Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: nail65
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết - Xuất Bản] Biểu Tượng Thất Truyền | Dan Brown

[Lấy địa chỉ]
61#
 Tác giả| Đăng lúc 15-4-2012 17:17:14 | Chỉ xem của tác giả
Trish gõ chuỗi lệnh để ping(48) tất cả các “bước truyền” giữa máy móc trong phòng điều khiển của cô và bất cứ máy nào đang lưu tài liệu này.

- Truy tìm ngay nào, - cô nói và cho chạy lệnh.

Lệnh truy dấu hoạt động cực nhanh, và một danh sách dài dằng dặc các thiết bị mạng xuất hiện gần như ngay lập tức trên bức tường plasma. Trish lướt xuống phía dưới… xuống nữa… qua tất cả các thiết bị định tuyến và chuyển đổi có kết nối với máy của cô…

- Thế quái nào ấy nhỉ?

Lệnh truy dấu của cô dừng lại trước khi đến được máy chủ của tài liệu. Vì một lý do nào đó, lệnh ping của cô vấp phải một thiết bị mạng nuốt chửng nó thay vì hất nó trở lại.

- Xem chừng lệnh truy dấu của em bị chặn, - Trish nói.

Trường hợp này cũng có thế xảy ra ư? Cho chạy lại đi.

Trish chạy lệnh truy dấu khác và gặp kết quả tương tự.

- Không được. Ngõ cụt rồi. Hình như tài liệu này nằm trên một máy chủ không thể truy dấu được - Cô nhìn những bước truyền cuối cùng ngay trước “ngõ cụt” - Nhưng em đoan chắc với chị rằng nó nằm đâu đó ở Washington D.C. này thôi.

- Cô đùa đấy à?

- Có gì lạ đâu chị, - Trish nói - Các chương trình nhện này chạy xoắn ốc theo yếu tố địa lý, có nghĩa là những kết quả đầu tiên luôn gần quanh đây, thêm nữa, một trong các chuỗi tìm kiếm của chị là “Washington D.C.” mà.

- Nếu dùng giao thức “who is”(49) thì sao? - Katherine gợi ý - Liệu nó có cho cô biết ai sở hữu tên miền không?

Hơi vớ vẩn nhưng không phải là một ý tưởng tồi. Trish tìm tới cơ sở dữ liệu “who is” và chạy lệnh tin kiếm IP, hy vọng khớp được các con số bí ẩn với một tên miền có thật. Tâm trạng thất vọng của cô giờ đã bớt nhờ sự tò mò càng lúc càng tăng. Người nào có tài liệu này nhỉ?

Các kết quả “who is” xuất hiện rất nhanh, nhưng không có kết quả nào thích hợp, Trish đành giơ tay chịu thua.

- Hình như địa chỉ IP này không tồn tại. Em không thể dò ra thông tin gì về nó.

- Rõ ràng IP có tồn tại. Chúng ta vừa tìm thấy một tài liệu lưu trữ ở đó mà!

- Đúng, và hiển nhiên ai đó có tài liệu này không hề muốn để lộ nhận dạng. Em không biết nói gì với chị. Truy dấu hệ thống thực sự không phải là sở trường của em. Có lẽ chị nên mời ai đó có kỹ năng xâm nhập hệ thống. em thì chịu thua rồi.

- Cô quen ai như thế không?

Trish quay lại, đăm đăm nhìn sếp của mình.

- Chị Katherine, em đùa đấy. Chính xác thì đó không phải là một ý hay đâu.

- Nhưng nó có tác dụng phải không? - Katherine xem đồng hồ.

- A vâng… luôn luôn. Về mặt kỹ thuật thì rất dễ dàng. -

Cô có quen ai không?

- Các hacker hả? - Trish cười - Phân nửa số đồng nghiệp cũ của em thạo việc này.

- Có ai cô tin tưởng không?

Chị ấy nói thật đấy à? Nhận thấy Katherine cực kỳ nghiêm túc, cô vội đáp:

- Chà, vâng. Em biết một người nhờ được. Anh ấy là chuyên gia an ninh hệ thống của chúng em, một chuyên viên máy tính siêu hạng. Anh ấy muốn hò hẹn với em, kiểu bông lơn ấy mà, nhưng đó là một anh chàng tốt, và em tin tưởng anh ấy. Anh ấy làm việc tự do.

- Cậu ta có kín tiếng không?

- Anh ấy là một hacker. Dĩ nhiên là anh ấy phải kín tiếng. Đó là việc anh ấy làm mà. Nhưng em tin chắc anh ấy sẽ đòi ít nhất 1000 đô la chỉ để nhìn…

- Gọi cho cậu ta đi. Trả cậu ấy gấp đôi nếu tìm ra kết quả nhanh.

Trish không biết điều nào khiến cô khó chịu hơn, giúp Katherine Solomon thuê một hacker hay gọi cho anh chàng mà đến nay vẫn không sao chấp nhận nổi việc cô chuyên gia phân tích siêu hệ thống tóc đỏ béo lùn lại cự tuyệt lời tán tỉnh của mình.

- Chị chắc chắn chứ?

- Dùng điện thoại trong thư viện ấy, - Katherine dặn - Nó có thể chặn các cuộc gọi đến, và đương nhiên là không sử dụng tên tôi nhé.

- Vâng - Trish đi ra cửa, nhưng dừng lại khi nghe thấy iPhone của Katherine kêu.

Nếu may mắn, tin nhắn đang tới kia sẽ là thông tin giúp cô thoát khỏi nhiệm vụ không lấy gì làm thú vị này. Cô nấn ná đợi Katherine lấy iPhone ra khỏi túi áo choàng và đọc màn hình. Katherine Solomon nhẹ cả người khi nhìn cái tên xuất hiện trên iPhone. Có thế chứ! PETER SOLOMON

- Tin nhắn của anh tôi, - cô nói, mắt liếc Trish.

Trish lộ vẻ hy vọng.

- Có lẽ chúng ta nên hỏi ý kiến ông ấy… trước khi liên hệ với một hacker chăng?

Chú thích:
(48) Ping là một tiện ích đi kèm trong UNIX, Intemet và các hệ thống mạng TCP, IP. Ping tương đương với một tiếng la trong hẻm núi và lắng nghe tiếng vọng lại của nó. Ta “ping” một máy chủ khác trên hệ thống mạng để xem máy chủ đó có thể tiến đến được từ máy chủ của ta hay không. Câu lệnh có dạng ping ip address, trong đó ip address là địa chỉ IP của máy chủ mà bạn muốn liên lạc Ping sử dụng giao thức ICMP (Intemet Control Message Protocol: Giao thức điều khiển thông báo trên Intemet) để giải quyết công việc của nó. Nói một cách cụ thể, nó gửi đi một thông báo kiểu tiếng vang ICMP đến máy chủ được chỉ định - ND.
(49) Who is là một giao thức giúp người dùng truy vấn thông tin về domain và IP thông qua cơ sở dữ liệu của các Who is server. Có 2 loại: Who is Domain và Who is IP. Who is Domain cho phép lấy thông tin khách hàng đăng ký từ cơ sở dữ liệu Who is của nhà đăng ký tên miền, còn Who is IP cho phép lấy thông tin về địa điểm (nhà cung cấp dịch vụ Internet, quốc gia) của máy chủ - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

62#
 Tác giả| Đăng lúc 15-4-2012 17:18:57 | Chỉ xem của tác giả
Katherine đọc tài liệu trên bức tường plasma và nghe thấy rõ giọng nói của bác sĩ Abaddon. Có thể tìm được… thứ mà anh trai bà tin rằng đang giấu ở thủ đô. Katherine không còn biết tin vào điều gì nữa, và tài liệu kia ẩn chứa thông tin về những ý tưởng cường điệu rõ ràng đã làm Peter ám ảnh. Katherine lắc đầu.

- Tôi muốn biết ai viết tài liệu này và nó nằm ở đâu. Cứ liên hệ đi.

Trish cau mày và đi ra phía cửa. Cho dù tài liệu này có thể giải thích được điều bí ẩn về những gì anh trai cô đã nói với bác sĩ Abaddon hay không, chí ít hôm nay cũng đã giải quyết xong một khó khăn. Cuối cùng thì anh trai cô đã biết cách sử dụng chức năng nhắn tin trên chiếc iPhone mà Katherine tặng cho ông.

- Và nhớ báo cho giới truyền thông nhé. - Katherine gọi với theo Trish - Ngài Peter Solomon vĩ đại vừa gửi được tin nhắn đầu tiên.

*     *     *

Ở bãi đỗ xe bên kia phố chếch với SMSC. Mal’akh đứng bên cạnh chiếc Limousine của gã, duỗi chân và đợi cú điện thoại mà gã biết chắc là sẽ tới. Mưa đã ngớt, mặt trăng mùa đông bắt đầu ló ra khỏi những đám mây. Vẫn là vầng trăng đã chiếu xuống Mal’akh qua mắt vòm trần nhà Thánh điện Hội Tam điểm ba tháng trước trong lễ nhập môn của gã. Thế giới đêm nay khác hẳn.

Trong khi chờ đợi, dạ dày gã lại quặn lên. Việc nhịn ăn hai ngày qua, mặc dù rất khó chịu, lại rất cần thiết cho việc chuẩn bị của gã. Đó là nghi thức cổ xưa. Chỉ ít lâu nữa, tất cả những khó chịu thể xác sẽ không còn đáng kể nữa. Đứng dưới trời đêm lạnh lẽo, Mal’akh cười khùng khục khi thấy khá mỉa mai là số phận đã gửi gắm gã vào cổng một nhà thờ nhỏ.

Ở đây nép giữa Trung tâm Nha khoa Sterling và một siêu thị nhỏ, là một thánh đường nhỏ bé. TOÀ NHÀ VINH QUANG CỦA CHÚA.

Mal’akh đăm đăm nhìn ô cửa sổ, ở đó hiện rõ một phần tuyên ngôn mang tính học thuyết của nhà thờ: CHÚNG CON TIN RĂNG ĐỨC JESUS CHRIST ĐƯỢC SINH RA BỞI CHÚA THÁNH THẦN, DO ĐỨC MARY ĐỒNG TRINH SINH NỞ, VÀ VỪA LÀ CHÚA VỪA LÀ CON NGUỜI TOÀN HẢO. Mal’akh mỉm cười. Phải. Jesus trên thực tế là cả hai - con người và Chúa - nhưng điều kiện tiên quyết của thánh thần không phải là có một bà mẹ trinh nữ. Mà là cách thức trở thành thánh thần.

Tiếng chuông điện thoại di động vang lên trong đêm, khiến mạch gã đập nhanh. Chiếc điện thoại đang đổ chuông lúc này là điện thoại của Mal’akh, loại rẻ tiền dùng một lần mà gã mới mua hôm qua. Nhận dạng của người gọi cho biết đó là cuộc gọi mà gã đang trông đợi. Một cuộc gọi nội hạt.

Mal’akh trầm ngâm, nhìn ngang qua bên kia phố Silver Hill về phía đường viền mái nhà dích dắc vượt lên khỏi các ngọn cây, lờ mờ dưới ánh trăng. Mal’akh bật điện thoại.

- Tôi là bác sĩ Abaddon, - gã nói, cố tình trùng giọng xuống.

- Katherine đây. - giọng người phụ nữ vang lên - Cuối cùng tôi cũng đã có tin của anh trai mình.

- Ồ tôi thấy nhẹ cả người. Ông ấy thế nào?

- Anh ấy đang trên đường tới phòng thí nghiệm của tôi - Katherine thông báo - Anh ấy đề xuất mời anh cùng tham gia với chúng tôi.

- Sao cơ ạ? - Mal’akh vờ ngập ngừng - Trong phòng thí nghiệm… của bà à?

- Chắc chắn là anh ấy rất tin tưởng anh. Anh ấy chưa bao giờ mời bất kỳ ai tới đó cả.

- Hẳn ông ấy nghĩ một cuộc viếng thăm sẽ giúp ích cho những cuộc thảo luận của chúng tôi, nhưng tôi cảm thấy như thế hơi mang tính chất xâm phạm.

- Nếu anh trai tôi nói rằng anh được hoan nghênh thì anh sẽ được hoan nghênh. Thêm nữa, Peter nói anh ấy có nhiều điều cần trao đổi với cả hai chúng ta, và tôi rất muốn được biết ngọn ngành mọi chuyện đang diễn ra.

- Vậy thì được. Chính xác thì phòng thí nghiệm của bà ở đâu?

- Tại Trung tâm Hỗ trợ Bảo tàng Smithsonian. Anh có biết chỗ đó không?

- Không. - Mal’akh nói, dõi mắt qua bãi đỗ xe về phía toà nhà - Thực ra tôi đang ở trong xe, và tôi có hệ thống chỉ dẫn. Địa chỉ thế nào nhỉ?

- Số 4210 phố Silver Hill.

- Vâng, chờ tôi chút. Tôi sẽ nhập vào hệ thống - Mal’akh đợi khoảng mười giây và lên tiếng - à, hay quá, có vẻ như tôi ở gần hơn mình nghĩ. Hệ thống GPS cho biết tôi chỉ mất khoảng chục phút là tới nơi.

- Tuyệt. Tôi sẽ gọi cho bộ phận an ninh và báo với họ rằng anh sẽ qua đó.

- Cảm ơn bà.

- Gặp anh sau.

Mal’akh nhét điện thoại vào túi và ngó về phía SMSC. Mình tự mời mình liệu có khiếm nhã không nhỉ? Mỉm cười, gã rút chiếc iPhone của Peter Solomon ra và đọc lại tin nhắn gã gửi cho Katherine vài phút trước đó.

"Đã nhận được tin nhắn của em. Vẫn ổn. Bận suốt ngày. Quên cả hẹn với bác sĩ Abaddon. Xin lỗi không giới thiệu cậu ta sớm hơn. Chuyện dài lắm. Giờ đang tới phòng thí nghiệm. Nếu được, mời bác sĩ Abaddon cùng tham gia với chúng ta. Anh hoàn toàn tin tướng cậu ấy, và anh có nhiều việc cần nói với cá hai người. - Peter "

Không có gì lạ, giờ chiếc iPhone của Peter phát tín hiệu nhận trả lời từ Katherine.

"Anh Peter, chúc mừng anh đã học được cách nhắn tin! Biết anh vẫn ổn em rất yên tâm. Đã nói chuyện với Bs. A., cậu ta đang tới phòng thí nghiệm. Lát gặp! - K."

Siết chặt chiếc iPhone của Solomon, Mal’akh cúi xuống phía dưới chiếc Limousine và gài điện thoại vào giữa bánh trước và vỉa hè. Chiếc điện thoại này phục vụ gã rất đắc lực… nhưng giờ đã đến lúc nó cần biến mất không dấu vết. Gã leo lên sau tay lái, cài số, và cho xe trườn lên phía trước cho tới khi nghe tiếng rắc rắc đanh gọn vì bị nghiền nát của chiếc iPhone.

Mal’akh lùi xe trở lại bãi đỗ và chăm chú nhìn bóng toà nhà SMSC phía xa. Mười phút. Nhà kho của Peter Solomon chứa hơn 30 triệu báu vật, nhưng đêm nay, Mal’akh đến đây để phá huỷ hai thứ giá trị nhất mà thôi. Tất cả những nghiên cứu của Katherine Solomon. Và chính Katherine Solomon.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

63#
 Tác giả| Đăng lúc 16-4-2012 04:54:42 | Chỉ xem của tác giả
Chương 26


- Giáo sư Langdon! - Sato gọi - ông nhìn thấy ma đấy à? Ông không sao chứ?

Langdon xốc chiếc túi xách lên vai và đặt bàn tay của mình lên nó, tưởng như hành động này ít nhiều giúp anh giấu kỹ hơn cái gói hình khối hộp bên trong. Anh cảm nhận được mặt mình xám ngoét.

- Tôi… chỉ thấy lo cho Peter.

Sato nghếch mặt, liếc xéo anh. Langdon đột nhiên cảnh giác, sự can thiệp của Sato tối nay rất có thể liên quan đến cái gói nhỏ mà Solomon tin tưởng giao cho anh. Peter đã cảnh báo: Những kẻ rất có thế lực đang nhăm nhe đánh cắp nó. Thứ bùa này sẽ rất nguy hiểm nếu rơi vào tay kẻ ác.

Langdon không lý giải nổi tại sao CIA lại cần một chiếc hộp nhỏ chứa bùa phép… hoặc cái gì tương tự bùa phép. Ordo ab chao chăng? Sato bước lại gần hơn, đôi mắt đen đầy soi mói.

- Tôi cảm thấy ông đã phát hiện ra gì đó thì phải?

Langdon toát mồ hôi.

- Không, không hẳn.

- Ông đang toan tính gì vậy?

- Tôi chỉ… - Langdon ngập ngừng, chẳng biết nên nói thế nào.

Anh không có ý định tiết lộ về sự tồn tại của cái gói nằm trong túi mình, nhưng nếu Sato dẫn anh tới CIA thì chắc chắn cái túi sẽ bị khám xét.

- Thực ra… - anh bịa chuyện - tôi có một ý tưởng khác về những con số trên bàn tay Peter.

Sato không biểu lộ gì.

- Sao nào? - Bà ta liếc Anderson, lúc đó vừa quay lại sau khi đón nhóm pháp y mới tới. Langdon nuốt khan và cúi rạp xuống bên bàn tay, băn khoăn không biết nên nói gì với họ bây giờ. Mày là một giáo viên cơ mà? Robert, ứng biến đi. Anh quan sát kỹ lần cuối bảy biểu tượng nhỏ xíu, hy vọng gợi ra được chút liên tưởng nào đó.



Chẳng ích gì. Trống rỗng. Langdon dùng khả năng ghi nhớ bằng hình ảnh duyệt lại các bộ bách khoa thư về biểu tượng trong óc mình, nhưng chỉ tìm được một điểm khả dĩ bấu víu. Nó xuất hiện với anh ngay từ đầu, nhưng xem chừng không thuyết phục lắm. Tuy nhiên, lúc này không còn nhiều thời gian cân nhắc nữa.

- Chà, - anh bắt đầu nói - dấu hiệu đầu tiên khiến một nhà ký tượng học biết rằng mình đang đi sai hướng khi giải đoán các biểu tượng và mật mã là diễn giải các biểu tượng bằng cách sứ dụng nhiều ngôn ngữ tượng hình. Chẳng hạn, khi tôi nói với quý vị câu này là của La Mã và A rập thì đó là một phân tích kém bởi vì tôi sử dụng nhiều hệ thống biểu tượng. Với chữ La Mã và chữ rune cũng y như vậy.

Sato khoanh tay và nhướng mày như muốn nói “Tiếp đi xem nào!”

- Nhìn chung, giao tiếp được thực hiện bằng một ngôn ngữ, không phải nhiều ngôn ngữ, vì thế trước bất kỳ văn bản nào, công việc đầu tiên của nhà ký tượng học là phải tìm một và chỉ một hệ thống biểu tượng nhất quán áp dụng cho toàn bộ văn bản đó.

- Giờ ông đã thấy một hệ thống duy nhất?

- Chà, vâng… à không.

Kinh nghiệm về sự đăng đối của các biểu tượng hai chiều đối xứng đã dạy cho Langdon biết rằng đôi khi các biểu tượng có ý nghĩa nếu nhìn từ nhiều góc độ. Trong trường hợp này, anh nhận ra trên thực tế có một cách để quan sát cả bảy biểu tượng bằng một ngôn ngữ duy nhất.

- Nếu chúng ta thay đổi bàn tay một chút, ngôn ngữ sẽ trở nên nhất quán.

Lạ thay, thao tác Langdon sắp thực hiện dường như giống hệt với điều mà kẻ bắt giữ Peter gợi ý lúc gã nói ra câu ngạn ngữ Hermetic cổ xưa. Thượng hạ tương liên. Langdon rùng cả mình khi nhoài người lên, vớ lấy cái đế gỗ cắm bàn tay Peter. Nhẹ nhàng. anh xoay ngược cái đế để cho các ngón tay duỗi trỏ thẳng xuống phía dưới. Những biểu tượng trong lòng bàn tay lập tức thay đổi:



- Nhìn từ góc độ này, - Langdon nói - X-I-I-I trở thành một số La Mã có giá trị: số 13. Đồng thời, có thể diễn giải các ký tự còn lại bằng cách sử dụng bảng chữ cái La Mã: SBB.

Langdon cho rằng phân tích của mình sẽ chỉ dẫn tới những cái nhún vai hời hợt, nhưng nét mặt Anderson lập tức thay đổi.

- SBB à? - viên Chỉ huy kêu lên.

Sato quay phắt về phía Anderson.

- Nếu tôi không nhầm thì nó khá giống một hệ thống đánh số quen thuộc trong Điện Capitol này.

Anderson tái mặt.

- Đúng thế.

Sato nở một nụ cười thâm hiểm và gật đầu với Anderson.

- Chỉ huy, theo tôi nào. Tôi muốn nói vài lời riêng với anh.

Khi Giám đốc Sato dẫn Chỉ huy Anderson ra khỏi tầm nghe, Langdon còn lại một mình ngơ ngác. Chuyện quái gì đang diễn ra đây vậy?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

64#
 Tác giả| Đăng lúc 16-4-2012 04:56:09 | Chỉ xem của tác giả
Chỉ huy Anderson băn khoăn không hiểu tại sao tình hình tối hôm nay lại diễn biến kỳ lạ đến thế. Bàn tay nói tới SBB13 ư? Anh ta rất ngạc nhiên vì có kẻ ngoại đạo lại nghe nói tới SBB… thậm chí rành rẽ là SBB13. Ngón tay trỏ của Peter Solomon không muốn bảo họ lên trên như lúc đầu… mà chỉ theo một hướng hoàn toàn ngược lại.

Giám đốc Sato dẫn Anderson tới một khu vực yên tĩnh gần bức tượng đồng của Thomas Jefferson.

- Chỉ huy, - bà ta hỏi - tôi tin anh biết chính xác SBB13 nằm ở chỗ nào phải không?

- Dĩ nhiên rồi.

- Anh có biết bên trong là gì không?

- Không, không thể biết nếu không xem. Tôi nghĩ nó dừng hoạt động mấy thập kỷ nay rồi.

- Chà, anh sẽ mở nó nhé!

Anderson rất khó chịu vì bị sai khiến ngay trong toà nhà do mình quản lý.

- Thưa bà, như thế rất dễ có vấn đề. Tôi sẽ phải kiểm tra bảng phân công nhiệm vụ trước đã. Bà biết đấy, hầu hết các tầng phía dưới đều là văn phòng riêng hoặc nhà kho, và quy trình an ninh rất coi trọng sự riêng tư…

- Anh sẽ mở SBB13 cho tôi, - Sato nói - hoặc tôi sẽ gọi OS và cử một đội mang theo máy phá tường tới đấy.

Anderson trợn mắt nhìn Sato một lúc lâu rồi rút bộ đàm ra, đưa lên miệng.

- Anderson đây. Tôi cần ai đó mở SBB. Trong vòng năm phút nữa, cho người tới gặp tôi tại đó nhé.

Giọng trả lời nghe có vẻ lúng túng.

- Chỉ huy, xin xác nhận là anh vừa nói SBB phải không?

- Đúng. SBB. Cử ai đó tới ngay lập tức, và tôi cần đèn pin - Anderson tắt bộ đàm.

Tim anh ta đập rộn lên khi Sato bước lại gần, hạ giọng thấp hơn nữa.

- Chỉ huy, thời gian rất gấp - bà ta thì thào - và tôi muốn anh đưa chúng tôi xuống SBB13 càng nhanh càng tốt.

- Vâng, thưa bà.

- Tôi cũng cần anh giúp một việc khác nữa.

Mở cửa và xông vào vẫn còn chưa đủ ư? Anderson đang ở tình thế không phản đối được, nhưng vẫn không quên chú ý rằng Sato đến nơi chỉ vài phút sau khi bàn tay của Peter xuất hiện trong Nhà Tròn, và giờ đây bà ta đang tận dụng tình huống này để đòi xâm nhập khu vực riêng của Điện Capitol. Dường như tối nay bà ta đã đi quá giới hạn cho phép.

Sato ra hiệu về phía vị Giáo sư.

- Cái túi da trên vai Langdon.

Anderson liếc mắt nhìn.

- Sao cơ?

- Tôi cho rằng người của anh đã soi cái túi đó khi Langdon vào toà nhà này?

- Dĩ nhiên. Tất cả các túi đều được soi kỹ.

- Tôi muốn xem bản soi đó. Tôi muốn biết trong túi có cái gì.

Anderson nhìn chiếc túi mà Langdon đeo khư khư suốt buổi tối.

- Nhưng… hỏi thẳng ông ta thì không đơn giản hơn à?

- Yêu cầu của tôi có gì không rõ chăng?

Anderson lại rút bộ đàm ra và thông báo đề nghị của Sato. Sato cho biết địa chỉ Blackberry và yêu cầu người của anh ta gửi cho mình một bản X quang số hoá qua email ngay khi họ tìm được nó. Anderson miễn cưỡng nghe theo.

Lúc này nhóm pháp y đang định thu lấy bàn tay để chuyển cho Cảnh sát Điện Capitol, nhưng Sato ra lệnh cho họ gửi thẳng tới đơn vị của bà ta ở Langley. Anderson quá mệt mỏi nên chẳng buồn phản đối. Anh ta đã bị cỗ xe lu Nhật Bản nhỏ xíu ấy nghiến dẹp lép rồi.

- Tôi muốn cả cái nhẫn đó nữa - Sato gọi với theo nhóm pháp y.

Kỹ thuật viên trưởng toan tranh cãi, nhưng nghĩ lại chẳng nên. Anh ta tháo cái nhẫn vàng khỏi tay Peter, đặt nó vào một túi lấy mẫu sạch sẽ và đưa cho Sato. Bà ta đút tọt nó vào túi áo khoác rồi quay về phía Langdon.

- Chúng ta đi chứ, Giáo sư. Mang theo đồ đạc của ông.

- Chúng ta đi đâu? Langdon hỏi lại.

- Cứ theo ông Anderson thôi.

Ờ, Anderson nghĩ, và theo sát tôi đấy! SBB là khu vực rất ít người ghé thăm trong Điện Capitol. Để tới đó, họ sẽ phải qua một mê cung toàn những căn buồng bé xíu và những lối đi hẹp nằm ngay bên dưới tầng hầm. Cậu con trai út của Abraham Lincoln bị lạc dưới đó và suýt bỏ mạng. Anderson bắt đầu ngờ rằng nếu Sato có ý đồ gì thì chắc Robert Langdon sẽ chịu số phận tương tự.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

65#
 Tác giả| Đăng lúc 16-4-2012 04:57:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 27


Chuyên gia an ninh hệ thống Mark Zoubianis luôn tự hào rằng mình có khả năng làm nhiều công việc: Lúc này, anh ta đang ngồi trên ghế phô-tơi với một chiếc điều khiển TV, một điện thoại không dây, một máy tính xách tay, một máy PDA, và một bát Pirate’s Booty(50) to tướng.

Một mắt thì để ý trận đấu của đội Redskins đã tạm tắt tiếng còn một mắt để vào chiếc máy tính, Zoubianis đang nói chuyện qua tai nghe Bluetooth với một phụ nữ đã bặt tin tức hơn một năm nay.

- Thế quái nào mà Trish Dunne lại gọi tới vào đúng buổi tối có trận đấu quyết định thế này chứ?

Lại một lần nữa thể hiện sự vô lý của mình, người đồng nghiệp cũ đã chọn đúng trận đấu của đội Redskins làm thời điểm để chuyện phiếm với Zoubianis và nhờ giúp một việc. Sau một hồi chuyện trò qua loa về những ngày trước kia và nói rằng cô nhớ những lời bông đùa tuyệt vời của anh ta, Trish đi thẳng vào vấn đề chính: cô đang tìm cách xác định một địa chỉ IP ẩn, có lẽ đó là một máy chủ bảo mật thuộc khu vực Washington D.C.

Máy chủ này có một văn bản nhỏ và cô muốn truy cập vào nó… hoặc ít ra thì cũng khai thác thông tin xem tài liệu thuộc về ai. Đúng người nhưng không đúng lúc, Zoubianis bảo cô. Thế là Trish tuôn ra tràng giang đại hải những lời tán tụng, hầu hết đều là sự thật, và Zoubianis chẳng biết mình gõ một địa chỉ IP rất lạ vào máy tính tự lúc nào. Zoubianis nhìn con số và nhận ra ngay rằng công việc không dễ dàng gì.

- Trish. IP này có định dạng hiện đại lắm. Nó được viết theo một giao thức thậm chí còn chưa trình ra công chúng. Có lẽ nó thuộc giới quân sự hoặc tình báo chính phủ.

- Quân sự à? - Trish cười - Tin em đi, em vừa lôi một tài liệu soạn lại từ máy chủ này mà, và nó không phải của quân đội.

Zoubianis kéo cửa sổ gốc của mình lên và thử truy dấu.

- Em bảo rằng truy dấu của em bị tắc à?

- Vâng. Hai lần. Cùng một bước truyền.

- Của anh cũng thế - Anh ta kéo một trình dò tìm chẩn đoán và chạy thử - Thế IP này có gì hay ho vậy?

- Em chạy một trình uỷ thác sử dụng cơ chế tìm kiếm ở IP này và thu được một tài liệu đã lọc. Em cần xem nội dung còn lại của lài liệu. Em sẵn sàng trả tiền, nhưng em không tài nào xác định được ai là người sở hữu IP hay làm cách nào truy cập được nó.

Zoubianis cau mày nhìn màn hình.

- Em có chắc không đấy? Anh đang chạy một trình chẩn đoán, và mã tường lửa trông… rất thâm nghiêm.

- Thế anh mới được trả nhiều tiền.

Zoubianis ngẫm nghĩ. Họ trả cho anh ta cả đống tiền để làm một việc dễ dàng.

- Hỏi một câu thôi, Trish. Tại sao em quan tâm đến vụ này thế?

Trish do dự.

- Em làm giúp một người bạn.

- Chắc phải là bạn rất đặc biệt.

- Vâng.

Zoubianis cười khan nhưng không nói gì. Tôi biết tỏng mà.

- Thế nào, - Trish lên tiếng, vẻ nôn nóng - Anh đủ khả năng xác định IP này chứ? Phải không?

- Có, anh đủ khả năng, và ờ, anh biết em đang định quay anh như quay dế đây.

- Anh sẽ mất bao lâu?

- Không lâu đâu! - Zoubianis đáp, tay vẫn gõ bàn phím - Anh có thể thâm nhập vào máy trên hệ thống của họ trong vòng mười phút. Khi nào vào được và tìm thấy gì, anh sẽ gọi lại cho em.

- Em rất cảm ơn. Thế anh vẫn ổn chứ?

Giờ cô nàng mới thèm hỏi?

- Trish, Chúa ơi, em gọi cho anh đúng buổi tối có một trận đấu quan trọng và giờ em muốn chuyện phiếm à? Thế em muốn anh thâm nhập IP này hay không đây?

- Cảm ơn anh, Mark. Em sẽ đợi anh gọi lại.

- Mười lăm phút nữa - Zoubianis gác máy, vớ lấy bát Pirate’s Booty và bật tiếng trận đấu bóng lên. Ôi phụ nữ!  

Chú thích:
(50) Pirate’s Booty là đồ ăn nhanh do công ty Robert’s American Gourmet Food sản xuất. Loại đồ ăn này chủ yếu làm từ nguyên liệu tự nhiên và pho mát thật - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

66#
 Tác giả| Đăng lúc 16-4-2012 04:59:42 | Chỉ xem của tác giả
Chương 28


Bọn họ đưa mình đi đâu không biết? Vội vã theo Anderson và Sato đi sâu vào lòng Điện Capitol, Langdon cảm thấy nhịp tim mình tăng lên theo mỗi bước chân. Họ bắt đầu hành trình qua cổng tây Nhà Tròn, men xuống một cầu thang bằng đá cẩm thạch và sau đó quay ngược lại qua một ô cửa rộng để vào căn buồng nổi tiếng ngay bên dưới nền Nhà Tròn. Nhà hầm điện Capitol.

Không khí ở đây khá ngột ngạt, Langdon bắt đầu cảm thấy nỗi sợ bị mắc kẹt. Trần nhà rất thấp. ánh sáng yếu ớt toả xuống làm nổi bật bốn mươi cây cột Doric đồ sộ đỡ phần nền bằng đá rất rộng ngay phía trên đầu. Thư giãn nào Robert.

- Lối này, - Anderson lên tiếng, rảo chân ngoặt sang trái, băng qua khoảng không gian hình tròn rất rộng.

Rất may, tầng hầm đặc biệt này không có cái xác nào cả. Thay vào đó nó chỉ có vài bức tượng, một mô hình Điện Capitol, và một khu lưu trữ thấp tè cất cái bục linh cữu bằng gỗ để đặt quan tài trong các buổi tang lễ cấp nhà nước. Bọn họ hấp tấp đi qua, thậm chí không đưa mắt liếc cái la bàn cẩm thạch bốn điểm ở chính giữa nền nhà, nơi Ngọn lửa Vĩnh cửu từng cháy sáng.

Anderson dường như rất vội vã. Sato lại một lần nữa chúi đầu vào chiếc Blackberry. Langdon nghe nói dịch vụ điện thoại di động được phát triển và phổ biến khắp mọi góc của Điện Capitol để phục vụ hàng trăm cuộc gọi của chính phủ diễn ra ở đây hằng ngày.

Sau khi băng chéo qua tầng hầm, cả nhóm bước vào một phòng nghỉ sáng lờ mờ và bắt đầu đi ngoắt ngoéo qua một loạt hành lang và ngõ cụt rối tinh rối mù. Cái mê cung này có nhiều ô cửa đánh số, mỗi cửa đều mang một con số xác định. Langdon đọc các cửa trong khi đi lòng vòng theo hai người kia.  

S154… S153… S152…  

Anh không biết những gì đang nằm sau các cánh cửa kia, nhưng chí ít đã có một việc trở nên sáng tỏ, đó là ý nghĩa của hình xăm trên lòng bàn tay Peter Solomon. SBB13 có vẻ như là một ô cửa được đánh số ở đâu đó dưới tận cùng Điện Capitol.

- Những cánh cửa này để làm gì vậy? - Langdon hỏi, tay ép chặt túi xách vào sườn và băn khoăn tự hỏi cái gói nhỏ của Solomon liệu có tác dụng gì với cánh cửa đánh số SBB13 không.

- Văn phòng và nhà kho, - Anderson nói - Văn phòng riêng và nhà kho - anh ta bổ sung, liếc nhìn Sato.

Giám đốc OS thậm chí không rời mắt khỏi cái Blackberry của mình.

- Trông chúng nhỏ xíu. - Langdon nhận xét. - Hầu hết những căn buồng này chỉ để làm cảnh, nhưng chúng vẫn là nhóm bất động sản được săn lùng nhất ở Thủ đô. Đây là trung tâm của Điện Capitol thời kỳ đầu, Phòng họp Thượng viện cũ ở trên chúng ta hai tầng.

- Thế còn SBB13? - Langdon hỏi - Đó là văn phòng của ai?

- Chẳng của ai. SBB là khu nhà kho riêng, và tôi phải nói trước rằng tôi thắc mắc không biết…

- Chỉ huy Anderson, - Sato ngắt lời mà không hề rời mắt khỏi chiếc Blackberry - Chỉ cần đưa chúng tôi tới đó thôi.

Anderson nghiến chặt răng và im lặng dẫn họ đi qua một khu pha lẫn giữa nhà kho với mê cung. Trên phần lớn các bức tường, những tấm biển chỉ dẫn đều chỉ về cả hai phía trước và sau, rõ ràng là cố gắng định vị các khu văn phòng cụ thể trong mạng lưới hành lang nhằng nhịt này.  

S142 tới S152… ST1 tới ST70…

H1 tới H166 và HT1 tới HT67…  

Langdon không chắc có thể tìm được đường ra khỏi đây một mình. Nơi này đúng là một mê cung. Từ tất cả những gì thu thập được, anh nhận ra số hiệu văn phòng bắt đầu bằng chữ S hay H là tuỳ thuộc vào việc chúng nằm ở khu vực Thượng hay Hạ viện. Những nơi có ghi ST và HT rõ ràng là một cấp mà Anderson gọi là Cấp Bậc thang. Vẫn chưa thấy biển đề SBB.

Cuối cùng họ cũng tới một cánh cửa bằng thép nặng nề gắn ổ khoá bằng thẻ từ. TẦNG SB. Langdon cảm thấy họ đang tiến gần đến đích. Anderson định lấy thẻ của mình nhưng rồi lại ngập ngừng, cảm thấy không thoải mái với yêu cầu của Sato.

- Chỉ huy, - Giám đốc OS giục - Chúng ta không có cả đêm đâu.

Anderson miễn cưỡng nhét thẻ vào. Cánh cửa thép bật mở. Anh ta đẩy hẳn nó ra, cả bọn bước qua và tiến vào một tiền sảnh. Cánh cửa nặng nề đóng lại sau lưng họ. Langdon không rõ mình hy vọng nhìn thấy gì ở tiền sảnh này, nhưng chắc chắn nó hoàn toàn khác với khung cảnh đang hiện ra trước mắt.

Anh nhìn đăm đăm vào chiếc cầu thang dẫn xuống dưới.

- Lại xuống tiếp à? - anh thốt lên, rồi ngừng lại một lúc - Còn tầng nào bên dưới tầng hầm cơ à?

- Phải, - Anderson xác nhận - SB là viết tắt của “Hầm Thượng viện”.

Langdon rên lên. Thật kinh khủng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

67#
 Tác giả| Đăng lúc 16-4-2012 05:01:54 | Chỉ xem của tác giả
Chương 29


Một tiếng đồng hồ trôi qua, mới lại có ánh đèn pha rọi lên đoạn đường gom nhiều cây cối dẫn vào SMSC.

Vì nhiệm vụ, người bảo vệ vặn nhỏ tiếng chiếc ti vi xách tay của mình và giấu suất ăn nhanh xuống phía dưới quầy. Chẳng đúng lúc chút nào. Đội Redskins đang kết thúc pha nỗ lực mở màn của mình, mà anh thì không muốn bỏ lỡ nó. Khi chiếc xe hơi lại gần hơn, người bảo vệ kiểm tra tên họ ghi trong sổ trực đặt trước mặt. Bác sĩ Christopher Abaddon.

Katherine Solomon vừa gọi để báo cho bộ phận An ninh biết khách của mình sắp tới. Người bảo vệ không biết vị bác sĩ này là ai, nhưng rõ ràng phải là một bác sĩ rất ngon lành, vì ông ta đến bằng chiếc Limousine dài màu đen. Cỗ xe sang trọng dài ngoằng dừng lại bên cạnh phòng bảo vệ, và người lái xe hạ kính cửa sổ xuống êm ru.

- Chào anh, - gã lái xe lên tiếng, đưa tay lột mũ.

Anh ta có vóc dáng vạm vỡ, đầu cạo trọc lốc, cũng đang nghe trận đấu bóng trên đài

- Tôi đưa bác sĩ Christopher Abaddon tới gặp bà Katherine Solomon.

Người bảo vệ gật đầu.

- Xin cho xem giấy tờ tuỳ thân.

Gã lái xe tỏ vẻ ngạc nhiên.

- Xin lỗi, bà Solomon chưa gọi trước sao?

Người bảo vệ gật đầu, lén liếc nhìn màn hình ti vi.

- Tôi vẫn phải quét và ghi lại dữ liệu của khách khứa. Rất xin lỗi, quy định mà. Tôi cần xem giấy tờ tuỳ thân của bác sĩ.

- Không sao - Gã lái xe quay về phía sau ghế ngồi của anh ta và nói bằng giọng khẽ khàng qua tấm vách ngăn cách.

Trong khi đó, người bảo vệ lại lén theo dõi trận đấu. Đội Redskins giờ đã ổn định được thế trận, nên người bảo vệ chỉ mong làm xong thủ tục cho chiếc Limousine này trước khi bước vào ván mới. Gã lái xe lại quay lên và chìa ra tấm thẻ mà rõ ràng anh ta vừa nhận lấy qua tấm vách ngăn.

Người bảo vệ cầm thẻ và nhanh chóng quét qua hệ thống của mình. Tấm bằng lái xe đăng ký ở Washington D.C., chủ nhân là Christopher Abaddon sống ở khu Kalorama Heights. Tấm ảnh cho thấy một quý ông tóc vàng điển trai mặc áo cộc tay màu xanh dương, đeo cà vạt, miệng túi cài chiếc khăn mùi xoa bằng sa tanh.

Sao lại có người đeo khăn mùi xoa bỏ túi tới Bộ Phương tiện Cơ giới chứ? Tiếng reo hò nổi lên từ ti vi, người bảo vệ ngoái lại vừa kịp lúc nhìn thấy một cầu thủ áo đỏ nhảy múa ở khu vực cuối sân, ngón tay anh ta chỉ lên trời.

- Mình bỏ lỡ rồi, - người bảo vệ rên rỉ, quay ra phía cửa sổ. - Được - anh nói, trả thẻ cho gã lái xe - Các vị xong xuôi rồi.

Chiếc Limousine lăn bánh qua, người bảo vệ quay về với cái ti vi của mình, hy vọng sẽ được xem cảnh chiếu lại.

*     *     *

Mal’akh lái chiếc Limousine chạy theo lối đi ngoằn ngoèo mà không thể nhịn được cười. Bảo tàng bí mật của Peter thật rất dễ đột nhập. Tuyệt hơn nữa, tối nay là lần thứ hai trong vòng hai mươi tư giờ qua Mal’akh lọt được vào một trong những khu vực kín đáo của Solomon.

Đêm qua, gã đã thực hiện một cuộc viếng thăm tương tự tới tư gia ông ta. Mặc dù có một điền trang rất lớn ở Potomac, nhưng phần lớn thời gian Peter Solomon ngụ tại thành phố, trong căn hộ áp mái của mình ở Dorchester Arms. Toà nhà ông ở, cũng như hầu hết mọi khu nhà dành cho các đại gia, là một pháo đài thực sự. Tường rất cao. Cổng có bảo vệ. Khách khứa ra vào phải đăng ký. Bãi đỗ xe ngầm có bảo đảm an ninh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

68#
 Tác giả| Đăng lúc 16-4-2012 05:03:15 | Chỉ xem của tác giả
Mal’akh đã lái chiếc Limousine này tới phòng bảo vệ của toà nhà, bỏ chiếc mũ khỏi cái đầu trọc lốc, và nói rành rẽ.

- Tôi chở bác sĩ Christopher Abaddon. Ông ấy là khách mời của ngài Peter Solomon - Mal’akh nói năng cứ như thể gã đang tuyên bố mình là Công tước xứ York vậy.

Người bảo vệ kiểm tra sổ ghi chép, rồi xem căn cước của Abaddon.

- Vâng, tôi biết ngài Solomon đang đợi bác sĩ Abaddon - Anh ta ấn nút và cánh cổng mở ra - Ngài Solomon ở căn hộ tầng áp mái. Mời khách của anh dùng thang máy cuối cùng bên phải. Nó chạy thẳng lên tận nơi.

- Cảm ơn anh - Mal’akh đội mũ lên và lái xe qua.

Khi vòng xe vào sâu ga ra, gã dõi tìm các máy quay an ninh. Chẳng có gì. Rõ ràng, những người sống ở đây không phải hạng đột nhập xe hơi người khác, cũng không ưa việc bị theo dõi rình mò.

Mal’akh đậu xe vào một góc tối gần thang máy, hạ vách ngăn giữa khoang lái và khoang khách,rồi trườn ra phía sau chiếc Limousine. Khi đã yên vị, gã lột chiếc mũ lái xe của mình và đội mớ tóc giả lên. Chỉnh trang lại áo vét và cà vạt, gã kiểm tra qua gương soi để chắc chắn rằng lớp hoá trang vẫn nguyên vẹn. Gã không được phép mạo hiểm, nhất là tối nay. Ta đã chờ đợi việc này quá lâu rồi.

Vài giây sau, Mal’akh bước vào thang máy riêng. Thang chạy êm ru lên tận tầng trên cùng. Khi cửa mở ra, gã thấy mình ở trong một phòng chờ rất trang nhã. Vị chủ nhà của gã đã đợi sẵn.

- Bác sĩ Abaddon, xin chào.

Mal’akh nhìn vào đôi mắt xám nổi tiếng của người đàn ông và cảm thấy tim mình đập mạnh.

- Ông Solomon, tôi rất biết ơn vì ông đã dành thời gian gặp tôi.

- Kìa, xin cứ gọi tôi là Peter.

Hai người bắt tay. Khi nắm lấy bàn tay người đàn ông lớn tuổi, Mal’akh nhìn thấy chiếc nhẫn vàng Tam điểm… trên chính bàn tay đã từng cầm súng chĩa vào gã. Một giọng nói thì thầm vọng về từ dĩ vãng xa xăm. Nếu ông bóp cò, tôi sẽ ám ảnh ông mãi mãi.

- Mời vào, - Solomon nói, dẫn Mal’akh tới một phòng khách lịch sự có những ô cửa sổ rộng nhìn ra quang cảnh tuyệt đẹp của Washington D.C.

- Tôi ngửi thấy mùi trà thì phải? - Mal’akh hỏi khi bước vào.

Solomon có vẻ rất ấn tượng.

- Cha mẹ tôi luôn tiếp khách bằng trà. Tôi cũng tiếp nối truyền thống đó - ông đưa Mal’akh vào phòng khách, bữa tiệc trà đang đợi trước lò sưởi - Kem hay đường nào?

- Đen thôi, xin cảm ơn.

Lại một lần nữa Solomon tỏ ra ấn tượng.

- Rất thanh đạm - ông rót cho cả hai mỗi người một tách trà đen - Anh nói cần thảo luận với tôi một chuyện rất nhạy cảm và chỉ có thể thảo luận riêng mà thôi.

- Cảm ơn. Tôi rất biết ơn ông đã dành thời gian.

- Anh và tôi giờ là huynh đệ trong Hội Tam điểm, người một nhà với nhau rồi. Hãy cho biết tôi giúp gì được anh.

- Trước hết, tôi muốn cảm ơn ông về vinh dự nhận cấp bậc 33 vài tháng trước. Điều này vô cùng có ý nghĩa với tôi.

- Tôi rất vui, nhưng xin nhớ những quyết định đó không phải của riêng tôi. Do Hội đồng Tối cao bầu mà.

- Dĩ nhiên rồi - Mal’akh tin chắc Peter Solomon có thể đã bỏ phiếu phủ quyết, nhưng trong Hội Tam điểm, cũng như ở tất cả những nơi khác, tiền là sức mạnh.

Sau khi đạt được cấp độ 32 tại chi hội của mình, Mal’akh chỉ đợi có một tháng rồi quyên góp một khoản tiền trị giá hàng triệu đô la cho quỹ từ thiện đứng tên Đại Tổng Hội Tam điểm. Hành động tự nguyện hết sức hào phóng này, như Mal’akh tiên liệu, đủ mạnh để giúp gã nhanh chóng được mời vào đẳng cấp 33 tinh tuý. Nhưng ta vẫn chưa được biết về các bí mật.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

69#
 Tác giả| Đăng lúc 16-4-2012 05:04:54 | Chỉ xem của tác giả
Mặc dù lâu nay người ta cứ xì xầm rằng “Tất cả sẽ được tiết lộ ở cấp 33”, nhưng Mal’akh không khai thác nổi điều gì mới mẻ hay hợp với mục đích tìm kiếm của mình. Tuy vậy, gã cũng chẳng mong sẽ được nghe người ta chia sẻ bí mật. Nội bộ Hội Tam điểm càng vào sâu càng thu hẹp… hẹp đến mức dẫu vài năm nữa Mal’akh cũng chưa chắc được đặt chân vào.

Nhưng gã chẳng cần. Việc nhập môn chỉ để phục vụ mục đích này. Có gì đó rất hiếm gặp đã xảy ra ngay trong Phòng Thánh lễ, và nó đã đem lại cho Mal’akh quyền năng vượt trên tất cả. Ta khéo còn phải chơi theo quy định của các người nữa.

- Ông có nhận ra rằng chúng ta đã từng gặp nhau nhiều năm về trước không? - Mal’akh nói và nhấp một ngụp trà.

Solomon lộ vẻ ngạc nhiên.

- Thật sao? Tôi không nhớ.

- Cũng đã lâu lắm rồi - Và Christopher Abaddon không phải tên thật của tôi.

- Xin lỗi. Đầu óc tôi đang già đi từng ngày. Xin nhắc lại xem tôi quen anh như thế nào nhỉ?

Mal’akh mỉm cười lần cuối với người đàn ông gã căm ghét hơn bất kỳ ai khác trên cõi đời này.

- Thật tiếc là ông không còn nhớ.

Bằng một động tác thuần thục, Mal’akh rút từ trong túi một thiết bị nhỏ xíu, giơ ra và phóng mạnh nó tới ngực ông già. Một tia chớp xanh lè nhá sáng, khẩu súng gây choáng kêu xèo xèo sắc lạnh, và một cơn đau buốt trùm lên Peter Solomon khi hàng triệu volt điện chạy qua người ông. Mắt mở lớn. Ông già gục xuống ghế, bất động.

Bấy giờ Mal’akh đứng dậy, cúi nhìn người đàn ông, vẻ thèm khát như một con sư tử sắp ăn thịt con mồi bị thương của nó. Solomon há hốc miệng, cố thở. Mal’akh nhìn thấy nỗi sợ hãi trong mắt nạn nhân của gã và tự hỏi có bao nhiêu người từng được chứng kiến ngài Peter Solomon vĩ đại rúm ró thế này.

Mal’akh tận hưởng cảnh tượng vài giây. Gã nhấp một ngụm trà, đợi cho ông già thở trở lại. Solomon quằn quại, cố nói.

- Tạ… tại sao? - cuối cùng ông cũng bật ra thành tiếng.

- Vậy ông nghĩ sao? - Mal’akh hỏi lại.

Solomon thực sự ngơ ngác.

- Anh muốn… tiền ư?

Tiền à? Mal’akh cười phá lên và nhấp một ngụm trà nữa.

- Tôi đã tặng cho Hội Tam điểm hàng triệu đô la, tôi đâu có cần tiền. Tôi đến để lấy tri thức, và thứ đó làm cho tôi giàu có.

- Vậy thì… anh muốn gì?

- Ông nắm giữ một bí mật. Ông sẽ cho tôi biết điều đó tối nay.

Solomon cố nhấc đầu lên để có thể nhìn vào mắt Mal’akh.

- Tôi không… hiểu.

- Đừng dối trá nữa! - Mal’akh gào lớn, tiến sát lại ông già đã bị tê liệt. - Tôi biết có một thứ đang được cất giấu ở Washington này.

Đôi mắt xám của Solomon tỏ ra thách thức.

- Tôi không hiểu anh đang nói về chuyện gì!

Mal’akh nhấp một ngụm trà nữa và bỏ cái chén vào khay.

- Ông đã nói câu này với tôi mười năm về trước, vào đúng cái đêm mẹ ông chết.

Đôi mắt Solomon mở to.

- Mày…?

- Lẽ ra bà ấy đã không chết. Nếu ông đưa cho tôi thứ mà tôi muốn…

Gương mặt ông già nhăn nhúm vì đau đớn… và không sao tin nổi.

- Tôi đã cảnh cáo ông, - Mal’akh nói - nếu ông bóp cò, tôi sẽ ám ảnh ông mãi mãi.

- Nhưng mày…

Mal’akh lao bổ tới, một lần nữa dí thật mạnh khẩu súng điện vào ngực Solomon. Lại một tia lửa xanh lè nhá lên, và Solomon hoàn toàn tê liệt. Mal’akh bỏ khẩu súng điện vào túi và thản nhiên uống nốt chén trà. Uống xong, gã lau miệng bằng chiếc khăn tay vải lanh thêu chữ lồng và cúi nhìn nạn nhân của mình.

- Chúng ta đi nào!

Cơ thể Solomon bất động, nhưng mắt ông vẫn mở to. Mal’akh cúi xuống và thì thầm vào tai ông già.

- Tôi sẽ đưa ông tới một nơi chỉ có sự thật mà thôi.

Không nói thêm lời nào. Mal’akh nhét chiếc khăn tay vào miệng Solomon. Sau đó, gã xốc ông già bất động lên đôi vai vạm vỡ của mình và tiến ra phía thang máy. Trên đường đi ra, gã nhặt lấy chiếc iPhone cùng chìa khoá của Solomon để trên bàn. Tối nay, ông sẽ cho tôi biết tất cả những bí mật của ông, Mal’akh nghĩ thầm. Kể cả lý do tại sao ông để mặc tôi chết nhiều năm về trước.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

70#
 Tác giả| Đăng lúc 16-4-2012 05:06:52 | Chỉ xem của tác giả
Chương 30


Tầng SB. Tầng hầm Thượng viện. Càng đi sâu xuống, Robert Langdon càng thấy tâm lý trĩu nặng nỗi sợ không gian hẹp. Khi họ tiến vào phần nền móng nguyên thuỷ của toà nhà, không khí trở nên đặc quánh, tựa hồ không có hệ thống thông gió. Các bức tường ở đây được xây lẫn lộn bằng đá và gạch màu vàng.

Giám đốc Sato vẫn bấm phím chiếc Blackberry suốt dọc đường đi. Langdon cảm thấy đằng sau điệu bộ thận trọng kia, bà ta đang nghi ngờ điều gì đó, nhưng chính anh cũng thấy ngờ vực về bà ta. Sato vẫn không nói cho Langdon biết bằng cách nào bà ta hay tin anh có mặt ở đây tối nay. Vấn đề an ninh quốc gia ư?

Có thời anh đã phải rất nhọc nhằn mới hiểu được mối quan hệ giữa chủ nghĩa thần bí cổ đại và vấn đề an ninh quốc gia. Lại một lần nữa, anh thấy khó khăn trong việc tìm hiểu những điều liên quan đến tình huống này. Peter Solomon tin tưởng gửi gắm mình một lá bùa… một thằng điên dối trá đã lừa mình mang nó tới Điện Capitol và muốn mình dùng nó để mở một cánh cổng bí mật… có lẽ nằm ở trong một căn phòng gọi là SBB13. Mọi việc không được rõ ràng lắm.

Vừa theo hai người kia hối hả bước đi, Langdon vừa cố gắng gạt bỏ khỏi tâm trí mình hình ảnh hãi hùng về bàn tay có hình xăm bị biến cải thành Mật Thủ của Peter. Hình ảnh kinh khủng ấy đi kèm với tiếng ông nói: Những bí ẩn cổ xưa, Robert ạ, sinh ra nhiều huyền tích… nhưng điều đó không có nghĩa rằng bản thân chúng là hư cấu.

Mặc dù đã dành cả đời nghiên cứu về những biểu tượng và lịch sử kỳ bí. Langdon vẫn tỉnh táo phản đối mọi ý tưởng về Bí ẩn cổ xưa cũng như lời hứa hẹn phong thần phong thánh của các bí mật ấy. Phải thừa nhận rằng, tài liệu lịch sử có chứa một bằng chứng không thể chối cãi, theo đó tri thức bí ẩn khởi nguồn từ Mật phái ở Ai Cập cổ đại rồi được lưu truyền qua nhiều thế hệ.

Phần lớn các ghi chép cho thấy nó rút vào bóng tối đến tận thời Phục Hưng mới tái xuất ở châu Âu, và được gửi gắm cho một nhóm khoa học gia tinh tuý. Nhóm này làm việc giữa bốn bức tường của Hiệp hội Hoàng gia London - cơ sở khoa học hàng đầu châu Âu - và được mệnh danh rất khó hiểu là Đại học Vô hình.  

Cái “đại học” ẩn dạng này nhanh chóng trở thành bộ tham mưu của những trí tuệ sáng láng nhất thế giới, như Isaac Newton, Francis Bacon, Robert Boyle, và cả Benjamin Franklin. Danh sách tín đồ hiện đại cũng không kém phần ấn tượng, nào là Einstein, Hawking, nào là Bohr, Celsius - những bộ óc vĩ đại đã đem lại nhiều bước nhảy vọt phi thường trong hiểu biết của nhân loại. Một số người cho rằng thành tựu tiên tiến ấy là kết quả của việc họ được tiếp xúc với tri thức cổ xưa cất giấu ngay trong Đại học Vô hình.

Langdon không bao giờ tin giả thuyết này, mặc dù chắc chắn là có rất nhiều “công việc bí ẩn” diễn ra trong mấy bức tường này. Năm 1936, cả thế giới kinh ngạc khi phát hiện ra nhiều tài liệu riêng tư cho thấy Isaac Newton rất say mê nghiên cứu thuật giả kim cổ đại và tri thức thần bí, trong số đó có một bức thư viết tay gửi cho Robert Boyle khuyến nghị ông này giữ “im lặng” về những kiến thức bí mật mà họ đã tiếp thu được.

“Đừng truyền bá nó,” Newton viết “kẻo sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến thế giới”. Cho đến giờ người ta vẫn tranh cãi về ý nghĩa của câu cảnh báo lạ lùng này.

- Giáo sư, - Sato đột ngột lên tiếng, rời mắt khỏi cái Blackberry của bà ta - mặc dù ông khăng khăng nói rằng ông không lý giải nổi tại sao mình lại ở đây tối nay, nhưng có lẽ ông phải thấy nảy ra manh mối nào đó về ý nghĩa chiếc nhẫn của Peter Solomon chứ!

- Tôi sẽ cố gắng xem sao, - Langdon đáp, tập trung trở lại.

Sato lôi cái túi đựng mẫu vật ra và đưa cho Langdon.

- Cho tôi biết về những biểu tượng trên chiếc nhẫn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách