|
Tác giả |
Đăng lúc 20-9-2011 15:55:58
|
Xem tất
Tôi đến trường với đôi giày của mẹ tôi, mặc chiếc áo bành tô nhỏ, nguyên là áo của bà tôi chữa lại, một chiếc sơ-mi màu vàng và một cái quần dài bỏ ống ra ngoài ủng. Cách ăn mặc lố lăng đó lập tức bị đem ra chế giễu. Vì chiếc áo sơ-mi màu vàng mà tôi bị gọi là "thằng tù". Với tụi trẻ con tôi đã hòa hợp được nhanh chóng, nhưng thầy giáo và ông giáo sĩ thì vẫn ghét tôi. Thầy giáo tôi có nước da vàng bủng, đầu hói, thường xuyên chảy máu cam, với hai lỗ mũi nhét đầy bông, ông ta bước vào lớp, ngồi vào bàn và hỏi bài bằng giọng mũi. Đang nói nửa chừng ông ta bỗng im bặt, rút bông ở lỗ mũi ra, ngắm nghía rồi lắc đầu. Mặt ông ta trông nhẵn lì, nước da như màu đồng gỉ; giữa những nếp nhăn có những vệt xanh xanh, nhất là cặp mắt màu thiếc hoàn toàn thừa trên bộ mặt đó lại càng làm cho nó thêm xấu xí. Hai con mắt ấy dính chặt vào mặt tôi rất khó chịu khiến tôi luôn luôn muốn đưa bàn tay lên lau má. Mấy hôm đầu tôi ngồi ở dãy bàn trên cùng, ngay bàn đầu, gần sát với thầy giáo. Ngồi ở đây thật khó Những người tù bị khâu vào lưng áo một miếng vải hình vuông đỏ hoặc vàng. Tôi có cảm giác như ông ta không nhìn thấy ai hết, ngoài tôi ra. Suốt buổi ông ta nói bằng giọng mũi:
-Pêxkôp, thay áo sơ-mi đi! Pêxkôp, đừng động đậy chân! Pêxkôp, nước ở giày lại chảy ra thành vũng rồi! Tôi trả thù ông ta bằng những trò nghịch ngợm quỷ quái. Một lần tôi kiếm được nửa quả dưa hấu ướp lạnh. Tôi đem khoét ruột ra và lấy một sợi chỉ buộc nó vào chiếc ròng rọc ở cửa ra vào chỗ phòng ngoài tranh tối tranh sáng. Khi mở cửa thì quả dưa chạy lên trên, và khi thầy giáo khép cửa lại thì quả dưa chụp vào cái đầu hói của thầy y như một cái mũ vậy. Người gác trường dẫn tôi về nhà cùng với lá thư của thầy giáo, và vì trò tinh nghịch đó tôi đã bị một trận đòn nên thân. Một lần khác tôi rắc loại thuốc lá dùng để hít vào ngăn bàn thầy. Thầy bị hắt hơi đến nỗi phải bỏ lớp về và cử anh con rể đến dạy thay. Người con rể đó là một sĩ quan, y bắt cả lớp hát bài "Chúa hãy cứu giúp Nga hoàng" và bài "ôi, tự do, tự do của ta". Những ai hát không đúng bị y lấy thước kẻ gõ vào đầu. Y gõ rất kêu, nhưng không đau. Và làm cho cả lớp cười rộ lên. Thầy giáo dạy giáo lý
-một giáo sĩ trẻ và đẹp trai có bộ tóc rất đẹp
-rất ghét tôi vì tôi không có cuốn "Thánh sử của Cựu ước và Tân ước thư" và vì tôi hay nhại lại lối nói của ông ta. Vào lớp, việc đầu tiên là ông ta hỏi tôi:
-Pêxkôp, có đem sách đi không? Đúng. Có đem sách không? Tôi trả lời:
-Không ạ, con không đem. Đúng.
-Đúng cái gì?
-Không đem ạ.
-Thế thì đi về ngay! Đúng, đi về. Vì tao không có ý định dạy mày. Đúng, tao không định dạy đâu. Điều đó không làm cho tôi buồn lắm. Tôi bỏ ra ngoài và đi tha thẩn trên những con đường bẩn thỉu ở trong xóm cho đến hết giờ học, vừa đi vừa để ý quan sát cuộc sống ồn ào của nó. Viên giáo sĩ có khuôn mặt sùng kính của Chúa Giê-su, cặp mắt dịu dàng như mắt phụ nữ và hai bàn tay nhỏ nhắn cũng dịu dàng đối với tất cả những gì được mó tới. Từ quyển sách, đến cái thước, cái quản bút
-ông ta đều nhấc lên một cách thận trọng lạ thường, dường như đó là một sinh vật hay vật rất dễ vỡ, ông ta yêu mến mọi vật lắm, chỉ sợ cầm không khéo thì hỏng mất. Đối với trẻ con ông ta không âu yếm như vậy, song chúng vẫn mến ông ta. Mặc dầu tôi học cũng tạm được, Nhưng chẳng bao lâu tôi được cáo rằng tôi bị đuổi ra khỏi trường Quốc ca của nước Nga thời Nga hoàng. vì hạnh kiểm xấu. Tôi chán nản vô cùng, vì chuyện này có thể đem lại cho tôi những rầy rà lớn: mẹ tôi càng đâm ra bẳn tính, và càng hay đánh đập tôi hơn. Nhưng thật là may mắn cho tôi: giám mục Crixanthơ đột nhiên tới trường. ông ta trông giống như một thầy phù thủy, và tôi còn nhớ là ông ta gù lưng. ông ta người nhỏ bé, mặc một chiếc áo đen rộng, đầu đội mũ nom rất buồn cười. Khi ông ngồi vào bàn, thò hai tay từ trong tay áo ra và nói: "Nào, các con chúng ta hãy nói chuyện với nhau!", không khí lớp học lập tức trở nên ấm cúng, vui vẻ, gây nên một cảm giác dễ chịu khác thường. Sau nhiều người, đến tôi được gọi lên bàn ông. ông hỏi bằng giọng nghiêm trang:
-Con lên mấy?... Thế thôi à? Sao cao ghê thế, anh bạn? Con hay dầm mưa lắm phải không? ông ta đặt bàn tay khô khẳng với những móng tay dài và nhọn lên bàn, mấy ngón tay nắm lấy chòm râu lơ thơ. ông nhìn đăm đăm vào mặt tôi bằng cặp mắt dịu hiền và nói:
-Nào, con hãy nói cho ta nghe, trong Thánh sử con thích chuyện gì nào? Khi tôi nói rằng tôi không có sách và tôi không học Thánh sử, ông ta đưa tay sửa lại mũ và hỏi:
-Thế là thế nào? Cần phải học chứ? Có thể là con biết hoặc đã nghe kể về Thánh sử chăng? Con biết Thánh thi à? Giỏi! Cả Kinh thánh nữa chứ? Đó, thấy không? Biết cả sự tích các thánh nữa à? Bằng thơ à? Con giỏi lắm! ông giáo sĩ của chúng tôi bước vào, mặt mũi đỏ bừng, thở hổn hển. Giám mục ban phúc cho ông ta, nhưng khi ông ta bắt đầu nói đến tôi thì giám mục nói và giơ tay lên:
-Xin phép một chút... Nào, con hãy kể về Thánh Alêcxây, người của Chúa xem nào...
-Những câu thơ rất hay, phải không anh bạn?
-ông nói khi tôi quên một câu nào đó và ngừng lại.
-Còn bài nào nữa không? ... Về vua Đavit à? Ta rất vui lòng nghe! Tôi nhận thấy ông ta quả có lắng nghe và thích bài thơ lắm. ông hỏi tôi rất lâu, rồi bỗng ông ngắt lời tôi rất nhanh và hỏi:
-Con đọc theo Thánh thi à? Ai dạy? Chắc ông con hiền lắm phải không? ác à? Chẳng có lẽ! Thế con có nghịch ngợm lắm không? Tôi lúng túng, nhưng rồi trả lời:
-Có ạ.
Thầy giáo và ông giáo sĩ xác nhận lời thú nhận của tôi bằng những câu nói dài dòng. Giám mục ngồi nghe, mắt nhìn xuống đất, rồi thở dài và nói:
-Mọi người nói về con những gì con đã nghe thấy chưa? Nào, lại đây! ông đặt tay lên đầu tôi, bàn tay phảng phất mùi gỗ trắc cá, và hỏi tôi:
-Tại sao con lại nghịch như vậy?
-Học chán lắm ạ.
-Chán à? Không đúng thế đâu, anh bạn ạ. Nếu con chán học thì con học phải kém chứ, đằng này các thầy giáo đều nói là con học khá cơ mà! Thế thì ắt phải có nguyên nhân gì khác đấy thôi. ông rút trong ngực áo ra một cuốn sổ nhỏ và ghi:
-Pêskôp, Alêcxây. Được rồi! Dù sao cũng phải cố dằn lòng mới được, anh bạn ạ, và đừng có nghịch ngợm quá! Nghịch một chút thôi thì được, còn nếu nghịch quá thì sẽ làm cho thiên hạ bực mình! Ta nói có phải không, các con? Nhiều giọng nói vui vẻ đáp lại:
-Vâng ạ.
-Cả các con cũng không nghịch ngợm quá phải không? Đám trẻ con mỉm cười ranh mãnh, trả lời:
-Có chứ! Cũng nghịch lắm ạ! Nghịch lắm ạ! Giám mục ngả người lên thành ghế, ghì chặt lấy tôi và nói một cách hết sức lạ thường đến nỗi tất cả mọi người
-ngay cả thầy giáo và ông giáo sĩ
-đều phải bật cười:
-Thế đấy, các chú em của ta ạ, vào tuổi các em ta cũng là một ông tướng nghịch đấy! Vì sao thế nhỉ, các em? Bọn trẻ con cười, ông ta hỏi han chúng, khéo làm cho cả lớp rối trí, khiến chúng phải tranh cãi với nhau. Không khí mỗi lúc một vui vẻ thêm. Cuối cùng ông đứng dậy và nói:
-ở đây với các con rất thích, các chú bé nghịch ngợm ạ, nhưng đến lúc ta phải đi rồi! ông giơ tay lên, vén tay áo, khoát tay làm dấu cho tất cả mọi người và chúc:
-Nhân danh Cha và Con và Thánh thần, chúc cho các con làm được những việc tốt lành! Thôi chào các con! Tất cả bọn trẻ con đều kêu lên:
-Tạm biệt Đức Cha! Xin mời Đức Cha trở lại đây lần nữa. Giám mục gật đầu, nói:
-Ta sẽ trở lại! Sẽ trở lại! Ta sẽ đem sách đến cho các con! Vừa nhẹ nhàng rời lớp học, ông vừa bảo thầy giáo:
-Thầy cho các em về đi! ông nắm tay tôi dắt ra phòng ngoài. Ra đến nơi, ông cúi xuống bên tôi và nói khe khẽ:
-Con phải tự kiềm chế mình nhé, được không? Ta hiểu vì sao con nghịch ngợm rồi! Thôi, tạm biệt anh bạn nhỏ của ta! Tôi hết sức xúc động, một cảm giác đặc biệt rạo rực trong lòng tôi. Sau khi cho lớp học giải tán, thầy giáo giữ tôi ở lại và bảo tôi rằng từ giờ tôi phải ngoan ngoãn hơn, tôi cũng lắng nghe một cách chăm chú và tự nguyện. ông giáo sĩ vừa khoác áo lông vào người, vừa nói bằng giọng dịu dàng:
-Từ nay mày phải đến học các giờ của tao! Đúng. Phải đến.
Nhưng phải ngồi cho nghiêm chỉnh! Đúng. Phải ngồi cho nghiêm chỉnh. Công việc của tôi ở trường tạm ổn thì ở nhà lại xảy ra một chuyện không hay: tôi ăn cắp của mẹ tôi một rúp. Việc này tôi không có chủ ý trước. Một hôm vào buổi tối mẹ tôi đi đâu không rõ, để tôi ở nhà trông em. Ngồi buồn, tôi giở một quyển sách của bố dượng ra xem
-cuốn "Bút ký của người thầy thuốc" của Đuáma-Bố, và giữa các trang sách tôi nhìn thấy hai tờ giấy bạc: một tờ mười rúp và một tờ một rúp. Cuốn sách tôi đọc không hiểu, tôi bèn gấp lại. Bỗng tôi hình dung ra rằng với một rúp không những tôi có thể mua được quyển "Thánh sử", mà có lẽ còn mua được cả cuốn "Rôbinxơn". Tôi biết đến cuốn sách này trước đó không lâu, trong một buổi học ở trường. Vào một ngày giá rét, trong lúc ra chơi, tôi kể cho bọn trẻ con nghe một truyện cổ tích. Bỗng một đứa trong bọn chúng nhận xét có vẻ khinh miệt:
-Truyện cổ tích chỉ là chuyện nhảm nhí thôi. "Rôbinxơn" mới thực là truyện! Có mấy đứa nữa cũng đã đọc "Rôbinxơn" rồi, tất cả đều khen cuốn sách đó. Tôi cảm thấy bực mình vì chúng không thích truyện cổ tích của bà tôi. Tôi bèn định bụng đọc "Rôbinxơn" cho bằng được để rồi cũng sẽ bảo cuốn sách đó là chuyện nhảm nhí! Ngày hôm sau tôi mang tới trường cuốn "Thánh sử" và hai tập truyện cổ tích đã nhàu nát của Anđecxen, ba fun bánh mì trắng và một fun xúc-xích. Trong một cửa hàng nhỏ, tối om ở cạnh hàng rào nhà thờ Thánh Vlađimia có bán cả "Rôbinxơn"
-một cuốn sách mỏng, bìa vàng, trên trang đầu vẽ một người râu ria xồm xoàm, đầu đội chiếc mũ lông hình chóp, trên vai khoác tấm da thú. Bức tranh đó tôi không thích; còn các truyện cổ tích thì bề ngoài trông cũng đã đáng yêu rồi, mặc dầu nhàu nát. Trong giờ nghỉ giữa buổi, tôi đem phân chia cho bọn trẻ con bánh mì và xúc-xích, rồi chúng tôi bắt đầu đọc truyện cổ tích kỳ lạ "Chim họa mi". Truyện này ngay lập tức đã làm cho chúng tôi háo hức. "ở Trung Quốc mọi người dân đều là người Trung Quốc, cả vua cũng là người Trung Quốc"
-Tôi còn nhớ câu này đã làm cho tôi ngạc nhiên một cách dễ chịu như thế nào bởi tính cách giản dị của nó, bởi nhạc điệu như mỉm cười vui vẻ và một cái gì đó nữa đẹp đẽ lạ thường. Tôi không đọc được hết "Chim họa mi" ở trường vì không đủ thì giờ. Khi tôi về đến nhà thì mẹ tôi đang đứng bên bếp lò tráng trứng, tay cầm một chiếc chảo nhỏ. Mẹ tôi hỏi tôi bằng giọng rất lạ, gần như hết hơi:
-Mày lấy một rúp của tao phải không?
-Phải, con lấy mua sách đấy. Đây, sách đây... Mẹ tôi cầm chảo nện luôn cho tôi một cái rất đau, còn mấy cuốn sách của Anđecxen thì mẹ tôi lấy và giấu biệt đi đâu mất, điều này còn làm tôi xót xa hơn cả bị đòn. Mấy ngày liền tôi không tới trường. Trong thời gian đó hẳn là bố dượng tôi đã đem kể lại cái "thành tích" của tôi cho những người đồng sự nghe, và những người này lại kể cho con cái họ. Một đứa trong số đó đem chuyện này tới trường, và đến khi tôi đi học liền được đón tiếp bằng một cái tên mới: "Thằng ăn cắp". Cái tên thật giản dị và rõ ràng nhưng không đúng, vì tôi có giấu việc tôi lấy đồng rúp đâu. Tôi muốn giải thích điều đó, nhưng người ta không tin tôi. Tôi bèn về nhà và bảo với mẹ tôi rằng tôi sẽ không đi học nữa. Mẹ tôi ngồi bên cửa sổ; lúc đó mẹ tôi lại đang có mang, nước da xám ngoét, cặp mắt trông đờ đẫn và khổ não. Mẹ tôi đang cho Xasa bú, mẹ nhìn tôi, mồm há ra như cá.
-Mày nói láo,
-mẹ tôi nói khẽ,
-không ai có thể biết chuyện mày lấy đồng rúp cả.
-Mẹ cứ đi mà hỏi xem.
-Chính mày ba hoa thì có. Nào, nói đi, có phải chính mày đã ba hoa không? Liệu đấy, mai tao sẽ tìm cho ra đứa nào đem chuyện đó đến trường! Tôi nói tên một đứa học sinh. Mặt mẹ tôi nhăn lại vẻ đau đớn và thổn thức khóc. Tôi bỏ xuống bếp, lên giường nằm. Chiếc giường của tôi là những chiếc hòm kê ở đằng sau lò sưởi. Tôi nằm và nghe tiếng nức nở khe khẽ của mẹ tôi ở trong phòng:
-Trời ơi! Trời ơi!... Không sao chịu nổi cái mùi kinh tởm bốc ra từ những mớ giẻ rách dính mỡ bị đốt, tôi trở dậy và đi ra sân, nhưng mẹ tôi gọi lại:
-Mày đi đâu thế? Đi đâu? Lại đây tao bảo!... Chúng tôi ngồi trên sàn nhà. Xasa nằm trong lòng mẹ tôi, nó nắm lấy những chiếc khuya trên áo dài của mẹ tôi, cúi xuống và nói:
-Huy,
-ý nó muốn nói: khuy. Tôi ngồi sát bên sườn mẹ tôi. Mẹ tôi ôm lấy tôi và nói:
-Chúng ta nghèo. Đối với chúng ta mỗi kôpêch, mỗi kôpêch... Mẹ tôi vẫn không nói hết một điều gì đó, người ghì chặt tôi trong cánh tay nóng hổi.
-Đồ vô lại... Đồ vô lại!
-Mẹ tôi bỗng nhiên thốt ra những tiếng mà có lần tôi đã nghe thấy mẹ tôi nói. Xasa nhắc lại:
-Vô nại! Xasa là một thằng bé kỳ lạ: vụng về, đầu to, nó nhìn tất cả mọi vật xung quanh bằng cặp mắt xanh rất đẹp, miệng khẽ mỉm cười và hình như đang chờ đợi một cái gì. Nó biết nói sớm một cách lạ thường, không bao giờ khóc, luôn luôn sống trong trạng thái vui vẻ bình thản. Nó rất yếu ớt, chỉ bò được đôi chút và rất vui mừng mỗi khi nhìn thấy tôi. Nó hay đòi tôi bế và thích mân mê tai tôi bằng những ngón tay mềm mại nhỏ xíu mà không hiểu sao lại phảng phất mùi hoa viôlet. Nó chết đột ngột, không ốm đau gì cả. Buổi sáng nó còn vui vẻ, yên lành như mọi ngày, nhưng đến lúc lễ tối, nó đã nằm ở trên bàn rồi. Việc này xảy ra ít lâu sau ngày sinh đứa em thứ hai Nikôlai. Mẹ tôi làm đúng như đã hứa; sinh hoạt của tôi ở trường lại trở lại bình thường. Nhưng rồi tôi lại bị quẳng đến ở với ông tôi. Một hôm trong bữa trà tối, lúc ở sân đi vào bếp, tôi bỗng nghe thấy tiếng mẹ tôi kêu não nuột:
-Epgêni, tôi xin anh, tôi xin anh...
-Ngu vừa vừa chứ!
-Bố dượng tôi nói.
-Thì tôi biết là anh đến với cô ta mà lại!
-Thì sao? Trong mấy giây cả hai đều im lặng. Cuối cùng mẹ tôi vừa ho sù sụ vừa nói:
-Anh thật là một tên vô lại độc ác!... Tôi nghe thấy tiếng bố dượng đánh mẹ tôi, tôi liền chạy bổ vào phòng thì thấy mẹ tôi ngã khuỵu xuống đất, lưng và khuỷu tay dựa vào ghế, ngực ưỡn ra, đầu ngửa lên, thở khò khè, hai mắt long lanh trông thật đáng sợ, còn bố dượng tôi thì ăn mặc sạch sẽ trong bộ lễ phục mới, đang giơ cái cẳng dài ngoẵng ra đạp vào giữa ngực mẹ tôi. Tôi vớ lấy con dao có chuôi bằng xương mạ bạc dùng để cắt bánh mì ở trên bàn
-vật duy nhất mẹ tôi còn giữ được sau khi bố tôi chết
-và lấy hết sức đâm vào sườn bố dượng tôi. May quá, mẹ tôi đã kịp đẩy Macximôp sang bên. Con dao sượt qua sườn làm toạc mất một mảng lớn trên bộ lễ phục và chỉ làm sầy da thôi. Bố dượng tôi kêu "ối", bỏ chạy ra khỏi phòng, tay ôm lấy sườn, còn mẹ tôi thì vồ lấy tôi, nhấc lên và ném tôi xuống sàn nhà cùng với một tiếng rú. Bố dượng tôi từ ngoài sân trở vào, giằng lấy tôi. Tuy thế, bố dượng tôi vẫn cứ đi đến khuya, khi bố dượng tôi đã đi khỏi, mẹ tôi leo lên lò sưởi với tôi. Người khẽ ôm lấy tôi, hôn tôi và khóc:
-Con tha thứ cho mẹ, mẹ có lỗi với con! ôi, con yêu quý, sao con lại có thể làm như thế được. Dùng đến cả dao ư? Với một thái độ hết sức chân thành và hiểu rất rõ những điều mình nói, tôi bảo mẹ tôi rằng rôi sẽ đâm chết bố dượng rồi cắt cổ tự tử luôn. Tôi nghĩ rằng tôi có thể làm như thế lắm, hoặc dù sao tôi cũng thử làm. Mãi đến nay tôi vẫn còn nhìn thấy cái chân dài ngoẵng đáng nguyền rủa đó với cái nẹp sặc sỡ chạy dọc theo ống quần. Tôi nhìn thấy nó vung lên trong không khí và phóng mũi giày vào ngực mẹ tôi. Hồi tưởng lại những chuyện ghê tởm nặng nề này trong cuộc sống man rợ của người Nga, nhiều lúc tôi tự hỏi: có nên nhắc lại hay không? Và mỗi lần, với lòng tin tưởng mới, tôi lại tự trả lời: phải nhắc lại, bởi vì đó là một sự thật dai dẳng, đáng phỉ nhổ, mãi đến nay vẫn chưa bị thủ tiêu. Đó là một sự thật cần phải biết rõ đến tận gốc để nhổ bật gốc rễ nó ra khỏi trí nhớ, khỏi tâm hồn con người, khỏi toàn bộ cuộc sống của chúng ta, một cuộc sống nặng nề và nhục nhã biết bao. Và có một nguyên nhân khác khẩn thiết hơn đã bắt buộc tôi phải mô tả những sự việc ghê tởm đó. Mặc dầu chúng đáng ghét, thậm chí chúng còn đè nặng lên tâm hồn chúng ta và bóp chết nhiều tâm hồn đẹp đẽ, người Nga vẫn còn có một tâm hồn lành mạnh, trẻ trung đủ để đấu tranh và khắc phục chúng. Cuộc sống của chúng ta kỳ lạ không những vì nó còn chứa đựng một lớp bùn lầy với đủ mọi thứ rác rưởi có khả năng sinh sôi nẩy nở và nhầy nhụa đến thế, mà vì nó còn chứa đựng những mầm mống tươi sáng, lành mạnh, đầy sức sáng tạo, không ngừng xuyên qua lớp bùn ấy để vươn lên một cách đắc thắng
-những mầm mống tốt lành, nhân đạo vẫn tiếp tục vươn lên, khơi lên niềm há vọng bất diệt vào khả năng tạo ra một cuộc sống tươi sáng hơn và nhân đạo hơn. |
|