở London, ông này ra thủ đô sinh sống và lấy con gái ông bá tước. Con út là cậu Alfred thì quá hư đốn, đã hai lần ra tòa suýt bị đi tù. Còn ông con rể Bryan East nữa, chồng bà Edith, chị cô chủ Emma. Bà ấy chết đã mấy năm, nhưng ông con rể vẫn sinh hoạt trong gia đình này. Cuối cùng là cậu Alexander, con trai ông Bryan và bà Edith.Cậu ấy học trường nội trú, chỉ nghỉ hè mới về đây một thời gian ngắn. Cô chủ Emma quý cậu ta như vàng.

Trong lúc lắng nghe và ghi nhớ các chi tiết ấy, Lucy vẫn luôn tay tiếp thức ăn và rót trà nóng cho người làm.

- Bữa sáng nay ngon miệng quá, bà ta nói có phần ngạc nhiên sao cô người làm mới này săn sóc bà chu đáo thế.

- Cô muốn tôi gọt khoai tây không, cô Lucy.

- Tôi gọt xong rồi!

- Chà, cô chịu khó quá đấy. Vậy thì tội gì tôi không về nhỉ?

Thế là bà ta chào Lucy rồi đi. Lucy chỉ tươi cười đáp, tay vẫn tiếp tục thu dọn bát đĩa.

Buổi trưa, Lucy thu dọn xong bữa ăn, rửa sạch bát đĩa thì đã hai giờ. Đây là giờ cô được tự do, theo như quy định của tiểu thư Emma. Việc đầu tiên cô xem xét khu vườn xung quanh toà nhà, là thứ không lo bị ai chú ý. Các luống rau cằn cỗi do không được chăm sóc. Lối đi thì cỏ dại mọc kín. Chỉ mỗi một luống ngay cạnh tương đối xanh tốt, chắc tiểu thư Emma lúc rảnh rỗi đích thân chăm nom.

Trong lúc đi lang thang quan sát, Lucy gặp bác làm vườn, một ông già nghễnh ngãng, làm ra vẻ bận rộn, thật ra chẳng làm gì, chỉ quanh quẩn bên ngôi nhà nhỏ của ông ta ở góc vườn, gần chỗ chuồng ngựa. Từ chỗ này có một con đường đi ngang qua bãi đất trống ngay trong trang viên ra tới chân con đê cao đặt đường ray xe lửa. Lucy đi theo hướng đó.

Cô đã mấy lần thấy những đoàn tàu giảm tốc độ trước khi chạy vào đoạn đường vòng cung mà bà Marple yêu cầu cô chú ý. Một phần lớn đoạn đường vòng cung này chạy men theo rìa trang viên của gia đình Crackenthorpe. Lucy chui qua một cổng xây vòm, ra đến con đường đất. Một bên con đường là bờ dốc của đường sắt, một bên là bức tường bao của một xí nghiệp. Lucy đi tiếp trên con đường đất ấy ra đến một phố nhỏ có những ngôi nhà một tầng đơn giản. Cô đã nghe thấy tiếng xe cộ chạy ầm ầm của một con đường lớn gần đó, nhìn thấy một đứa trẻ đứng trước cửa một ngôi nhà. Lucy không ngần ngại hỏi luôn:

- Em có biết trạm điện thoại nào gần đây không?

- Cô đến góc phố kia, có nhà bưu điện đấy.

Thật ra, đó không phải là bưu điện, chỉ là một máy điện thoại công cộng đặt trong một ngôi nhà tư nhân. Quay số điện của bà Marple xong, cô giật nảy người khi nghe thấy tiếng gắt ở đầu giây bên kia:

- Cụ Marple đang nghỉ! Bà cụ tuổi cao, có quyền không bị ai quấy rầy. Cô cho tôi biết tên, tôi sẽ nói lại với cụ.

Hẳn là bà Florence "trung thành" canh gác cho bà Marple.

- Tôi là Lucy Eyelessbarrow, bà không cần đánh thức cụ Marple làm gì, chỉ vui lòng nói lại với cụ là tôi đã đến nơi. Mọi thứ ổn thoả, đúng như cụ dự tính, khi nào cần tôi sẽ liên hệ với cụ sau.

Rồi Lucy bình thản quay trở lại toà nhà Rutherford Hall.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 23:29:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5


Tôi muốn tập chơi đánh "gôn" ngoài bãi cỏ kia được không ạ, Lucy hỏi.

- Tiểu thư Emma đáp:

- Tất nhiên là được. Thì ra chị cũng thích môn thể thao đó.

- Vâng, tôi đánh còn kém, nhưng tôi muốn tập cho khá lên. Môn giải trí này thú vị hơn kiểu đi dạo không mục đích.

Nằm trên chiếc ghế dài, ông già Crackenthorpe đột nhiên co giật mạnh, cụ làu bàu:

- Bên ngoài cái dinh cơ này, còn chỗ nào để dạo chơi nữa? Đâu đâu cũng chỉ thấy toàn vỉa hẻ, phố xá, nhà cửa chen chúc thảm hại. Vậy mà, tôi không nói sai đâu, chúng nó muốn bán cái dinh cơ này đi để lấy tiền xây những ngôi nhà ở chỗ khác, nhưng tôi không cho. Trừ phi tôi chết, chúng muốn làm gì thì làm, nhưng tôi còn sống thì đừng đứa nào mơ tưởng đến chuyện đó.

Tiểu thư Emma nhẹ nhàng nói:

- Nhưng thưa cha…

- Tao thừa biết, chúng nghĩ ra sao rồi, ông già ngắt lời con gái, toàn một bọn ăn cướp, thằng Cedric vô tích sự, thằng Horold lưu manh nhưng khoác áo thầy tu. Rồi thằng Alferd nữa. Tao lấy làm lạ, sao nó chưa tống cổ bố nó sang thế giới bên kia đấy. Nói cho đúng ra, nó muốn quá đi ấy chứ. Hôm Noel, chị có nhớ không, nó đã mưu mô với bác sĩ Quimper. Thậm chí nó còn hỏi thầm tao mấy câu ấy chứ.

- Con tưởng tất cả nhà mình đều bị rối loạn tiêu hoá đấy chứ, thưa cha?

- Chị định nói là ta ăn quá nhiều chứ gì? Nhưng do đâu cơ chứ? Tại trên bàn ăn lúc nào cũng đầy ắp thức ăn. Quá nhiều đấy, mà này, chị Lucy, sáng nay chị cho mỗi người những 5 củ khoai tây mà củ nào thì cũng to tướng. Hai củ là quá đủ rồi, kết quả là còn ba củ thừa. Phí phạm quá đấy!

- Không đâu, thưa cụ Crackenthorpe. Tôi chừa lại để làm món tráng trứng khoai tây theo kiểu Tây Ban Nha.

- Gớm nhỉ! - Ông làu bàu.

Lúc ra khỏi phòng, Lucy nghe rất rõ đoạn sau của câu nói:

- Con bé láu lỉnh khiếp. Hễ tao nói gì là nó chống chế được ngay. Nhưng phải công nhận nó biết nấu nướng và nhan sắc cũng khá.

Lucy thấy vui vui lúc quay về phòng để lựa một trong số những cây gậy đánh gôn cô mang theo đến Rutherford Hall. Cô ung dung ra khỏi toà nhà, đi nhanh ra chỗ đất trống, chọn một chỗ thuận tiện để tập. Vài phút sau, cô đánh hụt khiến quả bóng vọt ra xa, rơi trên sườn dốc của đường tàu. Lucy đã cố ý tạo ra như thế. Cô nhanh nhẹ leo lên bờ dốc để lấy. Liếc nhanh về phía toà nhà Rutherford Hall, không thấy ai nhìn, cô vạch những bụi cỏ dại phía dốc bên kia đường ray

Tuy nhiên, Lucy vẫn tiếp tục kiểm tra thêm khoảng cỏ bên dưới bụi cây gai. Sự kiên nhẫn của cô đã được đền đáp, cô thấy một hộp phấn nhưng loại rẻ tiền. Cô bọc lại cẩn thận vào khăn tay rồi tiếp tục tìm, nhưng không thấy được gì thêm.

Chiều hôm sau, Lucy lái xe của cô đến thăm "bà dì".

Số nhà 4, đại lộ Madison, trong thành phố Brackhampton là một ngôi nhà không khác gì mấy ngôi nhà trên cùng đại lộ. Các cửa sổ chăng rèm đăng ten duyên dáng và màu trắng của bậc cửa còn bóng hơn cả quả nắm bằng đồng sáng loáng đầu sợi dây chuông. Lập tức cửa mở, một phụ nữ trung niên thái độ không được niềm nở mấy. Bà ta cau mày, nhìn Lucy bằng cặp mắt xét nét một lúc rồi mới để cô vào nhà.

Bà Marple thuê một phòng nhỏ trông ra vườn. Khoảnh vườn nhỏ nhưng các khóm hoa được chăm sóc tỉ mỉ. Căn phòng của bà sạch đến mức đáng gọi là "khiêu khích". Ngồi trong ghế bành trước lò sưởi cháy, bà Marple đang móc ren.

Không rào trước đón sau gì hết, Lucy ngồi xuống chiếc ghế tựa trước mặt bà. Cô nói:

- Vậy là bà nói đúng, thưa bà Marple.

Rồi Lucy đưa ra những thứ cô tìm thấy, đồng thời kể chi tiết nhỏ kèm theo mỗi thứ. Khuôn mặt bà Marple đỏ ửng lên. Bà lẩm bẩm:

- Có lẽ chẳng nên kiêu căng, nhưng một linh cảm riêng tư khi được chứng thực là đúng cũng làm con người thấy dễ chịu trong lòng.

Bà trỏ vào mảnh vải lông thú:

- Bà Gillicuddy bạn tôi đã quả quyết rằng nạn nhân mặc áo măng tô bằng lông thú đã cũ, cho nên màu đã nhạt. Còn hộp phấn này, tôi đoán là trong túi áo nạn nhân rơi ra, lúc cái xác rơi trên cửa sổ toa tàu xuống, trượt theo sườn dốc của đường ray. Cô không lấy về toàn bộ mảnh áo rách ra đấy chứ?

- Không, thưa bà. Tôi để lại đấy một mảnh còn vướng lại trong bụi gai.

- Cô thông minh lắm, Lucy. Bởi thế nào cảnh sát cũng kiểm tra lại.

- Vậy bà định đưa ra những thứ này cho cảnh sát?

- Để nghĩ đã…

Bà suy nghĩ vài phút rồi nói tiếp:

- Chưa nên đi vội! Tôi nghĩ rằng chúng ta phải tìm ra được tử thi đã. Cô tán thành không, Lucy?

- Liệu tôi có đủ sức làm việc đó không? Bởi nếu như các dự đoán của bà đúng hết thì hung thủ đã đẩy tử thi ra khỏi toa tàu, rồi hắn xuống ga Brackhampton. Tiếp đó, có thể ngay trong đêm hôm đó, hắn lấy đi tử thi. Nhưng sau đấy thì thế nào? Hắn có thể giấu nó ở bất cứ chỗ nào…

- Sao lại bất cứ chỗ nào? Hoàn toàn không phải thế - bà Marple dịu dàng nói.

- Vậy bây giờ bà lại cho rằng vụ án mạng này là do hung thủ có tính toán từ trước?

- Quả là hôm trước, tôi chưa nghĩ ra được như thế. Điều đó hiểu được thôi. Lúc đầu, tôi đoán giữa hai người nổ ra cuộc cãi cọ, rồi người đàn ông trong lúc giận dữ đã bóp cổ cô kia. Đến lúc đó, y mới thấy đứng trước mặt là một vấn đề nan giải, làm thế nào chỉ trong vài phút, phải xóa hết mọi vết tích. Nhưng bây giờ, tôi thấy nếu cho rằng nguyên nhân vụ án chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên thì tức là chúng ta nhìn sự việc quá dễ dãi. Nói cụ thể hơn, chúng ta quá đơn giản nếu cho rằng người đàn ông trong cơn nóng giận, không kìm được đã giết người phụ nữ, rồi bối rối chưa biết giấu xác chết đi đâu, anh ta đột nhiên nhìn ra cửa sổ toa tàu, và đúng lúc đó đoàn tàu đang chạy trên một vòng cung, đường ray đã được đắp cao, bên dưới là dốc và chính lúc đó y mới nghĩ ra đợi đến chỗ cong nhất, hất cái xác xuống, để sau này đem đi giấu ở một nơi khác. Quay lại vấn đề, nếu như hung thủ hất bừa xuống thành dốc của đường ray, tất sau đó hắn phải lẩn trốn ngay, không dám ở lại để làm những hành động tiếp theo. Và nếu như thế, tất người ta sẽ nhanh chóng tìm ra cái xác. Nhưng thực tế lại không phải như vậy.

Lucy im lặng, đăm đăm nhìn bà già không chớp mắt.

Bà Marple nói tiếp:

- Ở đây, án mạng đã được hung thủ chuẩn bị hết sức tỉ mỉ, tinh vi, chu đáo, cô thấy không? Còn thứ gì "vô danh" bằng đoàn tàu? Một mình cùng nạn nhân trong một ngăn hành khách, đoàn tàu lại không có phòng ngủ, bất cứ lúc nào cũng có thể có người đi ngang qua, nguy hiểm biết mấy! Nếu không tính toán tỉ mỉ, hung thủ đã không dám gây án. Nhất là nếu ta xét cách hắn hành động sau khi gây án! Cho nên có thể suy ra: hung thủ biết dinh cơ Rutherford Hall từ trước. Đó là điều không thể không có. Tôi đã nghiên cứu kỹ vị trí của dinh cơ Rutherford. Đó là một trang viên rộng mênh mông, bên trong chỉ có mỗi một toà nhà. Dinh cơ này gần giống một hòn đảo, được đoạn vòng cung của đường ray bao bọc gần hết.

- Đúng như thế. Khu dinh cơ đó giống như một thứ sót lại từ xa xưa, so với thế giới hiện đại bao quanh. Nó liên hệ với bên ngoài chỉ thông qua vài chuyến nhân viên cửa hàng mang thực phẩm đến vào mỗi buổi sáng.

- Cô để tôi nói tiếp dòng suy nghĩ của tôi, ngay đêm hôm đó, hung thủ đến Rutherford Hall. Hắn hành động rất chắc chắn, bởi khi đẩy tử thi kia ra ngoài đoàn tàu, trời đã tối đen. Và hắn yên tâm là nội trong đêm hôm ấy chưa thể ai phát hiện ra được.

- Điều đó gần như chắc chắn.

- Vậy là đêm hôm đó, hắn đến biệt thự đó rồi tiến hành chuyển cái xác đi, nhưng bằng cách nào? Có hai khả năng cần tìm hiểu: một là hắn đưa đi bằng ô tô, nhưng đi đường nào? Cô có ý kiến gì về việc này không?

Lucy suy nghĩ một lát rồi nói:

- Chỉ có thể bằng một con đường nhỏ men theo tường nhà máy. Nếu hắn dùng con đường ấy thì hắn phải đỗ ô tô bên cạnh cổng vòm, rồi đi bộ ra chỗ tử thi lăn xuống.

Bà Marple nói:

- Rồi hắn đem cái xác đến một chỗ đã tính trước. Nhưng nếu thế hắn phải chôn nó.
Lucy vẻ dò hỏi, khiến cô gái ngập ngừng một chút rồi mới đáp:

- Đến đoạn ấy thì rất khó đoán hắn làm thế nào.

Bà Marple gật đầu:

- Hắn không thể chôn bên trong khu vực Rutherford Hall, mất rất nhiều công mà lại nguy hiểm. Trừ khi hắn chọn trước được một chỗ đất mềm, loại đất đã được cày xới một lần.

- Nếu vậy thì chỉ là trong vườn. Nhưng ngôi nhà của bác trồng vườn lại ở ngay gần đấy. Tuy bác ta đã già và nghễnh ngãng, nhưng vẫn có thể biết.

- Trong nhà ấy có chó không?

- Không.

- Nếu vậy rất có thể hung thủ giấu tử thi vào một nhà kho hoặc một gian hầm bỏ không.

- Cách đó thì được đấy, bởi Rutherford Hall có rất nhiều gian, kể cả chuồng ngựa, hoàn toàn bỏ không.

Đúng lúc đó có tiếng gõ cửa: bà Florence trung thành bưng nước vào. Bà nói:

- Hôm nay có khách, tôi thấy bà chủ vui hẳn lên, mời bà chủ dùng thứ bánh ga tô bà vẫn thích.

- Bà Florence này thuộc lòng tất cả những thứ gì tôi thích, bà Marple nói.

Đợi người hầu phòng cũ ra ngoài, bà Marple mới nói tiếp:

- Ta giải lao ăn uống chút ít đã. Nghĩ đến chuyện đó mệt quá.

Chiều hôm sau, Lucy tiếp tục cuộc tìm kiếm, lần này ở ngay trong khu vực toà nhà. Lucy chui cả vào kho chứa củi. Lúc chuẩn bị ra, cô nghe tiếng người gọi. Cô quay lại thấy bác trông vườn có vẻ phẫn nộ.

Bác ta gắt:

- Cô phải cẩn thận, bậc lên xuống và sàn nhà kho đã mục nát lắm rồi đấy.

Lucy không giấu nổi vẻ ngạc nhiên:

- Bác nghĩ tôi quá tò mò phải không? Vấn đề là tôi nhận thấy tất cả những thứ cũ kỹ này nên phá hết đi lấy đất trồng trọt thì hơn. Bỏ không thế này chỉ tổ mục nát mà thôi.

- Bây giờ cô mới nói thì đã muộn rồi. Cụ chủ thừa biết là con cái cụ đang mong cụ chết đi cho mau.

- Cụ chủ giàu lắm phải không bác?

- Chứ còn gì nữa! Cơ man nào là tiền! Nhưng tôi nói cô biết, tiền bạc đã tàn phá cái gia đình này. Cụ cố thân sinh ra cụ chủ ngày nay xưa kia là người tính tình quyết đoán. Ai mà cản chân cụ thì chết với cụ. Nhưng cụ cố lại rất rộng rãi với ai hầu hạ cụ. Cụ có hai con trai, nhưng cụ chẳng vừa lòng ông nào. Cụ cho cả hai con theo học đại học Oxford, nhưng cả hai ông con học xong đều khinh bỉ nghề kinh doanh. Người con cả lấy một nữ nghệ sĩ, rồi chết trong một tai nạn xe hơi lúc đang say rượu. Cụ chủ bây giờ là con thứ hai thì chẳng hiểu sao, sau một thời gian bỗng say mê đồ cổ, đi ngao du khắp nơi, tha về hàng xe pho tượng cổ và mọi thứ đồ lẩm cẩm. Thời bấy giờ cụ Crackenthorpe còn trẻ, chưa hề quan tâm đến tiền bạc. Nhưng rồi chẳng bao lâu, tâm tính cụ đổi ngược, khiến cụ cố rất ghét con.

Lucy lắng nghe hết sức chăm chú. Bác già làm vườn tựa lưng lên bức tường vẫn mải mê kể chuyện xưa.

- Cụ cố mất năm 1928.

- Và ngay năm đó, cụ chủ bây giờ được thừa kế toàn bộ dinh cơ Rutherford Hall này chứ gì? Lucy hỏi.

- Đúng thế. Cụ bèn cùng con cái dọn về đây.

Bác già làm vườn kể thêm nhiều chi tiết nữa nhưng Lucy thấy chỉ toàn những thứ cô không cần quan tâm. Cô nói:

- Thôi tôi không muốn làm bác mất thời giờ thêm nữa.

- Vào giờ này tôi có phải làm gì đâu? Mà trời cũng tối rồi.

Lúc quay vào nhà. Lucy thấy tiểu thư Emma đi về phía mình, tay cầm lá thư. Tiểu thư nói:

- Mai, thằng cháu Alexander của tôi về đây nghỉ cùng với một đứa bạn học. Phòng của nó ngay bên trên cổng tò vò, còn phòng bên cạnh, chị dọn dẹp để cho bạn nó nghỉ. Tên thằng bé ấy là James Stoddard West.

- Vâng thưa cô chủ. Tôi sẽ lo tất cả những chuyện đó.

- Hai đứa sẽ đến đây trước bữa ăn trưa. Tôi đoán chúng sẽ đói lắm đấy.

- Tất nhiên rồi. Tôi sẽ làm món thịt bò rán, có lẽ thêm món bánh ngọt nhân kem nữa, tiểu thư nghĩ sao ạ?

- Thế thì còn gì bằng.

Hai cậu thiếu niên đến Rutherford Hall vào buổi sáng. Alexander mắt xanh, tóc vàng còn Stoddard West mắt đen, tóc đen, đeo kính cận.

Trong bữa ăn, chúng trò chuyện sôi nổi với nhau về những trận thi đấu thể thao, rồi chuyển sang chuyện về vũ trụ. Thỉnh thoảng chúng có giọng nói như các giáo sư khi bàn đến những đề tài cao siêu. Nghe hai đứa trẻ nói, Lucy có cảm giác cô còn trẻ hơn chúng.

Tuy trò chuyện huyên thuyên, chúng vẫn ăn rất hăng. Cả chảo thịt bò rán và đĩa bánh nhân kem hết nhẵn, khiến cụ chủ phải kêu lên:

- Hai đứa chúng bay làm tao sạt nghiệp mất thôi!

Elexander cau mặt nói:

- Nếu ông không có khả năng mua thịt thì cháu ăn bánh mì với pho mát cũng xong.

Cụ chủ rất ngượng thấy thằng cháu ăn nói như thế trước mặt người ngoài. Cụ nói:

- Tất nhiên tao có khả năng. Có điều tao không chịu nổi sự phí phạm.

Stoddard cảm thấy phải nói thêm vào:

- Cụ thấy đấy, chúng cháu có phí phạm gì đâu ạ? Nó nói và nhìn vào mấy chiếc đĩa sạch trơn.


Lúc hai đứa thiếu niên ra khỏi phòng ăn, Lucy nghe thấy Alexander bảo bạn nó:

- Mày cứ mặc ông ngoại tao, cụ bị nhiễm tật mặc cảm đấy mà.

“Thế hệ trẻ bây giờ như thế đấy”, cô thầm nghĩ.

Chiều hôm đó, Lucy lại “đi dạo” nơi khác. Biết hai đứa trẻ chơi bóng ở khu đất trống, cô đi sang hướng khác. Cô đang dùng cây gậy chơi “gôn” chọc vào một lùm cây thì tiếng Alexander nói làm cô giật nảy người:

- Cô tìm gì thế, cô Lucy?

- Quả bóng, Lucy ứng đối rất nhanh. Nói đúng ra thì nhiều quả, tôi đã tập không phải một lần và làm bóng rơi vào bụi cây bao nhiêu quả. Hôm nay nhân tiện nhặt một thể.

- Tất nhiên rồi, Alexander nói. Nhưng chắc cô chưa biết trong nhà này có cả một dụng cụ dùng để đánh “gôn” cỡ nhỏ, cất chỗ nào đó dưới gầm cầu thang thì phải? Ba cô cháu mình có thể lấy ra dựng trên bãi cỏ này để chơi. Cậu nghĩ sao, Stoddard?

- Hết ý, cậu học sinh kia ưỡn ngực đáp.

Cách ăn nói của hai đưa trẻ làm Lucy ngạc nhiên. Thấy vậy, Alexander nháy mắt nói:

- Bạn cháu nói theo kiểu khán giả đi xem những trận đấu “gôn” quốc tế đấy thôi.

Quả là đám trẻ bây giờ nói năng nghe rất lạ tai.

Lát sau, khi quay về nhà, Lucy thấy hai đứa trẻ đã tìm ra được bộ dụng cụ.

- Các tấm ghi số bị han gỉ cả rồi, Stoddard nói.

- Không sao, chỉ cần sơn lại là xong, Lucy nói. Mà việc đó thì hai cậu làm thừa sức.

- Tuyệt! Alexander nói. Hình như trong “bảo tàng” vẫn có mấy hộp sơn thì phải.

- Bảo tàng? Lucy ngạc nhiên. Tức là chỗ nào?

- Tận cuối bãi cỏ ấy, bên phía đối diện với lối đi ra đường ray. Con đường đi ra chỗ ấy đất trũng xuống cho nên khuất nẻo, ít ai nhìn thấy. Đó là một ngôi nhà, ông cháu bảo xây theo kiểu kiến trúc từ thời Nữ hoàng Elisabeth, nhưng cháu không tin.

- Vậy mà chưa ai nói đến ngôi nhà ấy với tôi.

- Chắc vì ông cháu cất ở đấy những thứ đồ cổ chẳng khiến ai quan tâm. Đúng thế, toàn những thứ ngày xưa ông cháu tha về trong những chuyến ngao du của cụ trên khắp châu Âu. Cụ bảo toàn thứ quý, nhưng cháu chỉ thấy tất cả đều là đồ vớ vẩn. Cô muốn ra đấy xem không, cô Lucy?

Lucy tán thành ngay. Ba người đi luôn.

“Bảo tàng” ở khá xa toà nhà chính, tại một chỗ khuất, ít ai chú ý. Cánh cửa bằng gỗ sồi rất dày và nặng, đóng những chiếc đanh sắt rất to. Alexander kiễng chân lấy chìa khoá móc trên một cái đanh lấp bên trong bức tường nhô ra. Cậu mở khoá, mời Lucy vào.

Chỉ cần đưa mắt bao quát một lượt, Lucy đã đủ thấy những đồ vật ở đây toàn thứ linh tinh, vô giá trị. Một số bức tượng bán thân vua chúa thời La Mã đặt lộn xộn, không theo một trật tự nào hết. Vài chiếc ghế kiểu cổ trông rất lạ. Lọ, cốc thời xưa, những đồng tiền cổ và rất nhiều thứ vặt vãnh khác. Trong cùng là một chiếc quan tài thời cổ rất to, đặt trên một cái giá gỗ thảm hại, kiểu quan tài thời Hy Lạp - La Mã dùng để đựng xác ướp các vua chúa và nhân vật nổi tiếng. Chiếc quan tài chạm trổ tỉ mỉ, trông càng ảm đạm bên cạnh pho tượng thần Vệ Nữ duyên dáng to bằng người thật. Còn vài chiếc bàn 3 chân kiểu trung đại và một chiếc giường cong như con thuyền của vua chúa ngày xưa.

- Chắc mấy hộp sơn nằm trong góc kia.

Alexander vén tấm rèm mầu xẫm chui vào bên trong. Lucy vào theo. Quả là có rất nhiều hộp sơn phủ bụi đầy bụi bậm, cả một bó chổi lông để quét sơn nữa. Nhưng do lâu ngày không dùng, các chổi bết lại cứng ngắc.

- Ngâm vào cồn dầu thông là mềm lại ngay, - Lucy nói.

2 đứa trẻ lập tức tính chuyện sang bên phố mua dầu thông. Lucy thầm ngĩ, vậy là mấy hôm tới, 2 đứa trẻ này bận bịu về dụng cụ chơi “gôn” sẽ không quan tâm đến mình nữa.

Trong lúc 2 đứa trẻ bàn cách mượn xe đạp để đi, Lucy nói:

- Ai lại để gian nhà này bụi bặm mốc meo thế này. Tôi phải quét sơ qua một cái. Nhưng lát nữa đóng cửa, tôi lại treo chìa khoá vào chỗ cũ chứ?

- Tất nhiên rồi. Cô đừng lo ai lấy những thứ dớ dẩn này. Vả lại toàn những thứ nặng như cùm, ai khuân nổi?

2 đứa trẻ đi xong, Lucy chợt nghĩ: “Mất công dọn dẹp cái kho này làm gì!” Cô đã thấy kinh tởm cái mùi mốc meo, ẩm thấp trong này và muốn ra khỏi đây càng nhanh càng tốt. Đột nhiên mắt Lucy dừng lại chỗ chiếc quan tại thời cổ.

Chiếc quan tài quả là lạ... Theo bản năng, cô bước đến gần ngắm nghía. Nắp quan tài cũng bằng đá, rất nặng. Suy nghĩ một chút, cô chạy vội ra phía cửa, vào một gian nhỏ bên cạnh lấy cây xà beng. Nhìn ra ngoài, thấy không có ai, cô quay vào “bảo tàng”.

Nắp quan tài bằng đá, bẩy lên không dễ dàng gì. Lucy dùng hết sức mình ấn xà beng. Nắp quan tại từ từ nâng lên, đến mức đủ để cô ngó vào.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 23:30:29 | Chỉ xem của tác giả
Chương 6

Lát sau, mặt không còn một hột máu, Lucy lao chạy ra ngoài. Cô đóng cửa, khóa lại, treo chìa vào đúng chỗ cũ, rồi chạy nhanh đến chỗ chuồng ngựa, nơi cô để chiếc ô tô nhỏ.

Lucy ngồi vào sau tay lái, hết sức thận trọng nổ máy, cho xe chạy mỗi lúc một nhanh thêm về phía cổng vòm ra chỗ đường ray. Cô quặt xe theo lối men tường nhà máy. Đến góc phố nhỏ, cô ra khỏi xe, chạy đến chỗ đặt máy điện thoại, quay số điện của bà Marple :

Người nhấc máy là bà Florence. Cô nhờ bà mời “cụ” Marple ra cầm máy để cô nói chuyện. Thấy bà giúp việc cũ phản đối, Lucy ra lệnh:

- Bà làm ngay điều tôi yêu cầu. Mau lên!

Bà Florence thuộc loại phụ nữ khi thấy ai kiên quyết là nhượng bộ ngay.

Lát sau tiếng bà Marple ở đầu dây bên kia.

- Lucy đấy phải không? Thế nào?

Lucy thấy cổ họng nghẹn lại:

- Vậy là bà đoán đúng. Tôi đã tìm thấy...

- Xác một phụ nữ?

- Vâng! Một phụ nữ, trên phủ tấm lông thú. Xác chết được giấu trong quan tài thời cổ, trong một ngôi nhà kiểu như nhà kho, chất đủ thứ đồ cổ. Vậy tôi phải làm gì bây giờ, thưa bà? Báo cảnh sát chứ?

- Đúng thế. Báo ngay!

- Khoan đã, nhưng thế nào cảnh sát họ cũng hỏi tại sao tôi lại muốn mở nắp cái quan tại bằng đá nặng nề ấy, tôi sẽ phải bịa ra một lý do nào chứ? Lý do thì tôi nghĩ ra được ngay thôi, chỉ cần bà cho biết có cần không?

- Không cần, bà Marple vẫn nói bằng giọng dịu dàng quen thuộc. Tốt nhất, cô hãy nói sự thật, toàn bộ sự thật, không giấu giếm một chi tiết nào hết. Cô nghĩ sao, Lucy?

- Nói hết sự thật, cả chuyện về bà?

- Chứ sao nữa? Nói hết.

Lucy mỉm cười và khuôn mặt cô đã bắt đầu hồi trở lại.

- Nói thì dễ, nhưng tôi e họ khó mà tin được điều tôi sẽ nói.

Tuy nhiên, cô chào bà Marple, rồi quay số gọi đến đồn cảnh sát:

- Tôi vừa phát hiện một tử thi trong cỗ quan tại cổ bằng đá, tại một ngôi nhà cũ kỹ trong dinh cơ Rutherford Hall.

- Cái gì? - một giọng hoài nghi thốt lên ở đầu dây bên kia.

Lucy nhắc lại câu nói lúc nãy, rồi để tránh những câu hỏi hoài nghi tiếp theo, cô nói luôn tên và địa chỉ của cô. Sau đó cô đặt máy, bước lên ô tô, cho xe quay trở lại Rutherford Hall.

Về đến gian tiền sảnh, cô đứng lại suy nghĩ. Hẳn cô quyết đoán rất nhanh, bởi liền sau đó, cô đi về phía phòng đọc sách. Cửa phòng hé mở. Bên trong, Emma đang ngồi giúp cụ Crackenthorpe giải ô chữ trên tờ báo Times.

- Tôi muốn thưa chuyện riêng với cô chủ, được không ạ?

Emma hơi giật mình ngoái đầu lại, lo lắng nhìn Lucy. Tuy nhiên, cô vẫn nghĩ là điều Lucy muốn nói liên quan đến công việc nội trợ trong gia đình.

Cụ Crackenthorpe đã bắt đầu quát:

- Nói gì nói thì luôn ở đây đi!

Lucy vẫn hướng về phía con gái cụ, nói tiếp:

- Tôi muốn nói riêng với một mình cô chủ.

- Vớ vẩn! - cụ già lại quát - Định nói gì thì nói luôn ở đây!

- Yên đã, cha! - Tiểu thư Emma nói.

Trong lúc con gái đi ra phía cửa, ông cụ vẫn hét:

- Toàn chuyện vớ vẩn hết. Lúc này quan trọng nhất là bài toán ô chữ! Mọi thứ khác để sau.

Lucy lạnh lùng nói:

- Tôi e rằng những thứ khác đều không thể để sau được.

- Hỗn! - Ông cụ gầm lên.

Nhưng Emma đã ra đến hành lang.

- Chuyện gì thế? - cô hỏi - Nếu như vì cháu tôi và đứa bạn nó bắt chị phải làm thêm nhiều việc thì tôi sẽ giúp chị một tay và...

- Cô chủ lầm rồi. Lý do khiến tôi không muốn nói trước mặt cụ chủ vì nghĩ đến tình trạng bệnh tật của cụ. Tôi sợ cụ chủ bị choáng. Tiểu thư thì có thể hiểu được dễ dàng hơn: tôi phát hiện xác một phụ nữ bị bóp cổ trong cỗ quan tại thời cổ mà chắc chắn tiểu thư đã biết.

Kinh hoàng, Emma đăm đăm nhìn cô người làm, mắt không chớp.

- Một phụ nữ bị bóp cổ... trong cỗ quan tại đồ cổ? Vô lý! Không thể có chuyện ấy được!

- Đáng buồn là chuyện đó lại có thật. Tôi vừa gọi điện báo cảnh sát, họ sắp đến đây.

2 má Emma bừng đỏ tía.

- Lẽ ra chị phải xin ý kiến tôi đã chứ!

Cô đưa mắt nhìn máy điện thoại đặt ngoài hành lang.

- Sao tôi không nghe thấy gì?

- Tôi dùng máy ngoài đường.

- Sao lại phải thế? Sao chị không gọi bằng máy này?

- Tôi không muốn 2 cậu Alexander và Stoddard nghe thấy.

- Tôi hiểu. Nghĩa là họ sắp đến đây... Ý tôi nói là cảnh sát ấy?

- Họ đến rồi - Lucy nói vì cô vừa nghe thấy bánh xe ô tô lăn trên sỏi lạo xạo.

Chuông cũ kỹ đã kêu rè rè ngoài cửa.

- Tôi rất tiếc phải yêu cầu tiểu thư dự cuộc thẩm vấn - thanh tra Bacon vừa đỡ Emma bước ra khỏi “bảo tàng”, vừa nói.

Tuy toàn thân mềm oặt chỉ chực ngã xuống, nhưng Emma vẫn cố giữ dáng vẻ đĩnh đạc.

Giọng cô khản đặc:

- Tôi cam đoan chưa bao giờ nhìn thấy người phụ nữ đó.

- Hãy tạm thế đã - viên thanh tra cảnh sát nói.

- Lúc này tiểu thư cần đi nghỉ.

- Tôi phải vào xem cha tôi thế nào đã. Lúc nãy tôi gọi điện cho bác sĩ Quimper. Bác sĩ đã đến, hiện đang ở bên cạnh cha tôi.

Viên bác sĩ trong phòng bước ra đúng lúc thanh tra Bacon và Emma đi ngang qua ngoài hành lang. Cao lớn, vẻ mặt dễ mến, bác sĩ Quimper giữ thái độ bình thản khiến mọi người yên tâm.

Viên thanh tra nói:

- Tiểu thư Crackenthorpe vừa phải làm một việc hết sức đau lòng và tỏ ra quả cảm.

- Điều đó tôi không lấy làm lạ.

- Viên bác sĩ âu yếm sờ vào má Emma.

Quay về phía cô, ông ta nói:

- Tôi biết tiểu thư rất quả cảm. Cụ đã tỉnh táo lại hoàn toàn. Tiểu thư vào trò chuyện với cụ đôi chút rồi xuống phòng ăn, nhấp một ly rượu brandy. Đấy là thứ thuốc tốt nhất đối với tiểu thư lúc này.

Emma gật đầu rồi bước vào phòng chà.

Bác sĩ Quimper nói với thanh tra Bacon:

- Một phụ nữ tuyệt vời. Rất tiếc cô ấy không lấy chồng, chứ nếu lấy chồng, cô ấy sẽ là một người vợ tận tuỵ, một người mẹ tận tình. Chắc cô ấy chưa lấy vì là người phụ nữ duy nhất trong cái gia đình đông đúc này. Bà chị cô ấy lấy chồng từ năm mười bảy tuổi và đã mất.

- Có vẻ tiểu thư Emma gắn bó với cụ thân sinh đến mù quáng?

- Vâng, đúng thế. Không đến nỗi “mù quáng” như cách người ta thường hiểu, nhưng Emma có một phẩm chất ít người có, đó là luôn đem hạnh phúc đến cho những người đàn ông sống gần cô ấy. Chính vì vậy mà cô ấy không hề thấy khó chịu, khi cụ Crackenthorpe làm ra vẻ cụ là người tàn phế. Emma làm cho ông cụ tưởng cô tin điều cụ muốn làm ra vẻ. Đối với các anh em trai, cô ấy cũng có thái độ đáng quý như vậy. Cả với ông Cedric, người tưởng rằng mình là một hoạ sĩ đại tài, lẫn với ông Harold, người đinh ninh rằng những lời tư vấn của ông ta là vàng ngọc. Emma biết cách vừa giữ thái độ đúng đắn, vừa không phá đi những ảo tưởng của 2 ông anh. Cô ấy biết cả cách giấu đi những nỗi lo lắng của cô ấy khi nghe ông Alfred bộc lộ với chị các ý nghĩ mà ông ấy tự cho là khôn ngoan. Thưa ông thanh tra, tôi cam đoan cô Emma hoàn toàn không có một chút “mù quáng” nào. Nhưng ông có cần tôi làm gì thêm không? Bác sĩ pháp y Johnstone đã khám nghiệm thi thể nạn nhân rồi, vậy ông có muốn tôi ngó qua thêm nữa không?

- Nếu được thế thì tốt quá. Chúng tôi đang muốn biết lai lịch nạn nhân. Biết đâu ông bác sĩ có thể giúp chúng tôi phát hiện được điều gì. Chúng tôi không thể nhờ cụ Crackenthorpe, vì tôi e cụ “sụp” mất.

- Sụp? Đâu có chuyện! Thậm chí ông cụ sẽ không tha thứ cho ông đâu, nếu ông không để cụ ngó qua tử thi. Bởi đấy sẽ là cảnh tượng gây ấn tượng mạnh nhất cho cụ trong suốt 15 năm qua, thậm chí nhiều hơn nữa ấy chứ. Được hưởng một ấn tượng mạnh mà không phải chi ra một xu!

- Tôi tưởng cụ đang ốm nặng?

- Bệnh già, chỉ là thế thôi. Cụ năm nay 62 tuổi rồi. Tất nhiên cụ có chứng đau khớp, nhưng ai vào tuổi ấy mà không mắc các chứng xương khớp? Để cụ vui lòng, tôi quy cho việc đau khớp ấy là bệnh viêm đa khớp. Còn sau bữa ăn, tim cụ đập mạnh, thì tôi quy cho là bệnh suy tim, cốt để cụ vừa lòng. Nhưng ta không bàn đến chuyện nữa. Tóm lại, cụ Crackenthorpe chỉ là một thứ bệnh tưởng, hơi một chút là gọi tôi đến ngay! Ông biết không, chính những người ốm nặng thật sự lại luôn tỏ ra họ khoẻ mạnh. Nhưng thôi, ta sang xem cái tử thi kỳ quái ấy nào.

Viên bác sĩ xem xét rất lâu.

- Tôi không giúp gì được các ông rồi - cuối cùng bác sĩ Quimper nói. - Tôi hoàn toàn không biết người phụ nữ này. Chuyện quá lạ đấy.

Viên thanh tra cảnh sát gật đầu:

- Ta ra thôi - sau một lát ông ta nói.

- Trong này ngột ngạt quá.

Ra đến cửa, bác sĩ Quimper ngoái lại liếc nhìn “bảo tàng”, rồi gọi viên thanh tra cảnh sát:

- Quang cảnh gian nhà này ảm đạm quá. Mà ai là người đã phát hiện ra cái xác chết ấy?

- Cô Lucy Eyelesbarrow.

- Phải rồi, đó là chị gia nhân mới đến làm. Nhưng chị ta vào chỗ này làm gì? Mà sao chị ta lại nảy ý định mở nắp cỗ quan tại thời cổ này?

- Tôi cũng đang định hỏi cô Lucy Eyelesbarrow điều ấy. Nhưng ta cho mời cụ Crackenthorpe đã.

- Ông thanh tra cứ tin ở tôi.

Đầu quấn khăn kín, cụ Crackenthorpe đi đến.

- Phi lý! Quả là phi lý! Các ông biết không, tôi mua cỗ quan tại cổ này ở Italia, tại thành phố Florence, từ năm 1909, mà có thể là năm 1910...

- Xin cụ bình tĩnh cho - viên bác sĩ nói. - Cảnh tượng cụ sắp nhìn thấy tôi e sẽ làm cụ kinh tởm.

- Không sao! Tôi phải làm tròn phận sự chứ.

Cụ vào rồi ra ngay, dáng đi vội vã làm thanh tra Bacon thầm bật cười.

- Tôi không biết người phụ nữ đó là ai - cụ già làu bàu.

- Mà thế nghĩa là sao nhỉ? Tôi nhớ ra rồi, không phải Florence mà Naples. Một thứ đồ cổ rất hiếm đấy. Chẳng lẽ lại là một phụ nữ ngu xuẩn nào đó đến đây rồi chui vào đó tự tử?

Đột nhiên ông cụ nắm chặt vạt áo măng tô:

- Ôi, quá sức chịu đựng của tôi!... Tim tôi... Emma đâu rồi?

Viên bác sĩ đỡ cánh tay cụ.

- Cụ đừng lo! Về nhà cụ nhấp một chút rượu mạnh là hết ngay thôi, một ly cognac chẳng hạn.

3 người đi về phía toà nhà lớn.

- Ông cảnh sát... ông cảnh sát...

Thanh tra Bacon ngoái đầu nhìn, thấy Alexander và bạn cậu ta đang chăm chú nhìn ông, cặp mắt lộ vẻ thèm thuồng.

- Ông cho hai chúng cháu vào xem xác người chết nhé? - Alexander hỏi.

- Không được! - nhân viên thanh tra trả lời dứt khoát.

Nhưng cậu thiếu niên năn nỉ:

- Biết đâu chúng cháu nhận ra được đấy là ai. Vậy thì sao ông không cho chúng cháu nhìn một cái?

- Các cậu là ai? - Thanh tra Bacon hỏi.

- Cháu tên là Alexander Eastley, còn bạn cháu là James Stoddard West.

- 2 cậu có tình cờ nhìn thấy một phụ nữ nào lởn vởn trong khu vực này thời gian vừa qua không? Một phụ nữ tóc vòng, mặc áo măng tô lông thú ấy?

Alexander láu lỉnh đáp:

- Cháu chỉ nhớ lờ mờ. Cháu phải nhìn thấy mới có thể nhớ ra được.

- Thôi được - Viên thanh tra quay sang người trợ lý. - Dẫn 2 cậu này vào, Sander. Còn bây giờ, tôi muốn gặp riêng cô, thưa tiểu thư Eyelessbarrow.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 23:31:19 | Chỉ xem của tác giả
[Chương 7

Lucy đang chuẩn bị bữa ăn trưa thì có người báo rằng thanh tra Bacon muốn gặp. Không hề ngạc nhiên, cô điềm tĩnh đi theo nhân viên cảnh sát vào gian phòng nhỏ, nơi viên thanh tra đang chờ cô. Lịch sự nhưng lạnh lùng, viên thanh tra ra hiệu mời Lucy ngồi. Cô bình thản chờ những câu hỏi.

Đầu tiên là những câu hỏi mang tính thủ tục: Tên họ, tuổi, địa chỉ ở London. Trả lời xong những câu hỏi ấy, Lucy thấy cần nói thêm:

- Đây là giấy chứng nhận của những nơi tôi đã làm.

Xem xong tất cả những giấy chứng nhận ấy, thanh tra Bacon thầm nghĩ: “Toàn là chứng nhận của những nhân vật đáng kính: một đô đốc hải quân, một hiệu trưởng đại học, một nam tước và đủ loại người danh giá khác”.

Thanh tra Bacon nói :

- Bây giờ ta vào việc. Tôi được biết cô vào “bảo tàng” là để tìm sơn. Tìm được xong, cô đi lấy xà beng đem vào bạy nắp cỗ quan tài cổ lên. Để làm gì?

- Tôi muốn tìm một tử thi.

Viên thanh tra nghiêm nghị nhìn cô:

- Cô muốn tìm một tử thi? Và cô đã tìm thấy? Nói thật ở đây với nhau, điều cô nói hơi lạ đấy... Cô có thấy như vậy không, cô Eyelessbarrow?

- Tôi công nhận, nhưng chắc ông muốn biết thêm chi tiết chứ?

- Tất nhiên! Điều đó có lợi cho... cô.

Làm như không thấy ý đe doạ của viên thanh tra, Lucy kể tỉ mỉ những chuyện xảy ra trước khi cô tìm thấy cái xác chết này.

Không những thanh tra Bacon không tin, ông ta còn nói giọng đe nẹt:

- Nghĩa là cô làm việc này cho một bà già? Và cô xin vào làm ở đây chỉ cốt để sục sạo xung quanh, cố tìm cái xác chết ?

- Đúng thế!

- Bà già ấy là ai?

- Bà Jane Marple. Hiện ở số nhà 4 đại lộ Madison, cũng trong thành phố Brackhampton này.

Viên thanh tra ghi địa chỉ trên sổ tay, rồi mới tiếp tục cuộc thẩm vấn:

- Cô tưởng tôi tin lời cô chắc?

Lucy không hề bối rối:

- Tôi không nghĩ như thế, ít nhất cũng trước khi ông gặp và hỏi bà Marple.

- Cô hãy tin là tôi sẽ đến gặp bà cụ ngay tối nay. Tôi đoán bà cụ là một bà già mất trí.

Tất nhiên Lucy không tin như thế và cô rất muốn phản bác điều phỏng đoán kia của viên thanh tra, nhưng cô không nói gì.

- Ông sẽ nói những gì với tiểu thư Crackenthorpe? Tôi muốn nói về những gì liên quan đến tôi ấy? - Lucy hỏi.

- Sao cô hỏi như vậy?

- Về phía bà Marple thì tôi đã hoàn thành nhiệm vụ bà giao cho tôi, bởi tôi đã tìm ra được xác chết kia. Nhưng tôi vẫn chưa hết hợp đồng làm việc cho tiểu thư Crackenthorpe và tôi đoán rằng sau sự việc này, toàn thể gia đình sẽ kéo về đây, tiểu thư rất cần tôi giúp đỡ. Nếu ông lộ ra cho tiểu thư biết mục đích tôi đến xin làm ở đây, tôi e tiểu thư sẽ sa thải tôi. Nhưng nếu tôi vẫn được làm ở đây, tình hình sẽ thuận tiện hơn cho các ông.

Câu cuối cùng của Lucy làm viên thanh tra chăm chú nhìn cô một lúc lâu rồi mới đáp:

- Hiện giờ tôi chưa nói với ai điều gì hết. Để còn chờ nhân chứng của cô đã.

Ngồi sau bàn giấy, giám đốc cảnh sát tỉnh mân mê con dao dọc giấy, trầm ngâm suy nghĩ.

- Nghe ông báo cáo, tôi thấy nên chuyển vụ án này lên cho Cục Điều tra của Bộ ở London - cuối cùng ông ta nói với thanh tra Bacon.

Vóc người to lớn của viên thanh tra tương phản với vóc người bé nhỏ của viên giám đốc.

Viên thanh tra nói:

- Tôi cũng nghĩ như vậy, thưa giám đốc. Nạn nhân không phải người cư trú trong tỉnh ta. Hơn nữa, căn cứ vào quần áo thì chắc chắn đó là người nước ngoài. Tất nhiên tôi chưa dám khẳng định gì lúc này, trong khi ông cảnh sát trưởng địa phương chưa tiến hành điều tra.

- Ta có thể đoán trước là cuộc điều tra ấy sẽ không đạt kết quả, và như vậy vụ án sẽ phải kéo dài.

- Tôi cũng tin là như vậy. Nhân đây xin báo cáo luôn, tôi đã gặp bên toà án.

- Bao giờ họ tiến hành thẩm vấn?

- Bắt đầu từ mai. Dự thẩm sẽ triệu tập toàn thể các thành viên của gia đình Crackenthorpe, nhưng xem chừng chưa có hy vọng họ nhận diện được nạn nhân.

Thanh tra Bacon lấy sổ tay ra xem, rồi kể tên từng người :

- Harold Crackenthorpe, nhân vật nổi tiếng trong giới kinh doanh tầm cỡ ở thủ đô London. Tiếp đến Alfred Crackenthorpe, tôi chưa biết ông ta hiện làm gì... Cuối cùng là Cedric Crackenthorpe, hiện đang sinh sống ở nước ngoài, làm hoạ sĩ.

Thanh tra Bacon nói đến hai chữ hoạ sĩ với vẻ khinh bỉ.

Viên giám đốc cảnh sát tỉnh thầm mỉm cười.

Đột nhiên ông hỏi:

- Không hy vọng là những người đó có chút liên quan nào đến vụ án, phải thế không?

- Đúng thế... chỉ có mỗi một liên quan là cái xác được tìm thấy trong dinh cơ Rutherford Hall - viên thanh tra đáp, giọng không tỏ thái độ nào rõ rệt. Điều làm tôi thấy lạ nhất là câu chuyện về chuyến tàu.

- Ra ông đã đến gặp bà già kia? - viên giám đốc cúi xuống đọc lại bản báo cáo.

- Phải rồi, bà già tên là Jane Marple.

- Tôi không thể gặp và hỏi bà ta. Đến nay tôi vẫn chưa hiểu bà ta nói có đúng hay không, nhưng rõ ràng bà ta hoàn toàn tin vào câu chuyện của bà bạn người Scotland kia. Riêng tôi, tôi thấy bà Marple này dường như có chứng hoang tưởng, thích làm những chuyện oái ăm, phi lý. Tuy nhiên, phải công nhận một sự thật nằm ngoài phạm vi hoang tưởng, đó là bà Marple ấy thực tế đã thuê cô Lucy Eyelessbarrow kia, để cô tìm cho bằng được cái xác chết.

- Và cô Lucy Eyelessbarrow ấy đã tìm thấy - viên giám đốc cảnh sát tỉnh nhấn mạnh - Đây không có vẻ là một chuyện bình thường. Mà khoan, tên bà già ấy là Jane Marple? Cái họ Marple tôi nghe quen quen. Dù sao tôi cũng phải báo cáo vụ này lên Cục Điều tra ở London. Nhưng chúng ta vẫn phải giữ kín. Tạm thời chúng ta không được lộ chuyện gì cho giới báo chí hết.

Đúng như dự đoán, cuộc điều tra của viên cảnh sát trưởng địa phương không đem lại kết quả nào: Không ai biết tung tích nạn nhân. Khi được thẩm vấn với tư cách nhân chứng chủ chốt, Lucy chỉ trình bày hoàn cảnh nào đã dẫn cô đến chỗ phát hiện ra tử thi. Còn bác sĩ pháp y thì chỉ kết luận được một câu ngắn gọn: “Chết do bị bóp cổ”. Do đấy phiên toà chưa thể tiến hành.

Gió thổi dữ dội lúc các thành viên của gia đình Crackenthorpe ra khỏi phòng thẩm vấn của toà án. Cũng có mặt với họ là ông Wimborne, công chứng viên đảm trách mặt pháp lý tài sản của gia đình Crackenthorpe. Lúc bước ra cửa, mọi người đều co ro vì lạnh. Đám đông dân chúng tò mò xúm xít trên hè đường, do họ đọc được dòng tiêu đề in chữ to trên tờ báo địa phương: Một xác chết trong cỗ quan tài cổ. Thấy các thành viên trong gia đình Crackenthorpe đi ra cửa, tiếng xì xào lan nhanh trong đám đông.

- Họ kia kìa!

Hoảng hốt, tiểu thư Emma thúc mọi người trong gia đình:

- Ta đi nhanh lên!

Cả gia đình liền bước nhanh lên chiếc ô tô nhãn Daimler được thuê để sử dụng vào việc hôm nay. Riêng ông con rể Bryan Eastley có xe riêng, kéo cậu em vợ Alfred lên xe ông ta. Khi xe sắp chạy, Emma giơ tay ngăn lại:

- Khoan đã!

Lúc nãy, bất chấp Alexander và cậu bạn phản đối quyết liệt, người ta vẫn bắt chúng phải ở nhà. Thế là chúng đạp xe tới đây, và bây giờ cả hai đang hoa tay múa chân bên cạnh mấy chiếc ô tô:

- Một chú cảnh sát đã cho hai chúng cháu vào phòng toà án - Stoddard thanh minh - Các bác không mắng chúng cháu chứ?

Chàng hoạ sĩ Cedric Crackenthorpe tỏ vẻ dễ dãi:

- Việc gì mà mắng? Bác tin rằng đây là lần đầu tiên hai cháu được dự cuộc thẩm vấn của tòa án đấy nhỉ ?

- Vâng, Alexander đáp - Nhưng buổi hôm nay chẳng có gì đặc biệt!

Nhà tư vấn kinh doanh Harold Crackenthorpe nói chen vào:

- Ta không nên nán lại đây, người ta đến đông quá, có cả mấy cái máy ảnh đang chĩa lên kia kìa.

Chiếc ô tô Daimler lao đi. Trong xe, Cedric cố nén một tiếng thở dài:

- Bọn trẻ nói đúng. Chẳng có gì mới. Mà cũng chỉ là buổi đầu tiên thôi.

Ông ta liếc nhìn viên công chứng Wimborne đang mím chặt cặp môi mỏng dính, lắc đầu. Rồi ông công chứng nói, có phần trịnh trọng:

- Tôi tin chẳng bao lâu nữa, điều bí mật sẽ được khám phá. Cảnh sát họ rất giỏi nghề nghiệp của họ. Tuy nhiên vụ án này quả là rất đáng tiếc!

Lúc nói, ông ta cau mặt nhìn Lucy, với ý rằng cô gây ra tất cả những chuyện này chẳng để làm gì.

Harold tán thành ý nghĩ này của viên công chứng, ông ta nói:

- Mà tôi hiểu, thưa cô Eye...lesbarrow, thật ra cô cậy nắp quan tài cổ ấy để làm gì?

Lucy biết sớm muộn một thành viên trong gia đình này sẽ đặt ra câu hỏi cho cô.

- Thật ra, - cô nói chậm chạp và làm ra vẻ suy nghĩ - tôi có nhằm mục đích nào cụ thể đâu?... Thoạt đầu tôi chỉ định dọn dẹp lại căn nhà quá bụi bậm, - rồi cô lại ngập ngừng, nói tiếp - và nhất là tôi ngửi thấy một cái mùi khó chịu...

Lucy biết rằng nghe cô chỉ nói thế, các thành viên trong gia đình tất nhiên chưa hài lòng, nhưng họ không hỏi gặng thêm. Điều cô linh cảm đã đúng. Viên công chứng Wimborne vẩy tay cắt đứt câu chuyện:

- Chúng tôi hiểu.

Viên công chứng quay sang tiểu thư Emma, lúc này mặt xanh lướt.

- Tiểu thư Emma Crackenthorpe, tiểu thư nên nhớ rằng người phụ nữ xấu số kia hoàn toàn không có liên quan gì đến gia đình nhà ta.

Cedric nói:

- Hiện giờ, ông chưa thể khẳng định điều đó.

Lucy thích thú nhìn chàng hoạ sĩ. Cô đã chú ý đến nét tương phản giữa Cedric với em trai ông ta, nhà tư vấn kinh doanh Harold. Cedric có thân hình của một lực sĩ, khuôn mặt thô, có vẻ dãi dầu sương gió, dưới mái tóc bù xù. Chiều hôm qua, lúc trên máy bay xuống, ông ta mặc một bộ đồ khiến người ta có cảm tưởng ông ta không còn bộ đồ nào khác: áo vest nhàu nát, dây nhiều vết bẩn, quần nhung kẻ mầu ghi, có hai túi ở hai đầu gối. Đúng là một nghệ sĩ lang thang và Cedric có vẻ tự hào về cái vẻ ngoài luộm thuộm nhem nhuốc ấy.

Trái lại Harold thì đúng là một chủ doanh nghiệp lớn. Ngồi thẳng đuỗn trong góc xe, bộ âu phục cắt may tuyệt đẹp, thêm vào đó là chiếc cà vạt màu ngọc trai. Tóm lại, vẻ ngoài của Harold thể hiện đúng tính chất của ông ta ngoài đời: một doanh nhân thành đạt.

Nghe câu nói của Cedric, Harold có vẻ không bằng lòng.

- Câu nói của anh chẳng ăn nhập chút nào - Harold bực dọc nói.

Viên công chứng Wimborne húng hắng ho:

- Theo tôi đoán thì một đôi trai gái đã chui vào nhà “bảo tàng” ấy để gặp nhau và gã đàn ông đã giết người tình ở đó. Bởi chỗ treo chìa khoá cửa có quá nhiều người biết.

Giọng ông ta nói có vẻ trách móc người trong nhà quá chủ quan. Thấy vậy, tiểu thư Emma lập tức thanh minh:

- Cái lệ đó là do từ thời chiến tranh. Bấy giờ căn nhà ấy dùng cho đơn vị phòng không vào ăn ngủ. Họ đem đến một cái bếp đèn cồn nhỏ và đun nước uống ở đó. Sau này, do thấy đồ đạc trong đó chẳng ai lấy làm gì, nên chúng tôi vẫn giữ nguyên chỗ treo chìa khoá như cũ. Nhất là có thời gian hội người cao tuổi thỉnh thoảng mượn chỗ ấy để họp, dùng xong, họ lại treo chìa khoá vào đúng chỗ cũ. Mà ông đã biết đấy, chúng tôi có thuê người làm nhưng họ chỉ đến từng lúc chứ không sống ở đây thường xuyên.

Emma nói giọng mệt mỏi và đều đều như cái máy hát, không thể hiện tình cảm nào.

Thấy vậy, Cedric nhìn cô em:

- Cô lo lắng chuyện gì phải không, Emma? Chuyện gì vậy?

Harold bực bội, gắt:

- Anh tò mò chẳng đúng chỗ chút nào đấy!

Viên công chứng muốn dẹp cuộc cãi vã vô bổ giữa hai anh em, ông ta nói:

- Tôi hẹn gặp ông thanh tra Bacon tại Rutherford Hall. Tôi cho rằng phỏng đoán của tôi là đúng. Như tiểu thư Emma đã kể, thì chỗ treo chiếc chìa khoá ấy rất nhiều người biết. Và từ lâu, căn nhà “bảo tàng” ấy vẫn là nơi nhiều cặp trai gái hẹn hò với nhau để tình tự. Tôi cho rằng một đêm, một cặp nào đó đã cãi nhau. Gã đàn ông trong cơn giận dữ, không ghìm được đã bóp cổ chết cô người tình. Hoảng hốt, y nhìn quanh, thấy cỗ quan tài đồ cổ... Còn đoạn sau thì các vị biết cả rồi.

Lucy chăm chú nghe, nghĩ rằng giả thiết đó những ai không biết khởi đầu của câu chuyện rất dễ chấp nhận.

Nhưng Cedric đã nói lời cuối cùng:

- Nhưng các vị có nghĩ rằng nếu là cặp tình nhân, tất họ phải cư trú cách dinh cơ Rutherford Hall không xa, ngay trong thành phố Brackhampton? Thế nhưng cho đến nay cảnh sát vẫn chưa tìm ra được nạn nhân là ai, có nghĩa không phải người trong thành phố này!

Viên công chứng Wimborne cãi:

Hiện vẫn còn quá sớm, nhưng rồi họ sẽ tìm ra, nhất định là như thế. Với lại người phụ nữ có thể không phải người ở đây, mà từ nơi khác đến.

Chàng hoạ sĩ Cedric cười mỉa mai:

- Nếu tôi là một phụ nữ, muốn gặp mặt người đàn ông mình yêu, thì không đời nào tôi chịu nơi hẹn hò lại là một căn nhà lạnh lẽo và ở xa nhà tôi quá. Hay các vị quên mất hiện giờ là mùa đông?

Câu nhận xét lại làm Harold nổi cáu:

- Có cần xem xét mọi khía cạnh đến mức tỉ mỉ như vậy không?

Vừa lúc đó, xe đỗ trước thềm toà nhà Rutherford Hall.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 23:31:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8

Lúc bước vào phòng đọc sách, viên công chứng Wimborne không khỏi giật mình. Ông nhìn chằm chằm vào người đàn ông cao lớn, dáng vẻ đàng hoàng, đang đứng bên cạnh thanh tra Bacon .

Viên thanh tra Craddock của Cục Điều tra Hình sự ở London, vừa mới được cử về đây.

- Cục Điều tra? Chà!... - viên công chứng lẩm bẩm, rướn đôi lông mày.

Vẻ bình thản và tự nhiên, Craddock bắt đầu vào việc ngay:

- Thưa ông Wimborne, xin hãy bắt đầu công việc. Vì ông là đại diện pháp lý cho gia đình Crackenthorpe, tôi muốn thông báo ngay với ông những thông tin chúng tôi đã có trong tay, tất nhiên là chỉ riêng ông được biết.

Viên chánh thanh tra này rất giỏi trong việc đề cập đến những vấn đề tế nhị. Ngắn gọn nhưng đầy đủ, ông cho viên công chứng thấy toàn bộ tầm nghiêm trọng của vụ án.

- Đồng nghiệp của tôi, ông Bacon, hẳn tán thành chứ? - ông quay sang ông này hỏi.

Thanh tra Bacon trịnh trọng gật đầu. Thái độ của hai viên thanh tra cảnh sát cho thấy họ đã chuẩn bị kỹ càng cho cuộc tiếp xúc này. Tuy nhiên viên công chứng không phải là người dễ bị lừa.

Viên chánh thanh tra nói tiếp:

- Cuộc điều tra sơ bộ cho thấy nạn nhân đã đi từ London đến đây, thành phố Brackhampton này. Thêm nữa, bà ta đến London chưa lâu, rất có thể từ Pháp sang, nhưng điều này chúng tôi chưa hoàn toàn chắc chắn.

Viên công chức lộ vẻ bực bội, nhưng ông chỉ nói:

- Có thật là như thế không?

Thanh tra Bacon nói chen vào:

- Sự thật là như thế, cho nên Sở Cảnh sát thành phố cho rằng vụ án này nên đưa lên cho Cục Điều tra của Bộ thì có đầy đủ điều kiện tiến hành hơn.

Công chứng Wimborne lạnh lùng nói:

- Tôi chỉ mong vụ án được làm sáng tỏ. Các ông hẳn đã thấy vụ án này gây rất nhiều phiền toái cho gia đình thân chủ tôi. Tuy không có người nào trong số thành viên gia đình dính líu đến vụ án, nhưng...

Thấy ông ta ngập ngừng, Chánh thanh tra Craddock bèn đỡ lời:

- ... Nhưng họ rất không muốn thấy một tử thi được phát hiện trong dinh cơ của cha họ. Tôi công nhận, nhưng tôi cũng chỉ công nhận một điều đó thôi. Bây giờ tôi muốn gặp riêng từng người trong gia đình.

- Tôi thấy không cần thiết.

- Cần thiết đấy. Rất có thể họ không cung cấp được thông tin nào giá trị, nhưng ta chưa thể nói trước. Riêng ông công chứng, chúng tôi yêu cầu ông cho chúng tôi biết một số thông tin về dinh cơ Josiah Crackenthorpe cho xây toà nhà này năm 1884 đến nay, dinh cơ Rutherford Hall chưa hề có người nào khác đến ở, ngoài các thành viên trong gia đình.

- Điều này đáng chú ý đấy, - Chánh thanh tra Craddock điềm tĩnh nói - Nhưng xin ông cho tôi biết chính xác hơn về gia đình này.

Câu chuyện ông công chứng kể không cung cấp được thêm chi tiết nào mới. Chánh thanh tra Craddock bèn hỏi :

- Nhân đây xin hỏi thêm, cụ Luther Crackenthorpe, chủ nhân hiện nay của dinh cơ này đã bao giờ có ý định bán nó không?

- Bản chúc thư của cụ cố Josiah Crackenthorpe, thân sinh cụ Luther Crackenthorpe hiện nay, đã quy định chính thức: Cấm cụ bán.

- Chà, điều này quan trọng đấy! Hiện ai giữ bản chúc thư đó?

Viên công chức càng khó chịu hơn:

- Tại sao tôi phải trả lời câu đó?

Chánh thanh tra Craddock liền lấy giọng hết sức ngọt ngào đáp:

- Chỉ để rút ngắn thời gian. Vì ông thừa biết, nếu ông không cho tôi xem, tôi có thể xin bản sao chúc thư đó ở Cục Đăng ký?

Viên công chức gượng cười:

- Tôi biết, nhưng tôi muốn khẳng định rằng điều ông yêu cầu không cần thiết. Mọi khoản trong chúc thư đó rất minh bạch, không có điều bí mật nào. Cụ cố Josiah Crackenthorpe để lại một gia tài kếch xù, được đầu tư vào một loạt doanh nghiệp lớn, tiền lãi đó con trai cụ, cụ Luther Crackenthorpe được hưởng. Hẳn các ông biết cụ cố Josiah Crackenthorpe có hai con trai, con đầu đã chết trong một vụ tai nạn, cụ Luther Crackenthorpe hiện nay là con thứ. Chỉ sau khi cụ Luther qua đời, toàn bộ tài sản kia mới được chia đều cho các con cụ. Cụ Luther Crackenthorpe có năm người con, thì hai người đã chết: Edmund Crackenthorpe và Edith Crackenthorpe. Do đấy tài sản sẽ chia tư, cho ba người con còn lại, Cedric, Harold, Emma và đứa cháu ngoại, con trai của bà Edith, cậu Alexander Eastley.

- Đấy là tài sản, còn dinh cơ Rutherford Hall thì sao?

- Dinh cơ sẽ thuộc sở hữu của người con lớn nhất còn lại, cụ thể trong trường hợp này là ông Cedric Crackenthorpe, và sau này là các con ông ta.

Sau một lát suy nghĩ, viên chánh thanh tra hỏi:

- Nghĩa là cụ Luther Crackenthorpe không được quyền định đoạt số phận tài sản cũng như dinh cơ Rutherford Hall?

- Đúng thế.

- Rắc rối đấy. Tôi đoán lúc sinh thời, cụ cố Josiah không ưa cụ Luther?

- Chắc thế. Ngay ông con cả trước khi chết cũng bị cụ cố Josiah ghét, cho là ông ta lười biếng. Đến cụ Luther này, cụ cố còn ghét hơn. Vì thời trẻ, cụ Luther hiện nay đã không thích kinh doanh, mà đi ngao du khắp châu Âu, say mê sưu tầm đồ cổ (thí dụ cái quan tài cổ đó), một công việc mà cụ cố thân sinh không tán thành chút nào. Cho nên cụ cố Josiah mới đề ra trong bản chúc thư những điều khoản kỳ quái như thế : Không cho con được hưởng quyền thừa kế, mà chỉ chia cho các cháu, sau khi cha họ chết.

- Tóm lại là hiện nay, các con cụ Luther Crackenthorpe chưa được hưởng chút tài sản nào, mà phải chờ đến khi cụ qua đời. Trong khi đó, bản thân cụ Luther lại không có quyền định đoạt gì hết vì không có quyền thừa kế. Đúng như thế chứ gì?

- Tuy nhiên tôi vẫn chưa thấy các điều khoản trong bản chúc thư có liên quan gì với người phụ nữ vô danh bị giết kia... một phụ nữ từ nước ngoài đến.

Chánh thanh tra Craddock đáp ngay:

- Có thể không liên quan, nhưng tôi vẫn muốn làm cho rõ.

Viên công chứng nhìn xoáy vào viên chánh thanh tra, sau đó, có vẻ đã mãn nguyện, ông ta xin cáo từ:

- Nếu hai ông không hỏi gì thêm, - viên công chứng Wimborne nói. - Tôi trở về London bây giờ.

- Với chúng tôi, thế là tạm đủ. Cảm ơn ông, thưa ông Wimborne.

Đột nhiên chuông ngoài cửa vang lên.

- Hai đứa trẻ lại làm trò gì rồi! - viên công chứng nói.

Chánh Thanh tra Craddock nói to:

- Chắc chúng nóng lòng muốn ăn bữa trưa. Thôi, chúng tôi để gia đình nghỉ ngơi. Chiều nay, tôi và thanh tra Bacon sẽ quay lại, khoảng hai giờ mười lăm, để tiến hành gặp gỡ từng thành viên trong gia đình.

Nghe nhắc đến chuyện ấy, viên công chứng lại tỏ vẻ khó chịu:

- Các ông thấy có thật cần thiết không?

Viên chánh thanh tra nhún vai:

- Rất có thể một người nào trong số đó nhớ ra một chi tiết có ích cho việc điều tra chăng?

Viên công chứng mặt tối sầm, bước ra khỏi phòng.

Xong cuộc thẩm vấn của viên cảnh sát trưởng địa phương, Lucy vào bếp. Bữa trưa nay sẽ có rất nhiều người ăn. Trong lúc cô đang tất bật làm thì ông con rể Bryan Eastley hiện ra trên ngưỡng cửa bếp :

- Tôi có thể giúp gì cô được không? - ông ta hỏi - Tôi nghĩ tôi có thể giúp được gì đó trong cái nhà này.

Hơi ngạc nhiên, Lucy tò mò ngước nhìn ông ta. Bryan không ngồi xe chung mà về Rutherford Hall bằng ô tô riêng của ông ta, cho nên Lucy chưa có dịp quan sát con người này. Bây giờ cô mới nhìn kỹ, thấy Bryan khá đáng mến và còn tương đối trẻ. Mái tóc nâu và cặp mắt xanh có phần mơ màng. Hàng ria mép dầy khiến ông ta giống một phi công của lực lượng không quân Anh.

Chưa thấy cô người làm trả lời, Bryan ngồi xuống bên cạnh bàn bếp rộng.

- Xin ông đứng dậy cho, được không? - Lucy nói - Tôi cần đặt đĩa pudding.

Bryan vội vã đứng lên.

Ông ta nói:

- Theo lối của người Anh xưa kia, món pudding bao giờ cũng ăn kèm với thịt bò rán. Nó có cái mùi rất dễ chịu! Nhưng có lẽ tôi chẳng nên nói nhiều, còn để cô làm.


- Ông muốn giúp tôi một tay kia mà! - Lucy nói giọng vui vẻ. - Vậy ông lật hộ tôi những miếng khoai tây trên chảo.

Bryan thực hiện ngay.

Lucy nói tiếp:

- Bây giờ ông bỏ món pudding vào lò hộ.

Bryan vội vã làm, nhưng ông ta khẽ kêu lên.

- Ông bị bỏng rồi chứ gì? - Lucy hỏi.

- Hơi một chút thôi.

- Chắc ông chưa bao giờ nấu ăn, đúng vậy không?

- Trái lại, tôi rất hay phải nấu nướng. Nhưng tài ba của tôi chỉ thu hẹp trong hai món: trứng tráng và mỡ hun khói. Thỉnh thoảng tôi làm thêm một món rán.

- Sống ở London ông thấy dễ chịu chứ?

- Dễ chịu gì đâu? - ông ta nói giọng hơi buồn.

Rồi ông ta ngắm nghía căn bếp:

- Nhìn cảnh tượng này tôi nhớ lại thời nhỏ, sống với cha mẹ, sung sướng biết bao nhiêu!

Có vẻ Bryan chìm đắm trong những kỷ niệm xa xưa. Thái độ ấy làm Lucy chú ý. Cô thầm nghĩ, có lẽ ông ta nhiều tuổi hơn vẻ bề ngoài. Dù sao, ông ta cũng không có nét gì giống con trai ông, cậu Alexander.

Bryan làm Lucy nhớ đến những phi công của lực lượng không quân Anh cô đã tiếp xúc hồi chiến tranh, hồi đó cô còn ở tuổi thiếu nữ.

- Ông đã từng lái máy bay chiến đấu?

- Chính thế mà tôi đâm gặp khó khăn. Người ta quá yêu quý phi công chiến đấu cho nên khi hoà bình trở lại, họ cố kiếm việc cho chúng tôi. Thế là rất tốt, nhưng làm công chức không hợp với tính nết tôi. Cô có thể tưởng tượng, người như tôi mà ngồi cạo giấy trong văn phòng! Đã bao nhiêu lần tôi tìm cách thoát ra, làm một thứ gì đó. Nhưng tôi lại không có vốn. Giá như tôi có một khoản tiền nhỏ để bắt đầu một hoạt động kinh doanh nào đấy thì thật thoả nguyện.

Bryan thở dài, nói tiếp:

- Cô không biết vợ tôi, bà Edith, nhỉ?... Tất nhiên là cô không biết bà ấy rồi! Edith hoàn toàn khác những người trong gia đình này, bởi bà ấy đã từng phục vụ trong quân đội. Bà ấy còn kể với tôi, cha bà ấy là người dối trá và bủn xỉn. Nói riêng với cô, cô Eyelessbarrow, cô biết do đâu ông cụ bủn xỉn không? Cụ thấy cho đến khi chết, cụ không được hưởng quyền sở hữu gia tài này, bởi gia tài không thừa kế cho cụ mà cho các con của cụ, tất nhiên sau khi cụ chết. Edith đã chết, nhưng phần thừa kế của bà ấy sẽ chuyển sang cho thằng Alexander, khi nó đủ hai mươi mốt tuổi.

Vừa lúc ấy, Alexander cùng cậu bạn Stoddard thở hồng hộc chạy vào, mặt mũi đỏ ửng vì giá lạnh bên ngoài.

- Chào bố! - cậu ta dịu dàng nói. - Con thấy bố đã hạ cánh xuống bếp!

Cậu ta nói bằng giọng như bố nói với con chứ không phải con nói với bố. Rồi nhìn mấy đĩa thức ăn, cậu ta reo lên:

- Thịt bò rán trông ngon quá!

- Cậu tránh ra cho tôi làm nào. Còn món nước xốt tôi chưa làm!

- Phải tối thiểu hai bát nước xốt đấy chứ? - Alexander nói.

Stoddard vẻ trịnh trọng chen vào:

- Cô Lucy, chúng cháu có giúp gì được cho cô không?

- Thế thì còn gì bằng! Cậu ra gõ cửa chuông báo mời mọi người chuẩn bị xuống ăn. Còn Stoddard, cậu bưng hộ tôi cái khay thức ăn này sang phòng ăn.

Hai đứa trẻ vui vẻ thực hiện ngay.

Ngoài gian tiền sảnh, viên công chứng Wimborne đang trịnh trọng xỏ tay vào găng. Trong khi đó, tiểu thư Emma từ trên gác đi xuống.

Cô nói:

- Mời ông ở lại ăn với chúng tôi, ông Wimborne!

- Cảm ơn tiểu thư, tôi phải đi London bây giờ, có cuộc hẹn quan trọng. Tôi sẽ ăn trên tàu.

- Tôi rất biết ơn ông đã đến đây, khiến chúng tôi thấy yên tâm hẳn.

Đúng lúc ấy, hai viên thanh tra cảnh sát, Craddock và Bacon, trong phòng đọc sách bước ra. Thấy vậy, viên công chứng bước đến bên Emma:

- Tiểu thư đừng lo lắng gì hết. Đây là chánh thanh tra Craddock ở Cục Điều tra, đến đây trực tiếp tiến hành công việc. Sau bữa ăn, ông ta sẽ hỏi tiểu thư một số điều. Và tôi xin nhắc lại, trong chuyện này không có bất cứ điều gì khiến tiểu thư phải lo lắng hết.

Quay sang viên chánh thanh tra, Wimborne hỏi:

- Tôi có thể kể với tiểu thư Emma những gì ông đã cho tôi biết không?

- Tất nhiên là được.

- Vậy thì thế này, cô Emma ạ. Chánh thanh tra Craddock cho tôi biết vụ án vượt ra ngoài chức trách của chính quyền địa phương. Người phụ nữ bị giết từ London đến đây. Và lại là người từ nước ngoài đến Anh.

- Người nước ngoài? - Emma kinh ngạc. - Hay bà ta là người Pháp?

Câu nói của Emma làm viên công chứng ngạc nhiên, quay đi. Trong khi đó, mắt viên chánh thanh tra Craddock lại chăm chú nhìn Emma, thầm nghĩ, tại sao cô này nghĩ ngay đến chuyện người phụ nữ bị giết kia là người Pháp? Và do đâu thái độ cô ta lại có vẻ hốt hoảng như vậy?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 23:32:38 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9

Trong bữa ăn chỉ bốn người có vẻ thích thú với các món ăn: Lucy Eyelessbarrow, hai cậu thiếu niên và Cedric Crackenthorpe. Chàng hoạ sĩ anh cả này hoàn toàn thản nhiên trước vụ án đã khiến ông ta về Anh. Thậm chí nhìn ông ta, người khác dễ có cảm giác ông ta coi đây chỉ là tấn hài kịch, một kiểu hài kịch đầy tử khí.

Lucy nhận thấy thái độ của Cedric làm ông em Harold rất khó chịu, bởi Harold coi vụ án là một nỗi nhục cho gia đình Crackenthorpe. Còn tiểu thư Emma thì có vẻ băn khoăn điều gì đó. Riêng người con trai út, Alfred dường như vẫn đang mải suy nghĩ về những vấn đề riêng tư của cá nhân anh ta.

Sau bữa ăn, hai viên thanh tra cảnh sát lại đến và yêu cầu gặp Cedric. Giọng vui vẻ, thân tình, Chánh thanh tra Craddock mời người hoạ sĩ ngồi xuống.

- Tôi nghe nói ông từ quần đảo Baleares về thẳng đây. Phải chăng ông sống ở đó?

- Sáu năm nay rồi. Tôi rất thích màu sắc thiên nhiên rực rỡ tại đó.

- Tôi biết ở Baleares trời thường xuyên nắng ấm chứ không như ở đây. Nhưng thôi, ta vào việc. Tôi được biết dịp lễ Noel vừa rồi, ông đã về Rutherford Hall. Vì sao lần này ông lại về nữa?

- Tôi nhận được điện của em gái tôi, cô Emma. Trong dinh cơ Rutherford Hall của chúng tôi, chưa bao giờ có chuyện án mạng. Tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội hiếm hoi này...

- Ông quan tâm đến các vấn đề tội phạm?

- Chỉ đơn giản là các vụ án mạng kích thích óc tò mò của tôi. “Ai là thủ phạm?” Các ông hiểu chứ? Nhất là lần này án mạng lại rơi đúng vào nhà tôi. Thêm nữa, tôi nghĩ Emma cần có chỗ dựa tinh thần và có người tiếp nhà chức trách hộ.

- Tóm lại, ông về đây do tò mò và do trách nhiệm với gia đình. Tôi tin rằng tiểu thư Emma rất biết ơn ông, mặc dù ông anh thứ hai và ông em cũng có vẻ để nâng đỡ tiểu thư.

- Hai đứa em tôi ấy về đây đâu phải để giúp Emma. Harold chẳng hạn thì rất bực! Cậu ấy rất không muốn cái chết của một phụ nữ tung tích bất hảo ảnh hưởng đến uy tín một nhà tư vấn kinh doanh tầm cỡ như cậu ấy.

Viên chánh thanh tra ngạc nhiên:

- Nạn nhân là một phụ nữ bất hảo?

- Qua những biểu hiện thì tôi cho là như thế.

- Tôi thấy ông phỏng đoán quá dễ dàng đấy.

- Chứ còn gì nữa? Bởi tôi thấy bà ta không phải người tôi quen biết.

- Ông không quen biết nạn nhân mà đã vội phỏng đoán ư?

Cedric lắc đầu:

- Ông lầm rồi. Tôi hoàn toàn không có ý nghĩ nào về bà ta. Hay ông cho rằng bà ta đến đây để gặp một người trong gia đình chúng tôi?... Không thể có chuyện ấy được. Bởi người đàn ông duy nhất có mặt trong dinh cơ Rutherford Hall lúc xảy ra vụ án là cha tôi, một ông già ốm yếu và đáng kính, ông công nhận không?

- Nhưng rất có thể nạn nhân trước đây có quen biết một người trong gia đình và bà ta tìm đến đây, mặc dù không biết người đàn ông đó có hiện có mặt tại Rutherford Hall hay không. Xin ông thử cố nhớ lại xem, thưa ông Cedric.

Cedric suy nghĩ một lúc lâu rồi vẩy tay, nói:

- Tất nhiên chúng tôi đã từng thuê người làm vào từng quãng thời gian nhất định, nhưng quả thật tôi không nhớ ra có người phụ nữ kia không. Ông thử hỏi những ai thường xuyên sinh sống trong dinh cơ này, may ra họ nhớ ra chăng?

- Tất nhiên tôi sẽ hỏi. Xin sang chuyện khác. Như ông đã biết, qua khám nghiệm tử thi, người ta chưa xác định được thời gian xảy ra vụ án. Theo bác sĩ pháp y thì cách đây khoảng hai tuần lễ, nhiều lắm là ba tuần. Có nghĩa trong khoảng thời gian trước hoặc sau lễ Noel, vậy mà ông lại có mặt ở đây trong thời gian đó. Xin ông cho biết ông về Anh ngày nào và rời khỏi đây ngày nào?

Im lặng một lúc, rồi Cedric nói:

- Để tôi nhớ lại xem... tôi đáp máy bay, đến đây hôm thứ bảy trước lễ Noel, tức là ... ngày 21/12.

- Từ sân bay Majorque ông về thẳng đây?

- Đúng thế. Máy bay cất cánh buổi sáng, và hạ cánh vào buổi trưa.

- Còn ngày ông rời khỏi đây?

- Thứ sáu, ngày 27.

- Cảm ơn ông.

Cedric nhăn mặt:

- Vậy là tôi đâm có mặt ở đây đúng vào thời gian khả nghi - ông ta nhún vai. - Nhưng bóp cổ phụ nữ không phải môn thể thao tôi thích tiến hành vào dịp Noel.

- Tôi hy vọng là như thế, thưa ông Cedric Crackenthorpe.

Thấy viên chánh thanh tra nhìn mình bằng cặp mắt không tán thành, chàng hoạ sĩ bèn nói luôn:

- Gây một vụ án khủng khiếp như vậy đồng nghĩa với việc phủ nhận ý nghĩa thiêng liêng của ngày lễ ấy, một ngày lễ cầu chúc cho sự bình an và thiện ý.

Chánh thanh tra Craddock nói ngắn gọn:

- Thế là tạm đủ. Cảm ơn.

Khi cánh cửa khép lại sau lưng Cedric, Chánh thanh tra Craddock hỏi đồng nghiệp:

- Ông nghĩ sao về tay này?

Bacon bĩu môi:

- Tôi không chịu nổi loại người ăn nói kiểu nửa bông phèng nửa hỗn hào ấy. Bọn nghệ sĩ chuyên sống bất chấp mọi thứ. Rất dám giao du với gái bất hảo lắm.

Chánh thanh tra Craddock nói:

- Chúng ta kiểm tra xem, nếu đúng anh ta chưa rời khỏi Majorque trước ngày 21 thì chắc chắn anh ta không phải là thủ phạm.

Bacon không hài lòng nhìn viên chánh thanh tra của Cục Điều tra:

- Tôi thấy có lúc nào ông nhấn mạnh thời gian chính xác của vụ án đâu?

- Bao giờ tôi cũng dự trữ một chủ bài dành cho những cuộc thẩm vấn sau. Bây giờ ta nghe vị tư vấn kinh doanh ở thủ đô xem anh ta phát hiện thêm cho chúng ta được điều gì.

Nhà kinh doanh tỏ ra rất đĩnh đạc, nhưng chỉ nói ra được những mẩu câu chung chung: “vụ án thật đáng tiếc”, “rồi báo chí sẽ bêu giếu chúng tôi”...

Nói xong, Harold ngồi cứng đờ trên ghế, như người đang hít những mùi hôi thối.

Chánh thanh tra Craddock hỏi vặn đủ cách, nhưng Harold không biết gì, và cũng không phỏng đoán gì, chỉ nói rằng ông ta đến Rutherford Hall hôm trước lễ Noel và ở lại đây đến kỳ nghỉ cuối tuần tiếp theo.

Khi Harold đã ra, Chánh thanh tra Craddock thở dài:

- Vậy là chỉ có thể!

Craddock tin rằng Harold không chịu giúp nhà chức trách. Người thứ ba bước vào là Alfred, dáng điệu chán chường, điển hình của loại thanh niên sống phóng túng.

Nhìn anh ta, Chánh thanh tra Craddock cảm thấy hình như mình đã gặp con người này ở đâu. Hay trong một bức ảnh đăng trên báo?

Khi được hỏi về nghề nghiệp, Alfred làm một cử chỉ không rõ rệt:

- Trong lúc này thì tôi làm nghề bảo hiểm. Thời gian rất gần đây, tôi quan tâm đến việc tung ra thị trường một kiểu máy có tiếng nói. Gây dư luận ầm ĩ, và tôi kiếm được cũng kha khá.

Chánh thanh tra tỏ vẻ chăm chú nghe, thật ra ông chú ý nhiều hơn đến bộ đồ mới tinh của nhân chứng: kiểu cách hiện đại, nhưng may cắt tồi và bằng thứ vải rẻ tiền. Trái ngược với ông anh Cedric hoạ sĩ, mặc một bộ trông luộm thuộm nhưng thật ra lại may cắt rất đẹp và bằng thứ vải đắt tiền. Rõ ràng Alfred có cách sống “đánh lừa”, chỉ cốt gây ấn tượng chốc lát.

Chánh thanh tra Craddock đưa ra những câu hỏi thông thường. Alfred tỏ rất quan tâm đến vụ án.

Anh ta nói:

- Theo đúng logic thì nạn nhân rất có thể là đã từng làm thuê cho gia đình chúng tôi. Chúng tôi đã thuê rất nhiều người từ những nơi xa lạ, trong số đó có cả hai phụ nữ Ba Lan và một phụ nữ Đức. Nhưng việc chị Emma tôi không nhận diện được nạn nhân khiến mọi dự đoán kia đều vô nghĩa. Bà chị tôi rất có tài nhớ mặt người. Thêm nữa, theo tôi nhớ thì trong số phụ nữ làm thuê cho gia đình chúng tôi, không có ai ở London... Mà căn cứ vào đâu các ông khẳng định rằng nạn nhân từ London đến đây?

Câu hỏi giọng thản nhiên, nhưng cặp mắt Alfred lại lộ ra một vẻ tò mò đặc biệt.

Viên chánh thanh tra chỉ cười, không đáp. Alfred vẫn chằm chằm nhìn ông ta, mắt không chớp.

- Vậy là ông không muốn cho tôi biết? Hay các ông tìm thấy tấm vé tàu trong túi bà ta?

- Có thể là như thế.

- Vậy ta có thể đặt giả thuyết nạn nhân lên tàu ở ga London. Vậy thì người bà ta định gặp tất biết trước rằng “bảo tàng” là nơi thuận tiện cho y gây án. Có nghĩa y biết rất rõ dinh cơ này. Nếu ở địa vị các ông, tôi phải tìm ra hắn cho bằng được.

- Thì chúng tôi đang tìm, - viên thanh tra điềm tĩnh nói.

Và khi nói câu ấy, ông ta nói bằng giọng trịnh trọng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách