Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: nail65
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết - Xuất Bản] Biểu Tượng Thất Truyền | Dan Brown

[Lấy địa chỉ]
141#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2012 04:22:03 | Chỉ xem của tác giả
Chương 71


Mal’akh trần truồng đứng trong phòng tắm hơi, giữa hơi nước nóng cuồn cuộn. Gột xong vệt mùi ethanol cuối cùng, gã thấy mình thanh khiết trở lại. Hơi nước ngâm dầu khuynh diệp ngấm vào da, nhiệt độ cao khiến các lỗ chân lông gã nở rộng. Mal’akh bắt đầu tiến hành nghi thức.  

Trước tiên, gã trát hoá chất tẩy lông khắp người và cả mảng da đầu xăm trổ kín mít để loại bỏ hoàn toàn mọi thứ lông, tóc. Những người không có lông lá là thần thánh của bảy hòn đảo Heliades(70), sau đó, gã xoa đều dầu Abramelin lên lớp da thịt đã mềm mại và dễ hấp thu của mình. Abramelin là dầu thiêng của mẹ Magi vĩ đại. Rồi gã vặn hết cỡ vòi tắm sang trái, nước trút xuống lạnh như băng.

Gã đứng hẳn một phút dưới làn nước buốt giá để các lỗ chân lông khép lại và giữ lấy hơi ấm cùng năng lượng. Cái lạnh còn có tác dụng gợi nhớ dòng sông băng giá, nơi khởi đầu cho hành trình biến đổi này. Khi bước ra khỏi phòng tắm, Mal’akh rùng mình, nhưng chỉ vài giây sau, hơi ấm bên trong lan toả qua từng thớ thịt và làm gã ấm lên. Mal’akh cảm thấy trong người nóng sực như lò lửa.

Gã đứng trần truồng trước gương và ngắm nghía hình thể của mình… có lẽ là lần cuối cùng, nhìn thấy bản thân trong bộ dạng một kẻ phàm tục hèn mọn. Hai bàn chân gã là móng vuốt của một con chim ưng. Đôi chân là cặp cột tượng trưng cho trí tuệ cổ đại: Boaz và Jachin. Hông và bụng gã là cổng vòm của sức mạnh thần bí. Ngay bên dưới cổng vòm ấy, cơ quan sinh dục cỡ lớn mang đầy những biểu tượng xăm trổ thể hiện định mệnh của gã. Đã có lúc, cái khối thịt nặng nề này là nguồn khoái cảm nhục dục của gã. Nhưng giờ thì không như vậy nữa.Ta đã giữ mình thanh khiết.  

Như các tu sĩ tĩnh thân dòng Katharoi(71), Mal’akh đã tự cắt bỏ tinh hoàn, hy sinh khả năng giao cấu thể xác vì một thứ xứng đáng hơn. Thần thánh làm gì có giới tính. Vứt bỏ sự kém hoàn hảo về giới tính của loài người cùng với cám dỗ nhục dục trần tục, Mal’akh trở thành Ouranos(72) Attis(73), Sporus(74) và những pháp sư tĩnh thân vĩ đại trong truyền thuyết về vua Arthur. Mọi biến thái vật chất sẽ dẫn tới biến thái tinh thần. Đó là bài học của tất cả các vị thần vĩ đại… từ Osiris, Tammuz, Jesus, tới Shiva và cả Phật tổ. Ta phải trút bỏ cái lốt người phàm bấy nay.  

Bất ngờ, Mal’akh đẩy dần ánh mắt lên cao, qua hình phượng hoàng hai đầu trên ngực, qua những con dấu cổ trang trí trên mặt, và lên thẳng đỉnh đầu. Gã nghiêng đầu về phía gương, cố nhìn khoảng da tròn nhẵn nhụi vẫn nằm chờ đợi ở đó. Đây là vị trí rất thiêng liêng trên cơ thể, với tên gọi “cái thóp”, là vùng sọ không liền khi người ta mới chào đời, là con mắt nhìn vào não bộ. Mặc dù cánh cổng sinh lý học này khép lại dần theo năm tháng nhưng nó vẫn là một dấu tích mang tính biểu trưng cho sự liên hệ đã mất giữa thế giới bên trong và bên ngoài.  

Mal’akh ngắm nghía mảng da trơn thiêng liêng đó. Bao quanh nó là một vòng tròn hình hàm vĩ xà (ouroboros), mô tả một con rắn huyền bí đang ăn đuôi của chính mình. Mảng thịt nhẵn nhụi dường như cũng nhìn lại gã… rạng rỡ đầy hứa hẹn. Không lâu nữa. Robert Langdon sẽ khám phá ra kho báu vĩ đại mà Mal’akh cần. Hễ gã nắm lấy kho báu ấy, khoảng trống trên đỉnh đầu này sẽ được lấp kín, đó là lúc sẵn sàng để tiến vào quá trình chuyển đổi cuối cùng.  

Mal’akh băng ngang phòng ngủ, mở ngăn tủ dưới cùng và lấy ra một tấm lụa trắng dài. Tương tự các lần trước đó, gã quấn nó quanh bẹn và mông, rồi đi xuống gác. Gã vào phòng làm việc, kiểm tra máy tính thì thấy có một bức thư điện tử. Từ một người quen:  

NHỮNG GÌ ANH CẦN GIỜ TRONG TẦM TAY. TÔI SẼ LIÊN LẠC VỚI ANH TRONG VÒNG MỘT GIỜ NỮA. CỨ KIÊN NHẪN.  

Mal’akh mỉm cười. Đã đến lúc thực hiện thao tác chuẩn bị cuối cùng.  

Chú thích:
(70) Heliades là một thiên đường gồm bảy hòn đảo ở phương nam, nằm đâu đó ngoài khơi Aithiopia và Ấn Độ, tại Ấn Độ Dương. Đây là một vùng đất thanh bình, không có mùa đông, với những cánh rừng hoa trái quanh năm. Cư dân ở đây là một chủng tộc xinh đẹp và đức hạnh. Họ cao ráo và hoàn toàn không có lông - trừ trên đầu, cằm và lông mày. Họ có đôi tai có vân và lưỡi chẻ nên họ có thể nói chuyện với hai người khác nhau cùng một lúc, cũng như bắt chước được tiếng các loài. Họ mặc áo choàng bằng vải lanh nhuộm màu tía. Cư dân Heliades (thần dân của Mặt trời) sống rất lâu. Đến tuổi 150, họ phải trải qua một hình thức chết mà không đau đớn. Mỗi hòn đảo có một vị vua, người lớn tuổi nhất đảo, trị vì. Ở nơi này không có gia đình. Trẻ em được nuôi chung và kiến thức làm cha mẹ bị cấm ngặt. Lúc mới chào đời, trẻ sơ sinh được đặt lên lưng một con chim thần để xác định khuynh hướng tinh thần của chúng. Những đứa trẻ không qua được “bài kiểm tra này sẽ bị loại bỏ và bị bỏ mặc cho tới chết - ND.
(71) Katharoi là từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “thuần khiết”, dùng để chỉ một trường phái Thiên Chúa giáo với các yếu tố đối ngẫu xuất hiện ở vùng Languedoc nước Pháp và các vùng khác của châu Âu trong thế kỷ XI-XIII. Các tín đồ phái này hình thành một nhóm bài tăng lữ đối lập với Nhà thờ Công giáo, phản đối những gì họ xem là sự suy đồi về đạo đức, tinh thần và chính trị của Nhà thờ. Họ cho rằng giao phối và sinh nở khiến cho tinh thần bị lệ thuộc vào xác thịt, do đó có thể gây ra nhiều phiền toái. Những người thuộc tầng lớp trên (Perfecti) phải sống độc thân hoàn toàn - ND.
(72) Uranus hay Ouranus nghĩa là “bầu trời”. Trong thần thoại Hy Lạp, Uranus được hình tượng hoá như là con trai và cũng là chồng của Đất Mẹ Gaia. Uranus và Gaia là thuỷ tổ của hầu hết các thần Hy Lạp. Theo truyền thuyết, đêm đêm Uranus trùm lên trái đất và giao cấu với Gaia, nhưng lại rất ghét những đứa con mà bà có với ông. Uranus giam những đứa con của Gaia ở Tartarus, sâu trong lòng đất, khiến cho Gaia đau xót. Bà đúc một lưỡi hái và bảo các con trai của mình dùng nó để thiến Uranus. Chỉ có Cronus, đứa út dám làm việc này. Cronus phục kích và thiến cha mình, vứt tinh hoàn xuống biển. Sau khi bị thiến, Bầu trời không còn trùm lên Mặt đất nữa, mà ở nguyên một chỗ - ND.
(73) Attis theo thần thoại cổ là người tình của nữ thần Cybele. Attis không chung thuỷ nên bị Cybele trả thù bằng cách làm cho ông ta hoá điên và tự thiến mình. Các thày tế thờ cúng Attis đều tự hoạn - ND.
(74) Sporus là một thanh niên xinh đẹp có vẻ ngoài rất giống Poppaea Sabina, vợ của bạo chúa Nero. Khi Sabina chết năm 63 sau Công nguyên, Nero say mê thanh niên này, bắt anh ta phải thiến rồi cho mặc quần áo phụ nữ, và gọi anh ta bằng cái tên Sabina. Nero thậm chí còn công khai cưới Sporus vào năm 67 sau Công nguyên - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

142#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2012 04:23:14 | Chỉ xem của tác giả
Chương 72


Đặc vụ CIA tụt xuống khỏi ban công phòng đọc, lòng vô cùng cay cú. Lão Bellamy nói dối. Anh ta không phát hiện ra dấu nhiệt nào gần bức tượng Moses cũng như bất kỳ đâu trên gác.

- Thế thì tay Langdon biến đi đằng quái nào nhỉ?  

Gã đặc vụ lần lại lộ trình của Langdon tới trung tâm phân phối của thư viện, địa điểm duy nhất xuất hiện dấu nhiệt. Một lần nữa, anh ta đi xuống cầu thang nằm bên dưới cái bục hình bát giác. Các băng chuyền đang chạy phát ra tiếng ồn nghe thật khó chịu.

Vào tới nơi, gã đặc vụ chỉnh thiết bị nhìn đêm và quan sát căn phòng một lượt. Chẳng có gì cả. Anh ta nhìn về phía những giá sách, cánh cửa bị phá hỏng vẫn còn nghi ngút hơi nóng do vụ nổ. Chẳng thấy… Mẹ kiếp! Anh ta nhảy bật lại khi một vệt phát quang bất ngờ lọt vào tầm nhìn. Đó là hai hình người lờ mờ như cặp ma trơi, xuất hiện trên mặt tường cạnh một băng chuyền. Các dấu nhiệt.  

Gã đặc vụ thừ người nhìn hai bóng ma theo băng chuyền di chuyển quanh phòng rồi biến mất sau một lỗ hổng hẹp trên tường. Họ dùng băng chuyền để thoát thân ư? Đúng là điên rồ.  

Ngoài việc nhận ra họ đã để sổng Robert Langdon qua một lổ hổng trên tường, gã đặc vụ còn hiểu rằng mình đang gặp phải một vấn đề khác. Langdon không chỉ có một mình?  

Anh ta định tắt thiết bị nhìn và gọi cho đội trưởng, thì đội trưởng đã gọi lại trước.

- Các vị trí chú ý, có một chiếc Volvo bỏ không ở ngay quảng trường trước thư viện. Tên chủ xe là Katherine Solomon. Nhân chứng nói rằng cô ta vào thư viện cách đây không lâu. Chắc hẳn cô ta đang ở cùng Robert Langdon. Giám đốc Sato ra lệnh phải tìm cả hai ngay lập tức.  

- Tôi vừa phát hiện dấu nhiệt của bọn họ - gã đặc vụ ở phòng phân phối thông báo.

- Lạy Chúa tôi! - viên đội trưởng hỏi - Băng chuyền chạy đi chỗ nào thế?

Gã kia kiểm tra biểu đồ tham chiếu nhân viên trên bảng tin.

- Toà nhà Adams, - anh ta đáp - Cách đây một dãy nhà.  

- Các vị trí chú ý! Dồn hết về Toà nhà Adams! NGAY LẬP TỨC!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

143#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2012 04:25:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 73


Chỗ ẩn náu. Câu trả lời. Mấy từ đó cứ ong ong trong tâm trí Langdon khi anh cùng Katherine bước qua cửa ngách Toà nhà Adams ra trời đêm mùa đông lạnh lẽo. Người gọi bí mật kia đã chỉ dẫn vị trí của mình theo kiểu mã hoá, nhưng Langdon vẫn hiểu. Katherine có vẻ tin tưởng đích đến ấy một cách đáng ngạc nhiên: Còn nơi nào tốt hơn để tìm một Đức Chúa Đích thực? Vấn đề là làm sao tới được đó.  

Langdon nhìn quanh, cố gắng xác định phương hướng. Trời tối om, nhưng may là trong trẻo. Họ đang đứng trong một khoảnh sân nhỏ. Phía xa, Mái vòm Điện Capitol hiện lên tráng lệ, Langdon sực nhớ đã mấy tiếng rồi kể từ khi đặt chân tới đây, bây giờ anh mới được bước chân ra ngoài trời. Bài thuyết giảng của mình quá cực nhọc.

- Robert, nhìn kìa, - Katherine trỏ về phía Toà nhà Jefferson(75).  

Phản ứng đầu tiên của Langdon khi nhìn thấy toà nhà là sự ngạc nhiên, bởi họ đã di chuyển thật xa dưới lòng đất bằng một cái băng chuyền. Tuy nhiên, phản ứng thứ hai của anh là giật mình cảnh giác.  

Lúc này Toà nhà Jefferson rất ồn ào, xe tải và xe con ùn ùn kéo tới, tiếng người la hét, quát tháo. Lại có cả đèn rọi thì phải? Langdon nắm lấy tay Katherine.

- Mình đi thôi!  

Họ băng qua khoảnh sân, lao về phía đông bắc, mau chóng khuất dạng sau một toà nhà hình chữ U rất đẹp. Langdon nhận ra đó là Thư viện Folger Shakespeare. Toà nhà đặc biệt này xem ra là lớp nguỵ trang rất thích hợp cho họ tối nay, vì ở đó có bản thảo gốc tiếng Latin cuốn Newatlantis của Francis Bacon, trình bày một quan điểm viễn tưởng mà những người sáng lập nước Mỹ dựa vào để xây dựng mô hình thế giới mới trên nền tảng tri thức cổ xưa.

Mặc dù vậy. Langdon vẫn không dừng lại ở đây.

- Chúng ta cần một chiếc taxi.  

Họ đến góc giao giữa phố Số 3 và phố East Capitol. Xe cộ khá thưa thớt, Langdon đưa mắt tìm taxi, lòng thấy mất dần hy vọng. Anh và Katherine vội vã đi dọc phố Số 3, tiến lên phía bắc, cố tránh xa Thư viện Quốc hội. Đi hết cả một dãy nhà Langdon mới nhìn thấy một chiếc taxi đang vòng qua góc phố. Anh ra hiệu cho xe chậm lại, chiếc xe sáp tới.  

Radio xe đang bật nhạc vùng Trung Đông. Anh chàng lái xe gốc Ả rập mỉm cười thân thiện. Đợi hai người chui vào xe xong, anh ta hỏi.

- Đi đâu đây?

- Chúng tôi cần tới…  

- Khu Tây bắc! - Katherine xen ngang, chỉ theo hướng phố Số 3 chạy xa khỏi Toà nhà Jefferson - Cho xe về Nhà ga Union, sau đó rẽ trái vào Đại lộ Massachusetts. Chúng tôi sẽ cho anh biết phải dừng lại chỗ nào.

Người lái xe nhún vai, đóng vách ngăn bằng kính Plexiglas và lại vặn nhạc lên.

Chú thích:
(75) Toà nhà Thomas Jefferson là toà nhà lâu đời nhất trong số ba toà nhà của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, xây dựng trong thời gian 1890 đến 1897. Toà nhà này là nơi tập hợp các tác phẩm của những điêu khắc và hoạ sĩ trường phái “Phục Hưng Mỹ”, thể hiện sự tiến bộ của nền văn minh, được nhân cách hoá vào những vĩ nhân. Phần ngoại thất, các vòm cửa sổ được trang trí các đầu tượng chân dung - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

144#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2012 04:28:10 | Chỉ xem của tác giả
Katherine dùng ánh mắt nhắc nhở Langdon: “Đừng để lộ hành trình”. Cô trỏ tay ra cửa sổ. Một chiếc trực thăng màu đen đang bay là là cố tiếp cận khu vực này. Chết thật. Rõ ràng Sato rất quyết tâm lấy lại cái kim tự tháp của Solomon. Khi chiếc trực thăng đáp xuống giữa hai toà nhà Jefferson và Adams, Katherine quay sang Langdon, nét mặt thêm lo âu.

- Tôi xem điện thoại di động của anh một lát được không?

Langdon đưa điện thoại cho cô.  

- Peter kể với tôi rằng anh có khả năng ghi nhớ bằng hình ảnh - cô vừa nói vừa hạ kính cửa xe xuống - Và anh nhớ tất cả mọi số điện thoại anh từng bấm phải không?

- Phải, nhưng mà…   Katherine ném mạnh điện thoại ra ngoài.

Langdon xoay người trên ghế nhìn chiếc điện thoại di động của mình lăn lông lốc và vỡ tung trên vỉa hè phía sau họ.

- Sao chị lại làm thế?

- Ngắt liên lạc, - Katherine nói, ánh mắt nghiêm trang - Kim tự tháp là hy vọng duy nhất để tìm ra Peter. Tôi không định để CIA giằng nó khỏi tay chúng ta.  

Trên hàng ghế trước, Omar Amirana lắc lư đầu và rên ư ử theo tiếng nhạc. Đêm trôi thật chậm, anh cảm thấy may mắn vì cuối cùng cũng có khách. Chiếc taxi vừa chạy qua Công viên Stanton thì giọng nói quen thuộc của nhân viên điều hành vang lên trên bộ đàm.

- Trung tâm điều phối đây. Các xe trong khu vực Công viên Quốc gia chú ý. Chúng tôi vừa nhận được một bản tin từ chính quyền, thông báo có hai kẻ bỏ trốn gần Toà nhà Adams…  

Omar ngạc nhiên lắng nghe nhân viên điều phối mô tả đúng đôi trai gái ngồi trong xe anh. Anh lén nhìn qua kính chiếu hậu. Omar phải thừa nhận, anh chàng cao ráo kia thật sự trông rất quen. Hay là mình đã nhìn thấy anh ta trên chương trình America”s Most Wanted(76) nhỉ?  

Rất thận trọng, Omar với lấy máy bộ đàm.

- Trung tâm điều phối? - Anh nói khẽ vào bộ đàm - Đây là xe một-ba-bốn. Hai người mà trung tâm vừa nhắc đến đang ở trong xe tôi…  

Trung tâm lập tức hướng dẫn những việc Omar cần làm. Tay run bắn, người lái xe bấm phím gọi số máy mà nhân viên điều phối vừa đưa. Giọng trả lời rất ngắn gọn và hiệu quả, như của một quân nhân.

- Đặc vụ Turner Simkins, Nhóm tác chiến CIA đây. Ai đấy?  

- A tôi là lái xe taxi… - Omar đáp - Trung tâm bảo tôi gọi cho ông để thông báo về hai…

- Những kẻ chạy trốn đang trên xe của anh phải không? Chỉ trả lời đúng hoặc không thôi.

- Đúng.  

- Họ có nghe được cuộc trò chuyện này không? Có hoặc không?

- Không. Vách ngăn…  

- Anh đang chở họ đi đâu?

- Hướng tây bắc, đến Đại lộ Massachusetts.  

- Địa điểm cụ thể?

- Họ không nói.

Đặc vụ CIA lưỡng lự.  

- Hành khách nam còn mang theo cái túi da không? Omar liếc qua kính chiếu hậu, quét nhanh mắt sang bên cạnh.

- Còn! Cái túi đó không có chất nổ hay thứ gì bên trong…  

- Nghe kỹ đây, - đặc vụ kia nói - Anh không gặp nguy hiểm chừng nào anh làm theo đúng hướng dẫn của tôi. Rõ chưa?

- Vâng, thưa ông.

- Tên anh là gì nhỉ?

- Omar, - anh chàng lái taxi đáp, mồ hôi vã ra như tắm.  

- Nghe này, Omar, - người kia bình tĩnh dặn - Anh hành động rất tốt. Tôi muốn anh lái xe chậm hết mức để tôi kịp cho người chặn đường. Anh có hiểu không?

- Vâng, thưa ông.  

- Xe anh có thiết bị đàm thoại nội bộ để trao đổi với khách ngồi sau chứ?

- Vâng, thưa ông.  

- Tốt. Vậy đây là những gì tôi muốn anh làm.

Chú thích:
(76) Chương trình America’s Most Wanted là một chương trình truyền hình Mỹ do hãng 20th Century Fox sản xuất, và là chương trình phát sóng lâu nhất trong lịch sử mạng truyền hình của Fox. Mục đích của chương trình là giới thiệu và hỗ trợ việc thực thi luật pháp trong việc bắt giữ những tội phạm trốn chạy bị truy nã, và cả những người có trong danh sách 10 đối tượng bị truy nã gắt gao nhất của FBI - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

145#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2012 04:32:02 | Chỉ xem của tác giả
Chương 74


Vườn Bách thảo Hoa Kỳ (USBG) - bảo tàng sống của nước Mỹ - nằm ngay cạnh Điện Capitol. Ở chính giữa vườn này là một nhà kính cao ngất, ôm trọn khu rừng mưa nhiệt đới có biệt hiệu Rừng rậm. Trong rừng trồng toàn những thân cao su lừng lững, những cây đa tán rộng, và một lối đi có mái che dành cho các du khách ưa mạo hiểm.  

Bình thường, Warren Bellamy luôn cảm thấy tràn trề sinh lực trước mùi đất ngai ngái của Rừng rậm và ánh mặt trời lấp lóe qua lớp hơi nước mù mịt phì ra từ các vòi xịt trên trần kính. Nhưng đêm nay, Rừng rậm ngập trong ánh trăng lại khiến ông kinh sợ. Người đầm đìa mồ hôi. Bellamy oằn mình chống chọi cơn tê buốt đang lan khắp hai cánh tay vẫn bị trói quặt sau lưng.  

Giám đốc Sato đi đi lại lại trước mặt ông, thản nhiên rít thuốc lá - một hành động huỷ hoại sinh thái trong môi trường được chăm chút hết sức cẩn thận này. Gương mặt bà ta gần như ma quái sau đám khói thuốc trộn lẫn ánh trăng chảy xuống từ trần kính phía trên.  

- Vậy là tối nay - bà ta tiếp tục - khi ông đến Điện Capitol và phát hiện ra sự có mặt của tôi… ông đã quyết định. Thay vì thông báo cho tôi biết, ông lại lặng lẽ mò xuống SBB, táo gan tấn công Chỉ huy Anderson và tôi, rồi giúp Langdon tẩu thoát cùng kim tự tháp và cái chóp - Bà ta xoa xoa vai - Một lựa chọn thật thú vị.

Dẫu lựa chọn lại tôi sẽ vẫn hành động như vậy, Bellamy nghĩ.  

- Peter đâu? - ông giận dữ chất vấn.

- Làm sao tôi biết được? - Sato tỉnh bơ.

- Bà biết tất cả mọi việc! - Bellamy quát lại, chẳng buồn che giấu nỗi nghi ngờ rằng con người này đứng sau tất cả mọi việc - Bà biết đường tìm đến Điện Capitol. Bà biết đường tìm Robert Langdon. Thậm chí bà còn biết chụp X quang túi xách của anh ta để tìm cái chóp. Rõ ràng có kẻ tay trong đã cung cấp cho bà rất nhiều thông tin.  

Sato cười lạnh tanh và bước lại gần Bellamy hơn.

- Đó là lý do khiến ông tấn công tôi phải không? Ông coi tôi là kẻ thù chăng? Ông cho rằng tôi đang tìm cách đánh cắp cái kim tự tháp bé xíu ấy? - Sato rít một hơi thuốc và phả khói qua lỗ mũi - Nghe cho kỹ đây. Không ai hiểu rõ hơn tôi về tầm quan trọng của việc giữ bí mật. Cũng như ông, tôi tin rằng có nhiều thông tin mà công chúng tuyệt đối không nên biết. Tuy nhiên đêm nay, có những thế lực đang tự tung tự tác mà tôi e rằng ông chưa lường hết. Cái gã bắt cóc Peter Solomon sở hữu quyền năng rất ghê gớm… một quyền năng mà rõ ràng ông chưa nhận ra. Tin tôi đi, gã là một quả bom hẹn giờ di động… đủ sức kích thích một loạt sự kiện chắc chắn gây đảo lộn cả thế giới này.  

- Tôi không hiểu - Bellamy nhổm khỏi ghế, cánh tay đau điếng vì cái còng.

- Ông không cần hiểu. Ông cần tuân lệnh. Bây giờ, hy vọng duy nhất để ngăn chặn thảm hoạ ghê gớm là hợp tác với gã này… và trao cho gã đúng những gì gã muốn. Nghĩa là, ông hãy gọi cho Langdon và bảo anh ta quay lại cùng với cái kim tự tháp và cái chóp. Với sự quản thúc của tôi, anh ta sẽ giải mã các văn tự trên kim tự tháp, thu thập các thông tin gã kia đòi hỏi và cung cấp cho gã đúng những gì gã muốn.  

Vị trí của cầu thang xoáy ốc dẫn tới những Bí mật cổ xưa ư?

- Tôi không thể làm như vậy. Tôi đã thề giữ bí mật.  

Sato nổi cáu.

- Tôi mặc mẹ chuyện ông thề thốt, tôi sẽ quẳng ông vào tù…

- Cứ việc doạ dẫm - Bellamy thách thức - Tôi sẽ không giúp bà đâu.  

Sato hít một hơi thật sâu và thì thào bằng giọng đáng sợ.

- Thưa ông Bellamy, ông chưa hiểu những gì đang thực sự diễn ra đêm nay, phải không?

Sự im lặng căng thẳng kéo dài vài giây, cuối cùng được phá vỡ nhờ tiếng điện thoại của Sato. Bà ta thò tay vào túi, nôn nóng móc điện thoại ra.  

- Nói đi. - bà ta ra lệnh và chăm chú nghe trả lời - Taxi của họ đang ở đâu? Bao lâu? Được, tốt lắm. Mang họ tới Vườn Bách thảo. Lối dành riêng ấy, và nhớ phải lấy được cái kim tự tháp chết tiệt cùng chóp của nó nhé.  

Sato tắt máy, quay lại phía Bellamy với nụ cười tự mãn.

- Giờ thì tốt rồi… ông sắp hết giá trị sử dụng rồi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

146#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2012 04:34:42 | Chỉ xem của tác giả
Chương 75


Robert Langdon ngó mông lung ra khoảng không, mỏi mệt đến nỗi xe đang chạy rề rề mà anh cũng chẳng buồn giục tài xế lái nhanh hơn. Bên cạnh anh, Katherine rơi vào trạng thái trầm tư, xem chừng chán nản bởi sự thiếu hụt thông tin về tầm quan trọng của kim tự tháp.  

Cô và Langdon vừa dượt lại tất cả các chi tiết quanh ngọn tháp, cái chóp và những sự việc kỳ lạ tối nay, song vẫn chẳng hiểu tại sao kim tự tháp này lại được coi là bản đồ chỉ dẫn. Jeova Sanctus Unus? Bí mật giấu trong Tổ Chức? Người liên lạc bí mật đã hứa sẽ cho họ biết câu trả lời nếu họ đến gặp ông. Ở một chỗ trú trong thành Rome, phía bắc sông Tiber.  

Langdon biết “thành Rome mới” của tiền nhân đã được đặt tên là Washington ngay từ buổi đầu lịch sử, nhưng những dấu tích về giấc mơ nguyên thuỷ của họ thì vẫn còn: nước sông Tiber vẫn chảy vào sông Potomac, các thượng nghị sĩ vẫn họp bên dưới bản sao mái vòm giáo đường St. Peter, các vị thần Vulcan và Minerva vẫn nhìn xuống ngọn lửa đã tắt từ lâu của Nhà tròn.  

Những câu trả lời mà Langdon và Katherine tìm kiếm rõ ràng đang đợi họ ở phía trước, cách đây vài dặm. Hướng Tây bắc, trên Đại lộ Massachusetts. Đích đến của họ trên thực tế là nơi lánh nạn nằm mé bắc nhánh sông Tiber của Washington. Langdon mong sao người lái xe tăng tốc.  

Đột nhiên, Katherine bật dậy trên ghế cứ như thể vừa đột ngột nhận ra điều gì.

- Chúa ơi, Robert! - Cô quay sang anh, mặt trắng bệch, do dự một lát rồi nhấn mạnh - Chúng ta đang đi sai đường!

- Không, đường này đúng mà, - Langdon gạt đi - Hướng tây bắc, trên Đại lộ Massachu…

- Không! Ý tôi là chúng ta sẽ tới nhầm chỗ!  

Langdon bối rối. Anh đã cho Katherine biết người đàn ông nọ ám chỉ địa điểm nào. Nó có mười tảng đá lấy từ núi Sinai, một hòn từ thiên đường, và một hòn mang nét mặt người cha bí ẩn của Luke. Chỉ có duy nhất một toà nhà phù hợp với mô tả trên, và chính là điểm đích của chiếc taxi này.

- Katherine, tôi tin chắc đúng là nơi đó.  

- Không! - Katherine kêu lên - Chúng ta không cần tới chỗ ông ấy nữa. Tôi đã đoán ra kim tự tháp và cái chóp! Tôi biết chúng chỉ điều gì rồi!

Langdon tỏ ra ngạc nhiên.

- Chị biết rồi!  

- Đúng! Chúng ta phải tới Quảng trường Tự Do!(77)

Langdon không hiểu đầu cua tai nheo ra sao. Quảng trường Tự Do, mặc dù gần đây thôi,nhưng nghe chừng chẳng liên quan chút nào.  

Jeova Sanctus Unus! - Katherine giải thích - Một đức Chúa đích thực của người Do Thái. Biểu tượng thiêng liêng của người Do Thái là ngôi sao Do Thái, dấu ấn của Solomon, một biểu tượng quan trọng đối với Hội Tam điểm! - Cô moi tờ một đô la trong túi ra - Cho tôi mượn cây bút.  

Langdon rút bút khỏi túi áo.

- Xem này - Katherine trải tờ tiền lên đùi, đón cây bút và trỏ vào dấu Quốc ấn ở mặt sau tờ tiền - Nếu áp dấu ấn Solomon lên dấu Quốc ấn của Hoa Kỳ… - Cô vẽ biểu tượng ngôi sao Do Thái lên đúng hình kim tự tháp - Hãy xem anh thấy gì nào!

Langdon ngó xuống tờ tiền rồi ngơ ngác nhìn lại Katherine.  

- Robert, hãy nhìn kỹ hơn xem. Anh không nhận thấy tôi đang chỉ ra thứ gì ư?

Langdon quan sát lại hình vẽ.



Ý cô ấy là sao? Langdon đã từng nhìn thấy hình ảnh này. Nó rất quen thuộc với giới lý luận, như một “bằng chứng” cho thấy Hội Tam điểm nắm giữ ảnh hưởng bí mật đối với nước Mỹ thời kỳ đầu. Khi ngôi sao sáu cánh được đặt trùng khít lên dấu Quốc ấn của Hoa Kỳ, đỉnh ngôi sao sẽ trùng với con mắt thông huyền… và, rất kỳ lạ, năm cánh còn lại trỏ đúng các chữ cái M-A-S-O-N (Hội Tam điểm).

- Katherine, đây chỉ là một sự trùng hợp, tôi không thấy nó có liên hệ gì với Quảng trường Tự Do.

- Xem lại đi! - Katherine yêu cầu, giọng gần như giận dữ - Anh không thấy chỗ tôi đang chỉ sao? Ngay đây này. Anh không nhận ra à?

Chỉ trong tích tắc. Langdon nhìn ra.  

*     *     *  

Đội trưởng nhóm tác chiến CIA Turner Simkins đang đứng bên ngoài Toà nhà Adams, tai áp chặt điện thoại di động, gắng sức lắng nghe cuộc trao đổi diễn ra ở băng sau chiếc taxi. Có chuyện gì đó vừa xảy ra. Nhóm của anh ta định leo lên một chiếc trực thăng Sikorsky UH-60 cải tiến để bay lên phía tây bắc và lập chốt chặn, nhưng tình hình đột ngột thay đổi.  

Vài giây trước, Katherine Solomon cho rằng họ đang đi sai địa điểm. Lời giải thích của cô về đồng đô la và ngôi sao Do Thái nghe thật rối rắm đối với anh chàng đội trưởng, và rõ ràng cũng chẳng mấy minh bạch với Robert Langdon. Chí ít là lúc đầu. Nhưng bây giờ xem chừng Langdon đã hiểu ý cô.

- Chúa ơi, chị nói đúng! - Langdon buột miệng - Thế mà tôi không nhận ra sớm hơn!  

Tiếp đó, Simkins nghe tiếng đập mạnh vào vách ngăn, rồi tiếng vách ngăn mở ra.

- Thay đổi kế hoạch - Katherine nói như quát với người lái taxi - Đưa chúng tôi tới Quảng trường Tự Do.  

- Quảng trường Tự Do ạ? - Omar bồn chồn hỏi lại - Không lên phía tây bắc Massachusetts nữa à?

- Khỏi cần! - Katherine dằn giọng - Quảng trường Tự Do! Rẽ trái từ đây! Đây!

- Từ đây?  

Đặc vụ Simkins nghe thấy tiếng taxi ngoặt gấp. Katherine tiếp tục thảo luận một cách phấn khích, lần này là về bản mẫu Quốc ấn bằng đồng đặt tại Quảng trường Tự Do.  

- Thưa bà, xin xác nhận lại - giọng người lái taxi xen vào, nghe rất căng thẳng - Chúng ta sẽ tới Quảng trường Tự Do ở góc Đại lộ Pennsylvania và Phố 13?

- Phải! - Katherine đáp - Mau lên!  

- Rất gần thôi. Hai phút nữa.

Simkins mỉm cười. Làm tốt lắm, Omar. Anh ta lao nhanh tới chiếc trực thăng, thét gọi cả đội.  

- Chúng ta tóm được họ rồi! Quảng trường Tự Do! Đi! 

Chú thích:
(77) Quảng trường Tự Do (Freedom Plaza), thoạt tiên có tên Westem Plaza, là một quảng trường ở Tây Bắc Washington D.C., nằm tại góc giao của Phố 14 và Đại lộ Pennsylvania, ngay sát Công viên Pershing. Thiết kế năm 1880, quảng trường này chủ yếu bằng đá, được lát theo bản mô tả một phần quy hoạch Thành phố Washington của Pierre (Peter) Charles L’Enfant. Phần lớn quảng trường được nâng cao hơn so với cốt nền đường phố. Đầu phía tây của quảng trường có một đài phun nước lớn, còn đầu phía đông có bức tượng Kazimierz Pulaski cưỡi ngựa. Quảng trường được đặt lại tên theo Martin Luther King. Jr., người viết bài diễn thuyết “Tôi có một giấc mơ” tại Khách sạn Willard gần đó. Năm 1988, một hộp thời gian chứa cuốn Kinh thánh, chiếc áo choàng, và vài di vật khác của King được đặt tại đây. Nó sẽ được mở lại vào năm 2088. Vị trí của quảng trường chính là nơi giao nhau của các tuyến tàu điện ngầm. Nhà ga Federal Triangle Metro, đối diện với quảng trường qua Đại lộ Pennsylvania, dành cho tuyến Xanh lam và tuyến Da cam. Còn Ga Metro Center với các tuyến Đỏ, Xanh lam, Da cam thì nằm trên Phố 13, cách đó hai dãy nhà - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

147#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2012 15:34:38 | Chỉ xem của tác giả
Chương 76


Quảng trường Tự Do là một tấm bản đồ.  

Nằm ở góc Đại lộ Pennsylvania giao với Phố 13, bề mặt lát đá rộng mênh mông của khu vực này tái hiện đường phố Washington đúng như thiết kế nguyên bản của Pierre L’Enfant. Quảng trường Tự Do là điểm đến quen thuộc của khách du lịch, không chỉ vì tấm bản đồ khổng lồ thú vị mà còn vì luật sư Martin Luther Kinh Jr., từng viết phần lớn bài phát biểu “Tôi có một giấc mơ” tại Khách sạn Willard gần đó. Tên quảng trường được đặt lại cũng là để tôn vinh ông.  

Omar Amirana chở du khách tới Quảng trường Tự Do đã rất nhiều lần, nhưng hai hành khách tối nay rõ ràng không phải là người tham quan thông thường. CIA đang truy lùng họ? Omar chưa kịp đỗ lại bên lề thì hai người ấy đã nhảy ra.  

- Chờ ở đây nhé! - người đàn ông mặc chiếc áo khoác vải thô dặn Omar - Chúng tôi sẽ quay lại ngay!

Dứt lời, họ chạy vội ra chỗ tấm bản đồ khổng lồ, vừa quan sát hình các đường phố giao cắt nhau, vừa chỉ trỏ trao đổi. Omar nhìn theo, rồi vớ lấy điện thoại di động chỗ bảng điều khiển.  

- A lô, ông vẫn còn đó chứ?

- Phải! - một giọng quát to, rất khó nghe do tiếng ầm ầm bên phía anh ta - Giờ họ ở đâu?

- Đã ra chỗ tấm bản đồ. Hình như đang tìm kiếm gì đó.

- Đừng để họ thoát khỏi tầm mắt anh, - đặc vụ kia hét to - Tôi sắp đến nơi rồi!  

Omar tiếp tục theo dõi. Hai kẻ bị truy đuổi nhanh chóng tìm được dấu Quốc ấn nổi tiếng, một trong những tấm huy chương bằng đồng lớn nhất trên đời. Họ nấn ná ở đó chốc lát rồi trỏ về phía tây nam. Người đàn ông mặc áo vải tuýt chạy bổ trở lại taxi. Thấy anh ta hổn hển lao đến nơi, Omar nhanh chóng bỏ điện thoại xuống.  

- Hướng nào đi Alexandria, Virginia? - anh ta hỏi.

- Alexandria à? - Omar chỉ về tây nam, đúng hướng mà hai người khách vừa trỏ lúc nãy.

- Tôi hiểu rồi! - người đàn ông lào phào, vẫn thở hồng hộc, đoạn xoay ra hét to với người phụ nữ - Chị nói đúng! Alexandria!

Giờ người phụ nữ lại trỏ ngang quảng trường tới tấm biển “Tàu điện ngầm”, sáng rực gần đó.  

- Tuyến Xanh lam chạy thẳng tới Alexandria. Chúng ta cần đến ga King Street!

Omar phát hoảng. Ôi không!  

Người đàn ông quay lại trả tiền cho Omar, trả nhiều hơn cả cuốc xe.

- Cảm ơn. Chúng tôi đi đây - Anh ta vớ lấy túi da và nhấc chân chạy. - Đợi chút! Tôi có thể chở các vị! Tôi thường xuyên đến đấy!  

Nhưng đã quá muộn. Người đàn ông và người phụ nữ mau chóng băng qua Quảng trường Tự Do, khuất dạng trên cầu thang dẫn xuống ga tàu điện ngầm Metro Center. Omar vớ lấy điện thoại di động.

- Thưa ông! Họ xuống lối tàu điện ngầm. Tôi không ngăn được. Họ sẽ đón tàu Tuyến Xanh lam để đến Alexandria!

- Cứ ở nguyên tại chỗ! - Chỉ huy nhóm đặc vụ thét to - Tôi sẽ tới nơi trong vòng mười lăm giây nữa!  

Omar cúi nhìn mớ tiền mà người đàn ông vừa đưa. Tờ tiền trên cùng rõ ràng là tờ mà họ viết vào. Nó có hình một ngôi sao Do Thái chồng lên dấu Quốc ấn Hoa Kỳ, những cánh sao trùng đúng vào các chữ cái ghép thành từ MASON (Hội Tam điểm).  

Bất chợt, có tiếng rung ù ù trỗi lên xung quanh, cứ như thể một chiếc máy kéo sắp đâm vào taxi của Omar. Anh ta ngước mắt nhìn, nhưng đường phố vắng tanh. Tiếng động cứ lớn dần rồi đột nhiên, một chiếc trực thăng đen bóng xuất hiện trong màn đêm và đáp xuống chính giữa tấm bản đồ của Quảng trường Tự Do.

Một nhóm người mặc quần áo đen nhảy ào ra. Hầu hết chạy ngay về phía ga tàu điện ngầm, chỉ có một người hối hả tiến đến chỗ taxi của Omar. Anh ta giật mạnh cánh cửa bên.

- Omar? Phải anh không?

Omar gật đầu, không nói năng gì được.  

- Họ có cho anh biết họ đi đâu không? - anh ta hỏi.

- Alexandria! Nhà ga King Street, - Omar thốt lên - Tôi đề nghị chở họ, nhưng…

- Họ có nói sẽ tới chỗ nào ở Alexandria không?  

- Không? Họ nhìn dấu Quốc ấn đúc đằng kia, sau đó họ hỏi về Alexandria, và trả tôi thứ này - Anh ta đưa cho đặc vụ CIA tờ tiền có hình vẽ kỳ lạ.  

Trong khi anh chàng đặc vụ săm soi tờ tiền, Omar đột nhiên chắp nối được tất cả mọi việc. Hội Tam điểm! Alexandria! Một trong những toà nhà nổi tiếng nhất của Hội Tam điểm ở Mỹ nằm tại Alexandria.

- Chính chỗ đó, - anh ta thốt lên - Đài kỷ niệm George Washington? Nó nằm ngay bên kia Nhà ga King Street.

- Đúng thế, - đội trưởng nhóm đặc vụ tán thành, rõ ràng cũng vừa nhận ra điều tương tự.  

Bấy giờ, nhóm đặc vụ ban nãy từ nhà ga chạy trở ra.

- Chúng ta để sổng rồi? - một người nói to - Tuyến Xanh lam vừa khởi hành! Họ không còn dưới đó!  

Đặc vụ Simkins xem đồng hồ và quay sang phía Omar.

- Tàu điện ngầm mất bao lâu tới được Alexandria?

- Ít nhất mười phút. Có lẽ còn hơn.

- Omar, anh làm tốt lắm. Cảm ơn anh.

- Vâng. Chuyện này là sao vậy?  

Nhưng đặc vụ Simkins đã chạy trở lại chiếc trực thăng. Nó liệng về phía nam, ngang qua Đại lộ Pennsylvania, đoạn biến mất trong màn đêm.

Ngay bên dưới đường phố nơi chiếc taxi đỗ, một đoàn tàu điện ngầm đang tăng tốc rời khỏi Quảng trường Tự Do. Trên tàu, Robert Langdon và Katherine Solomon ngồi nín thở, chẳng ai nói một lời trong khi đoàn tàu lao vút đi đưa họ tới đích đến.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

148#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2012 15:36:43 | Chỉ xem của tác giả
Chương 77


Ký ức luôn tái hiện qua cùng một hình ảnh.  

Gã ngã… lao thẳng xuống dòng sông phủ kín băng dưới đáy vực sâu. Phía trên, đôi mắt xám lạnh lùng của Peter Solomon soi chằm chặp qua nòng súng của Andros.  

Gã rơi… thế giới phía trên cứ lùi xa dần, đến khi đám mây hơi nước mù mịt quanh dòng thác thượng nguồn trùm kín lấy gã thì vạn vật cùng biến mất.  

Trong khoảnh khắc, mọi thứ trắng xoá, như thiên đường. Rồi thân thể gã nện thịch xuống lớp băng. Lạnh. Tối tăm. Đau đớn.  

Gã rũ người… một sức mạnh ghê gớm lôi gã đi và đẩy gã dúi dụi qua những tảng đá trong khoảng không giá buốt kinh hồn. Phổi gã rát bỏng do thiếu dưỡng khí, các cơ trên ngực đã co rút vì lạnh nên gã không tài nào hít thở nổi. Mình đang ở dưới lớp băng.  

Băng gần con thác rõ ràng là rất mỏng do dòng nước chảy xiết, nên Andros rơi xuyên qua cả lớp băng ấy, bị dòng nước cuốn đi, và giờ thì mắc kẹt dưới một lớp trần trong suốt. Gã bấu vào mặt dưới lớp băng, cố gắng phá vỡ nó nhưng thiếu điểm tựa. Cơn đau dữ dội từ vết thương trên vai đã tan biến, và cảm giác nhức buốt do viên đạn ghém gây ra cũng vậy, cả hai đều không còn do cơ thể gã đang tê cóng.  

Dòng nước chảy xiết xô Andros qua một khúc quanh. Cơ thể gã gào thét đòi dưỡng khí. Đột nhiên, gã vướng vào mấy cành cây, rồi húc phải một thân cây bị đổ. Xem nào! Gã cuống cuồng túm lấy cái cành, cố ngoi lên mặt nước, tìm chỗ hổng nơi cành cây xuyên qua lớp băng. Khi đầu ngón tay sờ thấy một lỗ hổng nhỏ xíu xung quanh cành cây, gã bèn giật mạnh phần mép, cố gắng phá cho cái lỗ rộng hơn. Một lần, hai lần, chỗ hổng đã rộng ra đến vài phân.  

Tì người vào cành cây, Andros ngửa mặt lên và áp miệng vào lỗ hổng nhỏ xíu. Không khí mùa đông ùa vào phổi thật ấm áp, dòng dưỡng khí lại tiếp thêm hy vọng. Gã bấu chặt chân vào thân cây, huých mạnh lưng và vai lên phía trên. Lớp băng xung quanh thân cây đổ bị cành nhánh và mẩu vụn xuyên thủng, thành thử đã yếu đi nhiều, nay gã tì chân vào thân cây là có thể dùng đầu dùng vai húc vỡ lớp băng để ngoi lên màn đêm mùa đông. Không khí tràn vào phổi gã.

Lúc ấy hầu như cả người vẫn còn chìm nghỉm dưới nước, gã bèn dướn dần lên, hết dùng hai chân đẩy lại dùng tay kéo, cuối cùng ra khỏi nước, gã nằm thở hổn hển trên lớp băng trần trụi. Andros gỡ tấm mặt nạ trượt tuyết ướt sũng, nhét vào túi, nhìn lại phía thượng nguồn tìm Peter Solomon, nhưng khúc quanh của dòng sông đã chắn mất tầm mắt. Cơn đau ở ngực lại dội lên, gã lặng lẽ kéo một cành cây nhỏ phủ kín lỗ hổng trên băng để che nó đi. Đến sáng, cái lỗ sẽ đóng băng trở lại.  

Andros loạng choạng tiến vào rừng, tuyết bắt đầu rơi. Gã không biết mình chạy bao xa, cuối cùng cũng ra khỏi rừng và leo lên bờ kè bên cạnh con đường nhựa. Bấy giờ tuyết rơi dày hơn, gã gần như hôn mê, thân nhiệt xuống rất thấp, vừa lúc một cặp đèn pha từ xa tiến tới. Andros vẫy tay rối rít, chiếc xe bán tải mang biến số Vermont lập tức đỗ lại. Một người đàn ông luống tuổi áo đỏ nhảy ra khỏi xe.

Andros lảo đảo tiến lại phía ông ta, tay bịt chặt chỗ ngực đang chảy máu.

- Tôi bị thợ săn… bắn nhầm! Tôi cần tới… bệnh viện!  

Không chút do dự, ông già giúp Andros leo lên ghế bên và bật máy sưởi.

- Bệnh viện gần nhất ở đâu?

Andros không biết, nhưng gã trỏ về phía nam.

- Cửa rừng tiếp theo. Chúng ta sẽ không đến bệnh viện.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

149#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2012 15:38:36 | Chỉ xem của tác giả
Ngày hôm sau, người ta đưa tin ông già Vermont nọ mất tích, nhưng không ai biết ông biến mất chỗ nào trên lộ trình của mình trong cơn bão tuyết mịt mùng. Cũng chẳng có ai liên hệ vụ mất tích ấy với một tin thời sự cùng lúc chạy trên trang nhất các báo - vụ sát hại Isabel Solomon.  

Khi tỉnh giấc. Andros thấy mình đang nằm trong phòng ngủ tồi tàn của một nhà nghỉ rẻ tiền bị bỏ không vì đang mùa giá rét. Gã nhớ là đã tìm cách đột nhập vào đây, xé ga trải giường băng vết thương, rồi chui vào một cái giường ọp ẹp dưới đống chăn bụi mù.  

Bụng đói ngấu. Andros tập tễnh lê tới phòng tắm, trông thấy cả đống mẩu đạn ghém máu me trong bồn rửa, mới lơ mơ nhớ rằng mình đã moi chúng ra khỏi lồng ngực. Gã nhướng mắt nhìn chiếc gương bẩn thỉu rồi từ từ gỡ lớp băng thấm máu để xem xét vết thương. Phần cơ rắn chắc ở ngực và bụng đã ngăn đạn ghém chui vào sâu hơn, nhưng tấm thân hoàn hảo trước đây giờ lỗ chỗ vết thương.

Viên đạn duy nhất mà Peter Solomon bắn rõ ràng đã xuyên suốt bả vai gã, để lại một cái lỗ đẫm máu. Song tệ hơn hết thảy là Andros không lấy được thứ mà vì nó gã phải lặn lội cả quãng đường để tới Potomac. Cái kim tự tháp. Dạ dày cào cấu ghê gớm, gã đành lê bước ra chỗ xe ông già, hy vọng tìm được chút thức ăn.

Chiếc xe bán tải bị phủ cả đống tuyết và Andros tự hỏi không biết gã đã ngủ bao lâu trong cái nhà nghỉ cũ nát này. Ơn Chúa là mình còn tỉnh dậy. Andros không tìm thấy thức ăn ở ghế trước, nhưng trong hộc để đồ có vài viên thuốc giảm đau. Gã bốc một nắm và cố chiêu mấy vốc tuyết để nuốt trôi. Mình cần thức ăn.  

Vài giờ sau, chiếc xe bán tải chạy ra khỏi khu nhà nghỉ cũ. Trông nó chẳng còn dấu vết gì của chiếc xe tiến vào hai ngày trước đó. Mui ca bin đã bay mất, các nắp đậy bánh xe, ba đờ xốc và tất cả những thứ có thể tháo dỡ cũng chung số phận. Biển số Vermont không còn, và được thay bằng biển số của một chiếc xe tải bảo trì cũ đỗ cạnh thùng Dumpster(78) của nhà nghỉ. Andros cũng vứt hết vào Dumpster mấy tấm ga thấm máu, mảnh đạn ghém và mọi bằng chứng cho biết gã đã từng xuất hiện ở đây.  

Andros chưa từ bỏ cái kim tự tháp, nhưng tạm thời phải biết chờ đợi. Gã cần giấu mình, dưỡng lành vết thương và trên hết, cần ăn. Gã tìm được một quán ăn ven đường, gọi trứng, thịt nướng, bánh khoai tây và ba ly nước cam. Ăn xong, gã còn gọi thêm đồ ăn mang đi. Ra đường, Andros bật cái đài cũ rích trên xe để nghe. Gã đã kiêng xem truyền hình và đọc báo kể từ lúc bắt đầu thử thách này. Khi nghe đến bản tin thời sự địa phương, gã chết sững.

- Các nhân viên điều tra của FBI tiếp tục tìm kiếm kẻ đột nhập có vũ trang đã sát hại bà Isabel Solomon tại tư gia ở Potomac hai hôm trước. Dường như kẻ sát nhân đã ngã xuống băng và bị cuốn trôi ra biển, - người đọc bản tin thông báo.

Andros như hoá đá. Isabel Solomon đã chết? Gã lái xe trong im lặng sững sờ, vẫn lắng nghe cho hết bản tin. Bây giờ cần phải đi xa, thật xa khỏi nơi này.  

*     *     *
 
Căn hộ ở Upper West Side có tầm nhìn rất đẹp hướng ra Công viên Trung tâm. Andros chọn nơi này vì màu xanh lục mênh mông bên ngoài cửa sổ gợi gã nhớ lại khung cảnh vùng Adriatic. Lẽ ra nên lấy làm mừng vì đã sống sót, nhưng Andros không cảm thấy thế. Lòng gã luôn trống trải, và ý đồ đánh cắp kim tự tháp của Peter Solomon vẫn nung nấu không nguôi.  

Andros dành khá nhiều giờ nghiên cứu truyền thuyết Kim tự tháp Tam điểm. Hình như chẳng ai khẳng định được sự tồn tại của ngọn tháp đó nhưng tất cả đều nhất trí rằng nó hứa hẹn những tri thức và sức mạnh gớm ghê. Kim tự tháp Tam điểm là có thật. Andros tự nhủ. Thông tin trong tay của ta không thể sai được.  

Số phận đã đặt kim tự tháp vào tầm tay Andros, và gã biết rằng việc bỏ qua nó chẳng khác gì cầm một tấm vé số độc đắc mà không chịu đem đổi lấy tiền. Ta là kẻ duy nhất không phải hội viên Tam điểm biết rõ kim tự tháp là có thật… cũng như biết rõ người đang bảo vệ nó.

Chú thích:
(78) Dumpster là tên gọi một loại dụng cụ chứa rác, một kiểu thùng chứa rác lưu động. Từ Dumpster xuất phát từ hệ thống Dempster-dumpster, do anh em nhà Dempster thiết kế những năm 1930, dùng để tự động bốc dọn toàn bộ rác trong các thùng chứa đã được chuẩn hoá lên các xe chở rác - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

150#
 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2012 15:45:03 | Chỉ xem của tác giả
Nhiều tháng qua đi, mặc dù cơ thể đã lành lặn lại nhưng Andros không còn tự mãn như lúc sinh sống ở Hy Lạp nữa. Gã ngừng luyện tập cũng thôi chiêm ngưỡng mình khoả thân trong gương. Gã cảm thấy dường như cơ thể đang lão hoá. Làn da từng rất hoàn hảo giờ đầy vết sẹo càng khiến gã thêm buồn nản. Gã vẫn ỷ lại vào thuốc giảm đau y như quãng thời gian đợi hồi phục, và cảm thấy cơ thể mình đang trượt ngược lại lối sống đã từng dẫn gã tới Nhà tù Soganlik. Gã không quan tâm. Thể xác thèm khát thứ gì thì cứ thoả mãn nó thứ ấy.  

Một đêm, Andros tới làng Greenwich mua ma tuý của một thằng cha có xăm hình tia chớp dài ngoằn ngoèo trên cánh tay. Andros hỏi về hình xăm và tay kia cho biết hắn dùng nó để che vết sẹo dài do một vụ tai nạn xe hơi.

- Hằng ngày, hễ nhìn vết sẹo là tao lại nhớ tới vụ tai nạn, - tên buôn ma tuý nói - tao bèn xăm đè một biểu tượng của sức mạnh cá nhân. Thế là tao trở lại cân bằng như trước.  

Đêm đó, trong cơn phê thuốc, Andros lảo đảo tìm tới một hiệu xăm trong vùng, và cởi phăng áo ra.

- Tôi muốn che những vết sẹo này, - gã tuyên bố. Ta phải tự tin trở lại.

- Che đi à? - Nghệ nhân xăm hình nhìn ngực gã - Bằng gì chứ?

- Hình xăm.

- Được nhưng ý tôi là hình xăm như thế nào?  

Andros nhún vai, chẳng muốn gì hơn là che giấu những thứ xấu xí gợi nhớ quá khứ của mình.

- Tôi không biết. Ông chọn giúp đi.

Nghệ nhân lắc đầu và đưa cho Andros một tập sách nói về truyền thống xăm mình cổ xưa.

- Hãy trở lại khi nào anh sẵn sàng.  

Andros phát hiện ra năm mươi ba cuốn sách về xăm mình trong Thư viện Công cộng New York, gã đọc sạch số sách đó trong vài tuần. Tìm lại niềm say mê đọc sách, gã bắt đầu mang hàng ba lô sách đi đi về về giữa thư viện và căn hộ của mình, nơi gã đọc nghiến ngấu số sách ấy trong khi ngắm nhìn Công viên Trung tâm.  

Những cuốn sách về hình xăm đã mở ra một thế giới kỳ lạ mà Andros chưa bao giờ biết đến, một thế giới của biểu tượng, huyền bí, truyền thuyết và pháp thuật. Càng đọc, gã càng nhận ra mình thật mù quáng. Gã bắt đầu ghi chép các ý tưởng, mọi phác thảo và những giấc mơ lạ lùng của mình.

Khi không còn tìm thấy những điều hữu ích ở thư viện nữa, gã bỏ tiền nhờ những người buôn sách quý mua giúp một số sách hiếm hoi trên thế giới. De Praestigiis Daemonum(79), Lemegeton(80). Ars Almadel(81)… Grimorium Verumb(82)… Ars Notoria(83) … vân vân.

Andros đọc hết, và ngày càng tin chắc rằng thế giới vẫn có nhiều kho báu giành cho mình. Có những bí mật vượt xa hiểu biết của con người. Sau đó gã phát hiện ra tài liệu của Aleister Crowley, một nhân vật thần bí rất hiểu biết thời đầu thế kỷ XX nhưng lại bị nhà thờ coi là “kẻ xấu xa nhất từng sống trên đời”. Tư tưởng tầm thường luôn hãi sợ những tư tưởng vĩ đại.

Andros nghiên cứu sức mạnh của các nghi thức và bùa phép, học những từ ngữ thiêng liêng mà nếu nói ra đúng cách sẽ hiệu dụng như chìa khoá mở cánh cổng vào thế giới khác. Có một thế giới bí ẩn ngoài thế giới này… một thế giới có thể cho ta sức mạnh. Dù cực kỳ thèm khát nguồn sức mạnh đó, Andros vẫn biết rằng cần phải hoàn tất một số quy định và nhiệm vụ trước.  

Muốn biến thành thần thánh, phải làm cho chính mình trở nên linh thiêng, Crowley viết như vậy.  

Nghi thức “hiến tế” cổ xưa từng rất phổ biến trên Trái đất. Dân Do Thái đốt lễ vật tại Thánh điện, dân Maya chặt đầu người trên các đỉnh kim tự tháp ở Chichen Itza, rồi Jesus Christ hy sinh thân mình trên thập giá, những sự kiện này đều chứng tỏ người cổ đại rất hiểu yêu cầu hiến sinh của thần linh. Hiến sinh là nghi thức nguyên thuỷ để con người được tạo hoá ân tứ và làm cho chính mình trở thành thần thánh.  

Sacra - linh thiêng.  

Face - tạo dựng.

Chú thích:
(79) De Praestigiis Daemonum et Incantationibus ac Venificiis (Cuốn sách về những hình ảnh của quỷ sứ, các câu thần chú và chất độc), viết năm 1563, là tác phẩm có ảnh hưởng nhất của Johannes Wier (1515-1588), nhà vật lý, nhà thần bí học và nhà nghiên cứu ma quỷ người Hà Lan. Ông là một trong những người đầu tiên viết các tác phẩm lên án việc khủng bố giới phù thuỷ - ND.
(80) Lemegeton, tên đầy đủ là Lesser Key of Solomon (Chìa khoá Solomon), là một bộ sách về ma thuật khuyết danh ở thế kỷ XVII và là một trong những bộ sách phổ biến nhất trong lĩnh vực này - ND.
(81) Ars Almadel (Nghệ thuật Almadel) là phần thứ tư trong bộ Lesser Key of Solomon. Phần này nói về cách chế tạo almadel, một thẻ sáp có những biểu tượng bảo vệ vẽ bên trên dùng để đặt bốn cây nến. Ngoài ra còn có những chỉ dẫn liên quan đến màu sắc, chất liệu và nghi thức cần thiết để thiết lập almadel và các cây nến. Ars Almadel cũng nói về các thiên thần sẽ được gọi lên, và giải thích rằng chỉ được gọi đến họ vì những lý do hợp lý và đúng đắn, kèm theo cách khấn - ND.
(82) Grimorium Verumb (Ma thuật đích thực hay Ma thuật chân lý), là một cuốn sách về ma thuật, được cho là do “Alibeck Người Ai Cập” sống ở Memphis viết năm 1517. Nhưng giới học giả nhất trí rằng cuốn sách thật sự có từ thế kỷ XVIII và những bản sách đầu tiên xuất hiện bằng tiếng Pháp và Italia - ND.
(83) Ars Notoria (Nghệ thuật cao quý) là phần thứ năm và phần cuối cùng trong bộ Lesser Key of Solomon. Đây là cuốn sách ma thuật được biết đến từ thời Trung đại, khẳng định rằng nghệ thuật này do Đấng Sáng tạo truyền cho vua Solomon qua một thiên thần. Sách có hẳn một tập hợp các câu cầu nguyện kèm theo những từ ngữ thần chú bằng vài thứ tiếng (Do Thái, Hy Lạp, v.v…), cách đọc lên, và mối liên hệ giữa những nghi thức này với cách lĩnh hội tất cả các khoa học. Theo cuốn sách, đọc đúng các câu thần chú sẽ giúp đem lại kiến thức về khoa học, trí nhớ sáng suốt, tinh thần vững vàng, và khả năng hùng biện. Sách cũng trình bày những quy tắc phải tuân thủ để bảo đảm đạt kết quả tốt. ND
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách