Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: santhelena
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Thời Thơ Ấu | Maksim Gorky

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 11:00:34 | Xem tất
Một hôm bà tôi đang quỳ tâm sự với Chúa thì ông tôi mở toang cửa ra, nói với giọng khàn khàn:
-Bà nó ơi, Chúa phạt chúng ta rồi, nhà cháy!
-ông nói gì đấy!
-Bà tôi hét lên và vùng đứng dậy. Cả hai người thình thịch chạy bổ vào gian phòng chính tối om.
-Epgênsa, hạ tượng thánh xuống! Nataláa, mặc áo cho lũ trẻ!
-Bà tôi ra lệnh, giọng nghiêm nghị cứng rắn, còn ông tôi thì khẽ rên rỉ:
-Hi, hi, hi... Tôi chạy vào bếp. Cái cửa sổ nhìn ra sân đang cháy rực lên như vàng. Trên sàn nhà những vật vàng vàng chạy nhảy. Cậu Iakôp vội đi ủng rồi nhảy lên những vệt cháy ấy y như đế giày của cậu bị cháy vậy. Cậu kêu lên:
-Chính Miska đốt nhà, hắn đốt và chuồn rồi, đúng thế!
-Im đi, đồ chó má,
-bà tôi vừa nói vừa đẩy cậu ra cửa mạnh đến nỗi suýt nữa thì cậu ngã. Nhìn qua cửa kính đóng băng thấy rõ mái xưởng bùng cháy và ngọn lửa như cơn lốc xoắn xuýt cuồn cuộn qua cánh cửa ngỏ. Trong đêm tối yên lặng ngọn lửa nở thành những bông hoa đỏ, không có khói. ở trên cao tít thấy lơ lửng một đám mây sẫm, nhưng nhìn qua vẫn thấy giải Ngân Hà bàng bạc. Tuyết rực lên màu đỏ thắm. Tường nhà rung lên, lảo đảo như muốn hướng về phía góc sân, nơi ngọn lửa đang nhảy nhót vui vẻ, đang nhuộm đỏ những kẽ ngách rộng trong vách xưởng và từ đó thoát ra như những chiếc đinh cong queo. Trên những tấm gỗ đen sẫm và khô của mái nhà những dải lửa vàng, đỏ lượn khúc quấn quanh lấy mái nhà. ở giữa nhô lên một ống khói mảnh dẻ bằng đất nung còn bốc khói. Những tiếng nổ lách tách, những tiếng soàn soạt như tiếng lụa xé đập vào cửa kính. Ngọn lửa lan ra mãi. Xưởng thợ sáng rực giống như bức thánh-tượng-bình ở trong nhà thờ và như có một sức gì không cưỡng lại được vẫy gọi mọi người tới gần hơn. Tôi trùm chiếc áo lông ngắn to xù lên đầu và xỏ chân vào đôi ủng không biết của ai. Tôi lê ra nhà ngoài, ra chỗ bậc tam cấp và đứng lặng đi vì kinh khủng trước ánh lửa chói lòa làm tôi lóa cả mắt. Tai tôi ù đặc vì tiếng kêu của ông tôi, của bác Grigôri, của cậu tôi và vì tiếng đám cháy nổ. Tôi khiếp sợ trước cử chỉ của bà tôi; trùm chiếc bao không lên đầu, quấn vào người miếng vải phủ mình ngựa, bà tôi vừa lao vào lửa vừa la lên:
-Cupơrôx, lũ ngốc! Cupơrôx làm nổ tung cả bây giờ...
-Grigôri, giữ lấy bà lão!
-ông tôi rít lên.
-Trời ơi, bà ấy chết mất... Nhưng bà tôi đã trở ra, toàn thân bốc khói, lắc đầu, lom khom, tay giơ thẳng bưng một vò lớn đầy cupơrôx.
-ông cho tháo ngựa ra!
-Bà tôi vừa kêu vừa ho và thở khò khè.
-Lột miếng vải khoác ngoài cho tôi, tôi đang bị cháy, ông không trông thấy à?... Bác Grigôri giật miếng vải khoác ngoài đang âm ỉ cháy khỏi vai bà tôi. Bác gập đôi người lại, bắt đầu lấy xẻng hắt những cục tuyết lớn vào cửa xưởng. Cậu tôi nhảy nhót bên cạnh bác, cầm cái rìu trong tay. ông tôi chạy quanh, ném tuyết vào người bà tôi. Bà tôi nhét cái vò xuống đống tuyết rồi chạy ra cổng, mở toang ra và cúi chào những người đang kéo đến:
-Bà con ơi, phải bảo vệ lấy cái nhà kho! Nếu lửa lan sang nhà kho, chuyền sang vựa chứa cỏ khô thì tất cả nhà tôi sẽ cháy hết ra tro và cả nhà bà con cũng sẽ bị cháy lây! Giật mái xuống và vứt cỏ khô ra vườn! Grigôri, hắt tuyết cao lên, sao lão cứ ném mãi xuống đất thế! Iakôp, đừng có xun xoe, đưa rìu và xẻng cho mọi người! Bà con hãy cùng nhau giúp chúng tôi một tay, Chúa sẽ phù hộ các người. Bà tôi cũng lôi cuốn tôi như đám cháy vậy. Ngọn lửa rọi vào người bà tôi đen thẫm, như muốn đuổi bắt. Bà tôi tất tả ở khắp sân, chỗ nào cũng đến đúng lúc, và điều khiển mọi việc chẳng sót việc nào. Con Sarap chạy ra sân. Nó chồm lên và làm ông tôi suýt ngã lộn. Ngọn lửa làm đỏ rực cặp mắt to của nó. Con ngựa hí ầm, đứng bằng hai chân trước. ông tôi buông dây cương ra, nhảy tránh sang một bên và kêu:
-Bà nó ơi, giữ lấy nó! Bà tôi nhảy xổ vào dưới chân con ngựa đang lại chồm lên và dang hai tay ra. Con ngựa khẽ hí một tiếng rầu rĩ, vươn cổ về phía bà và liếc nhìn ngọn lửa.
-Mày đừng sợ!
-Bà tôi nói, giọng trầm trầm. Bà vỗ vỗ vào cổ nó và cầm dây cương.
-Mày tưởng tao bỏ mày trong cái địa ngục đó à, con chuột nhắt của tao?... Và con chuột nhắt to gấp ba bà ngoan ngoãn đi theo ra cổng. Nó thở phì phì và nhìn khuôn mặt đỏ rực của bà. Mụ Epgênáa dẫn lũ trẻ mếu máo và quấn đầy quần áo ra khỏi nhà, mụ kêu:
-Vaxili Vaxilits, không thấy thằng Lêcxây đâu cả...
-Đi đi!
-ông tôi vẫy tay đáp, trong khi đó tôi nấp dưới bậc tam cấp để khỏi bị mụ vú lôi đi. Mái xưởng đã sập. Những thanh xà nhà mảnh dẻ bốc khói, lấp lánh ánh than vàng, nhô lên trời. Trong xưởng những ngọn lửa xanh đỏ cuồn cuộn như những cơn gió lốc, phát ra tiếng nổ giòn và tiếng rít. Từng bó lửa bắn ra sân, xuống những người tụ tập trước đống lửa khổng lồ và đang dùng xẻng hắt tuyết vào đám cháy. Trong đống lửa mấy cái chảo lớn sôi sùng sục, hơi nước và khói bốc lên như một đám mây dày đặc. Những mùi là lạ tỏa ra ngoài sân làm chảy nước mắt. Tôi chui ra khỏi bậc tam cấp và đụng luôn phải chân bà tôi.
-Đi ra!
-Bà tôi quát.
-Đi ra, không có chết bẹp bây giờ... Một người cưỡi ngựa đội mũ đồng có chóp xộc vào sân. Con ngựa màu hung sùi bọt mép, còn gã kia tay giơ ngọn roi lên cao, thét lên với vẻ hăm dọa:
-Tránh ra! Tiếng chuông reo vui rộn rã. Quang cảnh thật tưng bừng và đẹp như ngày hội. Bà tôi đẩy tôi lên bậc tam cấp:
-Có nghe tao bảo gì không! Đi ra! Lúc này không thể không vâng lời bà tôi được. Tôi xuống bếp và lại dán mũi vào cửa kính, nhưng bị đám người đen ngòm che lấp nên không nhìn thấy ngọn lửa nữa.
Tôi chỉ thấy những chiếc mũ đồng sáng loáng giữa những chiếc mũ lưỡi trai và mũ lông mùa đông đen sì. Ngọn lửa bị chế ngự mau chóng. Người ta tưới nước vào lửa, và dập tắt nó. Cảnh sát giải tán đám đông. Bà tôi trở vào bếp.
-Ai đấy? Cháu đấy à? Tại sao cháu không ngủ, cháu sợ à? Đừng sợ, mọi việc đều xong xuôi rồi... Bà ngồi im lặng bên cạnh tôi và lắc lư trên chiếc ghế. Tôi lấy làm sung sướng thấy đêm tối lại lặng lẽ như cũ, nhưng tôi vẫn nhớ tiếc ngọn lửa. ông tôi bước vào, dừng lại bên ngưỡng cửa và hỏi:
-Bà nó đấy à?
-Hở?
-Bà bị bỏng phải không?
-Không sao cả. ông tôi đánh một que diêm; ánh lửa xanh chiếu sáng khuôn mặt chồn hôi, đầy bồ hóng. ông tôi tìm thấy cây nến trên bàn rồi chậm chạp ngồi xuống cạnh bà tôi.
-ông nên rửa mặt mũi đi thì hơn,
-bà tôi nói, mặc dù người cũng đầy bồ hóng và sực mùi khói khét lẹt. ông tôi thở dài:
-Chúa thật là nhân từ đối với bà. Chúa ban cho bà lắm thông minh thế... ông tôi xoa vai bà tôi và nhe răng nói thêm:
-Tất nhiên là trong chốc lát thôi, nhưng cũng là có ban!... Bà tôi cũng mỉm cười, muốn nói điều gì, nhưng ông tôi đã cau mày lại.
-Cần phải tống cổ lão Grigôri đi, việc này cũng là do sự sơ suất của lão ta! Lão già yếu rồi, không dùng được việc nữa! Thằng Iaska đang ngồi ở bậc thềm khóc lóc, thằng ngốc... Bà thử đi ra xem nó làm sao... Bà tôi đứng dậy, một tay giơ trước mặt, vừa đi vừa thổi những ngón tay, còn ông tôi không nhìn tôi, khẽ hỏi:
-Cháu nhìn thấy đám cháy suốt từ đầu đến cuối chứ? Vậy cháu thấy bà thế nào, hả? ấy là bà đã già... bị suy yếu rồi... Cháu thấy không? ôi chao, lũ chúng bay... y... y thật là... ông tôi khom lưng, yên lặng hồi lâu, sau đó đứng dậy lấy ngón tay gạt tàn nến rồi lại hỏi tôi:
-Cháu có sợ không?
-Không ạ.
-Thật ra cũng không có gì đáng sợ cả... ông tôi giật chiếc áo sơ-mi khỏi vai với vẻ tức giận rồi đi tới góc nhà có chậu rửa mặt. ở đó, trong bóng tối, ông tôi giậm chân, nói to:
-Cháy nhà là một sự ngu ngốc! Đứa nào làm cháy nhà cần phải lôi ra quảng trường đánh cho một trận; nó là thằng ngốc, không thì cũng là thằng kẻ trộm! Cứ làm như vậy thì chẳng bao giờ cháy nhà nữa!... Cháu đi ngủ đi. Còn ngồi đấy làm gì? Tôi đi nằm, nhưng đêm hôm ấy không tài nào ngủ được: tôi vừa mới nằm lên giường thì một tiếng kêu la không giống tiếng người làm tôi vùng dậy khỏi giường ngay. Tôi lại lao vào nhà bếp. ông tôi cởi trần, tay cầm cây nến, đứng giữa nhà. Cây nến rung rinh. Không nhích đi được bước nào, ông tôi chỉ giậm chân xuống sàn và rít lên:
-Bà nó ơi, Iakôp ơi, cái gì thế? Tôi nhảy lên lò sưởi, nấp vào một góc. Trong nhà lại bắt đầu náo động như lúc cháy. Tiếng kêu la đều đều và đau đớn càng ngày càng to, đập vào trần và tường từng hồi. ông tôi và cậu tôi chạy ngược chạy xuôi, bà tôi quát tháo và xua đuổi hai người. Bác Grigôri chất củi vào lò rầm rầm, đổ đầy nước vào chảo gang. Bác đi lại ở nhà bếp, đầu lắc lư giống như một con lạc đà ở Axtrakhan.
-Trước hết hãy đốt lò đi chứ!
-Bà tôi ra lệnh. Bác vội đi tìm que đóm, sờ phải chân tôi và sợ hãi kêu lên:
-Ai đấy? Hừ, làm tao sợ hết hồn... ở đâu không cần đến, mày cũng có mặt...
-Cái gì thế hở bác?
-Mợ Nataláa đẻ,
-bác thản nhiên đáp và nhảy xuống sàn. Tôi nhớ hồi mẹ tôi đẻ, mẹ tôi không kêu la om sòm như thế. Đặt chảo lên bếp xong, bác Grigôri leo lên lò sưởi ngồi cạnh tôi. Bác rút trong túi ra chiếc tẩu bằng đất nung và đưa cho tôi xem.
-Bác bắt đầu hút thuốc chỉ vì cặp mắt này thôi. Bà cháu khuyên bác: chỉ nên hít, nhưng bác thấy hút tốt hơn...
Bác ngồi ở mép lò sưởi, hai chân buông thõng. Bác nhìn xuống phía dưới, nơi ngọn nến cháy lù mù. Tai và má bác đầy bồ hóng, chiếc áo sơ-mi rách ở bên sườn. Tôi nhìn thấy cả bộ xương sườn của bác rộng như những cái đai thùng. Một mắt kính của bác đã bị vỡ, một nửa kính hầu như đã lòi ra khỏi vành, và qua lỗ hổng tôi nhìn thấy mắt bác đỏ ngầu, ươn ướt như một vết thương. Bác vừa nhồi thuốc vào tẩu vừa lắng nghe những tiếng rên rỉ của mợ Nataláa, và nói lẩm bẩm những câu rời rạc giống như người say rượu:
-Bà cháu dẫu sao thì cũng bị bỏng, làm thế nào đỡ đẻ được? Gớm, mợ ấy rên tợn quá! Trong khi cháy nhà người ta đã quên mất mợ ấy. Ngay từ lúc bắt đầu cháy đã thấy mợ ấy quằn quại vì sợ hãi... Đẻ được đứa con thật là khó nhọc, nhưng mà người ta có kính trọng phụ nữ đâu! Cháu nhớ nhé: phải kính trọng phụ nữ, nghĩa là phải kính trọng những bà mẹ... Tôi thiu thiu ngủ, nhưng tiếng ồn ào, tiếng sập cửa, lẫn tiếng kêu lè nhè của cậu Mikhain say rượu làm tôi tỉnh dậy. Những lời nói kỳ lạ vẳng đến tai tôi:
-Phải mở cửa Thánh ra...
-Cho nó uống dầu thắp đèn hòa với rượu rum và bồ hóng: nửa cốc dầu, nửa cốc rượu rum và một thìa bồ hóng... Cậu Mikhain cứ khẩn khoản yêu cầu lải nhải:
-Cho tôi vào xem... Cậu ngồi xuống sàn, hai chân dạng ra và khạc nhổ xuống trước mặt, bàn tay vỗ vỗ trên sàn nhà. Trên lò sưởi nóng không thể chịu được. Tôi bò xuống, nhưng vừa tới ngang tầm cậu thì cậu túm lấy chân tôi giật mạnh. Tôi ngã đập gáy xuống đất.
-Đồ ngốc,
-tôi bảo cậu. Cậu nhổm ngay dậy, túm lấy tôi, nhấc bổng tôi lên và rú:
-Tao phải quật mày vào lò sưởi cho mày tan xác ra mới được... Khi hoàn hồn, tôi thấy tôi ngồi trên đầu gối ông tôi ở trong góc phòng chính, dưới những bức tượng thánh. Ngước mắt lên trần nhà, ông tôi ru tôi và nói nhỏ:
-Chúng ta không một ai có lý do gì để xin tha lỗi... Trên đầu ông có một ngọn đèn thờ sáng rực. Trên bàn giữa phòng có một ngọn nến. ánh sáng mùa đông mờ mờ đã ló ra qua cửa sổ. ông tôi cúi xuống chỗ tôi hỏi:
-Cháu đau ở đâu? Tôi đau khắp cả người, đầu tôi ướt đẫm mồ hôi, mình nặng trình trịch, nhưng tôi không muốn nói ra điều đó. Xung quanh, tất cả đều hết sức lạ lùng đối với tôi! Hầu hết các ghế trong phòng đều có những người lạ mặt ngồi: một cha cố mặc áo dài tím, một lão già bé nhỏ, tóc bạc, đeo kính, mặc áo nhà binh, và nhiều người khác nữa. Tất cả đều ngồi không nhúc nhích như những pho tượng gỗ. Họ ngồi đờ ra chờ đợi và lắng nghe tiếng nước chảy róc rách ở đâu gần chỗ chúng tôi. Cậu Iakôp đứng cạnh khung cửa vươn dài người ra, hai tay chắp sau lưng. ông tôi bảo cậu:
-Này, dẫn thằng bé này đi ngủ... Cậu giơ ngón tay vẫy tôi và khẽ đi rón rén trên đầu ngón chân tới cửa buồng bà tôi. Khi tôi leo lên giường, cậu thì thầm: Theo phong tục mê tín, muốn cho người đẻ khó sinh nở được dễ dàng hơn, cần phải mở cửa nhà thờ dẫn tới bàn thờ; cửa đó gọi là cửa Thánh. Phép cứu chữa mê tín đối với người đẻ khó.
-Mợ Nataláa chết rồi... Tin đó không làm tôi ngạc nhiên, vì từ lâu mợ sống cách biệt, không bao giờ xuống bếp, ngay cả bữa ăn.
-Thế bà ở đâu, hở cậu?
-Ngoài kia,
-cậu khoát tay đáp và lại đi ra rón rén trên đầu ngón chân. Tôi nằm trên giường nhìn khắp xung quanh. Tôi tưởng như trông thấy những khuôn mặt đầy lông lá, trắng bệch, mù lòa đang áp vào kính cửa sổ. Trong góc buồng, trên cái hòm có treo chiếc áo dài của bà tôi,
-cái ấy tôi đã biết rõ,
-nhưng giờ đây tôi có cảm tưởng như có một người nào đó nấp ở đấy và đang rình mò. Tôi chúi đầu vào gối, hé một mắt nhìn ra cửa, tôi muốn nhảy xuống và bỏ chạy ra ngoài. Nóng quá, một mùi nồng nặc tỏa ra khắp gian buồng làm ngột ngạt khiến tôi nhớ tới hôm anh Txưganôc chết, những dòng màu chảy lênh láng trên sàn nhà như những dòng suối. Hình như một cái u nào đó mọc ra trong đầu và trái tim tôi. Tất cả những gì tôi đã nhìn thấy trong cái nhà này đang lướt qua trước mắt tôi như một đoàn xe trên đường phố mùa đông. Tôi cảm thấy như mình bị đè bẹp, bị tiêu tan...
Cánh cửa mở rất từ từ, bà tôi rón rén bước vào buồng rồi dùng vai khẽ khép cửa lại.
Tựa lưng vào cửa, giơ tay về phía ngọn lửa xanh của cây đèn thờ không bao giờ tắt, bà tôi than vãn khe khẽ như giọng một đứa trẻ:
-Khốn khổ cho hai bàn tay tôi, đau quá...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 11:04:48 | Xem tất
Chương 5




Tới mùa xuân các cậu tôi chia gia tài. Cậu Iakôp ở lại thành phố, cậu Mikhain sang bên kia sông. ông tôi tậu một ngôi nhà rộng rãi và khá đẹp ở phố Pôlêvaia. Tầng dưới bằng đá có quán rượu. Gác thượng có một căn phòng nhỏ ở rất thú vị. Phía sau nhà là vườn cây chạy dài đến cái vực tua tủa những cành dương liễu trụi lá.
-Nhiều roi quá!
-ông tôi nháy mắt vui vẻ nhìn tôi nói, khi tôi cùng với ông tôi đi thăm vườn, dạo trên những con đường nhỏ, chân lút cả vào tuyết mới tan.
-ông sắp dạy cháu học, chắc có lúc phải dùng đến những chiếc roi này... Ngôi nhà chật ních người ở thuê. ông tôi chỉ giữ một phòng lớn trên gác để ở và tiếp khách. Bà tôi và tôi ở gác thượng. Cửa sổ chỗ tôi ngoảnh ra phố; chiều chiều và ngày lễ, thò đầu qua bệ cửa sổ có thể nhìn thấy những người say ở quán rượu bò ra, loạng choạng trên đường phố, la hét rồi ngã gục. Đôi khi người ta ném họ ra đường như ném bao tải, nhưng họ lại phá cửa để vào quán rượu; cánh cửa đập, kêu rè rè, chiếc pu-li rít lên, một cuộc xô xát bắt đầu. Cảnh tượng đó nhìn từ trên xuống thật là thú vị. Từ sáng sớm ông tôi tới xưởng của các cậu tôi, giúp các cậu tôi sắp đặt mọi thứ. Chiều tối ông tôi mới trở về, vẻ mệt nhọc, chán ngán và bực dọc.
Bà tôi ở nhà nấu ăn, khâu vá và trông nom vườn tược. Bà chạy ngược chạy xuôi cả ngày như một con quay lớn bị chiếc roi vô hình thúc giục. Bà hít thuốc lá có vẻ sảng khoái, hắt hơi và vừa lau bộ mặt đầm đìa mồ hôi vừa nói:
-Cầu cho thế gian được hưởng phúc lành đời đời! Aliôsa, cháu yêu của bà ơi, chúng ta sống yên ổn rồi cháu ạ! Lạy Đức Mẹ, mọi việc đều tốt lành rồi! Nhưng tôi không cảm thấy chúng tôi sống đã yên ổn. Từ sớm đến khuya những người thuê nhà chạy tứ tung ở trong nhà và ngoài sân. Chốc chốc các mụ hàng xóm lại kéo đến. Ai cũng vội vã hối hả mà vẫn phàn nàn là bị trễ. Hình như ai cũng đang bận chuẩn bị một việc gì sắp xảy ra. Họ gọi bà tôi.
-Akulina Ivanôpna! Bà tôi đối với mọi người đều mỉm cười âu yếm và dịu dàng quan tâm săn sóc đến họ. Bà tôi lấy ngón tay cái cho thuốc lá vào lỗ mũi, dùng khăn tay có kẻ ô vuông đỏ lau thật sạch mũi và ngón tay, rồi không ngớt lời khuyên bảo:
-Bà con ạ, muốn chống rận chấy cần phải tắm rửa luôn, cần phải xông bằng hơi bạc hà. Nếu rận bám vào da thì lấy một thìa mỡ ngỗng thật trong, trộn với một thìa thăng hoa và ba giọt thủy ngân. Sau đó lấy mảnh sành tán nhỏ tất cả các thứ đó khoảng bảy lần trên một cái đĩa rồi xoa khắp người! Nếu dùng thìa gỗ hoặc thìa xương mà trộn thì thủy ngân bị mất! Tránh dùng thìa đồng hay thìa bạc, nguy hiểm lắm đấy! Đôi khi bà tôi khuyên nhủ, vẻ trầm ngâm:
-Bà con ạ, tốt hơn hết là đến Pêtạôrư gặp cha Axap. Tôi không thể khuyên bà con hơn được. Bà tôi giúp việc đỡ đẻ, hòa giải những vụ cãi nhau trong các gia đình, chữa bệnh cho trẻ con. Bà tôi thuộc lầu lầu câu chuyện "Giấc mơ của Đức Mẹ" và thường đem kể cho các bà nghe để họ "gặp may. Bà tôi dạy bảo họ về việc bếp nước:
-Dưa chuột tự nó sẽ bảo cho các bà lúc nào có thể muối được. Lúc nó hết mùi đất và các mùi khác thì các bà hãy trẩy về. Cơvat cần phải làm cho nó tức hơi thì nó mới mạnh và sủi bọt: cơvát không ưa ngọt, nên các bà chỉ cần cho vào một ít nho khô, nếu bỏ đường vào thì một thùng chỉ cần khoảng một jôlôtnich thôi. Varentại có nhiều cách làm khác nhau: có kiểu của miền Đanuáp, kiểu Tây Ban Nha, còn có cả kiểu của Kapkadơ nữa...
Suốt ngày tôi quẩn quanh bên bà tôi ở trong vười hay ở ngoài sân. Tôi đi với bà đến nhà các bà hàng xóm, ở đấy bà tôi ngồi hàng giờ uống nước trà và kể chuyện con cà con kê. Tôi dường như gắn chặt với bà tôi và không nhớ trong quãng đời ấy tôi đã nhìn thấy gì khác, ngoài bà lão vô cùng phúc hậu và không lúc nào chịu ngồi yên.
Thỉnh thoảng mẹ tôi không hiểu từ đâu đến chơi trong chốc lát. Kiêu hãnh và nghiêm nghị, mẹ tôi nhìn tất cả bằng cặp mắt xám lạnh như mặt trời mùa đông. Thoáng một cái mẹ tôi lại biến mất không để lại cho tôi một ấn tượng nào cả. Có lần tôi hỏi bà tôi:
-Bà có phải là phù thủy không?
-ồ, cháu lại nói lăng nhăng rồi!
-Bà mỉm cười và lập tức nói thêm, vẻ trầm ngâm:
-Bà làm phù thủy thế nào được? Phù thủy là một phép rất khó. Bà không biết đọc, đến một chữ cũng không biết. ông mới là người có học, còn bà thì Đức Mẹ không ban cho trí thông minh. Rồi bà tôi kể cho tôi nghe thêm một vài quãng đời của bà tôi:
-Bà cũng mồ côi từ nhỏ. Mẹ bà là một cố nông không nhà không cửa, một người tàn tật. Khi còn con gái, một đêm người đã bị một tên địa chủ dở trò. Người sợ quá nhảy từ cửa sổ xuống, bị gãy xương sườn và giập bả vai. Từ đó cánh tay phải, cánh tay cốt yếu nhất, bị teo đi. Trước đây mẹ bà là một người thêu đăng-ten có tiếng. Thế là bọn địa chủ không dùng người nữa, đuổi người đi và nói: "Mày sống như thế nào thì mặc xác mày". Nhưng không có cánh tay thì sống làm sao nổi? Người chỉ còn một cách là đi ăn xin. Nhưng thời ấy người ta sống sung túc và tốt bụng hơn bây giờ nhiều. Những người thợ mộc ở Balakhơna và các bà thợ thêu toàn là những người có lòng tốt cả! Đôi lúc tới mùa thu và mùa đông mẹ con bà ở lại thành phố đi ăn xin, nhưng khi thượng đẳng thiên thần Gabrien vừa mới vung kiếm lên xua đuổi mùa đông, cho mùa xuân ôm lấy trái đất thì mẹ con bà lại đi xa, đi lang thang vô định. Mẹ con bà tới Murôm, tới Iurievet, ngược cả sông Vonga và đi theo dòng sông ska êm đềm. Mùa xuân và mùa hè được đi đó đây thì thật là thú vị, mặt đất hiền hòa xanh rợp cỏ non như những tấm nhung; Đức Mẹ Rất Thánh rắc hoa khắp cả cánh đồng. ở đấy mới thật là vui sướng, ở đấy tâm hồn mới thật tự do phóng khoáng.
Đôi lúc mẹ bà lim dim cặp mắt xanh và cất tiếng hát. Giọng người không mạnh, nhưng trong, -cảnh vật xung quanh hình như cũng mơ mơ màng màng, không động đậy, lắng nghe tiếng hát của người. ăn Chúa, cuộc sống cũng dễ chịu! Năm bà lên chín tuổi, mẹ bà lấy làm xấu hổ phải dắt con đi ăn xin lang thang, người cảm thấy ngượng nên ở lại Balakhơna. Người đi khắp các phố từ nhà này sang nhà khác, vào ngày lễ người ngồi ở trước cửa nhà thờ để ăn xin. Còn bà thì ngồi ở nhà, học thêu đăng-ten, bà học vội vàng, muốn nhanh chóng đỡ đần cho mẹ. Đôi lúc học làm không được, bà cứ khóc rưng rức. Hơn hai năm sau, cháu biết không, bà đã thạo nghề và nổi tiếng khắp thành phố. Nếu có ai cần thợ khéo là họ lập tức tới tìm mẹ con bà. Họ bảo: "Này, Akulina, cô thêu giúp chúng tôi nhé" Bà sung sướng quá, đó là một ngày hội đối với bà! Tất nhiên, đó không phải là do tài nghệ của bà, mà là nhờ sự chỉ bảo của mẹ bà. Người chỉ có một cánh tay, tự mình không thể làm được, nhưng người biết cách chỉ dẫn. Mà một người chỉ dẫn giỏi còn quý hơn mười người làm ấy. Thế rồi bà bắt đầu lên mặt hãnh diện. Bà nói: "Mẹ ơi, mẹ đừng đi ăn xin nữa, bây giờ mình con có thể nuôi được mẹ rồi!" Người trả lời: "Thôi đi cô, cô phải biết, tiền đó cho cô để tích lại làm của hồi môn". ít lâu sau ông cháu tới. ông là một chàng trai nổi tiếng: mới có hai mươi hai tuổi đầu mà ông đã là một phu trưởng trên sà-lan! Bà cụ đẻ ra ông cháu để ý đến bà, thấy bà biết làm ăn, con của mụ ăn mày, nên chắc là ngoan ngoãn, thế là... Bà cụ làm nghề bán bánh và độc ác không thể tưởng tượng được...
Nhưng chúng ta nhớ tới những kẻ độc ác làm gì nhỉ? Chính Chúa biết rõ họ; chỉ có Chúa mới nhìn thấy họ và chỉ có lũ quỷ sứ mới ưa họ thôi. Bà tôi cười hồn nhiên, mũi rung rung trông đến buồn cười: cặp mắt sáng và đăm chiêu của bà tôi toát ra từ lòng trìu mến và biểu lộ nhiều ý nghĩ hơn cả những lời nói.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:25:52 | Xem tất
Tôi nhớ một buổi chiều tĩnh mịch, tôi và bà tôi uống trà ở phòng ông tôi. ông tôi ốm và ngồi trên giường, mình trần, trên vai vắt một chiếc khăn mặt dài. ông tôi luôn tay lau mồ hôi nhễ nhại, hơi thở gấp khò khè, cặp mắt xanh mờ đục, mặt sưng húp và đỏ tía. Đỏ nhất là cặp tai nhỏ nhọn hoắt. Khi ông tôi chìa tay lấy tách nước trà, bàn tay run run trông thật là tội nghiệp. ông tôi nom có vẻ dịu dàng và không giống như thường ngày.
-Tại sao bà không cho tôi uống đường?
-ông hỏi bà, giọng vòi vĩnh như một đứa trẻ được nuông chiều. Bà tôi trả lời dịu dàng, nhưng quả quáết:
-ông uống với mật ong tốt hơn! ông tôi ngạt thở, rồi thở dài uống một hớp nước trà nóng và nói:
-Bà hãy trông chừng kẻo tôi chết mất đấy!
-ông đừng sợ, tôi sẽ lo.
-Được! Nếu bây giờ tôi chết thì cũng như là xưa nay hoàn toàn không có tôi,
-mọi thứ đều sẽ biến thành tro bụi cả!
-ông đừng có nói nhảm, cứ nằm im! ông tôi im lặng một lúc, nhắm mắt, và chép chép cặp môi thâm sì. Rồi bỗng nhiên, như bị ai châm, ông tôi giật nảy mình, nói rõ điều đang nghĩ:
-Phải cưới vợ sớm cho thằng Iaska và Miska đi thôi. Có lẽ vợ con vào thì mới có thể ngăn chặn được chúng nó, phải không? Rồi ông tôi nhớ xem nhà ai trong thành phố có con gái có thể kén làm nàng dâu xứng đáng được. Bà tôi nín lặng uống hết tách nước trà này đến tách khác. Tôi ngồi bên cạnh cửa sổ, nhìn cảnh hoàng hôn đỏ rực trên thành phố, cửa kính của các ngôi nhà cũng ánh lên màu đỏ chói. ông tôi cấm tôi không được xuống sân, vườn dạo chơi vì tôi phạm lỗi gì đó không rõ. ở ngoài vườn, xung quanh những cây bạch dương, đàn bọ dừa bay vè vè; một người thợ đóng thùng đang làm việc ở sân nhà bên cạnh; gần đâu đấy có tiếng mài dao xoèn xoẹt. ở sau vườn, trong khe vực, lũ trẻ con nô đùa ầm ĩ, lẩn vào trong các bụi rậm. Cảnh chơi đùa ngoài trời lôi cuốn tôi, buổi chiều ảm đạm khiến tôi cảm thấy buồn man mác. Bỗng nhiên ông tôi lấy ở đâu ra một quyển sách mới, đập mạnh vào lòng bàn tay và gọi giật tôi:
-Này, thằng dân Permiăc kia, thằng lỏi con, lại đây! Ngồi xuống, thằng có gò má Kanmức này. Mày có thấy cái hình này không? Đây là chữ a. Nói đi: a, b, c! Đây là chữ gì?
-b.
-Đúng rồi! Còn đây?
-c.
-Bậy nào, a! Nhìn đây: d, đ, e. Đây là chữ gì?
-đ.
-Đúng rồi! Còn đây?
-e.
-Phải rồi! Thế chữ này?
-a. Bà tôi nói xen vào:
-ông nằm mà nghỉ, ông ạ...
-Bà im đi! Làm như thế này là phải lắm, không thì chỉ nghĩ ngợi miên man thôi. Học đi, Lêcxây! ông tôi lấy cánh tay nong nóng, nhơm nhớp ôm lấy cổ tôi và chỉ vào mặt chữ qua vai tôi, cuốn sách để dưới mũi tôi. Người ông tôi sặc sụa mùi dấm chua, mùi mồ hôi và mùi hành nướng. Tôi gần như ngạt thở, nhưng ông tôi hăng lên, thở khò khè và quát vào tai tôi:
-g, h! Tên chữ thì quen, nhưng ký hiệu không thích hợp với chúng: chữ ẽ giống như con sâu, chữ G giống bác Grigôri bị gù, chữ R giống bà tôi và tôi, còn ông tôi thì giống tất cả các chữ cái. ông tôi quần tôi với những chữ cái rất lâu, có lúc hỏi lần lượt, có lúc lại hỏi bất thần từng chữ một. ông tôi đã truyền cho tôi sự hăng say; tôi cũng toát mồ hôi và gào thật to, làm ông tôi cũng phải buồn cười. ông tôi ôm lấy ngực, ho sù sụ, vò quyển sách và thở khò khè:
-Bà nhìn nó rít lên như thế đấy! A, đồ Axtrakhan nóng tính, tại sao mày lại hét lên như vậy?
-Chính ông hét thì có...
Tôi vui vẻ nhìn ông bà tôi. Bà tôi chống khuỷu tay lên bàn, nắm tay tỳ vào má, nhìn chúng tôi và khẽ cười, nói:
-Thôi, hai ông cháu đừng có gào hết cả hơi nữa. ông tôi giải thích cho tôi một cách thân mật:
-ông nói to vì ông ốm, còn cháu, tại sao lại thét lên như vậy? Rồi ông tôi lắc lắc cái đầu ướt đẫm mồ hôi và nói với bà tôi;
-Mồ ma cái con Nataláa, nó nhầm tưởng thằng bé không có trí nhớ; Lạy Chúa, nó nhớ như ngựa ấy! Thằng mũi hếch, học tiếp đi chứ! Cuối cùng ông tôi đẩy đùa tôi khỏi giường.
-Thôi! Cháu giữ lấy quyển sách. Ngày mai nếu cháu đọc tất cả các chữ cái không có một lỗi nào thì ông sẽ thưởng cho cháu năm kôpêch. Tôi vừa giơ tay đỡ lấy quyển sách thì ông tôi lại kéo tôi về phía mình và nói giọng buồn buồn:
-Mẹ cháu bỏ rơi cháu ở trên đời này, cháu ơi... Bà tôi giật mình:
-ôi, tại sao ông lại nói như thế?
-Tôi không muốn nói, nhưng buồn quá buộc lòng phải nói... ôi, con bé tốt thế mà cũng lầm lạc... ông tôi đẩy mạnh tôi ra.
-Đi chơi đi! Không được ra ngoài phố, chỉ được ở trong vườn và trong sân thôi... Tôi đang muốn được ra ngoài vườn. Tôi vừa ra tới đồi thì bọn trẻ con ở khe vực bắt đầu lấy đá ném vào tôi, tôi ném lại chúng thật là thú vị.
-"Bưri" tới đấy!
-Bọn chúng nhìn thấy tôi liền reo lên và vội vàng trang bị lại.
-Cho nó một trận nhừ tử vào! Tôi không biết "bưri" là cái gì, và tên lóng đó không làm tôi tức giận. Tôi chỉ thấy thú vị là một mình chống chọi với cả lũ, thú vị khi nhìn thấy hòn đá của tôi ném trúng đích bắt buộc kẻ địch phải chạy trốn và ẩn nấp vào những bụi cây. Những trận đánh nhau ấy không có gì là ác ý và thường kết thúc hòa nhã. Tôi học khá dễ dàng. ông tôi càng chú ý đến tôi và ít nện tôi hơn trước, mặc dù, theo ý tôi, tôi đáng bị nện nhiều hơn trước vì càng lớn hơn và tinh ranh hơn, tôi càng hay phạm những điều ông tôi đã qui định và răn dạy. Thế mà ông tôi chỉ mắng và dọa đánh thôi. Tôi nghĩ bụng, có lẽ trước đây ông tôi bất công và có lần tôi đã ngỏ ý ấy với ông tôi. ông tôi lấy tay khẽ hất cằm tôi lên rồi nháy mắt và kéo dài giọng nói:
-Sa-ao? Rồi ông tôi cười gằn, nói tiếp:
-A, đồ dị giáo! Mày có thể tính được cần phải cho mày ăn bao nhiêu trận đòn nữa không? Ngoài tao ra thì có mà trời biết. Cút đi cho khuất mắt! Nhưng ông tôi lại nắm ngay lấy vai tôi và nhìn thẳng vào mặt tôi, hỏi:
-Mày giảo quáệt hay là thật thà, hả?
-Cháu không biết...
-Mày không biết à? Nếu thế thì tao bảo: mày phải giảo quáệt, như thế tốt hơn, còn thật thà thì chỉ là ngu ngốc, hiểu không? Giống cừu cũng thật thà. Nhớ lấy! Thôi, bây giờ đi chơi đi...
Chẳng bao lâu tôi đã đánh vần được tập Thánh thi. Thường thường tôi học vào sau bữa trà chiều, và mỗi lần tôi phải đọc một đoạn Thánh thi:
-ạ, u, n, g, sung, ạ, ư, ớ, n, g, sướng, sung sướng,
-tôi vừa đánh vần vừa chỉ vào trang sách và hỏi cho đỡ buồn:
-Người sung sướng có phải là cậu Iakôp không hở ông?
-Tao bợp cho mày một cái vào gáy bây giờ thì mày sẽ hiểu người sung sướng là ai!
-ông tôi vừa đáp vừa thở phì phì, vẻ tức giận. Nhưng tôi cảm thấy rằng ông chỉ tức giận theo thói quen và để giữ cái quá củ thôi. Tôi không nhầm: một lát sau ông đã quên tôi và càu nhàu:
-Phải, nó vui chơi ca hát thì như vua Đavit, nhưng làm thì lại như Abxalôn độc ác! Biết làm thánh ca, biết ghép chữ, biết làm trò khôi hài... ôi chao, lũ chúng bay... y... y thật là "múa đôi chân vui nhộn để nhảy nhót", nhưng liệu có nhảy được xa không? Liệu có nhảy được xa không, hả? Tôi ngừng đọc, lắng nghe và nhìn vào khuôn mặt nhăn nhó và lo âu của ông tôi. ông nheo mắt nhìn ra xa, không để ý tới tôi, cặp mắt đầy hăm hở và u buồn đó ánh lên một cảm giác ấm cúng, buồn rầu. Tôi hiểu rằng lúc này tính nghiêm khắc thường ngày đã biến mất. ông tôi dùng những ngón tay khẳng khiu gõ dõng dạc từng tiếng một trên bàn. Móng tay nhuộm của ông tôi sáng bóng, cặp lông mày màu vàng khẽ rung rung:
-ông ơi!
-Hả?
-ông kể chuyện cho cháu nghe đi.
-Cháu đọc đi, cháu lười lắm!
-ông tôi càu nhàu như vừa mới tỉnh ngủ rồi lấy tay dụi mắt.
-Cháu chỉ thích chuyện vui thôi, còn Thánh thi thì lại không thích... Nhưng tôi nghi chính ông tôi cũng thích chuyện vui hơn Thánh thi. ông tôi thuộc hầu hết Thánh thi và giữ lời nguyền tối nào trước khi đi ngủ cũng đọc to một chương như thầy phụ lễ giữ đồ thánh trong nhà thờ đọc sách lễ. Tôi nằn nì vòi và ông tôi, tính nết đã dịu, cuối cùng đành nhượng bộ tôi. Con trai vua Đavit ở nước Ixraen cổ đại, đã nổi dậy khởi nghĩa chống lại cha để chiếm ngôi.
-Thôi được! Tập Thánh thi còn ở lại với cháu mãi mãi, còn ông thì sắp lên chầu trời rồi... ông tôi tựa vào chiếc ghế bành cũ kỹ, lưng ghế có thêu chỉ tơ, và mỗi lúc một ngả sát vào đó. ông tôi ngẩng đầu, ngước mắt nhìn trần nhà, rồi bắt đầu kể về cụ thân sinh ra ông tôi ngày trước, giọng khe khẽ và trầm ngâm.
-Một hôm, có bọn cướp đến Balakhơna ăn cướp nhà người lái buôn Zaiep. Cụ tổ của ông leo lên gác chuông và kéo chuông cáo động. Nhưng bọn cướp bắt được liền chém chết và ném xác từ gác chuông xuống đất.
-Khi đó ông còn nhỏ lắm và không được chứng kiến cảnh tượng ấy nên không nhớ. ông chỉ bắt đầu nhớ từ hồi quân Pháp đến, tức là từ năm 1812, năm đó ông cũng vừa vặn mười hai tuổi. Khi ấy người ta giải tới Balakhơna khoảng ba chục tên tù binh; tất cả bọn chúng đều gầy còm và nhỏ bé, ăn mặc rách rưới hơn lũ ăn mày. Chúng rét run cầm cập, một vài đứa bị tê cóng không đứng vững nữa. Những người mujich muốn đánh chết họ, nhưng lính đi áp giải không cho phép; đơn vị đồn trú tới bắt những người mujich phải giải tán về nhà. Sau rồi cũng chả sao cả, mọi người quên dần. Bọn Pháp này đều là những người khéo léo và nhanh trí, khá vui tính, thỉnh thoảng còn hát hỏng. Bọn quý phái ở Nijni đi xe tam mã đến xem tù binh. Có người thì chửi mắng, giơ nắm đấm hăm dọa và thậm chí đánh đập nữa, có người lại vui vẻ trò chuyện với chúng bằng tiếng Pháp, cho tiền và đủ thứ quần áo rách để chúng khỏi bị rét cóng. Có một lão quý tộc lại lấy bàn tay che mặt và khóc rưng rức nữa, cuối cùng lão ta nói: "Bônapactơ là tên tướng cướp đã đưa người Pháp đến chỗ khốn cùng!" Cháu xem, lão ta là một người Nga, lại là một nhà quý phái, thế mà lão cũng có lòng tốt, biết thương yêu người nước khác... ông tôi im lặng một lúc, mắt nhắm nghiền tay vuốt tóc, rồi tiếp tục kể, thận trọng hồi tưởng lại quá khứ:
-Mùa đông, bão tuyết rú lên ngoài đường phố, băng giá kẹp chặt lấy những căn nhà gỗ. Đôi lúc bọn người Pháp chạy đến gần cửa sổ nhà ông, tới chỗ bà cụ thân sinh ra ông, vì bà cụ nướng bánh bột mạch để bán. Họ gõ vào cửa kính, vừa nhảy vừa kêu và hỏi mua bánh nóng.
Bà cụ không cho chúng vào nhà, chỉ luồn bánh qua cửa sổ. Thế là chúng vội chộp lấy chiếc bánh nóng nhét vào ngực, áp thẳng vào da, ngay chỗ trái tim. Tại sao họ lại chịu được nóng như vậy, ông cũng không rõ nữa! Nhiều người bị chết rét vì chúng là dân xứ nóng, không quen chịu lạnh. Hai tên ở nhà ông, một tên sĩ quan và một tên lính cần vụ Mirôn, ở trong nhà tắm ngoài vườn. Tên sĩ quan gầy và cao, người chỉ có da bọc xương. Hắn mặc chiếc áo khoác của đàn bà chỉ ngắn tới đầu gối. Hắn rất hiền lành, nhưng nghiện rượu nặng. Mẹ ông nấu và bán rượu lậu nên hắn mua luôn. Khi nào rượu vào hắn hát nghêu ngao. Hắn học được ít tiếng Nga, thỉnh thoảng lại bập bẹ: "Xứ các anh không trắng, nó đen và hung ác!" Hắn nói sai nhiều, nhưng nghe cũng hiểu. Đúng như vậy: miền ngược nước ta khí hậu gay gắt, miền xuôi dọc theo sông Vonga khí hậu có ấm áp hơn, và ở bên kia biển Caxpiên hình như hoàn toàn không có tuyết. Cái đó thì có thể tin được: trong sách Phúc âm, trong sách chép chuyện ký lục và Thánh thi không hề nhắc tới mùa đông, nhắc tới tuyết. Chúa sống ở xứ đó... khi nào đọc xong Thánh thi ông cháu ta sẽ bắt đầu đọc sách Phúc âm. ông tôi lại im lặng như thiu thiu ngủ, suy nghĩ điều gì, liếc mắt nhìn qua cửa sổ, người như nhỏ bé lại và nhọn hoắt.
-ông kể nữa đi,
-tôi khẽ nhắc.
-ừ,
-ông tôi giật mình và bắt đầu nói,
-ông lại kể về bọn người Pháp nhé! Chúng cũng là những con người, không xấu xa gì hơn chúng ta, là những kẻ có tội. Đôi khi chúng gọi mẹ ông là "mađam, mađam",
-có nghĩa là bà quý tộc hay bà quý phái,
-nhưng "bà quý phái" ấy vừa mới vác ở cửa hàng bột về một bao bột nặng năm pút. Sức của bà cụ không phải là sức đàn bà. Năm ông hai mươi tuổi mà bà cụ túm tóc ông dễ như chơi, cháu nên nhớ dạo hai mươi tuổi ông không phải là tay yếu đâu nhé. Tên lính cần vụ Mirôn thích ngựa lắm. Hắn thường đi đến các nhà và ra hiệu xin được tắm rửa cho ngựa! Lúc đầu người ta sợ hắn làm hỏng ngựa, vì hắn là kẻ thù. Nhưng sau này chính những người mujich lại gọi hắn tới: "Lại đây, Mirôn!" Hắn mỉm cười, cúi đầu đi như một con bò đực. Tóc hắn màu hung gần như đỏ, mũi to, môi dày. Hắn khéo chăm sóc ngựa và chữa bệnh cho ngựa rất tài. Sau đó hắn làm nghề chữa bệnh cho ngựa ở đây, ở Nijni, nhưng rồi hắn bị điên và bị đội cứu hỏa đánh chết. Còn tên sĩ quan tới mùa xuân bắt đầu đau yếu và tới ngày lễ thánh Nikôla thì chết một cách âm thầm. Hắn ngồi suy nghĩ ở trong nhà tắm gần cửa sổ và cứ thế mà chết, đầu thò ra ngoài. ông tiếc hắn lắm và khóc trộm vì hắn là một người hiền lành, thường nắm tai ông và nói bằng tiếng Pháp với vẻ rất dịu dàng. ông không hiểu, nhưng rất thích! Sự dịu dàng của con người không thể mua ở chợ được. Hắn bắt đầu dạy ông tiếng Pháp, nhưng mẹ ông cấm và dẫn ông tới chỗ cha cố. Cha cố sai đánh ông và kiện tên sĩ quan. Hồi ấy người ta rất nghiêm khắc cháu ạ. Cháu không phải trải qua cái cảnh ấy. Nhiều người khác đã phải chịu những điều nhục nhã thay cháu, và cháu hãy nhớ lấy điều ấy! Chẳng hạn như ông, ông cũng đã từng chịu đựng như vậy... Trời tối. Trong bóng nhá nhem ông tôi trông to lớn một cách kỳ lạ, mắt sáng quắc như mắt mèo. Khi nói về chuyện người khác ông tôi thường nói khe khẽ, thận trọng, và có vẻ trầm ngâm, nhưng khi nói về mình thì rất hăng, lưu loát và có vẻ ba hoa. Tôi không thích ông tôi nói về bản thân, không thích những câu khuyên bảo vô hồi của ông: "Cháu nhớ lấy!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:27:18 | Xem tất
Cháu nhớ lấy điều ấy!" Một trong những cuốn sách được đưa vào Kinh thánh.
Nhiều điều ông tôi kể, tôi đã không muốn nhớ; nhưng dù ông tôi không khuyên bảo đi nữa thì nó vẫn cứ chôn sâu trong ký ức tôi như một cái dằm đau nhói. Không khi nào ông tôi kể chuyện cổ tích cả, chỉ kể toàn những chuyện đã từng trải và tôi nhận thấy ông tôi không thích những câu hỏi; vì vậy tôi kiên tâm hỏi ông:
-Thế thì ai tốt hơn: người Pháp hay người Nga, hở ông?
-ừ, làm sao mà biết được? Vì ông không trông thấy người Pháp họ sống ở nhà họ như thế nào,
-ông càu nhàu có vẻ tức giận và nói thêm:
-Con chồn hôi, khi ở trong hang của nó, cũng tốt...
-Thế người Nga có tốt không?
-Có người tốt, có người xấu. Thời nông nô người ta tốt hơn ngày nay, thời ấy người ta bị xích chân. Bây giờ mọi người đều tự do, chẳng ai trông cậy vào ai được cả. Tất nhiên, bọn quý tộc cũng không tử tế gì đâu, nhưng họ khôn ngoan hơn. Đây không phải là nói về tất cả bọn họ, nhưng nếu có một lão quý tộc nào tốt thì ai cũng thừa nhận! Cũng có tên ngốc nghếch như một cái bao tải, người ta muốn nhồi nhét gì vào trong, nó cũng cứ thế mang đi. Chúng ta có rất nhiều thứ vỏ; thoạt nhìn ta cứ tưởng là người, nhưng nhìn kỹ thì lại hóa ra là cái vỏ, rỗng ruột, vì ruột đã bị người ta khoét ăn hết rồi. Chúng ta cần phải được giáo dục, mài dũa trí lực, nhưng tìm đâu cho ra hòn đá mài thật sự?...
-Người Nga có mạnh không ông?
-Có những đại lực sĩ, nhưng vấn đề không phải là sức mạnh, mà là mưu trí. Dù có khỏe đến đâu chăng nữa thì cũng không thể khỏe bằng một con ngựa được.
-Thế tại sao người Pháp lại đánh nhau với chúng ta?
-ồ, chiến tranh là việc của nhà vua, chúng ta không thể hiểu được điều đó! Nhưng khi tôi hỏi Bônapactơ là ai, thì ông tôi trả lời làm tôi không tài nào quên được:
-Hắn là một tay ngang tàng, muốn chinh phục toàn thế giới để sau đó mọi người đều được sống bình đẳng, không cần đến chủ, không cần đến quan lại, nói tóm lại không có đẳng cấp! Chỉ khác nhau về tên tuổi, còn quyền lợi thì đều như nhau. Tôn giáo cũng chỉ có một thứ. Tất nhiên, đó là một sự ngu xuẩn: chỉ có giống tôm tép thì mới không thể phân biệt thôi chứ, còn giống cá thì cũng khác hẳn nhau: cá chiên không thể kết bạn với cá trê, cá xteclet không thể là bạn của cá mòi được. Nước ta cũng có những Bônapactơ kiểu ấy
-Xtêpan Timôfêep Razin, Emêlian Ivanôp Pugat, ông sẽ kể cho cháu nghe về họ sau... Đôi khi ông tôi im lặng ngắm tôi hồi lâu, mắt tròn xoe như mới thấy tôi lần đầu vậy. Cái đó làm tôi không thích. ông tôi không bao giờ nói với tôi về chuyện bố mẹ tôi cả.
Bà tôi thường đến dự những buổi trò chuyện này. Bà tôi khe khẽ ngồi vào góc nhà và yên lặng ngồi ở đó rất lâu, không để ai để ý đến mình. Rồi đột nhiên bà tôi hỏi, giọng dịu dàng uyển chuyển:
-ông còn nhớ dạo chúng ta cùng đi hành hương ở Murôm không? Dạo ấy kể cũng hay đấy chứ? Năm ấy vào năm nào nhỉ?... ông tôi suy nghĩ một lúc rồi trả lời rất đạo mạo:
-Tôi không nhớ rõ năm nào, nhưng hình như trước nạn dịch tả, năm người ta lùng bắt những người slôniet ở rừng ấy mà.
-Đúng rồi! Chúng ta chẳng sợ bọn họ là gì...
-Đúng thế! Tôi hỏi:
-Người slôniet là ai, và tại sao họ lại chạy vào rừng. ông tôi giải thích không được vui vẻ lắm:
-Người slôniet chỉ là những người mujich bỏ việc chạy trốn khỏi đất nhà vua và khỏi các nhà máy.
-Người ta lùng bắt họ như thế nào, hở ông?
-Thế nào à? Như là trẻ con chơi trò ú tim ấy: một số thì chạy trốn, một số thì đi tìm và bắt. Khi bắt được, người ta lấy roi mây đánh, rạch lỗ mũi và đóng dấu vào trán để trừng phạt.
-Tại sao vậy?
-Vì để trị tội. Đó là những việc phức tạp, không hiểu ai là kẻ có tội: người chạy trốn hay là kẻ lùng bắt...
-ông còn nhớ sau vụ cháy lớn không?
-Bà tôi lại hỏi. Vốn ưa những chuyện chính xác, ông tôi nghiêm khắc vặn lại:
-Vụ cháy lớn nào? Thế là mải nói chuyện cũ, ông bà tôi quên phắt cả tôi, giọng nói của ông bà tôi êm dịu và thánh thót đến nỗi đôi khi tôi có cảm tưởng như ông bà đang hát. Đó là một bài hát rầu rĩ nói về bệnh tật, về hỏa hoạn và đánh đập mọi người, về chết chóc bất ngờ và lừa đảo xảo quáệt, về những kẻ vô tội và bọn lãnh chúa độc ác.
-Chúng ta đã sống không phải là ít và đã được mắt thấy tai nghe không phải là ít,
-ông tôi khẽ lẩm bẩm.
-Phải chăng chúng ta đã sống không ra gì?
-Bà tôi nói.
-Chắc ông còn nhớ, sau khi đẻ con Varáa mùa xuân đẹp đẽ biết bao!
-Năm ấy là năm 1848, chính là năm có chiến dịch Hungari. Sau hôm lễ đặt tên cho nó thì bác Tikhôn bố đỡ đầu của nó phải ra trận.
-Bác ấy đi biệt tăm nhỉ.
-Bà tôi thở dài.
-ừ, bác ấy đi biệt tăm! Cũng từ năm ấy Chúa ban phúc lành cho nhà ta như nước chảy vào nhà vậy. Chà, cái con Vacvara...
-Thôi đủ rồi, ông ơi... ông tôi nổi nóng, cau mày lại:
-Sao lại đủ? Con cái mình nhìn về mặt nào thì chúng nó cũng chẳng ra làm sao cả. Thế thì công sức của chúng ta đổ đi đâu? Chúng ta muốn bỏ đầy cái giỏ của chúng ta, nhưng Chúa lại cho chúng ta cái giỏ thủng... ông tôi thét lên và chạy khắp phòng như người bị bỏng. ông tôi càu nhàu, vẻ đau đớn, rồi chửi bới con cái và giơ nắm đấm nhỏ bé gày guộc dọa bà tôi:
-Còn bà thì vẫn khoan thứ cho lũ kẻ cướp ấy đủ thứ, bà là kẻ đồng lõa của chúng, đồ phù thủy! ông tôi đau khổ đến tru tréo khóc lóc nức nở. ông tới chỗ góc nhà có tượng thánh và đấm thùm thụp vào bộ ngực gày gò của mình:
-Lạy Chúa, chẳng lẽ con có tội lỗi hơn những người khác ư? Vậy sao bắt con chịu đựng nhiều thế? Toàn thân ông tôi run run, cặp môi ướt đẫm long lên vì tức giận và hổ thẹn. Bà tôi ngồi trong bóng tối, im lặng làm dấu, sau đó bà tôi rón rén lại gần và khuyên nhủ:
-Tại sao ông lại buồn như thế? Chúa làm gì, Chúa đều biết cả. ông xem, có con cái nhà ai hơn con cái nhà ta đâu? ở đâu cũng thế thôi ông ạ, cũng cãi nhau, tranh nhau, đánh nhau. Cha mẹ nào cũng rửa tội mình bằng nước mắt, không phải chỉ có một mình ông đâu... Đôi khi những lời nói ấy làm cho ông tôi yên lòng. ông tôi mệt mỏi nằm vật xuống giường, không nói thêm gì nữa. Còn tôi và bà tôi thì lẳng lặng trở về buồng riêng ở gác thượng. Nhưng có một lần, bà tôi định tới gần để an ủi thì ông tôi quay ngoắt lại đấm mạnh vào mặt bà tôi. Lùi lại một bước, loạng choạng, đưa tay lên bưng miệng, rồi bà tôi trấn tĩnh lại và khẽ nói, vẻ bình tĩnh:
-A, đồ ngốc... Bà tôi khạc ra máu nhổ gần chân ông tôi, ông tôi giơ hai tay và hét lên hai lần:
-Cút ngay, không tao giết bây giờ!
-Đồ ngốc,
-bà tôi nhắc lại và lùi ra khỏi cửa. ông tôi liền nhảy bổ theo, nhưng bà tôi đã từ từ bước qua ngưỡng cửa và đóng sầm cửa lại.
-Cái mụ già kia,
-ông tôi thét lên, mặt đỏ bừng như cục than hồng, đứng ở khung cửa, lấy ngón tay cào cào vào gỗ. Tôi ngồi trên lò sưởi như thằng mất hồn. Tôi không tin những điều tôi vừa nhìn thấy: lần đầu tiên ông tôi đánh bà tôi trước mặt tôi... Hành động bỉ ổi đó đã để lộ một cái gì mới mẻ trong người ông tôi, đối với tôi không sao có thể dung thứ được, và hình như nó đã đè nặng lên tâm hồn tôi. Vẫn đứng bám chặt lấy khung cửa, ông tôi co dúm người lại và dần dần xám ngoét như bị tro phủ. Bỗng nhiên ông tôi đi ra giữa nhà, quỳ xuống, rồi không quỳ vững nữa, ngã giúi về đằng trước, tay đụng xuống sàn. Nhưng ông tôi thẳng người lên ngay và lấy tay đấm vào ngực.
-ôi, Lạy Chúa tôi... Tôi từ trên mặt lò sưởi ấm áp có lát gạch men tụt xuống như trượt trên băng và vội chạy đi ngay. ở trên gác, bà tôi đi đi lại lại trong buồng và đang súc miệng.
-Bà có đau không? Bà tôi đi tới góc nhà, nhổ vào thùng nước rác rồi bình tĩnh trả lời:
-Không việc gì, răng vẫn còn nguyên, chỉ bị rách môi thôi.
-Tại sao ông lại làm thế hở bà? Bà tôi nhìn qua cửa sổ ra đường phố và nói:
-ông nổi nóng, ông già rồi đâm ra khó tính khó nết, lại gặp toàn những chuyện không may... Cháu đi ngủ đi, đừng nghĩ đến chuyện ấy nữa, cầu Chúa phù hộ cho cháu... Tôi muốn hỏi thêm bà tôi một câu nữa, nhưng bà tôi quát lên, giọng nghiêm nghị khác thường:
-Có nghe tao bảo gì không, có đi ngủ không? Thằng này bướng thật... Bà tôi ngồi gần cửa sổ, mút môi và luôn miệng khạc nhổ vào khăn tay. Tôi vừa cởi quần áo ngoài vừa nhìn bà tôi: phía trên cái đầu đen của bà tôi, trong khung cửa sổ vuông xanh thẫm, lấp lánh các vì sao. Ngoài phố yên lặng, trong buồng tối om om. Khi tôi nằm xuống, bà tôi tới gần vừa khẽ xoa đầu tôi vừa nói:
-Cháu ngủ yên nhé, bà đi xuống chỗ ông... Cháu đừng thương hại bà, cháu yêu quý của bà, vì chính bà cũng có lỗi... Ngủ đi cháu! Bà tôi hôn tôi rồi đi ra. Tôi cảm thấy buồn rười rượi, tôi liền nhảy ra khỏi cái giường rộng êm ấm, tới bên cửa sổ, nhìn xuống đường phố vắng tanh, người lặng đi vì buồn bã không sao chịu nổi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:29:14 | Xem tất
Chương 6



Lại bắt đầu một cơn ác mộng nữa. Một hôm vào buổi chiều, sau khi uống trà, tôi cùng với ông tôi ngồi đọc Thánh thi, còn bà tôi thì rửa bát đĩa. Bỗng nhiên cậu Iakôp xộc vào phòng, đầu óc rối bù như một chiếc chổi nát. Không chào hỏi ai, cậu ném cái mũ lưỡi trai vào một góc nhà, vung tay, lắc đầu hăm hở nói thật nhanh:
-Bố ơi, Miska làm sao ấy, anh ấy làm náo động cả lên! Anh ấy ăn trưa ở nhà con, uống rượu say rồi bắt đầu giở trò điên rồ. Anh ấy đập vỡ bát đĩa, xé nát chiếc áo dài đen của người ta đặt, đập vỡ cửa kính, chửi con và chửi cả lão Grigôri. Anh ấy đang đi tới đây và dọa: "Tao sẽ vặt trụi râu, tao sẽ giết lão già!" Bố hãy coi chừng... ông tôi tì tay vào bàn, từ từ đứng dậy, mặt nhăn lại, nhăn đến tận mũi, trông khiếp sợ như một cái rìu.
-Bà có nghe thấy không?
-ông tôi hét.
-Bà nghĩ thế nào, hả? Con mình đẻ rứt ruột ra đang đến giết cha đấy! Cứ việc, đã đến lúc rồi, các con ạ... ông tôi đi đi lại lại quanh phòng, ưỡn thẳng người lên, lại gần cửa và vội ngoắc chiếc móc sắt nặng vào lỗ móc khóa, rồi quay về phía cậu Iakôp:
-Vẫn câu chuyện của hồi môn của con Vacvara mà chúng mày muốn nắm lấy chứ gì? Đây phần mày đây này! ông tôi gí củ tỏi vào gần mũi cậu. Cậu vội nhảy sang một bên, vẻ tức giận.
-Kìa bố, con có dính líu gì vào việc này đâu!
-Mày ấy à? Tao biết tỏng mày rồi! Bà tôi im lặng, vội vàng thu tách chén vào trong tủ.
-Con đến đây để bảo vệ bố...
-Thật à?
-ông tôi thốt lên, vẻ giễu cợt.
-Thế thì tốt lắm! Cám ơn cậu quý tử! Bà nó ơi, kiếm cái gì cho thằng cáo này: một cái que thông lò hay một cái bàn là cũng được! Còn mày, Iakôp Vaxiliep, khi nào thằng anh mày xông vào thì mày cứ việc lấy mà nện vào đầu tao!... Cậu tôi đút tay vào túi và đi vào một góc nhà.
-Nếu như bố không tin con...
-Tin mày à?
-ông tôi vừa giậm chân vừa kêu lên.
-Không, tao tin bất cứ một con vật nào, con chó, con nhím, nhưng còn mày thì phải chờ xem sao đã! Tao biết: mày đã cho thằng anh mày uống rượu say rồi xúi bẩy nó! Nào, bây giờ mày đánh đi! Đánh ai thì tùy mày chọn: đánh nó hay đánh tao... Bà tôi thì thầm bảo tôi:
-Cháu chạy lên gác ngồi ở cửa sổ coi. Khi nào thấy cậu Mikhailô ló đầu ra phố thì cháu chạy xuống đây ngay cáo cho bà biết! Đi mau lên... Vừa lo sợ người cậu cuồng bạo xông vào, vừa tự hào về nhiệm vụ mà bà tôi giao cho, tôi thò đầu ra ngoài cửa sổ, nhìn xuống đường phố. Đường phố rất rộng và phủ một lớp bụi dày; đá lát lộ ra qua lớp bụi như những cục u to xa xa phía bên trái, con đường chạy qua khe vực và dẫn tới quảng trường sxtrôjnaia. ở đấy có một tòa nhà màu xám có bốn tháp ở bốn góc
-nhà tù cũ
-đứng sừng sững trên nền đất sét; phong cảnh đó có một vẻ đẹp buồn buồn và rờn rợn. Nắm đấm để thòi ngón cái giữa ngón trỏ và ngón giữa (ý tục tĩu, khinh bỉ).
Phía bên phải, cách nhà tôi ba nhà, là quảng trường Xennaia, cuối quảng trường là một tòa nhà màu vàng của các tù khổ sai và chòi canh màu chì của sở cứu hỏa. Người lính gác của sở cứu hỏa xoay quanh cái chòi có lỗ nhìn, như con chó xoay quanh cái xích. Suốt cả quảng trường bị những khe vực cắt ra thành từng đoạn; ở đáy một cái khe có một vũng nước màu xanh nhạt. Xa nữa, về phía tay phải là cái đầm Điukôp mà trước kia, theo lời bà tôi kể, một hôm vào mùa đông các cậu tôi đã định dìm bố tôi xuống hố băng. Gần ngay trước cửa sổ là một cái ngõ san sát những ngôi nhà nhỏ màu sắc sặc sỡ; cuối ngõ là một ngôi nhà thờ to thấp lè tè gọi là nhà thờ Ba Giám Mục. Nếu nhìn thẳng sẽ thấy những mái nhà giống như những chiếc thuyền úp ngược nổi trên những lớp sóng của khu vườn xanh biếc. Hết bị những cơn bão tuyết mùa đông dài dằng dặc làm cho hao mòn lại bị những trận mưa liên miên của mùa thu rầu rãi, những ngôi nhà bạc màu của phố tôi phủ đầy bụi và nằm sát vào nhau như những kẻ hành khất đứng chầu trên bậc cửa nhà thờ. Chúng mở toang những chiếc cửa sổ ra với vẻ ngờ vực và hình như cũng cùng với tôi chờ đợi một người nào đó. Người qua lại thưa thớt, thong thả, như những con gián ngập ngừng trên tấm sắt trước lò. Một luồng hơi nóng ngột ngạt bốc lên chỗ tôi, sực mùi bánh nướng nhân hành lá và cà-rốt, một mùi tôi rất ghét và bao giờ cũng làm cho tôi ngao ngán. Buồn quá; một nỗi buồn đặc biệt, gần như không thể chịu nổi xâm chiếm tâm hồn tôi; ngực tôi như có một dòng chì nóng bỏng chảy vào, nó đè nặng từ bên trong như muốn phá vỡ lồng ngực, xương sườn. Tôi có cảm tưởng mình phồng to lên như cái bong bóng, và tôi cảm thấy chật chội trong gian buồng nhỏ bé này, dưới cái trần nhà giống như một cái nắp quan tài. Cậu Mikhain đây rồi. Cậu dừng lại ở góc ngõ, ở góc căn nhà màu xám và quan sát xung quanh. Cậu đã kéo mũ lưỡi trai sụp xuống tai, hai cái tai nhô lên. Cậu mặc chiếc áo vét màu hung và đi đôi ủng đầy bụi cao đến tận đầu gối.
Một tay nhét vào túi quần kẻ ô vuông, còn tay kia vuốt bộ râu cằm. Tôi không thấy rõ mặt cậu, nhưng cậu đứng nom như đang sửa soạn nhảy qua đường phố và dùng đôi bàn tay đen sịt đầy lông lá bám chặt lấy ngôi nhà của ông tôi. Đáng lẽ phải chạy xuống dưới cáo tin cậu đã đến, nhưng tôi không sao rời khỏi cửa sổ. Tôi thấy cậu đi rón rén qua đường như sợ bụi làm bẩn đôi ủng màu xám của cậu. Tôi nghe thấy cậu mở cửa quán rượu,
-cánh cửa kêu rít lên, kính rung lên lanh canh. Tôi vội chạy bổ xuống dưới nhà, gõ cửa phòng ông tôi.
-Ai đấy?
-ông tôi không mở, xẵng giọng hỏi.
-Mày đấy ư? Sao? Nó vào quán rượu à? Được, mày lại lên trên ấy đi.
-Lên đấy cháu sợ lắm...
-Kệ xác mày! Và thế là tôi lại ra đứng ở cửa sổ. Trời đã tối; bụi ngoài đường có vẻ dày thêm và đen hơn. Những vệt ánh sáng màu vàng lan rộng ra như những vết dầu tại các khung cửa sổ. ở ngôi nhà trước mặt có tiếng nhạc, từ nhiều dây đàn ngân lên một điệu buồn buồn và réo rắt. Trong quán rượu người ta cũng hát; khi cửa mở ra, một giọng mệt mỏi ồ ồ tràn ra đường phố. Tôi biết đó là giọng của lão ăn mày rậm râu chột mắt Nikituska; ở chỗ mắt phải lão là một cục than hồng, còn mắt trái thì nhắm tịt. Khi cánh cửa đóng lại, hình như có một nhát rìu chặt dứt bài hát của lão. Bà tôi ao ước được như lão ăn mày: khi nghe những bài hát của lão, bà tôi thở dài và nói:
-Lão thật là có phúc! Những bài thơ lão biết sao mà hay thế, kỳ diệu thế! Thỉnh thoảng bà tôi gọi lão vào sân. Lão ngồi ở bậc cửa tam cấp, tì vào gậy, rồi hát, kể chuyện. Còn bà tôi ngồi cạnh lão, nghe và hỏi:
-Khoan đã, có thực Đức Mẹ cũng đã ở Riazan không? Lão ăn mày trả lời, giọng trầm trầm và có vẻ tin chắc:
-Người ở khắp mọi nơi, ở khắp mọi tỉnh... Sự mệt mỏi nửa tỉnh nửa mê từ đường phố dâng lên, ép chặt và đè nặng lên trái tim, cặp mắt tôi. Giá bà tôi lên đây với tôi thì hay biết bao! Hay là ông tôi cũng được... Tôi nghĩ đến bố mẹ tôi: bố tôi là người thế nào? Tại sao ông tôi và các cậu tôi không thích bố tôi, còn bà tôi, bác Grigôri và mụ Epgênáa thì lại nói về bố tôi toàn những lời tốt đẹp như vậy? Và mẹ tôi bây giờ ở đâu? Càng ngày tôi càng nghĩ nhiều đến mẹ tôi, tôi đặt mẹ tôi vào trung tâm của mọi chuyện thần thoại và chuyện có thật do bà tôi kể. Việc mẹ tôi không muốn sống trong gia đình này lại càng đề cao người trong những mơ ước của tôi. Tôi tưởng tượng mẹ tôi hiện nay đang sống ở một quán trọ cạnh đường cái lớn với bọn chuyên cướp bóc những hành khách giàu có để chia của lấy được cho những người nghèo khổ. Có thể mẹ tôi đang sống trong rừng, trong hang động, tất nhiên, cũng với bọn cướp lương thiện, nấu ăn cho họ và canh giữ số vàng lấy được. Cũng có thể người đang đi chu du khắp thiên hạ để đếm xem có bao nhiêu kho tàng châu cáu trên trái đất này, như "công nương" Engalưtạêva cùng đi với Đức Mẹ. Đức Mẹ đã khuyên nhủ mẹ tôi như khuyên nhủ "công nương" vậy: Tên nô lệ tham lam kia hỡi! Mi thu sao hết nổi bạc vàng, Hết ngọc ngà trên khắp thế gian? Mi che sao được tấm thân trần trụi, Hỡi lòng tham vô đáy kia ơi
-Châu cáu nào che giấu nổi cho mi?...
Bà tôi cũng dùng những lời của "công nương" nữ tướng cướp đáp lại Người: Lạy Đức Mẹ, xin Người tha thứ Và rủ lòng thương kẻ lỗi lầm! Không phải vì mình mà con cướp bóc thế gian, Chính chỉ vì đứa con trai duy nhất!... Đức Mẹ, hiền từ cũng như bà tôi, bèn tha thứ cho mẹ tôi và nói: ôi, Mariuska, tai ương của Thiên chúa giáo! Trong người mi có dòng máu Tacta Thôi, mi cứ đi theo con đường đã tự vạch ra, Đường mi đi cũng sẽ là nước mắt mi đó! Mi hãy lên rừng tìm dân Morđvin mà cướp phá, Hãy tới thảo nguyên đuổi dân Kanmức đi xa, Nhưng đừng hòng đụng tới dân Nga... Nhớ lại những chuyện thần thoại ấy, tôi tưởng như mình đang sống trong giấc mơ. Nhưng tiếng chân dồn dập, tiếng om sòm, tiếng gào thét ở phía dưới sân làm tôi bừng tỉnh... Ló đầu ra cửa sổ, tôi thấy ông tôi, cậu Iakôp và người làm công trong quán rượu tên là Mỗlian -một gã Tsêrêmit dở hơi -đang đẩy cậu Mikhain qua cửa vườn ra đường.
Nhưng cậu khăng khăng một mực không chịu. Họ đấm vào lưng, vào cổ cậu, lấy chân đẩy cậu ra, và cuối cùng cậu ngã bổ nhào vào đám bụi ngoài đường phố. Cánh cửa con dập đánh sầm, chốt cửa và ổ khóa kêu lách tách. Chiếc mũ lưỡi trai nhàu nát vút qua cổng và tất cả lại trở nên yên tĩnh. Cậu nằm một lát rồi từ từ đứng dậy, quần áo tả tơi, đầu tóc rối bù. Cậu nhặt một hòn đá cuội và ném vào cổng; một tiếng ầm ầm phát ra như gõ vào đáy thùng. Một lũ người đen ngòm từ quán rượu xô ra, kêu thét lên, thở phì phì và hoa chân múa tay. Từ các cửa sổ những đầu người thò ra; phố xá náo nhiệt lên, tiếng cười, tiếng quát tháo nổi lên ầm ĩ. Tất cả cái đó cũng giống như một câu chuyện thần thoại lôi cuốn nhưng khó chịu và khủng khiếp. Bỗng nhiên tất cả như mờ đi, mọi người không nói nữa và biến mất. ... Bà tôi ngồi trên cái hòm cạnh ngưỡng cửa, người gập đôi lại, không động đậy và hầu như nín thở. Tôi đứng trước mặt, vuốt đôi má ấm dịu và ướt đẫm của bà tôi, nhưng có lẽ bà tôi không cảm thấy cái đó và rầu rĩ lẩm bẩm:
-Lạy Chúa, chẳng lẽ Chúa không có đủ lẽ phải để ban cho con và con cái của con hay sao? Lạy Chúa, xin Chúa thương xót chúng con...
Tôi cảm thấy tuy ông tôi mới ở phố Pôlêvaia chưa được hơn một năm -từ mùa xuân năm ngoái đến mùa xuân năm nay -nhưng trong thời gian ngắn ngủi Một dân tộc Phần-lan sống ở vùng Nijni -Nôpgôrôt. ấy nhà tôi đã nổi tiếng về chuyện nhộn nhạo. Hầu như chủ nhật nào bọn trẻ con cũng kéo nhau đến cổng nhà tôi, chúng lấy làm thú vị cáo tin cho bà con trong phố:
-Nhà Kasirin lại đánh nhau rồi! Thường thường cậu Mikhain đến vào buổi chiều và suốt đêm cậu vây giữ ngôi nhà làm cho những người sống ở trong đó đều khiếp sợ. Đôi khi cùng đi với cậu có hai ba kẻ a tòng, những tên du côn ở Kunavinô. Chúng từ khe vực lẻn vào vườn và ở đó chúng dở đủ mọi trò ngông cuồng của lũ nát rượu ra, có lần chúng nhổ bật những bụi cây phúc bồn tử lên. Có lần chúng phá phách nhà tắm, làm gẫy vỡ mọi thứ có thể phá hủy được: sàn nhà, ghế dài, chảo đun nước. Còn bếp lò thì chúng dỡ tung. Chúng tháo đi mấy tấm ván lát sàn, phá cánh cửa và khung cửa sổ. ông tôi câm lặng, đứng ủ rũ bên cạnh cửa sổ, lắng nghe bọn chúng phá phách của cải của mình. Còn bà tôi thì chạy lăng quăng ngoài sân, khuất trong bóng tối, song người ta nghe thấy giọng bà tôi vang lên, vẻ van lơn:
-Misa, mày làm gì thế, Misa! Một câu chửi đê tiện và ngu xuẩn của người Nga từ ngoài vườn dội vào đáp lại bà tôi. Có lẽ lý trí và tình cảm của bọn súc sinh vang ra câu chửi đó cũng không hiểu nổi ý nghĩa. Trong lúc này tôi không thể theo sau bà tôi, nhưng không có bà ở bên cạnh tôi cảm thấy rất sợ hãi. Tôi mon men xuống phòng ông tôi, nhưng vừa trông thấy tôi, ông tôi đã quát:
-Cút đi, thằng chết tiệt kia! Tôi bèn chạy lên gác thượng và qua lỗ mắt cáo, xuyên qua bóng tối của khu vườn và sân tôi cố gắng không rời mắt khỏi bà tôi. Tôi sợ người ta giết mất bà, tôi kêu, tôi gọi bà inh ỏi cả lên. Bà tôi không lên, còn cậu tôi đang say rượu nhận ra tiếng tôi liền chửi mẹ tôi một cách tục tằn và bỉ ổi. Có lần vào một buổi chiều như vậy, ông tôi ốm nằm liệt ở giường. ông vừa lăn đi lăn lại cái đầu quấn chiếc khăn mặt trên chiếc gối vừa kêu gào than thở:
-Chính vì chúng nó mà chúng ta đã sống khổ sống sở, đã mắc tội mắc nợ và đã cóp nhặt từng xu một! Nếu tao không sợ mất thể diện thì tao sẽ đi gọi cảnh sát tới và ngày mai sẽ đi gặp quan tổng đốc. Nhưng như thế thì nhục nhã biết bao! Có cha mẹ nào lại đi nhờ cảnh sát truy nã con cái không? Thôi thì thằng già này cứ việc nằm yên đây. Bỗng nhiên ông tôi buông chân từ trên giường xuống và loạng choạng đi ra cửa sổ. Bà tôi đỡ lấy tay ông tôi:
-ông đi đâu đấy?
-Bà đốt nến lên!
-ông tôi thở hổn hển, hít mạnh không khí và ra lệnh. Bà tôi đốt nến xong, ông tôi cầm lấy cái đế cắm nến giơ ra trước mặt như người lính cầm súng, rồi ông kêu tướng lên qua cửa sổ, giọng vẻ giễu cợt:
-Này, Miska, thằng trộm đêm, con chó dại, con chó ghẻ kia! Một miếng kính bên trên cửa sổ lập tức vỡ tan tành, bắn tung tóe và một miếng gạch nửa rơi ngay trên bàn, cạnh bà tôi.
-Không trúng rồi!
-ông tôi gầm lên và cười giống hệt như tiếng khóc nức. Bà tôi bế ông tôi đặt vào giường như bế tôi vậy. Bà tôi sợ hãi nói:
-ông làm trò gì thế, ông làm trò gì thế, cầu Chúa phù hộ ông! Thế này rồi nó cũng đến bị đầy đi Xibêri mất thôi! Lúc tức giận lên nó có hiểu Xibêri là cái quái gì đâu... ông vùng vằng và nức nở, giọng khàn khàn:
-Cứ để nó giết tao đi... Ngoài cửa sổ vẫn có tiếng hét, tiếng giậm chân và cào tường của cậu tôi. Tôi cầm miếng gạch ở trên bàn và chạy ra cửa sổ. Bà tôi kịp nắm lấy tôi, đẩy vào một góc, và kêu rít lên:
-A, thằng khốn kiếp... Lần khác, cậu tôi lăm lăm cầm một cái cọc to và nhọn, định tìm cách xông vào trong nhà. Cậu đứng ở cái bậc tam cấp đen sì và đập phá cửa. ở phía sau cửa ông tôi cầm chiếc gậy đứng đợi sẵn; ngoài ra còn có hai người thuê nhà cầm gậy gộc và vợ tên chủ quán người cao lớn cầm trục lăn giúp sức ông tôi. Bà tôi đứng đằng sau họ vừa giậm chân vừa van nài:
-Các người cứ để cho tôi ra gặp nó! Cho tôi nói với nó một lời... ông tôi đưa một chân ra phía trước như người mujich cầm ngọn giáo trong bức tranh "Săn gấu". Khi bà tôi chạy lại gần, ông tôi lẳng lặng dùng khuỷu tay và chân khẽ đẩy bà đi. Tất cả bốn người đứng im với tư thế sẵn sàng đánh nhau trông thật là khủng khiếp. Trên bức tường, le lói một ngọn đèn chập chờn chiếu lờ mờ xuống đầu họ. Từ trên thang gác tôi nhìn tất cả cảnh tượng đó và tôi muốn kéo bà tôi lên gác. Cậu tôi gắng sức phá cửa và đã gần được, cánh cửa lung lay, sắp sửa tách ra khỏi bản lề trên,
-bản lề dưới đã long ra và kêu ken két. ông tôi nói với các chiến hữu của mình cũng với cái giọng rít lên ken két như vậy:
-Xin bà con cứ việc nện vào chân vào tay cho, không nên nện vào đầu... ở bức tường cạnh cửa ra vào có một chiếc cửa sổ nhỏ vừa lọt đầu người. Cậu tôi đã đập vỡ mặt kính nên khung cửa nham nhở mảnh kính, trông đen ngòm như con mắt bị khoét thủng. Bà tôi lao tới chỗ đó, thò tay ra ngoài sân vừa vẫy vừa kêu:
-Misa, vì Chúa, mày cút ngay đi! Không có người ta đánh què bây giờ, cút ngay đi! Cậu tôi lấy cái cọc nện luôn vào tay bà tôi; tôi nom thấy rõ có một vật gì to to trượt qua cửa sổ và đập xuống tay bà tôi. Tiếp theo đó bà tôi khuỵu xuống, ngã vật ra, nhưng mồm vẫn kịp kêu:
-Misa, chạy đi...
-A, bà làm cái trò gì thế?
-ông tôi gầm lên dữ dội. Cánh cửa bật tung, cậu tôi nhảy xổ vào cái lỗ đen ngòm đó. Nhưng lập tức cậu tôi bị hất xuống chân bậc tam cấp như một xẻng bùn. Mụ chủ quán dìu bà tôi vào phòng ông tôi. Một lát sau ông tôi đã có mặt ở đó và cau có lại gần nói:
-Nó đánh bà gẫy xương à?
-ối, có lẽ bị gãy rồi,
-bà tôi nói, mắt vẫn nhắm nghiền.
-Còn nó thì thế nào rồi?
-Không lo!
-ông tôi nghiêm nghị kêu lên.
-Tao có phải là con thú dữ đâu? Người ta đã trói nó lại rồi, nó đang nằm ở dưới nhà kho ấy. Tao đã rẩy nước cho nó... Trời ơi, sao mà nó độc ác thế? Nó giống ai thế không biết? Bà tôi rên rỉ.
-Tôi đã cho người đi tìm mụ nắn khớp xương rồi, bà chịu khó một chút!
-ông tôi vừa nói vừa ngồi xuống giường bên cạnh.
-Chúng nó đến làm cho chúng mình chết sớm, chết trước tuổi mất, bà nó ạ!
-ông cứ đem chia tuốt của cải cho chúng nó...
-Thế còn con Vacvara? Hai ông bà nói chuyện lâu lắm: bà nói giọng khe khẽ và rên rỉ, còn ông thì quát tháo và có vẻ giận dữ. Sau đó một mụ già gù bé loắt choắt tới, cái miệng rộng đến mang tai, hàm dưới rung rung, mồm há hốc như miệng cá, cái mũi quắm nhòm vào chiếc mồm qua môi trên. Không nhìn thấy rõ cặp mắt của mụ. Mụ lê đi một cách khó nhọc, một tay chống gậy kéo rê trên sàn, còn tay kia xách một cái bọc nhỏ gì đó kêu lọc xọc. Tôi tưởng thần chết đến bắt bà tôi. Tôi chạy vội lại chỗ mụ và hét thật to:
-Cút ra ngay! ông tôi túm lấy tôi một cách thô bạo và lôi xềnh xệch lên gác thượng...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:32:00 | Xem tất
Chương 7


Tôi hiểu khá mau rằng ông tôi có một Chúa, còn bà tôi có một Chúa khác. Đôi khi ngủ dậy bà tôi ngồi trên giường và chải mái tóc rất dày của mình khá lâu. Bà tôi lúc lắc đầu, nghiến răng rứt từng mảng tóc đen nhánh, mượt như tơ, và chửi rủa thì thầm để tôi khỏi thức dậy:
-Chà, sao mày không rụng hết cả đi, tóc với tai chết tiệt ở đâu ấy...
Sau khi gỡ đám tóc qua quýt, bà tôi tết nhanh thành những bím tóc dày. Bà tôi rửa mặt vội vàng, thở phì phì, vẻ bực tức. Chưa rửa sạch nỗi tức giận khỏi khuôn mặt to lớn và nhăn nhó bởi giấc ngủ, bà tôi đã đứng trước những bức tượng thánh. Thế là lúc đó bắt đầu buổi lễ rửa tội ban mai thật sự khiến bà tôi lập tức tươi tỉnh hẳn lên. Bà tôi ưỡn thẳng cái lưng gù, ngả đầu về đằng sau và âu yếm nhìn khuôn mặt tròn trĩnh của Đức Mẹ Kazan. Bà tôi vừa vung rộng tay làm dấu rất thành tâm vừa nói thì thầm, giọng nồng nhiệt:
-Lạy Đức Mẹ Rất Thánh, xin Người hãy ban ơn lành trong ngày cho chúng con! Bà tôi cúi rạp xuống đất, sau đó từ từ ngẩng lên và lại thì thầm, giọng mỗi lúc một say sưa và xúc động hơn:
-Người là Nguồn vui, là Vẻ đẹp thanh khiết, là Cây táo nở hoa!... Hầu như sáng nào bà tôi cũng tìm thấy những lời ca tụng mới khiến tôi luôn luôn chú ý lắng nghe lời cầu nguyện của bà tôi.
-Hỡi Đức Mẹ của Chúa Lời. Đức Mẹ là trái tim trong trắng, siêu phàm, hằng che chở nâng đỡ con, Đức Mẹ là Mặt trời vàng ngọc của con, xin Đức Mẹ giữ gìn cho con trước mọi cám dỗ, đừng để cho con xúc phạm ai và cũng đừng để cho ai vô cớ xúc phạm đến con. Cặp mắt đen của bà tôi như mỉm cười và, như trẻ hẳn lại, bà tôi lại giơ cánh tay nặng nề làm dấu thật thong thả.
-Lạy Đức Chúa Giêsu, con Đức Chúa Lời, Người hãy rủ lòng thương xót một người đàn bà có tội, hãy vì Đức Mẹ của Người... Lời cầu nguyện của bà tôi bao giờ cũng là một lời cảm ơn, một lời ca ngợi chân thành và chất phác. Buổi sáng bà tôi cầu nguyện không lâu, vì còn phải đặt ấm xamôva. ông tôi không nuôi người ở nữa, và nếu đến giờ quá định mà vẫn chưa có nước trà là ông tôi tức giận chửi bới mãi. Có lần ông tôi dậy trước, bèn leo lên gác thượng thì bắt gặp bà tôi đang cầu nguyện. ông tôi lắng nghe lời thì thầm của bà tôi một lúc, cặp môi mỏng thâm sì trề ra có ý khinh bỉ. Đến lúc uống trà ông tôi càu nhàu:
-Tôi đã dạy bà phải cầu nguyện như thế nào bao nhiêu lần rồi, thế mà bà vẫn cứ lẩm bà lẩm bẩm theo ý bà tuốt, đồ dị giáo! Đầu óc cứ như là gỗ ấy! Chúa nào có thể chịu được bà!
-Chúa sẽ hiểu hết,
-bà tôi trả lời, vẻ tin tưởng.
-Bất kỳ nói với Chúa điều gì, Chúa cũng có thể hiểu...
-Đồ Tsuvasơ đáng nguyền rủa! ôi chao, lũ chúng bay... y... y thật là...
Suốt ngày, lúc nào Chúa cũng ở bên bà tôi, bà tôi nói về Chúa với cả súc vật nữa. Tôi thấy rõ ràng tất cả mọi vật: người, chó, chim muông, ong bướm và cây cỏ đều dễ dàng và ngoan ngoãn phục tùng Chúa của bà tôi. Chúa đối với mọi người, mọi vật trên trái đất đều tốt như nhau, đều thân thiết như nhau. Một hôm con mèo được nuông chiều của mụ chủ quán tha con sáo từ ngoài vườn về. Con mèo này rất ranh, tham ăn và khéo nịnh hót, lông xám, mắt vàng ánh, nó được cả nhà này và mụ chủ quán ưa thích. Bà tôi cầm lấy con chim bị thương và mắng con mèo:
-Mày không sợ Chúa à, đồ tàn ác hèn hạ! Mụ chủ quán và người gác cổng nghe bà tôi nói liền rũ ra cười, nhưng bà tôi giận dữ quát họ:
-Các người tưởng loài vật không biết Chúa là gì chắc? Mọi sinh vật đều hiểu Chúa không kém gì các người đâu, đồ nhẫn tâm. Khi thắng con ngựa Sarap béo phì, thấy nó có vẻ buồn buồn, bà tôi trò chuyện với nó:
-Mày là tôi tớ của Chúa, tại sao mày lại buồn? à phải, mày già lắm rồi... Con ngựa thở dài và lắc đầu. Mặc dù bà tôi ít nhắc đến Chúa hơn ông tôi, Chúa của bà tôi đối với tôi vẫn thật dễ hiểu và không đáng sợ, nhưng trước mặt Chúa thì không thể nói dối được, làm như thế thật là xấu hổ. Tôi sợ xấu hổ mỗi khi nói dối đến nỗi tôi không bao giờ nói dối bà tôi. Thật ra không thể giấu giếm nổi vị Chúa quá tốt này điều gì và ngay cả ý muốn giấu giếm tôi cũng không có. Một hôm, mụ chủ quán cãi nhau với ông tôi, mụ chửi ông tôi, tiện mồm chửi luôn cả bà tôi, mặc dù bà tôi không can dự đến vụ cãi nhau này. Mụ chửi một cách độc ác và ném cả củ cà-rốt vào người bà tôi.
-Này, thưa bà, bà là một con mẹ ngu ngốc
-bà tôi bình tĩnh nói với mụ, còn tôi thì rất tức và quáết định trả thù con mụ tàn ác ấy. Tôi vò đầu nghĩ mãi để tìm cách trả miếng thật đau cho cái con mụ béo cằm đôi, tóc hoe, chẳng trông thấy cặp mắt híp đâu cả. Tôi đã được thấy nhiều vụ xích mích giữa những người thuê nhà với nhau. Tôi biết mỗi lần trả thù nhau họ thường làm như sau: cắt đuôi mèo, cho chó ăn bả, đánh chết gà hoặc ban đêm lẻn vào hầm nhà kẻ địch, đổ dầu hỏa vào vại bắp cải và dưa chuột hay mở vòi thùng cơvat. Nhưng tất cả những thủ đoạn đó đều chưa vừa ý tôi; cần phải nghĩ ra một kế gì ghê gớm và khủng khiếp hơn thế. Tôi đã nghĩ ra: rình lúc mụ chủ quán xuống hầm nhà, tôi liền đóng ập cửa hầm và khóa lại. Tôi nhảy điệu múa cáo thù trên nắp hầm và vứt chìa khóa lên mái nhà. Xong đâu đấy, tôi chạy vội vào nhà bếp với bà tôi. Bà tôi đang nấu ăn, chưa hiểu ngay được nỗi vui sướng của tôi. Khi hiểu rõ câu chuyện, bà tôi liền phết vào đít tôi mấy cái, lôi tôi ra ngoài sân và bắt tôi leo lên mái nhà tìm chìa khóa. Tôi ngạc nhiên về thái độ ấy, lẳng lặng đưa cho bà tôi chiếc chìa khóa và chạy trốn vào một góc sân. Tôi thấy bà tôi giải thoát cho mụ chủ quán bị cầm tù, rồi cả hai người vừa đi ra sân vừa cười có vẻ thân mật.
-Rồi sẽ biết,
-mụ chủ quán giơ nắm đấm béo mập dọa tôi, nhưng khuôn mặt béo híp mắt của mụ lại mỉm cười hiền hậu. Bà tôi nắm lấy cổ áo tôi, dẫn tôi vào bếp và hỏi:
-Tại sao cháu lại làm như thế?
-Tại vì mụ ấy đã ném cà-rốt vào người bà...
-Thế nghĩa là vì bà mà cháu giam mụ ấy à? Ra thế đấy! Thằng ranh con, tao sẽ nhét mày xuống gầm lò sưởi với lũ chuột thì mày mới khôn ra được! Cũng đòi bảo vệ bà cơ đấy! Các người thử nhìn cái bong bóng này một tý kẻo nó vỡ mất bây giờ! Tao mà kể cho ông nghe thì cứ gọi là ông lột da mày ra cho mà xem! Cút lên gác thượng học đi... Cả ngày bà tôi không nói gì với tôi, nhưng đến tối, trước kia cầu nguyện, bà tôi ngồi ở mép giường và trịnh trọng nói những lời mà tôi không bao giờ quên được:
-Kiônka, cháu yêu của bà, cháu hãy nhớ kỹ lấy điều này: cháu không được dây vào việc của người lớn nhé! Người lớn thường hư hỏng. Họ đã bị Chúa thử thách, còn cháu thì chưa, -cháu hãy sống theo sự hiểu biết của trẻ con thôi. Cháu hãy chờ cho đến khi nào Chúa đụng đến tâm hồn cháu, bảo cháu làm gì, chỉ cho cháu con đường của cháu. Cháu hiểu chưa? Còn tìm xem ai có lỗi gì thì đó không phải là việc của cháu. Chúa sẽ xét xử và trừng phạt. Quyền ở Chúa, chứ không phải ở chúng ta! Bà tôi im lặng một lát, hít thuốc lá, khẽ nheo mắt phải, rồi nói thêm:
-Chính Chúa nhiều khi cũng không thể hiểu được lỗi ở ai nữa.
-Chẳng lẽ Chúa lại không biết được tất cả mọi việc ư?
-Tôi ngạc nhiên hỏi. Bà tôi khẽ trả lời, giọng buồn buồn:
-Nếu Chúa biết tất cả thì có lẽ nhiều chuyện người ta đã không làm như thế này. Cháu ạ, chắc là Chúa từ trên thiên đàng nhìn xuống dưới trần thế, xuống tất cả chúng ta, và có lúc Chúa đã phải than khóc: "Các người của ta ơi, các người thân yêu của ta ơi! ôi, ta thương hại các người lắm!" Chính bà tôi cũng khóc nức nở rồi không buồn lau cặp má ướt đẫm, bà tôi tới luôn góc nhà cầu nguyện. Từ đấy Chúa của bà tôi đối với tôi lại càng gần gũi và dễ hiểu hơn. Khi dạy tôi, ông tôi cũng nói rằng Chúa ở khắp mọi nơi, cái gì cũng biết, cái gì cũng thấy, Chúa sẵn sàng giúp đỡ mọi người trong bất kỳ việc gì, nhưng ông tôi cầu nguyện không giống bà tôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:34:06 | Xem tất
Sáng sớm, trước khi tới góc nhà, đến trước tượng thánh, ông tôi rửa mặt rất lâu. Sau đó ông ăn mặc cẩn thận, chải đầu vuốt râu gọn gàng và soi gương. Sau khi sửa gọn lại chiếc áo sơ-mi, cho chiếc khăn quàng đen vào trong áo gi-lê, ông tôi mới rón rén bước tới trước tượng thánh như làm một việc gì thầm vụng. Bao giờ ông tôi cũng dừng lại ở chỗ mắt một tấm ván, giống như mắt ngựa. ông tôi đứng yên lặng một lúc, cúi đầu, hai tay buông dọc theo người như một người lính. Sau đó ông tôi đứng thẳng, vóc người mảnh khảnh, và nói giọng trang nghiêm:
-"Nhân danh Cha và Con và Thánh thần!..." Tôi cảm thấy sau lời nói ấy gian phòng bỗng trở nên yên tĩnh lạ thường,
-ngay cả ruồi cũng vo ve dè dặt hơn trước. ông tôi đứng thẳng, ngẩng đầu, đôi lông mày rậm hơi xếch lên, dựng đứng, bộ râu cằm vàng ánh vểnh ngang ra. ông tôi đọc kinh mạch lạc như đọc một bài học thuộc lòng trơn tru, giọng vang lên rõ ràng và nghiêm khắc.
-"Chúa Phán xét sẽ đến, và hành động của mỗi người sẽ bị bóc trần..." ông tôi khẽ đấm vào ngực và van vỉ:
-"Con chỉ có tội đối với một mình Chúa thôi, -xin Chúa hãy ngoảnh mặt đi đừng nhìn vào tội lỗi của con..." ông tôi đọc "Kinh Lạy Cha" rành rọt từng tiếng một. Chân phải rung rung như lặng lẽ giậm theo nhịp cầu kinh, toàn thân rướn về phía tượng thánh, ông tôi như cao hơn, mảnh hơn và khô hơn. Trông ông tôi vừa sạch sẽ vừa chỉnh tề, tiếp tục giọng khẩn khoản:
-"Hỡi Đức Mẹ, Người đã sinh ra Đấng Cứu thế, xin Đức Mẹ hãy làm cho linh hồn con dịu bớt nỗi khổ triền miên! Luôn luôn con dâng Đức Mẹ những tiếng rên rỉ của tim con, xin Đức Mẹ hãy cầu xin cho con!" Và ông tôi cất cao giọng hơn nữa, cặp mắt xanh đẫm lệ:
-"Lạy Chúa, xin Chúa hãy đánh giá lòng tin của con chứ đừng để ý đến việc làm của con, vì những việc làm đó không thể biện hộ nổi cho con!" Rồi ông tôi làm dấu luôn tay và lúc lắc lia lịa, như muốn húc đầu vào ai, giọng rít lên và nức nở. Sau này đến nhà thờ Do Thái tôi mới hiểu rằng ông tôi cầu nguyện như người Do Thái. Chiếc xamôva đặt trên bàn đã sôi sùng sục từ lâu. Mùi bánh rán nóng với pho-mát tươi tỏa ra khắp phòng,
-chúng tôi đã đói! Bà tôi nhăn nhó đứng tựa lưng vào khung cửa và thở dài, mắt nhìn xuống sàn. ánh mặt trời tươi vui chiếu từ vườn vào cửa sổ; những giọt sương đọng trên cành cây long lanh như ngọc trai, không khí ban mai đượm mùi thìa là, phúc bồn tử, và mùi táo chín ngon lành. Nhưng ông tôi vẫn cầu nguyện, người đu đưa, giọng rít lên:
-"Chúa hãy dập tắt ngọn lửa khát vọng của con, vì con là một kẻ khốn khổ và bị nguyền rủa!"
Tôi đã thuộc lòng tất cả những lời cầu nguyện buổi sáng và buổi tối của ông tôi, nên tôi chú ý theo dõi xem ông tôi có lầm lẫn chỗ nào không, có bỏ sót tiếng nào không? Hiện tượng ấy ít khi xảy ra, nhưng nếu có thì tôi cảm thấy thích thú một cách ác ý. Cầu nguyện xong, ông tôi nói với tôi và bà tôi:
-Chào bà cháu mày! Chúng tôi chào lại và cuối cùng ngồi vào bàn. Khi ấy tôi mới nói với ông:
-Hôm nay ông quên mất chữ "hãy đánh giá"!
-Thật không?
-ông tôi hỏi, vẻ băn khoăn và hoài nghi.
-Đúng ông quên thật mà! Đáng lẽ phải nói: "Chúa hãy đánh giá lòng tin của con, chứ đừng để ý đến việc làm của con" thì ông lại không nói "hãy đánh giá".
-Thật à!
-ông tôi kêu lên, cặp mắt chớp chớp ra vẻ ngượng nghịu. Sau này ông tôi sẽ tìm cách nào đó để trả thù thật cay đắng vì lời chỉ dẫn đó cho mà xem, nhưng lúc này, nhìn thấy ông tôi lúng túng, tôi đắc ý không thể tả được. Có lần bà tôi nói đùa:
-ông này, có lẽ Chúa nghe mãi lời cầu nguyện của ông cũng phát chán,
-bao giờ ông cũng lắp đi lắp lại những lời lẽ như nhau thôi.
-Sao
-o?-ông tôi nói kéo dài có vẻ giận dữ.-Bà nói cái gì đấy?
-Tôi bảo là từ khi nghe ông cầu nguyện, tôi chưa bao giờ thấy ông nói với Chúa một lời nào thành khẩn từ đáy lòng mình cả! ông tôi đỏ bừng mặt, người run lên, nhấp nhổm trên ghế, vừa ném chiếc đĩa con vào đầu bà tôi vừa kêu rít lên như tiếng cưa vấp vào mắt gỗ.
-Cút đi, mụ phù thủy! Khi kể cho tôi nghe về sức mạnh vô tận của Chúa, bao giờ và trước tiên ông tôi cũng nhấn mạnh đến tính tàn bạo của Chúa: hễ người ta phạm tội là bị dìm chết, nếu còn phạm tội nữa thì bị thiêu chết, thành phố của họ bị phá hủy; Chúa lấy nạn đói và nạn dịch trừng phạt mọi người. Bao giờ Người cũng là thanh kiếm treo trên trái đất, là tai họa đối với kẻ có tội.
-Tất cả những người vi phạm luật lệ của Chúa đều bị trừng phạt, bị đau khổ hoặc bị chết!
-ông tôi vừa răn dạy vừa gõ ngón tay xương xẩu lên mặt bàn. Tôi khó lòng tin được Chúa là người tàn ác. Tôi nghi rằng ông tôi cố tình bịa ra những chuyện ấy để gây cho tôi lòng sợ hãi không phải đối với Chúa, mà là đối với ông tôi. Tôi liền hỏi thẳng:
-Có phải ông nói thế để cháu phải vâng lời ông không? ông tôi cũng đáp thẳng:
-Phải đấy! Nếu không, dễ cháu chịu vâng lời ông đấy hẳn?!
-Thế còn bà?
-Cháu đừng tin mụ già ngu dại ấy!
-ông tôi nghiêm nghị nói.
-Bà mày ngay từ hồi còn trẻ đã ngu dốt, bà không biết chữ lại kém thông minh. ông sẽ cấm bà nói với cháu về những việc lớn như vậy! Cháu trả lời ông xem nào: có bao nhiêu cấp thiên thần tất cả và nhiệm vụ của họ ra sao? Tôi đáp rồi hỏi luôn:
-Thế quan là người thế nào ông nhỉ?
-ồ, cháu chỉ luẩn quẩn thôi nào!
-ông tôi mỉm cười, mắt lim dim. ông tôi cắn môi suy nghĩ và miễn cưỡng giảng giải:
-Chuyện đó không dính líu gì với chuyện Chúa cả, quan chức là thuộc về người đời! Quan là người ăn pháp luật, họ ăn sống nuốt tươi pháp luật.
-Thế pháp luật là cái gì hở ông?
-Pháp luật là gì à? Đó là những tập quán,
-ông tôi nói vui vẻ và hào hứng hơn, cặp mắt thông minh sắc sảo long lanh
-Người ta sống chung với nhau và có một hôm nào đó họ thỏa thuận với nhau một điều gì đó tốt nhất, thế là chúng ta lấy cái đó làm tập quán và đặt thành quá tắc, pháp luật! Ví dụ như: trẻ con muốn rủ nhau một trò gì thì trước hết phải thỏa thuận với nhau xem chơi như thế nào, theo những quá tắc nào. Sự thỏa thuận như vậy tức là pháp luật.
-Còn quan là thế nào?
-Quan giống như một đứa đểu cáng, hắn vi phạm tất cả luật pháp.
-Để làm gì hở ông?
-Thôi, chuyện đó thì cháu không thể hiểu nổi đâu!
-ông tôi cau mày nghiêm nghị nói rồi lại răn dạy:
-Chúa ngự trị trên tất cả công việc của mọi người! Người ta muốn thế này thì Chúa lại muốn thế khác. Tất cả mọi thứ của con người đều không bền vững. Chúa chỉ thổi một cái là tất cả tan ra thành tro bụi. Có rất nhiều nguyên nhân khiến tôi chú ý đến chuyện quan lại nên tôi lại gạn hỏi cặn kẽ:
-Thế sao hôm nọ cậu Iakôp lại hát: Quan của Chúa là thiên thần sáng suốt, Quan của dân là nô lệ quỉ Xatăng! ông tôi nâng râu lên, nhâm nhấm nó và nhắm mắt lại, đôi má rung rung. Tôi hiểu rằng ông tôi đang cười thầm.
-Đem trói chân mày với thằng Iaska lại rồi đem quẳng xuống sông cho rảnh!
-ông tôi nói.
-Cậu mày không nên hát những bài ấy, còn mày cũng không nên nghe. Đó là những lời bông đùa của "những tín Đáng nhẽ nói là "Nakônôveđ" (nhà pháp luật) thì ông lão lại nói sai là "zakônôveđ" (người ăn pháp luật). đồ cũ" do những người dị giáo, những giáo đồ của phái Raskônnich bịa đặt ra. ông tôi có vẻ suy nghĩ và trông về phía xa, không nhìn tôi. Và ông tôi khẽ nói, giọng kéo dài.
-ôi chao, lũ chúng bay... y... thật là... Tuy đặt Chúa oai nghiêm lên cao hơn mọi người, nhưng cũng giống như bà, ông tôi cũng mời Chúa tham dự vào mọi công việc, và không những mời Chúa, mà còn mời rất nhiều thánh cùng tham dự. Hình như bà tôi không biết phần đông các thánh, trừ thánh Nikôla, Iuri, Frôn và Lavrơ, mặc dù các thánh rất tốt và gần gũi mọi người. Các thánh thường đi khắp xóm làng và thành thị, dự vào sinh hoạt của mọi người và có tất cả đặc tính của người trần. Các thánh của ông tôi hầu hết đều tử vì đạo. Họ đã đánh đổ các tượng thần, chống lại các vua chúa La Mã, và vì vậy mà bị tra tấn, lột da hay thiêu sống. Có lúc ông tôi ước mơ:
-Giá Chúa giúp tôi bán cái nhà này, dù chỉ được năm trăm bạc lãi thôi, thì tôi sẽ xin làm lễ tạ Thánh Nikôla! Bà tôi cười và bảo tôi:
-Thánh Nikôla nào lại đi giúp cái ông lão ngớ ngẩn ấy bán nhà bán cửa kia chứ! Làm như thánh Nikôla không có việc gì tốt hơn nữa hay sao ấy! Tôi đã giữ cuốn lịch giáo hội của ông tôi rất lâu, trong đó có những dòng chữ viết tay của ông tôi. ở trang đối diện với ngày kỷ niệm Thánh Joakim và Anna, ông tôi ghi bằng mực đỏ, nét chữ thẳng đứng: "Các vị thánh nhân từ này đã giúp tôi tai qua nạn khỏi". Tôi nhớ mãi cái "tai nạn" ấy. Vì muốn giúp đỡ các con làm ăn thua thiệt, ông tôi bắt đầu làm cái nghề cho vay nặng lãi và bí mật nhận cầm đồ. Có người nào đó tố cáo, và một đêm cảnh sát đột nhiên ập vào nhà khám xét. Lúc ấy cả nhà thật là ồn ào hỗn loạn, nhưng kết quả mọi việc đều bình yên vô sự. ông tôi liền cầu nguyện một mạch cho đến khi mặt trời mọc và sáng sớm hôm sau, có tôi ở đấy, ông tôi đã ghi những dòng chữ trên vào quyển lịch. Trước bữa ăn tối, hai ông cháu cùng đọc Thánh thi, sách lễ hoặc cuốn sách dày của Efrem Xirin ăn xong ông tôi lại cầu nguyện, lời sám hối buồn buồn của ông tôi vang lên hồi lâu trong cảnh yên lặng: "Lạy Chúa Cha ở trên Trời, con biết mang gì đến dâng Chúa vì Chúa đời đời hằng có và phép tắc vô cùng... Xin Chúa gìn giữ cho con trước mọi cám dỗ... Xin Chúa che chở cho con trước một số người... Xin Chúa ban cho con nước mắt và nhắc nhở con rằng con là một kẻ phàm trần..." Trái lại, bà tôi hay nói:
-ôi, hôm nay tôi mệt quá! Có lẽ tôi đi nằm chứ không cầu nguyện được... ông tôi thường dẫn tôi đi nhà thờ vào thứ bảy và ngày lễ để dự lễ tối. ở nhà thờ tôi đã phân biệt được khi nào người ta cầu nguyện vị Chúa nào: tất cả những lời mà cha cố và phụ lễ đọc là những lời cầu nguyện Chúa của ông tôi, còn ban hát lễ thì bao giờ cũng hát ca ngợi Chúa của bà tôi. Lẽ dĩ nhiên tôi phân biệt các Chúa rất đơn giản theo con mắt của trẻ con lúc bấy giờ. Tôi nhớ là sự phân biệt đó đã chia đôi tâm hồn làm cho tôi không yên lòng. Chúa của ông tôi đã làm cho tôi vừa ghét vừa sợ. Chúa không yêu ai cả và theo dõi mọi người bằng con mắt nghiêm khắc. Chúa tìm và nhìn thấy ở con người trước tiên là cái xấu, cái độc ác và tội lỗi. Rõ ràng là Chúa không tin ở con người, luôn luôn chờ đợi những lời sám hối và thích trừng phạt. Dạo ấy những ý nghĩ và tình cảm về Chúa là món săn tinh thần chủ yếu của tôi, là cái đẹp đẽ nhất trong cuộc sống của tôi, còn tất cả những ấn tượng tàn nhẫn và đê tiện khác chỉ làm cho tôi bị xúc phạm, gây nên một cảm giác ghê tởm và buồn bã. Chúa là cái gì tốt đẹp và trong sáng nhất trong thế giới chung quanh tôi, tôi nói đây là nói Chúa của bà tôi, người bạn hiền của mọi chúng sinh. Tất nhiên có một câu hỏi không thể không làm cho tôi băn khoăn: tại sao ông tôi không nhìn thấy vị Chúa vô cùng tốt lành này nhỉ? Tôi không được phép ra ngoài phố chơi, vì đường phố hay kích động tôi. Không những ấn tượng của đường phố làm cho tôi say sưa, và hầu như bao giờ tôi cũng là thủ phạm của những chuyện om sòm và những hành động bạo ngược. Tôi không kết bạn với ai cả, tụi trẻ con hàng xóm coi tôi như thù địch. Tôi không thích chúng gọi tôi là Kasirin, chúng biết thế nên lại càng hay gọi nhau:
-Trông kìa, thằng cháu lão Katsêi Kasirin đã ra kìa!
-Nện cho nó một trận! Thế là bắt đầu cuộc ẩu đả. So với bọn trẻ cùng lứa tuổi thì tôi vào loại khỏe và đánh nhau cũng tài,
-chính kẻ địch cũng phải thừa nhận điều đó nên chúng phải kéo bè kéo cánh mới dám tấn công tôi. Nhưng dù sao thì lũ trẻ con hàng phố cũng đè được tôi ra đánh. Mỗi khi về nhà, thường thường tôi bị chảy máu mũi, sứt môi hoặc mặt mày thâm tím, quần áo rách tả tơi và bê bết bụi. Bà tôi đón tôi vẻ sợ hãi, và nói, giọng thương xót:
-Mày lại đánh nhau đấy à, thằng ôn con? Như thế thì còn ra nghĩa lý gì nữa, hả! Mày xem đấy, nếu tao cũng dây vào thì... Bà tôi rửa mặt cho tôi, đắp miếng bọt bể, đồng xu đồng hoặc miếng băng có tẩm nước chì vào vết bầm rồi khuyên nhủ:
-Tại sao cháu cứ đánh nhau luôn mãi thế? ở nhà thì cháu hiền lành, thế mà hễ ra đường là khác hẳn! Cháu không biết xấu hổ à? Bà sẽ bảo ông không cho cháu ra đường nữa... ông tôi trông thấy những vết tím bầm của tôi, nhưng không chửi rủa bao giờ, chỉ hầm hừ và làu bàu:
-Mày đã lại được đeo mề đay rồi! Tao cấm mày không được chạy ra ngoài đường, nghe không, thằng Anika kia! Tôi không muốn ra ngoài đường lúc yên tĩnh, nhưng khi nào nghe thấy tiếng vui đùa ồn ào của lũ trẻ con là tôi chạy ra khỏi sân ngay, mặc dù ông tôi đã ngăn cấm. Những vết bầm và vết sây sát không làm cho tôi sợ; chính những trò đùa tai ác của lũ trẻ ở phố mà tôi đã quá quen thuộc bao giờ cũng làm tôi phẫn nộ, khiến tôi điên tiết lên. Tôi không thể nào chịu nổi khi lũ trẻ xuỵt chó cắn nhau hoặc gà chọi nhau, hành hạ mèo, đuổi dê của người Do Thái, chế giễu những người hành khất, say rượu và lão Igôsa chất phác, mệnh danh là "Thần Chết trong túi". Người lão cao, gầy gò và đen sạm, quanh năm mặc chiếc áo da cừu nặng trình trịch. Mặt lão xương xẩu, mốc thếch, tóc cứng quèo. Lão lom khom đi ngoài đường phố, bước loạng choạng, không nói không rằng, mắt cứ nhìn chằm chằm xuống đất. Lão có khuôn mặt đanh như gang và cặp mắt buồn buồn nhỏ tí khiến tôi vừa kính trọng vừa sợ hãi. Tôi có cảm tưởng rằng con người này đang loay hoay với những ý nghĩ gì quan trọng, đang tìm kiếm cái gì đó và không được quấy rầy lão. Bọn trẻ con chạy theo lão và ném đá vào cái lưng gù của lão. Hình như lão không thèm để ý tới bọn chúng và cũng không cảm thấy đau nữa. Nhưng đột nhiên lão đứng dừng lại, ngẩng đầu lên, bàn tay run run sửa lại chiếc mũ lông đội trên đầu rồi nhìn quanh như vừa sực tỉnh dậy.
-Igôsa, Thần Chết trong túi! Igôạ, đi đâu đấy? Hãy cẩn thận, Thần Chết Trong túi ấy!
-Bọn trẻ kêu ầm lên. Lão nắm lấy túi, sau đó cúi vội xuống đất nhặt một hòn đá, một thanh gỗ hay một nắm bùn khô. Lão vụng về vung cánh tay dài và lẩm bẩm chửi rủa. Bao giờ lão cũng chỉ dùng có ba tiếng khả ố nhất để chửi,
-về mặt này thì nhất định là bọn trẻ hơn hẳn lão. Đôi khi lão đuổi theo bọn chúng, chân đi khập khiễng, nhưng chiếc áo dài làm lão vướng chân không chạy được, lão ngã quỵ, bàn tay đen như cành cây khô chống xuống đất. Bọn trẻ con ném đá vào lưng, vào sườn lão, những đứa liều lĩnh nhất chạy đến sát người lão và trút vào đầu lão một nắm cát rồi bỏ chạy. Một ấn tượng khác ở ngoài phố có lẽ còn nặng nề hơn, đó là bác thợ cả Grigôri Ivanôvitạ. Bây giờ bác mù hẳn phải đi ăn xin. Bác cao lớn, chững chạc và câm Anika là một nhân vật trong thơ của tôn giáo nói về Anika và Thần chết. Anika cho mình là vô địch, đã chiến đấu đơn độc với Thần chết và đã thất bại. Trong bạch thoại thường dùng với nghĩa: "Một người bị đau khổ"..
Một mụ già nhỏ bé trông toàn một màu xám dắt tay bác. Mụ dừng lại dưới cửa sổ các nhà, không bao giờ nhìn thẳng, và cất giọng the thé kêu van:
-Vì Chúa, xin các ông các bà hãy bố thí cho kẻ mù lòa đói khát... Còn bác Grigôri thì đứng im lặng. Cặp kính râm của bác như nhìn thẳng vào tường nhà, vào cửa sổ và bộ mặt những người qua lại. Bác khẽ đưa cánh tay bị thuốc nhuộm ăn lên vuốt bộ râu xồm, nhưng cặp môi bác vẫn mím chặt lại. Tôi thường trông thấy bác luôn, nhưng không hề nghe thấy một tiếng nào thốt ra từ cái miệng mím chặt ấy. Sự im lặng của ông già đã làm cho tôi rất khổ tâm. Tôi không thể nào lại gần bác, không bao giờ đến gần bác. Trái lại, vừa trông thấy bác là tôi chạy vội về nhà bảo bà tôi:
-Bác Grigôri đang đi ở ngoài đường!
-Thật à?
-Bà tôi kêu lên với giọng thương hại và lo âu.
-Cháu cầm lấy cái này chạy mau ra đưa cho lão! Tôi từ chối, vẻ cục cằn và tức giận. Bà tôi bèn đi ra cổng và đứng ở vỉa hè nói chuyện với bác hồi lâu. Bác mỉm cười, chòm râu rung rung, nhưng bác nói rất ít và nhát gừng. Thỉnh thoảng bà tôi mời bác vào bếp, cho bác ăn uống. Có lần bác hỏi tôi đâu. Bà tôi gọi, nhưng tôi chạy nấp vào đống củi. Tôi không thể đến gần bác được; đứng trước mặt bác tôi cảm thấy xấu hổ không chịu nổi. Tôi biết bà tôi cũng xấu hổ như vậy. Chỉ có một lần tôi nói chuyện với bà tôi về bác Grigôri. Sau khi tiễn bác ra cổng, bà tôi lững thững quay vào sân, cúi đầu và khóc sụt sịt. Tôi lại gần và cầm lấy tay bà.
-Tại sao cháu lại chạy trốn lão?
-Bà tôi khẽ hỏi
-Lão yêu cháu, lão là một người rất tốt mà...
-Thế tại sao ông không nuôi bác ấy hở bà?
-Tôi hỏi lại.
-ông ấy à? Bà tôi đứng dừng lại, ôm ghì lấy tôi, nói với giọng tiên tri, gần như thì thầm:
-Cháu hãy nhớ lấy lời bà: Chúa sẽ trừng phạt ông bà một cách phũ phàng về tội đã đối xử với con người này như vậy! Nhất định sẽ trừng phạt... Bà tôi nói quả không sai. Khoảng mười năm sau, khi bà tôi đã vĩnh viễn yên nghỉ, chính ông tôi hóa điên đã đi ăn xin khắp các đường phố, van xin thảm thiết dưới cửa sổ các nhà.
-Các bác đầu bếp phúc đức ơi, xin các bác một miếng bánh, một mẩu bánh ngọt thì hơn!
-ôi chao, lũ các người

-ì thật là... Tôi chỉ còn nhớ mỗi cái câu chua xót kéo dài và kích động lòng người của ông tôi trước đây:
-ôi chao, lũ chúng bay... y... y thật là... Ngoài Igôsa và Grigôri Ivanôvitạ ra, có một mụ đàn bà phóng đãng khiến tôi không dám ra phố đó là mụ Vôrônikha. Cứ đến ngày lễ là mụ lại xuất hiện, to lớn, tóc rối bù và say bí tỉ. Mụ có lối đi rất đặc biệt như không động đậy chân, không chạm đất, mà chuyển động như một đám mây đen, mụ vừa đi vừa nghêu ngao những bài hát tục tĩu. Tất cả mọi người gặp mụ đều lẩn tránh vào các cổng nhà, góc tường hoặc cửa hiệu. Mụ đi đến đâu là như quét sạch người đến đấy Mặt mụ xanh xám, sưng húp như một cái bong bóng, cặp mắt xám to tướng tròn xoe nom thật buồn cười và khủng khiếp. Có lúc mụ vừa khóc vừa kêu:
-Các con ơi, các con ở đâu? Tôi hỏi bà tôi xem tại sao mụ lại nói như thế.
-Cháu không nên biết chuyện đó!
-Bà tôi trả lời vẻ rầu rĩ. Nhưng dù sao bà tôi vẫn kể vắn tắt: mụ ta trước đây lấy một lão viên chức tên là Vôrônôp. Tên này muốn được thăng quan tiến chức liền đem hiến vợ cho một tên quan trên của mình. Hắn đem mụ đi đâu không rõ. Mụ đi biệt nhà hai năm liền. Khi trở về thì hai đứa con của mụ
-một trai và một gái
-đều chết cả, còn chồng mụ vì lấy tiền nhà nước đi đánh bạc, thua cả nên bị bỏ tù. Thế là mụ khổ tâm quá đâm ra rượu chè, thích sống phóng đãng và hay phá rối. Mỗi ngày lễ cứ đến tối là cảnh sát lại lôi mụ về... ở trong nhà quả thật tốt hơn ra ngoài phố. Tôi thích nhất những giờ sau bữa ăn trưa, khi ông tôi đến xưởng nhuộm của cậu Iakôp, bà tôi ngồi bên cửa sổ kể cho tôi nghe những chuyện cổ tích rất hay và những chuyện khác, hoặc nói về chuyện bố tôi. Bà tôi cắt cái cánh gẫy của con sáo mà hôm trước bà tôi giằng lại được ở con mèo, thay rất khéo cái chân gẫy của nó bằng một cái chân gỗ nho nhỏ. Sau khi chữa cho con chim khỏi, bà tôi dạy nó nói. Có lúc bà tôi đứng hàng giờ trước cái lồng treo ở khung cửa sổ, trông giống như một con thú to lớn và hiền từ. Giọng trầm trầm, bà tôi nhắc đi nhắc lại cho con chim đen như hòn than có tài bắt chước thật nhanh:
-Nào, nói đi: "Cho sáo ăn bột!". Con sáo giương cặp mắt tròn xoe và linh hoạt của một nhà khôi hài nhìn bà tôi. Nó nhảy bằng cái chân gỗ trên đáy chiếc lồng mảnh dẻ, vươn cổ ra hót như con chim vàng anh, bắt chước chim cà cưỡng, chim cu cu, nó cố làm giọng mèo kêu, bắt chước tiếng chó sủa, nhưng vẫn chưa nói được tiếng người.
-Mày đừng làm trò ranh nữa!
-Bà tôi nghiêm trang nói với con sáo.
-Nói đi: "Cho sáo ăn bột!". Con khỉ có bộ lông chim đen kêu lên một tiếng chói tai, giông giống như lời bà tôi dạy nó. Bà tôi cười vui vẻ, giơ đầu ngón tay chìa cho con chim chút bột mạch và nói:
-A! Tao biết mày rồi, đồ láu cá, mày giả vờ. Cái gì mày cũng nói được, cái gì mày cũng biết! Thế là bà tôi dạy được con sáo biết nói. ít lâu sau, nó đòi ăn bột khá sõi, và hễ thấy bà tôi là nó kêu lên một tiếng kéo dài giống như tiếng "tà-ào
-bà
-ạ...". Lúc đầu lồng sáo treo ở phòng ông tôi, nhưng chẳng bao lâu ông tôi đuổi nó lên gác thượng với bà cháu tôi, vì con sáo đã học được trêu tức ông tôi. Lúc nào ông tôi đọc kinh mạch lạc thì con chim lại thò cái mỏ vàng vàng như sáp ong qua kẽ lồng và rít lên:
-Tiu, tiu-tiu irr, tu irr, ti irr, tiu-u, u! ông tôi bực mình lắm. Một hôm ông tôi nổi nóng ngừng cầu nguyện, giậm chân và thét lên dữ dội:
-Tống ngay con quỷ này đi, không tao giết chết nó bây giờ! Trong nhà có nhiều cái thú vị, nhiều trò vui, nhưng thỉnh thoảng một nỗi buồn không sao chịu nổi bóp nghẹt tâm hồn tôi. Toàn thân tôi như bị một cái gì nặng đè lên và tôi có cảm tưởng như mình sống khá lâu dưới một cái hố đen sâu thẳm. Tôi như mất hết cả thị giác, thính giác và mọi cảm giác, mù lòa và sống dở chết dở...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:35:11 | Xem tất
Chương 8



Ông tôi đột nhiên bán ngôi nhà cho lão chủ quán, sau khi tậu một ngôi nhà khác ở phố Kanatnaia. Phố này không lát đá, đầy cỏ mọc, sạch sẽ và yên tĩnh, chạy thẳng ra cánh đồng, hai bên có những dãy nhà nhỏ, sơn màu tươi tắn. Ngôi nhà mới tao nhã và đáng yêu hơn ngôi nhà cũ. Mặt chính diện sơn màu đỏ thẫm nồng ấm và thanh bình, ba chiếc cửa sổ màu xanh da trời và một chiếc cửa sổ gác thượng có chắn song nổi bật trên nền đỏ. Mái nhà bên trái có bóng cây du và bồ đề sum sê phủ lên trên rất đẹp mắt. Ngoài sân và trong vườn có nhiều xó xỉnh thuận lợi hình như cốt dùng để chơi trò ú tim. Đẹp nhất là khu vườn, tuy nhỏ, nhưng cây cối rậm rạp và chằng chịt trông hay hay. ở một góc vườn có căn nhà tắm nhỏ xinh như một đồ chơi. ở góc khác có cái hố to khá sâu mọc đầy cỏ dại, từ đám cỏ nhô lên những thanh gỗ to cháy dở, đó là vết tích của căn nhà tắm bị cháy trước đây. Phía bên trái khu vườn là vách chuồng ngựa của nhà viên đại tá ạpxiannikôp, phía bên phải là tòa nhà của Betleng.
Phía trong cùng khu vườn tiếp giáp với nhà cửa vườn tược của mụ bán sữa Pêtrôpna, một mụ béo như cái chuông có nước da đỏ hồng và tính nết ồn ào. Ngôi nhà nhỏ của mụ thấp lè tè trên mặt đất, vừa tối om om vừa cũ kỹ, rêu phong phủ kín. Hai chiếc cửa sổ hiền lành nhìn ra một bãi rộng có những khe sâu và những khu rừng xa xa trông như những đám mây xanh nặng trĩu. Suốt ngày bọn lính tráng chạy ngược chạy xuôi ở ngoài bãi; lưỡi lê sáng loáng dưới ánh nắng xiên của mặt trời mùa thu. Ngôi nhà này chật ních những người mà tôi chưa bao giờ thấy. Nửa phía trước có một lão nhà binh già người Tacta ở cùng với mụ vợ béo lùn; mụ này léo nhéo suốt từ sáng đến tối. Mụ cười cười nói nói luôn mồm, hay chơi cây đàn ghi-ta trang hoàng lộng lẫy và cất giọng lanh lảnh hát một bài ca sôi nổi: Yêu một nàng chưa thỏa, Nên kiếm thêm một ả! Phải biết tìm mới xong. Nếu anh đi đúng đường Tức khắc có phần thưởng, Phần thưởng chờ đợi anh ôi, phần thươ-ưởng ngo-on lành! Lão nhà binh người cũng béo tròn như quả cầu ngồi bên cửa sổ, khuôn mặt xám xanh căng phồng lên. Lão vui vẻ đảo đi đảo lại cặp mắt màu hung, hút liên miên tẩu thuốc và ho nghe kỳ quái như tiếng chó sủa:
-Vúc, vúc, vúc... Trong một gian buồng nhỏ ấm áp ở phía trên hầm nhà và chuồng ngựa có hai người đánh xe ngựa ở: một người bé nhỏ tóc xám, đó là bác Piôt, và đứa cháu câm của bác là Xtiôpa, một chàng trai có nước da bóng lộn và khuôn mặt giống như cái khay bằng đồng đỏ. Ngoài ra, anh lính cần vụ Valây cũng ở đó. Anh ta là người Tacta, thân hình cao lêu nghêu, tính tình không được vui vẻ. Tất cả những con người này đều mới lạ đối với tôi và hình như có rất nhiều điều bí ẩn. Nhưng đặc biệt có bác ở trọ "Tốt Lắm" đã lôi cuốn được tôi. Bác thuê gian phòng dài về phía sau ngôi nhà, cạnh bếp, có hai cửa sổ trông ra vườn và ra sân. Bác gầy còm, lưng gù, khuôn mặt trắng bệch, bộ râu đen sì tẽ ra làm đôi, cặp mắt đeo kính trông rất hiền từ. Bác lầm lì, ít người để ý đến. Mỗi khi mời bác ăn trưa hay uống trà, bao giờ bác cũng đáp:
-Tốt lắm! Thế là có mặt hay vắng mặt bác, bà tôi đều gọi bác là "Tốt Lắm".
-Liônka, cháu đi gọi bác Tốt Lắm tới uống trà! Bác Tốt Lắm, tại sao bác xơi ít thế? Khắp phòng bác chất ngổn ngang hòm xiểng cùng những cuốn sách dày in thứ chữ lạ, không phải chữ nhà thờ.. Chỗ nào cũng thấy những chai nước đủ các màu, những mảnh đồng và sắt, những thỏi chì. Suốt từ sáng đến tối bác mặc chiếc áo da màu hung đỏ, chiếc quần xám kẻ ô vuông. Toàn thân bác bê bết những màu và bốc ra một mùi khó chịu. Đầu tóc bác rối bù, dáng điệu vụng về. Bác nấu chì, hàn những mảnh đồng, vừa cân những cái gì trên chiếc cân nhỏ tí vừa làu bàu. Mỗi khi bị bỏng, bác rống lên như bò, vội vàng thổi vào đầu ngón tay. Thỉnh thoảng bác lại sẩy chân khi đi về phía những bức đồ án treo trên tường. Sau khi lau kính, bác ngửi những bức đồ án. Chiếc mũi mảnh dẻ, thẳng và trắng bệch của bác gần như đụng vào tờ giấy. Đôi khi đột nhiên bác dừng lại giữa phòng hay bên cửa sổ và đứng đó hồi lâu, mắt nhắm lại, mặt ngẩng lên; bác đứng im lặng như một bức tượng gỗ.
Tôi trèo lên mái nhà kho và nhìn xuống sân theo dõi bác qua chiếc cửa sổ để ngỏ. Tôi thấy ngọn lửa xanh của chiếc đèn cồn đặt trên bàn và cái thân hình đen đen của bác viết gì đó trong cuốn vở nhàu nát; cặp kính của bác ánh lên màu xanh nhạt và lạnh lùng như những mảnh băng. Công việc phù thủy của con người này đã giữ tôi hàng giờ trên mái nhà, và khêu gợi lòng hiếu kỳ của tôi thêm sôi sục. Đôi lúc bác đứng trong khung cửa sở, hai tay chắp sau lưng, nhìn thẳng lên mái nhà, làm như không nhìn thấy tôi; cái đó khiến tôi rất bực mình. Đột nhiên bác gập đôi người lại, nhảy về phía bàn và lục lọi cái gì đó. Tôi nghĩ nếu bác giàu có và ăn mặc sang trọng, thì tôi cũng sợ bác đấy. Nhưng bác rất nghèo: cổ áo sơ-mi bẩn thỉu và nhàu nát của bác lòi ra ngoài cổ áo vét, chiếc quần vá đầy vết bẩn, bác đi đôi giày vải mòn vẹt không có bít tất. Những người nghèo đều không đáng sợ và cũng không nguy hiểm; thái độ thương xót của bà tôi và thái độ khinh bỉ của ông tôi đối với họ đã vô tình làm cho tôi tin điều đó. Mọi người trong nhà không ai ưa thích bác Tốt Lắm, cả nhà nói về bác với vẻ chế giễu. Mụ vợ vui tính của lão nhà binh gọi bác là "cái mũi bằng phấn", bác Piôt gọi bác là "được tễ sư và thầy phù thủy", ông tôi gọi bác là "yêu thuật sư" và "facmaxôn".
-Bác ấy làm gì thế hở bà?
-Tôi hỏi bà tôi. Bà tôi nghiêm khắc đáp lại:
-Không phải việc của mày; im mồm đi... Một hôm tôi đánh bạo tới gần cửa sổ nhà bác và hỏi, cố giấu nỗi hồi hộp trong lòng:
-Bác làm gì đấy? Bác giật mình, nhìn tôi hồi lâu qua vành mắt kính và giơ cánh tay đầy vết lở loét và sẹo vì bỏng về phía tôi, rồi nói:
-Trèo vào đây... Bác không mời tôi vào qua cửa, mà bảo tôi trèo qua cửa sổ, điều đó làm cho tôi cảm thấy mến phục bác hơn. Bác ngồi xuống chiếc hòm, đặt tôi ngồi trước mặt, lúc thì đẩy tôi lui ra xa, lúc thì lại kéo dịch lại gần và cuối cùng bác hỏi khẽ:
-Cháu ở đâu đến? Câu hỏi đó thật là kỳ quặc, vì một ngày bốn bận tôi ngồi ăn trong bếp bên cạnh bác! Tôi đáp:
-Cháu là cháu của ông bà nhà này...
-A, phải rồi,
-bác vừa nói vừa nhìn ngón tay mình rồi im lặng. Lúc đó tôi thấy cần phải nói cho bác rõ:
-Cháu không phải trong họ Kasirin, mà là trong họ Pêskôp...
-Pêskôp
-bác nhắc lại không đúng trọng âm.
-Tốt lắm.
Bác đẩy tôi lui sang một phía rồi đứng dậy, vừa đi lại bàn vừa nói:
-Thôi, cháu hãy ngồi yên nhé... Tôi ngồi rất lâu xem bác lấy cái dũa dũa miếng đồng cặp chặt trong mỏ cặp, mạt đồng vàng ánh rơi xuống miếng bìa cứng. Bác bốc một vốc mạt đồng bỏ vào cái tách dày, cho thêm vào đó một ít bột trắng như muối đựng trong cái lọ con rồi rót vào một chất gì ở trong cái chai đen thẫm. Trong tách có tiếng nổ lép bép, khói bốc lên, mùi hăng hăng xộc vào mũi tôi. Tôi ho, lắc đầu, nhưng bác phù thủy ấy lại hỏi tôi với vẻ khoe khoang:
-Mùi khó ngửi à?
-Vâng.
-Đúng rồi! Cái đó rất tốt, cháu ạ! "Có thế mà cũng khoe!"
-Tôi nghĩ bụng và nghiêm khắc nói:
-Nếu đã là mùi khó ngửi thì không tốt rồi...
-Thế à?
-Bác thốt lên và nháy mắt
-Nhưng, cháu ạ, điều ấy không phải bao giờ cũng đúng! Thế cháu có biết chơi xương không?
-Có ạ.
-Cháu có muốn bác làm cho một bộ bằng chì không? Loại ấy đấu thì tốt lắm!
-Có ạ.
-Thế thì cháu hãy mang tới đây một bộ xương mẫu nhé! Bác lại đến gần chỗ tôi, vừa cầm chiếc tách bốc khói trong tay vừa dùng một mắt liếc nhìn vào đó, bác đến trước mặt tôi và nói:
-Bác sẽ làm cho cháu một bộ xương bằng chì, nhưng sau đó cháu đừng tới chỗ bác nữa. Đồng ý không? Lời nói đó làm tôi rất bực mình.
-Đã thế thì cháu sẽ không bao giờ đến đây nữa... Tức mình, tôi đi ra vườn. ông tôi đang loay hoay bón phân vào các gốc táo. Đang là mùa thu, lá cây đã rụng từ lâu.
-Lại đây, cháu xén cây phúc bồn tử đi,
-ông tôi nói và đưa kéo cho tôi. Tôi hỏi ông:
-Bác Tốt Lắm đang làm cái gì thế hở ông?
-Bác ấy làm hỏng cả căn phòng,
-ông tôi đáp với vẻ tức giận.
-Làm cháy thủng cả sàn, làm bẩn và bong cả giấy bồi tường. ông sẽ bảo bác ta dọn đi nơi khác mà ở!
-Cần phải làm như thế mới được,
-tôi tán thành và bắt đầu xén những cành phúc bồn tử khô. Nhưng tôi nói câu ấy quá vội vàng.
Những buổi tối mưa gió, nếu ông tôi vắng nhà, bà tôi thường tổ chức những buổi họp mặt vô cùng thú vị ở nhà bếp. Bà tôi mời tất cả mọi người trong nhà tới uống trà: hai bác cháu người đánh xe ngựa, anh lính cần vụ, mụ Pêtrôpna lúc nào cũng hoạt bát, đôi khi cả mụ vợ vui tính của lão nhà binh cũng đến, và bác Tốt Lắm bao giờ cũng đứng lì ở một góc gần lò sưởi, bác không nói không rằng và không nhúc nhích. Anh chàng câm Xtiôpa chơi bài với Valây; anh lính cần vụ người Tacta lấy quân bài đét vào chiếc mũ to bè của chàng câm và nói:
-Aô saitan! Bác Piôt thường đem đến một chiếc bánh mì trắng lớn và mứt "hạt quỳ" đựng trong một cái lọ lớn bằng sành. Bác cắt bánh mì ra thành từng khoanh, phết đầy mứt lên từng miếng rồi đặt những miếng bánh đỏ thắm ngon lành đó trên lòng bàn tay và cúi mời từng người một.
-Xin mời!
-Bác mời với giọng rất dịu dàng. Khi người ta đã cầm lấy bánh, bác chú ý nhìn lòng bàn tay đen sì của mình và nếu thấy một giọt mứt nào ở đó lập tức bác thè lưỡi liếm sạch. Còn mụ Pêtrôpna thì mang đến một chai rượu anh đào, mụ vợ vui tính của lão nhà binh thì mang hồ đào và kẹo đến. Thế là một bữa tiệc lớn bắt đầu. Bà tôi rất thích những cuộc vui như thế. ít lâu sau hôm bác Tốt Lắm đã mặc cả với tôi để tôi không đến thăm bác nữa, bà tôi tổ chức một tối vui như vậy. Ngoài trời mưa thu đổ xuống ào ào không ngớt, gió rít lên, cây cối xào xạc, cành cây quất sây sát cả tường. Trong nhà bếp ấm cúng, rất dễ chịu. Cả nhà ngồi quây quần bên nhau, mọi người đều yên lặng một cách đặc biệt thoải mái. Hôm đó, bà tôi hào hứng kể rất nhiều chuyện cổ tích, càng nghe càng thấy hay. Bà ngồi ở mép lò sưởi, dựa chân vào bậc lên, và cúi xuống chỗ đám người được ánh lửa của chiếc đèn con bằng sắt tây rọi sáng. Mỗi khi cao hứng bà thường trèo lên lò sưởi và giảng giải:
-Tôi phải nói từ trên cao xuống. Nói từ trên cao xuống vẫn tốt hơn. Tôi ngồi bên chân bà tôi, trên một bậc rộng, gần như ở trên đầu bác Tốt lắm. Bà tôi kể một câu chuyện rất hay về dũng sĩ Ivan và nhà ẩn sĩ Mirôn. Những lời ngọt ngào, xác đáng của bà tôi nhịp nhàng tuôn ra: Xưa có viên tướng dữ Gorđiôn, Lòng dạ tối tăm, tim rắn như đá, Ghét sự thật, hắn ưa trò hành hạ, Sống hung tàn như con cú hốc cây. Hắn điên cuồng ghét đắng ghét cay Nhà ẩn sĩ Mirôn bất khuất
-Người bảo vệ thiện căn và sự thật, Người một lòng vì thiên hạ quên mình. Viên tướng sai tên đày tớ trung thành Là Ivanuska
-dũng sĩ: Tiếng Tacta: "A, đồ ma quỷ!".
-Ivankô, ngươi hãy mang gươm quý Đi chém đầu lão Mirôn kiêu ngạo cho ta, Rồi tóm râu đem đầu lão về nhà, Ta sẽ quăng cho chó nhá! Dũng sĩ Ivan tuân lệnh chủ Vừa đi vừa suy nghĩ buồn rầu: "Việc này nào ta có muốn đâu? Cưỡng sao được mệnh trời phán bảo?" Ivan giấu thanh gươm sau vạt áo Đến cúi chào nhà ẩn sĩ Mirôn:
-Chào hiền nhân, bác có khỏe không? Chúa vẫn ban ơn cho bác chứ? Nhà tiên tri mỉm cười tư lự Trả lời y bằng lời lẽ sâu xa:
-Thôi đủ rồi, hỡi Ivanuskô, Ngươi che giấu làm gì sự thật? Mọi việc trên đời Chúa đều biết tất, Điều dữ, điều lành Người nắm trong tay. Ta đã biết vì sao ngươi đến nơi này! Nghe dứt lời, Ivanka xấu hổ, Nhưng y không dám cưỡng lời sai của chủ, Bèn rút gươm ra khỏi bao da, Lấy vạt lau, gươm sáng chói lòa.
-Bác Mirôn, tôi muốn giết bác Sao cho bác khỏi thấy thanh gươm sắc, Nhưng không ngờ bác đã biết trước rồi. Vậy bây giờ bác cầu Chúa đi thôi, Bác hãy cầu nguyện Người lần cuối Cho bác, cho tôi, cho cả loài người. Cầu nguyện xong tôi sẽ chặt đầu!... ông già Mirôn không chút lo âu, Lặng lẽ quì dưới cây sồi non trẻ, Cây sồi nghiêng mình chào nhà ẩn sĩ, ông già cười hiền hậu, bảo Ivan:
-Này Ivan, ngươi hãy coi chừng, Lời cầu nguyện cho loài người dài lắm! Tốt hơn hết đừng đợi chờ quanh quẩn, Đỡ mất công ngươi cứ giết ta ngay. Dũng sĩ Ivan giận dữ cau mày Và thốt lên lời khoe khoang ngu ngốc:
-Tôi chờ hàng trăm năm vẫn được! Bác cứ cầu nguyện đi, tôi đã nói là làm! Nhà ẩn sĩ cầu nguyện đến hoàng hôn,
Rồi từ hoàng hôn đến rạng sáng, Lại từ sáng đến nửa đêm thanh vắng, Từ mùa hè cầu nguyện đến mùa xuân. Ngày tháng qua, năm nối tiếp năm, Cây sồi non đã vươn lên trời thẳm, Quả sồi rụng đã mọc thành rừng rậm, Mà lời cầu thiêng vẫn cứ còn vang! Cho tới ngày nay lời cầu nguyện vẫn còn, ông già vẫn thở than cùng Chúa: Xin Chúa hãy giúp người nghèo khổ, Xin Đức Mẹ ban niềm vui sướng cho loài người. Còn dũng sĩ Ivan vẫn đứng, Lưỡi gươm sắc đã từ lâu thành bụi, Binh giáp gỉ tiêu, áo quần tan lụi, Hè qua đông, y vẫn đứng trần truồng. Nắng đốt thiêu, y vẫn đứng vững vàng, Muỗi hút máu, nhưng không sao cạn, Chó sói, gấu rừng không bén mảng, Giá băng, bão tuyết cũng không gần. Chính y cũng không nhắc nổi bước chân, Giơ không nổi tay, nói không nghe rõ, Chúa đã trừng phạt y như vậy đó! Hình phạt của y đã rõ ràng: Không được tuân theo lệnh bất lương, Không được nấp sau lương tâm kẻ khác! Còn lời cầu của ông già ẩn dật, Đến giờ đây còn văng vẳng tới Chúa Trời, Như một dòng sông trong vắt chảy ra khơi, Lời cầu nguyện cho chúng ta còn sống mãi! Ngay từ lúc bà tôi bắt đầu kể chuyện, tôi đã thấy bác Tốt Lắm có điều gì băn khoăn: hai tay bác cứ giật giật một cách lạ lùng, khi thì bác bỏ kính ra, khi thì đeo kính vào, khi thì vung vẩy theo nhịp điệu những lời nói du dương. Bác gật đầu, lấy đầu ngón tay khẽ ấn chặt lên mi mắt và luôn luôn dùng lòng bàn tay lau vội trán và má như là mồ hôi toát ra đầm đìa. Khi có người nào đấy động đậy, ho hoặc lê chân, bác lại khẽ kêu lên giọng nghiêm khắc:
-Suỵt! Lúc bà tôi vừa kể hết, bác đứng phắt dậy, vung vẩy tay và quay cuồng một cách không tự nhiên rồi lẩm bẩm:
-Các người nên biết, chuyện đó rất kỳ lạ, cần phải ghi lại, nhất định là phải ghi! Chuyện đó rất thực, đúng là chuyện của nước ta... Bây giờ rõ ràng là bác khóc, cặp mắt bác đầy lệ; lệ tuôn ra khắp xung quanh, cặp mắt tắm trong nước mắt. Cái đó thật kỳ lạ và trông rất đáng thương. Bác chạy đi chạy lại khắp nhà bếp, nhảy nhót trông vụng về và buồn cười. Bác vung vẩy kính trước cái mũi của bác, bác muốn đeo vào mắt, nhưng không làm sao móc nổi kính vào tai. Bác Piôt mỉm cười; và nhìn bác, tất cả mọi người ngượng ngùng im lặng, còn bà tôi thì nói vội vã:
-Xin cứ việc ghi, cái ấy không có tội lỗi gì cả. Loại chuyện như vậy tôi còn biết khối...
-Không, chính câu chuyện này cơ! Chuyện này mới thực là của người Nga,
-bác Tốt Lắm kêu lên vẻ xúc động. Đột nhiên bác dừng lại ở giữa nhà bếp và bắt đầu nói to, tay phải lia trong không khí, tay trái cầm chiếc kính run run. Bác nói rất lâu, giọng rít lên giận dữ. Bác khẽ giậm chân, luôn luôn nhắc đi nhắc lại độc có một câu:
-Không được sống theo lương tâm kẻ khác, phải, phải! Sau đó đột nhiên giọng bác đứt quãng, bác im lặng nhìn tất cả mọi người và lẳng lặng đi ra, đầu cúi gầm có vẻ hối lỗi. Mọi người đều mỉm cười, ngượng nghịu nhìn nhau. Bà tôi lùi sâu vào bóng tối phía trong lò sưởi, và thở dài một cách nặng nề. Mụ Pêtrôpna lấy tay lau cặp môi dày và đỏ rồi hỏi:
-Hình như bác ấy nổi nóng thì phải?
-Không phải,
-bác Piôt đáp.
-Tính bác ấy thế đấy. Bà tôi tụt xuống khỏi lò sưởi và lặng lẽ đun lại ấm xamôva, còn bác Piôt thong thả nói:
-Những ngài như vậy toàn là những người tính khí bất thường! Valây càu nhàu, vẻ khó chịu:
-Những kẻ chưa vợ thường hay vơ vẩn như vậy đấy! Mọi người đều cười, nhưng bác Piôt vẫn tiếp tục nói, giọng kéo dài:
-Đến nỗi phải khóc cơ à... Rõ ràng trước kia là một con cá măng, bây giờ thì chỉ còn là một con cá bống, mà chưa chắc... Tôi cảm thấy buồn rầu, sự chán nản ở đâu đến đè nặng lên tâm hồn tôi. Bác Tốt Lắm làm cho tôi rất ngạc nhiên, tôi thấy thương hại bác quá,
-cặp mắt đầm đìa lệ của bác như hiện lên rất rõ trước mặt tôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:36:46 | Xem tất
Đêm hôm ấy bác không ngủ nhà. Ngày hôm sau ăn trưa xong bác trở về. Quần áo nhàu nát hết cả, bác đã bình tĩnh lại và trông bác rõ ràng có vẻ ngượng nghịu.
-Hôm qua cháu đã làm ồn lên,
-bác nói với bà tôi, vẻ hối lỗi như đứa trẻ con.
-Cụ không giận chứ?
-Giận cái gì cơ?
-Giận cháu đã can thiệp vào những việc không dính líu đến cháu, đã nói quá lời?
-Bác không làm ai bực mình cả... Tôi cảm thấy bà tôi sợ bác, không nhìn thẳng vào mặt bác và nói rất khẽ, giọng khác thường. Bác tới sát bên bà tôi và nói rất tự nhiên:
-Cụ xem, cháu đơn độc một cách đáng sợ, cháu chẳng có một ai thân thiết cả! Im lặng, im lặng mãi, rồi đột nhiên trong lòng cứ như sôi sục và bùng ra... Lúc đo cháu sẵn sàng nói với cả hòn đá, cái cây... Bà tôi lùi lại để tránh xa bác ra.
-Bác phải lấy vợ đi...
-ôi!
-Bác thốt lên, nhăn mặt lại, xua tay rồi đi ra.
Bà tôi cau mày nhìn theo bác, hít một hơi thuốc lá và sau đó nghiêm khắc cấm tôi:
-Cháu coi chừng, không được quẩn quanh gần bác ấy; có mà trời biết được bác ta là người như thế nào... Nhưng tôi lại bị bác lôi cuốn. Tôi đã nhìn thấy sắc mặt bác biến đổi như thế nào khi bác nói câu "cháu đơn độc một cách đáng sợ". Trong lời nói đó có cái gì dễ hiểu đối với tôi, làm tôi cảm động, và tôi đã tìm đến bác. Tôi từ ngoài sân nhìn vào cửa sổ phòng bác; gian phòng trống trải và giống như gian nhà kho trong đó người ta ném vội vàng và bừa bộn những đồ vật linh tinh vô dụng, chúng cũng vô dụng và kỳ quái như chủ nhân chúng vậy. Tôi đi ra vườn và nom thấy bác ở đó. Lưng lom khom, tay ôm đầu, khuỷu tay chống vào đầu gối; bác ngồi chênh vênh ở đầu một cây gỗ bị cháy sém. Cây gỗ này bị đất phủ đầy, một đầu ánh lên màu than đen nhánh và nhô khỏi đám ngải cứu héo, gai và ngưu bàng. Ngay cái việc bác ngồi chênh vênh như vậy lại càng khiến tôi có cảm tình hơn đối với bác. Mãi bác không nhìn thấy tôi; cặp mắt đờ đẫn như mắt cú nhìn đi đâu xa. Sau đó đột nhiên bác hỏi có vẻ miễn cưỡng.
-Tìm bác à?
-Không.
-Thế thì lại đây làm gì?
-Không làm gì cả. Bác bỏ kính ra, lấy chiếc khăn mùi soa có những đốm đỏ đen ra lau kính và nói:
-Nào, ngồi xuống đây! Khi tôi ngồi bên cạnh bác, bác ôm chặt lấy vai tôi.
-Ngồi đây. Chúng ta sẽ ngồi im lặng. Được không? Như thế đấy... Cháu bướng lắm phải không?
-Vâng.
-Tốt lắm!
Chúng tôi ngồi im lặng rất lâu. Buổi chiều tĩnh mịch và êm dịu. Đó là một trong những buổi chiều đầu thu buồn bã, khi cảnh vật muôn màu xung quanh phôi pha rõ rệt, mỗi giờ phút lại một mờ nhạt thêm; đất đã cạn hết cả hương thơm mùa hè phong phú của nó và chỉ còn tỏa ra mùi ẩm ướt lạnh lẽo; không khí trong suốt lạ kỳ, trên bầu trời hồng hồng bóng quạ đen bay hối hả, gây nên những ý nghĩ không vui. Tất cả đều lặng lẽ như tờ. Mỗi một tiếng động -tiếng cánh chim sột soạt, tiếng lá rụng xào xạc đều vang lên một cách lạ lùng khiến cho người ta phải rùng mình sợ hãi; nhưng sau đó lại im phăng phắc; sự yên lặng đã bao trùm cả trái đất và choán lấy lồng ngực. Trong những giờ phút như vậy đã nẩy ra những ý nghĩ rất thanh khiết và cao nhã, nhưng chúng mỏng manh và trong suốt như mạng nhện, khôn tả được bằng lời. Chúng lóe lên trong chốc lát và biến mất rất mau như những ngôi sao đổi ngôi, chúng nung nấu trong lòng một nỗi buồn, chúng vừa êm dịu vừa làm cho người ta xao xuyến, khiến cho tâm hồn sôi sục, tan ra như thép chảy, dần dần bắt lấy khuôn khổ vĩnh viễn; ấy những đường nét của tâm hồn đã tạo thành như vậy đó. Tôi nép vào bên sườn ấm áp của bác Tốt Lắm và cùng với bác nhìn bầu trời đỏ thắm qua những cành táo đen đen, theo dõi những con chim khuyên bay nhộn nhịp, nhìn những con chim kim oanh rỉa ngọn cây ngưu bàng khô để kiếm những hạt chát. Từ cánh đồng, những đám mây lờm xờm xanh biếc viền màu đỏ thắm đang từ từ bay tới; dưới đám mây, đàn quạ nặng nề bay về tổ trong nghĩa địa. Thật là đẹp và không hiểu tại sao đối với tôi tất cả hình như dễ hiểu hơn và gần gũi hơn thường ngày. Thỉnh thoảng bác thở dài và hỏi tôi:
-Đẹp không cháu? Đẹp thật! Cháu có thấy ẩm không? Có lạnh không? Bầu trời trở nên đen sẫm và mọi vật xung quanh như phồng to lên, bóng tối mờ mịt ẩm ướt tràn đến. Bác Tốt Lắm nói:
-Chúng ta đi về thôi! Đi... Tới cửa vườn, bác dừng lại và nói rất khẽ:
-Bà cháu rất tốt,
-ôi, đất nước chúng ta thật là tuyệt diệu! Bác nhắm mắt, mỉm cười và đọc khe khẽ, nhưng rất rõ ràng: Hình phạt của y đã rõ ràng: Không được tuân theo lệnh bất lương, Không được nấp sau lương tâm kẻ khác!...
-Cháu hãy ghi nhớ lấy điều ấy, cần phải nhớ rất kỹ! Bác đẩy tôi về phía trước và hỏi:
-Cháu có biết viết không?
-Không ạ.
-Phải học đi. Cháu phải học thông viết thạo để ghi lại những chuyện mà bà cháu kể, cái đó rất có ích, cháu ạ...
Chúng tôi kết thân với nhau. Từ hôm ấy lúc nào tôi muốn đến chỗ bác Tốt Lắm cũng được. Tôi ngồi trên chiếc hòm có lót mảnh giẻ rách và tha hồ tự do theo dõi bác nấu chì, nung đồng; sau khi nung đỏ, bác lấy chiếc búa nhẹ có cán đẹp rèn những tấm sắt trên cái đe nhỏ, bác còn dùng bàn mài, dũa, đá nhám và cái cưa mỏng dính như sợi chỉ. Bác luôn luôn cân các thứ trên chiếc cân bằng đồng rất nhậy. Bác pha các chất lỏng khác nhau vào những chiếc tách dày màu trắng rồi nhìn chúng bốc khói và tỏa đầy phòng mùi hăng hăng. Bác nhăn mặt cắn đôi môi đỏ nhìn vào cuốn sách dày và lẩm bẩm những gì không rõ hoặc kéo dài giọng khàn khàn khẽ ngâm: ôi, hoa hồng của Xarôn...
-Bác làm cái gì thế?
-Làm cái này, cháu ạ...
-Cái gì cơ?
-A -a, cháu thấy đấy, bác không biết nói thế nào để cháu hiểu...
-ông cháu bảo có lẽ bác làm tiền giả...
-ông à? ... Hừm! ông chỉ nói bậy thôi! Tiền, cháu ạ, chỉ là thứ không đáng kể...
-Nhưng lấy gì để mua bánh mì?
-Đúng, cháu ạ, mua bánh mì phải trả tiền, cháu nói phải...
-Bác thấy không! Mua thịt bò cũng phải...
-Mua thịt bò cũng... Bác khẽ cười rất đáng yêu, bác cù sau tai tôi giống như tôi là một con chó con và nói:
-Bác không làm sao có thể tranh cãi nổi với cháu. Cháu động nói là làm cho bác câm như hến. Tốt hơn cả là chúng ta cùng im lặng... Thỉnh thoảng bác tạm ngừng công việc và đến ngồi bên cạnh tôi. Chúng tôi nhìn rất lâu ra cửa sổ xem mưa rơi trên mái nhà, rơi xuống sân mọc đầy cỏ, xem những cây táo trụi lá xơ xác hẳn đi. Bác Tốt Lắm rất hà tiện lời nói, nhưng bao giờ cũng nói những lời cần thiết. Thường thường mỗi khi muốn làm cho tôi chú ý đến cái gì, bác khẽ hích tôi và nháy mắt làm hiệu. Riêng tôi thì không nhìn thấy cái gì đặc biệt ở ngoài sân cả, nhưng do những cái hích tay và do những lời nói vắn tắt ấy, tất cả những cái tôi nhìn thấy như có ý nghĩa đặc biệt, tất cả đều in sâu vào trí nhớ tôi. Như khi thấy một con mèo chạy ra ngoài sân, dừng lại trước vũng nước trong và nhìn cái bóng phản chiếu của nó rồi giơ cái chân mềm mại như muốn đánh cái bóng đó, -bác Tốt Lắm khẽ nói:
-Giống mèo vừa kiêu ngạo vừa đa nghi... Con gà trống Mamai màu hung và vàng óng bay lên đậu ở hàng rào ngoài vườn, vỗ cánh và suýt nữa thì ngã; nó bực mình, vươn cái cổ dài ra, tức giận kêu cục cục.
-Vị tướng này có vẻ tự phụ, nhưng không thông minh lắm... Anh chàng Valây vụng về bước trên bùn trông nặng nề như một con ngựa già. Bộ mặt có đôi gò má cao của anh như sưng lên. Anh khẽ nheo mắt, nhìn lên trời: một tia nắng mùa thu trăng trắng chiếu thẳng lên ngực anh, làm chiếc khuy đồng trên áo sáng rực lên. Anh chàng người Tacta này đứng dừng lại và lấy những ngón tay cong cong sờ vào chiếc khuy.
-Hệt như hắn vừa được hưởng chiếc mề-đay. Hắn đang ngắm nghía... Tôi gắn bó với bác Tốt Lắm rất mau và rất mật thiết. Bác trở thành cần thiết đối với tôi trong những ngày tủi nhục đắng cay cũng như trong những giờ phút vui sướng. Bác tuy lặng lẽ, nhưng không cấm tôi nói tất cả những gì nảy ra trong đầu óc tôi, còn ông tôi bao giờ cũng ngắt lời tôi bằng một tiếng quát nghiêm khắc:
-Không được nói ba hoa, thằng bẻm mép này!
Còn bà tôi cũng đã có nhiều điều tâm sự lắm rồi nên bà tôi không muốn nghe và không muốn tiếp thu của người khác nữa. Bác Tốt Lắm bao giờ cũng chú ý nghe câu chuyện huyên thiên của tôi và đôi khi mỉm cười nói với tôi:
-Không phải thế, cháu ạ, đó là cháu bịa ra... Những lời nhận xét vắn tắt đó của bác bao giờ cũng đưa ra đúng lúc và rất cần thiết. Hình như bác nhìn thấy hết tất cả những gì xảy ra trong lòng và trong đầu óc tôi, đoán được tất cả những lời nói thừa và nói dối tôi sắp nói ra. Bác nhìn thấy hết và thường dùng một câu thân mật để cắt đi:
-Chú mày chỉ nói láo! Tôi thường có ý thử tài yêu thuật này của bác; có lần tôi bịa ra một chuyện và kể y như thật, nhưng bác vừa mới nghe một tí đã lắc đầu tỏ vẻ không tin:
-Hầy, chú mày chỉ nói láo...
-Thế tại sao bác biết?
-Vì bác thấy rất rõ. Mỗi lần đi ra quảng trường Xennaia lấy nước, bà tôi thường cho tôi đi theo. Một hôm chúng tôi trông thấy năm tên tiểu thị dân đánh một người mujich: họ quật anh ta xuống đất rồi xâu xé như một đàn chó cắn lẫn nhau. Bà tôi vội đặt thùng nước xuống, vừa vung vẩy đòn gánh, chạy về phía bọn kia vừa quay lại phía tôi và kêu:
-Cháu chạy đi! Nhưng tôi sợ hãi, chạy theo bà tôi và lấy sỏi đá ném vào bọn kia, còn bà tôi can đảm lấy đòn gánh thúc vào chúng, đập vào vai, vào đầu chúng. Thêm một đám người nữa ập tới, bọn kia bỏ chạy. Bà tôi rửa ráy cho người bị đánh; bộ mặt của anh ta bị giày xéo lên. Bây giờ tôi vẫn còn thấy ghê tởm cảnh anh ta lấy ngón tay bẩn bịt lỗ mũi bị rách, rồi vừa la hét, vừa ho; máu từ dưới ngón tay anh phun vọt vào mặt, vào ngực bà tôi. Bà tôi cũng kêu la, toàn thân run bắn lên. Khi trở về nhà, tôi liền chạy tới chỗ bác Tốt Lắm và kể lại câu chuyện này cho bác nghe. Bác vứt bỏ công việc đấy và đứng trước mặt tôi, giơ chiếc đũa dài như một thanh gươm và nghiêm nghị nhìn tôi trừng trừng, dưới cặp mắt kính. Sau đó đột nhiên bác ngắt lời tôi và nói giọng đầy ngụ ý khác thường:
-Phải, mọi việc đều phải làm như thế mới được! Tốt lắm! Đang bị xúc động bởi những điều mắt thấy tai nghe, tôi không kịp kinh ngạc về những lời của bác và tiếp tục nói; nhưng bác ôm lấy tôi và đi đi lại lại trong phòng, thỉnh thoảng lại vấp, rồi nói:
-Thôi, đừng nói nữa! Cháu ạ, cháu đã nói hết cả những điều cần nói rồi
-hiểu chưa? Hết cả! Tôi bực mình im lặng, nhưng sau khi suy nghĩ, tôi hết sức ngạc nhiên, ngạc nhiên đến không sao quên được và hiểu rằng bác đã chặn tôi rất kịp thời; thực ra tôi đã nói hết cả rồi.
-Cháu ạ, cháu đừng chú ý đến những chuyện đó làm gì. Chuyện đó không đáng nhớ!
-Bác nói thêm. Đôi lúc đột nhiên bác nói với tôi những lời mà suốt đời tôi không thể quên được. Tôi kể cho bác về địch thủ của tôi là Kliusnikôp, một thằng béo tốt, đầu to, một đứa hay đánh nhau ở phố Nôvaia. Tôi không thể thắng nó trong lúc đánh nhau, và nó cũng không thắng nổi tôi. Bác Tốt Lắm chú ý nghe những lời than phiền của tôi và bảo:
-Đó chỉ là việc nhỏ mọn! Như thế không phải là khỏe. Muốn khỏe thật sự thì phải nhanh nhẹn. Động tác càng nhanh bao nhiêu thì càng khỏe bấy nhiêu
-hiểu chưa? Chủ nhật sau, tôi liền thử dùng nắm đấm thụi thật nhanh và tôi đã thắng thằng Kliuạnikôp một cách dễ dàng. Điều đó làm tôi càng chú ý hơn tới lời nói của bác Tốt Lắm.
-Phải biết nắm được mọi vật, cháu hiểu chưa? Biết cách nắm, đó là một việc rất khó! Tôi không hiểu gì cả, nhưng tôi vô tình đã nhớ những lời ấy và những lời tương tự như vậy. Tôi nhớ chính vì trong những lời nói đơn giản ấy có một cái gì bí ẩn đến phát tức lên được: vì muốn "nắm" một hòn đá, miếng bánh mì, cái tách, cái búa thì cần gì phải có một tài cán đặc biệt. Mọi người trong nhà càng ngày càng không thích bác Tốt Lắm. Ngay cả con mèo đáng yêu của mụ thuê nhà vui tính cũng không leo lên đầu gối bác như vẫn leo lên tất cả mọi người, và không chạy lại theo tiếng gọi dịu dàng của bác. Tôi đánh nó vì tội ấy, kéo tai nó, và gần như khóc, tôi khuyên nhủ nó đừng sợ con người ấy.
-Quần áo bác sặc mùi axit nên mèo cũng không dám lại gần chỗ bác,
-bác giải thích. Nhưng tôi biết tất cả mọi người, kể cả bà tôi, đã giải thích cái đó khác hẳn, giải thích với thái độ thù địch, tức giận không đúng.
-Tại sao mày cứ quấn lấy bác ấy?
-Bà tôi hỏi, vẻ bực tức.
-Coi chừng, bác ấy sẽ dạy cho mày những trò... Mỗi lần ông tôi
-con chồn hôi hung đỏ
-biết là tôi đến thăm bác Tốt Lắm thì ông tôi lại đánh tôi một trận nên thân. Tất nhiên tôi không nói với bác về chuyện tôi bị cấm lui tới chỗ bác, nhưng tôi kể thẳng cho bác biết về thái độ của mọi người trong nhà đối với bác ra sao:
-Bà cháu sợ bác; bà cháu nói bác là thầy yêu thuật. ông cháu cũng bảo bác là kẻ thù của Chúa và là mối nguy hiểm đối với mọi người... Bác lắc lắc đầu như là đuổi ruồi vậy; một nụ cười rạng rỡ làm cho khuôn mặt trắng như phấn của bác trở nên hồng hào. Nhìn nụ cười của bác, lòng tôi thấy se lại, mắt như mờ đi.
-Cháu ạ, bác đã nhìn thấy cả!
-Bác khẽ nói.
-Thật đáng buồn, phải không cháu?
-Vâng!
-Thật đáng buồn, cháu ạ... Cuối cùng bác đã bị đuổi đi.
Một hôm tôi tới chỗ bác sau bữa uống trà sáng và thấy bác ngồi trên sàn, bác vừa xếp đồ đạc vào trong hòm vừa khẽ hát bài "Bông hoa hồng của Xarôn".
-Thôi, chúng ta phải từ biệt nhau, bác dọn đi đây...
-Sao bác lại đi? Bác chăm chú nhìn tôi rồi nói:
-Cháu không biết thật à? Gian phòng này cần để cho mẹ cháu...
-Ai bảo thế?
-ông cháu...
-ông nói dối! Bác Tốt Lắm kéo tay tôi lại gần chỗ bác. Khi tôi ngồi xuống sàn, bác khẽ bảo:
-Cháu đừng giận nhé! Bác cứ tưởng cháu biết mà không nói với bác; như vậy là không tốt, bác tưởng thế thôi... Không hiểu sao tôi cảm thấy buồn buồn và giận bác.
-Nghe bác nói đây,
-bác mỉm cười và gần như nói thầm.
-Cháu có nhớ bác đã bảo cháu là không được tới chỗ bác không? Tôi gật đầu.
-Lúc đó cháu giận bác phải không?
-Vâng...
-Nhưng bác không muốn làm cho cháu giận, cháu ạ. Cháu thấy không, bác biết là nếu cháu kết thân với bác thì người nhà cháu sẽ chửi mắng cháu, phải không? Quả nhiên là như thế chứ? Cháu đã hiểu vì sao bác nói như vậy chưa? Bác nói như một đứa trẻ cùng tuổi với tôi, tôi rất thích những lời của bác. Tôi có cảm tưởng rằng tôi đã hiểu bác từ lâu, hiểu ngay từ hồi đó và tôi nói cho bác biết:
-Cái đó cháu hiểu từ lâu rồi!
-Đấy! Như thế đấy, cháu ạ. Chính là như vậy, cháu thân yêu của bác... Lòng tôi như thắt lại không sao chịu nổi.
-Tại sao ở đây không một ai thích bác là thế nào? Bác ôm tôi sát vào lòng, nháy nháy mắt rồi đáp:
-Bác là người khác đời, cháu hiểu không? Chính vì thế đó. Bác không giống họ... Tôi kéo tay áo bác, không biết và cũng không hiểu nên nói gì.
-Cháu đừng giận,
-bác nhắc lại và ghé vào tai tôi thì thầm nói thêm:
-Cũng không nên khóc... Nhưng chính nước mắt bác đang chảy ròng ròng dưới cặp mắt kính đục mờ. Sau đó, cũng như mọi khi, chúng tôi ngồi im lặng rất lâu, thỉnh thoảng mới trao đổi vài lời vắn tắt. Buổi chiều bác dọn đi, bác thân mật từ biệt cả nhà và ôm tôi rất chặt. Tôi đi ra ngoài cổng và nhìn thấy bác ngồi lắc lư trên chiếc xe ngựa có đôi bánh nghiến lên những cục bùn giá cứng. Ngay sau khi bác đi, bà tôi bắt tay ngay vào việc rửa và cọ gian phòng bẩn thỉu. Tôi cố tình đi từ góc tường này sang góc tường kia để quấy rầy bà tôi.
-Cút ra!- Bà tôi quát khi đụng phải tôi.
-Tại sao lại đuổi bác ta đi?
-Im đi!
-Cả nhà toàn là người ngốc,
-tôi nói. Bà tôi lấy cái giẻ ướt quất vào tôi và kêu lên:
-Mày hóa rồ mất rồi, thằng vô lại!
-Cháu không nói bà, trừ bà ra, tất cả những người khác toàn là ngốc hết,
-tôi chữa lại, nhưng cái đó vẫn không làm cho bà tôi nguôi giận. Lúc ăn tối, ông tôi nói:
-Thôi, Lạy Chúa! Mỗi lần tôi trông thấy lão ta là như dao cắt ruột và tự nhủ: "Cần phải đuổi lão ấy đi mới được!" Tôi tức quá, bẻ gẫy thìa và thế là lại bị một trận đòn. Tình bạn của tôi với con người đầu tiên trong vô số những người tự cảm thấy xa lạ ngay trên đất nước thân yêu của mình, nhưng lại tốt đẹp hơn ai hết, đã kết thúc như vậy đấy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 15:38:41 | Xem tất
Chương 9



Hồi nhỏ tôi có cảm tưởng rằng tôi là một cái tổ ong để những người khác nhau, những người bình thường và giản dị, giống như những con ong, đem đến cho tôi mật của những kiến thức và những ý nghĩ của họ về cuộc sống; mỗi người, theo cách của mình, làm cho tâm hồn tôi phong phú lên rất nhiều. Mật ấy thường bẩn và đắng, nhưng dù sao kiến thức nào cũng vẫn là mật. Sau khi bác Tốt Lắm đi rồi, tôi kết thân với bác Piôt. Bác ta nom cũng tựa như ông tôi: người gầy, gọn gàng và sạch sẽ, nhưng thấp hơn ông tôi và nhỏ hơn; bác ta giống như một chú thiếu niên mặc giả làm ông già để đùa nghịch. Mặt bác có những nếp nhăn ngang dọc đan vào nhau như một chiếc rây bột; giữa những nếp da nhỏ hai con mắt tinh nhanh nom rất buồn cười, với hai lòng trắng vàng vàng, nhảy nhót, giống hệt như những con chim bạch yến trong lồng. Mớ tóc xám của bác xoăn tít, bộ râu cũng xoăn. Khi bác hút thuốc bằng tẩu, khói thuốc -cùng một màu với tóc -bốc lên cuồn cuộn. Cho đến cả lời nói của bác cũng quanh quéo, điểm nhiều câu châm chọc. Bác nói bằng một giọng rì rầm và có vẻ thân mật, nhưng tôi lại luôn luôn có cảm tưởng là bác đang nhạo báng tất cả mọi người. Bác kể lại:
-Khi ấy tôi còn rất trẻ, bà cá tước Tatian Lecxepna sai tôi "làm thợ rèn".
Một thời gian sau bà lại ra lệnh: "Đi giúp người làm vườn!" Được, có sao đâu! Nhưng dù một anh chàng mujich có làm bao nhiêu đi nữa thì người ta cũng chẳng bao giờ bằng lòng anh ta cả. Thế rồi một hôm khác bà ấy lại bảo: "Pêtruska, đi đánh cá!" Đối với tôi thì thế nào cũng được, tôi bằng lòng đi đánh cá... Nhưng vừa mới thấy thú với công việc này thì tôi lại phải từ biệt bọn cá. Tôi phải ra thành phố đánh xe ngựa thuê. Đánh xe ngựa ư? Thì đánh! Rồi sau thế nào nữa? Tôi với bà chủ không kịp thay đổi gì vì giải phóng đã đến và tôi ở lại với con ngựa. Bây giờ đối với tôi, con ngựa ấy thay thế cho bà cá tước đấy. Con ngựa đó đã già lắm, trông nó người ta có cảm tưởng như trước kia lông nó trắng nhưng rồi một hôm có một gã thợ sơn say rượu nào đó lấy các thứ sơn khác nhau quét lở dở lên bộ lông của nó. Chân nó vòng kiềng và thân hình nó như bằng giẻ rách chắp vá lại. Cái đầu xương xẩu với cặp mắt mờ đục rũ xuống một cách buồn bã, và được nối lỏng lẻo vào thân bằng những tĩnh mạch nổi phồng và lớp da già nua, sờn tã. Bác Piôt đối với nó có vẻ vì nể, không bao giờ đánh đập nó và gọi nó là Tanka. Một lần ông tôi hỏi bác:
-Sao bác lại lấy tên đạo đặt cho súc vật như vậy?
-Không đâu, không đâu, cụ Vaxin Vaxiliep kính mến ơi! Trong đạo không có tên nào là Tanka cả, chỉ có tên Tatiana thôi! Bác Piôt cũng là người có học và rất thông hiểu Kinh thánh. Bác luôn luôn tranh luận với ông tôi xem trong các thánh vị nào thiêng hơn. Hai người thi nhau chỉ trích nghiêm khắc những kẻ phạm tội trong Cựu ước, đặc biệt bị chỉ trích nhiều nhất là Abxalôn. Đôi khi hai người tranh luận hoàn toàn chỉ là về mặt ngữ pháp: hai người cãi nhau về vấn đề nên dùng hình thức nào của tiếng Xlavơ cổ trong một số bài kinh.
-Tôi khác, bác khác!
-ông tôi nổi nóng, đỏ mặt tía tai, và nhại lại với vẻ giễu cợt những cách nói của bác Piôt. Bác Piôt, giữa khói thuốc mù mịt, nói lại vẻ châm chọc:
-Thế cách cầu kinh của cụ thì hơn gì? Đối với Đức Chúa Trời thì cũng vậy thôi! Có lẽ Chúa Trời khi nghe cụ cầu nguyện sẽ nghĩ: "Ngươi muốn cầu thế nào thì cầu, nhưng dẫu sao thì ngươi cũng chẳng đáng giá bao nhiêu!"
-Cút đi, Lêcxây!
-ông tôi quát tôi giọng giận dữ, cặp mắt xanh long lanh. Bác Piôt rất ưa sạch sẽ và ngăn ngắp. Khi đi qua sân bác thường lấy chân đá sang bên những phoi bào, mảnh chai lọ, xương xẩu. Bác vừa đá vừa nói, giọng chê trách:
-Đồ vô dụng, chỉ tổ vướng cẳng! Bác là một người hay nói, có vẻ tốt bụng và vui vẻ, nhưng có lúc hai mắt bác đỏ ngầu những tia máu, mờ đi và đờ như mắt người chết. Những lúc đó bác ngồi co ro trong một góc tối, yên lặng, cau có như đứa cháu của bác.
-Bác làm sao thế, bác Piôt?
-Đi đi!
-Bác trả lời giọng khàn khàn và nghiêm khắc. Cùng ở phố chúng tôi, trong một ngôi nhà nhỏ có một lão quý tộc. Hắn có cái bướu ở trên trán và một thói quen hết sức kỳ lạ: cứ đến ngày lễ hắn lại ngồi bên cửa sổ và lấy súng bắn đạn chì vào chó, mèo, gà, quạ và cả những người qua đường mà hắn không thích. Một lần bác Tốt Lắm bị hắn bắn vào sườn. Đạn nhỏ không xuyên qua được tấm áo dạ, nhưng có mấy viên lọt vào túi áo. Tôi còn nhớ bác ở thuê nhà tôi, qua cặp kính đã ngắm nghía những viên đạn chì màu xám rất chăm chú. ông tôi khuyên bác Tức Tatiana, gọi một cách thân mật.
Tốt Lắm nên đi kiện, nhưng bác ném mấy viên đạn vào góc bếp và trả lời:
-Không đáng kiện. Một lần khác lão bắn súng ấy lại bắn mấy viên đạn vào chân ông tôi; ông tôi tức giận, đệ đơn kiện lên tòa án và đi triệu tập những nạn nhân khác ở quanh đấy và những người làm chứng. Nhưng lão quý tộc bỗng biến đâu mất. Cứ mỗi lần ở ngoài phố có tiếng súng nổ là bác Piôt
-nếu lúc đó có nhà
-lại vội vàng chụp lên mái tóc xám chiếc mũ đã bạc phếch có cái lưỡi trai to tướng mà bác vẫn đội trong những ngày nghỉ và hấp tấp chạy ra đường. Bác thủ hai tay ra sau lưng, dưới vạt áo kaftan, nâng vạt áo lên như đuôi con gà trống, phưỡn bụng ra phía trước và đi một cách bệ vệ trên hè. Bác đi qua cửa nhà lão bắn súng rồi quay trở lại, rồi lại đi. Cả nhà chúng tôi đổ ra cổng đứng xem. Qua cửa sổ bộ mặt xám ngoét của lão nhà binh cũng hiện ra, và phía trên bộ mặt đó là cái đầu với mái tóc vàng hoe của mụ vợ hắn. Từ trong sân nhà Betleng cũng có vài người chạy ra. Chỉ có ngôi nhà xám của lão ạpxiannikôp là im lìm như chết không thấy người nào xuất hiện cả. Đôi khi cuộc đi dạo của bác Piôt không thu được kết quả
-lão đi săn hình như không xem bác là một con mồi đáng bắn. Nhưng cũng có khi khẩu súng hai nòng lại nổ liên tiếp.
-Pàng, pàng... Không rảo bước, bác Piôt đi lại phía chúng tôi và có vẻ rất hài lòng, nói:
-Đạn rơi vào vạt áo cả! Một lần đạn trúng vào vai và cổ bác. Bà tôi lấy kim khều đạn ra và trách bác Piôt:
-Tại sao bác lại trêu chọc cái thằng mọi rợ ấy làm gì? Thế ngộ như nó bắn bác mù mắt thì sao?...
-Không, không nguy hiểm gì đâu... Akưlina Ivanna,
-bác Piôt kéo dài giọng trả lời ra bộ xem thường.
-Thằng ấy có phải là hạng biết bắn đâu...
-Nhưng sao bác cứ khuyến khích nó như vậy?
-Tôi mà khuyến khích nó à? Tôi chỉ muốn trêu cái lão ấy thôi... Rồi ngắm nghía những viên đạn gắp ra, đặt trong lòng bàn tay, bác nói:
-Xạ thủ hạng bét! Bà có biết không, ngày trước bà chủ tôi, bà cá tước Tatian Lecxepna, có một thời gian đã chọn một tay nhà binh làm chồng
-bà ta thay chồng như thay đầy tớ vậy. Tên lão ta là Mamôn Ilitạ. Chà, thằng cha bắn mới cừ làm sao!
Mà bà phải biết, lão chỉ bắn đạn một thôi. Hắn để thằng ngốc Ignaska đứng dạng chân cách xa ít nhất là bốn mươi bước, ở thắt lưng buộc một cái chai lủng lẳng. Thằng Ignaska đứng dạng háng còn nhe răng ra mà cười, rõ đồ ngốc! Một loại áo dài thắt ở bụng. Lão Mamôn Ilitạ giơ súng lục lên và ... Pàng! Cái chai vỡ tan. Nhưng có một lần thằng Ignaska động đậy
-có lẽ hắn bị ruồi trâu đốt
-thế là viên đạn trúng vào đầu gối hắn, vào giữa xương bánh chè! Người ta gọi thầy thuốc đến, ông ta cưa phăng ngay chân hắn đi, và đem chôn cái chân đó... Thế đấy!
-Còn thằng ngốc ấy thì thế nào?
-Hắn ấy à, hắn chẳng làm sao cả. Đồ ngốc thì cần gì tay với chân, hắn chỉ ăn cái ngốc của hắn cũng đủ no rồi. Bọn ngốc thì ai người ta cũng mến, vì chúng chẳng làm hại ai bao giờ cả. Người ta đã có câu nói: dù là thầy ký, thầy cai, nhưng nếu ngốc nghếch chẳng ai bực mình... Những câu chuyện kiểu đó không làm cho bà tôi ngạc nhiên, chính bà tôi cũng biết hàng chục chuyện như vậy. Nhưng tôi thì hơi sợ, tôi hỏi bác Piôt:
-Thế lão quý tộc có thể giết chết người được à?
-Sao lại không được? Được chứ. Bọn quý tộc còn giết lẫn nhau nữa kia! Một hôm, có một gã sĩ quan kỵ binh đến nhà bà Tatian Lecxepna, hắn sinh sự cãi nhau với lão Mamôn, thế là lập tức cả hai liền vớ lấy súng lục, đi vào vườn, và ở đó, trên con đường nhỏ bên hồ, gã sĩ quay kỵ binh ấy bắn cho lão Mamôn một phát vào giữa gan! Thế là lão Mamôn ra nghĩa địa nằm, còn gã sĩ quan thì về Kapkadơ, chẳng lôi thôi dài dòng gì hết! Đó là chúng đối với nhau đấy, huống hồ đối với mujich và những kẻ khác! Bây giờ người ta không còn là của chúng nữa, chúng không thương hại gì đâu. Trước kia thì dù sao chúng cũng còn thương vì là của riêng của chúng!
-ối dào, ngay cả ngày trước chúng cũng chẳng thương hại lắm đâu!
-Bà tôi nói. Bác Piôt đồng ý:
-Đúng thế đấy, của riêng nhưng là thứ riêng rẻ tiền... Tuy đối với tôi bác có vẻ dịu dàng, bác đối với tôi tốt hơn là đối với người lớn và không lảng tránh con mắt tôi, nhưng trong con người bác vẫn có cái gì làm tôi không ưa. Trong những lúc đãi mọi người món mứt mà bác rất thích, bác thường phết mứt vào bánh mì cho tôi nhiều hơn. Thường đi phố về bác hay cho tôi kẹo mạch nha và bánh khô dầu bằng hạt quả anh túc. Nói chuyện với tôi bao giờ bác cũng có thái độ nghiêm trang và giọng nói dịu dàng:
-Sau này định sống thế nào, chú mình? Đi lính hay làm quan?
-Đi lính.
-Phải đấy. Bây giờ đi lính cũng dễ chịu. Làm giáo sĩ cũng tốt, chỉ cần thỉnh thoảng lại kêu: "Xin Chúa thương xót chúng con", có thế thôi! Làm giáo sĩ có lẽ còn dễ hơn đi lính cơ đấy, nhưng làm anh đi ý muốn nói tới cuộc giải phóng nông nô năm 1861. câu lại hơn cả; chẳng phải học gì hết, chỉ cần quen một chút là được!... Bác làm những bộ điệu tức cười để bắt chước cá lượn quanh mồi như thế nào, các loại cá vược, cá dầy, cá mè mỗi khi mắc câu thì vùng vẫy ra sao... Đôi khi bác bảo để an ủi tôi:
-Cháu bực tức mỗi khi ông cháu đánh cháu, nhưng như vậy không nên, chú mình ạ. ông cháu đánh cháu là để dạy bảo cháu. Vả lại thứ đòn đó chẳng đáng kể vào đâu! Bà chủ bác, bà Tatian Lecxepna mà đánh thì phải biết! Bà ấy có riêng một người để làm việc ấy, tên hắn là Krixtôpho. Hắn ta thạo nghề đến nỗi những địa chủ lân cận thường đến xin bà cá tước: "Bà Tatian Lecxepna, bà làm ơn cho tôi mượn tên Krixtôpho về để đánh lũ đày tớ!" Và bà ta cho mượn. Bác kể tỉ mỉ với vẻ thản nhiên: mụ cá tước mặc áo dài bằng xa-tanh trắng, trùm khăn mỏng màu xanh da trời, ngồi trong một chiếc ghế bành đỏ đặt ở ngoài hiên có những cột tròn để xem Krixtôpho quất nam nữ nông dân.
-Tên Krixtôpho ấy tuy quê ở Riazan nhưng trông như người Txưgan hoặc Khôkhôn vậy. Râu mép hắn dài đến mang tai, mõm xanh vì hắn cạo râu cằm. Không biết có phải hắn là một thằng ngốc thật không, hay là hắn giả bộ như thế để được yên thân. Nhiều lần, ở trong bếp, hắn rót một chén nước, bắt một con ruồi, một con gián hoặc một con bọ dừa
-rồi lấy cái que từ từ dìm nó xuống nước cho chết. Hoặc là hắn bắt ngay rận ở cổ áo đem dìm vào nước... Những mẩu chuyện tương tự như thế đối với tôi đã khá quen thuộc, tôi đã được nghe nhiều những chuyện đó do ông bà tôi kể. Chúng muôn màu muôn vẻ, nhưng tất cả đều giống nhau một cách kỳ lạ: trong chuyện nào cũng có cảnh hành hạ, chế giễu, săn đuổi con người. Tôi đã chán ngấy những chuyện đó, không muốn nghe nữa nên bảo bác đánh xe ngựa thuê:
-Bác kể chuyện khác cơ! Những nếp nhăn trên mặt bác dồn cả về phía mồm, rồi lại chạy lên phía mắt, nhưng bác đồng ý:
-Thôi được, đồ tham lam! Kể chuyện khác vậy. Hồi đó ở chỗ bác có một anh đầu bếp...
-Ai có?
-Bà cá tước Tatian Lecxepna.
-Sao bác lại gọi bà ta là Tatian? Bà ấy là đàn ông hay sao?
-Tất nhiên bà ấy là đàn bà, nhưng bà ta lại có râu mép, đen... Bà ấy gốc là người Đức đen, loại người này trông giống như người da đen vậy. Nhưng Tên gọi người Ukraina (theo cách gọi khinh miệt của người Nga dưới thời Nga hoàng). Trong tiếng Nga không có tên nam nào là Tatian cả. Đây chỉ là một cái tên bịa ra, tên đó có hình thức giống đực để chỉ đàn ông, tương đương với tên của đàn bà là Tatiana. ta hãy quay lại chuyện anh đầu bếp. Câu chuyện này buồn cười lắm, chú mình ạ... Trong "câu chuyện buồn cười" ấy có một anh bếp làm hỏng cả một mẻ bánh nướng. Để phạt anh ta người ta bắt anh phải ăn hết chỗ bánh ấy ngay một lúc. Anh ta ăn hết và phát ốm. Tôi nổi cáu:
-Chuyện ấy chẳng buồn cười tí nào!
-Thế thì thế nào mới buồn cười? Nào, nói đi!
-Cháu không biết...
-Vậy thì im mồm đi! Rồi bác lại kể đi kể lại những câu chuyện của bác, giống như con nhện cứ chăng mãi cái mạng lưới của nó. Thỉnh thoảng, vào những ngày lễ, mấy đứa em họ tôi lại đến chơi: thằng Xaxa Mikhalôp buồn bã và lười biếng và thằng Xaxa Iakôvôp, ăn mặc chải chuốt, chuyện gì cũng biết.
Một lần trong lúc ba đứa chúng tôi đang đi "du lịch" trên các mái nhà, chúng tôi trông thấy trong sân nhà Betleng một lão quý tộc mặc áo màu xanh lá cây có lót lông thú ngồi trên một đống củi cạnh tường và đang chơi với mấy con chó con. Cái đầu hói nhỏ vàng ệch của lão để trần. Một đứa em họ tôi đề nghị đánh cắp một con chó, và lập tức một kế hoạch đánh cắp tài tình được vạch ra: hai đứa em họ tôi sẽ ra ngay ngoài đường và đợi ở cổng nhà Betleng, tôi sẽ dọa lão quý tộc và khi lão hoảng sợ bỏ chạy thì hai đứa em họ tôi sẽ ùa vào sân và cướp lấy chó.
-Nhưng mà dọa thế nào cho lão ta sợ được? Một đứa em họ tôi đề nghị:
-Mày cứ nhổ một bãi nước bọt vào đầu lão ta! Không biết nhổ vào đầu người khác có phải là một tội to lắm không? Tôi đã nhiều lần nghe nói và chính tôi thấy người ta làm nhiều điều còn tệ hơn nữa, vì thế tôi đã thực hiện đầy đủ nhiệm vụ được giao cho. Thế là om xòm cả lên. Từ nhà Betleng cả một đội quân đàn ông và đàn bà kéo sang sân nhà chúng tôi, đi đầu là một viên sĩ quan trẻ đẹp trai. Vì lúc tôi phạm lỗi thì hai đứa em họ tôi đang đi chơi ngoan ngoãn ở ngoài đường, và cứ theo lời chúng thì chúng không biết gì về cái trò nghịch ngợm quỷ quái của tôi, cho nên ông tôi chỉ đánh có mình tôi. Thế là ông tôi đã làm hài lòng tất cả mọi người trong nhà Betleng. Sau trận đòn, lúc tôi đang nằm trên nóc lò sưởi ở trong bếp thì bác Piôt leo lên chỗ tôi. Bác ăn vận như ngày hội, dáng điệu có vẻ hớn hở.
-Nghĩ ra được cái trò khá lắm đấy, chú mình ạ!
-Bác nói thì thầm.
-Đáng đời cái thằng dê già ấy. Phải nhổ vào mặt tất cả những đứa như cái thằng ấy! Hay là lấy đá ném vào cái đầu thối tha của chúng nó!
Trước mặt tôi hiện lên bộ mặt tròn nhẵn thín và trẻ con của lão quý tộc. Tôi còn nhớ lão vừa lấy hai bàn tay bé nhỏ lau cái đầu hói vàng, vừa kêu khe khẽ và rền rĩ như chó con. Nghĩ lại tôi hết sức xấu hổ, tôi căm thù mấy đứa em họ tôi. Nhưng nhìn sát bộ mặt nhăn nheo của bác đánh xe tôi liền quên hết những điều đó: bộ mặt ấy rung rung với một vẻ đáng sợ và đáng ghét giống y như bộ mặt của ông tôi lúc đánh tôi.
-Đi đi!
-Tôi hét lên và dùng cả tay lẫn chân đẩy bác Piôt ra. Bác cười hì hì, nháy mắt và tụt xuống. Từ đó trở đi, tôi không muốn nói chuyện với bác nữa, tôi bắt đầu lẩn tránh bác và đồng thời cũng bắt đầu theo dõi bác. Tôi đề phòng như thể mơ hồ chờ đợi một điều gì sắp sửa xảy ra.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách