Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: santhelena
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Thời Thơ Ấu | Maksim Gorky

[Lấy địa chỉ]
21#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:40:12 | Chỉ xem của tác giả
ít lâu sau khi xảy ra câu chuyện với lão quý tộc, lại xảy ra một chuyện khác. Từ lâu ngôi nhà im lìm của lão ạpxiannikôp khêu gợi trí tò mò của tôi. Tôi có cảm tưởng rằng ngôi nhà xám đó che giấu một cuộc sống khác thường, đầy bí mật như trong các câu chuyện cổ tích. Nhà Betleng rất ồn ào và vui nhộn. ở đây có nhiều tiểu thư đẹp tiếp các sĩ quan và sinh viên đến chơi, trong nhà luôn luôn có tiếng cười, tiếng la hét, tiếng hát và tiếng nhạc. Và ngay cả bộ mặt của ngôi nhà cũng có vẻ vui nhộn: qua lớp kính cửa sổ sáng lấp lánh, trông thấy những chậu hoa màu sắc rực rỡ. ông tôi không thích cái nhà này. ông tôi gọi tất cả mọi người trong nhà đó là "bọn dị giáo, bọn vô thần"; riêng đối với bọn đàn bà thì ông tôi đặt cho một cái tên thô tục mà có lần bác Piôt đã giải nghĩa cho tôi cũng bằng những lời thô tục với vẻ thích thú ác ý. Trái lại, ông tôi kính nể ngôi nhà nghiêm trang và lặng lẽ của lão ạpxiannikôp. Đó là ngôi nhà một tầng nhưng khá cao, trông ra cái sân đất sạch sẽ và vắng vẻ, trên mặt sân đầy cỏ mọc, ở giữa có cái giếng có mái che, dựng trên hai chiếc cột nhỏ. Ngôi nhà tựa hồ như thụt lùi vào phía trong để trốn tránh con mắt mọi người. Ba chiếc cửa sổ hẹp hình cánh cung của ngôi nhà cách mặt đất khá cao, cửa kính mờ đục, ánh nắng chiếu vào tạo nên đủ mọi màu sắc của cầu vồng. Về phía bên kia cổng có căn nhà kho, mặt trước trông giống hệt như ngôi nhà, cũng có ba cửa sổ nhưng là cửa sổ giả; trên bức tường màu xám người ta đắp những khuôn cửa và ở giữa dùng vôi trắng kẻ thành những chấn song cửa sổ. Những chiếc cửa sổ giả đó nom rất khó chịu và toàn bộ căn nhà kho càng làm tăng thêm cái cảm giác bí mật và âm thầm của ngôi nhà đó. Có một cái gì nhẫn nhục hoặc kiêu hãnh trong sự yên lặng của khu nhà đó, của những chuồng ngựa trống rỗng và của những gian nhà xép với những chiếc cửa lớn cũng trống rỗng nốt. Thỉnh thoảng người ta thấy một lão già cao lớn, khập khiễng đi dạo ở trong sân, cằm lão cạo nhẵn, nhưng lão để ria mép trắng cứng như những chiếc kim. Đôi khi, một lão già khác, râu quai nón, mũi khoằm, dắt ra khỏi chuồng một con ngựa xám, đầu to, ức lép, bốn chân mảnh khảnh. Ra đến sân con ngựa cúi đầu chào tất cả mọi vật xung quanh giống như một cô mụ hiền lành. Lão thọt chân lấy tay phát đen đét vào con ngựa, lão huýt sáo và thở dài thườn thượt.
Sau đó người ta cảm tưởng là lão già muốn đi khỏi nhà nhưng không thể nào đi được vì lão đã bị bỏ bùa. Hầu như chiều nào cũng vậy, có ba đứa trẻ chơi đùa ở trong sân cho đến tối mịt. Ba đứa cùng mặc áo cánh và quần dài màu xám, cùng đội mũ như nhau. Chúng có khuôn mặt tròn, mắt xám và giống nhau đến nỗi tôi chỉ có thể phân biệt được chúng theo tầm vóc. Tôi quan sát chúng qua khe hở hàng rào, nhưng chúng không nhìn thấy tôi; tôi thì lại rất muốn chúng nhìn thấy tôi. Tôi thích xem chúng chơi những trò chơi không quen biết một cách rất thú vị, vui vẻ và không bao giờ cãi nhau. Tôi thích cách ăn vận của chúng, thích thái độ săn sóc của chúng đối với nhau, nhất là của hai thằng anh đối với đứa em nhỏ, một thằng bé ngộ nghĩnh và lanh lợi. Mỗi khi thằng em ngã là hai đứa anh lại cười, như người ta vẫn thường cười những người bị ngã, nhưng không phải cười một cách độc ác. Ngay lúc đó chúng đỡ thằng em dậy, và nếu tay hoặc đầu gối nó bẩn thì chúng lấy lá ngưu bàng hoặc khăn tay lau các ngón tay và quần cho sạch. Thằng anh thứ hai nói một cách hiền hậu:
-Em lóng ngóng quá! Chúng không bao giờ cãi nhau, không bao giờ gian lận. Cả ba đều rất nhanh nhẹn, khỏe mạnh, không biết mệt mỏi là gì. Một lần tôi leo lên cây và huýt sáo gọi chúng, chúng dừng ngay lại, rồi không vội vàng, chúng túm lại, đưa mắt nhìn tôi, và thì thầm bàn bạc gì với nhau. Tôi tưởng chúng định lấy đá ném tôi, liền tụt xuống đất, nhặt đá bỏ vào túi, nhét vào trong áo rồi lại trèo lên cây. Nhưng lúc này chúng đã chơi xa chỗ tôi, ở tận phía cuối sân và xem chừng đã quên mất tôi. Tôi buồn quá, tuy vậy tôi cũng vẫn không muốn gây sự trước. Một lát sau có tiếng người gọi chúng qua cửa sổ:
-Đi về, các con! Chúng thong thả và ngoan ngoãn đi vào hệt như những chú ngỗng. Đã nhiều lần tôi ngồi trên cây phía trên hàng rào, há vọng chúng gọi tôi xuống chơi với chúng, nhưng chúng không gọi. Tôi đã chơi với chúng trong ý nghĩ, và có lúc tôi đã say sưa đến nỗi hét lên hoặc cười thật to. Lúc đó ba đứa đều nhìn tôi và nói khẽ với nhau điều gì, còn tôi ngượng quá bèn tụt xuống đất. Một lần chúng bắt đầu chơi ú tim. Đến lượt thằng anh thứ hai đi tìm, nó đứng vào một xó ở đằng sau nhà kho và lấy hai tay bịt mắt thật kín, còn hai anh em nó thì chạy đi trốn. Thằng anh nhanh nhẹn chui ngay vào trong một cỗ xe trượt tuyết to tướng ở dưới mái hiên nhà kho, còn thằng em thì cuống lên, cứ chạy quanh cái giếng không biết trốn vào đâu trông đến buồn cười. Thằng anh kêu:
-Một... hai... Thằng em liền nhảy lên thành giếng, nắm lấy dây và đứng vào chiếc gầu không. Chiếc gầu biến mất, đập vào thành giếng phát ra những tiếng âm vang. Tôi sững sờ nhìn chiếc ròng rọc trơn dầu lặng lẽ quay nhanh. Nhưng lập tức, tôi hiểu điều sẽ xảy ra, tôi liền nhảy phắt xuống sân, kêu to:
-Ngã xuống giếng rồi!... Thằng anh thứ hai chạy tới thành giếng cùng một lúc với tôi, nó nắm lấy dây gầu nhưng bị nhấc bổng lên khiến tay nó bị bỏng rát, nhưng tôi đã kịp chộp lấy sợi dây, và liền lúc đó thằng anh lớn chạy tới giúp tôi kéo chiếc gầu lên. Nó nói:
-Khẽ chứ nhé!... Chúng tôi kéo được thằng bé lên ngay. Nó cũng sợ, bàn tay phải của nó rớm máu, má bị sây sát. Nó bị ướt đến thắt lưng, mặt tái xanh nhưng vẫn mỉm cười. Nó rùng mình, hai mắt mở to, mỉm cười và nói, giọng kéo dài:
-Em bị ng-ã... ã... ghê-e quá...
-Mày thật là điên,
-thằng anh thứ hai nói, ôm lấy thằng bé, và lấy khăn tay lau máu trên mặt nó. Còn thằng anh lớn thì cau mày nói:
-Đi vào thôi, đằng nào cũng chẳng giấu được...
-Các cậu liệu có bị đánh không?
-Tôi hỏi. Nó gật đầu, sau đó chìa tay cho tôi và nói:
-Cậu chạy đến nhanh lắm! Vui thích vì được khen, tôi chưa kịp nắm lấy tay nó thì nó đã nói với thằng thứ hai:
-Đi vào nhà thôi, kẻo nó cảm bây giờ! Chúng ta sẽ bảo là nó bị ngã, nhưng đừng nói là ngã xuống giếng!
-Phải rồi, đừng nói,
-thằng em vẫn rùng mình, đồng ý.
-Bảo là em ngã vào vũng nước nhé! Rồi chúng đi vào.
Tất cả những chuyện đó xảy ra nhanh đến nỗi lúc nhìn lại cành cây từ trên đó tôi đã nhảy xuống, tôi thấy nó vẫn còn rung rung và một chiếc lá vàng rụng xuống. Có đến gần một tuần không thấy ba anh em nhà ấy ra sân chơi, nhưng sau đó chúng lại xuất hiện, ồn ào hơn trước. Thằng anh lớn nhìn thấy tôi trên cây, nó gọi, giọng thân mật:
-Xuống đây chơi với chúng tớ! Chúng tôi leo lên cái xe trượt tuyết cũ để ở dưới mái hiên nhà kho rồi vừa ngắm nghía nhìn nhau, vừa nói chuyện rất lâu.
-Các cậu có bị đánh không?
-Có,
-thằng anh lớn trả lời. Tôi thấy khó mà tin được rằng những đứa trẻ này cũng bị đánh như tôi, tôi thấy tức thay cho chúng.
-Sao cậu lại bắt chim?
-Thằng bé nhất hỏi.
-Vì chúng nó hót hay lắm.
-Không nên bắt, cứ để cho chúng nó muốn bay đi đâu thì bay...
-Được, tớ sẽ không bắt nữa!
-Nhưng cậu hãy bắt cho mình một con đã.
-Cậu muốn chim gì?
-Chim gì hót vui ấy. Để nhốt vào lồng.
-Thế thì chim bạch yến chứ gì?
-Mèo nó bắt mất,
-thằng thứ hai nói,
-mà bố cũng chẳng cho nuôi đâu. Thằng anh lớn đồng ý:
-Đúng đấy, bố chẳng cho đâu...
-Thế các cậu có mẹ không?
-Không,
-thằng anh lớn nói. Nhưng thằng thứ hai chữa lại:
-Có, nhưng là mẹ khác, không phải là mẹ chúng tớ, chúng tớ không còn mẹ, mẹ chúng tớ chết rồi.
-Mẹ khác thì gọi là dì ghẻ,
-tôi nói. Thằng anh lớn gật đầu:
-ừ. Và cả ba đứa có vẻ suy nghĩ, gương mặt sầm lại. Qua những câu chuyện cổ tích của bà tôi, tôi đã biết thế nào là dì ghẻ, vì vậy tôi rất thông cảm với sự yên lặng suy nghĩ của bọn trẻ. Chúng ngồi sát vào nhau, giống nhau như những chú gà con. Tôi nhớ lại chuyện mụ dì ghẻ phù thủy đã dùng mưu đánh lừa để giả làm mẹ thật, tôi liền bảo chúng:
-Mẹ thật của các cậu rồi thế nào cũng sẽ về, rồi các cậu xem! Thằng anh lớn nhún vai:
-Chết rồi cơ mà, về làm sao được... Không được ư? Trời ơi, biết bao nhiêu lần những người chết, thậm chí đã bị xả ra thành từng miếng, mà chỉ cần vẩy cho ít nước phép là lại sống lại; có biết bao nhiêu người chết mà không phải là chết thật, vì phép của bọn phù thủy! Tôi bèn kể lại một cách sôi nổi cho chúng nghe những chuyện của bà tôi. Lúc đầu thằng anh lớn chỉ mỉm cười, sau nó nhẹ nhàng bảo:
-Những chuyện ấy chúng tớ biết cả rồi, đấy là những chuyện cổ tích... Hai em nó im lặng nghe, thằng bé nhất mím chặt môi và phồng má lên, còn thằng kia thì chống khuỷu tay lên đầu gối, cúi về phía tôi, tay kia quàng lên vai em nó, ấn thằng này cúi xuống. Trời đã bắt đầu tối, những đám mây đỏ treo lơ lửng trên các mái nhà. Bỗng dưng trước mặt chúng tôi hiện ra một lão già với bộ ria trắng, mình vận chiếc áo nâu, dài lùng thùng trông giống như một giáo sĩ; đầu lão đội chiếc mũ xù lông.
-Đứa nào đây?
-Lão già hỏi và chỉ vào tôi. Thằng anh lớn đứng dậy, hất đầu về phía nhà ông tôi:
-Nó ở bên kia sang...
-Đứa nào gọi nó sang? Tức thì cả mấy đứa trẻ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe và đi về nhà, khiến tôi lại nghĩ đến những con ngỗng ngoan ngoãn. Lão già nắm chặt lấy vai tôi và dẫn tôi qua sân ra cổng. Lão làm tôi sợ đến phát khóc, nhưng lão bước dài và nhanh đến nỗi tôi chưa kịp khóc òa lên thì đã ở ngoài đường rồi. Lão già dừng trước cổng, giơ ngón tay dọa tôi và nói:
-Cấm không được đến chỗ tao! Tôi cáu tiết:
-Tôi có thèm đến với lão đâu, đồ quỷ già! Lão giơ cánh tay dài ngoẵng ra và lại tóm được tôi. Lão lôi tôi đi trên hè phố và hỏi tôi một câu làm tôi choáng váng chẳng khác gì bị một nhát búa nện vào đầu:
-ông mày có nhà không? Không may cho tôi là ông tôi lại có nhà. Trông thấy lão già hầm hầm, ông tôi đứng dậy. Đầu ngẩng lên, bộ râu vểnh về phía trước, ông tôi nhìn vào cặp mắt đục và tròn như hai đồng xu của lão già, hấp tấp nói:
-Mẹ nó đi vắng, còn tôi thì bận luôn, thành thử không có ai trông nom nó, xin đại tá tha lỗi cho! Lão đại tá quát ầm cả nhà, rồi lão quay đằng sau trông cứng đờ như một cây gỗ và đi thẳng. Còn tôi thì một lúc sau bị ném ra sân, vào trong chiếc xe của bác Piôt.
-Chú mày lại bị tóm cổ rồi phải không?
-Bác vừa hỏi vừa tháo ngựa ra khỏi xe.
-Tại sao bị đánh? Khi tôi kể chuyện cho bác nghe, bác nổi xung và rít lên:
-Thế mày chơi với cái lũ con nhà quý tộc, lũ rắn non ấy làm gì? Chơi với chúng nó đã thấy sướng chưa! Bây giờ thì mày đi mà nện cho chúng nó một trận, còn chờ gì nữa! Bác ta nói như thế rất lâu. Bực mình vì trận đòn, lúc đầu tôi còn nghe bác với vẻ đồng tình, nhưng bộ mặt nhăn nheo của bác cứ rung rung mỗi lúc trông một khó chịu thêm và làm tôi nhớ lại rằng những đứa trẻ kia cũng sẽ bị đánh và đối với tôi chúng không có tội gì cả.
-Sao tôi lại đánh chúng nó? Chúng nó tốt lắm. Bác chỉ toàn nói láo thôi!
-Tôi nói. Bác nhìn tôi và bất thình lình thét lên:
-Cút khỏi xe tao ngay!
-Đồ ngốc!
-Tôi nhảy xuống đất và hét lên. Bác liền đuổi theo tôi quanh sân, nhưng cứ bắt hụt mãi, vừa chạy bác vừa la, giọng lạc hẳn đi:
-Tao mà là đồ ngốc à? Tao mà nói láo à? Tao phải cho mày... Bà tôi bước ra cửa bếp, tôi liền chạy tới nép vào bà tôi. Còn bác Piôt thì phàn nàn:
-Tôi không thể sống được với cái thằng nhãi ranh này! Tôi nhiều tuổi hơn nó đến năm lần mà nó dám réo cha réo mẹ tôi ra mà chửi, bảo tôi là đồ nói láo... Mỗi khi người ta đặt điều ngay trước mặt tôi, tôi thường sững sờ và trở nên đần độn vì kinh ngạc. Lúc này tôi cũng đờ đẫn cả người. Nhưng bà tôi đã trả lời dứt khoát:
-ối chà, bác Piôt, tự bác đặt điều ra thì có, nó không chửi bác như vậy đâu! Giá phải ông tôi thì ông tôi đã tin lời lão đánh xe rồi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:40:50 | Chỉ xem của tác giả
Từ hồi đó trở đi bắt đầu một cuộc chiến tranh âm thầm và gay gắt giữa bác Piôt và tôi: bác ta cố tìm mọi cách giả như vô tình để xô đẩy tôi, lấy dây cương quật tôi, thả chim của tôi ra; một lần bác ta còn đem chim của tôi cho mèo vồ. Bất cứ chuyện gì bác cũng đem mách ông tôi và luôn luôn bịa đặt thêm.
Càng ngày tôi càng cảm thấy rằng bác ta cũng là đồ trẻ con như tôi, chỉ có mặc như ông già mà thôi. Về phía tôi, tôi tìm cách tháo giày gai của bác ta ra, tôi bí mật gỡ và cứa đứt những sợi gai để khi bác ta xỏ chân vào thì chúng đứt tung ra. Một hôm tôi đổ hạt tiêu vào mũi của bác làm cho bác ta hắt hơi hàng giờ liền. Nói chung, tôi cố sức trong phạm vi khả năng của tôi không chịu thua kém bác ta. Vào những ngày lễ, suốt ngày bác ta để ý theo dõi tôi và đã nhiều lần bắt gặp tôi nói chuyện với mấy đứa con lão đại tá là điều tôi đã bị cấm. Thế là bác đi tố cáo với ông tôi.
Tôi vẫn tiếp tục chơi với ba đứa bé kia và quan hệ giữa tôi với chúng càng ngày càng trở nên thích thú. Trong một ngách hẹp giữa bức tường nhà tôi và hàng rào nhà ạpxiannikôp có một cây du, một cây bồ đề và một bụi hương mộc rậm rạp. Nấp sau bụi cây đó tôi khoét một lỗ hổng hình bán nguyệt ở hàng rào. Mấy đứa con lão quý tộc, lần lượt từng đứa hoặc hai đứa một, lại gần, và chúng tôi ngồi xổm hoặc quỳ nói chuyện khe khẽ với nhau. Một đứa trong số ba anh em chúng phải luôn luôn đứng canh để đề phòng lão đại tá bất chợt bắt gặp chúng tôi. Chúng kể cho tôi nghe cuộc sống buồn tẻ của chúng, và những chuyện đó làm tôi rất buồn. Chúng kể cho tôi nghe về những con chim tôi bẫy được đang sống như thế nào và nhiều chuyện trẻ con khác, nhưng tôi nhớ lại thì không bao giờ chúng nói một lời nào về dì ghẻ và bố chúng. Thường thì chúng chỉ đề nghị tôi kể chuyện cổ tích. Tôi kể lại những chuyện mà bà tôi đã kể, và nếu quên chỗ nào thì tôi bảo chúng đợi, rồi chạy về nhà hỏi lại bà tôi. Điều đó thường làm cho bà tôi rất hài lòng. Tôi cũng kể cho chúng nhiều chuyện về bà tôi. Một hôm thằng lớn thở dài và nói:
-Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà mình trước cũng rất tốt... Nó thường nói một cách buồn bã như vậy: ngày trước, trước kia, đã có lúc... dường như nó đã sống trên trái đất này một trăm năm, chứ không phải mười một năm. Tôi còn nhớ nó có đôi bàn tay nhỏ, những ngón tay thon thon và người nó mảnh dẻ, yếu ớt, cặp mắt nó rất sáng, nhưng dịu dàng như ánh sáng của những ngọn đèn trong nhà thờ. Hai em nó cũng rất đáng yêu, và cũng gây cho tôi một sự tin cậy hoàn toàn. Tôi luôn luôn muốn làm cho chúng vui thích, nhưng tôi ưa thằng lớn hơn cả. Mải nói chuyện, nhiều khi tôi không biết bác Piôt đã đến bên cạnh. Bác ta giải tán chúng tôi bằng một tiếng quát lè nhè:
-Lại... nói chuyện?
Tôi nhận thấy rằng càng ngày bác càng hay có những cơn thẫn thờ ủ rũ. Thậm chí tôi còn đoán biết trước được tâm trạng của bác mỗi khi bác ta đi làm về: thường thường bác mở cổng rất thong thả, bản lề cổng rít lên một tiếng dài vẻ như uể oải, còn nếu bác đánh xe có điều gì bực bội thì bản lề rít lên ngắn ngủi, nghe như một tiếng kêu đau đớn. Từ ngày đứa cháu câm của bác ta về nhà quê lấy vợ, bác Piôt sống một mình ở trên chuồng ngựa. Trong căn gác thấp với chiếc cửa sổ bé tí tẹo, sực mùi da mốc, mùi hắc ín, mùi mồ hôi và thuốc lá, vì thế không khi nào tôi vào chỗ ở của bác cả. Bác lại để đèn khi đi ngủ, khiến ông tôi rất không bằng lòng:
-Coi chừng, không khéo bác thiêu cả tôi đi đấy, bác Piôt!
-Không đâu, cụ cứ yên trí! Ban đêm bao giờ tôi cũng để ngọn đèn vào trong bát nước,
-bác ta trả lời, mắt nhìn lảng đi chỗ khác. Nói chung bây giờ bác ta không nhìn thẳng vào mặt ai nữa. Đã từ lâu bác không tham dự những buổi tối uống trà của bà tôi nữa. Bác cũng không thết mứt mọi người nữa, mặt bác khô héo lại, những nếp nhăn hằn sâu hơn, bác đi lảo đảo, hai chân kéo lê như một người ốm. Có lần, vào một buổi sáng trong tuần, tôi đang cùng với ông tôi dọn sân, vì đêm trước tuyết rơi rất nhiều, bỗng thấy then cổng kêu lạch cạch rất lạ và một viên cảnh sát bước vào trong sân. Y lấy lưng đóng cổng lại và giơ ngón tay màu xám béo múp vẫy ông tôi. ông tôi bước tới, viên cảnh sát cúi về phía ông tôi, tưởng chừng như cái mũi to tướng của y bổ vào trán ông tôi. Y bắt đầu nói cái gì nghe không rõ, còn ông tôi thì hấp tấp trả lời:
-Vâng, ở đây! Bao giờ? Trời, để tôi nhớ lại xem nào... Bỗng ông tôi giật nẩy mình nom đến buồn cười và kêu lớn:
-Trời ơi, thật thế ư?
-Khẽ chứ,
-viên cảnh sát nói giọng nghiêm nghị. ông tôi quay lại phía sau và trông thấy tôi.
-Nhặt lấy xẻng rồi đi vào trong nhà. Tôi nấp vào sau một góc nhà thấy ông tôi và viên cảnh sát đi lên buồng bác đánh xe. Viên cảnh sát tháo chiếc găng ở tay phải ra, đập vào lòng bàn tay trái và nói:
-Hắn biết trước nên đã bỏ ngựa và biến mất rồi... Tôi chạy vào bếp kể lại cho bà tôi tất cả những gì tôi vừa trông vừa nghe thấy. Bà tôi đang nhào bột trong thùng để làm bánh, đầu đầy bụi lắc la lắc lư. Sau khi nghe tôi kể bà tôi điềm tĩnh nói:
-Chắc là ăn cắp cái gì... Đi chơi đi, việc gì đến mày! Tôi lại vội trở ra sân, và thấy ông tôi đang đứng gần cái cổng nhỏ. ông tôi bỏ mũ, ngửa mặt lên trời và làm dấu. Nét mặt ông tôi đầy vẻ bực tức, một chân run run.
-Tao đã bảo mày đi vào kia mà!
-ông tôi quát và giậm chân xuống đất. Rồi ông tôi bước theo tôi, đi vào bếp và gọi bà tôi:
-Bà nó ơi, lại đây! Hai người đi sang phòng bên và thì thầm ở trong đó rất lâu. Khi bà tôi trở vào bếp, tôi biết chắc có chuyện gì ghê gớm đã xảy ra.
-Bà sợ à?
-Im đi, nghe không?
-Bà tôi khe khẽ đáp lại. Suốt ngày trong nhà có không khí khó chịu, sợ hãi. ông tôi và bà tôi nhìn nhau lo lắng, nói năng thì thầm: những lời nói cộc lốc và khó hiểu của ông bà tôi khiến cho nỗi lo của tôi càng tăng thêm.
-Bà nó hãy đi thắp tất cả đèn trước tượng thánh lên!
-ông tôi húng hắng ho, ra lệnh. Bữa ăn trưa mọi người ăn vội vàng và miễn cưỡng, như thể đang chờ đợi ai. ông tôi phồng má có vẻ mệt nhọc và càu nhàu:
-Quỷ sứ quả là mạnh hơn người thật!... Nó có vẻ ngoan đạo lắm, nó đi nhà thờ... Và rồi thì thế đấy... Hừ! Bà tôi thở dài. Cái ngày mùa đông u uất ấy chìm đắm trong một màu sương mù đục và bàng bạc hầu như kéo dài mãi không dứt. Không khí trong nhà mỗi lúc một trở nên lo âu và nặng nề hơn. Buổi tối một viên cảnh sát khác lại đến, người to béo, tóc màu hung. Hắn ngồi trên chiếc ghế dài ở trong bếp và lim dim ngủ, miệng thở khò khè, đầu chốc chốc lại chúi xuống. Khi bà tôi hỏi hắn: "Làm thế nào mà biết được chuyện đó, hở bác?"
-hắn đận đà mãi mới trả lời, giọng khàn khàn:
-Cái gì chúng tôi cũng biết hết, cụ không lo! Tôi còn nhớ lúc ấy tôi ngồi cạnh cửa sổ, ngậm trong miệng một đồng xu cổ cho nóng lên để tìm cách in lên lớp băng bám trên cửa kính hình thánh Jorjơ đâm con rồng. Bỗng phòng ngoài có tiếng ồn ào, cánh cửa mở tung và mụ Pêtrôpna hiện ra trên ngưỡng cửa, mồm kêu the thé:
-Này, ra mà xem, đằng sau nhà bác có cái gì ấy! Nhìn thấy viên cảnh sát, mụ định bỏ chạy, nhưng lão cảnh sát đã nắm được váy mụ ta và cũng hốt hoảng kêu ầm lên:
-Đứng lại, mụ là ai? Mụ bảo ra mà xem cái gì? Vấp phải bậc cửa, mụ Pêtrôpna ngã khuỵu xuống đất và kêu ầm lên, tiếng đứt quãng, giọng nghẹn ngào đầy nước mắt:
-Tôi đi vắt sữa bò, bỗng tôi thấy có cái gì ở trong vườn nhà Kasirin. Tôi nghĩ bụng: cái gì thế kia, có vẻ như một chiếc ủng thì phải? Đến lượt ông tôi cũng gào lên, giậm chân như điên dại:
-Nói láo, mụ đần độn kia! Mụ làm thế nào mà thấy được có gì ở trong vườn nhà tao, hàng rào thì Một loại tiền bằng đồng trị giá hai kôpêch, một mặt có khắc hình Thánh Jorjơ cưỡi ngựa cầm giáo đâm con rồng. cao, khe hở không có, chỉ nói láo! ở đây không có gì hết!
-Cha mẹ ôi!
-Mụ Pêtrôpna khóc nức nở, một tay chìa về phía ông tôi, tay kia ôm lấy đầu.
-Phải rồi, tôi nói láo đấy! Tôi đang đi về phía hàng rào nhà bác thì thấy có những vết chân ở một chỗ tuyết bị giẫm lún be bét, tôi bèn nhìn qua hàng rào thì thấy hắn ta nằm...
-Ai... i...? Những tiếng kêu hỗn loạn của mọi người kéo dài rất lâu tưởng như không bao giờ chấm dứt. Nhưng bỗng như phát điên, mọi người chen nhau ra khỏi bếp và chạy ra vườn. Tại đây, bác Piôt nằm trong một cái hố phủ một lớp tuyết xốp, lưng dựa vào một thanh gỗ cháy dở, đầu gục xuống ngực. Phía dưới tai bên phải bác ta có một vết rạch dài sâu hoắm, đỏ như một cái miệng; từ đó lòi ra những mảnh thịt tim tím như những cái răng. Tôi sợ quá, nhắm mắt lại và qua hai hàng lông mi tôi nhìn thấy trên đầu gối bác Piôt có con dao cắt da mà tôi đã quen thuộc, và cạnh đó những ngón tay đen sì, co quắp của bàn tay phải. Cánh tay trái vật sang một bên và ngập trong tuyết. Tuyết bên dưới cái xác đã tan hết, thân hình bé nhỏ của bác đánh xe thuê lún sâu trong đống tuyết trắng mịn và trông càng giống một đứa trẻ con. Phía bên phải bác, một hình màu đỏ kỳ dị loang trên mặt tuyết trông như hình một con chim; phía bên trái, tuyết còn nguyên chưa bị động đến, mặt tuyết phẳng lì và sáng chói. Đầu bác ta cúi xuống vẻ ngoan ngoãn, cằm gập vào ngực khiến cho bộ râu rậm và xoăn xòe ra, một chiếc thánh giá lớn bằng đồng nằm giữa những dòng máu đỏ đã đông lại trên bộ ngực để trần. Đầu tôi nặng trình trịch. Tiếng nói ồn ào làm tôi chóng mặt. Mụ Pêtrôpna không ngớt mồm kêu la; viên cảnh sát cũng quát tháo và sai anh Valây đi đâu không rõ. ông tôi thì gào lên:
-Không được giẫm mất dấu! Nhưng bỗng ông tôi cau mặt lại, nhìn xuống đất và nói to với viên cảnh sát, giọng hách dịch:
-Làm gì mà cứ kêu ầm ĩ lên thế, cái nhà bác này! Đây là sự trừng phạt của Chúa, đây là bàn tay của Chúa, vậy mà bác cứ giở mãi những câu ngu xuẩn ấy ra... Chao ôi, lũ chúng bay... y... y thật là... Lập tức mọi người đều im lặng, tất cả đều nhìn vào người chết, thở dài và làm dấu. Có nhiều người từ ngoài sân chạy vào trong vườn, họ leo qua hàng rào từ phía nhà mụ Pêtrôpna sang bị ngã, họ càu nhàu. Những việc đó đều xảy ra trong yên lặng cho đến lúc ông tôi nhìn xung quanh và kêu lên với vẻ thất vọng:
-Bà con láng giềng ơi, làm gãy hết phúc bồn tử của tôi rồi! Không biết xấu hổ à!
Bà tôi nắm lấy tay tôi và dắt tôi vào nhà, vừa đi vừa khóc thút thít...
-Bác ấy làm sao thế?
-Tôi hỏi. Bà tôi trả lời:
-Mày không trông thấy hay sao? Suốt buổi tối cho đến khuya, ở dưới bếp và trong căn phòng bên cạnh lúc nào cũng có đông người lạ tụ tập, la hét. Cảnh sát ra lệnh; còn một người trông giống như thầy phụ lễ thì hí hoáy viết và hỏi mọi người, giọng nghe chẳng khác gì tiếng vịt kêu:
-Sao? Sao? Bà tôi mời mọi người uống nước trà ở trong bếp. Một người béo tròn, mặt rỗ, có ria mép dài ngồi vào bàn và kể lại, giọng nói rin rít:
-Tên thật của hắn là gì không ai rõ, chỉ biết hắn là người quê ở Elatma. Còn thằng câm thực ra chẳng câm gì hết, nó đã thú nhận cả rồi. Thằng thứ ba cũng nhận rồi, ở đây còn có thằng thứ ba nữa. Chúng đi ăn trộm các nhà thờ đã từ lâu lắm rồi, đó là nghề chuyên môn của chúng...
-Trời ơi!
-Mụ Pêtrôpna thở dài, mặt mũi đỏ bừng và đầm đìa mồ hôi. Tôi nằm trên nóc lò sưởi và nhìn xuống, tôi có cảm tưởng hình như tất cả mọi người đều lùn, to béo và đáng sợ...

(Hết chương 9)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:41:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10


Sáng sớm một ngày thứ bảy tôi vào vườn rau nhà mụ Pêtrôpna để bẫy chim sơn thước. Tôi rình rất lâu, nhưng những chú chim kiêu hãnh phô bộ ức đỏ, không chịu mắc bẫy. Dường như muốn lấy vẻ đẹp chọc tức tôi, chúng cứ diễu qua diễu lại nhởn nhơ trên lớp tuyết cứng lóng lánh như bạc; chúng đậu trên những cành cây phủ một lớp băng dày và đung đưa như những bông hoa thật làm tuyết rơi lả tả trông như những tia lửa màu xanh biếc. Cảnh đó đẹp đến nỗi tuy không bẫy được chim tôi cũng không thấy bực mình. Tôi vốn không ham săn bắn lắm, hay nói cho đúng hơn, tôi thích việc đi săn hơn là kết quả. Tôi thích quan sát đời sống của những con chim nhỏ và tôi hay nghĩ đến chúng. Thật thú vị khi ngồi một mình ở bên bờ cánh đồng phủ tuyết và nghe tiếng chim hót líu lo giữa cảnh tĩnh mịch trong suốt của một ngày băng giá, xa xa đâu đó vẳng lên tiếng nhạc của một cỗ xe tam mã chạy qua
-con chim sơn ca buồn bã của mùa đông nước Nga... Bị lạnh cóng và cảm thấy hai tai đã tê cứng, tôi thu dọn bẫy và lồng chim, leo qua hàng rào để trở lại vườn của ông tôi và đi về nhà. Cổng ra đường mở Thị trấn trên sông ska cách Nijni -Nôpgôrôt 200 cây số về phía tây nam. một bác mujich to lớn dắt ở trong sân ra ba con ngựa đã được thắng vào một cỗ xe trượt tuyết lớn có mui che kín; ba con ngựa thở ra những làn hơi dày đặc. Bác mujich vui vẻ huýt sáo... Tôi giật mình:
-Chở ai đến thế bác? Bác ta quay lại, đưa tay che mắt nhìn tôi rồi nhảy lên chỗ ngồi và nói:
-Giáo sĩ! ồ, chuyện ấy không liên quan gì đến tôi cả. Nếu là giáo sĩ thì chắc ông ta đến chỗ những người ở thuê.
-Nào, những chú gà con này!
-bác mujich hét, huýt sáo và giật dây cương, làm cho bầu không khí yên tĩnh trở nên tràn đầy vui vẻ. Ba con ngựa nhất tề lao về phía cánh đồng. Tôi nhìn theo chúng rồi khép cổng lại, nhưng khi tôi bước vào gian bếp vắng vẻ thì nghe thấy ở phòng bên cạnh vang lên giọng nói rất to của mẹ tôi. Tôi nghe rõ tiếng mẹ tôi nói:
-Bây giờ các người định làm gì? Định giết tôi hay sao? Không kịp cởi áo khoác ngoài, tôi ném lồng chim, chạy vào phòng ngoài và xô phải ông tôi. ông tôi nắm lấy vai tôi, nhìn vào mặt tôi bằng cặp mắt dữ tợn và vừa nuốt nước bọt vẻ khó nhọc vừa nói giọng khàn khàn:
-Mẹ mày về đấy, vào mà gặp mẹ mày! Nhưng khoan đã... ông tôi lay người tôi mạnh đến nỗi tôi loạng choạng suýt ngã, rồi đẩy tôi về phía cửa buồng:
-Đi, đi đi thôi... Tôi đụng đầu vào chiếc cửa bọc nỉ và vải sơn. Hai bàn tay tôi run lên vì lạnh và vì hồi hộp, mãi không tìm được quả đấm. Cuối cùng tôi khẽ mở cửa ra và dừng lại ở ngưỡng cửa, hai mắt hoa lên:
-Nó đây rồi!
-Mẹ tôi nói
-Trời ơi, nó lớn quá! Sao, không nhận ra mẹ à? ông bà cho nó ăn mặc gì mà lạ thế này, trời... Mà sao hai tai nó lại trắng thế kia! Mẹ lấy cho con xin ít mỡ ngỗng nhanh lên... Mẹ tôi đứng giữa phòng, cúi xuống và lột quần áo ở người tôi ra. Mẹ tôi xoay tôi như vần quả bóng. Thân hình to lớn của mẹ tôi mặc một chiếc áo dài màu đỏ, sờ vào ấm và mịn, rộng như áo tơi choàng của nông dân, có một hàng khuy lớn màu đen chạy suốt từ vai chéo xuống tận gấu. Tôi chưa bao giờ nom thấy chiếc áo dài nào như vậy cả. Tôi cảm thấy khuôn mặt mẹ tôi nhỏ hơn và trắng hơn xưa kia, hai con mắt to và có vẻ sâu hơn, tóc vàng óng hơn. Mẹ tôi vừa cởi quần áo cho tôi, vừa ném ra cửa. Cặp môi đỏ thẫm của mẹ tôi trề ra có vẻ dè bỉu, và vẫn bằng giọng nói như ra lệnh, mẹ tôi hỏi:
-Sao con cứ lặng thinh thế? Con có bằng lòng không? Khiếp, cái áo mới bẩn chứ...
Sau đó mẹ tôi lấy mỡ ngỗng sát vào tai cho tôi. Tôi đau quá, nhưng người mẹ tôi tỏa ra mùi thơm mát dịu khiến tôi cảm thấy bớt đau. Tôi áp chặt vào người mẹ tôi và nhìn vào mắt mẹ tôi, cảm động không nói gì được. Lẫn với tiếng nói của mẹ tôi, tôi nghe thấy giọng nói nhỏ và buồn của bà tôi:
-Nó nghịch lắm, không ai bảo được, ngay cả ông nó nó cũng không sợ... ôi, Varya, Varya...
-Đừng than phiền nữa mẹ ạ, rồi sẽ ổn cả thôi! Bên cạnh mẹ tôi, tất cả mọi vật xung quanh đều nhỏ bé, đáng thương và già cỗi. Tôi cũng cảm thấy tôi già như ông tôi. Siết chặt tôi trong hai đầu gối rắn chắc, mẹ tôi đưa bàn tay nặng nề, ấm áp vuốt tóc tôi và nói:
-Phải cắt tóc đi. Và nó cũng đến tuổi đi học rồi đấy. Con có muốn đi học không?
-Con đã học xong rồi.
-Phải học thêm một ít nữa. ồ, con khỏe quá! Rồi mẹ tôi cười đùa với tôi, tiếng cười êm dịu và ấm áp. ông tôi bước vào, vẻ mặt xám xịt, cau có, hai mắt đỏ ngầu. Mẹ tôi lấy tay đẩy tôi ra và hỏi to:
-Thế nào, bố? Con đi chứ? ông tôi dừng lại bên cửa sổ, lấy móng tay cạo lớp băng đóng trên cửa kính và im lặng rất lâu. Không khí xung quanh bỗng trở nên căng thẳng và tôi cảm thấy sờ sợ. Cũng như mọi khi, trong những phút căng thẳng như vậy, tôi cảm thấy như trên khắp người tôi có mọc thêm mắt và tai, ngực tôi căng lên một cách lạ lùng và tôi muốn hét lên.
-Lêcxây, đi ra ngoài kia!
-ông tôi nói giọng khàn khàn.
-Sao vậy?
-Mẹ tôi hỏi và lại ôm tôi vào người.
-Không đi đâu cả, Varya, tao cấm đấy... Mẹ tôi đứng dậy, lượn đi lượn lại trong phòng tựa như một đám mây hồng trong buổi hoàng hôn và dừng lại sau lưng ông tôi.
-Bố ơi, bố nghe con nói... ông tôi quay lại và rít lên:
-Im đi!
-Hừ, quát tôi là không được đâu,
-mẹ tôi nói khẽ. Bà tôi đang ngồi trên ghế đi-văng liền nhổm dậy, giơ ngón tay ra đe:
-Vacvara! ông tôi ngồi xuống ghế, nói lắp bắp:
-Đừng có láo, mày không coi tao ra gì phải không? Hử? Sao mày lại dám nói thế? Và bỗng ông tôi gào lên, giọng lạc hẳn đi:
-Mày đã làm nhục tao, Varika!...
-Ra ngoài kia!
-Bà tôi ra lệnh cho tôi.
Tôi xuống bếp, trong lòng nặng trĩu. Tôi leo lên nóc lò sưởi và lắng nghe rất lâu những tiếng nói ở bên kia vách; khi thì mọi người đều nói cùng một lúc, người nọ ngắt lời người kia; khi thì tất cả đều im lặng giống như bỗng dưng mọi người đều ngủ thiếp đi. Câu chuyện nói về đứa em mà mẹ tôi đã đẻ ra rồi đem gửi người nào đó. Nhưng tôi không hiểu được vì sao ông tôi cáu: có phải vì mẹ tôi đẻ mà không xin phép ông tôi không, hay vì mẹ tôi không đem em bé về cho ông tôi? Một lúc sau ông tôi bước vào bếp, đầu tóc rối bù, mặt mũi đỏ bừng, có vẻ mệt nhoài. Theo sau là bà tôi vừa đi vừa lấy vạt áo lau nước mắt ở hai má. ông tôi ngồi xuống ghế dài, hai tay chống lên ghế, lưng cúi lom khom, răng cắn lấy cặp môi xám run run. Bà tôi quỳ xuống trước mặt ông tôi, nói khẽ và tha thiết:
-ông ơi, xin ông hãy vì Chúa mà tha thứ cho nó! Ngựa có hay mấy đi nữa cũng có lúc dở chứng.
Những người quyền quí, giàu có mà chẳng có những chuyện như vậy sao? Đàn bà là thế đấy! Thôi, hãy tha thứ cho nó. ở đời chẳng có ai là không có tội lỗi cả... ông tôi ngả người vào tường, nhìn vào mặt bà tôi và càu nhàu. ông nhếch mép cười, miệng méo xệch, rồi nghẹn ngào nói:
-Phải rồi! Sao nữa? Bà thì ai mà bà chẳng tha thứ, bà sẵn lòng tha thứ tất. Chao ôi, lũ chúng bay... y... y thật là... ông tôi cúi xuống, nắm lấy hai vai bà tôi mà lắc, miệng thì thầm rất nhanh:
-Thế còn Chúa, Chúa có tha thứ không? Chúng ta sắp sửa xuống lỗ rồi mà còn bị Chúa trừng phạt đây. Gần trót đời rồi mà cũng chẳng được yên thân, chẳng được sung sướng! Bà hãy nhớ lấy lời tôi nói: rồi chúng ta sẽ chết như những đứa ăn mày cho mà xem, phải, sẽ chết như đồ ăn mày ấy! Bà tôi cầm lấy tay ông tôi, ngồi xuống bên cạnh và khẽ cất tiếng cười nhẹ nhàng, vô tư lự:
-Rõ khổ! Như đồ ăn mày thì đã sao? ông sợ à. ông cứ việc yên trí ngồi nhà, tôi sẽ đi ăn xin. ông không lo, người ta sẽ cho, chúng ta sẽ không đói đâu! Thôi, ông đừng nghĩ nữa! ông tôi bỗng cười khẽ và quay cổ lại, trông giống hệt như một con dê, ôm lấy cổ bà tôi, áp vào người bà, trông ông bé nhỏ, dúm dó. ông nức nở:
-ôi, ngốc quá, bà ngu ngốc một cách ngây thơ, dại dột, trên đời này tôi chỉ còn có mình bà thôi! Bà chẳng thương tiếc cái gì cả, bà chẳng hiểu gì hết! Bà hãy nhớ lại xem: chẳng phải là vì chúng nó mà chúng ta đã làm việc, mà tôi đã mắc tội hay sao?
Bây giờ chỉ mong sao chúng đền đáp lại cho chúng ta chút ít... Tôi cũng nghẹn ngào và không nén được nữa, tôi nhảy từ trên lò sưởi xuống, chạy lại chỗ ông bà tôi. Tôi khóc vì sung sướng, vì chưa bao giờ tôi thấy ông bà tôi nói với nhau những lời đẹp đẽ như vậy. Tôi khóc vì đau xót, vì tôi chia sẻ nỗi đau đớn của ông bà tôi, tôi cũng khóc vì mẹ tôi đã về. ông bà tôi để tôi cùng khóc, coi tôi như một người ngang hàng. Hai người ôm lấy tôi, siết chặt tôi trong tay, nước mắt giàn giụa. ông tôi áp mặt vào mặt tôi thì thầm vào tai:
-ôi, thằng quỷ con, mày cũng ở đây à? Mẹ mày về rồi, bây giờ mày sẽ ở với mẹ mày, còn ông, lão quỷ già độc ác này thì chẳng được tích sự gì nữa rồi! Cả bà vẫn hay nuông chiều mày nữa, cũng sẽ bị quên đi, có phải không? Chao ơi, lũ chúng bay... y... y thật là... Rồi đẩy bà cháu tôi ra, ông tôi đứng dậy, nói to, giọng giận dữ:
-Chúng nó bỏ ta đi cả, mỗi đứa đi một ngả, đứa nào lo thân đứa ấy. Nào, gọi nó vào đây! Cho xong chuyện đi... Bà tôi đi ra. ông tôi cúi đầu và quay về các tượng thánh:
-Lạy Chúa nhân từ, xin Chúa biết cho con!
Rồi ông nắm lấy tay đấm vào ngực thình thịch đến nỗi tôi thấy khó chịu, nói chung tôi không ưa cái kiểu ông tôi cầu Chúa, vì lúc nào ông tôi cũng có vẻ như muốn khoe khoang trước Chúa. Mẹ tôi bước vào, cái áo màu đỏ của mẹ tôi làm cho gian bếp có vẻ như sáng hơn. Mẹ tôi ngồi trên chiếc ghế dài cạnh bàn, ông và bà tôi ngồi hai bên; hai ống tay áo rộng thùng thình của mẹ tôi trải ra trên vai ông bà tôi. Mẹ tôi dịu dàng và nghiêm trang nói với ông bà tôi, còn ông bà tôi thì im lặng ngồi nghe, không ngắt lời. Lúc này ông bà tôi có vẻ trở thành nhỏ bé bên cạnh mẹ tôi và tôi có cảm tưởng như mẹ tôi đang ngồi giữa hai đứa con. Mệt mỏi vì xúc động, tôi ngủ thiếp đi trên nóc lò sưởi. Đến chiều, ông bà tôi mặc bộ quần áo ngày lễ và đi dự lễ nhà thờ. ông tôi mặc bộ lễ phục của phường trưởng, ngoài khoác chiếc áo bằng lông gấu chuột, quần bỏ ngoài ủng. Bà tôi vui vẻ nháy mắt về phía ông tôi và bảo mẹ tôi:
-Nhìn bố mày kìa, rõ như một con dê non! Mẹ tôi cười vui vẻ. Khi còn lại một mình với tôi ở trong phòng, mẹ tôi ngồi xuống đi-văng, xếp chân vòng tròn, lấy tay ra hiệu bảo tôi ngồi xuống bên cạnh:
-Lại đây với mẹ! Thế nào, con sống ra sao, kể chuyện cho mẹ nghe. Khổ lắm phải không? Tôi sống ra sao ư ?
-Con không biết.
-Tôi trả lời.
-ông có đánh con không?
-Bây giờ thì không hay đánh mấy.
-Thế à? Con kể chuyện cho mẹ nghe đi, chuyện gì cũng được, nào! Tôi không muốn kể về ông tôi. Tôi bèn nói rằng trong căn nhà này trước kia có một người rất đáng mến ở thuê, nhưng chẳng ai ưa bác ta cả, cuối cùng ông tôi đuổi bác ta đi. Xem ra mẹ tôi không thích chuyện này, mẹ tôi bảo:
-ừ, thế còn chuyện gì nữa? Tôi bèn kể chuyện ba thằng bé, chuyện lão đại tá đuổi tôi ra khỏi nhà lão. Mẹ tôi ôm chặt lấy tôi, nói:
-Quân chó má! Rồi mẹ tôi im lặng, nheo mắt nhìn xuống sàn nhà, lắc đầu. Tôi hỏi mẹ tôi:
-Tại sao ông lại giận mẹ?
-Vì mẹ có lỗi với ông.
-Đáng lẽ mẹ nên đem em bé về cho ông... Mẹ tôi giật mình, cau mày, cắn môi. Rồi mẹ tôi phá lên cười, ôm chặt lấy tôi.
-Thằng quỷ quái! Cấm không được nói đến chuyện ấy, nghĩ đến cũng không được, nghe chưa! Mẹ tôi nói rất lâu, giọng thì thầm, vẻ mặt nghiêm trang, nhưng tôi không hiểu mẹ tôi nói gì. Một lúc sau mẹ tôi đứng dậy và đi đi lại lại trong phòng, vừa lấy ngón tay gõ gõ vào cằm, cặp lông mày rậm luôn luôn chuyển động. Trên bàn, một ngọn nến mỡ bò đang cháy. Nến chảy ra, ánh nến chiếu vào khoảng không trong tấm gương. Những bóng đen bẩn thỉu bò trên sàn nhà. Trong góc phòng, trước tượng thánh, một ngọn đèn dầu cháy chập chờn. Dưới ánh trăng, những tấm kính cửa sổ phủ băng lóng lánh như bạc. Mẹ tôi đưa mắt nhìn xung quanh như muốn tìm kiếm một vật gì trên trần nhà và trên những bức tượng trơ trụi:
-Bao giờ con đi ngủ?
-Chốc nữa.
-à, mà buổi trưa con đã ngủ rồi.
-Mẹ tôi nhớ ra và thở dài. Tôi hỏi:
-Mẹ muốn đi phải không?
-Đi đâu?
-Mẹ tôi ngạc nhiên hỏi lại và, nâng đầu tôi lên, mẹ tôi nhìn vào mặt tôi rất lâu, lâu đến nỗi nước mắt tôi ứa ra.
-Sao thế con?
-Mẹ làm con đau cổ. Tôi thấy đau cả trong tim nữa. Tôi cảm thấy ngay rằng mẹ tôi sẽ không thể sống ở cái nhà này đâu và mẹ tôi sẽ lại đi thôi.
-Con lớn lên sẽ giống bố,
-mẹ tôi nói và lấy chân đá tấm thảm chùi chân sang bên.
-Bà có kể chuyện gì về bố cho con nghe không?
-Có.
-Bà rất yêu bố Macxim con, yêu lắm! Bố con cũng rất yêu bà...
-Con biết rồi. Mẹ tôi nhìn ngọn nến, nhăn mặt. Mẹ tôi thổi tắt nến đi và nói:
-Thế này dễ chịu hơn! Đúng vậy, tắt nến đi người ta có cảm giác mát mẻ và sạch sẽ hơn. Những bóng đen bẩn thỉu biến mất và không còn nhảy múa nữa. Trên sàn nhà trải ra những vệt màu xanh nhạt. Những tia lửa vàng rực lấp lánh trên cửa kính.
-Độ trước mẹ ở đâu? Như nhớ lại một điều gì đã quên từ lâu lắm, mẹ tôi vừa kể tên một số thành phố, vừa đi lại trong phòng, nhẹ nhàng như một con chim cắt.
-Thế mẹ lấy đâu ra chiếc áo dài này?
-Mẹ khâu lấy đấy. Mọi thứ mẹ đều làm lấy cả. Tôi lấy làm sung sướng thấy mẹ tôi không giống một người nào khác. Nhưng tôi buồn vì mẹ tôi ít nói quá, nếu tôi không hỏi thì mẹ tôi chẳng nói gì hết. Một lúc sau mẹ tôi lại ngồi xuống đi-văng bên cạnh tôi. Hai mẹ con cứ ngồi sát bên nhau, im lặng mãi đến khi ông bà tôi trở về, người nồng nặc mùi sáp và hương trầm, thái độ dịu dàng và lặng lẽ một cách trang trọng. Mọi người ăn tối có vẻ khách khí giống như đi ăn cỗ. Trong lúc ăn, mọi người nói ít và thận trọng, dường như sợ làm mất giấc ngủ chập chờn của một người nào đấy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

24#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:42:56 | Chỉ xem của tác giả
ít lâu sau mẹ tôi quáết định dạy tôi học chữ cái phổ thông. Mẹ tôi hăng hái bắt tay vào việc đó. Mẹ tôi mua về những cuốn sách nhỏ, trong đó có cuốn "Vần quốc ngữ". Tôi học theo cuốn sách ấy và chỉ trong vài ngày đã đọc được chữ phổ thông. Nhưng rồi mẹ tôi bắt tôi đọc thuộc lòng các bài thơ, và thế là từ đó chúng tôi bắt đầu làm khổ lẫn nhau. Bài thơ như thế này: Con đường thẳng, con đường dài, Ngươi lấy của Trời bao khoảng không gian. Xẻng, rìu đâu dễ mà san, Đường êm vó ngựa, đường toàn bụi bay... Chữ cái Nga (xem chú thích ở trang ).
Tôi đọc "vó ngựa" thành "vó cựa".
-Nào, hãy nghĩ kỹ đi,
-mẹ tôi khuyên tôi.
-Sao lại "vó cựa"? Thằng quỷ quái! "Vó ngựa" chứ, hiểu chưa? Tôi hiểu, nhưng vẫn cứ đọc là "vó cựa", chính tôi cũng lấy làm lạ. Thế là mẹ tôi cáu, bảo tôi là đần độn và bướng bỉnh làm tôi thật khổ tâm. Tôi cố gắng nhớ những câu thơ đáng nguyền rủa ấy, và khi tôi đọc thầm thì không sai, nhưng hễ đọc to lên là thế nào cũng bị nhầm. Tôi đâm ra căm thù những dòng chữ khó nắm được đó. Giận quá, tôi bèn cố tình xuyên tạc. Tôi chọn những chữ đồng âm vô nghĩa đọc liền một mạch. Tôi rất thích thú khi những câu thơ ma quỷ đó không còn ý nghĩa gì nữa. Nhưng trò chơi của tôi đã phải trả bằng một giá khá đắt. Một lần sau một buổi học có kết quả, mẹ tôi hỏi tôi đã học thuộc bài thơ chưa. Buột miệng, tôi nói lẩm nhẩm: Con đường, bức tường, ngôi trường, cái giường. Vó ngựa, ghế tựa, dao rựa... Khi tôi nhớ ra thì đã muộn. Mẹ tôi chống hai tay lên bàn, đứng dậy và hỏi rành rọt từng tiếng:
-Như thế nghĩa là gì?
-Con không biết,
-tôi thất kinh, trả lời.
-Sao?
-Con đọc vậy thôi ạ.
-Đọc vậy là thế nào?
-Để đùa thôi ạ!
-Đứng vào góc nhà kia!
-Để làm gì ạ? Mẹ tôi nhắc lại, không hề to tướng nhưng có vẻ hăm dọa:
-Vào góc nhà!
-Góc nào cơ ạ? Mẹ tôi nhìn chằm chằm vào mặt tôi không trả lời khiến tôi bối rối. Tôi không hiểu mẹ tôi muốn gì. Trong góc nhà, phía dưới các tượng thánh, có một chiếc bàn tròn nhỏ, bên trên để chiếc bình đựng những loại cỏ và hoa khô rất thơm. ở góc trước mặt tôi có kê một chiếc hòm, trên phủ một tấm thảm. Góc thứ ba kê một chiếc giường, còn góc thứ tư thì không có, vì chỗ đó là cái cửa.
-Con không hiểu mẹ muốn cái gì.
-Tôi nói giọng tuyệt vọng. Mẹ tôi ngồi phịch xuống, im lặng, lấy tay xoa trán và hai má. Sau đó mẹ tôi hỏi:
-Mày đã bị ông bắt đứng vào góc nhà bao giờ chưa?
-Bao giờ ạ?
-Một hôm nào đó, tao biết làm sao được!
-Mẹ tôi thét và giơ tay đập hai cái xuống mặt bàn.
-Không, con không nhớ.
-Mày có biết phải đứng vào góc nhà tức là bị phạt không?
-Không. Tại sao lại phạt ạ? Mẹ tôi thở dài.
-Hừ, lại đây! Tôi bước lại gần và hỏi mẹ tôi:
-Sao mẹ lại gắt con?
-Thế tại sao con cứ cố tình đọc sai bài thơ đi như vậy? Tôi cố sức giải thích cho mẹ tôi hiểu rằng mỗi khi tôi nhắm mắt lại thì tôi nhớ được bài thơ in trong sách như thế nào, nhưng hễ tôi cứ đọc lên là thế nào cũng lẫn sang những tiếng khác.
-Con không giả vờ đấy chứ? Tôi trả lời là không, nhưng ngay lúc đó tôi lại nghĩ: "Có thể là mình giả vờ chăng?". Rồi đột nhiên tôi thong thả đọc lại bài thơ và đọc rất đúng. Điều đó làm tôi kinh ngạc, và tôi sững sờ cả người. Đứng trước mẹ tôi, tôi cảm thấy mặt tôi bỗng như sưng lên, hai tai đỏ bừng và nặng trình trịch, đầu óc choáng váng. Tôi ngượng chín cả người. Qua nước mắt tôi thấy mặt mẹ tôi tối sầm lại, buồn rầu, hai môi mím chặt, cặp lông mày nhíu lại.
-Thế là thế nào?
-Mẹ tôi hỏi, giọng lạc hẳn đi.
-Vậy ra là con nói dối mẹ?
-Con không biết. Con không chủ tâm làm thế... Mẹ tôi cúi đầu xuống, nói:
-Tao thật khổ với mày! Thôi, đi đi! Từ đó trở đi mẹ tôi càng bắt tôi học thuộc lòng nhiều thơ hơn. Nhưng trí nhớ của tôi thì càng ngày càng khó tiếp thu những dòng chữ đơn điệu ấy. ở tôi, cái ý muốn tai ác xuyên tạc các câu thơ, chọn những chữ khác để thay vào, mà tôi không tài nào cưỡng lại được, càng ngày càng mạnh. Việc đó đối với tôi thật dễ dàng: những chữ không cần thiết cứ hiện ra hàng đống trong đầu tôi và trong chốc lát chúng làm xáo trộn tất cả những chữ ở trong sách mà tôi phải học. Nhiều khi cả một dòng chữ như trở thành những vật vô hình đối với tôi, và dù cho tôi cố gắng đuổi bắt thế nào, chúng cũng không chịu lọt vào trí nhớ tôi. Bài thơ đem lại cho tôi nhiều nỗi phiền nhất có lẽ là bài thơ đầy ai oán của hoàng thân Viazemxki: Sáng sớm hay chiều tối, Bao ông già, bà góa, trẻ côi . . . . . . . . . . . . . . . Xin người vì Chúa giúp chúng tôi. Còn câu thứ ba: Xách bị kêu van ngoài cửa sổ. thì tôi thường bỏ mất. Bực mình, mẹ tôi đem chuyện ấy mách ông tôi. ông tôi đe:
-Đồ hư thân mất nết! Nó nhớ được chứ có phải không nhớ được đâu: Kinh thánh nó còn thuộc hơn tao. Nó nói láo đấy: cái gì nó đã học được thì cứ như là khắc vào đá ấy! Mày cứ nện cho nó một trận! Bà tôi cũng kể tội tôi:
-Chuyện cổ tích nó nhớ hết, bài hát nó cũng nhớ, mà bài hát chẳng là thơ thì là cái gì? Tất cả những điều ấy đều đúng cả. Tôi cảm thấy tôi có lỗi, nhưng hễ tôi cứ ngồi vào đọc thơ là những chữ khác ở đâu lại bò đến như những con gián và tự động xếp thành những dòng chữ đều đặn. Ngoài cổng nhà ta, Có bao người già và trẻ mồ côi Kêu van xin hạt cơm rơi, Xin được liền mang tới Nhà mụ Pêtrôpna, Bán cho mụ nuôi gà, Rồi ra vực uống rượu. Ban đêm nằm với bà tôi trên lò sưởi, tôi hay đọc lại cho bà tôi nghe đến chán tai tất cả những gì tôi học được qua sách vở và tất cả những gì tôi tự đặt ra. Đôi khi bà tôi cười, nhưng thường thì bà mắng tôi:
-Đấy, mày chẳng thấy mày có thể học thuộc lòng được là gì! Nhưng không được chế giễu những người ăn mày. Cầu Chúa hãy phù hộ cho họ! Ngày trước Chúa cũng nghèo và tất cả các thánh cũng vậy... Tôi lẩm nhẩm: Tôi không thích ăn mày, Cũng chẳng ưa ông ngoại, Biết làm sao bây giờ? Lạy Chúa, hãy tha tội! ông tôi luôn tìm cớ Để mà đánh đập tôi...
-Mày nói cái gì thế? Đem mà cắt lưỡi đi!
-Bà tôi nổi nóng.
-Nhỡ ông mày nghe thấy thì sao?
-Mặc kệ!
-Cháu không nên nghịch tinh nghịch quái làm khổ mẹ cháu! Cháu không hư, mẹ cháu cũng đã có nhiều điều khổ tâm rồi.
-Bà tôi khuyên tôi bằng giọng âu yếm và có vẻ đăm chiêu.
-Sao mẹ cháu lại khổ tâm.
-Thôi, im đi! Mày không hiểu được đâu..
-Cháu biết rồi, tại vì ông...
-Mày có im đi không nào!
Cuộc sống của tôi thật nặng nề. Tôi có cái cảm giác gần như tuyệt vọng, nhưng không hiểu sao tôi cứ muốn giấu nó đi, tôi làm ra bộ thản nhiên và nghịch ngợm. Mẹ tôi bắt tôi học càng ngày càng nhiều, nhưng càng ngày tôi càng không hiểu những điều mẹ tôi dạy. Tôi học toán rất dễ dàng, nhưng tôi rất ghét môn chính tả, còn ngữ pháp thì tôi hoàn toàn chẳng hiểu gì cả. Nhưng điều làm cho tôi khổ tâm nhất là tôi đã thấy rõ mẹ tôi phải sống đau khổ trong cái nhà này. Mẹ tôi càng ngày càng hay cau có, nhìn mọi người bằng cặp mắt xa lạ, và thường ngồi rất lâu bên cửa sổ, yên lặng nhìn ra vườn. Mẹ tôi có vẻ tiều tụy hẳn đi. Những ngày đầu tiên mới về mẹ tôi nhanh nhẹn, tươi vui. Trái lại, bây giờ mắt mẹ tôi thâm quầng. Suốt ngày mẹ tôi đi tha thẩn trong nhà, đầu tóc rối bù, quần áo nhàu nát, cúc áo không buồn cài. Tôi khổ tâm thấy mẹ tôi tiều tụy như vậy. Mẹ tôi lẽ ra bao giờ cũng phải đẹp đẽ, nghiêm trang, ăn mặc sạch sẽ hơn tất cả mọi người chứ? Trong giờ học, cặp mắt mẹ tôi sâu thăm thẳm thường nhìn vào tường, nhìn ra ngoài cửa sổ như không trông thấy tôi. Người hỏi tôi bằng giọng mệt mỏi, quên cả những câu tôi trả lời và ngày càng hay cáu gắt. Điều đó cũng làm cho tôi khổ tâm: tôi muốn mẹ tôi phải là người công minh hơn hết thảy mọi người, như trong các chuyện cổ tích vậy! Thỉnh thoảng tôi hỏi mẹ tôi:
-Mẹ ở đây khổ lắm phải không? Mẹ tôi trả lời giọng bực tức:
-Không phải việc của mày! Tôi cũng nhận thấy hình như ông tôi đang mưu mô một việc gì khiến cho bà và mẹ tôi rất lo sợ. ông tôi thường ngồi lì trong buồng mẹ tôi, và ông tôi than vãn, la hét, giọng nghe khó chịu như tiếng sáo gỗ của lão chăn cừu gù lưng Nikanôrơ. Trong một cuộc cãi nhau như vậy mẹ tôi hét ầm cả nhà:
-Không, đừng có hòng! Mẹ tôi đóng sầm cửa lại, còn ông tôi thì quát tháo ầm lên. Lúc bấy giờ là buổi tối, bà tôi đang ngồi khâu vá cho ông tôi bên cạnh chiếc bàn ở trong bếp, miệng lẩm bẩm cái gì một mình. Khi có tiếng cửa đóng sầm lại, bà tôi lắng tai nghe và nói:
-Nó lại đến chỗ bọn ở thuê rồi. Trời ơi! Bỗng ông tôi từ ngoài xộc vào bếp, chạy lại chỗ bà tôi và nện một quả đấm vào đầu bà. Đoạn, vừa lắc bàn tay bị đau, ông vừa rít lên:
-Đừng có bép xép, mụ phù thủy kia!
-ông là một lão già ngốc,
-bà tôi vừa vấn lại tóc bị xổ vừa điềm tĩnh nói.
-Dễ thường ông tưởng tôi sẽ im chắc? Tôi mà biết được những mưu mô gì của ông là tôi sẽ nói tất cho nó biết cho mà xem...
ông tôi lao về phía bà tôi và giơ nắm đấm nện liên tiếp xuống đầu bà tôi. Bà tôi không chống đỡ, cũng không đẩy ông tôi ra, bà tôi chỉ nói:
-Được, cứ đánh đi, đánh nữa đi, đồ ngốc! Đấy, đánh đi! ở trên lò sưởi tôi liền lấy chăn, gối và ủng ném vào hai người, nhưng ông tôi đang cơn giận nên không nhìn thấy. Bà tôi ngã lăn ra đất. ông tôi lấy chân đá vào đầu bà tôi, cuối cùng ông tôi vấp ngã lăn ra, làm đổ lênh láng cả thùng nước. ông tôi bò dậy, khạc nhổ và thở phì phì, nhìn ngó xung quanh bằng cặp mắt hung dữ rồi bỏ chạy lên phòng riêng trên gác thượng. Bà tôi đứng dậy, rên rỉ, rồi ngồi xuống ghế gỡ tóc. Tôi ở trên lò sưởi nhảy xuống. Bà tôi, giọng bực tức, bảo tôi:
-Thu dọn chăn gối lại rồi cất tất cả lên trên lò sưởi kia! Tưởng thế là hay lắm! Việc gì đến mày? Cái lão quỷ già ấy, đang tự nhiên thì nổi cơn lên... Đồ ngốc! Bỗng bà tôi nhăn mặt và rên rỉ rồi cúi đầu, gọi tôi lại:
-Thử xem xem chỗ này làm sao mà đau thế. Tôi rẽ mớ tóc dày của bà tôi ra xem: thì ra một chiếc kim gài đầu đã đâm sâu vào trong da đầu bà tôi. Tôi lôi chiếc kim đó ra, nhưng lại thấy một chiếc khác. Ngón tay của tôi như bị tê dại đi.
-Để cháu gọi mẹ cháu, cháu sợ lắm! Bà tôi xua tay:
-Mày điên à? Gọi mẹ mày ấy ư? Cám ơn Chúa, may mà mẹ mày không nghe thấy, không trông thấy! Thôi, đi đi! Rồi, với những ngón tay mềm mại của một người thợ thêu đăng-ten, bà tôi tự tìm lấy trong mớ tóc đen và dày của mình. Đánh bạo, tôi giúp bà tôi lôi ra được hai chiếc kim nữa to và cong.
-Bà có đau không?
-Không sao. Mai bà sẽ đun nước, gội đầu một cái là hết. Rồi, bà tôi dịu dàng hỏi tôi:
-Cháu yêu của bà, nhất là cháu đừng có nói gì với mẹ cháu rằng ông đánh bà đấy nhé! Nghe chưa? ông cháu và mẹ cháu đã giận nhau sẵn rồi. Đừng nói nhé?
-Vâng.
-Được, nhớ đấy! Bây giờ bà cháu ta phải dọn dẹp chỗ này lại. Mặt bà có sây sát gì không? Tốt, thế là mẹ cháu sẽ không hay biết gì hết... Bà tôi bắt đầu lau sàn nhà. Tôi thành thật bảo bà tôi:
-Bà thật là một bà thánh! Bà bị hành hạ mãi như thế mà bà vẫn chịu được!
-Đừng có nói nhảm! Tao mà là thánh à? Học được ở đâu cái ấy đấy?
Bà tôi vừa bò trên mặt sàn để lau, vừa làu bàu rất lâu. Tôi ngồi trên bậc lò sưởi, nghĩ cách trừng trị ông tôi trả thù cho bà. Chưa bao giờ tôi thấy ông tôi đánh bà tôi tàn nhẫn và khủng khiếp như vậy. Trước mặt tôi, trong bóng tối lờ mờ, tôi như thấy hiện ra bộ mặt đỏ tía của ông tôi với đám tóc hung lất phất. Lòng tôi giận sôi lên, tôi bực mình vì không tìm được cách trả thù cho thật đích đáng. Nhưng khoảng hai ba hôm sau, không hiểu có việc gì tôi trèo lên gác thượng vào buồng ông tôi. Tôi thấy ông đang ngồi trên sàn, trước một cái hộp mở ngỏ và đang soạn những giấy tờ gì ở trong đó. Trên ghế có cuốn lịch Nhà thờ mà ông tôi rất quý: đó là mười hai tờ giấy dày màu xám, chia thành những ô vuông căn cứ theo số ngày trong một tháng, và trong mỗi ô vuông lại có in hình tất cả vị thánh của ngày đó. ông tôi rất quý quyển lịch ấy, chỉ hãn hữu những khi nào vì lý do gì đấy rất bằng lòng về tôi, ông tôi mới cho tôi xem. Còn tôi thì bao giờ cũng ngắm nghía những hình màu xám in xít nhau nhỏ xíu và rất đáng yêu đó, với một cảm giác đặc biệt.
Tôi có biết sự tích của một số vị thánh trong đó như Kirich và Ulita, Vacvara tử vì đạo, Pantêlâymôn và nhiều vị thánh khác. Đặc biệt tôi thích nhất sự tích buồn thảm của thánh Alêcxây, người của Chúa, và những bài thơ tuyệt diệu về Người mà bà tôi thường đọc cho tôi nghe một cách cảm động. Nhìn thấy hàng trăm hình ảnh thánh đó tôi lại thầm nghĩ để tự an ủi rằng bao giờ thì cũng vẫn có những người đau khổ. Nhưng bây giờ tôi quáết định phải cắt nát cuốn lịch đó ra. Thừa lúc ông tôi đi lại phía cửa sổ để đọc một tờ giấy màu xanh có in hình chim phượng hoàng, tôi liền thủ luôn mấy tờ lịch và chạy thật nhanh xuống dưới nhà. Tôi lấy chiếc kéo trong ngăn bàn của bà tôi rồi leo lên nóc lò sưởi và bắt đầu cắt đầu các vị thánh. Cắt được một hàng, tôi bỗng thấy tiếc đã làm hỏng cuốn lịch, tôi bèn cắt theo đường kẻ chia các ô vuông. Nhưng tôi chưa kịp cắt xong hàng thứ hai thì ông tôi hiện ra, leo lên bậc lò sưởi và hỏi:
-Ai cho mày lấy lịch của tao? Nhìn thấy những miếng ô vuông rải rác trên mặt lò, ông tôi nhặt lên xem rồi vứt đi, rồi lại nhặt một ô vuông khác. Mồm ông tôi méo xệch, chòm râu rung rung. ông tôi thở mạnh đến nỗi những mảnh giấy nhỏ bay tung cả xuống đất.
-Mày làm gì thế này?
-Cuối cùng ông tôi hét lên, và cầm chân tôi lôi thật mạnh. Tôi ngã lộn xuống, bà tôi giơ hai tay ra đỡ lấy tôi. Nhưng ông tôi giơ nắm đấm đánh bà tôi và tôi, miệng thét:
-Tao sẽ giết chết nó. Thánh Vacvara tử vì đạo ở thế kỷ XV, bị bố là quan lại La Mã giết chết.
Mẹ tôi chạy đến. Tôi nấp vào góc nhà, cạnh lò sưởi. Mẹ tôi đứng chắn trước mặt tôi, rồi vừa đỡ và gạt những cánh tay ông tôi đang vung trước mặt vừa nói:
-Thật quá tệ! Bố hãy bình tĩnh lại! ông tôi ngồi phịch xuống chiếc ghế dài ở bên cửa sổ, tru tréo:
-Chúng nó giết tôi! Tất cả chúng nó đều chống lại tôi, ôi...
-Bố không biết xấu hổ à?
-Mẹ tôi nói, giọng khàn khàn.
-Làm gì mà bố lúc nào cũng cứ giả vờ giả vịt như vậy? ông tôi la hét, giậm hai chân xuống ghế, chòm râu vênh lên nom đến buồn cười, hai mắt thì nhắm nghiền lại. Tôi cũng cảm thấy như ông tôi ngượng với mẹ tôi và ông tôi quả có giả vờ thật, vì thế nên mới nhắm mắt lại.
-Rồi con sẽ lấy vải dán lại những tờ lịch đó cho bố, lại chẳng đẹp và chắc hơn ấy à,
-mẹ tôi vừa nói vừa ngắm nghía những tờ lịch còn nguyên và những mảnh đã bị cắt vụn ra.
-Lịch của bố cũng đã nhàu nát mủn cả ra rồi đây này... Mẹ tôi nói với ông tôi bằng giọng tựa như nói với tôi trong những lúc bảo tôi học, khi tôi có điều gì không hiểu. Bỗng ông tôi đứng dậy, ra vẻ vội vã, xốc lại áo sơ-mi và gi-lê, khạc nhổ và nói:
-Mày dán lại ngay trong ngày hôm nay cho tao! Tao sẽ đem xuống cho mày nốt những tờ còn lại... ông tôi bước ra, nhưng đi đến ngưỡng cửa lại quay lại, giơ ngón tay khòng khòng chỉ vào tôi và nói:
-Còn nó thì phải nện cho nó một trận!
-Phải rồi!
-Mẹ tôi đáp. Quay về phía tôi, mẹ tôi hỏi:
-Sao con lại làm thế?
-Con cố ý làm thế đấy! Ai bảo ông đánh bà... ông còn đánh bà nữa thì con cắt râu đi ấy chứ! Bà tôi cởi chiếc áo ngoài rách ra, lắc đầu, nói với vẻ trách móc:
-Thế mà cháu đã hứa với bà là cháu sẽ không nói đấy! Rồi nhổ nước bọt xuống sàn nhà, bà tôi nói thêm:
-Sao lưỡi mày nó không sưng lên để cho mày đừng ngọ nguậy lưỡi nữa! Mẹ tôi nhìn bà tôi và đi đi lại lại trong bếp, rồi đi tới bên tôi:
-ông đánh bà bao giờ?
-Còn mày nữa, Vacvara, mày hỏi nó thế mà không biết ngượng à? Việc gì đến mày nào?
-Bà tôi bực tức nói.
Mẹ tôi ôm lấy bà tôi:
-ôi, mẹ, mẹ yêu quý của con!
-Thôi đi, mẹ mẹ con con cái gì! Lui ra! Hai người nhìn nhau và bỗng im bặt, buông nhau ra: ở phòng ngoài có tiếng chân của ông tôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:44:31 | Chỉ xem của tác giả
Ngay từ khi mới về, mẹ tôi đã đánh bạn với cái mụ ở thuê rất vui tính là vợ lão nhà binh ở phòng ngoài. Và hầu như tối nào mẹ tôi cũng sang chơi bên nhà mụ ta, ở đó có cả những bà sang trọng và những gã sĩ quan ở nhà Betleng cũng đến. Điều đó khiến ông tôi không thích. Đã nhiều lần, ngồi ăn tối ở trong bếp, ông tôi giơ cái thìa lên dọa nạt, miệng làu bàu:
-Cái lũ khốn kiếp ấy lại tụ tập với nhau rồi! Từ giờ đến sáng là chúng nó không cho ai chợp mắt được nữa đâu! ít lâu sau ông tôi yêu cầu những người thuê nhà dọn đi nơi khác. Sau khi họ đi rồi, ông tôi chở ở đâu về hai xe toàn những đồ đạc linh tinh. ông tôi đem đặt vào hai phòng ngoài và lấy một cái khóa thật to khóa lại:
-Chẳng cần cho thuê nữa! Bây giờ tao sẽ mời khách khứa đến chơi! Và từ đó cứ đến ngày lễ là trong nhà lại có khách. Thường đến có bà em gái của bà tôi tên là Matriôna Ivanôpna làm nghề thợ giặt. Bà ta có cái mũi to, hay lắm lời, thường mặc một chiếc áo dài lụa kẻ xọc và trùm một chiếc khăn màu vàng óng. Cùng đi với bà có hai người con trai bà ta: một người tên là Vaxili làm thợ vẽ, để tóc dài, rất tốt và vui tính, thường mặc toàn một màu xám; người thứ hai là Victo thích màu sắc lòe loẹt, đầu như đầu ngựa, mặt dài và đầy tàn hương. Vừa mới đến phòng ngoài, chưa kịp cởi giày cao-su, cậu ta đã hát lên the thé hệt như Pêtruska vậy:
-Bố Anđrây, bố Anđrây... Cái đó làm tôi rất ngạc nhiên và sợ hãi. Cậu Iakôp thường đến xách theo cây đàn ghi-ta. Cậu hay cùng đến với một bác thợ đồng hồ chột mắt và hói đầu. Bác này mặc một chiếc áo dài đen, trông giống như một thầy tu. Bác ta rất kín đáo, bao giờ cũng ngồi vào một góc, ngoẹo đầu sang một bên một cách kỳ lạ và mỉm cười, ngón tay chống vào chiếc cằm béo hai ngấn, cạo nhẵn. Nước da bác ngăm ngăm đen, con mắt độc nhất của bác nhìn mọi người với vẻ chăm chú đặc biệt. Bác ít nói và thường hay lặp đi lặp lại một câu:
-Xin đừng phiền hà, thế nào cũng được... Khi nhìn thấy bác ta lần đầu tiên, tôi bỗng nhớ lại một chuyện đã lâu lắm, khi chúng tôi còn ở phố Nôvaia. Một hôm tôi nghe thấy ở ngoài cổng có tiếng trống đánh dồn dập, náo động. Chạy ra xem, tôi thấy một chiếc xe ngựa cao, sơn đen đang đi trên đường từ phía nhà giam tới quảng trường, lính và dân chúng vây chung quanh xe. Ngồi trên xe là một người thấp bé bị xích, đầu đội chiếc mũ tròn bằng dạ, trên ngực đeo tấm bảng đen có ghi những chữ trắng lớn. Người đó ngồi gục đầu xuống, tựa như đang đọc tấm bảng, người lắc lư, tiếng xích kêu lẻng xẻng. Vì vậy khi mẹ tôi bảo với bác thợ đồng hồ: "Đây là con tôi" thì tôi hoảng hốt, vội lùi lại và giấu hai tay ra đằng sau.
-Xin đừng phiền hà,
-bác ta nói, mồm nhếch lên phía mang tai bên phải, trông thật đáng sợ. Bác ôm ngang thắt lưng tôi, kéo tôi lại và nhẹ nhàng xoay người tôi một vòng. Sau đó bác buông tôi ra, nói với vẻ khen ngợi:
-Khá đấy, chú bé khỏe lắm... Tôi lủi vào một góc nhà, ngồi thu lu trên chiếc ghế bành bằng dạ. Chiếc ghế to đến nỗi tôi có thể nằm vào trong đó được. ông tôi rất hãnh diện về chiếc ghế ấy vì cứ theo lời ông tôi nói, thì chiếc ghế đó trước kia là của cá tước Gruzinxki. Ngồi trên đó tôi nhìn cuộc vui chơi tẻ nhạt của người lớn và ngắm nét mặt luôn luôn thay đổi một cách kỳ lạ và khả nghi của bác thợ đồng hồ. Bộ mặt của bác ta lầy nhầy những mỡ, nhão nhoét như sắp tan thành nước. Mỗi khi cười, cặp môi dày của bác lại dồn cả về phía bên má phải, còn chiếc mũi nhỏ xíu cũng di động tựa như quả trứng đặt trên đĩa. Hai cái tai lớn vểnh lên cử động một cách kỳ lạ, lúc thì rướn lên cùng với lông mày của con mắt lành, lúc thì cụp xuống hai bên gò má. Và khi đó người ta có cảm tưởng là nếu muốn, bác ta có thể dùng hai tai che kín mũi, như ta lấy hai bàn tay úp lại vậy. Thỉnh thoảng, những lúc thở dài, bác ta lại để thò ra cái lưỡi đen, tròn như cái chày; rồi bác nhanh nhẹn đưa lưỡi liếm một vòng cặp môi dày và nhờn. Tất cả những cái ấy không có gì thích thú, mà chỉ làm cho tôi ngạc nhiên và khiến tôi nhìn bác thợ đồng hồ không rời mắt. Mọi người uống nước trà pha rượu rum có mùi lá hành cháy; uống các thứ rượu ngọt của bà tôi: có thứ màu vàng như vàng nén, có thứ đen như hắc ín và có thứ màu xanh lá cây; ăn varentại loại ngon và bánh bơ làm với mật có rắc hạt anh túc. Ai nấy mồ hôi đầm đìa, thở phì phò, vừa ăn vừa khen ngợi bà tôi. Cuối cùng, khi đã ăn uống no nê, mặt mũi đỏ bừng, mọi người lễ phép ngồi vào ghế và đề nghị cậu Iakôp chơi đàn, nhưng không tha thiết lắm. Cậu cúi xuống cây đàn ghi-ta vừa gảy vừa hát theo bằng một giọng nghe rất khó chịu: Chúng ta đã sống theo sở thích, Náo động, xôn xao khắp phố phường, Mọi chuyện chúng ta đều kể hết, Cho bà quý tộc ở Kazan... Tôi thấy bài hát ấy thật là buồn.
-Iasa, mày chơi một bài nào khác đi?
-Bà tôi nói
-Một bài thực hay ấy! Môtráa, cô còn nhớ những bài hát ngày xưa không? Sửa lại tấm áo dài kêu sột soạt, bà thợ giặt nói ra vẻ quan trọng:
-"Mốt" bây giờ khác rồi, bà chị ạ... Cậu Iakôp nheo mắt nhìn bà tôi, như thể bà ngồi cách xa lắm. Cậu vẫn tiếp tục chơi những điệu nhạc buồn, hát những lời nghe đến khó chịu. ông tôi nói chuyện với bác thợ đồng hồ với một vẻ bí mật và tính toán cái gì đó trên mấy ngón tay. Bác này rướn lông mày lên, ngó về phía mẹ tôi và gật đầu. Bộ mặt nát nhẽo của bác ta thoáng rung rung. Mẹ tôi bao giờ cũng ngồi giữa hai anh em Xecgêep. Vẻ mặt trang nghiêm, mẹ tôi thì thầm nói chuyện với cậu Vaxili. Cậu thở dài và đáp:
-Phải đấy, chuyện ấy cần phải suy nghĩ cho kỹ... Cậu Victo thì cười có vẻ hể hả, lết hai chân sền sệt trên sàn rồi bỗng nhiên hát lên the thé:
-Bố Anđrây, bố Anđrây... Mọi người ngạc nhiên im bặt, đưa mắt nhìn cậu. Làm ra vẻ quan trọng, bà thợ giặt giải thích:
-Nó bắt chước rạp hát đấy, chả ở đấy người ta hát như vậy mà... Có đến hai hay ba tối như vậy, những buổi tối thật là chán hết sức đến nỗi tôi không thể quên được. Sau đó, một buổi trưa chủ nhật, ngay sau buổi lễ cuối bác thợ đồng hồ lại tới. Tôi đang ngồi trong buồng giúp mẹ tôi gỡ những hạt cườm trên một bức thêu đã rách. Cửa ra vào bỗng hé mở, bà tôi thò bộ mặt hoảng hốt vào và thì thào:
-Hắn đến rồi đấy, Varya!
-Và lại biến đi ngay tức khắc. Mẹ tôi vẫn ngồi im, không nhúc nhích. Cửa lại mở và ông tôi hiện ra trên ngưỡng cửa, trịnh trọng nói:
-Vacvara, con mặc quần áo vào rồi ra đây! Không đứng lên, cũng chẳng buồn nhìn ông tôi, mẹ tôi hỏi:
-Ra đâu?
-Đi, cầu Chúa thương cho mày! Đừng cãi nữa! Hắn là người hiền lành, thạo nghề, xứng đáng là bố của thằng Lêcxây...
ông tôi nói với vẻ quan trọng khác thường. Hai bàn tay ông tôi cứ sát mãi vào hai bên sườn, hai khuỷu tay quặt ra sau lưng, run run, tựa như chúng muốn nhoài ra đằng trước mà bị ông tôi giữ lại. Mẹ tôi bình tĩnh ngắt lời:
-Con đã bảo bố rằng không được mà lại...
ông tôi bước tới gần mẹ tôi, hai tay giơ ra phía trước như người mù, rồi cúi xuống, vẻ giận dữ, nói như rên rỉ:
-Đi! Nếu không tao sẽ nắm tóc mày lôi đi...
-Lôi à?
-Mẹ tôi đứng dậy, hỏi lại. Mặt mẹ tôi tái đi, hai con mắt nhíu lại trông thật đáng sợ. Mẹ tôi nhanh nhẹn cởi tất cả váy và áo ngoài ra, chỉ còn mặc mỗi chiếc áo lót. Sau đó mẹ tôi tiến đến trước mặt ông tôi:
-Đây, đưa tôi ra! ông tôi nghiến răng lại, giơ nắm tay ra dọa mẹ tôi:
-Vacvara, mặc áo xống vào! Mẹ tôi lấy tay gạt ông tôi ra, nắm lấy quả đấm cửa:
-Nào, ta đi ra!
-Tao sẽ nguyền rủa mày,
-ông tôi thì thào.
-Tôi chẳng sợ! Thế nào, ra chứ? Mẹ tôi mở toang cửa ra, nhưng ông tôi nắm lấy vạt áo lót giữ lại rồi quỳ xuống, thì thào:
-Vacvara, đồ quỷ sứ, mày muốn chết hay sao! Đừng làm nhục tao... Rồi ông tôi rên rỉ khe khẽ, giọng thảm thiết:
-Bà nó ơi, bà nó ơi... Bà tôi đã đứng chắn lối đi của mẹ tôi và giơ hai tay xua mẹ tôi như xua gà để dồn mẹ tôi vào trong buồng. Bà tôi càu nhàu, tiếng nói rít qua kẽ răng:
-Varika, mày định làm trò gì thế hở con ngốc kia? Đi vào, rõ không biết dơ! Bà tôi đẩy mẹ tôi vào buồng, cài cửa lại, rồi cúi xuống, một tay đỡ ông tôi dậy, tay kia nhứ nhứ đe dọa:
-ôi, lão quỷ già này, đồ ngu xuẩn! Bà tôi ấn ông tôi ngồi phịch xuống đi-văng như một con búp bê bằng giẻ rách, mồm há hốc, đầu lắc lư. Bà tôi quát mẹ tôi:
-Mặc áo xống vào, con kia! Mẹ tôi vừa nhặt chiếc áo dài ở dưới sàn lên, vừa nói:
-Tôi không ra với lão ta đâu, mẹ hiểu chưa? Bà tôi đẩy tôi từ trên đi-văng xuống:
-Lấy cho tao gáo nước, nhanh lên! Bà tôi nói khẽ, gần như thì thầm, nhưng giọng bà bình tĩnh và kiên quáết. Tôi chạy ra phòng ngoài. ở gian phòng phía trước nhà có tiếng bước chân đi lại nặng nề và đều đặn. Trong buồng mẹ tôi bỗng có tiếng mẹ tôi thét lên:
-Mai tôi sẽ đi khỏi đây! Tôi vào bếp, ngồi xuống bên cửa sổ, tưởng như mình đang trong giấc mơ. Có tiếng ông tôi rền rĩ, nức nở, tiếng bà tôi càu nhàu, sau đó có tiếng đóng sập cửa, và không khí lại trở lại yên tĩnh, ghê sợ. Sực nhớ ra là mình bị sai đi làm gì, tôi lấy cái gáo đồng, múc một gáo nước và bước vào phòng ngoài. Tôi gặp bác thợ đồng hồ đi ra, đầu cúi gằm, tay mân mê chiếc mũ lông, miệng làu bàu. Bà tôi chắp hai tay vào bụng, vừa đi theo vừa cúi chào và nói khẽ:
-Bác cũng biết đấy, ép dầu ép mỡ chứ ai nỡ ép duyên... Bác ta vấp phải bậc cửa, hấp tấp đi ra sân. Bà tôi đưa tay làm dấu, toàn thân run lên, không biết bà tôi đang cười hay đang khóc thầm...
-Bà làm sao thế?
-Tôi chạy đến và hỏi. Bà tôi giằng lấy gáo nước, giội vào chân tôi và quát:
-Mày lấy nước mà đi đâu từ nãy đến giờ?
Đóng cửa lại! Rồi bà tôi trở vào phòng mẹ tôi, còn tôi lại đi xuống bếp. Tôi nghe thấy ông bà tôi và mẹ tôi ở buồng bên cạnh rên rỉ, than vãn và cằn nhằn lẫn nhau, hệt như đang phải khiêng những vật nặng quá sức từ chỗ nọ sang chỗ kia vậy. Hôm ấy là một ngày trong sáng. Những tia nắng mùa đông chiếu xiên vào hai chiếc cửa sổ, xuyên qua lần cửa kính phủ đầy băng. Trên chiếc bàn đã dọn sẵn để ăn trưa, bát đĩa bằng nhôm lấp lánh một thứ ánh sáng mờ đục, một chiếc bình đựng nước cơvat màu hung đỏ và một chiếc nữa đựng rượu vôtka màu xanh thẫm có ngâm cây hoắc hương và tiểu liên kiều của ông tôi. Qua những chỗ băng tan trên cửa sổ nhìn thấy tuyết trắng xóa lấp lánh trên các mái nhà. Các cột hàng rào và nóc chuồng sáo như đội những chiếc mũ nhỏ lóng lánh bằng bạc. Trong những chiếc lồng tràn đầy ánh nắng treo trên cửa sổ, các chú chim của tôi đang đùa nghịch: những con chim bạch yến vui nhộn, rất dạn người đang hót líu lo, các chú chim sơn thước hót lanh lảnh, chim kim oanh kêu thánh thót. Nhưng cái ngày vui vẻ, trong sáng và rộn ràng đó không làm cho tôi vui được. Tôi cảm thấy nó vô ích và tất cả mọi thứ cũng đều vô ích. Tôi muốn thả những con chim của tôi ra. Tôi bèn hạ lồng xuống. Bỗng bà tôi xộc vào, đập hai tay vào hông, chạy đến bên bếp lò và rủa:
-Quân khốn kiếp! Quan ôn bắt chúng mày đi! Mình thật là một mụ già ngu ngốc... Bà tôi lôi ở trong bếp ra một chiếc bánh nướng, lấy ngón tay đập đập vào vỏ ngoài rồi giận dữ nhổ toẹt xuống đất.
-Thôi, thế là khô hết cả rồi! Mình chỉ định nướng lại một tí cho nóng! ôi, quỷ thần, sao không xé xác tất cả các người ra! Còn mày, việc gì mà giương mắt thao láo ra như cú vọ thế kia? Không hiểu tại sao tao lại không đập nát tất cả các người ra như đập những chiếc lọ cũ vậy? Bà tôi khóc mếu máo, cầm chiếc bánh lật đi lật lại, mấy ngón tay gõ vào chiếc vỏ khô cứng. Những giọt nước ắt lớn nặng nề nhỏ xuống vỏ chiếc bánh. ông tôi và mẹ tôi bước vào bếp. Bà tôi cầm chiếc bánh ném mạnh xuống bàn đến nỗi nảy cả bát đĩa lên.
-Đây, trông xem, tại các người đấy! Sao các người không chết đi cho rảnh mắt! Mẹ tôi, thái độ vui vẻ và bình tĩnh, ôm lấy bà tôi và khuyên bà tôi đừng buồn. ông tôi ngồi vào bàn, vẻ mệt mỏi tiều tụy, buộc chiếc khăn ăn vào cổ. ánh nắng làm cặp mắt sưng húp của ông tôi nheo lại. ông tôi càu nhàu:
-Thôi được, không sao đâu! Chúng ta cũng đã từng ăn những bánh nướng ngon rồi. Chúa vốn hà tiện. Người ta phụng sự Chúa năm này qua năm khác, nhưng để trả công, Chúa chỉ cho được vài phút hạnh phúc mà thôi... Đối với Chúa đừng có mong gì lời lãi... Nào, ngồi xuống đây, Varya con! Thôi không nói đến chuyện ấy nữa. ông tôi như người điên, suốt bữa ăn chỉ toàn nói đến Chúa, đến Asap tội lỗi, đến nỗi khó nhọc của người làm cha... Bà tôi ngắt lời ông tôi, giọng bực tức:
-Thôi, ăn đi! Mẹ tôi thì nói đùa, cặp mắt sáng long lanh:
-Thế nào, ban nãy con sợ lắm phải không?
-Mẹ tôi hỏi và lấy khuỷu tay hích tôi. Không, lúc ấy tôi không sợ lắm, nhưng bây giờ tôi cảm thấy ngượng nghịu và tôi không hiểu gì cả. Như mọi ngày lễ, mọi người ăn rất nhiều và rất lâu. Và tôi có cảm tưởng như đó không phải là những người nửa giờ trước vừa mới rầy la nhau, chực đánh nhau, vừa mới khóc lóc, sụt sùi. Tôi không thể nào có thể tin những chuyện cãi cọ khóc lóc của họ được nữa. Những giọt nước mắt, những tiếng la hét và những sự giày vò lẫn nhau đó thường xảy ra luôn và cũng chấm dứt rất nhanh, tất cả những cái đó đã trở thành quen thuộc đối với tôi, càng ngày càng ít làm tôi xúc động và chỉ làm cho trái tim tôi rung động rất ít thôi. Mãi rất lâu về sau tôi mới hiểu rằng những người dân Nga, do cuộc sống nghèo khổ và buồn tẻ, nói chung họ ưa giải trí bằng sự đau khổ, họ đùa với nó như con nít và ít khi cảm thấy xấu hổ vì bất hạnh. Giữa những chuỗi ngày vô tận thì sự đau khổ là một ngày hội và cháy nhà là một trò giải trí. Trên một bộ mặt nhẵn thín thì vết sây sát cũng thành một thứ trang sức...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:48:53 | Chỉ xem của tác giả
Chương 11



Sau câu chuyện ấy mẹ tôi hình như trở nên vững vàng hơn, cứng rắn hơn và trở thành người chủ thực sự trong nhà, còn ông tôi thì hoàn toàn khác trước, ông tôi thường hay tránh mặt, tư lự và trầm lặng. Hầu như ông tôi không đi ra khỏi nhà nữa, lúc nào cũng ngồi một mình trên gác thượng để đọc một quyển sách bí mật nhan đề là "Ký ức của cha tôi". ông tôi cất quyển sách trong một cái hòm con khóa kín lại và nhiều lần tôi đã thấy ông tôi rửa tay cẩn thận trước khi lấy quyển sách ra xem. Đó là một quyển sách khổ nhỏ, dày cộp, bìa da màu da cam; trên tờ giấy màu xanh nhạt để trắng ở đầu cuốn sách có ghi một dòng đề tặng viết nắn nót bằng bút mực đã bạc màu: "Tặng Vaxili Kasirin kính mến để tỏ lòng biết ơn và để nhớ nhau mãi". Bên dưới là một chữ ký kỳ lạ, nét bút gạch dưới giống như con chim đang bay. Sau khi lật tờ bìa cứng ra một cách thận trọng, ông tôi đeo đôi mục kỉnh gọng bạc và nhăn mũi lại để giữ cặp kính rồi ngắm nghía dòng chữ trên. Nhiều lần tôi hỏi quyển sách đó là sách gì, lần nào ông tôi cũng trang nghiêm trả lời:
-Việc này cháu không cần biết. Đợi khi nào ông chết ông sẽ để lại cho cháu. Cả cái áo khoác lông gấu chuột nữa. ông tôi chuyện trò với mẹ tôi ít hơn và dịu dàng hơn, ông tôi chú ý lắng nghe lời mẹ tôi nói, mắt long lanh như mắt bác Piôt, rồi khoa tay, lẩm bẩm trong miệng:
-Thôi được! Mày muốn làm thế nào thì làm... Trong các hòm riêng của ông tôi có lắm thứ áo quần kỳ lạ: những chiếc váy bằng nhiễu, áo tấm bằng xa-tanh, những bộ xaraphan lụa thêu chỉ bạc, các mũ đội có đính ngọc trai, khăn quàng và khăn vuông màu rực rỡ, những chuỗi hột của người Morđvin nặng trình trịch cùng những chuỗi bằng đá màu sặc sỡ. ông tôi ôm tất cả vào buồng mẹ tôi, bày cả lên bàn, lên ghế. Mẹ tôi đứng ngắm nghía những đồ trang sức đó, ông tôi bảo:
-Thời tao còn trẻ, áo quần đẹp hơn và sang trọng hơn bây giờ nhiều! Người ta ăn mặc quần áo sang hơn, nhưng sống giản dị hơn, hòa thuận hơn. Thời ấy đã qua rồi, không trở lại nữa! Nào, mày cầm lấy mặc thử xem có đẹp không... Một hôm mẹ tôi mang áo quần sang phòng bên cạnh một lúc và khi quay lại trông khác hẳn: người Bộ quần áo của phụ nữ nông dân gồm một cái áo cánh vai bồng và một cái váy mặc ngoài. mặc bộ xaraphan màu xanh thêu kim tuyến, đầu đội mũ có đính ngọc trai. Mẹ tôi cúi rạp trước mặt ông tôi và hỏi:
-Thưa thân phụ, thử ngắm xem con có đẹp không? ông tôi ầm ừ tán thưởng, mặt tươi hẳn lên, đi một vòng xung quanh mẹ tôi, hai tay dang ra, ngón tay động đậy, và lẩm bẩm như đang mê ngủ:
-ôi, Vacvara, giá mà mày có nhiều tiền và có những người tốt xung quanh mày... Bây giờ mẹ tôi được ở hai gian phòng về phía trước ngôi nhà. Mẹ tôi thường có khách khứa đến luôn, hay đến chơi nhất là anh em Macximôp: người anh là Piôt, một sĩ quan oai vệ, có bộ râu rậm vàng hoe và đôi mắt xanh; chính ông ta là người chứng kiến việc tôi bị ông tôi nện cho một trận nên thân vì tội nhổ vào đầu lão quý tộc; người em là Epgêni, cũng cao lớn, đôi chân nhỏ nhắn, mặt tái mét, có bộ râu cằm nhọn và đen, đôi mắt to giống như hai quả mận. Epgêni mặc bộ đồng phục màu xanh nhạt có hàng cúc mạ vàng trên vai áo hẹp. ông ta thường lắc đầu rất duyên dáng để hất mớ tóc quăn dài rũ trên cái trán cao và thường hay kể chuyện với giọng khàn khàn, bắt đầu bằng những lời khéo léo:
-Các người có biết không, theo ý tôi thì... Mẹ tôi nghe ông ta nói, cặp mắt lim dim, mỉm cười và thường ngắt lời ông:
-Xin lỗi, ông như trẻ con ấy, ông Epgêni Vaxiliêvitạ... Viên sĩ quan đập bàn tay to rộng lên đầu gối và kêu lên:
-Chính thế, đúng là trẻ con... Năm ấy, những ngày lễ Nôen thật là vui vẻ và náo nhiệt, hầu như tối nào cũng có khách khứa ăn mặc trá hình đến thăm mẹ tôi, mẹ tôi cũng mặc trá hình
-bao giờ cũng đẹp hơn mọi người
-và thường cùng với khách đi chơi. Cứ mỗi khi mẹ tôi cùng với đám bạn bè mặc quần áo sặc sỡ ra khỏi cổng là tôi thấy ngôi nhà lại như bị chìm sâu xuống đất, khắp nơi trở nên vắng lặng, buồn chán và dễ sợ. Bà tôi lạch bạch như một con ngỗng già đi khắp các phòng dọn dẹp, còn ông tôi thì đứng tựa lưng vào thành lò sưởi ấm và nói lẩm bẩm một mình:
-Được, tốt lắm... Rồi xem kết quả ra sao... Sau lễ Nôen mẹ tôi đưa tôi và Xasa, con cậu Mikhain, đến trường. Bố của Xasa lấy vợ kế và ngay từ mấy ngày đầu người dì ghẻ đã tỏ ra không yêu thương gì đứa con chồng, bắt đầu đánh đập nó. Theo lời khẩn khoản của bà tôi, ông tôi nhận đưa Xasa về nuôi. Chúng tôi đi học được một tháng, trong tất cả những điều người ta dạy tôi ở trường, tôi chỉ nhớ là khi có ai hỏi:
-"Tên em là gì?", thì không được trả lời trống không: "Pêskôp", mà phải nói: "Tên tôi là Pêskôp". Cũng như cấm không được nói với thầy giáo:
-"Đừng có quát tháo, chẳng sợ đâu..." Ngay từ đầu tôi đã không thích trường học, còn thằng em họ tôi mấy hôm đầu tỏ ý rất thích, nó kết bạn một cách dễ dàng. Nhưng một hôm đang giờ học nó ngủ gật và thình lình trong giấc mơ thét lên một tiếng nghe phát khiếp:
-Cháu xin chừa... Khi người ta vừa đánh thức nó dậy, nó xin phép ra ngoài, nó bị bạn bè cười cho một mẻ. Cho nên sáng hôm sau, khi hai đứa chúng tôi đang trên đường đi học, đến chỗ khe vực ở quảng rường Xennaia thì nó dừng lại và bảo tôi:
-Mày đi học đi, tao không đi đâu! Tao đi chơi thích hơn. Nói rồi Xasa ngồi xổm xuống, vùi bọc sách vở cẩn thận vào trong tuyết và bỏ đi. Độ ấy là vào tháng giêng, nền trời trong vắt, mọi vật lấp lánh dưới ánh mặt trời sáng như bạc. Tôi rất muốn đi chơi với Xasa, nhưng cố dằn lòng lại để đi học, vì không muốn làm cho mẹ tôi buồn phiền. Sách vở của Xasa cố nhiên là bị mất, và hôm sau nó lại có lý do chính đáng để không đi học. Đến ngày thứ ba thì ông tôi biết chuyện. Chúng tôi bị đưa ra trước "tòa": ông tôi, bà tôi và mẹ tôi đều ngồi vào bàn trong bếp và hỏi cung chúng tôi. Tôi còn nhớ Xasa trả lời rất ngộ nghĩnh những câu hỏi của ông tôi:
-Sao mày lại không đến trường? Đôi mắt hiền lành của Xasa nhìn chằm chặp vào mặt ông tôi, nó chậm rãi trả lời:
-Cháu quên không biết trường ở đâu.
-Quên à?
-Vâng, cháu đã tìm mãi, tìm mãi...
-Sao mày không đi theo thằng Lêcxây, nó nhớ đấy!
-Cháu lạc mất nó!
-Lạc mất thằng Lêcxây ấy à?
-Vâng.
-Sao lại thế được? Xasa suy nghĩ một lúc, thở dài và nói:
-Bão tuyết mù mịt, chẳng nom thấy gì cả. Mọi người đều bật cười: hôm ấy đẹp trời và sáng sủa. Xasa cũng cười một cách dè dặt, ông tôi lại nhe răng hỏi một câu giễu cợt:
-Sao mày không nắm tay hay nắm lấy thắt lưng nó?
-Cháu có nắm nhưng gió mạnh quá thổi bay cháu đi.
-Xasa giải thích. Xasa nói với giọng uể oải, không tin tưởng, tôi thấy khó chịu phải nghe những lời nói dối vụng về và vô ích ấy, và rất ngạc nhiên về thái độ bướng bỉnh của nó. Kết quả là cả hai chúng tôi đều bị một trận đòn. Và ngay hôm đó phải thuê một lão già, nguyên là lính cứu hỏa cũ bị gãy tay, để đưa chúng tôi đi học. Lão có nhiệm vụ trông nom Xasa để nó khỏi phá ngang trên con đường tiến vào khoa học. Nhưng biện pháp ấy cũng chẳng ăn thua: ngay hôm sau vừa tới khe vực thì thình lình Xasa cúi xuống tháo chiếc ủng ném đi thật xa, rồi tháo nốt chiếc kia ném về hướng khác và cứ để chân đi tất thế mà chạy băng băng qua quảng trường. Lão già thất vọng kêu lên ầm ĩ, lóc cóc chạy đi nhặt ủng rồi hốt hoảng dẫn tôi trở về nhà. Suốt ngày hôm đó, ông bà tôi và mẹ tôi đi xe khắp thành phố để tìm Xasa, mãi đến chiều mới bắt gặp nó đang nhảy múa làm trò vui cho mọi người trong quán rượu của Tạiêckôp gần tu viện. ông bà tôi và mẹ tôi đều không biết làm thế nào trước thái độ cố tình im lặng một cách bướng bỉnh của thằng bé. Xasa nằm với tôi trên nóc lò sưởi, nó giơ chân lên, dùng gan bàn chân xoa vào trần nhà, và thì thầm bảo tôi:
-Dì tao ghét tao, bố tao cũng ghét tao, cả ông cũng ghét tao, thế thì tao sống với họ làm gì? Để tao hỏi bà xem bọn ăn cướp ở đâu, tao sẽ trốn đến ở với họ, chừng đó rồi mọi người sẽ biết... Mày có muốn đi cùng với tao không? Tôi không thể trốn đi với nó được, vì lúc này tôi đã có ý định riêng của tôi, tôi muốn trở thành một sĩ quan có chòm râu rậm vàng hoe, và muốn thế thì cần phải học. Khi tôi kể cho Xasa nghe ý định ấy, nó suy nghĩ một lúc rồi cũng đồng ý với tôi:
-Thế cũng tốt. Khi nào mày thành sĩ quan thì tao đã trở thành một tên tướng cướp, và mày sẽ phải đi lùng bắt tao, trong hai đứa mình sẽ có đứa này phải giết đứa kia, hoặc bắt làm tù binh. Tao thì tao sẽ không giết mày đâu.
-Tao cũng thế. Và chúng tôi cùng thỏa thuận với nhau như vậy. Chợt bà tôi đến, trèo lên lò sưởi và nhìn chúng tôi hỏi:
-Gì thế, mấy con chuột nhắt? Chà, mấy chú bé mồ côi, rõ tội nghiệp! Sau khi than thở cho số phận của chúng tôi, bà tôi bắt đầu chửi người dì ghẻ Xasa thậm tệ, đó là mợ Nađejđa béo mập, con gái lão chủ quán rượu. Sau đó bà tôi lại nguyền rủa tất cả các mụ dì ghẻ, bố dượng nói chung và nhân đó kể cho chúng tôi nghe câu chuyện nhà hiền giả ẩn sĩ Iôn lúc còn trẻ đã cùng với mụ dì ghẻ của mình đứng trước Chúa như thế nào, khi mụ này lập mưu giết bố của Iôn, một người dân của thành phố Uglitạơ, làm nghề đánh cá trên Bạch hồ: Có người vợ trẻ mưu sát chồng: Cho chồng uống rượu nồng cao độ, Lại pha thêm một liều thuốc ngủ,
Rồi đặt người chồng đang ngủ say Vào một chiếc thuyền nhỏ gỗ sồi Như một chiếc quan tài chật chội. Mụ cầm mái chèo đưa đẩy Dẫn thuyền con ra tận giữa hồ, Tới giữa vùng nước xoáy tít mù, Nơi mụ sẽ giở trò độc ác, Mụ khom lưng, nghiêng mình, lúc lắc, Nước ùa vào lật úp thuyền con. Người chồng chìm xuống đáy biệt tăm, Còn mụ bơi vào bờ hấp tấp; Lên tới bờ, mụ nằm lăn ra đất Và gào lên, la khóc não nùng, Như đau thương, như chua xót vô cùng, Khiến những người từ tâm đều tin mụ. Cùng với mụ họ khóc than đau khổ:
-ôi người quả phụ trẻ đáng thương! Nàng đã gặp điều bất hạnh tai ương Nhưng số chúng ta trời đều định trước, Người đã nắm trong tay quyền sinh sát! Riêng người con chồng tên gọi Iônuskô Là không tin nước mắt kẻ khóc vờ, Chàng đặt bàn tay lên trái tim của mụ, Và dịu dàng chàng bảo người quả phụ:
-Hỡi ngôi sao chiếu mệnh của ta, Dì là con chim đêm tinh quái, ranh ma, Ta không tin nước mắt dì đâu nhé: Trái tim dì đập rộn ràng vui vẻ! Chúng ta hãy cầu Chúa xét soi, Cầu các đấng thần linh khắp bốn phương trời Hãy xét xử cho vụ án còn khúc mắc: Xin nhờ ai cầm một con dao sắc Tung lên trời, tít tận trời xa, Nếu dì thật lòng -dao sẽ giết ta, Nếu ta đúng -dao đâm dì chết! Người mẹ kế chồm lên kêu thét, Mắt lườm chàng như lửa ác bùng lên:
-à, mày là đồ bất nghĩa bất nhân, Đồ đẻ non, đồ con hoang ghê tởm, Sao mày dám đặt ra điều quái gở? Mày ăn không nói có lạ lùng sao! Mọi người nhìn họ, nghe họ cãi nhau, Và cảm thấy có điều gì đen tối. Ai nấy buồn phiền, lặng yên nghĩ ngợi, Rồi cùng nhau bàn bạc rì rầm. Cuối cùng có một lão ngư ông Bước ra cúi chào về mọi phía Và dõng dạc đọc to lời quáết nghị:
-Hỡi những người lương thiện, lại gần đây, Đặt con dao găm lên bàn tay phải này, Tôi sẽ tung lên trời cao vòi vọi, Dao sẽ rơi và sẽ tìm người có tội!
Người ta trao cho cụ một con dao, Cụ vung tay trên mái tóc trắng phau, Lưỡi dao bay như cánh chim lên thẳng, Chờ đã lâu vẫn thấy dao chưa xuống. Mọi người vẫn nhìn lên trời cao, Cất mũ ra và dịch sát bên nhau, Cùng lặng lẽ như trời đêm lặng lẽ -, Mà dao sắc vẫn còn chưa giáng thế! Chợt giữa hồ rực ánh bình minh, Người mẹ kế mỉm cười, mặt bừng bừng đỏ. Bỗng lưỡi dao lao mình như cánh én Nhằm giữa tim ác phụ phóng xuyên qua. Đám dân lành vội vàng quỳ xuống, Ngợi ca Chúa đã xét sử rõ ràng:
-Sáng danh Chúa đã công minh chính trực!
-Còn lão ngư ông tay nắm Iônuska Đưa chàng tới tu viện phương xa, Trên bờ sông Kecjênê xanh biếc, Gần thành phố vô hình Kitiêc.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:50:34 | Chỉ xem của tác giả
Hôm sau, lúc thức dậy tôi thấy mình mẩy đầy những nốt đo đỏ: tôi bị bệnh đậu mùa. Người ta đưa tôi lên gác thượng sau nhà, tôi phải nằm ở đó rất lâu như một người mù, tay chân bị bó chặt bằng những dải băng rộng khổ, và đã trải qua những cơn ác mộng hãi hùng, có lần một cơn mê đã làm tôi suýt chết. Chỉ có bà tôi là thường lên cho tôi ăn uống, bón thức ăn bằng thìa như bón cho trẻ con, kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích dài vô tận và luôn luôn mới. Có lần vào buổi chiều khi tôi đã đỡ và nằm thoải mái sau khi được cởi băng
-chỉ có ngón tay là phải cho vào bao tay vì sợ tôi cào mặt
-bà tôi không hiểu vì sao đến thăm tôi chậm hơn mọi lần làm cho tôi rất lo. Rồi thình lình tôi tưởng như thấy bà tôi, nằm xoài sau cánh cửa trên sàn nhà đầy bụi, mặt úp sấp, tay dang rộng ra, cổ bị cắt một nửa giống như bác Piôt. Từ một góc tối bụi rậm, có một con mèo lớn lừ lừ tiến đến chỗ bà tôi, đôi mắt xanh của nó trố ra với vẻ thèm thuồng. Tôi nhảy phóc từ trên giường xuống, dùng chân và hai vai đập vỡ hai khung kính cửa sổ rồi lao ra sân, ngã xuống một đống tuyết. Chiều hôm ấy mẹ tôi có khách, không ai nghe thấy tôi đập kính và phá khung cửa sổ cả, tôi phải nằm giữa đống tuyết khá lâu. Tôi không bị gẫy xương, chỉ có xương bả vai bị sai khớp và bị mảnh thủy tinh làm toác cả da thịt, nhưng chân tôi tê cứng lại, thế là tôi phải nằm liệt Sông chảy vào sông Vonga ở phía dưới Nijni -Nôpgôrôt 50 cây số. Theo truyền thuyết, năm 1138 khi quân Tacta của Hãn Batđô định chiếm thành phố Kitiêc thì thành phố liền biến mất. Tuy nó vẫn tồn tại, nhưng mắt người không thể nhìn thấy được. Chỉ đến ngày tận cùng của thế giới thì nó mới hiện ra trước mặt Chúa. gần ba tháng trời, không hề nhấc chân lên được. Tôi nằm và lắng nghe cuộc sống trong ngôi nhà mỗi ngày một ầm ĩ hơn, tiếng các cửa ra vào ở tầng dưới đóng mở luôn luôn, tiếng chân nhiều người đi lại. Tôi nghe thấy những cơn bão tuyết buồn chán xào xạc trên mái nhà, gió rít lên ở ngoài cửa gác thượng, thổi qua ống khói nghe như một điệu nhạc đưa đám, những chiếc nắp ống khói bị đập kêu lẻng kẻng, ban ngày quạ kêu quang quác, và những đêm yên tĩnh tiếng chó sói rú lên thê thảm vang từ ngoài đồng vào
-chính điệu nhạc ấy đã ru tâm hồn trẻ thơ của tôi và làm cho nó trở nên dày dạn. Rồi mùa xuân e lệ và kín đáo bắt đầu liếc nhìn vào cửa sổ một cách rụt rè và lặng lẽ, nhưng ngày càng dịu dàng hơn, bằng con mắt trong sáng của ánh nắng tháng ba. Trên mái nhà và trên gác thượng lũ mèo kêu ngoao ngoao, tiếng rì rào của mùa xuân xuyên qua những bức tường: những nhũ băng trong như thủy tinh vỡ ra, lớp tuyết đang tan cứ tuột dần từ cái đầu ngựa gỗ trang điểm trên mái nhà xuống, và tiếng chuông nhà thờ vang lên nghe trầm trầm hơn dạo mùa đông. Khi bà tôi đến thăm tôi, tôi để ý thấy hơi thở của bà ngày càng sực mùi rượu vôtka. Sau đó bà tôi bắt đầu mang theo cả một ấm trắng to tướng, giấu dưới giường tôi và nháy mắt bảo tôi:
-Cháu yêu, cháu đừng nói gì với lão quỷ già ... bà muốn nói là ông ấy mà.
-Sao bà lại uống rượu?
-Im! Lớn lên rồi cháu sẽ biết... Bà mút vòi ấm tu rượu, đưa ống tay áo lên lau mồm, rồi mỉm cười một cách âu yếm và hỏi tôi:
-Này, cháu yêu, hôm qua bà đã kể cho cháu nghe những gì rồi?
-Kể chuyện bố cháu.
-Đến quãng nào rồi? Tôi nhắc lại. Thế là bà tôi tiếp tục kể, và câu chuyện mạch lạc của bà tôi cứ tuôn mãi ra như những dòng suối nhịp nhàng. Chính bà tôi đã bắt đầu kể chuyện về bố tôi cho tôi nghe. Một hôm không uống rượu, nom có vẻ buồn rầu và mệt mỏi, bà tôi bảo tôi:
-Bà nằm mơ thấy bố cháu, hình như bố cháu đang đi băng qua cánh đồng, tay cầm gậy gỗ hồ đào, vừa đi miệng vừa huýt sáo, một con chó khoang chạy theo sau, lưỡi lè ra. Không hiểu sao dạo này bà bắt đầu nằm mơ thấy Macxim Xapvatêitạ luôn, chắc là linh hồn nó lo lắng không được yên nghỉ... Mấy tối liền, bà tôi kể chuyện bố tôi cho tôi nghe, câu chuyện đó cũng thú vị như mọi chuyện khác mà bà tôi kể. Bố tôi là con một người lính đã đóng đến sĩ quan và bị đày đi Xibêri vì tội đối xử tàn nhẫn với cấp dưới. ở đấy, một nơi nào đó trong vùng Xibêri, bố tôi đã ra đời. Bố tôi đã sống một thời thơ ấu cực nhọc, từ bé bố tôi đã thường bỏ nhà trốn đi. Có lần ông nội tôi đã dẫn chó vào rừng để tìm bắt bố tôi như người ta săn thỏ vậy. Một bận khác tìm được bố tôi, ông tôi đánh cho một trận nên thân, đến nỗi hàng xóm phải giằng lấy bố tôi và giấu biệt đi.
-Thế ra trẻ con bao giờ cũng bị đánh phải không bà?
-Tôi hỏi. Bà tôi thản nhiên đáp:
-Phải. Bà nội tôi chết sớm khi bố tôi hãy còn bé. Khi bố tôi lên chín tuổi thì ông nội tôi cũng mất luôn. Một người thợ mộc là cha đỡ đầu của bố tôi nhận bố tôi đem về nuôi, ghi tên bố tôi vào phường thợ mộc của thành phố Pecmơ và bắt đầu dạy nghề cho bố tôi. Nhưng chẳng bao lâu bố tôi bỏ trốn đi và dắt những người mù lòa đi các hội chợ để kiếm ăn. Năm mười sáu tuổi, bố tôi đến thành phố Nijni và vào làm công cho một người thầu khoán đồ gỗ trên các tàu thủy của Kônạin. Năm hai mươi tuổi thì bố tôi đã trở thành một người thợ mộc chuyên làm hàng quý, thợ trang trí và thợ bọc lành nghề. Xưởng làm việc của bố tôi nằm sát bên khu nhà ông ngoại tôi ở phố Kôvalikha.
-Hàng rào giữa hai nhà thì thấp, mà bọn thanh niên thì táo bạo lắm,
-bà tôi cười và nói.
-Một hôm bà cùng với Varya đang hái phúc bồn tử trong vườn, tự nhiên bố cháu nhảy vọt qua hàng rào làm bà sợ hết hồn. Nó đi giữa vườn táo, dáng người khỏe mạnh, mặc áo sơ-mi trắng, quần nhung, chân đi đất, đầu không đội mũ, mớ tóc dài được khoanh gọn trong một chiếc dây da. Bố cháu tới cầu hôn như thế đấy! Trước đó bà cũng đã có thấy bố cháu, mỗi khi nó đi ngang qua cửa sổ bà lại nghĩ bụng: "Anh chàng này trông khá quá!" Bố cháu đến gần, bà hỏi: "Này, sao anh không đi qua cửa như mọi người mà lại băng hàng rào thế? " Bố cháu quỳ sụp xuống rồi nói: "Bác Akulina Ivanôpna ạ, con xin thẳng thắn, chân thành đến thưa với bác, con yêu Varya! Bác hãy vì Chúa mà giúp đỡ chúng con, chúng con muốn lấy nhau". Khi ấy bà sửng sốt quá không nói được một lời. Bà nhìn lại mẹ cháu, con quái ấy nấp sau cây táo, mặt đỏ ửng lên như quả phúc bồn tử, nó ra hiệu cho bố cháu và rưng rưng nước mắt. Bà bảo: "Chao ôi, rõ khổ thân chúng mày! Sao chúng mày lại đâm đầu vào cái chuyện ấy thế? Mày lú lấp ruột gan rồi à, con Vacvara? Còn anh nữa, anh hãy suy nghĩ kỹ đi: anh không sợ với cao quá à?" Dạo đó ông cháu giàu lắm, của cải chưa chia cho con cái, trong tay có bốn tòa nhà, rất nhiều tiền, là một người danh giá.
Cách đấy Bọc thảm, vải, da, giấy bồi... cho đồ gỗ hoặc nhà cửa. ít lâu ông cháu lại được cấp một bộ lễ phục và một chiếc mũ có dải thêu kim tuyến vì ông cháu đã đứng đầu một phường thợ suốt chín năm trời. Hồi ấy ông cháu đang tự cao lắm! Tuy nói vậy nhưng bà sợ run lên, bà thương hại chúng nó quá: trông chúng nó thật là thiểu não. Rồi bố cháu nói: "Con biết là bác Vaxili Vaxiliep sẽ không bằng lòng gả Varya cho con đâu, nên con sẽ bắt cóc Varya, có điều là xin mẹ giúp đỡ chúng con". Nó còn nhờ tao giúp đỡ nữa kia đấy! Bà đã vung tay định đánh, nhưng bố cháu không buồn tránh: "Mẹ có lấy đá ném con, con cũng xin chịu, miễn mẹ giúp đỡ chúng con là được, dù sao con cũng chẳng chịu lùi đâu!" Lúc đó Vacvara liền đến bên bố cháu, đặt tay lên vai nó rồi nói: "Chúng con đã lấy nhau từ lâu rồi, từ hồi tháng năm kia, chúng con chỉ thiếu có phép cưới ở nhà thờ nữa thôi!" Thế là bà cười phá lên: cha mẹ ôi! Bà tôi cười, toàn thân rung lên, rồi hít thuốc lá, lau nước mắt, thở phào khoan khoái và nói tiếp:
-Cháu chưa hiểu được thế nào là lấy nhau, thế nào là làm phép cưới đâu. Có điều là nếu con gái chưa làm phép cưới mà đã có con thì thật là tai vạ! Cháu nhớ lấy đấy. Lớn lên cháu đừng làm cho bọn con gái lâm vào cái nông nỗi ấy, cháu làm thế là phạm một tội ác tày trời đấy, cô gái sẽ khổ và đứa con sẽ không được pháp luật thừa nhận. Cháu nhớ lấy nhé, cẩn thận đấy! Cháu nên thương đàn bà, thực lòng yêu họ, chớ xem họ như trò chơi, đó là bà khuyên cháu nên ăn ở cho phải đạo! Bà ngồi trầm ngâm, khẽ lắc lư trên ghế, rồi bỗng bà giật mình và nói tiếp:
-Còn biết làm thế nào nữa? Bà bợp cho thằng bố Macxim cháu một cái, và kéo bím tóc con mẹ cháu. Nhưng bố cháu nói rất có lý: "Không phải dùng đánh đập mà dàn xếp được mọi chuyện đâu!" Mẹ cháu cũng bảo: "Mẹ nên liệu xem nên làm gì, rồi có đánh đập gì thì hãy đánh sau!" Bà hỏi bố cháu: "Anh có tiền không?"
-"Có.
-Bố cháu đáp
-Nhưng con đã đem mua nhẫn cho Varya rồi".
-"Vậy thì anh có được bao nhiêu? Ba rúp ư?"
-"Không, khi ấy con có được ngót một trăm".
-Thời ấy tiền còn có giá, hàng họ rẻ. Bà nhìn chúng nó, bố mẹ cháu ấy, và nghĩ: thật là đồ trẻ ranh ngu ngốc! Mẹ cháu lại bảo: "Con giấu chiếc nhẫn ở dưới sàn nhà vì sợ bố mẹ nom thấy, có thể đem bán đi được đấy!"
-Hừ, chúng nó thật là trẻ con quá! Nhưng rồi cuối cùng ba mẹ con cũng thỏa thuận với nhau là một tuần nữa sẽ làm phép cưới ở nhà thờ, bà sẽ tự lo liệu với cha cố. Bà khóc ghê lắm, lòng se lại, bà sợ ông cháu, cả Vacvara cũng rất lo. Thế rồi mọi việc đã được quáết định!
-Có điều là bố cháu bị một kẻ đem lòng thù ghét, đó là một gã thợ, một kẻ độc ác, từ lâu hắn đoán biết hết mọi chuyện và để ý theo dõi mấy mẹ con bà. Hôm ấy bà cho cô con gái độc nhất của bà ăn mặc trang điểm những thứ đẹp nhất trong nhà rồi đưa nó ra cổng, một chiếc xe tam mã đang đứng đợi ngoài góc đường, mẹ cháu lên xe, Macxim huýt sáo, và họ lên đường. Bà quay về nhà, nước mắt giàn giụa, đột nhiên bà gặp gã thợ ấy, thằng đê tiện nó bảo: "Tôi là người lương thiện, tôi sẽ không quấy nhiễu đời tư của ai làm gì, nhưng bác Akulina Ivanôpna ơi, bác phải đưa cho tôi năm mươi rúp thì mới yên chuyện được!" Bà thì không có số tiền đó, tính bà không hám tiền, không ký cóp dành dụm; bà không suy nghĩ bảo nó ngay: "Tao không có tiền, và sẽ chẳng cho mày gì đâu!"
-"Bác hứa cũng được!"
-"Cứ hứa bừa đi rồi đào đâu ra mới được chứ?"
-Nó bảo: "Hừ, chồng giàu thế thì khó khăn gì mà không lấy được một ít nhỉ?" Đáng lý bà phải giả vờ mặc cả với nó để giữ chân nó lại, nhưng bà ngốc quá, bà lại đi nhổ toẹt vào mặt nó và đi về! Nó chạy về tới sân nhà trước bà và làm ầm lên! Bà tôi nhắm mắt lại, vừa mỉm cười vừa nói:
-Mãi đến nay bà vẫn còn thấy rợn người khi nhớ lại cái chuyện táo bạo ấy! ông cháu la hét, gầm lên như thú dữ
-Với ông thì chuyện ấy có phải là chuyện đùa đâu ? ông cháu vẫn thường nhìn Vacvara và ra vẻ đắc ý lắm: ta sẽ gả nó cho con nhà quý tộc, cho một lãnh chúa! Vậy mà bây giờ Vacvara đã lấy nhà quý tộc ấy đấy, vị lãnh chúa ấy đấy! Đức Mẹ Đồng trinh biết việc xe duyên kết nghĩa rõ hơn chúng ta nhiều. ông cháu lồng lộn lên giữa sân như người bị thiêu rồi ông ấy gọi thằng Iakôp, Mikhain, cầu cứu cả gã thợ mặt rỗ ấy, và bác đánh xe Klim. Bà thấy ông cháu vớ lấy một quả chùy, cháu biết không, đó là một quả tạ có cán. Còn thằng Mikhailô thì vớ lấy một khẩu súng; hồi ấy nhà có mấy con ngựa rất khỏe, chạy băng và một cỗ xe rất nhẹ. Bà nghĩ bụng: họ đuổi kịp chúng nó mất! Bỗng nhiên thần hộ mệnh của Vacvara mới mách nước cho bà: bà lấy một con dao, ra cứa sợi dây thắng gần càng xe với há vọng là dây thắng sẽ đứt dọc đường. Cơ sự đã xảy ra đúng như thế: càng xe văng ra ở dọc đường, ông cháu, thằng Mikhailô và bác Klim suýt nữa thì mất mạng. Họ phải dừng lại để chữa xe, khi đến nhà thờ thì Varya và Macxim đã làm phép cưới xong và đang đứng ở bậc thềm nhà thờ, nhờ ơn Chúa!
-Cả bọn xông vào, toan giã cho Macxim một trận, nhưng bố cháu rất khỏe, sức lực của nó thật là phi thường! Nó hất thằng Mikhain lăn từ trên bậc thềm xuống trẹo cả cánh tay, bác Klim cũng bị đánh sây sát, còn ông cháu, thằng Iakôp và gã thợ thì sợ quá không dám xông vào.
-Ngay trong cơn giận, bố cháu vẫn không mất bình tĩnh. Nó bảo ông cháu: "Bố bỏ chùy xuống, tôi là người không thích gây gổ, cái gì tôi đã dành được tức là Chúa đã ban cho tôi và không ai có thể tước đoạt được. Tôi chẳng đòi hỏi gì hơn đâu". Cả bọn lùi lại, ông cháu leo lên xe ngựa và hét: "Vacvara, từ nay thì tao từ mày, mày không phải là con gái tao nữa, và tao không muốn nhìn mặt mày nữa, mày muốn sống thế nào thì sống, có chết đói cũng mặc xác mày". Về nhà ông cháu đánh bà, chửi bà, bà chỉ biết kêu rên nhưng không nói nửa lời và nghĩ bụng: Mọi việc rồi đâu sẽ lại vào đấy thôi, muốn hay không muốn cũng chẳng được! Sau đấy ông cháu bảo bà: "Này Akulina, bà không còn con gái nữa đâu, bà nhớ lấy nhé!"
Bà lại nghĩ bụng: ông chỉ nói gàn thế thôi, lão già tóc hung ạ, cơn giận cũng giống như băng tuyết, chỉ gặp ngày nắng ấm là tan ngay!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

28#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:52:01 | Chỉ xem của tác giả
Tôi lắng nghe bà tôi một cách say mê chăm chú. Trong câu chuyện của bà tôi có một cái gì làm cho tôi ngạc nhiên. ông tôi kể chuyện làm phép cưới cho mẹ tôi hoàn toàn khác hẳn. ông tôi nhận là ông tôi phản đối câu chuyện cưới xin ấy, và sau khi cưới ông tôi không cho mẹ tôi về nhà, nhưng theo lời ông tôi thì lễ cưới không phải được cử hành vụng trộm như vậy và ông tôi cũng có mặt ở nhà thờ lúc hai người làm phép cưới. Tôi không muốn hỏi bà tôi là ai nói đúng, vì câu chuyện của bà tôi kể hay hơn và tôi thích hơn. Lúc kể chuyện, bà tôi cứ luôn luôn lắc lư người như đang ngồi trên thuyền. Nói đến đoạn nào buồn hoặc khủng khiếp bà tôi lại càng lắc lư mạnh hơn, với tay về phía trước như đỡ lấy một vật gì trong không khí. Bà tôi thường lim dim đôi mắt, và trong những nếp nhăn trên đôi má, thấp thoáng một nụ cười hiền hậu hồn nhiên, hai hàng lông mày rậm như rung lên. Đôi khi sự hiền từ khoan dung đến mù quáng muốn hòa giải hết thảy ấy làm tôi cảm động, nhưng cũng có khi tôi muốn cho bà tôi tức giận, la hét lên.
-Lúc đầu, khoảng hai tuần liền, bà cũng không biết Varya và Macxim ở đâu, sau đó mẹ cháu có nhờ một thằng bé khá lanh lợi đến cáo cho bà biết chỗ ở của bố mẹ cháu. Bà đợi đến thứ bảy giả vờ đi lễ, nhưng kỳ thực là đến thăm bố mẹ cháu! Bố mẹ cháu sống ở xa, tận dốc Xuêtinô. Hai vợ chồng sống trong một gian nhà gỗ. Ngôi nhà chật ních những người thợ khác ở; trong sân đầy rác rưởi, bẩn thỉu và ồn ào, thế mà hai vợ chồng cứ thản nhiên như không, suốt ngày nói nói cười cười, vui đùa như đôi mèo con. Bà đưa đến cho bố mẹ cháu tất cả những thứ gì có thể mang đi được: nào trà, nào đường, nào bột mì và đủ các loại bột, nào mứt, nấm khô và cả một ít tiền nữa, bà không nhớ là bao nhiêu, bà lấy trộm của ông cháu
-người ta có thể ăn cắp, nếu không phải là ăn cắp cho mình! Bố cháu không chịu nhận một thứ gì cả, và giận dỗi bảo: "Chúng con có phải là ăn mày đâu?" Và Vacvara cũng phụ họa theo: "Mẹ mang các thứ ấy đến để làm gì kia chứ? ..." Bà mắng: "Thằng ngốc kia, tao là ai? Tao là mẹ mày, còn con ngốc kia, mày có phải là con gái tao không? Chúng mày không được làm phiền lòng tao: hễ khi nào làm cho mẹ ở trên đời này phải đau lòng thì Đức Mẹ trên trời cũng đau khổ khóc than đấy!" Macxim liền nắm lấy tay bà, bế xốc bà lên và nhảy múa khắp gian buồng
-nó khỏe như con gấu ấy! Còn Vacvara thì tỏ vẻ kiêu hãnh vênh vang, nó hãnh diện về bố cháu, như một con bé con hãnh diện về con búp bê mới. Mẹ cháu ngước mắt lên và luôn mồm kể chuyện nhà chuyện cửa nghiêm trang y như là một bà nội trợ thành thạo vậy, trông đến buồn cười! Nhưng đến bữa trà mẹ cháu dọn bánh ngọt ra mời bà, thì đến chó sói nhai món bánh ấy cũng phải gãy răng, còn món phó-mát trắng thì lổn nhổn như lẫn sỏi!
-Tình hình cứ như vậy một thời gian dài, mẹ cháu cũng sắp đến ngày sinh cháu, ông cháu vẫn làm thinh, cái lão quỷ già ấy đến là bướng! Bà thì cứ lén lút tới thăm nom bố mẹ cháu, ông cháu cũng biết đấy, nhưng cứ lờ đi. ông còn cấm cả nhà nhắc đến tên Varya, nên không ai dám nhắc tới, cả bà cũng phải ngậm miệng, nhưng bà biết là tấm lòng của người cha không thể trơ trơ mãi được. Rồi một hôm giờ phút mong đợi ấy đã đến! Đêm đó bão tuyết dữ dội, gió lùa qua cửa sổ ào ào như có đàn gấu muốn xông vào nhà, gió rít lên qua các ống khói, dường như lũ quỷ sứ đã giật đứt xiềng xích trốn khỏi địa ngục. Bà nằm cạnh ông cháu nhưng không ngủ được, bà bảo ông: "Người nghèo khổ đêm nay thật đáng thương, nhưng những người lương tâm có điều gì day dứt không yên lại còn khổ hơn!" Bỗng tự nhiên ông cháu hỏi: "Chúng nó sống ra sao? "
-" m đẹp thôi, bà đáp, chúng nó sống khá lắm!" ông lại hỏi: "Bà có biết tôi hỏi về ai không?"
-"Hỏi chuyện con gái Vacvara với thằng con rể Macxim chứ còn hỏi chuyện ai nữa".
-"Sao bà lại đoán ra là tôi hỏi chuyện chúng nó?" Bà bảo: "Thôi đi ông, ông đừng giả vờ ngơ ngẩn nữa, cái trò hề ấy kéo dài quá lâu rồi, chẳng hay ho gì đâu!"
-ông cháu thở dài và nói: "Chà, lũ chúng bay là đồ quỷ, đồ quỷ xám!" Rồi ông cháu lại hỏi: "Trông nó có vẻ ngốc, có thật nó là một thằng ngốc, một thằng đại ngốc không?"
-ông nói về bố cháu đấy. Bà mới bảo: "Ai không muốn làm lụng mà chỉ chực ngồi lên cổ kẻ khác ăn bám mới là đồ ngốc, ông hãy xem hai thằng Iakôp và Mikhain đấy, chúng chẳng sống như hai thằng ngốc là gì? Trong nhà này ông xem ai là người làm lụng, ai là người kiếm ra tiền? ông. ông tưởng chúng nó giúp ông nhiều lắm à?" ông liền chửi bà, nào là đồ đê tiện, đồ ngu ngốc, đồ ma cô, bà chẳng biết là những gì gì nữa! Bà cứ lặng thinh. ông cháu bảo: "Sao lại có thể để cho một cái thằng như thế nó bịp được? Chẳng ai biết nó là người như thế nào, ở đâu tới?" Bà vẫn bấm bụng làm thinh. Đến khi ông cháu nói chán chê bà mới bảo: "ạng nên đến thăm chúng nó, xem chúng nó ăn ở ra sao, ông sẽ thấy chúng nó sống ung dung lắm!"
-"Tao mà đến thì quá vinh dự cho chúng nó, cho chúng nó tới đây đã là phúc lắm rồi..."
-Bà khóc nức lên vì sung sướng. ông cháu tháo bím tóc của bà ra, vì ông thích nghịch tóc bà, và khẽ nói: "Đừng khóc nữa, bà ngốc lắm, bà tưởng tôi lòng lim dạ sắt hay sao? " Cháu thấy không, thời ấy ông cháu là người rất tốt, nhưng chỉ từ khi tự cho mình là thông minh tài giỏi nhất trên đời này thì ông mới sinh ra độc ác và đần độn như thế.
-Thế rồi một bữa chủ nhật, nhân ngày lễ xá tội, bố mẹ cháu đến, cả hai đều gọn gàng sạch sẽ. Macxim tiến đến trước mặt ông cháu, ông cháu chỉ cao ngang vai bố cháu, và nói: "Bố ạ, hãy vì Chúa, bố đừng tưởng con đến để xin của hồi môn đâu; không, con đến chỉ để tỏ lòng tôn kính đối với bố vợ!" Nghe thấy thế ông cháu bằng lòng lắm. ông mỉm cười và nói: "Chà, thật là một thằng xác vâm, thằng tướng cướp! Thôi được, rồi đâu khắc có đó, vợ chồng mày về đây ở với tao!" Macxim cau mày: "Chuyện đó thì tùy ở Varya, con thì thế nào cũng được!" Thế là hai bố con cãi nhau rất găng, chẳng ai chịu nghe ai cả. Bà nháy mắt ra hiệu cho bố cháu và ngầm đá vào chân bố cháu dưới bàn, nhưng bố cháu vẫn cứ theo ý mình! Đôi mắt của bố cháu thật là đẹp, tươi vui, trong sáng; còn cặp lông mày thì đen, hễ mỗi lần bố cháu cau mặt lại thì lông mày như che kín cả mắt, mặt rắn đanh lại như đá, đầy vẻ bướng bỉnh. Những khi đó bố cháu không chịu nghe ai cả, chỉ nghe bà thôi. Bà yêu bố cháu hơn cả con đẻ. Bố cháu cũng biết thế và cũng rất yêu bà! Thỉnh thoảng bố cháu lại ôm ghì lấy bà, có khi nắm chặt lấy tay lôi đi khắp phòng và nói: "Mẹ thực là mẹ đẻ của con, là đất nuôi dưỡng con, con yêu mẹ hơn cả Vacvara!" Mẹ cháu rất tinh nghịch và vui tính bèn xông vào bố cháu và hét tướng lên: "Sao anh lại có thể nói như thế được, đồ tàn nhẫn?". Mấy mẹ con cùng nô đùa vui vẻ như vậy, sống rất hạnh phúc, cháu yêu của bà ạ! Bố cháu nhảy múa rất giỏi, thuộc toàn những bài hát hay học của những người mù, mà người mù thì chẳng ai hát hay bằng họ.
-Bố mẹ cháu ở trong một căn nhà nhỏ trong vườn; cháu cũng ra đời ở đó, đúng vào giữa trưa, khi bố cháu về ăn trưa. Bố cháu mừng rỡ rối rít cả lên, cuống cuồng như điên, vồn vã vuốt ve mẹ cháu, thằng Đất là mẹ nuôi của người
-Trong các tác phẩm dân gian Nga thường hay ví như vậy, tưởng như đẻ được một đứa con là khó khăn ghê gớm lắm ấy! Bố cháu vác bà lên vai chạy qua sân tìm gặp ông cháu để cáo tin cho ông cháu biết là thêm một đứa cháu nữa của ông ra đời. ông cháu cũng phải bật cười mắng: "Macxim ạ, mày là thằng quỷ sứ!".
-Các cậu cháu không ưa bố cháu vì bố cháu không uống rượu, lại bạo mồm bạo miệng và nghĩ ra lắm trò tinh quái. Chính vì những chuyện ấy mà bố cháu phải khốn khổ! Một hôm vào tuần chay, trời nổi gió đùng đùng và bỗng thình lình trong nhà vang lên những tiếng rít, tiếng hú kinh khủng. Cả nhà đều hoảng sợ, không biết có chuyện ma quái gì xảy ra thế này? ông cháu cũng mất hồn mất vía, vội vàng sai thắp đèn khắp nơi, chạy lui chạy tới và quát: "Phải cầu kinh đi, phải cầu kinh đi!". Nhưng tự nhiên tiếng hú im bặt. Cả nhà lại càng sợ hơn. Cậu Iakôp đoán: "Chắc là Macxim lại giở trò đây!" Quả thật, về sau bố cháu thú nhận là đã đem các chai lọ lớn bé đặt ở chỗ cửa sổ lộng gió, gió lùa vào miệng chai, mỗi chai phát ra một thứ tiếng khác nhau. ông cháu đe dọa: "Những trò đùa ấy rất có thể làm cho mày lại trở về Xibêri đấy, Macxim ạ!".
-Có một năm, trời rét như cắt thịt, chó sói mò cả vào thành phố, khi thì chúng bắt chó, khi thì chúng làm cho ngựa phát hoảng lên, có lần chúng ăn thịt một người gác cổng say rượu, thành phố nhốn nháo cả lên vì cái nạn chó sói! Bố cháu vác khẩu súng săn, đi đôi thanh gỗ trượt tuyết, đêm đến mò ra đồng, thế rồi thấy bố cháu vác chó sói về, khi thì một con, khi thì hai con. Bố cháu đem lột da, thuộc đầu sói, lắp vào đó một đôi mắt giả bằng thủy tinh
-trông đến là khéo! Một hôm cậu Mikhailô ra ngoài đi giải, bỗng dưng nó chạy bổ trở vào, tóc gáy dựng lên, mắt trợn ngược, cổ họng tắc không nói được một lời. Quần nó tụt xuống, nó vướng chân ngã sấp xuống, mồm thì thầm: "Chó sói!".
Mọi người ai gặp gì vớ nấy, chạy ùa cả ra đầu nhà, mang theo đèn, nến sáng trưng. Quả thực có một con sói từ trong hòm gỗ nhô đầu ra! Thế là mạnh ai người ấy đánh, bắn, con sói vẫn cứ trơ trơ ra! Xem kỹ lại thì té ra đó chỉ là một bộ da và cái đầu sói rỗng, hai chân trước được đóng đinh chặt vào chiếc hòm! Hôm ấy ông cháu giận Macxim thật sự. Thế rồi thằng Iakôp cũng bắt chước bố cháu: bố cháu dùng bìa cứng làm đầu người, cũng đủ mắt, mũi, miệng, lấy xơ đay giả làm tóc, rồi nó với thằng Iakôp rủ nhau đi khắp các phố, thò cái mặt nạ gớm ghiếc ấy vào cửa sổ nhà người ta, cố nhiên là ai cũng hoảng hồn, kêu la ầm ĩ. Đêm đêm chúng lại khoác vải trải giường đón đường dọa cả cha cố, ông ta chạy vào vọng gác của cảnh sát, người gác cũng hoảng hốt kêu cứu ầm lên. Chao ôi, chúng bày đặt ra không biết bao nhiêu là trò tai quái, không sao bảo được chúng nó. Bà đã nhiều lần bảo chúng bỏ những trò đùa ấy đi. Varya cũng can, nhưng chúng có chịu thôi cho đâu! Macxim còn cười: "Được xem thiên hạ hoảng hồn mà chạy bán sống bán chết vì một cái trò bố láo, thú vị lắm!" Nói với nó cũng bằng thừa...
-Cũng vì những trò tinh nghịch ấy mà về sau bố cháu suýt mất mạng: cậu Mikhain giống ông cháu, hay giận, hay thù vặt, nó nghĩ cách hại bố cháu. Một tối đầu mùa đông bốn người đi chơi về: Macxim, hai cậu cháu và một người phụ lễ
-về sau hắn ta bị đuổi vì đã đánh chết một người đánh xe ngựa. Họ từ phố Iamxkaia về và các cậu cháu rủ bố cháu đến đầm Điukôp nói là để trượt băng như bọn trẻ con vẫn chơi, đến đó họ đẩy Macxim xuống một cái hố đục giữa lớp băng trên mặt đầm. Bà đã kể cho cháu nghe chuyện ấy rồi.
-Sao các cậu lại ác thế hở bà?
-Không, chúng nó không ác đâu,
-bà tôi thản nhiên trả lời và hít thuốc lá.
-Chúng chỉ là những đứa ngu ngốc mà thôi! Thằng Miska là một đứa láu cá nhưng ngu xuẩn; còn Iakôp thì chỉ là một đứa ngờ nghệch, thế thôi... Bị đẩy xuống nước, bố cháu cố ngoi lên, bám lấy miệng hố; chúng đánh vào tay bố cháu, dùng gót giày giẫm lên những ngón tay bố cháu.
Cũng may là bố cháu thì tỉnh, còn các cậu cháu thì say rượu. Nhờ Chúa phù hộ, bố cháu duỗi người ra được, nằm nép dưới lớp băng, ngửa mặt lên giữa hố để thở, nên các cậu cháu không với tới được. Chúng ném băng vụn vào đầu bố cháu một lúc và cho rằng bố cháu sẽ chết đuối nên bỏ đi! Nhưng bố cháu bò lên được và chạy đến đồn cảnh sát. Đồn cảnh sát ở cạnh đấy, ngay trên quảng trường. Viên cảnh sát khu biết bố cháu và cũng biết cả nhà ta, lão mới hỏi đầu đuôi câu chuyện xảy ra như thế nào. Bà tôi làm dấu và nói với một vẻ biết ơn:
-Lạy Chúa cho Macxim Xapvatêiô được hưởng phúc đời đời, nó xứng đáng được như thế! Bố cháu không hé răng kể với đồn cảnh sát một tí gì! Bố cháu bảo: "Tôi say rượu nên đi lạc ra đầm và sẩy chân ngã xuống hố". Viên cảnh sát bảo: "Nói láo, anh có uống rượu bao giờ đâu!" Rồi người ta lấy rượu xoa nóng người bố cháu, mặc quần áo khô cho bố cháu và khoác áo tulup cho rồi đưa bố cháu về nhà. Viên cảnh sát và hai người nữa cùng đi theo. Lúc ấy Iaska và Miska chưa về đến nhà, còn đang la cà ở các quán rượu nói xấu bố mẹ chúng. Bà và mẹ cháu nhìn Macxim, mãi mới nhận ra được: người bố cháu đỏ tía, ngón tay giập nát, ứa máu, tóc bên thái dương trăng trắng như có tuyết bám, nhưng tuyết ấy không tan, tóc bố cháu đã bạc rồi! áo bằng da cừu, lông ở mặt trong -áo mùa đông của nông dân Nga. -Vacvara hét váng lên: "Họ làm gì anh thế này?". Viên cảnh sát dò xét tất cả mọi người, căn vặn, bà cảm thấy có việc chẳng lành gì đây! Bà để Varya ra đối phó với viên cảnh sát, còn tự mình thì đến hỏi khẽ Macxim: có chuyện gì xảy ra thế? Bố cháu thì thầm: "Mẹ ra đón Iaskôp và Mikhain, khi chúng nó về thì dặn chúng nó rằng viên cảnh sát có hỏi thì khai là chúng nó chia tay với con ở phố Iamxkaia, rồi đến nhà thờ Pôkrôpka, còn con thì rẽ sang đường Priađinnưi. Đừng nói nhầm, nếu không thì lôi thôi to với cảnh sát đấy!". Bà đi tìm ông cháu và bảo: "ông dậy đi và sang tiếp chuyện lão cảnh sát, còn tôi phải ra cổng chờ chúng nó về". Rồi bà kể cho ông nghe câu chuyện tai vạ ấy. ông cháu vừa mặc áo vừa run nói lẩm bẩm: "Tôi đã biết mà! Tôi đã chờ đợi chuyện này mà!"
-Nói thế thôi chứ ông ấy có biết gì đâu! Bà ra đón, gặp các cậu cháu về, tát cho mỗi đứa một cái. Thằng Miska sợ quá liền tỉnh rượu ngay, còn thằng Iasenka thì tội nghiệp, líu cả lưỡi, nói lí nhí: "Con chẳng biết gì hết, Mikhailô gây ra cả đấy chứ! Anh ấy là đầu têu!" Phải nói mãi viên cảnh sát mới chịu nghe
-lão ấy là người tốt! Nhưng lúc ra về lão ấy bảo: "Coi chừng đấy, nếu nhà này có xảy ra tai họa gì thì tôi sẽ tìm ra ngay thủ phạm đấy!" ông cháu đến bên Macxim và nói: "Cảm ơn con, người khác mà ở địa vị con thì họ không làm thế đâu, tao biết điều đó lắm! Và cảm ơn con, con gái của bố, con đã tìm cho nhà ta một chàng rể hiền!". ông ngoại cháu hễ lúc nào hứng lên thì nói rất hay, chỉ có sau này vì ngu xuẩn nên ông mới khóa chặt lòng mình lại.
Mọi người đi ra cả, chỉ còn lại ba người, bà và bố mẹ cháu, bố cháu mới khóc và nói như mê sảng: "Sao họ lại đối xử với tôi như vậy, tôi có điều gì không nên không phải với họ đâu? Mợ ơi, sao họ lại làm thế?" Bố cháu không gọi bà là mẹ, mà gọi là mợ như trẻ con ấy, mà kể ra thì tính tình bố cháu cũng chẳng khác gì một đứa trẻ. "Sao họ lại làm thế?"
-Bố cháu nhắc lại. Bà khóc nức nở, còn biết làm thế nào nữa. Iakôp và Mikhailô dầu sao cũng là con bà, bà thương hại chúng nó! Mẹ cháu giật đứt hết cả khuy áo, ngồi đấy, đầu tóc rối bù như vừa đánh nhau xong, gầm lên: "Ta phải đi khỏi nơi này thôi, Macxim ạ! Anh em mà như kẻ thù ấy, em sợ họ lắm, ta đi thôi!" Bà phải quát mẹ cháu: "Đừng đổ thêm dầu vào lửa nữa, thế cũng đã đủ để đốt cháy rồi!" ông cháu bắt các cậu cháu phải vào xin lỗi, mẹ cháu nhảy xổ đến tát vào mặt thằng Miska: này xin lỗi này! Còn bố cháu trách: "Sao các cậu lại làm thế? Các cậu có biết là vì các ở đây trong nguyên bản dùng chữ "mama" là tiếng trẻ con thường dùng để gọi mẹ cho ngắn gọn, đáng lẽ phải gọi là "mamasa" cũng có nghĩa là mẹ, nhưng là cách xưng hô thân mật của người Nga. Chúng tôi tạm chuyển sang tiếng Việt như vậy, tuy chưa được thích hợp lắm. cậu tôi có thể trở thành người tàn tật suốt đời không? Mất hai bàn tay thì còn làm ăn gì được nữa?" Cuối cùng, chúng nó gượng gạo làm lành với nhau. Bố cháu ốm liệt giường gần bảy tuần lễ, và luôn mồm bảo: "Chà, mợ ơi, mợ đi với chúng con đến thành phố khác đi, ở đây chán lắm!" ít lâu sau có dịp, bố cháu dọn đi Axtrakhan. Hồi ấy vào mùa hè, ở đấy người ta đang sửa soạn đón rước Nga Hoàng; bố cháu được giao cho việc xây dựng cổng chào. Bố mẹ cháu đi chuyến tàu thủy đầu tiên: bà chia tay bố mẹ cháu mà tim thắt lại, bố cháu cũng buồn rười rượi và khẩn khoản bảo bà cùng đi về Axtrakhan. Còn Vacvara thì sung sướng lắm, vui ra mặt, đồ không biết ngượng... Và bố mẹ cháu ra đi... Thế là hết... Bà tôi uống một ngụm rượu vôtka, rít thuốc lá và nói tiếp, đăm chiêu đưa mắt nhìn qua cửa sổ ngắm bầu trời xanh xám:
-Phải, tuy bà và bố cháu không cùng máu mủ, nhưng lòng dạ rất giống nhau...
Đôi lúc, bà tôi đang kể chuyện thì ông tôi bước vào. ông tôi ngẩng bộ mặt giống như con chồn hôi lên, phồng chiếc mũi nhọn đánh hơi, ngó bà tôi với một vẻ nghi ngờ, lắng tai nghe câu chuyện của bà tôi và lẩm bẩm:
-Lại những chuyện xuẩn ngốc của bà... Đột nhiên ông tôi hỏi tôi:
-Lêcxây, bà mày uống rượu đấy à?
-Không ạ.
-Mày nói láo, nhìn mắt mày tao đủ biết. Rồi ông tôi ngập ngừng bước đi. Bà tôi nhìn theo nháy mắt và nói một câu pha trò:
-ông đi đi cho được việc, ngựa thì làm sao mà dọa nổi... Một hôm, ông tôi đứng giữa phòng, nhìn xuống sàn nhà và hỏi khẽ:
-Bà nó này!
-Gì?
-Bà có biết công việc ra sao rồi không?
-Có.
-Bà nghĩ thế nào?
-Cái số nó thế, ông ạ! ông có nhớ xưa kia ông vẫn nói rằng phải là một quý tộc đấy không?
-Có.
-Thì đấy, gã quý tộc của ông đấy.
-Nghèo rớt mùng tơi.
-ồ, đấy là chuyện của con Vacvara! ông tôi đi ra. Cảm thấy lo lắng, tôi hỏi bà tôi:
-ông bà nói chuyện gì đấy?
-Cái gì cháu cũng muốn biết cả,
-bà tôi vừa lầm bầm vừa đưa tay xoa xoa chân tôi.
-Còn bé mà cái gì cũng biết cả thì lớn lên còn gì mà hỏi nữa?...
-Rồi bà tôi lắc đầu cười.
-Chà! ông ơi, ông ơi, ông chỉ là một hạt bụi nhỏ trước mắt Chúa mà thôi. Liônka, cháu đừng nói với ai điều này nhé: ông cháu đã bị phá sản sạch sành sanh rồi! ông ấy giao một số tiền rất lớn, hàng mấy nghìn rúp cho một lão quý tộc, và lão ta vừa bị vỡ nợ... Bà tôi mỉm cười, ngồi im lặng hồi lâu, đăm chiêu suy nghĩ, khuôn mặt to lớn của bà tôi cau lại, tối sầm và trở nên u buồn.
-Bà nghĩ gì thế? Bà tôi giật mình:
-à, bà nghĩ về câu chuyện sắp kể cho cháu nghe. Chuyện Epxtinhê, cháu có muốn nghe không? Chuyện thế này: Xưa có lão phụ lễ Epxtinhê, Tự cho mình thông minh nhất bậc. Từ giáo sĩ lẫn các nhà quý tộc, Đến lũ chó săn lão luyện cũng không bằng! Như con gà tây, lão đi lại vênh vang, Ví mình như chim Siren tuyệt mỹ. Lão la mắng láng giềng ầm ĩ, Rằng thế này, rằng thế nọ, thế kia... Nhìn nhà thờ, lão bảo: thấp ghê! Ngắm đường phố, lão kêu: hẹp quá! Quả táo chín, lão chê: chưa đỏ! Mặt trời lên, lão gắt: sớm chưa? Ai bảo gì lão cũng phán bừa: Bà tôi phùng má, trợn mắt, khuôn mặt hiền hậu của bà tôi lúc này trông đần độn, buồn cười, bà kể tiếp, giọng trầm, lè nhè:
-ồ, cái này có gì là lạ? Ta có thể làm hơn thế nữa, Nhưng ta đây chẳng có thì giờ. Ngừng một lát bà tôi mỉm cười khe khẽ kể tiếp: Và thế rồi đâu bỗng một đêm kia Lũ quỷ kéo đến nhà lão, la hét:
-Này, thầy sáu, ở đây lão không thích, Vậy xin mời lão tếch xuống âm tá, Than đỏ lửa hồng rực rỡ mê lá! Lão phụ lễ mũ chưa kịp đội Lũ quỷ đã kéo lão đi vội Chúng vừa cù, vừa thét, vừa lôi. Hai quỷ con leo tót lên vai, ấn lão ngã xuống lò lửa cháy.
-Epxtinhê, lão có vui lòng ở với chúng tớ không đấy? Trong thần thoại Há Lạp, những nhân vật hoang đường hình chim, đầu và ngực đàn bà, tay cầm một chiếc thụ cầm; giọng hát của nó rất êm ái và quyến rũ những người đi biển làm cho họ đâm tàu vào đá ngầm. Lão cháy sém hết người, đảo mắt nhìn quanh, Chống nạnh ngang hông, lão đứng tay khuỳnh, Bĩu môi, lão kiêu ngạo nói:
-Chốn địa ngục các anh sao mà khói thế! Bà tôi kết thúc câu chuyện bằng một giọng lè nhè, ề à. Rồi bà tôi thay đổi nét mặt, khe khẽ cười và giải thích cho tôi:
-Lão Epxtinhê ấy không chịu thua, vẫn khăng khăng bướng bỉnh, giống như ông cháu ấy! Thôi, cháu ngủ đi, khuya rồi... Mẹ tôi ít khi lên thăm tôi, có lên thì cũng không nán lại lâu, nói ít, vì lúc nào mẹ tôi cũng vội vội vàng vàng. Tôi thấy mẹ tôi hình như ngày càng xinh ra, ăn mặc diện hơn, nhưng ở mẹ tôi, cũng như ở bà tôi, tôi cảm thấy có cái gì khang khác, mà ai cũng cố giấu tôi, tôi chỉ cảm thấy thế và đoán thế thôi. Những câu chuyện cổ tích của bà tôi càng ngày tôi càng ít thấy thích, cả đến những câu chuyện về bố tôi mà bà tôi thường kể cũng không làm cho tôi dịu bớt nỗi lo lắng mơ hồ nhưng ngày càng tăng lên trong lòng. Tôi hỏi bà tôi:
-Tại sao vong hồn bố cháu lại không yên, hở bà?
-Bà biết làm sao được?
-Bà tôi lim dim mắt trả lời.
-Đó là việc của Chúa, chúng ta không hiểu được... Đêm đêm, những khi không ngủ được, nhìn qua cửa kính màu xanh, tôi ngắm nhìn những vì sao lênh đênh trôi chầm chậm trên trời, và tôi tưởng tượng ra lắm chuyện buồn mà vai chính bao giờ cũng là bố tôi. Lúc nào tôi cũng thấy bố tôi đi đâu ấy, lủi thủi một mình, tay chống gậy, có một con chó xồm lẽo đẽo theo sau...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

29#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:54:51 | Chỉ xem của tác giả
Chương 12



Một hôm tôi ngủ thiếp đi từ lúc chập tối. Khi thức dậy tôi có cảm giác như chân tôi cũng thức dậy. Tôi thả chân xuống giường thì lại thấy hai chân tê cứng, nhưng lúc này tôi tin chắc rằng chân tôi vẫn còn nguyên và tôi vẫn đi được. Cảm giác đó rõ ràng đến nỗi tôi hét lên vì vui sướng. Hai chiếc chân không sao mang nổi thân tôi và tôi ngã lăn ra, nhưng tôi cũng bò được đến cửa và lần xuống cầu thang. Tôi tưởng tượng mọi người ở dưới nhà sẽ ngạc nhiên như thế nào khi trông thấy tôi. Tôi không nhớ vì sao tôi lại mò được vào buồng mẹ tôi và ngồi lên lòng bà tôi. Trước mặt bà tôi có mấy người lạ đang đứng. Một bà lão người khô đét vận đồ xanh nói giọng nghiêm khắc, át cả tiếng mọi người:
-Cho nó uống phúc bồn tử rồi trùm kín đầu lại... Tất cả mọi thứ trên người bà lão toàn là màu xanh: từ áo, mũ cho đến khuôn mặt điểm một nốt thịt thừa dưới mắt, đều xanh, thậm chí đến túm lông mọc trên nốt thịt thừa cũng xanh như một búi cỏ. Bà lão trề môi dưới xuống, vểnh môi trên lên và nhe những chiếc răng xanh ra nhìn tôi, đưa bàn tay đi găng đen không ngón rua đăng-ten giơ lên che mắt.
-Ai đấy?
-Tôi rụt rè hỏi. ông tôi trả lời bằng một giọng nghe rất khó chịu:
-Đấy là bà mới của mày đấy... Gượng cười, mẹ tôi đẩy Epgêni Macximôp lại phía tôi:
-Bố con đấy... Mẹ tôi nói gì rất nhanh và khó hiểu. Macximôp nheo mắt, cúi xuống gần tôi và nói:
-Bố sẽ cho con một hộp thuốc màu. Trong buồng rất sáng; góc phía trước, trên một cái bàn, có đặt những giá nến bằng bạc, trên mỗi giá có năm ngọn nến đang cháy. Giữa những giá nến đó là bức tượng thánh "Xin Đức Mẹ đừng khóc" mà ông tôi rất quý; những hạt ngọc trai gắn trên bức tượng lấp lánh và hình như chảy ra; những viên ngọc thạch lựu đỏ thẫm trên nền vàng của bức tượng phát ra những tia hào quang chói lọi. Những khuôn mặt lờ mờ, tròn trĩnh nom như những cái bánh tráng cùng với những cái mũi bẹt lặng lẽ như dán vào những tấm kính cửa sổ tối om trông ra phố. Tất cả mọi vật xung quanh tôi đều chập chờn nghiêng ngả. Còn bà lão vận đồ xanh thì đưa những ngón tay lạnh buốt sờ vào phía sau tai tôi và nói:
-Nhất định rồi, nhất định rồi...
-Nó ngất rồi,
-bà tôi nói và bế tôi ra cửa. Nhưng tôi không ngất, tôi chỉ nhắm mắt lại thôi. Lúc bà bế tôi lên cầu thang, tôi hỏi bà:
-Sao bà không bảo cháu chuyện ấy từ trước?
-Chà... thôi im đi!
-Các người là đồ lừa dối... Đặt tôi vào giường xong, bà tôi rúc đầu vào gối và khóc, toàn thân rung lên. Hai vai rung động, bà tôi nghẹn ngào, nói lắp bắp:
-Cháu khóc đi... khóc đi... Tôi không muốn khóc. Căn gác tối và lạnh; tôi run lên, chiếc giường rung chuyển và kêu ken két. Bà lão vận đồ xanh vẫn hiện lên trước mắt tôi. Tôi giả vờ như ngủ, và bà tôi đi ra. Mấy ngày trống rỗng trôi qua một cách đơn điệu như một dòng nước nhỏ. Sau lễ ăn hỏi mẹ tôi đi đâu mất, không khí trong nhà trở nên vắng vẻ một cách nặng nề. Một buổi sáng ông tôi lấy ra một cái đục, đi tới cửa sổ và cậy mát-tít trát ở khung cửa hồi mùa đông. Bà tôi đi tới, tay bưng chậu nước với chiếc giẻ lau. ông tôi khe khẽ hỏi bà:
-Thế nào, mụ già?
-Cái gì kia?
-Mừng lắm phải không? Bà tôi trả lời cũng giống như trả lời tôi lúc đi lên cầu thang:
-Chà... thôi im đi! Những lời đơn giản đó lúc này có một ý nghĩa đặc biệt, chúng che giấu một sự kiện gì lớn, đáng buồn không cần phải nói ra nhưng mọi người đều biết. ông tôi thận trọng tháo khung cửa và đưa ra ngoài. Bà tôi mở rộng cánh cửa sổ. Trong vườn tiếng sáo sậu kêu, tiếng chim sẻ ríu rít. Mùi thơm ngây ngất của đất sau khi tuyết tan ùa vào trong phòng. Trên thành lò sưởi những viên gạch men hình vuông màu xanh nhạt ngượng nghịu ngả sang màu trắng, nhìn chúng đủ cảm thấy lạnh lẽo. Tôi bò từ trên giường xuống sàn nhà.
-Không được đi chân đất.
-Bà tôi nói.
-Cháu muốn ra vườn.
-Hãy chờ ít lâu nữa có hơn không, ngoài ấy chưa khô đâu!
Tôi không muốn nghe lời bà tôi, thậm chí nhìn mặt người lớn tôi cũng cảm thấy khó chịu. Trong vườn những ngọn cỏ non xanh mượt đã nhú lên, những nụ táo đã mọng ra và nở tung, rêu trên mái nhà nhỏ của mụ Pêtrôpna có một màu xanh nom thật thích mắt. Chỗ nào cũng thấy có nhiều chim. Tiếng chim hót rộn ràng, làn không khí thơm mát làm cho đầu óc tôi ngây ngất. Trong cái hố chỗ bác Piôt cắt cổ tự tử có những bụi cỏ dại màu vàng hoe bị tuyết đè nát, rối tung. Nhìn cái hố đó thật khó chịu, nó không có một vẻ gì là mùa xuân cả; những mẩu gỗ cháy dở đen bóng trông thật buồn thảm. Sự vô dụng của nó như chọc tức tôi. Tôi bực mình muốn nhổ tung những bụi cỏ dại đi, nhặt những viên gạch vỡ ra và những mẩu gỗ cháy dở vứt ra ngoài, dọn hết tất cả những thứ bẩn thỉu, vô ích đi, sửa sang cái hố thành một chỗ ở thật sạch sẽ và mùa hè sẽ sống trong đó một mình, không có người lớn. Tôi liền bắt tay ngay vào việc. Công việc đó làm cho tôi xa cách tất cả những gì xảy ra trong nhà suốt một thời gian dài, và tuy những chuyện ấy hãy còn làm cho tôi rất bực mình, nhưng càng ngày chúng càng làm tôi ít quan tâm hơn.
-Làm sao mà mày cứ quằm quặm thế? -Bà tôi hoặc mẹ tôi thường hỏi tôi như vậy.
Tôi thấy lúng túng mỗi khi bà và mẹ tôi hỏi câu đó. Nào tôi có giận gì bà và mẹ tôi đâu, tôi chỉ cảm thấy mọi thứ trong nhà đều trở nên xa lạ đối với tôi. Vào những bữa ăn trưa, chiều và những bữa trà tối thường có mặt bà lão vận đồ xanh, nom hệt như một cái cọc mục ở giữa dãy hàng rào đổ nát. Cặp mắt của bà ta như được đính vào mặt bằng những sợi chỉ vô hình. Từ trong hai hốc mắt xương xẩu chúng nhẹ nhàng lăn ra và chuyển động thoăn thoắt. Hai con mắt đó nhìn không sót một cái gì. Chúng rướn lên mái nhà mỗi khi bà ta nói đến Chúa và cụp xuống má khi bà ta nói đến việc nhà. Cặp lông mày của bà ta trông như cám và như dán vào da. Những chiếc răng to, trơ trụi lặng lẽ nhai tất cả những gì bà ta nhét vào mồm, cánh tay khòng khòng trông đến buồn cười, ngón út chìa ra. Quanh tai bà những cục xương tròn chạy đi chạy lại. Hai tai luôn luôn cử động, cả đến túm lông xanh trên nốt thịt thừa cũng động đậy giống như đang bò trên lớp da vàng khè, nhăn nheo và sạch bóng đến phát ghét lên được. Bà lão cũng sạch sẽ như người con trai
-chạm vào họ người ta cảm thấy ngượng nghịu và khó chịu. Mấy hôm đầu có lúc bà ta định đưa bàn tay như tay người chết ra sờ vào môi tôi
-bàn tay có mùi hương và xà phòng Kazan. Tôi vội vàng quay đi và chạy mất. Bà ta thường nói với con trai:
-Thằng bé này nhất định phải giáo dục cẩn thận, hiểu không Giênáa? Người con trai cúi đầu ngoan ngoãn, cau mày và im lặng. Trước mặt bà ta ai cũng đều nhăn nhó cả. Tôi hết sức căm ghét bà lão, và cả con trai bà ta nữa. Cũng chính vì cái tình cảm nặng nề đó mà tôi đã phải ăn nhiều trận đòn. Một lần đang ăn trưa, bỗng bà lão nói, hai mắt trố ra trông rất khủng khiếp:
-Chà, Aliôsenka, đi đâu vội mà cắn những miếng to thế? Khéo không lại nghẹn đấy. Tôi lôi miếng đang nhai dở trong mồm ra, cắm lại vào dĩa và chìa ra trước mặt bà ta:
-Này, bà tiếc thì cầm lấy... Mẹ tôi kéo tôi ra khỏi bàn ăn, tôi bị đuổi lên gác thượng một cách nhục nhã. Bà tôi đi lên và bịt miệng cười:
-Cha mẹ ơi, ai bảo mày nghịch tinh nghịch quái như thế! Cầu Chúa che chở cho mày.
Tôi không thích bà tôi bịt miệng lại như vậy. Tôi chạy đi chỗ khác. Tôi leo lên mái nhà và ngồi nấp phía sau ống khói một lúc lâu. Đúng, tôi rất muốn nghịch ngợm, tôi muốn nói với tất cả mọi người những lời cay độc. Khó mà dập tắt được ý muốn đó, Tức Epgêni Macximôp. vậy mà vẫn phải dập tắt như thường. Một hôm tôi lấy nhựa anh đào bôi vào ghế của ông bố dượng tương lai và người bà mới của tôi, và cả hai đều bị dính vào ghế. Cảnh đó trông thật là buồn cười. Sau khi tôi bị ông tôi đánh, mẹ tôi lên gác thăm tôi. Mẹ tôi kéo tôi vào lòng, kẹp chặt tôi giữa hai đầu gối và hỏi:
-Nghe đây, sao con lại chơi ác như thế? Giá con biết được điều đó làm mẹ đau lòng như thế nào! Mắt mẹ tôi rưng rưng những giọt lệ long lanh, mẹ tôi áp đầu tôi vào má. Tôi thấy đau khổ quá, thà mẹ tôi cứ đánh cho tôi một trận còn hơn. Tôi hứa sẽ không bao giờ xúc phạm đến hai mẹ con Macximôp nữa, miễn là mẹ tôi đừng khóc.
-Phải đấy, -mẹ tôi nói nhỏ, -con không nên nghịch ngợm nữa! ít lâu nữa bố mẹ sẽ làm lễ cưới rồi sau đó sẽ đi Matxcơva. Sau đó bố mẹ trở về và con sẽ ở với mẹ. Epgêni Vaxiliêvitạ rất tốt và rất thông minh, ở với bố, con sẽ sung sướng. Rồi con sẽ vào trường trung học, sau đó sẽ trở thành sinh viên giống như bố bây giờ và rồi sẽ thành bác sĩ hoặc làm gì tùy ý. Người có học vấn thì muốn làm gì cũng được. Thôi, đi chơi đi con... Tôi cảm thấy những tiếng "sau đó" mà mẹ tôi lần lượt nói ra đó là một cái thang đi xuống một nơi sâu thẳm nào đấy mỗi lúc một xa mẹ tôi, đi sâu vào bóng tối, vào cảnh cô độc và điều ấy làm cho tôi buồn rầu vô hạn. Tôi rất muốn nói với mẹ tôi:
-Mẹ đừng đi lấy chồng mẹ ạ, con sẽ nuôi được mẹ! Nhưng tôi không sao nói được điều đó. Mẹ tôi luôn luôn gợi lên trong tâm trí tôi rất nhiều ý nghĩ âu yếm về người, nhưng không bao giờ tôi muốn nói những ý nghĩ ấy cả.
Công việc của tôi ở trong vườn tiến hành rất trôi chảy: tôi lấy con dao lớn rẫy hết cỏ dại đi, xung quanh miệng hố, chỗ nào đất bị lở, tôi lấy gạch đắp lại. Tôi xếp gạch thành một chỗ ngồi rộng, có thể nằm được là đằng khác. Tôi nhặt thật nhiều mảnh thủy tinh màu và bát đĩa vỡ đem nhét vào những khe hở giữa các hàng gạch và lấy đất sét trát lại. Khi ánh nắng chiếu vào hố, chúng rực sáng lên những màu sắc rực rỡ giống như ở trong nhà thờ.
-Khéo nghĩ đấy!
-Một hôm ông tôi ngắm nghía công trình của tôi và nói.
-Có điều là cỏ nó sẽ làm mày gay đấy: rẫy cỏ mà không đánh hết rễ! Để tao xới lại đất cho, vào lấy cái mai ra đây! Tôi đem ra một chiếc xẻng bằng sắt. ông tôi nhổ nước bọt vào lòng bàn tay, vừa lẩm bẩm vừa đưa chân ấn sâu chiếc xẻng xuống lớp đất màu mỡ.
-Nhặt rễ đi!... Rồi tao sẽ trồng ở đây cho mày mấy cây hướng dương và cây cối xay! Đẹp lắm... Và bỗng ông tôi im bặt, lặng người đi, người vẫn cúi trên chiếc xẻng. Tôi để ý nhìn: từ trong cặp mắt nhỏ thông minh giống như mắt chó của ông tôi, những giọt lệ lăn tăn liên tiếp nhỏ xuống đất.
-ông làm sao thế? ông tôi giật mình, đưa tay lau mặt và nhìn tôi bằng cặp mắt mờ đục.
-ông toát mồ hôi đấy! Trông kìa, bao nhiêu là giun! Rồi ông tôi lại tiếp tục đào và bỗng nhiên nói:
-Mày làm những cái này chỉ tổ phí công thôi, cháu ạ, tao sắp sửa bán nhà rồi, độ mùa thu này là bán. Cần có tiền để làm của hồi môn cho mẹ mày. Thôi thì cũng chỉ còn mong sao cho mẹ mày được sung sướng, cầu trời phù hộ cho mẹ mày... ông tôi vứt xẻng xuống đất, phẩy tay và đi về phía sau nhà tắm ở góc vườn, chỗ có đặt những chiếc nồi nấu nước.
Đến lượt tôi đào và bị xẻng đâm toạc ngay một ngón chân. Vì vậy tôi không đưa mẹ tôi đến nhà thờ để làm lễ cưới được. Tôi chỉ có thể ra cổng nhìn mẹ tôi khoác tay Macximôp và cúi đầu thận trọng đặt từng bước trên nền gạch của lề đường, trên những bụi cỏ xanh từ trong các kẽ gạch nhô lên, tựa như mẹ tôi đang đi trên những đầu đinh nhọn vậy. Lễ cưới rất âm thầm; sau khi ở nhà thờ về mọi người uống trà một cách buồn tẻ. Mẹ tôi đi thay quần áo ngay rồi vào buồng ngủ xếp đặt hòm xiểng. ông bố dượng tôi ngồi xuống cạnh tôi và nói:
-Bố có hứa cho con một hộp thuốc màu, nhưng ở đây không có loại nào tốt. Còn hộp của bố thì bố không thể cho con được, lên đến Matxcơva bố sẽ gửi về cho con vậy...
-Con lấy thuốc màu làm gì?
-Con không thích vẽ à?
-Con không biết vẽ.
-Thôi được, bố sẽ gửi cho con một thứ gì khác vậy. Mẹ tôi bước đến:
-Bố mẹ sẽ về ngay thôi mà. Khi nào bố con thi xong, tốt nghiệp là bố mẹ trở về... Tôi lấy làm thích thú thấy hai người nói chuyện với tôi như nói với một người lớn, nhưng tôi rất lấy làm lạ thấy một người đã có râu mà vẫn còn đi học. Tôi hỏi:
-Bố học gì?
-Đạc điền... Tôi cũng chẳng buồn hỏi đó là cái gì. Một sự im lặng buồn tẻ bao trùm căn nhà, có tiếng gì sột soạt như tiếng len dạ cọ sát vào nhau, mọi người như chỉ mong sao cho trời chóng tối. ông tôi đứng tựa lưng vào lò sưởi, nheo mắt nhìn ra cửa sổ. Bà lão vận đồ xanh giúp mẹ tôi xếp sắp đồ đạc, vừa làm vừa càu nhàu và kêu rên. Còn bà tôi thì say rượu từ trưa, mọi người sợ xấu hổ nên lôi bà tôi lên gác thượng và nhốt ở trên ấy. Sáng sớm hôm sau mẹ tôi lên đường. Khi từ biệt, người ôm lấy tôi, khẽ nhấc tôi lên khỏi mặt đất, nhìn vào mắt tôi bằng cặp mắt xa lạ rồi hôn tôi và nói:
-Thôi, con ở nhà nhé.
-Bảo nó ở nhà phải vâng lời tao,
-ông tôi vừa nói, giọng vẫn gắt, vừa nhìn lên bầu trời còn đang ửng hồng.
-Con phải vâng lời ông nhé!
-Mẹ tôi nói và giơ tay làm dấu cho tôi. Tôi chờ đợi mẹ tôi sẽ nói những gì khác kia, và tôi rất bực ông tôi đã làm cho mẹ tôi không nói nữa. Hai vợ chồng lên xe ngựa. Tà áo của mẹ tôi bị móc vào cái gì gỡ mãi không được, mẹ tôi phát cáu.
-Lại giúp mẹ mày, không trông thấy gì à?
-ông tôi bảo tôi. Tôi vẫn đứng im, nỗi buồn nặng trĩu trong lòng. Macximôp chịu khó xếp đôi chân dài thuỗn bó sát trong hai ống quần xanh vào xe. Bà tôi giúi vào tay Macximôp mấy cái tay nải, ông ta cầm đặt lên đầu gối, lấy cằm đỡ cho khỏi đổ, khuôn mặt tái mét nhăn lại với một vẻ hốt hoảng.
-Đủ rồi...
-Macximôp nói, giọng kéo dài. Bà lão vận đồ xanh với người con trai cả là một sĩ quan lên một chiếc xe khác. Bà lão ngồi ngay như tượng, còn người con trai thì lấy chuôi kiếm cọ vào râu và chốc chốc lại ngáp.
-Thế là anh ra trận đấy hả?
-ông tôi hỏi.
-Nhất định rồi!
-Tốt lắm! Cần phải đánh cho bọn Thổ Nhĩ Kỳ...
Xe chuyển bánh. Mấy lần mẹ tôi quay lại giơ khăn tay vẫy. Bà tôi, một tay chống vào tường, cũng giơ tay lên vẫy vẫy, nước mắt đầm đìa. ông tôi cũng lấy ngón tay quệt nước mắt và nói càu nhàu, giọng đứt quãng:
-Rồi chẳng... có gì tốt đâu... chẳng có... Ngồi trên một khúc gỗ, tôi nhìn hai chiếc xe vừa chạy vừa nảy trên mặt đường. Khi chúng đã khuất vào một góc phố, thì trong lòng tôi hình như cũng có một cái gì thắt lại. Trời hãy còn sớm lắm, cửa sổ ở các nhà vẫn còn đóng kín. Đường phố không một bóng người, tôi chưa bao giờ thấy nó vắng tanh vắng ngắt tiêu điều như thế. Từ xa vẳng lại điệu nhạc u uất của một gã mục đồng. Đây nói đến cuộc chiến tranh Nga
-Thổ năm 1877 -1878.
-Đi uống trà thôi -ông tôi nắm lấy vai tôi kéo đi và nói.
-Số phận mày là ở với tao; cho nên mày còn phải đụng chạm với tao như que diêm xát vào gạch vậy. Từ sáng đến chiều tôi với ông tôi mê mải làm việc ở trong vườn. ông tôi đánh luống, buộc các khóm phúc bồn tử, cạo rêu cho các cây táo và bắt sâu. Còn tôi thì chỉ loay hoay xây dựng và trang hoàng cho chỗ ở của tôi. ông tôi lấy rìu chặt bớt đoạn cuối của cây gỗ cháy dở đi và cắm xuống đất những cái cọc bằng gỗ, tôi đem mấy lồng chim treo lên những cái cọc đó. Tôi lấy cỏ khô đánh một tấm gianh thật dày và làm thành cái mái ở phía trên chiếc ghế dài để che nắng che sương. Chỗ ở của tôi thế là tươm rồi. ông tôi nói:
-Cháu tập lo liệu lấy một mình như vậy là rất tốt. Tôi rất coi trọng những lời của ông tôi. Thỉnh thoảng ông tôi tới nằm trên cái ổ cỏ của tôi và bằng một giọng chậm rãi, như cậy ra từng lời khó nhọc, ông khuyên tôi:
-Bây giờ mày đã lìa khỏi mẹ mày như một miếng bánh đã cắt rời ra. Rồi mẹ mày sẽ có con khác, đối với mẹ mày chúng nó sẽ thân thiết hơn mày. Còn bà mày thì đã bắt đầu uống rượu rồi. ông tôi im lặng một lúc lâu như nghe ngóng cái gì, sau đó lại miễn cưỡng buông ra những lời nặng nề:
-Bà mày uống lần này là lần thứ hai đấy. Khi thằng Mikhailô phải đăng lính bà mày cũng đã uống rồi. Lúc ấy, bà mày còn năn nỉ tao mua cho nó một cái giấy miễn đi lính nữa chứ, cái mụ già ngu ngốc ấy! Giá cứ đi lính quách thì bây giờ có thể nó lại khác... Chao ôi, lũ chúng bay... y... thật là... Còn tao thì đã gần kề miệng lỗ rồi, như thế là mày sẽ còn lại có một mình thôi, mày phải lo liệu lấy tất, phải tự kiếm lấy miếng ăn, hiểu không? Thế đấy! Phải tập chỉ trông cậy vào chính bản thân mình, đừng để kẻ khác dắt mũi mình! Hãy sống lặng lẽ, bình thản, nhưng phải cứng cỏi! Ai nói gì cũng nghe, nhưng cứ việc làm theo cách có lợi cho mình. Suốt mùa hè, tất nhiên trừ những hôm trời mưa gió, tôi đều sống ở ngoài vườn, thậm chí cả vào những đêm ấm trời tôi còn ngủ luôn ở đấy trên tấm thảm của bà tôi cho. Chính bà tôi cũng hay ngủ ở ngoài vườn. Bà tôi đem ra một ôm cỏ khô, rải gần chỗ tôi nằm rồi bà tôi nằm xuống và kể cho tôi nghe những câu chuyện rất dài, thỉnh thoảng lại ngừng kể và đột nhiên nói xen vào:
-Trông kìa, một ngôi sao sa! Chắc đó là linh hồn trong sạch của ai buồn nhớ đến đất Mẹ đấy! Như thế tức là ở đâu đấy lại mới có một người tốt ra đời. Hoặc bà tôi chỉ cho tôi xem:
-Nhìn kìa, một ngôi sao mới hiện ra! Trông long lanh như một con mắt ấy! ôi, bầu trời, bầu trời xinh đẹp, ngươi là tấm áo khoác lộng lẫy của Chúa... ông tôi càu nhàu:
-Bà cháu mày rồi đến cảm lạnh mà ốm mất thôi, lũ ngốc ạ...
Kẻ trộm mà vào thì nó bóp cổ... Đôi khi, vào lúc chiều tà trên bầu trời tỏa ra vô số suối lửa. Chúng tàn dần và đổ xuống vườn cây xanh mượt như nhung một lớp tro màu đỏ pha sắc vàng óng ánh. Một lúc sau tất cả cảnh vật xung quanh đều tối sẫm nhanh chóng, lan rộng mãi ra, phồng lên, chìm vào trong màn đêm nóng bức. Những chiếc lá được tắm no ánh nắng rủ xuống, những ngọn cỏ nằm rạp xuống mặt đất. Tất cả đều trở nên êm dịu hơn, lộng lẫy hơn: muôn hương nhẹ nhàng tỏa ra, dịu dàng như tiếng nhạc. Tiếng nhạc từ cánh đồng xa vọng về: đó là tiếng kèn điểm danh trong trại lính. Đêm xuống dần, và cùng với đêm một cái gì mạnh mẽ, tươi mát như sự âu yếm dịu hiền của người mẹ tràn vào lồng ngực.
Cảnh tĩnh mịch như một bàn tay ấm áp mịn như nhung khe khẽ vuốt ve trái tim. Và tất cả mọi ấn tượng xấu xa, tất cả làn bụi li ti và nóng bỏng trong ngày hôm đó đều bị xóa mờ đi trong tâm trí. Thật thú vị khi nằm ngửa mặt lên trời, ngắm những vì sao mỗi lúc một sáng thêm khiến cho bầu trời càng thêm sâu thẳm. Cái vực sâu thăm thẳm đó cứ vươn cao lên mãi, làm hiện ra những vì sao mới, nó nhẹ nhàng nâng bổng ta lên khỏi mặt đất và làm cho ta có một cảm giác thật là kỳ lạ: lúc thì ta cảm thấy toàn bộ trái đất thu nhỏ cho hợp với ta, lúc thì ta cảm thấy lớn lên một cách tuyệt vời, tỏa rộng và lan xa, hòa vào mọi vật xung quanh. Trời mỗi lúc một tối hơn, không khí mỗi lúc một thêm lặng lẽ. Nhưng khắp mọi nơi như có căng những sợi dây đàn vô tình rất nhậy; mỗi một âm thanh, tiếng chim hót trong giấc ngủ, tiếng nhím chạy qua hoặc một giọng nói nhỏ ở đâu đó -tất cả những âm thanh đó đều được bầu không khí lặng như tờ làm vang lên, đều ngân lên rất đặc biệt, khác hẳn lúc ban ngày. Tiếng phong cầm, tiếng cười của phụ nữ, tiếng gươm kéo lê trên nền gạch hè đường, tiếng chó sủa -tất cả những âm thanh vô ích đó đều giống như những chiếc lá rụng cuối cùng của một ngày tàn. Có những đêm ở ngoài đồng hoặc trên đường phố bỗng dội lên tiếng hát của người say rượu, tiếng chân người chạy thình thịch nặng nề, nhưng những cái đó đã quá quen thuộc và không còn ai chú ý đến nữa. Bà tôi thao thức rất lâu, bà tôi nằm, đầu gối lên hai bàn tay bắt chéo và kể chuyện với niềm hào hứng nhẹ nhàng, không hề để ý xem tôi có nghe hay không. Bao giờ bà tôi cũng khéo chọn những truyện cổ tích khiến cho đêm càng thêm ý vị và đẹp đẽ. Giọng nói du dương của bà tôi thường làm tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết và tôi tỉnh dậy vào lúc chim hót. ánh nắng chiếu thẳng vào mặt tôi, không khí ban mai run rẩy nhẹ nhàng, mỗi lúc một thêm ấm áp. Lá táo rũ những hạt sương xuống đất, những ngọn cỏ xanh ướt đẫm mỗi lúc một sáng rực lên, một làn hơi mỏng manh trong suốt như pha-lê bốc lên từ mặt cỏ. Trên bầu trời tim tím những tia nắng mỗi lúc một tỏa rộng như chiếc quạt đang xòe dần ra, bầu trời chuyển thành màu xanh. Tiếng chim sơn ca hót tít trên cao, và tất cả những màu sắc, âm thanh thấm vào lòng như những giọt sương mai, khơi lên một niềm vui thanh thản khiến người ta muốn dậy ngay, làm việc và sống hòa thuận với tất cả mọi sinh vật xung quanh mình. Đây là thời kỳ phẳng lặng và thơ mộng nhất trong đời tôi, và chính trong mùa hè này cảm giác tự tin vào sức mình đã nảy nở và lớn mạnh.
Tôi trở thành con người thờ ơ, thích cô độc. Nghe tiếng lũ trẻ nhà ạpxiannikôp la hét tôi cũng mặc kệ. Bọn em họ có đến chơi tôi cũng không mừng rỡ chút nào, mà chỉ sợ chúng phá mất những công trình của tôi ở ngoài vườn -sự nghiệp đầu tiên do tôi tự tạo nên. Cả những lời nói của ông tôi cũng không còn làm cho tôi bận tâm nữa, càng ngày giọng của ông tôi càng trở nên khô khan, gắt gỏng, than vãn. ông tôi bắt đầu hay cãi cọ với bà tôi và đuổi bà tôi đi. Bà tôi lúc thì đến nhà cậu Iakôp, lúc thì đến nhà cậu Mikhain. Đôi khi đến mấy ngày liền bà tôi không về, ông tôi phải thổi nấu lấy; bị bỏng tay, ông tôi la lối, chửi bới và đập phá bát đĩa. Tính keo kiệt của ông tôi ngày càng tăng. Thỉnh thoảng ông tôi vào lều của tôi, ngồi chễm chệ lên ổ cỏ và lẳng lặng nhìn tôi một lúc lâu, rồi đột nhiên hỏi:
-Sao cứ im thin thít thế?
-Cháu vẫn thế... Sao kia ạ? Và ông tôi bắt đầu "lên lớp" cho tôi:
-Chúng ta không phải là bọn quý tộc. Không ai dạy chúng ta hết. Chúng ta phải tự hiểu lấy tất cả. Người ta thì có sách vở để xem, có trường để học, còn chúng ta thì chẳng có cóc khô gì sất. Phải tự hiểu lấy tất...
Rồi ông trầm ngâm suy nghĩ, ngồi trơ trơ không nhúc nhích và im bặt, có thể nói là rất khủng khiếp. Đến mùa thu thì ông tôi bán nhà. Trước khi bán ít lâu, một hôm trong lúc uống trà buổi sáng ông tôi bỗng bảo với bà tôi bằng một giọng buồn rầu, nhưng cương quáết:
-Này, bà nó ạ, tôi nuôi bà như thế đã đủ rồi! Bây giờ thì bà đi kiếm lấy mà ăn.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

30#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:55:27 | Chỉ xem của tác giả
Bà tôi tỏ ra hết sức thản nhiên đối với những lời đó, dường như bà tôi đã biết từ lâu là ông tôi sẽ nói như vậy và đang chờ đợi điều đó. Bà tôi thong thả moi hộp thuốc ra, lấy thuốc lá nhét vào cái mũi xôm xốp và nói:
-Thôi được! Đã vậy thì... ông tôi thuê hai căn buồng nhỏ tối om om ở dưới hầm một ngôi nhà cũ trong một ngõ cụt, phía dưới một ngọn đồi. Khi dọn nhà, bà tôi lấy một chiếc giày gai cũ, cầm sợi dây giày ném vào bếp lò. Rồi bà ngồi xổm và bắt đầu gọi gia thần:
-Gia thần, gia thần, xe đã sẵn sàng, xin Người hãy cùng đi với chúng tôi tới nơi ở mới, đến với hạnh phúc mới... ông tôi ở ngoài sân nhòm vào cửa sổ, quát lên:
-Đợi đấy, sẽ có xe đấy, mụ tà giáo kia! Cứ liệu, đừng có bêu diếu tôi.
-ôi, ông nó ơi, coi chừng kẻo khốn đấy!
-Bà tôi nói với ông tôi, giọng nghiêm trang. Nhưng ông tôi nổi nóng và cấm bà tôi không được đưa gia thần đi theo. Bàn ghế và những đồ đạc linh tinh khác ông tôi đem bán cho những người Tacta buôn đồ cũ suốt hai ba hôm mới xong. ông tôi đặt giá và chửi bới om sòm, còn bà tôi thì đứng ở cửa sổ nhìn ra, lúc khóc, lúc cười, miệng khẽ lẩm bẩm:
-Lôi cả đi! Đập hết đi!... Tôi cũng muốn khóc, tôi tiếc cái vườn và túp lều của tôi quá. Chúng tôi dọn nhà đi chỉ cần có hai chiếc xe ngựa. Tôi ngồi trên xe, giữa những đống đồ đạc linh tinh. Xe xóc một cách kinh khủng, dường như muốn hất tôi xuống đất. Và tôi đã sống với cảm giác bị lắc lư liên miên như muốn hất tôi đi như vậy trong khoảng hai năm trời, cho đến tận ngày mẹ tôi mất.
Mẹ tôi trở về sau khi ông tôi dọn đến căn hầm được ít lâu. Mẹ tôi trông xanh nhợt, gầy còm, hai mắt mở to, ngỡ ngàng ánh lên như trong cơn sốt. Mẹ tôi nhìn một cách chăm chú kỳ lạ như mới trông thấy ông bà tôi và tôi lần đầu vậy. Mẹ tôi lặng lẽ nhìn cả nhà, còn bố dượng tôi thì cứ đi đi lại lại ở trong phòng, hai tay chắp sau lưng, miệng huýt sáo khe khẽ, chốc chốc lại húng hắng ho, mấy ngón tay khẽ búng vào nhau.
-Trời, sao con lớn khiếp thế này!
-Mẹ tôi nói, hai bàn tay nóng hổi áp vào má tôi. Mẹ tôi ăn mặc trông rất xoàng xĩnh: chiếc áo dài màu da cam rộng thùng thình, ở nơi bụng lại phình ra. ông bố dượng chìa tay cho tôi:
-Chào cậu cả! Độ này thế nào? Rồi ông ta hít hít không khí và nói:
-Này, ở đây ẩm ướt lắm! Cả hai người như vừa mới qua một cuộc chạy dài, dáng mệt mỏi, quần áo trên người đều nhàu nát, phai bạc. Hai người hình như không còn muốn gì hơn là được nằm nghỉ. Mọi người uống trà trong bầu không khí buồn tẻ. Nhìn những giọt nước mưa chảy trên cửa kính, ông tôi hỏi:
-Như vậy là cháy sạch cả à?
-Cháy sạch,
-bố dượng tôi trả lời, giọng quả quáết.
-Chúng con phải khó khăn lắm mới lao ra được...
-Hừ, lửa chứ có phải chuyện đùa đâu! Mẹ tôi áp sát vào vai bà tôi và nói thì thầm vào tai bà. Bà tôi nheo mắt lại như gặp ánh sáng chói. Không khí trong nhà mỗi lúc một buồn hơn. Bỗng ông tôi nói rất to, giọng thản nhiên và có vẻ cay độc.
-Epgêni Vaxiliep, sao tôi nghe nói là chẳng có cháy chiếc gì cả, mà chỉ vì anh đánh bạc thua hết. Không khí yên lặng như dưới mồi, chỉ nghe thấy tiếng ấm xamôva sôi phì phì và tiếng mưa rơi đập vào cửa kính. Một lúc sau mẹ tôi nói:
-Bố...
-Bố cái gì?- ông tôi thét nghe đến đinh tai.
-Còn muốn gì nữa? Tao đã chẳng bảo rằng ba mươi tuổi đầu đừng có đi lấy đứa hai mươi là gì? Đấy, mày đã được thỏa mãn,; ông chồng thanh lịch của mày đấy! Mày đã là bà lớn, oai ghê! Thế nào, cô quý nữ của tôi! Cả bốn người đều la hét ầm ĩ, la to nhất là bố dượng tôi. Tôi bỏ ra phòng ngoài, leo lên ngồi trên đống củi và lặng đi trong nỗi kinh ngạc: mẹ tôi đã bị người ta làm thay đổi hẳn, hoàn toàn không còn giống như trước nữa. Cảm giác này khi ở trong phòng ít thấy rõ hơn, nhưng ở đây, trong bóng tối lờ mờ, tôi nhớ lại rõ ràng mẹ tôi trước kia như thế nào. Tôi không còn nhớ rõ lắm tại sao về sau tôi lại ở Xôrmôvô, tại một ngôi nhà trong đó tất cả mọi thứ đều còn mới, tường không có giấy bồi, những khe hở giữa các cây gỗ thì bịt bằng sợi gai và có rất nhiều gián ở trong. Mẹ tôi và bố dượng tôi ở hai phòng có cửa sổ trông ra đường, còn tôi với bà tôi thì ở gian bếp chỉ có mỗi một chiếc cửa sổ nhỏ. Vượt lên trên các mái nhà, những ống khói nhà máy đâm thẳng Một khu phố ở Nijni-Nôpgôrôt có những nhà máy quan trọng nhất ở nước Nga. ở Nga nhà gỗ thường làm bằng những cây gỗ nguyên ghép lại. lên trời trông như những ngón tay đen sì và nhả ra những làn khói dày đặc, xoắn tít. Gió mùa đông thổi chúng bay đi khắp xóm. Trong những căn phòng lạnh lẽo của chúng tôi lúc nào cũng có mùi dầu mỡ khét lẹt. Sáng sớm tiếng còi rú lên như tiếng chó sói:
-U..., u
-u... u... u... Đứng lên ghế dài nhìn qua những tấm kính bên trên của cửa sổ và qua các mái nhà, có thể thấy cái cổng nhà máy sáng rực ánh đèn. Cánh cổng mở toang trông như cái mồm móm đen ngòm của một lão hành khất đang há ra cho đám người bé nhỏ lũ lượt tuồn vào. Giữa trưa tiếng còi lại rúc lên, hai cánh cổng nom như cặp môi đen sì lại há ra, để lộ cái hốc mồm sâu hoắm; những con người đã bị nhà máy nuốt chửng lại như bị tuôn ra. Họ đổ ra đường như một dòng nước đen sì. Một cơn gió mang theo tuyết trắng như bông thổi lùa vào đường phố, xua đuổi và dồn họ về những căn nhà của họ. Bầu trời trên xóm làng rất ít khi nhìn thấy: ngày này qua ngày khác phía trên các mái nhà, trên các đống tuyết đen kịt muội bồ hóng, người ta thấy lơ lửng một cái mái khác màu xám và bằng phẳng; nó đè trĩu lên óc tưởng tượng và làm lóa mắt người ta bởi cái màu sắc đơn điệu buồn tẻ của nó. Tối tối trên bầu trời nhà máy lập lờ một vừng sáng màu đỏ đục chiếu vào các đỉnh ống khói; người ta có cảm tưởng như các ống khói từ trong đám khói nhô ra, không phải vươn lên trời, mà là chúc xuống đất.
Chúng tuôn ra những tia lửa đỏ rực, gào rú lên. Nhìn tất cả những cái đó tôi cảm thấy bực dọc vô hạn, một nỗi buồn chua xót da diết trong lòng. Bà tôi trở thành người làm bếp; bà tôi nấu nướng, cọ sàn, bổ củi, xách nước, quần quật suốt từ sáng đến tối, và khi đi nằm bà tôi rã rời cả chân tay, vừa than vãn, vừa rên rỉ. Thỉnh thoảng sau khi làm lụng xong, bà tôi mặc một chiếc áo cánh bông ngắn, vén váy lên thật cao và đi ra phố.
-Xem lão già ở trên đó sống ra sao...
-Cho cháu đi với!
-Cháu sẽ chết rét mất thôi. Xem bão tuyết kia kìa! Rồi bà tôi đi hơn bảy vecxta trên con đường bị ngập giữa những cánh đồng tuyết. Mẹ tôi người vàng bủng, có chửa, co ro trong chiếc khăn san rách màu xám, có tua xung quanh. Tôi căm ghét chiếc khăn đó, nó làm cho thân hình to lớn, cân đối của mẹ tôi xấu xí hẳn đi. Tôi ghét và thường rứt đứt những tua ở xung quanh khăn. Tôi căm ghét cả ngôi nhà, xưởng máy và xóm làng. Mẹ tôi đi một đôi ủng bẹp dúm dó, mỗi khi ho thì cái bụng to phình lại lắc lư trông thật quái gở. Cặp mắt xanh xám của người ánh lên những nét khô khan và giận dữ, và thường hay nhìn trừng trừng vào những bức tường trơ trụi như bị dán chặt vào đó. Đôi khi mẹ tôi nhìn hàng giờ qua cửa sổ ra đường. Đường phố trông giống như một hàm răng, một số răng vì già nua nên đã đen kịt, khấp khểnh; một số đã rụng, và người ta đã vụng về thay vào đó những chiếc răng mới to quá khổ so với hàm.
-Chúng ta ở đây làm gì?
-Tôi hỏi. Mẹ tôi trả lời:
-ôi, im đi con ạ... Mẹ tôi ít nói với tôi, mà thường chỉ ra lệnh:
-Đi đi... Đưa đây... Đem lại đây... Tôi ít khi được ra đường; lần nào về nhà tôi cũng bị bươu đầu sứt trán vì bị tụi trẻ con đánh. Đánh nhau là thú vui duy nhất của tôi. Cho nên tôi đánh nhau rất say mê. Mẹ tôi lấy thắt lưng quất tôi, nhưng sự trừng phạt chỉ kích thích tôi thêm và lần sau tôi càng đánh nhau với tụi trẻ con một cách điên khùng hơn, và mẹ tôi cũng lại trừng phạt tôi nghiêm khắc hơn.
Một lần tôi cáo trước cho mẹ tôi biết rằng nếu mẹ tôi không thôi đánh tôi thì tôi sẽ cắn tay mẹ tôi, rồi chạy ra đồng và ở lỳ đến chết cóng ở đó. Mẹ tôi sửng sốt đẩy tôi ra, rồi đi đi lại lại trong phòng và vừa thở với vẻ mệt nhọc vừa nói:
-Đồ bất trị! Chiếc cầu vồng sinh động, lung linh của những tình cảm mà người ta gọi là lòng thương yêu đã phai nhạt đi trong tâm hồn tôi và càng ngày càng hay bùng lên những ngọn lửa xanh đầy thán khí
-ngọn lửa tức giận đối với tất cả mọi thứ; nỗi bất bình nặng nề, cảm giác sống cô độc trong cái thế giới vô nghĩa, một màu xám xịt và điêu tàn này, cứ âm ỉ trong trái tim tôi. Bố dượng tôi rất nghiêm khắc đối với tôi và ít khi nói chuyện với mẹ tôi. Suốt ngày ông ta chỉ huýt sáo miệng, ho và sau bữa trưa thì đứng trước gương lấy tăm xỉa những chiếc răng khấp khểnh rất cẩn thận và rất lâu. Càng ngày bố dượng tôi càng hay cãi nhau với mẹ tôi, gọi mẹ tôi bằng "cô" một cách giận dữ. Lối xưng hô đó làm cho tôi tức giận ghê gớm. Những lúc cãi nhau bao giờ bố dượng tôi cũng đóng chặt cửa thông vào bếp, có lẽ ông ta không muốn cho tôi nghe thấy lời nói của mình, tuy vậy tôi vẫn lắng nghe được cái giọng trầm trầm, khàn khàn của ông ta. Một lần ông ta giậm chân và hét:
-Chỉ vì cái bụng chướng mắt của cô mà tôi không thể mời ai đến chơi được, thật là giống bò cái! Tôi sửng sốt và tức giận như điên dại đến nỗi tôi nhảy bắn lên ở trên lò sưởi, đập cả đầu vào trần nhà và cắn vào lưỡi đến chảy cả máu. Cứ đến thứ bảy là có hàng chục người đem phiếu thực phẩm đến bán cho bố dượng tôi. Người ta đã trả công cho họ bằng phiếu thay cho tiền mặt, và họ sẽ dùng phiếu để mua thực phẩm ở cửa hàng nhà máy. Bố dượng tôi mua lại những phiếu đó chỉ bằng nửa tiền. ông ta tiếp họ ở trong bếp; ngồi sau một chiếc bàn, vẻ mặt quan trọng và cau có, ông ta cầm phiếu và nói:
-Một rúp rưỡi.
-Epgêni Vaxiliep, ông hãy nể Chúa một chút...
-Một rúp rưỡi. Cuộc sống vô nghĩa, tối tăm đó kéo dài không lâu. Trước khi mẹ tôi ở cữ, tôi được đưa tới chỗ ông tôi. Lúc này ông tôi đã về ở Kunavinô, ông ở trong một căn phòng chật hẹp có lò sưởi Nga và hai cửa sổ trông ra sân trong một ngôi nhà hai tầng ở phố Pêxtạanaia. Phố này chạy dưới chân một quả đồi xuống đến hàng rào khu nghĩa địa của nhà thờ Đức Bà Đồng trinh.
-Sao?
-ông tôi hỏi khi thấy tôi và cất tiếng cười the thé.
-Ngày xưa người ta nói: "Không có người nào đáng yêu hơn mẹ đẻ", còn bây giờ có lẽ chúng ta phải nói: "Không phải mẹ đẻ, mà chính là ông ngoại quái quỷ này!" ôi chao, lũ chúng bay... y... y thật là...
Tôi chưa kịp quen với chỗ ở mới thì bà và mẹ tôi với em bé tôi tới. Bố dượng tôi bị đuổi khỏi nhà máy vì tội bòn mót của anh em thợ, nhưng ông ta chạy chọt và được tuyển ngay vào làm chân bán vé tại nhà ga. Sau những ngày không có việc gì xảy ra, tôi lại được đưa về ở với mẹ tôi trong tầng hầm một ngôi nhà đá. Lập tức mẹ tôi tống tôi đến trường. Nhưng ngay từ ngày đầu tiên trường học đã làm tôi chán ghét.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách