Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 6030|Trả lời: 33
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Thời Thơ Ấu | Maksim Gorky

[Lấy địa chỉ]
Đăng lúc 17-9-2011 20:44:10 | Xem tất |Chế độ đọc
Thời thơ ấu




Tên tác phẩm :Thời thơ ấu
Tên tác giả : Maksim Gorky
Thể loại : Tiểu thuyết
Tình trạng : Hoàn Thành
Nguồn : tự type

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:45:40 | Xem tất
Chương 1



Gần cửa sổ, trong một gian phòng chật hẹp tranh tối tranh sáng, bố tôi mặc quần áo trắng toát nằm trên sàn. Thân hình bố tôi dài lạ thường, ngón chân xòe ra nom rất kỳ quái; hai bàn tay dịu dàng đặt yên trên ngực, nhưng ngón tay thì co quắp. Hai đồng xu đen tròn bằng đồng che kín cặp mắt tươi vui của bố tôi: khuôn mặt vẫn hiền từ nay tối sầm lại. Hai hàm răng nhe ra làm tôi sợ hãi. Mẹ tôi mặc chiếc váy đỏ, chiếc áo hở ngực, quỳ bên cạnh và lấy chiếc lược đen, mà tôi vẫn thích dùng để cứa vỏ dưa hấu, chải mái tóc dài và mềm mại của bố tôi từ phía trán ra sau gáy. Mẹ tôi nói liên tục, giọng trầm trầm khàn khàn. Cặp mắt xám của mẹ tôi sưng húp và như tan ra thành những giọt nước mắt lớn chảy ròng ròng. Bà tôi giữ lấy tay tôi. Bà tôi người béo tròn có cái đầu lớn, cặp mắt rất to và chiếc mũi xôm xốp nom rất buồn cười; bà tôi mặc toàn đồ đen trông mềm dịu đến hay. Bà tôi cũng khóc, tiếng khóc nức nở lạ lùng, trầm bổng hình như hòa theo những lời than vãn của mẹ tôi. Toàn thân run run, bà tôi kéo tôi và đẩy lại gần chỗ bố tôi. Nhưng tôi cưỡng lại và nấp sau lưng bà; tôi vừa sợ hãi vừa lúng túng. Chưa bao giờ tôi trông thấy người lớn khóc và tôi không sao hiểu được những lời bà tôi nhắc đi nhắc lại:
-Cháu từ biệt bố cháu đi, không bao giờ cháu được thấy bố cháu nữa đâu, tội nghiệp, bố cháu chết sớm quá, chưa phải lúc... Tôi bị ốm nặng, vừa mới dậy. Trong lúc tôi ốm
-tôi còn nhớ rất rõ
-bố tôi nô đùa với tôi rất vui vẻ, sau đó bỗng nhiên bố tôi biến đâu mất, và bà ngoại tôi, con người kỳ lạ ấy, đã thay thế bố tôi.
-Bà đi từ đâu đến thế?
-Tôi hỏi bà tôi. Bà đáp:
-Từ phía trên, từ Nijni đến.
Bà không đi bộ, mà đi tàu thủy đến! Người ta không thể đi bộ trên mặt nước được, ông mãnh ạ! Câu trả lời đó thật là buồn cười và khó hiểu. ở trên nhà này chỉ có mấy người Ba-tư rậm râu và tóc nhuộm; còn ở dưới hầm nhà thì có một ông lão da vàng người Kanmưc làm nghề bán da cừu. Từ trên có thể cưỡi tay vịn cầu thang trượt xuống, hoặc nếu có ngã thì lộn nhào ở cầu thang,
-điều đó tôi biết rất rõ. Nhưng sao lại có chuyện đi trên mặt nước kia chứ? Tất cả câu chuyện của bà tôi đều vô lý, đều lầm lẫn một cách ngộ nghĩnh.
-Thế tại sao cháu lại là ông mãnh?
-Tại cháu hay làm ồn lắm,
-bà tôi vừa nói vừa cười. Tiếng bà tôi nói rất dịu dàng, vui vẻ và trầm bổng. Ngay từ ngày đầu tiên tôi đã thân với bà tôi, và ngay lúc này tôi cũng muốn bà tôi mau mau đưa tôi rời khỏi căn phòng này. Tiếng khóc than và kêu gào của mẹ tôi làm tôi nôn nao và gây cho tôi một cảm giác lo âu mới. Lần đầu tiên tôi trông thấy mẹ tôi như thế. Mẹ tôi vốn rất nghiêm nghị, ít nói, người sạch sẽ, gọn gàng và to lớn như một con ngựa, mẹ tôi có thân hình rắn chắc và đôi cánh tay rất khỏe. Thế mà bây giờ không hiểu sao khắp người mẹ tôi đều sưng phồng lên nom đến khó coi, đầu tóc rối bù, áo quần tơi tả. Mớ tóc thường vẫn vấn gọn trên đầu như một cái mũ lớn vàng óng thì nay xổ xuống một bên vai trần, xõa xuống mặt, còn nửa kia tết thành bím thì cứ lúc la lúc lắc chạm vào khuôn mặt ngủ say của bố tôi. Tôi đứng trong phòng đã lâu, nhưng mẹ tôi không hề nhìn tôi; và vẫn vừa chải đầu cho bố tôi vừa rên rỉ nức nở. Mấy người mujich mặc toàn đồ đen và một tên cảnh sát ló đầu vào cửa phòng. Tên cảnh sát quát tháo, giọng giận dữ:
-Thu dọn nhanh lên! Chiếc khăn san màu đen che cửa sổ phồng lên như một cánh buồm. Tôi bỗng nhớ tới một hôm bố tôi dẫn tôi đi bơi thuyền buồm. Chợt một tiếng sấm nổ vang. Bố tôi cười, kẹp chặt tôi vào hai đầu gối và kêu:
-Không sao cả, đừng sợ, Luc ạ! Đột nhiên mẹ tôi nặng nề đứng lên, rồi lại khuỵu xuống, ngã vật ra; tóc xõa tung ra cả sàn. Khuôn mặt trắng trẻo, mờ lệ tái xanh đi và cũng nhe răng ra như bố tôi, mẹ tôi nói, giọng khiếp sợ:
-Đóng cửa lại... Dẫn thằng Alêcxây ra ngay! Bà tôi đẩy tôi ra rồi nhảy bổ ra cửa, mồm kêu to:
-Bà con thân mến, đừng sợ, cứ để mặc chúng tôi, bà con hãy đi đi, Lạy Chúa tôi! Không phải dịch tả đâu, cháu nó sắp ở cữ đấy. Xin bà con hãy làm phúc làm đức cho! Tôi nấp sau một góc tối, sau cái hòm và nhìn mẹ tôi lăn lộn trên sàn rên siết và nghiến răng ken két. Bà tôi lê vòng quanh, cất giọng dịu dàng và vui vẻ nói:
-Nhân danh Cha và Con! Variusa con hãy cố chịu khó một tí!... Lạy Đức Mẹ Rất Thánh che chở chúng con...
Tôi sợ quá. Mẹ tôi và bà tôi bò lê trên sàn ngay bên cạnh bố tôi, đụng cả vào người bố tôi và rên rỉ, gào thét, còn bố tôi vẫn nằm im không động đậy và dường như đang cười gằn. Cảnh lồng lộn trên sàn ấy Tức Alêcxây, cách gọi tắt thân mật. Tức Vacvara, cách gọi thân mật. kéo dài khá lâu. Mấy lần mẹ tôi gượng đứng dậy, nhưng lại ngã quỵ xuống. Bà tôi lăn ra khỏi phòng giống như một quả bóng lớn màu đen và mềm nhũn. Sau đó đột nhiên trong bóng tối có tiếng trẻ con khóc thét lên.
-Sáng danh Chúa!
-Bà tôi nói.
-Con trai rồi! Và bà châm một ngọn nến. Sau đó chắc tôi ngủ thiếp đi ở góc nhà nên không nhớ gì nữa. ấn tượng thứ hai còn ghi lại trong trí nhớ tôi là một ngày mưa, tại một góc nghĩa địa hoang vắng. Tôi đứng ở một gò đất trơn, nhớp nháp và nhìn xuống cái huyệt trong đó người ta vừa hạ quan tài bố tôi xuống. Dưới đáy huyệt có nhiều nước và có cả ếch nhái nữa; hai con đã leo lên được chiếc nắp quan tài màu vàng. Đứng bên cạnh huyệt có tôi, bà tôi, tên cảnh sát quần áo ướt sũng và hai người mujich vẻ mặt bực tức, tay cầm xẻng. Những hạt mưa ấm và li ti như những hạt thủy tinh nhỏ rắc lên tất cả mọi người.
-Lấp huyệt lại!
-Tên cảnh sát vừa ra lệnh vừa bỏ đi. Bà tôi khóc òa lên, giấu mặt vào một góc khăn vuông. Hai người mujich gò lưng trên chiếc xẻng bắt đầu vội vã hất đất vào huyệt, nước dưới huyệt kêu lõm bõm. Hai con nhái nhảy khỏi nắp quan tài và lao lên thành huyệt, nhưng những hòn đất lại gạt chúng ngã xuống dưới đáy.
-Đi thôi, Liônáa,
-bà tôi vừa nói vừa nắm lấy vai tôi. Tôi vùng ra khỏi tay bà và không muốn rời khỏi nơi đây.
-Lạy Chúa, rõ thật là...
-Bà tôi rền rĩ, không hiểu nói với tôi hay với Chúa. Bà tôi đứng im lặng rất lâu, đầu cúi gằm. Huyệt đã đầy đất, song bà tôi vẫn còn đứng đó. Hai người mujich lấy xẻng đập thình thình vào mặt đất. Một luồng gió thổi tới xua tan và cuốn mưa đi. Bà tôi cầm tay tôi và dẫn tôi đến ngôi nhà thờ ở phía xa giữa vô số thánh giá đen sẫm.
-Tại sao cháu không khóc?
-Bà tôi hỏi, khi chúng tôi bước ra khỏi bờ rào.
-Giá cháu khóc một chút mới phải!
-Cháu không muốn khóc.- Tôi đáp.
-Thôi được, không muốn thì thôi cháu ạ,
-bà tôi khẽ nói. Tất cả chuyện đó thật kỳ lạ: tôi rất ít khóc và chỉ khóc khi nào bực tức, chứ không bao giờ vì đau. Bố tôi luôn luôn chế nhạo những giọt nước mắt của tôi, và mẹ tôi thường quát:
-Cấm không được khóc! Sau cùng bà cháu tôi ngồi trên một chiếc xe ngựa nhỏ và đi dọc theo một đường phố rộng, nhưng rất bẩn, hai bên toàn những ngôi nhà đỏ sẫm. Tôi hỏi bà tôi:
-Thế lũ nhái ấy có bò ra được không hở bà?
-Không, bây giờ thì chúng không bò ra được,
-bà tôi đáp.
-Chúa khắc phù hộ chúng nó! Cả bố tôi lẫn mẹ tôi đều không hay nhắc đến tên Chúa một cách tin tưởng thân mật như vậy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:48:42 | Xem tất
Mấy ngày sau, tôi, bà tôi và mẹ tôi đi tàu thủy, chúng tôi ngồi trong một buồng nhỏ. Đứa em mới đẻ của tôi là Macxim đã chết, nằm trên chiếc bàn trong góc phòng, xác bọc trong một mảnh vải trắng có thắt dây băng đỏ. Tôi ngồi chót vót trên đống tay nải và hòm xiểng, nhìn qua chiếc cửa sổ lồi và tròn như mắt ngựa. ở phía ngoài cửa kính ướt đẫm dòng nước sùi bọt đục ngầu chảy cuồn cuộn không ngớt. Thỉnh thoảng, một làn sóng lại chồm lên và liếm vào mặt kính. Tôi bất giác nhảy xuống sàn tàu.
-Đừng sợ,
-bà tôi nói và đưa đôi cánh tay mềm mại khẽ nhấc tôi lên đống tay nải như cũ. Làn sương mù màu xám và ẩm ướt bao phủ mặt nước. Xa xa, dải đất sẫm hiện ra rồi lại biến mất trong đám sương mù và nước. Mọi vật xung quanh tôi đều rung chuyển. Chỉ có mẹ tôi đứng yên không động đậy, hai tay để sau gáy, lưng tựa vào thành tàu. Khuôn mặt mẹ tôi sa sầm và đanh lại, cặp mắt nhắm nghiền. Mẹ tôi cứ đứng yên như vậy, không nói không rằng, dường như đã thay đổi hẳn, ngay cả chiếc áo dài mẹ tôi đang mặc cũng xa lạ đối với tôi. Bà tôi nhiều lần khẽ bảo mẹ tôi:
-Varya, con cố ăn một chút gì đi chứ? Mẹ tôi không trả lời và vẫn đứng yên không nhúc nhích. Bà tôi chỉ nói thì thầm với tôi; họa hoằn nói với mẹ tôi thì to hơn, nhưng có phần nào thận trọng, dụt dè. Tôi thấy hình như bà tôi sợ mẹ tôi. Tôi hiểu điều đó, nhờ thế mà hai bà cháu càng gần gũi nhau hơn.
-Xaratôp kia rồi!
-Đột nhiên mẹ tôi nói to, giọng bực tức.
-Thủy thủ đâu rồi? Đấy, những lời nói của mẹ tôi cũng kỳ lạ khó hiểu thế đấy: Xaratôp, thủy thủ. Một người đàn ông to lớn, tóc bạc, mặc quần áo xanh, bước vào, tay bưng một chiếc hòm con. Bà tôi đỡ lấy chiếc hòm và đặt xác em tôi vào đó. Rồi bà tôi giơ thẳng tay bê chiếc hòm ra cửa, nhưng người bà to béo quá, chỉ lách nghiêng mới có thể lọt qua được chiếc cửa hẹp của căn buồng nhỏ bé, nên bà cứ lúng ta lúng túng mãi trước cửa nom đến buồn cười.
-ôi, mẹ,
-mẹ tôi kêu lên, đỡ lấy chiếc quan tài ở tay bà tôi, rồi cả hai người cùng biến mất. Tôi ở lại trong buồng một mình, chăm chú nhìn người đàn ông mặc quần áo xanh. Tức Vacvara, cách gọi tắt.
-Thế nào, em cháu đi mất rồi ư?
-Người mặc quần áo xanh cúi xuống nhìn tôi và nói.
-Bác là ai?
-Thủy thủ.
-Còn Xaratôp là ai?
-Là một thành phố. Nhìn qua cửa sổ mà xem, nó kia kìa! Qua tấm cửa kính tôi nhìn thấy một dải đất dường như đang di động. Dải đất màu sẫm và dốc tuột. Làn sương nhẹ tỏa lên, giống một khoanh bánh mì lớn vừa mới cắt từ một ổ bánh ra.
-Bà cháu đi đâu thế bác?
-Đi chôn em cháu.
-Đem chôn nó xuống đất hở bác?
-Chứ sao? Phải chôn đi. Tôi kể cho bác thủy thủ nghe câu chuyện người ta đã chôn sống lũ nhái như thế nào lúc chôn cất bố tôi. Bác bế xốc tôi lên, ghì chặt vào người và hôn tôi:
-Chà, cháu chưa hiểu gì cả!
-Bác nói.
-Không nên thương hại lũ nhái ấy làm gì. Chúa khắc phù hộ chúng! Cháu hãy thương lấy mẹ cháu. Cháu thấy đấy, đau khổ đã làm cho mẹ cháu héo hon đi như thế đấy! Tiếng còi tàu rúc, rít lên trên đầu chúng tôi. Tôi đã biết đây là chiếc tàu thủy nên không sợ. Bác thủy thủ vội đặt tôi xuống sàn và vừa chạy ra ngoài vừa nói:
-Bác phải chạy đi đằng này một tí! Tôi cũng muốn chạy theo. Tôi bước ra ngoài cửa. Ngoài hành lang hẹp tranh tối tranh sáng không có qua một bóng người. Gần cửa buồng có những bậc cầu thang nẹp đồng bóng nhoáng. Nhìn lên trên, tôi thấy một đám người xách bị và tay nải. Rõ ràng là tất cả mọi người sắp lên bờ, tôi cũng phải lên thôi. Nhưng khi tôi len vào giữa đám đông ở cạnh thành tàu trước chiếc cầu bắc lên bờ, mọi người đều nhìn tôi kêu lên:
-Con cái nhà ai thế này? Mày con ai?
-Cháu không biết. Người ta xô đẩy tôi, lay tôi, sờ mó tôi hồi lâu. Cuối cùng bác thủy thủ tóc bạc chạy đến, túm lấy tôi và phân trần:
-Thằng bé này ở Axtrakhan, nó ở trong buồng tàu chạy ra... Bác bế tôi bước nhanh vào buồng, đặt tôi vào giữa đống tay nải rồi vừa đi ra, vừa giơ ngón tay ra dọa tôi:
-Liệu hồn đấy! Tiếng ồn ào trên đầu mỗi lúc một nhỏ dần, chiếc tàu không lắc lư mạnh và không khuấy động trên mắt nước nữa. Cửa sổ căn buồng bị một bức thành ướt chắn lấp. Trong buồng tối om, ngột ngạt, đống tay nải như phồng ra, ép lấy người tôi. Tất cả đều làm cho tôi khó chịu. Có lẽ người ta sẽ để một mình tôi ở lại vĩnh viễn trong chiếc tàu vắng ngắt này chăng? Tôi lại gần cửa buồng. Cửa không mở được, tôi không làm cách nào xoay được quả đấm bằng đồng.
Tôi cầm chai sữa đập thật mạnh vào quả đấm. Chiếc chai vỡ toang, sữa đổ tung tóe xuống chân tôi chảy đầy cả vào đôi ủng. Buồn rầu vì thất bại, tôi lên nằm trên đống tay nải, khóc ti tỉ và ngủ thiếp đi, mắt vẫn ướt lệ. Khi tôi tỉnh dậy, chiếc tàu thủy lại khuấy động và lắc lư mạnh, cửa sổ căn buồng sáng rực như mặt trời. Bà tôi ngồi cạnh tôi, chải đầu và nhăn nhó, nói thì thầm cái gì nghe không rõ. Tóc bà tôi đen nhánh, ánh xanh, dày kỳ lạ, phủ kín cả hai vai, xõa xuống ngực, xuống đầu gối và rải cả ra sàn. Một tay khẽ nâng mớ tóc trên sàn lên và ướm trên tay, bà tôi đưa một cách khó khăn chiếc lược thưa bằng gỗ vào mớ tóc dày. Bà tôi bĩu môi, cặp mắt đen long lên đầy tức giận, và trong mớ tóc dày ấy khuôn mặt bà tôi trở nên bé nhỏ và buồn cười lạ. Hôm nay bà tôi có vẻ dữ tợn, nhưng khi tôi hỏi tại sao tóc bà lại dày như vậy, bà tôi trả lời, giọng cũng dịu dàng ấm áp như hôm qua:
-Có lẽ Chúa trừng phạt bà đấy. Tóc với tai chết tiệt ở đâu ấy, cứ thử chải nó mà xem! Hồi còn trẻ bà thích khoe khoang về cái bờm này, nhưng nay về già bà lại nguyền rủa nó! Cháu ngủ đi! Hãy còn sớm, mặt trời vừa mới mọc thôi...
-Cháu không buồn ngủ nữa!
-Thì thôi vậy,
-bà tôi bằng lòng ngay; và vừa tết tóc vừa nhìn về phía chiếc đi-văng, nơi mẹ tôi đang nằm ngủ, ngửa mặt lên, người duỗi thẳng.
-Hôm qua cháu đập vỡ chai sữa như thế nào? Kể khẽ cho bà nghe! Lời nói của bà tôi đặc biệt trầm bổng nghe như tiếng hát, nó khắc sâu vào trí nhớ tôi dễ dàng, như những đóa hoa, và cũng dịu dàng, rực rỡ đầy nhựa sống. Khi bà tôi mỉm cười, hai con ngươi đen sẫm như quả anh đào, nở ra, long lanh tia sáng dịu hiền khôn tả. Nụ cười để lộ ra hai hàm răng trắng ngần chắc chắn, và mặc dù trên đôi má ngăm ngăm đen đã có vô số nếp nhăn, khuôn mặt của bà tôi hình như vẫn tươi trẻ. Nhưng cái mũi xôm xốp có hai lỗ mũi phồng lên và cái chóp mũi đỏ đã làm cho khuôn mặt xấu đi khá nhiều. Bà tôi hít thuốc lá đựng trong cái hộp đen khảm bạc. Toàn thân bà tôi đen sẫm, nhưng từ bên trong -qua đôi mắt -ánh lên những tia sáng ấm áp, tươi vui và không bao giờ tắt. Tuy lưng còng, gần như gù, và thân hình rất to béo, nhưng bà tôi đi lại nhẹ nhàng, nhanh nhẹn như một con mèo to, và cũng có vẻ dịu dàng mềm mại giống hệt như con vật dễ thương ấy. Trước kia gặp bà tôi; tôi như người ngủ say, đắm chìm trong bóng tối; nhưng bà tôi xuất hiện, đã đánh thức tôi dậy và đưa tôi ra ngoài ánh sáng. Với một sợi dây vô tận bà tôi nối tất cả mọi vật xung quanh tôi lại, đan thành một tấm đăng-ten nhiều màu sắc, và lập tức trở thành người bạn thân thiết suốt đời tôi, một người gần gũi nhất với lòng tôi, một con người dễ hiểu nhất và yêu quý nhất. Tấm lòng yêu mến vô tư của bà tôi đối với mọi người đã làm cho tâm hồn tôi thêm phong phú, đã truyền sức mạnh không gì khuất phục nổi để đương đầu với những ngày tháng gieo neo.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:50:54 | Xem tất
Bốn mươi năm về trước tàu thủy chạy rất chậm, chúng tôi phải đi khá lâu mới tới Nijni. Tôi còn nhớ rất rõ những ngày đầu tiên vô cùng đẹp đẽ ấy. Trời rất đẹp, suốt từ sáng đến tối, tôi với bà tôi đứng trên boong tàu dưới bầu trời trong sáng, giữa đôi bờ sông Vonga được mùa thu thêu lên một màu vàng óng, trông như hai dải lụa. Con tàu màu gạch tươi đi ngược dòng sông, bánh lái uể oải khuấy động mặt nước xanh sẫm. Con tàu kéo theo ở đầu sợi dây cáp dài một chiếc sà-lan xám trông giống như con bọ đất. Mặt trời lững lờ di chuyển trên sông Vonga; cảnh vật xung quanh đổi mới từng giờ từng phút. Những ngọn đồi xanh giống như những nếp gấp lộng lẫy trên bộ y phục sang trọng của mặt đất; hai bên bờ sông, các thành phố và làng mạc nom xa xa như những chiếc bánh; thỉnh thoảng có chiếc lá thu vàng bập bềnh trên mặt nước.
-Cháu nhìn xem, đẹp chưa kìa!
-Chốc chốc bà tôi lại nhắc lại và đi từ thành tàu bên này sang thành bên kia. Bà tôi rạng rỡ hẳn lên, đôi mắt mở to vì vui sướng. Bà tôi mải nhìn lên bờ, nhiều lúc quên cả tôi. Bà tôi đứng cạnh thành tàu, khoanh tay trước ngực, mỉm cười, im lặng, nước mắt rưng rưng. Tôi giật giật chiếc váy sẫm màu có thêu hoa của bà tôi.
-Gì thế? -Bà tôi giật mình.
-Bà tưởng như đang thiu thiu ngủ và nằm mơ ấy.
-Sao bà lại khóc?
-Bà vui sướng đấy cháu ạ, mà cũng vì tuổi già nữa! -Bà tôi vừa nói vừa mỉm cười.
-Bà đã già rồi, bà đã trải qua sáu mươi xuân rồi còn gì nữa! Sau khi hít thuốc lá, bà tôi bắt đầu kể cho tôi nghe những câu chuyện kỳ quái về bọn cướp phúc đức, về các vị thánh, về những loài dã thú và lũ ác quỷ.
Những chuyện thần thoại được bà tôi kể bằng một giọng khe khẽ, đầy bí ẩn. Bà tôi cúi xuống, nhìn thẳng vào mắt tôi, hai con ngươi mở rộng như muốn truyền vào lòng tôi một sức mạnh lôi cuốn tôi lên. Bà tôi nói y như hát, và càng nói lời bà tôi càng vang lên nhịp nhàng. Nghe bà tôi nói thật thú vị không thể tả được. Tôi lắng nghe và vòi thêm:
-Kể nữa đi bà!
-ừ, thì kể nữa: ngày xưa có một vị gia thần ngồi ở phía dưới lò sưởi, bị mì ống cắm vào chân. Lão vừa lắc la lắc lư vừa rên rỉ và khóc tỉ ti: "ôi, chuột con ơi, đau quá, ôi chuột con ơi, ta không thể chịu nổi!" Bà tôi nhấc một chân lên, hai tay ôm lấy và nhăn mặt lại giãy giãy nom đến buồn cười, y như chính bà tôi đau vậy. Các bác thuỷ thủ rậm râu và hiền lành đứng xung quanh lắng nghe, cười khúc khích, khen ngợi bà tôi và cũng yêu cầu:
-Bà kể chuyện nữa đi! Sau đó họ bảo:
-Mời bà cùng đi ăn tối với chúng tôi! Khi ăn, họ mời bà tôi uống rượu vôtka, còn tôi thì được ăn dưa hấu, dưa bở. Việc này phải làm giấu, vì trên tàu có một người cấm ăn hoa quả, lão ta tịch thu tất cả hoa quả và đem quẳng xuống sông.
Lão ăn mặc giống hệt một viên cảnh sát, cũng có những cúc áo bằng đồng, và lúc nào cũng say mềm. Mọi người thấy lão đều lẩn tránh. Mẹ tôi rất ít khi ra boong tàu và thường đứng lặng lẽ một mình, riêng ra một chỗ. Thân hình mẹ tôi to lớn, cân đối, khuôn mặt tối sầm và đanh lại, mái tóc vàng hoe, tết bím, vấn trên đầu thành một vòng nặng trĩu -toàn thân mẹ tôi trông thật lực lưỡng và rắn chắc. Giờ đây hình ảnh mẹ tôi hiện lên trong óc tôi như qua một lớp sương mù hoặc qua một đám mây trong vắt, trong đó lộ ra đôi mắt xám xa lạ và lạnh lùng cũng to như đôi mắt bà tôi. Có một lần mẹ tôi nói, giọng nghiêm nghị:
-Người ta cười mẹ đấy, mẹ ạ!
-Mặc họ!
-Bà tôi đáp vẻ vô tư.
-Cho họ cười, kệ họ. Tôi còn nhớ vẻ vui mừng như trẻ con của bà tôi khi nhìn thấy Nijni. Bà tôi kéo tay tôi, đẩy tôi về phía thành tàu và kêu lên:
-Cháu trông kìa, cháu trông kìa, đẹp không! Nijni đấy, cháu ạ! Nhờ ơn Chúa, thành phố mới đẹp làm sao! Cháu trông kìa, nhà thờ như bay là là trên mặt đất ấy! Rồi bà tôi yêu cầu mẹ tôi, giọng gần như khóc:
-Variusa, con nhìn đi chứ! Có lẽ con quên cả rồi cũng nên! Hãy vui lên con! Mẹ tôi mỉm cười, ủ rũ. Con tàu dừng lại trước một thành phố mỹ lệ, giữa dòng sông chật ních thuyền bè, tua tủa hàng trăm cột buồm nhọn hoắt. Một chiếc thuyền lớn đầy ắp người bơi lại gần thành tàu và ngoắc cái sào có móc vào chiếc thang người ta thả xuống. Những người trên thuyền lần lượt leo lên boong tàu. Một ông già bé nhỏ, gầy đét, leo lên rất nhanh, trước tất cả mọi người. ông cụ mặc bộ quần áo dài đen, râu màu hung và óng ánh như kim tuyến, mũi giống như mỏ chim và có đôi mắt xanh lục. Vì dịch tả đang hoành hành lúc bấy giờ nên phải làm như vậy.
-Bố!
-Mẹ tôi kêu tướng lên, giọng khàn khàn. Mẹ tôi nghiêng người về phía ông cụ. ông ôm lấy đầu mẹ tôi và đưa đôi bàn tay bé nhỏ, đỏ tía, vuốt nhanh vào má mẹ tôi. Rồi ông kêu lên, giọng the thé:
-Thế nào! Cô ả ngốc? A, a! Con thấy đấy... Chao ôi, lũ chúng bay... y... y thật là... Bà tôi hình như ôm hôn tất cả mọi người một lúc, cứ xoay tít như một chiếc chong chóng. Bà tôi vừa đẩy tôi đến trước mặt mọi người vừa nói vội vã với tôi:
-Nào, nhanh nhanh lên! Đây là cậu Mikhailô, đây là cậu Iakôp... mợ Nataláa, đây là các em cháu, cả hai cùng tên là Xasa, em gái Katêrina, tất cả đều là họ hàng nhà ta đấy. Cháu xem có đông không! ông tôi hỏi bà tôi:
-Bà nó có khỏe không? ông bà tôi ôm nhau ba lần. Rồi ông tôi kéo tôi ra khỏi đám người chen chúc, ôm lấy đầu và hỏi:
-Còn thằng này, mày là con cái nhà ai hả?
-Một thằng bé ở Axtrakhan, từ trong buồng tàu chạy ra...
-Nó nói cái gì thế?
-ông tôi hỏi mẹ tôi, và không chờ trả lời, đẩy tôi ra và nói:
-Đôi gò má giống bố như đúc... Thôi xuống thuyền đi! Tới bờ, chúng tôi cả tốp leo lên dốc, theo con đường rải đá cuội to, giữa hai bờ dốc cao phủ một lớp cỏ vàng hoe đã bị xéo nát. ông tôi và mẹ tôi đi đầu. ông tôi chỉ thấp đến ngang vai mẹ tôi, bước ngắn, nhưng đi rất nhanh. Mẹ tôi nhìn ông tôi từ trên xuống và bước đi như không chấm đất. Hai cậu tôi lặng lẽ bước theo sau: cậu Mikhain tóc đen mượt, người gầy đét giống ông tôi; cậu Iakôp tóc quăn và vàng hoe; có cả mấy người đàn bà to béo mặc áo dài lòe loẹt và năm sáu đứa trẻ con, đứa nào cũng lớn hơn tôi và đứa nào cũng im lặng. Tôi đi cùng với bà tôi và mợ Nataláa thấp nhỏ. Sắc mặt xanh xao, cặp mắt xanh biếc, bụng to tướng, mợ tôi thường phải dừng lại luôn và nói thì thầm hổn hển:
-ối, tôi không sao đi được nữa!
-Chúng nó bắt tội mày đi làm gì cơ chứ!
-Bà tôi càu nhàu vẻ tức giận.
-Cả nòi cả ổ đều ngu ngốc! Cả người lớn lẫn trẻ con, tôi không thích một ai cả. Tôi cảm thấy mình xa lạ giữa họ, ngay cả bà tôi hình như cũng mờ nhạt đi và trở nên xa cách đối với tôi. Đặc biệt tôi không thích ông tôi tí nào. Tôi cảm thấy ngay ông tôi là kẻ thù, ông làm cho tôi phải đặc biệt chú ý tới ông và gây cho tôi một mối hiếu kỳ lo sợ. Chúng tôi đi đến đỉnh dốc. ở tít trên cao, dựa lưng vào bờ dốc bên phải, bắt đầu phố, có một ngôi nhà thấp một tầng, sơn màu hồng nhem nhuốc, mái lụp sụp và cửa sổ nhô ra ngoài. Đứng ngoài đường nhìn vào, tôi tưởng ngôi nhà cũng khá rộng rãi, nhưng bên trong lại phân thành những buồng nhỏ, tranh tối tranh sáng, rất chật chội. Chỗ nào cũng thấy những người bực tức chạy ngược chạy xuôi như trên một con tàu cập bến và một lũ trẻ con lồng lộn như đàn chim sẻ hay cướp phá. Chỗ nào cũng có mùi hăng hăng là lạ. Tôi đi ra sân. Cái sân cũng đáng ghét: khắp sân treo đầy những tấm vải lớn ướt đẫm, để ngổn ngang những thùng nước đặc nhiều màu. Trong thùng cũng ngâm vải. ở một góc tường, trong trái nhà thấp lè tè đã xiêu vẹo, củi cháy rừng rực trong bếp lò. Có cái gì sôi lên sùng sục, và một người mà tôi không trông thấy nói to những tiếng kỳ lạ:
-Xantan
-fucxin
-cupơrôx...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:53:28 | Xem tất
Chương 2




Một cuộc sống sôi nổi nhiều màu sắc, kỳ quặc đến khó tả bắt đầu và trôi qua nhanh chóng lạ thường. Tôi nhớ lại cuộc sống đó như nhớ lại một chuyện cổ tích hãi hùng do một thiên tài tốt bụng nhưng chân thật một cách tàn nhẫn đã khéo kể lại. Giờ đây khi hồi tưởng lại quá khứ, chính tôi đôi khi cũng khó tin được rằng tất cả thực sự là như vậy. Có nhiều điều tôi muốn tranh cãi, muốn phủ nhận, chính vì cuộc sống tối tăm của "cái nòi ngu ngốc" ấy có quá nhiều những điều tàn nhẫn. Nhưng sự thật vẫn hơn lòng thương hại, vả lại câu chuyện tôi kể đây đâu có phải nói về bản thân tôi, mà nói về cuộc sống chật hẹp, ngột ngạt, đầy những ấn tượng khủng khiếp mà người thường dân Nga đã sống và hiện đang sống. Nhà ông tôi đầy một không khí thù hằn giữa người nọ với người kia như đám sương mù dày đặc; sự thù hằn đó đã đầu độc người lớn, và thậm chí đến cả trẻ con cũng góp phần tích cực vào đó. Sau này, qua những câu chuyện bà tôi kể, tôi được biết rằng mẹ tôi trở về đúng vào lúc các cậu tôi đang nằng nặc đòi ông tôi phải chia gia tài. Việc mẹ tôi đột nhiên trở về càng làm tăng thêm ý muốn ra ở riêng của họ. Họ sợ rằng mẹ tôi sẽ đòi lại số của hồi môn thuộc phần mẹ tôi nhưng bị ông tôi giữ lại vì mẹ tôi đã "tự ý" đi lấy chồng, không được ông tôi ưng thuận. Các cậu tôi cho rằng số của hồi môn đó phải được đem chia cho họ. Từ lâu họ cũng đã cãi nhau kịch liệt xem ai là người được mở xưởng ở trong thành phố và ai sẽ ở khu ngoại ô Kunavinô, bên kia sông ska. ít ngày sau, khi chúng tôi tới, một vụ cãi cọ đã nổ ra ở nhà bếp giữa bữa ăn trưa: các cậu tôi đột nhiên chồm dậy, nhoài người qua mặt bà và bắt đầu gầm rít, la hét vào mặt ông tôi, răng nhe ra, gầm gừ nhau như một bầy chó. ông tôi đỏ mặt tía tai, lấy chiếc thìa nện xuống mặt bàn và thét váng lên như tiếng gà trống:
-ông sẽ cho chúng mày đi ăn mày cả nút! Bà tôi mặt nhăn nhó một cách đau đớn, nói:
-Cứ đem chia tuốt cho chúng nó, ông ơi! ông sẽ được yên thân. Cho tất chúng nó đi!
-Xì, bà lại định về hùa với chúng nó phải không? ông tôi thét lên, hai mắt long lanh. Và thật là lạ, một người bé nhỏ như ông tôi mà lại có thể thét to đến thế. Mẹ tôi rời khỏi bàn, đứng dậy và từ từ đi lại phía cửa sổ, đứng xoay lưng về phía mọi người. Bỗng cậu Mikhain vung tay đấm vào mặt người em, cậu này thét lên, lăn xả vào anh và cả hai người lăn trên sàn, vừa thở, vừa rên, vừa chửi rủa.
Lũ trẻ con òa lên khóc. Mợ Nataláa đang có mang kêu than một cách tuyệt vọng. Mẹ tôi kéo mợ đi ra chỗ khác. Epgênáa, mụ vú nuôi mặt rỗ, vui tính, đuổi lũ trẻ ra khỏi nhà bếp. Ghế đổ lổng chổng; anh thợ học nghề Txưganôc, một thanh niên có đôi vai rộng, cưỡi lên lưng cậu Mikhain, còn bác thợ cả Grigôri Ivanôvitạ hói đầu, rậm râu và đeo kính râm thì bình tĩnh lấy một chiếc khăn mặt trói hai tay cậu ấy lại. Cậu Mikhain vươn cổ về phía sau, bộ râu đen và thưa cọ xuống mặt sàn, miệng thở khò khè một cách khủng khiếp. ông tôi thì vừa chạy xung quanh bàn vừa kêu la thảm thiết:
-Anh em, máu mủ với nhau mà thế đấy! Chao ôi, lũ chúng bay... y... y thật là... Ngay từ đầu cuộc cãi nhau, tôi sợ quá, đã leo phóc lên lò sưởi. Từ trên đó tôi kinh ngạc nhìn Bà tôi đang lấy nước ở chậu thau bằng đồng và rửa những vết máu trên mặt cậu Iakôp. Cậu vừa khóc vừa giậm chân xuống mặt sàn, còn bà tôi thì nói bằng một giọng khó nhọc:
-Quân đáng nguyền rủa, đồ mọi rợ, phải tu tỉnh lại chứ! ông tôi vắt chiếc áo bị rách toạc lên vai và thét bà tôi:
-Này, mụ phù thủy! Mụ đã đẻ ra một lũ súc sinh đấy! Khi cậu Iakôp đã đi khỏi, bà tôi chạy lại góc nhà, kêu gào thảm thiết:
-Lạy Đức Bà Marya, Mẹ của Chúa Lời, xin Đức Bà đừng để con cái chúng con sa vào sự dữ. ông tôi đứng lên, ngoảnh về phía bà tôi, đưa mắt nhìn chiếc bàn trên đó mọi thứ còn đổ ngổn ngang, lênh láng và nói nhỏ:
-Bà liệu mà theo dõi chúng nó, kẻo chúng nó sẽ hành tội con Vacvara cho mà xem, chưa biết chừng...
-Thôi đi, đừng nghĩ nhảm nữa! Cởi áo ra, đưa đây tôi vá cho... Rồi bà tôi ôm lấy đầu ông tôi hôn vào trán. ông tôi trông thật bé nhỏ bên cạnh bà tôi và cứ úp mặt vào vai bà tôi:
-Có lẽ phải chia thôi, bà nó ạ...
-Phải, phải chia đi, ông ạ! Hai người nói chuyện với nhau hồi lâu, lúc đầu còn thân mật, sau ông tôi giậm chân xuống sàn như con gà trống trước lúc chọi nhau, giơ ngón tay ra dọa bà tôi và thều thào nói to:
-Tôi biết bà lắm, bà chiều chúng nó lắm! Thằng Miska của bà chỉ là đứa gian giảo, còn thằng Iaska thì là một tên vô lại! Rồi chúng nó sẽ nốc đến hết nhẵn của cải của tôi cho mà xem, chúng sẽ đem phung phí hết. Ngồi trên mặt lò sưởi, tôi trở mình không khéo, làm rơi chiếc bàn là. Chiếc bàn là lăn ầm ầm trên bậc lò sưởi rồi rơi tõm vào thùng nước rác. ông tôi nhảy lên bậc, kéo cổ tôi xuống, nhìn chằm chằm vào mặt tôi, dường như mới trông thấy tôi lần đầu.
-Ai đặt mày ngồi lên lò sưởi? Mẹ mày phải không?
-Cháu tự leo lên lấy.
-Nói láo.
-Không, cháu tự leo lên một mình thật mà. Vì cháu sợ. ông tôi đẩy tôi sang bên và khẽ bớp vào trán tôi.
-Y hệt như cái thằng bố mày! Thôi, cút đi! Được chuồn khỏi bếp, tôi mừng quýnh.
Tôi thấy rõ ông tôi thường đưa cặp mắt xanh thông minh và tinh nhanh theo dõi tôi, và tôi sợ ông tôi lắm. Tôi còn nhớ là tôi luôn luôn muốn lẩn tránh cặp mắt nẩy lửa đó. Tôi cảm thấy ông tôi là một người độc ác, nói với ai cũng bằng một giọng giễu cợt, châm chọc để gây sự và chọc tức mọi người.
-Chao ôi, lũ chúng bay... y... y thật là!
-ông thường la như vậy; tiếng "y" kéo dài của ông luôn gây cho tôi một cảm giác buồn rầu hoặc sợ hãi. Vào giờ nghỉ, lúc uống trà buổi tối, khi ông tôi, các cậu tôi và những người làm từ xưởng bước vào bếp, vẻ mệt mỏi, tay đầy xantan và cháy sém vì cupơrôx, tóc buộc băng vải, tất cả nom giống như những bức tượng thánh đen sạm đặt ở góc bếp. Vào giờ phút hãi hùng đó, ông tôi thường ngồi đối diện với tôi và chuyện trò với tôi nhiều hơn những đứa cháu khác, khiến chúng phải ghen tị. ông tôi dáng người cân đối, mảnh khảnh, tư thế ung dung. Chiếc gi-lê bằng vải xa-tanh thêu đã cũ sờn, áo sơ-mi vải hoa thì nhàu nát và trên hai đầu gối quần lộ ra những miếng vá lớn. Tuy vậy trông ông tôi ăn mặc vẫn có vẻ sạch sẽ và chỉnh tề hơn các cậu tôi mặc vét-tông, sơ-mi ngực hồ cứng và quàng khăn lụa.
Tôi đến được vài hôm thì ông tôi bắt tôi học cầu kinh. Tất cả những đứa trẻ khác ở trong nhà đều lớn tuổi hơn tôi và chúng đã học đọc, học viết do một thầy phụ lễ của nhà thờ Đức Mẹ lên Trời dạy; qua cửa sổ của ngôi nhà có thể nhìn thấy những nóc nhà thờ tròn vàng chói. Mợ Nataláa dạy tôi học. Mợ là một người trầm lặng, sợ sệt, mặt trông rất trẻ con và có cặp mắt trong suốt khiến tôi có cảm tưởng rằng qua cặp mắt đó có thể nhìn thấy tất cả những gì ở phía sau mợ. Tôi thích nhìn vào mắt mợ thật lâu, không chớp. Mợ lim dim mắt, quay đầu tứ phía và khe khẽ năn nỉ tôi, giọng gần như thì thầm:
-Nào, cháu nói đi: "Lạy Cha chúng tôi ở trên trời..." Và nếu tôi có hỏi "Iakô jê là cái gì?" thì mợ sợ hãi nhìn xung quanh khuyên tôi:
-Cháu đừng hỏi, như thế không tốt! Cháu chỉ việc nói theo mợ: "Lạy Cha chúng tôi..." Nghe không? Tôi băn khoăn: tại sao hỏi lại không tốt? Tiếng "Iakô jê" như có nghĩa gì bí ẩn, và tôi cố tình tìm mọi cách xuyên tạc đi:
-"Iakôp jê", "Ia vơ kôjê"... Nhưng mợ tôi cứ kiên nhẫn chữa lại. Mặt mợ nhợt nhạt như sắp tan ra thành nước, giọng nói luôn luôn đứt quãng:
-Đừng, cháu chỉ việc nói: "Iakô jê" thôi... Nhưng bản thân mợ và cả những lời nói đều không tự nhiên. Điều đó khiến tôi bực mình và làm cho tôi không thể nào thuộc được bài kinh. Một hôm ông tôi hỏi:
-Thế nào, Aliôska, hôm nay mày làm gì? Lại đi chơi rồi! Cứ nhìn thấy cái bướu trên trán mày là đủ biết. Chơi mà bươu đầu bươu trán lên như thế thì không phải là khôn đâu! Thế còn bài kinh "Lạy Cha" đã thuộc chưa? Mợ tôi đáp khẽ:
-Nó tối dạ lắm. ông tôi cười khẩy, cặp lông mày màu hung khẽ rướn lên:
-Nếu vậy thì phải nện cho nó một trận! Và ông lại hỏi tôi:
-Bố mày đã nện cho mày bao giờ chưa? Không hiểu ông tôi nói gì, tôi lặng im. Mẹ tôi nói:
-Không, Macxim không đánh nó bao giờ, còn cấm cả con nữa.
-Sao vậy?
-Bố nó bảo không thể dạy bằng roi vọt được.
-Rõ đồ ngốc, khốn khổ mồ ma cái thằng Macxim ấy. Lạy Chúa tha thứ cho con!
-ông tôi nói rành rọt, giọng giận dữ.
Những lời nói đó làm tôi bực mình. ông tôi nhận ra điều đó.
-Mày làm gì mà bĩu môi bĩu mỏ thế? Thật là thằng... Rồi, vuốt mái tóc hung bạc trên đầu, ông tôi nói thêm:
-Được, đến thứ bảy này tao sẽ tẩn cho thằng Xasa một mẻ về chuyện chiếc đê cho mà xem!
-Tẩn là thế nào?
-Tôi hỏi. Tất cả mọi người cười phá lên, ông tôi nói:
-Được, rồi khắc biết... Tôi nấp vào một chỗ và tưởng tượng: "tẩn" tức là thêu viền những áo dài người ta đưa nhuộm, còn "nện" và "đánh" thì chỉ là một, có lẽ thế. Người ta thường đánh ngựa, đánh chó, đánh mèo. ở Axtrakhan bọn cảnh sát đánh người Ba-tư, cảnh đó tôi đã thấy. Nhưng tôi chưa thấy người ta đánh trẻ con như vậy bao giờ, và ở đây tuy các cậu tôi cũng có khi cốc vào trán, khi thì bợp vào gáy lũ em họ tôi, nhưng lũ trẻ đối với việc đó có vẻ xem thường. Bị đánh, chúng chỉ xoa qua loa chỗ đau rồi thôi. Nhiều lần tôi hỏi chúng:
-Có đau không? Và bao giờ chúng cũng trả lời một cách can đảm:
-Không, chẳng đau gì cả! Câu chuyện lôi thôi về chiếc đê tôi có được biết. Chiều chiều, khoảng từ lúc uống trà cho đến bữa ăn tối, các cậu tôi và bác thợ cả thường can những mảnh vải nhuộm lại với nhau thành một "tấm" và gắn vào đó những cái nhãn bằng bìa. Để đùa bác Grigôri mắt đã gần mù, cậu Mikhain sai một đứa cháu lên chín tuổi lấy chiếc đê của bác Grigôri hơ lên ngọn nến. Thằng Xasa lấy chiếc kẹp vẫn dùng để gạt tàn nến cặp chiếc đê, hơ thật nóng, rồi lừa đặt xuống phía dưới tay bác Grigôri, và nấp đằng sau lò sưởi. Vừa lúc đó, ông tôi đi vào, ngồi xuống làm việc và đút ngay ngón tay vào chiếc đê nóng bỏng. Tôi còn nhớ, khi tôi nghe tiếng ồn ào chạy vào bếp thì ông tôi đang giơ những ngón tay bị bỏng lên nắm lấy tai, nhảy choi choi và la lớn:
-Đứa nào nghịch thế này? Đồ dã man! Cậu Mikhain cúi xuống bàn, lấy ngón tay búng chiếc đê thổi cho nguội. Bác thợ cả vẫn điềm nhiên ngồi khâu, những hình bóng nhảy nhót trên chiếc đầu hói lớn của bác. Cậu Iakôp chạy vào, nấp sau góc lò sưởi và cười khúc khích. Bà tôi thì đang xát khoai sống bằng một chiếc bàn xát.
-Thằng Xaska Iakôvôp nghịch đấy!- Cậu Mikhain bỗng nhiên nói.
-Nói láo!
-Cậu Iakôp từ phía sau lò sưởi nhảy ra, la lên. Trong một góc bếp, thằng con cậu Iakôp vừa khóc mếu vừa kêu:
-Không phải đâu bố ạ! Chính bác ấy xui con đấy! Bao ngón tay dùng khi khâu vá.
Hai cậu tôi bắt đầu cãi nhau. Còn ông tôi thì bỗng nguôi ngay. ông tôi lấy bột khoai đắp vào ngón tay rồi im lặng bước ra, kéo theo cả tôi ra ngoài. Tất cả mọi người đều nói rằng cậu Mikhain có lỗi. Cho nên đến lúc uống trà tôi hỏi xem cậu ấy có bị "tẩn" và bị "nện" không?
-Đáng lắm.
-ông tôi vừa càu nhàu vừa liếc nhìn tôi. Cậu Mikhain đấm tay xuống mặt bàn, thét mẹ tôi:
-Chị Vacvara, có bảo thằng chó con ấy câm đi không! Tôi thì vặn cổ nó đi bây giờ! Mẹ tôi nói:
-Cứ thử đụng vào nó mà xem... Thế là tất cả mọi người đều im lặng. Mẹ tôi có lối nói cộc lốc, những lời nói ấy như có sức mạnh đánh lui địch thủ, và làm cho họ phải hạ mình. Tôi thấy rõ là tất cả mọi người đều sợ mẹ tôi. Ngay cả ông tôi cũng nói với mẹ tôi nhẹ nhàng, không giống như nói với những người khác. Thấy vậy tôi rất thích thú, và thường khoe với lũ em họ với vẻ tự hào:
-Mẹ tớ mạnh nhất! Chúng cũng chẳng phản đối. Nhưng rồi câu chuyện xảy ra hôm thứ bảy sau đã làm lay chuyển lòng tin của tôi đối với mẹ tôi.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:57:43 | Xem tất
Trước hôm thứ bảy, tôi cũng phạm phải một lỗi nặng. Tôi rất thích xem người lớn làm thay đổi màu vải, thật là tài tình: chẳng hạn người ta lấy vải vàng nhúng vào nước màu đen, thế là vải hóa thành màu xanh thẫm, "màu chàm"; cho màu xám vào nước màu gạch thì trở thành đo đỏ, màu "boócđô". Thật là dễ dàng, nhưng khó hiểu. Tôi cũng muốn tự mình nhuộm một vật gì, tôi liền nói chuyện đó với thằng Xasa Iakôvôp. Nó là một thằng bé rất đứng đắn, muốn được người lớn không coi thường, đối với ai cũng dịu dàng, sẵn sàng giúp đỡ tất cả mọi người trong mọi trường hợp. Người lớn khen nó dễ bảo, thông minh, nhưng ông tôi thường lườm nó và nói:
-Đồ nịnh hót! Thằng Xasa Iakôvôp người gầy khẳng, đen thui, hai mắt lồi như hai mắt tôm. Nó thường nói vội vã, lí nhí, hay nuốt tiếng và lúc nào cũng lấm lét nhìn quanh như định chạy trốn đi đâu. Hai con ngươi màu nâu sẫm của nó thường không động đậy, nhưng mỗi khi nó bị kích động lại rung lên cùng với lòng trắng. Tôi không ưa nó. Tôi thích thằng Xasa Mikhailôp hơn. Nó là một thằng bé chẳng có gì đáng để ý, thầm lặng, chậm chạp, có cặp mắt buồn và nụ cười hiền lành, rất giống người mẹ dịu dàng của nó. Bộ răng nó không được đẹp, chìa cả ra ngoài miệng và ở hàm trên lại mọc thành hai hàng. Bộ răng này làm nó bận tâm lắm; lúc nào nó cũng cho tay vào mồm lay những chiếc răng mọc ở hàng sau để định nhổ đi và ai muốn sờ vào hàm răng của nó cũng được. Ngoài ra, tôi không thấy nó có cái gì hay hơn. Trong nhà chật ních người nhưng nó sống lẻ loi. Nó thích ngồi trong những xó tranh tối tranh sáng, và buổi chiều thì ngồi bên cửa sổ. Thật thú vị khi cùng ngồi với nó im lặng bên cửa sổ, và cứ ngồi sát bên nhau im lặng như thế hàng tiếng đồng hồ, nhìn những con quạ đen bay lượn trên bầu trời đỏ ối trong buổi hoàng hôn, quanh những chiếc tháp tròn vàng rực của ngôi nhà thờ Đức Mẹ lên Trời. Chúng bay tít lên cao, rồi lao vút xuống. Và bỗng như một tấm lưới đen, chúng phủ kín bầu trời đang tắt, rồi chúng biến đi đâu mất, để lại sau chúng một khoảng không trống rỗng. Nhìn cảnh tượng đó người ta không muốn nói gì nữa, và một nỗi buồn man mác xâm chiếm lấy tâm hồn.
Thằng Xasa, con cậu Iakôp, thì chuyện gì cũng có thể nói thao thao bất tuyệt, và chững chạc như người lớn. Biết tôi muốn học nhuộm, nó khuyên tôi vào trong tủ lấy ra chiếc khăn trải bàn màu trắng tinh vẫn dùng trong những ngày lễ và đem nhuộm thành màu xanh.
-Màu trắng là dễ nhuộm nhất, tớ biết!
-Nó nói giọng rất nghiêm trang. Tôi lôi ra chiếc khăn trải bàn lớn và chạy ra sân. Nhưng khi tôi vừa nhúng một đầu khăn vào thùng nước "chàm" thì anh Txưganôc bỗng từ đâu lao tới. Anh giật lấy chiếc khăn, rồi dùng hai bàn tay to lớn vắt nước và thét thằng em họ tôi đang nấp ở phòng ngoài để theo dõi việc làm của tôi:
-Gọi bà ra mau lên! Rồi anh lắc cái đầu tóc đen bù xù như cáo trước điềm chẳng lành, và bảo tôi:
-Hừ, chuyến này thế nào mày cũng bị một trận đòn nên thân! Bà tôi chạy tới, vừa rên rỉ và khóc lóc, vừa chửi tôi bằng những câu nghe đến buồn cười:
-ôi, thằng trời đánh thánh vật kia, sao quỉ thần không đem mà quật chết mày đi! Rồi bà tôi nói với anh Txưganôc:
-Này, Vanáa, đừng nói gì với ông nhé! Tao sẽ giấu kín chuyện này, may ra có thể thoát được... Anh Vanka chùi hai tay ướt vào chiếc tạp-dề nhem nhuốc, nói với vẻ lo lắng:
-Cái đó thì việc gì đến con? Con không nói đâu, song coi chừng thằng Xasa nó mách đấy!
-Tao sẽ cho nó hai kôpêch,
-bà tôi nói và dẫn tôi vào trong nhà. Đến thứ bảy, trước giờ cầu nguyện, có người dẫn tôi vào bếp. Trong bếp tối om om và im lặng. Tôi còn nhớ cửa vào phòng ngoài và các phòng lúc đó đều đóng chặt, và bên ngoài cửa sổ là ánh sáng u ám của một buổi chiều thu, tiếng mưa rơi tí tách vào cửa kính. Trước cửa lò sưởi đen kịt, anh Txưganôc đang ngồi trên một chiếc ghế dài lớn. Trông anh giận dữ, Tức Ivan, cách gọi tắt, Ivan là tên. Txưganốc là biệt hiệu. Tức Ivan, cách gọi tắt thân mật. khác hẳn ngày thường. ông tôi đứng trong góc cạnh một thùng gỗ, chọn ở trong thùng ra những chiếc roi dài, lấy tay đo từng chiếc rồi xếp lại với nhau và quất vun vút vào không khí. Bà tôi đứng ở một chỗ tối hít thuốc rít lên và càu nhàu:
-Sướng lắm đấy... đồ tàn bạo!... Thằng Xasa Iakôvôp ngồi trên chiếc ghế ở giữa bếp hai tay dụi mắt, nói giọng kéo dài nghe rất lạ, giống như một ông lão hành khất:
-Xin ông hãy vì Chúa mà tha cho cháu. Đằng sau chiếc ghế, hai đứa con cậu Mikhain, một trai một gái, đứng tựa vai vào nhau, im thin thít như những khúc gỗ.
-Tao quật xong rồi tao tha,
-ông tôi nói, tay vuốt một chiếc roi dài và ướt,
-nào, tụt quần ra!... ông tôi nói rất thản nhiên. Và cả tiếng nói của ông, của tiếng thằng bé giãy giụa trên chiếc ghế ken két, cả tiếng giậm chân của bà tôi
-tất cả đều không thể nào làm khuấy động được cái không khí trầm lặng đang bao trùm lên căn bếp nhá nhem tối, dưới chiếc mái thấp lè tè đầy bồ hóng. Thằng Xasa đứng lên, cởi quần, tụt xuống đến đầu gối và hai tay giữ quần, nó cúi lom khom, lập cập bước đến chiếc ghế dài. Nhìn nó thật là thương tâm, hai chân tôi cũng run lên. Tệ hơn nữa là khi thấy nó ngoan ngoãn nằm úp mặt xuống chiếc ghế dài, còn anh Vanka thì lấy một chiếc khăn lớn trói nó vào ghế qua nách và cổ. Anh cúi xuống và dùng hai cánh tay đen thui giữ chặt lấy cổ chân nó.
-Lêcxây,
-ông tôi gọi,
-lại gần đây!... Kìa, có nghe tao nói gì không?... Đây, hãy trông tao quật nó đây này... Một! ông vung tay lên không cao và vụt chiếc roi vào tấm thân trần truồng. Xasa kêu thét lên.
-Nói láo,
-ông tôi nói,
-có đau đâu! Cái này mới đau hơn này! ông tôi đánh đến nỗi da giộp ngay lên, trên lưng hằn những vệt đỏ. Thằng em họ tôi rú lên một tiếng dài.
-Không dễ chịu à?
-ông tôi hỏi, tay vẫn đều đặn đưa lên đưa xuống.
-Không thích hả? Roi này là về tội chiếc đê này! Mỗi khi ông tôi vung tay lên, tất cả mọi thứ trong ngực tôi đều dâng lên theo, và khi cánh tay hạ xuống thì dường như cả người tôi cũng rơi xuống. Xasa rít lên the thé, nghe thật khó chịu:
-Cháu chừa rồi... ì... ì... Cháu chẳng mách chuyện chiếc khăn bàn là gì... Cháu đã mách... ông tôi nói giọng bình thản như đọc Thánh thi:
-Tố cáo không phải là đã hết tội! Đứa tố cáo phải được ăn đòn trước tiên. Này đây, về chiếc khăn bàn! Tức Alêcxây.
Bà tôi lao về phía tôi, nắm lấy tay tôi và thét lên:
-Tôi không đưa thằng Lêcxây cho ông đâu! Không đưa đâu! Đồ quỷ sứ! Bà lấy chân đạp vào cửa và gọi:
-Varáa, Vacvara!... ông tôi bổ nhào về phía bà tôi, đẩy bà tôi ngã, giằng lấy tôi và đem lại chiếc ghế dài. Tôi giãy giụa trong tay ông tôi, giật bộ râu màu hung và cắn vào ngón tay ông. ông tôi kêu thét lên, ghì chặt lấy tôi và cuối cùng ném tôi xuống chiếc ghế dài, làm tôi sây sát cả mặt mũi. Tôi còn nhớ tiếng thét man rợ của ông tôi.
-Trói nó lại! Tao sẽ giết nó! Tôi còn nhớ bộ mặt trắng bệch và cặp mắt mở to của mẹ tôi. Mẹ tôi vừa chạy dọc theo chiếc ghế vừa thở hổn hển:
-Đừng, bố ơi! ... Trả nó cho con...
    Ông tôi đánh cho đến khi tôi ngất đi. Mấy ngày liền tôi ốm, phải nằm sấp trên một chiếc giường rộng nóng bức, trong một căn phòng nhỏ chỉ có một cửa sổ với một ngọn đèn đỏ tù mù suốt ngày đêm ở góc phòng, trước mặt chiếc tủ có bày rất nhiều tượng thánh. Những ngày đau ốm là những ngày đáng ghi nhớ của đời tôi. Trong những ngày đó chắc tôi đã lớn lên rất nhiều và cảm thấy như có cái gì khác thường. Từ đó trở đi, tôi đâm ra quan tâm lo lắng đối với mọi người; và hệt như người ta đã lột mất lớp da ở trái tim tôi đi nên nó trở nên hết sức nhạY bén đối với mọi nỗi đau đớn và sỉ nhục, dù là tôi hay người khác phải chịu. Trước hết, cuộc cãi nhau giữa bà tôi và mẹ tôi đã làm cho tôi hết sức ngạc nhiên: trong căn phòng chật hẹp, bà tôi, người to lớn và vận đồ đen, tiến về phía mẹ tôi, dồn mẹ tôi vào góc phòng, chỗ để các tượng thánh, và rít lên:
-Sao mày không lại mà giằng nó ra, hả?
-Con sợ.
-ôi, mày khỏe như vâm mà còn sợ! Thật xấu hổ, Vacvara! Tao già thế này mà tao không sợ! Thật xấu hổ!...
-Để cho con yên mẹ ơi, con đau lòng lắm...
-Không, mày không yêu nó, mày không thương thằng bé mồ côi! Mẹ tôi nói lớn, giọng mệt nhọc:
-Chính tôi cũng như một đứa mồ côi suốt đời! Rồi cả hai người ngồi trên chiếc hòm ở góc phòng khóc rất lâu. Mẹ tôi nói:
-Nếu không có thằng Alêcxây thì tôi đã đi khỏi nơi này rồi! Tôi không thể sống trong cái địa ngục này được nữa, không thể sống được, mẹ ơi! Không còn hơi sức nữa...
-Con là dòng máu của mẹ, trái tim của mẹ!
-Bà tôi thì thào nói. Tôi hiểu ra mẹ tôi không phải là kẻ mạnh, mẹ tôi cũng sợ ông tôi như mọi người. Tôi đã cản trở mẹ tôi đi khỏi cái nhà này, nơi mẹ tôi không thể sống nổi. Điều đó thật đáng buồn. ít lâu sau mẹ tôi biến khỏi nhà thật, không hiểu là đi đâu, thăm ai. Một hôm ông tôi bỗng xuất hiện, hệt như từ trần nhà rơi xuống. ông tôi ngồi xuống giường, đưa bàn tay lạnh như băng sờ vào đầu tôi:
-Chào cậu cả... Cháu trả lời đi, đừng giận ông!... thế nào?
Tôi chỉ muốn đá cho ông tôi một cái, nhưng tôi đau không cựa quậy được. Tóc ông tôi trông càng đỏ hơn mọi khi, đầu luôn luôn lắc lư, hai con mắt long lanh như đang tìm kiếm vật gì trên tường. ông tôi lấy trong túi ra một chiếc bánh bích qui hình con dê, hai chiếc kẹo bọc đường hình chiếc kèn, một quả táo và một chùm nho khô màu xanh rồi đặt tất cả lên trên gối, ngay trước mặt tôi.
-Cháu thấy không, ông đem quà cho cháu đấy! ông tôi cúi xuống và hôn vào trán tôi. Sau đó ông tôi bắt đầu vừa nói vừa khe khẽ xoa đầu tôi với bàn tay bé nhỏ, cứng quèo và vàng khè, nhất là những móng tay cong như móng chim.
-Hôm trước ông đánh cháu đau quá phải không? ông nóng quá! Tại cháu cào và cắn ông nên ông giận. Nhưng không sao, cháu có bị đòn quá mức thì rồi đâu cũng vào đấy cả! Cháu phải biết, mỗi khi người thân thích đánh cháu thì đó không phải là điều sỉ nhục, mà là một bài học! Không nên để cho người ngoài đánh mình, nhưng đối với người trong nhà thì chẳng sao. Cháu tưởng trước kia ông không bị đánh ư? Aliôsa, ông bị đánh đến nỗi ngay cả trong giấc mơ khủng khiếp cháu cũng không thấy được. ông bị sỉ nhục đến nỗi giá Chúa trông thấy chắc Chúa cũng phải khóc! Kết quả là thế nào? Từ một đứa trẻ mồ côi, con một người đàn bà nghèo, ông đã có địa vị như bây giờ. ông đứng đầu một phường nhuộm, ông điều khiển mọi người. Với thân hình gầy và cân đối nằm xuống bên cạnh tôi, ông tôi bắt đầu kể về những ngày thơ ấu của mình bằng những lời lẽ rắn rỏi và mạnh mẽ, lời nọ nối tiếp lời kia một cách dễ dàng và khéo léo. Hai con mắt xanh của ông tôi rực sáng lên. ông tôi vui vẻ vò rối bù mớ tóc vàng óng, rồi cất giọng the thé như quát vào mặt tôi:
-Cháu đến đây bằng tàu thủy phải không? Hơi nước đưa cháu đến đấy! Còn ông, khi còn trẻ, chính ông đã phải dùng sức kéo các sà-lan đi ngược sông Vonga. Sà-lan thì ở dưới nước, ông thì đi trên bờ. ông đi chân đất trên đá nhọn, trên những chỗ đất sụt, và cứ đi như thế suốt từ lúc mặt trời mọc cho đến tối mịt. Nắng xiên vào gáy, đầu nóng bỏng như than, người cúi gập thành ba khúc, xương kêu răng rắc... Vậy mà vẫn phải đi, đến đường đi cũng không trông thấy, hai mắt nhòa lệ và mồ hôi, lòng đau đớn ê chề...
ôi chà, Aliôsa, cháu cứ im ông kể cho mà nghe! Cứ thế đi, đi mãi, cho đến lúc tuột khỏi dây, ngã giúi xuống đất. ấy thế nhưng lại mừng, bởi vì tất cả sức lực đã cạn rồi: miễn sao được nghỉ ngơi, hay chết quách! Đó, người ta đã sống dưới mắt Chúa Giêsu nhân từ như thế đó!... Đã ba lần ông đếm bước trên dòng sông Cái Vonga: từ Ximbiêc đến Rưbinxkơ, từ Xaratôp đến đây và từ Axtrakhan đến hội chợ Makariep. Hàng bao nhiêu nghìn dặm đường! Cho đến năm thứ tư thì ông trở thành phu trưởng của anh em phu kéo thuyền, vì ông đã cho lão chủ biết được tài của ông!... ông tôi nói, và bỗng vụt lớn lên trước mắt tôi như một đám mây, từ một ông già bé nhỏ và quắt queo biến thành một người có sức mạnh phi thường, một mình kéo cả một chiếc sà-lan khổng lồ đi ngược dòng sông... Thỉnh thoảng ông tôi lại nhảy từ trên giường xuống đất và vung tay làm điệu bộ cho tôi thấy những người kéo thuyền đi như thế nào, tát nước ở trên thuyền ra sao. ông tôi hát giọng trầm những bài gì đó, xong lại nhảy lên giường, nhanh nhẹn như một thanh niên, trông thật kỳ lạ. Rồi ông lại nói, giọng càng say sưa hơn:
-Nhưng Aliôsa ạ, những lúc nghỉ, vào những buổi chiều hè ở Jiguli, dưới chân ngọn đồi xanh rì có khi bọn ông đốt lửa lên rồi nấu cháo. Và khi một người kéo thuyền đáng thương cất tiếng hát một bài hát thoát ra từ đáy lòng thì lập tức cả đoàn phu ầm ầm cất giọng hòa theo. Người như sởn gai ốc lên, và sông Vonga dường như lại càng chảy xiết. Nó lồng lộn như con ngựa bất kham, như muốn cất mình lên tận mây xanh! Lúc đó mọi nỗi đau khổ đều tiêu tan như làn bụi trước gió. Mọi người hát đến nỗi có khi để cháo trào cả ra ngoài; khi ấy cần phải nện cho anh chàng đầu bếp một muôi vào trán: "Chơi nhưng chớ bỏ lơi công việc!" Đã mấy lần có người ngó vào cửa gọi ông tôi, nhưng tôi van nài:
-ông đừng đi ông ạ! ông tôi mỉm cười và giơ tay đuổi mọi người:
-Đợi tí đã... ông tôi kể chuyện mãi cho đến tận chiều tối. Và khi đi ra còn âu yếm từ biệt tôi. Tôi biết ông tôi không phải là người dữ tợn và đáng sợ. Tôi ứa nước mắt khi nhớ lại rằng chính ông tôi đã đánh tôi tàn nhẫn như vậy. Tuy nhiên tôi vẫn không thể nào quên được chuyện đó. Việc ông tôi đến thăm đã mở rộng cửa cho tất cả mọi người, và từ sáng đến tối luôn luôn có người ngồi bên giường tôi, cố tìm mọi cách làm cho tôi khuây khỏa. Tôi còn nhớ điều đó không phải lúc nào cũng vui vẻ và thú vị. Bà tôi thường đến với tôi hơn Những tên cũ của thành phố Ulianôp và Tsecbakôp trên sông Vonga. Những ngọn núi rất đẹp ở khúc giữa sông Vonga. cả và cùng ngủ với tôi một giường nữa. Nhưng trong những ngày đó, người đã để lại cho tôi ấn tượng tươi sáng nhất là anh Txưganôc. Vai anh vuông, ngực nở, đầu rất to với bộ tóc xoăn tít. Anh đến vào lúc chiều tối và ăn vận như ngày hội: áo lụa vàng, quần nhung bông và đi đôi ủng gập nếp kêu ken két. Tóc anh bóng láng, cặp mắt lấp lánh dưới đôi lông mày rậm, hàm răng trắng ẩn dưới bộ ria mép đen mới mọc. Chiếc áo vàng rực phản chiếu ánh lửa đỏ của ngọn đèn thờ không bao giờ tắt
-Này em, trông đây này,
-anh nói và vén tay áo lên, chìa cho tôi xem cánh tay trần đầy những vết đỏ đến tận khuỷu.
-Em xem nó sưng thế đấy! Mấy hôm nọ còn tệ hơn nữa, hôm nay đã bắt đầu bớt nhiều rồi! Em có biết không, thấy ông nổi giận và bắt đầu đánh em, anh liền giơ ngay cánh tay này ra đỡ. Anh định chờ khi nào roi gẫy, ông đi lấy chiếc khác thì bà hoặc mẹ sẽ bế em chạy đi! Nhưng chiếc roi lại không gẫy, vì ngâm nước nên dẻo quá! Nhưng dù sao em cũng đỡ bị đòn có phải không? Đấy em xem, anh cũng láu cá đấy chứ... Anh cười vẻ âu yếm, dịu dàng và lại ngắm nghía cánh tay sưng phồng, rồi vừa cười vừa nói:
-Anh thương em quá, đến nỗi cổ họng anh cứ nghẹn lại. Tội nghiệp! Thế mà ông cứ vụt mãi... Anh thở phì phì như ngựa và lắc đầu, rồi anh bắt đầu nói chuyện về ông tôi. Trong chốc lát anh đã trở nên gần gũi đối với tôi và giản dị như một đứa trẻ. Tôi bảo anh rằng tôi yêu anh lắm. Anh trả lời thật chất phác khó mà quên được:
-Anh cũng yêu em lắm, chính vì yêu em nên anh mới chịu đau thay cho em! Đứa khác thì đừng hòng, mặc xác chúng nó... Sau đó anh bắt đầu khuyên bảo tôi, anh nói khẽ, thỉnh thoảng lại nhìn ra cửa:
-Lần sau nếu em có bị đánh thì phải cẩn thận đấy, đừng có co rúm người lại hiểu không? Co dúm như thế sẽ đau gấp đôi; em cứ thả người cho thoải mái, sao cho người thật mềm, mềm nhũn ra ấy! Và đừng có nhịn thở, cứ thở thật mạnh và kêu tướng lên, nhớ đấy! Như thế rất tốt. Tôi hỏi:
-Thế ra còn bị đánh nữa à?
-Chứ sao?
-Anh Txưganôc nói vẻ thản nhiên.
-Tất nhiên, còn bị đánh nữa chứ! Rồi xem, em sẽ bị đánh luôn đấy...
-Vì sao?
-ông mà đã muốn kiếm cớ thì... Và anh lại lo lắng khuyên tôi:
-Nếu ông đánh từ trên cao, chỉ quất roi từ trên xuống thôi thì em cứ việc nằm yên, người thật mềm; còn nếu ông đánh giật
-quất xuống rồi lại giật về để rứt thịt ra
-thì em phải rướn người theo chiều chiếc roi, hiểu không? Như thế đỡ đau hơn! Anh nháy một bên mắt đen láy rồi nói:
-Về mặt này anh còn giỏi hơn cả cảnh sát đấy! Da của anh có lẽ đem khâu được bao tay em ạ! Tôi ngắm nét mặt vui tươi của anh và nhớ lại những chuyện cổ tích mà bà tôi đã kể về Hoàng tử Ivan và chàng ngốc Ivanuska.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 21:59:53 | Xem tất
Chương 3




ốm dậy, tôi thấy rõ anh Txưganôc giữ một địa vị đặc biệt trong nhà. ông tôi không mắng anh luôn miệng và bực tức như đối với các cậu tôi. Khi vắng mặt anh, ông tôi lim dim và gật gù nói về anh:
-Thằng Ivanka rất khéo tay! Chúng bay cứ nhớ lời tao nói: lớn lên nó sẽ khá cho xem! Các cậu tôi cũng đối xử với anh Txưganôc rất trìu mến, thân mật và không khi nào đùa cợt trêu anh như đối với bác thợ cả Grigôri mà hầu như chiều nào họ cũng kiếm một trò tinh nghịch gì để trêu. Khi thì họ nung nóng chuôi kéo, khi thì cắm ngược cái đinh nhọn hoắt vào ghế của bác, hoặc thấy bác lòa dở, họ để ngay bên tầm tay của bác những mảnh vải màu sắc khác nhau để bác đính thành một "tấm", thế là bác lại bị ông tôi chửi cho một mẻ. Một hôm, sau bữa ăn trưa, khi bác đang ngủ trên gác xép, họ lấy thuốc nhuộm đỏ bôi lên mặt bác. Bác cứ thế vác bộ mặt ngộ nghĩnh và đáng sợ ấy đi đi lại lại khá lâu: giữa bộ râu bạc lộ ra hai vết kính tròn mờ mờ và một cái mũi dài đỏ chót buông thõng xuống vẻ thiểu não nom giống như cái lưỡi. Các cậu tôi nghĩ ra không biết bao nhiêu những trò tinh nghịch như vậy. Nhưng bác thợ cả vẫn ngậm đắng nuốt cay chịu đựng, bác chỉ khẽ càu nhàu và trước khi sờ vào cái bàn là, cái kéo, cái kim hoặc cái đê, bác thường nhấp nước bọt đầy đầu ngón tay. Cái đó đã trở thành thói quen đối với bác; ngay cả khi ngồi vào bàn ăn trưa, trước khi cầm con dao hoặc cái dĩa, bác cũng nhấp nước bọt như vậy làm bọn trẻ con cười ồ cả lên. Khi nào bác đau khổ, trên khuôn mặt to của bác nổi lên vô số nếp nhăn. Những nếp nhăn này trườn trên trán bác một cách kỳ quái, khẽ kéo cặp lông mày lên, rồi biến mất vào cái đầu trọc lốc của bác. Tôi không nhớ ông tôi đối với những trò đùa của các cậu tôi ra sao, nhưng bà tôi thì giơ nắm đấm đe các cậu tôi và quát:
-Chúng mày không biết ngượng mặt à, quân vô lại!
Nhưng khi vắng mặt anh Txưganôc, các cậu tôi lại nói về anh với vẻ bực tức và châm biếm. Họ giễu cợt, chê bai việc làm của anh, nhiếc anh là thằng ăn cắp và lười biếng. Tức Ivan, cách gọi thân mật. Tôi hỏi bà tôi tại sao lại có chuyện ấy. Cũng như mọi lần, bà tôi vui lòng giảng giải cho tôi bằng những lời dễ hiểu:
-Cháu không biết, cả hai cậu cùng muốn tranh Vaniuska về phần mình, khi nào họ mở xưởng nhuộm riêng; thế là trước mặt nhau họ gièm pha nó, nói nó là một tay thợ tồi. Họ nói láo, họ lừa miếng nhau đấy. Họ còn sợ Vaniuska không đi với họ, sẽ ở lại với ông. Mà ông lại là người trái tính trái nết, ông có thể sẽ cùng với Ivanka mở một xưởng nhuộm thứ ba, như thế sẽ không lợi cho các cậu, cháu hiểu chưa? Bà cười khe khẽ:
-Họ dùng đủ mánh khóe, đến thánh cũng phải buồn cười! Nhưng ông lại biết tỏng những mưu mẹo đó và cố ý trêu hai cậu Iasa và Misa. ông bảo: "Tao sẽ mua cho thằng Ivan một tấm thẻ miễn đi lính để nó khỏi bị gọi đi lính, vì tao cần đến nó!" Các cậu bực tức, họ không thích thế và tiếc tiền, vì mua một tấm thẻ như vậy rất đắt! Tôi lại ở với bà tôi như khi ở trên tàu thủy. Tối nào trước khi đi ngủ bà tôi cũng kể cho tôi nghe những chuyện thần thoại hoặc kể về cuộc đời mình, cũng từa tựa như một chuyện thần thoại vậy. Bà tôi kể chuyện làm ăn của gia đình: chuyện phân chia gia tài cho con cái, chuyện ông tôi tậu nhà mới cho mình. Bà tôi vừa nói vừa khẽ cười, dửng dưng như người dưng nước lã hay một người hàng xóm láng giềng, chứ không phải là người chủ nhân thứ hai trong ngôi nhà này. Nhờ thế tôi mới biết anh Txưganôc là đứa con hoang nhặt được trên chiếc ghế dài ở cạnh cổng trong một đêm mưa đầu xuân.
-Nó nằm ở đấy, cuộn trong chiếc tạp-dề rộng,
-bà tôi kể, giọng trầm ngâm và có vẻ huyền bí,
-nó khẽ kêu oe oe và đã bắt đầu rét cóng.
-Tại sao người ta lại bỏ rơi trẻ con thế?
-Vì mẹ nó không có sữa, không có gì nuôi; thế là mẹ nó dò xem ở đâu có trẻ con mới đẻ bị chết liền đặt giấu nó ở đó. Sau một lát yên lặng, bà tôi gãi đầu, thở dài rồi nhìn lên trần nhà, nói tiếp:
-Tất cả đều là do nghèo túng, Aliôsa ạ, có cảnh khổ cực quá đến nỗi không thể nói ra được!
Người ta cho rằng con gái chưa chồng không có quyền đẻ, rằng đó là một điều hổ thẹn! ông định đưa Vaniuska tới sở cảnh sát, nhưng bà can ngăn: giữ lấy mà nuôi; đó là trời cho chúng ta để thay vào những đứa đã chết. Vì bà đẻ cả thảy mười tám bận; nếu tất cả đều sống thì chúng sẽ chiếm cả một dãy phố, tới mười tám ngôi nhà! Cháu không biết chứ, bà lấy chồng từ năm mười bốn tuổi, năm mười lăm bà đã đẻ, nhưng Chúa thích Tức Ivan, cách gọi thân mật. Tức Iakôp, cách gọi tắt. Tức Mikhain, cách gọi tắt. Ai có tấm thẻ này thì người đó khỏi phải đi lính. Muốn có nó, người ta trả một số tiền để đảm bảo việc nhập ngũ của một người tình nguyện. dòng máu nhà bà nên đã lần lượt bắt chúng về làm thiên thần. Bà vừa tiếc vừa mừng! Ngồi trên thành giường, mình mặc độc có chiếc áo cánh, mái tóc đen xõa xuống cả người, bà tôi to xù như một con gấu mà trước đây người tiều phu rậm râu vùng Xecgat đã đem về sân. Bà tôi làm dấu trên bộ ngực trắng phau như tuyết, cười khẽ và đung đưa toàn thân:
-Chúa đã bắt đi những đứa tốt, còn lũ chả ra gì thì để lại cho bà. Bà rất vui mừng được thằng Ivanka, bà rất yêu các cháu, các cháu ạ! Thế là bà nhận nó, rửa tội cho nó, và nó trở nên một thằng con trai ngoan ngoãn. Lúc đầu bà gọi nó là Bọ Dừa, vì nó hay vè vè chẳng khác gì con bọ dừa, suốt ngày nó bò và vè vè ở khắp các phòng. Cháu hãy yêu mến nó, nó là một người rất giản dị! Tôi yêu mến anh Ivan và nhiều khi ngạc nhiên đến ngây người về anh. Nhất là vào ngày thứ bảy, lúc ông tôi đi lễ nhà thờ, sau khi đã đánh lũ trẻ có lỗi trong tuần, thì trong nhà bếp lại diễn ra đủ mọi thứ trò vui khôn kể. Anh Txưganôc bắt những con gián đen ở sau lò sưởi, làm rất nhanh bộ dây cương bằng chỉ và cắt chiếc xe trượt tuyết bằng giấy. Sau đó anh dùng thanh đóm điều khiển bốn con ngựa ô đi du ngoạn trên chiếc bàn màu vàng đã cọ sạch. Anh kêu lên, giọng phấn khởi:
-Chúng nó đi tìm giám mục đấy! Anh gắn mảnh giấy nhỏ vào lưng một con gián, thúc nó chạy theo sau chiếc xe trượt tuyết và giải thích:
-Chúng nó bỏ quên cái bao. ông tu sĩ chạy theo đưa cho chúng đấy! Anh lấy chỉ trói chân một con gián; con vật bò lê, đầu đụng tứ tung. Anh Vanka vỗ tay reo lên:
-Lão phụ lễ đang từ quán rượu đi ra. Lão đi dự lễ chiều đấy! Anh lôi đàn chuột ra. Theo lệnh anh, chúng đứng và đi bằng hai chân sau, kéo lê chiếc đuôi dài lòng thòng theo sau và chớp chớp cặp mắt linh lợi như những hạt cườm đen nhánh trông đến buồn cười. Anh nâng niu đàn chuột, ôm chúng vào ngực, mớm đường, hôn hít và nói với giọng đầy tin tưởng:
-Chuột là giống vật thông minh, dịu dàng. Gia thần rất thích chuột. Ai mà nuôi chuột thì sẽ được gia thần ban ân cho... Anh biết làm các trò quỉ thuật với quân bài và đồng tiền. Anh kêu to hơn cả bọn trẻ con và hầu như không khác chúng mấy. Một hôm bọn trẻ chơi bài với anh, chúng thắng anh mấy ván liền. Anh rất buồn, tức giận bĩu môi bỏ cuộc, sau đó anh khịt khịt mũi và phàn nàn với tôi:
-Anh biết rõ, tụi chúng nó thông đồng với nhau trước! Chúng nó nháy nhau, giúi bài cho nhau dưới gầm bàn. Ai lại chơi như thế? Chính anh cũng biết chơi gian lận không kém... Người ta coi trẻ con chết ngay từ tuổi còn thơ là vô tội và gọi là "những thiên thần", họ tin rằng sau khi chết chúng trở thành thiên thần. Xecgat ở phía đông nam Nijni
-Nôpgôrôt chừng 130 cây số.
Anh đã mười chín tuổi, lớn hơn cả bốn đứa chúng tôi cộng lại. Nhưng đáng ghi nhớ nhất đối với tôi là hình ảnh của anh trong những tối vui ngày hội. Khi ông tôi và cậu Mikhain đi thăm bà con thì cậu Iakôp có bộ tóc quăn rối bù liền xách cây đàn ghi-ta xuống bếp. Bà tôi soạn một bữa tiệc trà có nhiều món ăn nhẹ và rượu vôtka đựng trong chiếc chai xanh có hoa đỏ bằng thủy tinh ở đáy. Anh Txưganôc mặc quần áo ngày hội quay tít như con quay. Bác thợ cả lặng lẽ len vào, cặp kính của bác lấp lánh. Có cả mụ vú nuôi Epgênáa mặt rỗ, hồng hào và béo tròn trùng trục như một cái chum; mụ có cặp mắt láu lỉnh và giọng nói oang oang. Thỉnh thoảng lão phụ lễ giữ đồ thánh rậm râu của nhà thờ Đức Mẹ lên Trời và những người có nước da đen nhẫy như những con cá măng và cá chuối, cũng tới dự. Mọi người vừa ăn uống lu bù, vừa thở dài thườn thượt. Họ chia quà bánh cho bọn trẻ con và cho mỗi đứa một cốc rượu ngọt. Dần dần cuộc vui trở nên náo nhiệt và sôi nổi kỳ lạ. Cậu Iakôp lên dây đàn say mê, và sau khi lên dây xong bao giờ cậu cũng nói câu này:
-Nào, tôi xin bắt đầu! Cậu hất mớ tóc quăn ra sau và cúi xuống cây đàn ghi-ta, vươn cổ dài như cổ ngỗng. Khuôn mặt tròn vô tư của cậu có vẻ mơ màng; cặp mắt linh lợi xa xăm của cậu trở nên lờ đờ. Cậu bấm nhẹ dây dàn, bài cậu chơi thu hút mọi người và làm cho mọi người ngây ngất. Điệu nhạc của cậu đòi hỏi sự im lặng hoàn toàn. Nó như dòng suối chảy xiết từ xa đổ về, lọt qua sân nhà và những bức tường. Nó làm cho trái tim mọi người xao xuyến và gợi lên cảm giác khó hiểu, vừa buồn bã vừa lo âu. Điệu nhạc làm cho người nghe cảm thấy thương mình và thương mọi người. Người lớn hình như cũng trở lại tuổi trẻ con, và mọi người ngồi yên, đắm mình trong bầu không khí im lặng, mơ mộng đăm chiêu.
Xasa Mikhailôp chăm chú nghe hơn cả. Nó cứ vươn dài người ra về phía cậu Iakôp, nhìn chằm chằm cây đàn ghi-ta, miệng há hốc, nước rãi chảy ròng ròng. Đôi khi nó mơ màng đến nỗi ngã từ trên ghế xuống, tay đập xuống sàn nhà; và lúc đó nó ngồi bệt luôn xuống sàn, cặp mắt đờ ra, tròn xoe. Mọi người cũng thế, ai cũng say mê đờ đẫn. Chỉ có chiếc ấm xamôva là khẽ reo reo, nhưng vẫn không át nổi tiếng than vãn của cây đàn ghi-ta. Hai chiếc cửa sổ vuông nhìn ra cảnh đêm thu tối mò. Đôi khi dường như nghe có người khẽ gõ vào cửa kính. Trên bàn ngọn lửa vàng khè của hai cây nến khẽ rung rinh, nhọn hoắt như những ngọn giáo. Cậu Iakôp mỗi lúc một thêm đờ người ra; cậu như ngủ say, hàm răng cắn chặt, chỉ có đôi bàn tay của cậu là còn hoạt động. Những ngón tay phải uốn cong, rung tít trên dây đàn giống như những con chim đang vỗ cánh sắp bay, những ngón tay trái lướt thoăn thoắt trên phím đàn.
Ngà ngà say, cậu khe khẽ hát một bài dài vô tận, giọng rít qua kẽ răng nghe rất khó chịu: Nếu Iakôp là chó
-Y sủa rống từ sáng đến tối; ôi, ta buồn ghê! ôi, ta chán ghê! Ngoài phố một cô mụ đi qua, Trên hàng rào một con quạ đậu. ôi, ta buồn ghê! ôi, ta chán ghê! Sau lò dế gáy, Đàn gián lao xao. ôi ta buồn ghê! Một gã ăn mày phơi đôi xà-cạp, Gã khác xoáy mất lúc nào! ôi, ta buồn ghê! ôi, ta chán ghê! Tôi không sao chịu nổi điệu hát này, và khi cậu bắt đầu hát tới đoạn gã ăn mày tôi liền khóc nức nở, lòng buồn rười rượi. Anh Txưganôc nghe nhạc cũng chăm chú như mọi người. Anh đan tay vào mớ tóc đen, nhìn chằm chằm vào góc nhà và thỉnh thoảng lại khịt mũi. Đôi khi anh thốt lên bất ngờ, giọng rầu rĩ:
-Chà, nếu ta tốt giọng, thì Lạy Chúa, ta hát phải biết! Bà tôi thở dài, nói:
-Thôi, Iasa, thật mày làm nẫu ruột nẫu gan mọi người! Còn mày, Vaniatka, nhảy đi một tí nào... Họ không bao giờ thực hiện ngay lời yêu cầu của bà tôi. Tuy nhiên đôi khi cậu Iakôp bỗng đặt bàn tay lên dây đàn một lát, rồi cậu nắm tay lại, ném mạnh xuống sàn một cái gì không ai trông thấy và không ai nghe thấy. Cậu kêu lên, giọng vui nhộn:
-Buồn với chả sầu, hãy vứt đi cho rảnh! Nào Vanka, đứng dậy! Anh Txưganôc sửa sang lại tư thế cho tề chỉnh, kéo chiếc áo sơ-mi vàng cho phẳng và rón rén bước ra giữa nhà bếp như bước trên đầu đinh vậy. Cặp má rám nắng của anh đỏ ửng lên. Anh mỉm cười có vẻ thẹn thùng và yêu cầu:
-Chơi nhanh lên một chút, Iakôp Vaxilits! Cây đàn ghi-ta vang lên điên cuồng, gót giày nện xuống sàn dồn dập. Trên bàn và trong tủ bát đĩa kêu lanh canh. ở giữa nhà bếp, anh Txưganôc quay tròn như ánh lửa, bay lượn như con diều hâu, vung vẩy tay như cánh chim, chân di chuyển hầu như không rõ. Anh bỗng thét lên một tiếng, rồi ngồi xổm xuống sàn và quay liệng như con chim én vàng óng. Chiếc áo lụa rọi ánh ra khắp xung quanh, rung rung lên, trông như dòng suối đang đổ ra hoặc như vàng nung đang chảy. Anh Txưganôc nhảy múa không biết mệt, quên tất cả. Tôi có cảm tưởng nếu mở toang cửa ra thì anh sẽ vừa đi vừa nhảy múa tung tăng khắp phố, khắp thành phố và không rõ anh sẽ đi những đâu nữa...
-Cắt ngang đi!
-Cậu Iakôp kêu lên và giậm chân xuống sàn đánh nhịp. Cậu huýt sáo rít lên và hát vang những điệp khúc khôi hài, giọng nghe đến bực mình: Chà! Nếu không sợ mòn đôi giày gai Thì ta đã bỏ rơi cả vợ cùng con! Những người ngồi sau chiếc bàn cũng thấy ngứa ngáy chân, thỉnh thoảng họ lại kêu rít lên như bị bỏng. Bác thợ cả rậm râu đập đập tay vào cái trán hói của mình và nói lắp bắp. Một hôm, cúi xuống người tôi, bộ râu mềm mại phủ cả lên vai tôi, bác ghé vào tai tôi nói như nói với người lớn:
-Lêcxây Macximitô ạ, giá có bố cháu ở đây thì có lẽ đã khác hẳn! Bố cháu rất vui tính. Cháu có nhớ thế không?
-Không.
-Thật à? Thường thường bố cháu hay nhảy với bà cháu, lát nữa rồi cháu coi! Bác đứng dậy, người cao lớn, hốc hác, trông như một bức tượng thánh, cúi mình trước bà tôi và mời bà, giọng trầm trầm khác thường:
-Bà Akulina Ivanôpna, xin bà làm ơn cho chúng tôi thưởng thức điệu nhảy trước đây bà thường nhảy với Macxim Xapvatêep ấy! Bà vui lòng chứ?
-Grigôri Ivanưts, lão rõ lạ chửa, rõ lạ chửa!
-Bà tôi vừa nói vừa cười và co dúm người lại. Vào tuổi tôi còn nhảy với nhót gì! Chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ...
Nhưng tất cả mọi người đều yêu cầu bà tôi nhảy. Thế là bỗng nhiên bà tôi đứng dậy nhanh nhẹn như một thiếu nữ, sửa lại váy, thẳng người ra, chiếc đầu nặng nề ngả ra sau, bà đi dọc theo gian bếp và nói to:
-Thôi được, các người cứ việc cười! Nào Iasa, chơi bài khác đi! Cậu tôi ngẩng đầu lên, vươn người ra, lim dim cặp mắt và bắt đầu chơi chậm lại. Anh Txưganôc dừng lại một lát, rồi lao tới chỗ bà tôi, nhảy ngồi xoay quanh. Còn bà tôi thì lướt nhẹ trên sàn như đi trên không, tay dang ra, lông mày rướn lên, cặp mắt đen chăm chăm nhìn về phía xa xa. Trông bà tôi đến hay và tôi phì cười. Bác thợ cả giơ ngón tay nghiêm mặt dọa tôi, tất cả người lớn đều nhìn về phía tôi với vẻ không tán thành.
-Thôi đừng nhảy nữa, Ivan!
-Bác thợ cả vừa nói vừa mỉm cười. Anh Txưganôc ngoan ngoãn vâng lời nhảy sang một bên và ngồi lên ngưỡng cửa, còn mụ Epgênáa thì vươn cổ ra và bắt đầu hát, giọng trầm trầm, êm êm: Suốt tuần cho đến ngày thứ bảy, Cô gái thêu đăng-ten cả ngày, Cô mệt rũ người vì bận rộn, ôi, khác nào cái xác không hồn! Hình như bà tôi không nhảy, mà đang kể một câu chuyện gì. Bà tôi lướt nhẹ nhàng, tư lự, người lắc lư, mắt nhìn khắp xung quanh, toàn thân to lớn rung chuyển ngập ngừng, đôi bàn chân như dò đường, bước đi thận trọng.
Bỗng nhiên bà tôi dừng lại như sợ hãi điều gì, khuôn mặt rung rung, nhăn nhó, rồi lập tức một nụ cười hiền hậu, cởi mở nở ra. Bà tôi đi nghiêng người như nhường lối cho ai và lấy tay mời họ đi. Bà cúi xuống, im lặng, lắng nghe và mỉm cười tươi tắn hơn. Rồi đột nhiên bà tôi rời khỏi chỗ, xoáy tròn như một cơn gió lốc. Toàn thân bà tôi như lớn thêm, lúc này không ai có thể rời cặp mắt được vì bà tôi trở nên đẹp đẽ và đáng yêu làm sao trong giây phút diệu kỳ trở lại tuổi thanh xuân ngày trước. Mụ Epgênáa rúc lên như kèn: Ngày chủ nhật cô gái nhảy múa Suốt từ lúc lễ sáng cho đến nửa đêm. Cô là người cuối cùng về ngõ, Tiếc thay -ngày lễ chẳng dài thêm! Nhảy xong bà tôi trở về chỗ cũ ngồi gần ấm xamôva. Mọi người khen ngợi. Bà tôi vừa sửa lại mái tóc vừa nói:
-Thôi đi, các người chưa được thấy những vũ nữ thật sự đấy. Tại quê tôi, ở Balakhơna, trước đây có một cô gái mà tôi không nhớ là con cái nhà ai, tên gì, khi cô ấy nhảy mọi người vui sướng đến phát khóc lên được! Chỉ cần được nhìn thấy cô ấy nhảy cũng đủ vui rồi. Của đáng tội, tôi cứ thèm được như cô ta!
-Những người ca hát và nhảy múa là những người sướng nhất đời!
-Mụ Epgênáa nghiêm nghị nói và bắt đầu hát một bài về vua Đavit. Còn cậu Iakôp thì ôm lấy anh Txưganôc và bảo anh:
-Mày mà nhảy trong các tiệm rượu thì có lẽ làm cho mọi người mê mẩn đi mất!...
-Tôi chỉ muốn có giọng tốt!
-Anh Txưganôc than vãn.
-Giá mà trời cho tôi tốt giọng thì tôi có thể hát hàng chục năm liền, rồi sau đó dù cho có đi tu chăng nữa cũng cam! Tất cả mọi người đều uống rượu vôtka, đặc biệt là bác Grigôri uống nhiều nhất. Bà tôi rót cho bác hết cốc này đến cốc khác, và dặn bác:
-Coi chừng đấy, bác Grisa ạ, không khéo thì mù hẳn đấy! Bác trả lời đường hoàng:
-Mặc kệ! Tôi không cần đến cặp mắt này nữa, tôi đã nhìn thấy đủ mọi thứ trên đời rồi... Bác uống không bao giờ say, nhưng càng uống bác càng hay nói và hầu như bác luôn mồm nói về bố tôi:
-Macxim Xapvatêep, người bạn thân mến của bác là một người tốt bụng... Bà tôi thở dài, hùa theo: Một thành phố trên sông Vonga, cách Nijni -Nôpgôrôt chừng 30 cây số về phía tây bắc. Vua của nước Israen cổ đại được nhắc đến nhiều trong các bài hát của tôn giáo, trong các thánh ca của tập Thánh thi. Sống khoảng năm 1010 -970 trước Công nguyên. Tức Grigôri, cách gọi tắt.
-ừ, thật là một đứa con của Chúa đấy... Tất cả những lời nói đó làm cho tôi rất thích, khiến tôi chăm chú nghe. Mỗi lời như thấm vào lòng tôi một nỗi buồn man mác và dễ chịu. Sự vui buồn gắn chặt với nhau đã xâm chiếm mọi người, và mọi người chuyển từ vui sang buồn, từ buồn sang vui không rõ vào lúc nào, thật nhanh chóng lạ thường.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:01:50 | Xem tất
Một hôm cậu Iakôp ngà ngà say, cậu xé chiếc áo sơ-mi đang mặc, giật mớ tóc quăn, bộ ria trăng trắng lưa thưa, cái mũi và cái môi thưỡi:
-Thế là nghĩa lý gì, hả?
-Cậu rít lên, nước mắt giàn giụa
-Tại sao lại thế? Cậu đấm vào má, vào trán, vào ngực mình và khóc nức nở.
-Ta là một thằng vô lại, một thằng đê tiện, một kẻ đau khổ! Bác Grigôri gầm lên:
-A! Đúng như vậy!... Bà tôi cũng đang say rượu, nắm lấy tay cậu tôi và khuyên nhủ:
-Thôi mà, Iasa, Chúa biết rõ những điều Chúa trừng phạt! Uống rượu vào, bà tôi lại càng đẹp hơn: cặp mắt đen nhánh, vui tươi tỏa ra một luồng ánh sáng sưởi ấm lòng người. Bà tôi vừa lấy mùi soa phe phẩy khuôn mặt đỏ bừng vừa nói thánh thót:
-Chúa tôi, Chúa tôi! Tất cả mọi thứ sao mà tốt đẹp thế! Các người hãy nhìn xem, tất cả mọi thứ sao mà tốt đẹp thế! Đó là tiếng nói tự đáy lòng bà tôi, khẩu hiệu của suốt đời bà tôi. Những giọt nước mắt và tiếng kêu của người cậu thường vẫn vô tư làm cho tôi hết sức ngạc nhiên. Tôi hỏi bà tôi tại sao cậu ấy lại khóc, lại chửi rủa và tự đánh mình như vậy.
-Cái gì cháu cũng muốn biết!
-Bà tôi nói có vẻ miễn cưỡng, trái với lệ thường.
-Hãy chờ đã, cháu hãy còn bé chưa nên nhúng vào những chuyện đó vội... Cái đó càng khêu gợi lòng tò mò của tôi. Tôi đến xưởng quấy rầy anh Ivan, nhưng anh cũng không muốn trả lời. Anh chỉ khẽ cười, liếc nhìn bác thợ cả, rồi đẩy tôi ra khỏi xưởng và kêu:
-Thôi để yên cho anh làm, đi ra! Không anh lại thả em vào chảo nhuộm luôn một thể bây giờ! Bác thợ cả đứng trước bếp lò rộng và thấp, trên đó có ba chiếc chảo lớn gắn liền vào đó. Bác dùng chiếc gậy dài màu đen khuấy các chảo, rồi rút ra, nhìn những giọt nước màu nhỏ giọt. Lửa cháy nóng rực, phản chiếu lên vạt tạp-dề bằng da trông sặc sỡ như áo lễ của cố đạo. Các chảo nước nhuộm bắt đầu réo, hơi hăng hăng bốc lên nghi ngút, chạy về phía cửa như một đám mây dày đặc. Ngoài sân gió hanh hanh thổi vù vù sát đất. Bác thợ cả ngước đôi mắt đỏ ngầu nhìn tôi qua vành kính. Bác quát tháo anh Ivan giọng thô lỗ:
-Lấy củi! Mày không nhìn thấy gì à? Khi anh Txưganôc chạy ra sân, bác Grigôri ngồi xuống bao thuốc nhuộm và vẫy gọi tôi:
-Lại đây! Bác đặt tôi lên đầu gối, chùi bộ râu ấm và mềm vào má tôi, rồi kể mẩu chuyện mà tôi ghi nhớ mãi:
-Cậu cháu đã đánh vợ, đã hành hạ đến chết, và bây giờ bị lương tâm cắn rứt, hiểu không? Cháu cần phải hiểu tất cả, kẻo có ngày vạ vào thân! Bác Grigôri ăn nói cũng giản dị như bà tôi, nhưng nghe bác người ta thấy rợn hơn và hình như qua cặp kính bác nhìn thấu hết mọi vật trên đời.
-Đánh chết như thế nào à?
-Bác thong thả nói
-Thế này nhé: lúc hắn ngủ với vợ, hắn lấy chăn trùm kín đầu vợ, rồi đè lên, đánh túi bụi. Để làm gì? Có lẽ chính hắn cũng không biết nữa. Không để ý tới anh Ivan đã ôm một bó củi trở vào và ngồi xổm trước bếp lửa hơ tay, bác thợ cả vẫn tiếp tục nói, giọng nghiêm trang:
-Có lẽ hắn đánh là vì vợ hắn hơn hắn, làm hắn ghen tỵ. Họ nhà Kasirin không thích cái gì tốt đẹp đâu cháu ạ, họ ghen ghét, và nếu không được ăn, thì họ tìm cách đạp đổ! Cháu thử hỏi bà cháu xem họ đã hại bố cháu như thế nào. Bà cháu sẽ nói hết, vì bà cháu không thích và không biết nói dối ai bao giờ. Bà cháu giống như một vị thánh, có thể nói là một người có phúc, mặc dù bà cháu cũng uống rượu và hít thuốc. Cháu phải bám chắc lấy bà cháu mới được... Bác đẩy tôi ra. Tôi bước ra sân, đầu óc nặng trình trịch, lòng đầy sợ hãi. ở phòng ngoài, anh Vaniuska đuổi kịp tôi, ôm lấy đầu tôi và khẽ nói thầm:
-Em đừng sợ bác ấy, bác ấy rất tốt. Em cứ nhìn thẳng vào mắt, bác ấy thích như thế. Tất cả cái đó đều kỳ lạ và làm cho tôi thấy băn khoăn. Tôi chưa biết cuộc sống khác ra sao cả, nhưng tôi nhớ lờ mờ là cha mẹ tôi không sống như vậy: cha mẹ tôi ăn nói khác hẳn, vui đùa cũng khác, thường đi với nhau, ngồi gần nhau. Tối tối cha mẹ tôi thường hay cười rất lâu, hoặc ngồi hát oang oang bên cạnh cửa sổ. Những người đi ngoài phố hay xúm lại xem cha mẹ tôi hát. Khuôn mặt của những người này ngẩng lên giống như những chiếc đĩa bẩn sau bữa ăn trưa trông đến là buồn cười. ở đây người ta ít cười, đôi khi không rõ người ta cười cái gì. Thường thường họ mắng nhau, người này dọa người kia một điều gì đấy, họ thì thầm bí mật với nhau trong các xó xỉnh. Bọn trẻ con thì lặng lẽ, lén lút, chúng nó dường như bị ép xuống mặt đất như những hạt bụi bị trận mưa làm gí xuống. Tôi tự cảm thấy xa lạ trong ngôi nhà này; toàn bộ lối sống ấy đã kích động tôi như vô vàn vết chàm, gây cho tôi sự hoài nghi, bắt buộc tôi phải hết sức chú ý quan sát mọi thứ.
Tình bạn giữa tôi với anh Ivan ngày càng tăng. Từ lúc mặt trời mọc cho đến tận khuya, bà tôi bận việc nhà nên hầu như suốt ngày tôi cứ quấn quít lấy anh Txưganôc. Mỗi khi ông tôi quật tôi là anh lại giơ cánh tay đỡ đòn cho tôi và hôm sau anh giơ những ngón tay sưng vù, phàn nàn với tôi:
-Không, làm thế này chả ích lợi gì cả! Em chẳng đỡ hơn, còn anh thì em trông đây này! Anh sẽ không làm như thế nữa, mặc em đấy! Nhưng lần sau anh lại chuốc lấy cái đau vô ích ấy vào mình.
-Sao anh bảo không muốn nữa kia mà!
-Không muốn, thế mà anh vẫn cứ giơ ra... không hiểu tại sao ấy... Chẳng bao lâu tôi nhận thấy anh Txưganôc có một cái gì đó làm cho tôi càng chú ý và yêu mến anh hơn. Thứ sáu nào anh Txưganôc cũng thắng con ngựa hồng thiến Sarap vào chiếc xe trượt tuyết lớn, đó là một con vật quí của bà tôi, một con vật tinh ranh, tham ăn. Anh mặc chiếc áo lông ngắn đến đầu gối, đội chiếc mũ lông nặng nề và thắt chiếc đai bằng vải xanh. Rồi anh đi chợ mua thức ăn. Đôi khi anh đi mãi không về. Cả nhà đều lo lắng. Mọi người tiến lại gần cửa sổ, thổi mạnh cho tan lớp băng trên cửa kính và nhìn ra phố.
-Nó chưa về à?
-Chưa. Bà tôi lo sợ hơn cả.
-ôi thôi,
-bà tôi nói với ông tôi và các cậu tôi,
-các người làm tôi mất cả người lẫn ngựa rồi! Các người thật không biết xấu hổ à, những đồ vô lương tâm kia? Của mình đã có vẫn chưa đủ hay sao. ôi! Cả lũ ngu ngốc và tham lam này,
-Chúa sẽ trừng phạt các người! ông tôi sa sầm, càu nhàu:
-Thôi được. Đây là lần cuối cùng... Đôi khi mãi đến trưa anh Txưganôc mới về. Các cậu và ông tôi vội vàng ra sân đón, theo sau họ là bà tôi vừa đi vừa hít thuốc, dáng đi như một con gấu. Không hiểu sao vào lúc này nom bà có vẻ vụng về lạ. Lũ trẻ con cũng chạy ùa ra. Mọi người vui vẻ dỡ hàng. Chiếc xe chở đầy lợn sữa, gà vịt làm sẵn, cá và đủ các thứ thịt.
-Mày có mua đủ các thứ đã dặn không đấy?
-ông tôi vừa hỏi vừa liếc nhìn chiếc xe bằng cặp mắt sắc sảo.
-Đủ những thứ cần ạ,
-anh Ivan vui vẻ đáp. Anh nhảy nhảy trên sân để cho nóng người lên và vỗ bao tay kêu đôm đốp.
-Đừng vỗ bao tay! Mua mất khối tiền ra đấy,
-ông tôi nghiêm nghị quát.
-Có còn thừa tiền không?
-Không. ông tôi đi thong thả quanh chiếc xe và khẽ nói:
-Mày lại tha về những gì mà lắm thế này. Hãy coi chừng đấy, chắc là mày lại mua không mất tiền chứ gì? Tao không muốn mày làm cái trò ấy đâu! Rồi ông tôi nhăn mặt bỏ đi rất nhanh. Các cậu tôi vui vẻ lao tới chiếc xe và cân ướm trên tay nào gà, vịt, cá, thịt ngỗng, nào chân bò non và những miếng thịt to tướng. Họ huýt sáo và khen rối rít:
-Mày khéo chọn đấy! Cậu Mikhain đặc biệt mê thích: như có chiếc lò-xo điều khiển, cậu nhún nhảy xung quanh chiếc xe, gí mũi như mỏ con chim gõ mõ hít hít mọi thứ, chép chép môi có vẻ ngon lành và nheo cặp mắt xoi mói vẻ khoái chá. Cậu hao hao giống ông tôi, cũng xương xương, nhưng tầm vóc cao hơn và đen thui như một thanh củi bị cháy sém. Cậu giấu bàn tay lạnh buốt vào ống tay áo và hỏi anh Txưganôc:
-ông đưa cho mày bao nhiêu tiền?
-Năm rúp.
-Chỗ này đáng giá mười lăm rúp đấy! Thế mày tiêu hết bao nhiêu?
-Bốn rúp mười kôpêch.
-Nghĩa là mày đã đút túi chín mươi kôpêch. Này Iakôp, nó kiếm tiền bở đấy chứ? Cậu Iakôp mặc phong phanh chiếc áo sơ-mi đứng ngoài trời rét. Cậu khẽ cười và chớp mắt ngắm bầu trời xanh lạnh giá.
-Vanka, mày có thể khao chúng tao nửa chai rượu vôtka được đấy,
-cậu nói giọng lè nhè. Bà tôi tháo ngựa ra và nói với nó:
-Sao thế chú bé? Sao thế chú mèo con? Thích nghịch à? ừ, thì cứ nghịch đi một tí cũng chẳng sao! Con Sarap to lớn lắc lắc cái bờm rậm, nhe bộ răng trắng đớp vào vai bà tôi, giật chiếc khăn lụa quấn tóc xuống. Nó nhìn vào mặt bà tôi bằng con mắt tinh nghịch rồi giũ những hạt tuyết khỏi lông mi và khẽ hí.
-Mày đòi ăn bánh mì à? Bà tôi bẻ một mẩu bánh mì lớn có rắc muối, nhét vào hàm răng nó và đặt tạp-dề dưới mõm ngựa làm thành một cái bao. Bà nhìn nó ăn, vẻ đăm chiêu. Anh Txưganôc cũng đùa như con ngựa non, anh lồng lên về phía bà tôi:
-Bà ơi, con ngựa thiến này ngoan lắm, lại thông minh nữa.
-Cút đi, đừng có dở trò như thế!
-Bà tôi vừa mắng vừa giậm chân.
-Mày phải biết là những hôm như hôm nay tao không ưa mày đâu! Bà tôi giải thích cho tôi là anh Txưganôc mua ở chợ thì ít, mà ăn cắp thì nhiều.
-ông cho nó năm rúp, nó mua mất ba rúp, còn ăn cắp thêm mười rúp nữa.
-Bà buồn rầu nói.
-Thích ăn cắp, thằng hư đốn! Có lần nó thử, không việc gì. Về nhà người ta cười, khen nó tài giỏi, thế là nó đâm quen cái thói ăn cắp ấy. Còn ông thì vì hồi trẻ phải nếm nhiều cảnh nghèo khổ nên về già đâm ra keo kiệt. ông quí tiền hơn con đẻ, ông thích được cái gì mà không mất tiền! Còn cậu Mikhain và Iakôp thì... Bà phẩy tay, im lặng một lát, rồi nhìn chiếc hộp đựng thuốc lá bỏ ngỏ và càu nhàu nói thêm:
-Liônáa, những việc ấy thật là rắc rối chẳng khác gì những tấm đăng-ten do một mụ mù thêu, mò thế nào cho ra được những đường thêu ấy! Nếu người ta bắt được thằng Ivanka ăn cắp thì người ta sẽ đánh cho nhừ tử... Bà tôi lại im lặng và khẽ nói:
-Chà! Nhà ta phép tắc thì nhiều, nhưng thật thà thì ít. Hôm sau tôi yêu cầu anh Txưganôc đừng ăn cắp nữa.
-Họ sẽ đánh anh chết mất...
-Họ đừng hòng bắt được anh, anh sẽ tẩu thoát, vì anh khéo léo, ngựa anh lại nhanh!
-Anh vừa nói vừa cười. Nhưng bỗng anh cau mày lại, vẻ buồn rầu.
-Anh cũng biết ăn cắp là xấu và nguy hiểm. Sở dĩ anh làm thế là vì anh buồn chán. Anh có để dành được đồng xu nào đâu, các cậu em suốt tuần bòn hết của anh. Anh cũng chẳng tiếc, lấy thì lấy! Anh ăn đủ no rồi. Bỗng anh nắm lấy tay tôi, khẽ lắc lắc:
-Em nhẹ, mảnh dẻ, nhưng xương cốt chắc chắn, em sẽ trở thành một tay lực sĩ đấy. Này Aliôsa ạ, em bảo cậu Iakôp dạy cho mà đánh đàn ghi-ta. Em đang còn bé, thật đáng tiếc! Nhưng em có bản lĩnh. Em có yêu ông không?
-Không biết!
-Còn anh thì không yêu tất cả họ nhà Kasirin, trừ bà ra, chỉ có ma quỉ mới yêu được họ mà thôi!
-Thế còn em?
-Em không phải họ Kasirin, em thuộc họ Pêskôp, dòng máu khác, nòi giống khác... Bỗng anh ôm chặt lấy tôi, gần như rên rỉ:
-Chà, trời ơi, nếu anh có giọng hát du dương thì anh sẽ làm cho thiên hạ phải đảo điên mất... Đi thôi em, anh phải làm việc đây... Anh đặt tôi xuống sàn, mồm ngậm một vốc đinh nhỏ rồi căng một tấm vải đen ướt và đóng lên tấm gỗ vuông lớn. ít lâu sau anh chết.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-9-2011 22:04:53 | Xem tất
Câu chuyện xảy ra như sau: ở sân, gần cổng có một cây thánh giá lớn bằng gỗ sồi để tựa vào hàng rào, thân là một cành cây to xù xì. Cây thánh giá nằm ở đó lâu rồi. Tôi trông thấy nó ngay từ những ngày đầu mới tới ngôi nhà này. Khi đó nó còn mới và vàng hơn, nhưng qua mùa thu bị nước mưa ngấm vào nên nó trở nên đen sạm. Mùi gỗ sồi hun hăng hắc tỏa ra, và cây thánh giá nằm vất vưởng trên cái sân chật hẹp, bẩn thỉu. Cậu Iakôp mua cây thánh giá này về để đặt lên mộ vợ và hứa đến ngày giỗ vợ sẽ tự mình vác ra nghĩa địa.
Ngày ấy đã đến vào hôm thứ bảy, đầu mùa đông. Trời giá lạnh và có gió, tuyết lả tả rơi từ mái nhà xuống. Cả nhà bước ra sân. ông bà tôi cùng ba đứa bé đã đi ra nghĩa địa trước để làm lễ cầu hồn, còn tôi bị phạt ở nhà vị tội gì không rõ. Các cậu tôi đều mặc áo lông đen ngắn. Các cậu nâng cây thánh giá lên và đứng dưới mái hiên. Bác Grigôri và một người lạ nào đấy cố nhấc cây thánh giá nặng nề đặt lên vai rộng của anh Txưganôc, anh bước loạng choạng, dạng chân ra.
-Có vác nổi không?
-Bác Grigôri hỏi.
-Không biết. Hình như nặng... Cậu Mikhain tức giận quát tháo:
-Mở cổng ra, lão quỉ mù! Cậu Iakôp nói:
-Mày không biết xấu hổ à, Vanka, nên nhớ là hai đứa chúng tao đều yếu hơn mày! Nhưng bác Grigôri khi mở cổng đã cất giọng nghiêm nghị khuyên anh Ivan:
-Coi chừng, không khéo thì gẫy lưng đấy! Cầu Chúa phù hộ cho mày!
-Lão ngốc hói đầu!
-Cậu Mikhain quát tháo từ ngoài đường vào. Tất cả những người đứng ở sân cười nói oang oang, hình như họ đều lấy làm vừa lòng thấy cây thánh giá được mang đi. Bác Grigôri Ivannôvitạ dắt tôi vào xưởng và nói:
-Có lẽ hôm nay ông không đánh cháu đâu, nom ông có vẻ vui tính... Vào xưởng bác đặt tôi ngồi lên đống len sắp đem nhuộm và lấy len quấn quanh người tôi đến tận vai hết sức chu đáo. Bác ngửi hơi nước bốc lên trên các chảo và nói, giọng trầm ngâm:
-Cháu ạ, bác biết ông cháu cách đây ba mươi bảy năm. Bác đã được chứng kiến mọi việc trong cái nhà này từ đầu chí cuối. Trước đây bác và ông cháu là đôi bạn thân, hai người cùng nhau mở ra cái xưởng này. ông cháu khôn ngoan lắm! ông đã trở thành chủ xưởng, còn bác thì chẳng làm nên trò trống gì cả. Nhưng Chúa sáng suốt hơn tất cả chúng ta: Chúa chỉ mỉm cười một cái là người thông minh nhất trong nháy mắt cũng sẽ trở thành kẻ ngu đần. Cháu còn chưa hiểu nổi những lời nói và những việc làm, nhưng cháu cần phải hiểu hết tất cả. Cuộc sống của trẻ mồ côi kể cũng có khó khăn. Bố cháu, Macxim Xapvatêep, là một con người tài ba, cái gì bố cháu cũng biết. Vì thế ông cháu không thích bố cháu, không nhận bố cháu... Tôi rất thích nghe những lời dịu dàng ấy và nhìn ngọn lửa đỏ, vàng nhảy nhót trong lò, nhìn những đám hơi nước màu sữa bốc lên nghi ngút trên các chảo rồi biến thành những hạt băng màu xám xanh đọng trên những tấm ván của mái nhà nghiêng. Qua những kẽ ván lờm xờm có thể trông thấy những dải trời xanh biếc. Gió thổi dịu đi, mặt trời ló sáng, khắp sân tựa như rắc một lớp bụi thủy tinh. Ngoài phố có tiếng xe trượt tuyết kêu rít lên, một làn khói xanh bay cuộn tròn từ ống khói của ngôi nhà; những bóng nhẹ lướt trên tuyết và hình như cũng muốn kể lể điều gì... Bác Grigôri xương xẩu, rậm râu, người dài ngoẵng, đầu không đội mũ, tai to, giống như một lão phù thủy hiền lành. Bác khuấy thuốc nhuộm đang sôi sùng sục, miệng vẫn dạy bảo tôi:
-Cháu phải nhìn thẳng vào mắt mọi người, nếu có con chó nào xông đến cắn cháu, cháu cứ nhìn thẳng vào mắt nó, nó sẽ bỏ chạy ngay... Cặp kính nặng nề đè lên sống mũi bác, chóp mũi đầy những tia máu tím bầm cũng giống như mũi bà tôi.
-Cái gì thế?
Bỗng bác dỏng tai nói lớn, rồi lấy chân đóng sập cửa lò, nhảy từng bước dài ra sân. Tôi cũng chạy theo sau. ở nhà bếp, anh Txưganôc nằm ngửa trên sàn nhà. Những vạch sáng rộng từ các cửa sổ chiếu vào đầu, vào ngực, vào chân anh. Trán anh sáng lên kỳ lạ, lông mày rướn cao, cặp mắt lác nhìn chằm chặp lên trần nhà đen sẫm, cặp môi thâm run run, sùi ra lớp bọt màu hồng; máu chảy từ góc môi, theo má xuống cổ và đổ xuống sàn, máu chảy ròng ròng từ dưới lưng anh. Chân anh duỗi thẳng một cách vụng về và chiếc quần rộng ướt đẫm dính bệt xuống sàn nhà đánh bằng thứ cát to sáng bóng như ánh mặt trời. Những dòng máu chảy qua những vạch ánh sáng và chạy dài về phía ngưỡng cửa, sáng rực lên. Anh Txưganôc không cử động, hai cánh tay buông thõng dọc người, chỉ có những ngón tay là còn động đậy và cào cào xuống đất. Móng tay nhuộm đỏ lấp lánh dưới ánh nắng. Mụ Epgênáa ngồi xổm gần anh cố đặt một cây nến nhỏ vào tay anh. Nhưng anh Ivan không nắm lấy, cây nến đổ nhào, ngọn lửa nhỏ như đầu bút lông bị chìm trong vũng máu. Mụ liền nhặt cây nến lên, lấy đầu tạp-dề lau sạch, rồi lại cố cắm vào những ngón tay co quắp của anh. Tiếng thì thầm nổi lên trong nhà bếp và lẽ ra đã đẩy tôi ra khỏi ngưỡng cửa như một luồng gió nếu tôi không cố nắm chặt lấy quả đấm cánh cửa.
-Nó bị trượt chân,
-cậu Iakôp kể, giọng rầu rĩ, mình run run và lắc đầu. Toàn thân cậu xám ngắt, ủ rũ, cặp mắt cậu nhợt nhạt và chớp luôn.
-Nó ngã và bị cây thánh giá đè phải lưng. Giá chúng tôi không kịp buông cây thánh giá ra thì cũng bị què rồi.
-Chính các anh đã đè chết nó,
-bác Grigôri nói, giọng khàn khàn.
-ô hay, làm thế nào...
-Chính các anh! Máu vẫn chảy. Máu đã đọng lại thành vũng ở gần ngưỡng cửa, đen sẫm và hình như cứ lan mãi ra. Miệng sùi bọt hồng, anh Txưganôc kêu rống lên như khi nằm mơ và rộc hẳn đi, càng ngày càng bẹp gí xuống sàn như chìm xuống đó.
-Mikhailô đã phóng ngựa tới nhà thờ gọi ông rồi,
-cậu Iakôp thì thào,
-còn tôi thì đặt nó lên xe trượt tuyết và trở vội về đây... May mà tôi không đứng dưới cây thánh giá, không thì cũng... Mụ vú nuôi lại ấn cây nến vào tay anh Txưganôc, sáp nến và nước mắt nhỏ giọt xuống bàn tay anh. Bác Grigôri nói tướng lên, giọng thô lỗ:
-Gắn nến vào sàn, gần đầu Ivan ấy, đồ ngốc!
-Vâng.
-Tháo mũ của nó ra! Mụ vú nuôi tháo chiếc mũ khỏi đầu anh Ivan, gáy anh va xuống sàn đánh bịch một cái. Bây giờ đầu anh nghiêng nghiêng và máu chảy nhiều hơn, nhưng chỉ chảy từ một bên mồm. Cảnh này kéo dài một cách khủng khiếp. Lúc đầu tôi cứ đợi anh Txưganôc nằm nghỉ rồi sẽ dậy, ngồi trên sàn nhổ nước bọt và nói:
-Chà, bức quá... Anh thường hay nói câu ấy khi anh ngủ dậy sau bữa ăn trưa ngày chủ nhật. Nhưng anh không đứng dậy nữa, mỗi lúc mỗi lép kẹp đi. ánh nắng đã rời khỏi chỗ anh, những vạch sáng đã co ngắn lại và chỉ còn rơi rớt trên những bệ cửa sổ. Toàn thân anh trở nên đen sẫm, ngón tay anh không động đậy và bọt mép không sùi ra nữa. Trên đầu anh và gần tai anh sừng sững ba ngọn nến. Những ngọn lửa vàng khe khẽ lung lay và chiếu vào mớ tóc đen nhánh rối bù. Những đốm sáng vàng vàng rung rung trên cặp má rám nắng, chóp mũi nhọn hoắt và cặp môi hồng hồng của anh như sáng hẳn lên. Người vú nuôi quỳ khóc và thì thầm:
-Cháu yêu quý của bác ơi, con chim ưng của bác, niềm an ủi của bác... Lạnh lẽo đến ghê sợ. Tôi chui xuống gầm bàn và nấp ở đấy. Một lát sau, ông tôi mặc chiếc áo lông gấu chuột nặng nề bước vào nhà bếp, theo sau là bà tôi mặc chiếc áo khoác, cổ áo đính lông đuôi, rồi đến cậu Mikhain, bọn trẻ con và nhiều người lạ mặt khác. ông tôi quẳng chiếc áo lông xuống sàn và mắng:
-Đồ chó chết! Chúng mày đã giết uổng mất một thằng trai trẻ như vậy! Khoảng năm năm nữa thì nó thật quý giá vô cùng... Chiếc áo vứt xuống sàn làm tôi không nhìn thấy anh Ivan. Tôi liền bò ra, đụng ngay phải chân ông tôi. ông tôi vừa đẩy tôi ra vừa giơ nắm tay nhỏ đỏ lên đe dọa các cậu tôi:
-Đồ chó sói! Rồi ông tôi ngồi xuống chiếc ghế dài, hai tay chống xuống ghế, nức nở, nhưng mắt vẫn ráo hoảnh, giọng rít lên:
-Tao biết
-vì nó như cái gai trước mắt chúng mày... ôi, Vaniusetka... ngốc ơi là ngốc! Làm thế nào bây giờ, hả? Làm thế nào? Ngựa đã bất kham, dây cương đã mục nát. Bà nó ơi, Chúa căm giận chúng ta từ mấy năm nay rồi phải không?
Bà tôi nằm xoài trên sàn, lấy tay sờ vào mặt, vào đầu, vào ngực anh Ivan. Bà tôi khẽ thổi vào mắt anh, nắm lấy tay anh vuốt ve, làm đổ tất cả ba cây nến. Sau đó bà tôi đứng dậy có vẻ nặng nề, toàn thân đen sẫm trong chiếc áo dài thâm bóng nhoáng. Mắt trợn tròn xoe trông thật khủng khiếp, bà tôi khẽ nói:
-Cút ngay, lũ đáng nguyền rủa kia! Tất cả mọi người, trừ ông tôi, vội lũ lượt kéo ra khỏi bếp. ... Anh Txưganôc được chôn cất một cách kín đáo, không có lễ lạc gì cả.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 10:55:50 | Xem tất
Chương 4



Tôi nằm trên chiếc giường rộng, quấn bốn vòng trong chiếc chăn to xù, nghe bà tôi cầu nguyện. Bà tôi quỳ, một tay áp vào ngực, còn tay kia thỉnh thoảng từ từ làm dấu. Ngoài trời lạnh xé da xé thịt. ánh trăng xanh nhạt chiếu qua lớp băng đóng trên cửa kính thành những đường thêu. ánh trăng soi sáng khuôn mặt hiền từ có chiếc mũi to và rọi vào cặp mắt đen nhánh của bà tôi như hai cục lân tinh. Chiếc khăn vuông lụa che mái tóc bà tôi óng ánh như bạc; chiếc áo dài đen rung rinh, chảy từ đôi vai xuống và rải rộng trên sàn. Mỗi lần cầu nguyện xong, bà tôi lại lặng lẽ cởi áo, xếp cẩn thận vào hòm ở góc nhà rồi đi về phía giường. Tôi giả vờ ngủ say.
-Chỉ vờ vịt thôi, ông mãnh, chắc là lại chưa ngủ chứ gì?
-Bà tôi khẽ nói.
-Chưa ngủ à, cậu ấm? Nào, cho bà đắp chăn với! Tôi cảm thấy thích thú với câu chuyện sắp xảy ra nên tôi không thể nhịn cười được. Lúc ấy bà tôi reo lên:
-A
-a, thế là cháu cố tình trêu bà lão nhé! Bà tôi cầm một đầu chăn, kéo về phía mình khéo léo và mạnh đến nỗi tôi bị bắn tung lên trên không và, sau khi quay lộn mấy vòng, tôi lại rơi đánh bịch xuống chiếc đệm mềm nhũn. Bà tôi cười rộ:
-Thế nào, thằng quỷ sứ? Mày hớp muỗi đấy à? Nhưng đôi khi bà tôi cầu nguyện rất lâu. Tôi ngủ thiếp đi thật và không nghe thấy bà tôi vào nằm. Những lần cầu nguyện lâu thường là sau những ngày có chuyện buồn rầu, tranh giành cãi cọ nhau. Tôi lắng nghe những lời cầu nguyện ấy. Bà tôi kể tỉ mỉ với Chúa tất cả những việc xảy ra trong nhà. Khi quỳ, bà tôi to béo nặng nề như một cái gò lớn. Lúc đầu tiếng thì thầm rất nhanh không rõ, sau đó mới trầm trầm cất cao lên:
-Lạy Chúa, Chúa biết rõ là ai cũng muốn mình được lợi hơn. Thằng Mikhailô là con cả, nó cần phải ở lại thành phố.
Nó bực mình phải sang bên kia sông, ở một nơi lạ nước lạ cái; không hiểu làm ăn sẽ ra sao. Nhưng bố nó lại thích thằng Iakôp hơn. Lão yêu con cái không như nhau, như thế có đúng không? Lão ngang bướng lắm. Lạy Chúa, Chúa hãy làm cho lão hiểu. Bà tôi đưa cặp mắt to trong sáng nhìn lên những bức tượng thánh đen sẫm và gợi ý Chúa:
-Lạy Chúa, Chúa hãy cho lão một giấc mơ tốt lành để lão hiểu cần phải chia gia tài cho con cái như thế nào! Bà tôi làm dấu và cúi rạp mình xuống đất, cái trán to chạm vào tấm ván của sàn nhà. Rồi bà tôi lại ngẩng lên nói, giọng khẩn khoản:
-Xin Chúa cho Vacvara được vui sướng! Nó có làm gì đáng để Chúa giận đâu? Nó có tội tình gì nặng hơn những kẻ khác đâu? Một người đàn bà trẻ, khỏe mạnh, thế mà lại phải sống buồn phiền là thế nào! Lạy Chúa, Chúa cũng không nên quên lão Grigôri, mắt lão ngày càng kém. Nếu mù lão sẽ đi ăn xin, thật là tội nghiệp! Lão đã làm tận lực cho ông nhà tôi, nhưng liệu ông nhà tôi có giúp lão không!... ôi, Lạy Chúa, Lạy Chúa... Bà tôi im lặng hồi lâu, cúi đầu một cách nhẫn nhục và buông tay xuống, tựa như đã ngủ say và bị rét cóng.
-Còn gì nữa?
-Bà tôi cau mày, nhớ lại và tự hỏi to.
-Xin Chúa hãy cứu vớt, ân xá cho tất cả những tín đồ chính giáo chúng con. Chúa tha thứ cho cái mụ già đần độn đáng chết này. Chúa rõ cho là nếu con có phạm tội thì không phải vì độc ác, mà là do dại dột thôi. Bà tôi thở dài rồi lại nói, giọng dịu dàng và có vẻ mãn nguyện:
-Chúa biết hết, Chúa hiểu hết, Lạy Chúa tôi. Tôi rất thích Chúa của bà tôi, vì Chúa gần gũi với bà tôi. Tôi thường yêu cầu:
-Bà kể về Chúa cho cháu nghe đi! Bà tôi nói về Chúa rất đặc biệt, giọng khe khẽ, kéo dài một cách kỳ lạ, mắt lim dim, và bao giờ cũng ngồi một chỗ. Bà tôi nhổm dậy, ngồi xuống, quàng khăn lên đầu và nói rất lâu cho đến khi tôi ngủ thiếp đi:
-Chúa ở trên ngọn đồi, giữa cánh đồng cỏ trên thiên đường, Chúa ngự trên ngai vàng có chạm ngọc xanh, dưới những cây bồ đề bằng bạc quanh năm nở hoa; ở thiên đường không có mùa đông và mùa thu, hoa không bao giờ héo, luôn luôn nở làm cho các thánh cảm thấy tươi vui. Xung quanh Chúa có vô số thiên thần. Họ giống như những bông tuyết hoặc như những đàn ong. Họ như đàn chim bồ câu trắng bay từ trên trời xuống hạ giới rồi lại bay lên và kể cho Chúa nghe tất cả mọi chuyện về chúng ta, về mọi người. Trong số các thiên thần đó có thiên thần của cháu, của bà, của ông. Mỗi người đều có một thiên thần. Chúa đối với mọi người rất công minh. Chẳng hạn thiên thần của cháu tâu với Chúa rằng: "Lêcxây dám lè lưỡi với ông nó!" Thế là Chúa liền ra lệnh:
"Được, vậy thì để ông lão quật cho nó một trận!" Đối với ai cũng thế, Chúa ban cho mỗi người tùy theo họ xứng đáng được hưởng
-có người thì khổ, có người thì sướng, ở đất Chúa mọi cái đều tốt đẹp cả, cho nên các thiên thần vui mừng, vỗ cánh và luôn miệng hát: "Sáng danh Chúa, sáng danh Chúa!" Còn Chúa nhân từ mỉm cười như muốn nói với các thiên thần: "Thôi đi, được rồi!" Bà tôi mỉm cười, lúc lắc đầu.
-Bà đã trông thấy thế à?
-Không trông thấy, nhưng bà biết!
-Bà tôi đáp, giọng trầm ngâm. Khi nói về Chúa, về thiên đường, về các thiên thần, người bà tôi như bé lại và dịu hiền. Mặt bà tôi trẻ ra, cặp mắt ươn ướt tỏa ra một luồng ánh sáng vô cùng ấm áp. Tôi cầm những bím tóc dày mịn màng quấn vào cổ mình rồi ngồi yên lắng nghe những câu chuyện của bà tôi, không bao giờ biết chán.
-Người trần không thể nhìn thấy Chúa
-nếu nhìn thì sẽ mù mắt. Chỉ có các thánh mới có thể nhìn Chúa tận mắt. Còn các thiên thần thì bà đã được thấy. Thiên thần chỉ hiện ra cho những người nào có linh hồn trong sạch.
Một hôm, lúc bà đứng trong nhà thờ dự lễ, bà nom thấy hai vị đi đi lại lại ở chỗ bàn thờ như những đám sương mù trong suốt, sáng rực, đôi cánh dài trông như đăng-ten hoặc vải sa chấm tận sàn. Các vị đi vòng quanh bàn thờ và giúp đỡ cha Iláa, một người đã có tuổi. Khi cha giơ hai cánh tay yếu đuối lên cầu nguyện Chúa, hai vị thiên thần liền đỡ hai khuỷu tay cho cha. ít lâu sau cha mất vì cha già quá, lại mù lòa, ra đụng vào chạm. Khi nhìn thấy các thiên thần bà vui mừng tê tái cả người, lòng bà như se lại, nước mắt giàn giụa, chà, thật là sung sướng! ôi, Liônka, cháu yêu quí của bà, đối với Chúa tất cả mọi cái trên thiên đàng và dưới hạ giới này đều tốt đẹp cả, thật là tốt đẹp...
-Thế ở nhà ta cái gì cũng tốt đẹp cả hở bà? Bà tôi làm dấu rồi trả lời:
-Lạy Đức Mẹ Rất Thánh,
-mọi cái đều tốt đẹp cả! Câu trả lời đó làm tôi bối rối. Thật khó mà thừa nhận rằng mọi cái ở nhà này đều tốt đẹp. Tôi cảm thấy trong nhà càng ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Một hôm, đi qua cửa phòng cậu Mikhain, tôi thấy mợ Nataláa mặc quần áo trắng toát, hai tay ôm ngực, đang vừa chạy ngược chạy xuôi khắp phòng vừa kêu khẽ nhưng giọng khủng khiếp:
-Lạy Chúa, hãy đem con đi thoát khỏi nơi này... Tôi hiểu rõ lời cầu nguyện ấy của mợ cũng như tôi hiểu bác Grigôri khi bác rên rỉ:
-Khi nào lão mù hẳn, lão đi ăn xin còn sung sướng hơn... Tôi muốn cho bác mù sớm để tôi sẽ xin phép bác được dắt bác đi, và chúng tôi sẽ cùng đi ăn xin Tức Alêcxây, cách gọi tắt thân mật. với nhau. Tôi đã nói với bác điều đó. Bác thợ cả mỉm cười trong bộ râu của bác và đáp:
-Được, chúng ta sẽ đi ăn xin! Bác sẽ rêu rao khắp thành phố: đây là cháu ngoại lão Vaxili Kasirin, chủ phường nhuộm! Như thế thì thú vị lắm... Nhiều lần tôi trông thấy dưới cặp mắt đờ đẫn của mợ Nataláa những cái u xanh xanh và cặp môi sưng phồng trên khuôn mặt vàng ệch của mợ. Tôi hỏi bà tôi:
-Có phải cậu đánh mợ không, hở bà? Bà tôi thở dài đáp:
-Nó đánh vụng đấy, cái thằng khốn kiếp ấy! ông cấm nó đánh vợ, thế là nó đánh trộm ban đêm. Nó là thằng độc ác, còn vợ nó thì lại hiền như cục đất ấy... Bà tôi kể tiếp, giọng phấn chấn hẳn lên:
-Dù sao bây giờ người ta đánh đập cũng không như hồi trước! Bây giờ họ chỉ đánh vào miệng, vào tai, túm tóc một lúc thôi, còn trước đây người ta hành hạ hàng giờ liền! Có lần ông đã đánh bà vào ngày đầu lễ Phục sinh suốt từ lúc lễ sáng cho đến tối. ông đánh đến nỗi mệt lử, sau khi nghỉ ngơi lại đánh tiếp. ông đánh bà bằng dây cương ngựa và bằng đủ mọi thứ vớ được.
-Vì sao ông đánh, hở bà?
-Bà không nhớ nữa. Có lần ông đánh bà chết đi sống lại. Năm ngày năm đêm liền ông không cho ăn uống gì cả. Lần ấy may mà bà thoát chết. Rồi lại một lần nữa... Cái đó làm cho tôi hết sức ngạc nhiên. Bà tôi to lớn gấp đôi ông tôi, thật khó tin rằng ông tôi có thể thắng nổi bà tôi.
-Chẳng lẽ ông khỏe hơn bà à?
-Không khỏe hơn, nhưng nhiều tuổi hơn! Hơn nữa ông là chồng bà! ông phải chịu trách nhiệm về bà trước Chúa, nên bổn phận của bà là phải chịu đựng... Tôi rất thích xem bà tôi phủi bụi trên các tượng thánh và lau chùi những chỗ bịt bằng kim loại. Các bức tượng đều lộng lẫy, các vừng hào quang trên đầu đều cẩn ngọc, bạc và các loại đá màu sặc sỡ. Bà tôi dùng đôi bàn tay khéo léo nâng niu một bức. Bà tôi mỉm cười nhìn bức tượng thánh và nói, vẻ xúc động:
-ôi, khuôn mặt của Người mới dịu hiền làm sao!... Bà tôi vừa hôn bức tượng vừa làm dấu.
-Bức tượng bị phủ bụi và ám khói. ôi, Người là Đức Mẹ vạn năng, Người là niềm vui vô tận của con! Liônáa, cháu yêu quý của bà, cháu hãy nhìn xem những đường nét tinh vi biết là dường nào.
Những bộ mặt nhỏ tí mà trông vẫn rõ mồn một. Bức này gọi là "Mười hai ngày lễ", ở giữa là Đức Mẹ đồng trinh Phêôđôrôvô. Còn đây là bức: "Lạy Đức Mẹ, khi trông thấy con nằm trong quan tài, xin Mẹ đừng khóc"... Đôi lúc tôi cảm thấy bà tôi chơi với các bức tượng thánh một cách nghiêm trang và chân thành như em gái Katêrina nhút nhát chơi với búp bê vậy. Kim loại bít trên các bức tượng thánh chỉ còn để lộ ra mặt và tay của các vị thánh. Nhiều lần bà tôi cũng gặp ma quỷ hoặc đi một mình hoặc từng đàn từng lũ.
-Có lần vào tuần chay, ban đêm bà đi qua nhà Ruđônphơ. Trời sáng trăng suông. Bỗng nhiên bà thấy có một con quỷ lớn, mình đầy lông lá đen sì, ngồi dạng hai chân trên đỉnh mái nhà, cạnh ống khói. Cái đầu có sừng cúi xuống ống khói ngửi ngửi và thở phì phì. Nó ngửi và kéo lê chiếc đuôi trên mái nhà. Bà làm dấu ngay và nói: "Cầu Chúa hãy sống lại và kẻ thù của Người hãy biến đi!" Nó liền khẽ kêu rít lên và tụt từ mái nhà xuống sân rồi biến mất! Có lẽ hôm ấy nhà Ruđônphơ nấu món ăn mặn nên quỷ đến ngửi và lấy làm vui sướng... Tôi cười và tưởng tượng đến con quỷ đang tụt từ mái nhà xuống. Bà tôi cũng cười và nói tiếp:
-Bọn quỷ rất tinh nghịch, giống hệt như lũ trẻ con vậy! Có lần bà giặt quần áo ở nhà tắm.
Lúc đó vào nửa đêm. Tự nhiên cửa lò mở tung! Và lũ quỷ ở trong nhảy ra, con nào cũng bé nhỏ, con thì đỏ, con thì xanh, con thì đen như gián ấy. Bà vội chạy ra phía cửa, nhưng không ra được, lúng túng giữa đàn quỷ. Chúng kín cả nhà tắm làm bà không cựa được, chúng chui xuống chân bà, lôi kéo và ép chặt bà đến nỗi bà thở không ra hơi! Mình chúng nó đầy lông lá, mềm nhũn, nóng như lũ mèo con, chúng toàn đi bằng hai chân sau. Chúng chạy vòng quanh, nô đùa. Răng chúng nhe như răng chuột, cặp mắt nhỏ xanh lè long lanh, cặp sừng sắp mọc nhô ra như những cái bướu con, những cái đuôi nhỏ ve vẩy như đuôi lợn sữa. ối, trời đất ơi! Bà sợ quá ngất đi! Khi bà tỉnh lại thì ngọn nến đang leo lét, chậu nước giặt đã nguội lạnh, quần áo giặt vất ngổn ngang trên sàn. Bà nghĩ: "Chao ôi, đồ quỷ sứ, sao chúng bay không chết đi!" Tôi nhắm mắt lại và thấy từ miệng lò xây bằng đá tuôn ra một dòng dày đặc những con vật đầy lông lá có đủ màu sắc. Chúng tràn vào đầy cả cái nhà tắm nhỏ bé, thổi vào ngọn nến và thè lè cái lưỡi đỏ hồng một cách tinh nghịch. Trông vừa buồn cười, vừa đáng sợ. Bà tôi lắc đầu, im lặng một lát rồi bỗng lại sôi nổi hẳn lên:
-Một lần khác bà lại gặp lũ đáng nguyền rủa ấy. Cũng vào một đêm đông, bão tuyết thổi mạnh. Bà đi qua cái khe Điukôp, chỗ các cậu Iakôp và Mikhailô định dìm chết bố cháu trong cái hố băng ở đầm ấy. Cháu có nhớ không, bà đã kể cho cháu nghe rồi đấy? Thế là bà đi về phía đó; vừa mới đặt chân trên con đường hẻm, ở dưới khe núi, thì bà nghe thấy tiếng huýt sáo và tiếng hú ở khe. Bà trông lên thì thấy chiếc xe có ba con ngựa ô kéo đang phóng về phía bà. Một con quỷ to lớn đội chiếc mũ đỏ không vành đứng sừng sững như cái cọc. Nó đứng ở chỗ ngồi của người đánh xe, dang tay giữ dây cương bằng xích sắt. ở khe không có đường đi nên chiếc xe lao thẳng xuống đầm, có đám tuyết phủ kín cả xe. Trên xe trượt tuyết cũng toàn là lũ quỷ ngồi; chúng huýt sáo, gào thét và vẫy mũ; khoảng bảy chiếc xe như vậy phóng nhanh như đoàn xe chữa cháy. Ngựa toàn một màu đen tuyền. Tất cả lũ ngựa đều là những kẻ bị bố mẹ nguyền rủa, bị lũ quỷ lấy làm trò giải trí, dùng làm ngựa để kéo xe, bắt họ rong ruổi ban đêm trong những ngày hội vui của chúng. Lần đó có lẽ bà đã trông thấy một đám cưới quỷ... Không thể nào không tin bà tôi được
-bà tôi nói rất giản dị và chắc chắn! Nhưng khéo nhất là bà tôi đọc những đoạn thơ kể về Đức Bà Đồng trinh đi chu du khắp trái đất để biết nỗi khổ cực của người trần và khuyên bảo nữ tặc "công nương" Engalưtạêva không nên đánh đập và cướp bóc người Nga; những đoạn thơ về thánh Alêcxây, về dũng sĩ Ivan. Bà tôi kể những chuyện thần thoại về thánh nữ Vaxilixa vô cùng đức độ, về giáo sĩ Dê và con đỡ đầu của Chúa; có những chuyện khủng khiếp về Macfa Pôxatnitxavề nữ tướng cướp Baba Uxtavề Marya, một người có nhiều tội lỗi của Ai Cập, về nỗi buồn phiền của người mẹ tên cướp. Bà tôi biết không biết bao nhiêu chuyện thần thoại, chuyện có thật và những câu thơ. Bà tôi không sợ một ai, không sợ ông tôi, không sợ quỷ, và mọi thứ tà ma nào, nhưng bà tôi lại rất sợ những con gián đen. Bà tôi có thể nhận ra chúng ngay từ xa. Bà tôi thường đánh thức tôi ban đêm và thì thào:
-Aliôsa, cháu yêu của bà, có một con gián đang bò đấy; vì Chúa, cháu hãy giết nó đi! Đang ngái ngủ, tôi châm nến và bò trên sàn tìm kẻ địch. Nhưng không phải lần nào tôi cũng tìm thấy ngay và cũng có lần tôi không bắt được.
-Không thấy đâu, bà ạ.
-Tôi nói. Nhưng bà tôi vẫn nằm im, đầu trùm chăn kín mít, và khẽ nói:
-ôi, có một con đấy! Cháu cố tìm đi, bà van cháu đấy! Nó kia kìa, bà biết... Bà tôi không nhầm bao giờ cả
-cuối cùng tôi tìm thấy con gián ở một chỗ rất xa giường.
-Cháu giết nó chưa? ừ, sáng danh Chúa! Cảm ơn cháu nhé!... Nếu tôi chưa tìm thấy con gián thì bà tôi không sao ngủ được. Tôi thấy bà tôi giật mình mỗi khi khẽ có tiếng sột soạt trong đêm tối im lặng như tờ. Tôi nghe bà tôi nín thở và thì thào:
-Nó ở gần ngưỡng cửa... nó chui xuống dưới cái hòm...
-Tại sao bà sợ gián thế? Bà trịnh trọng trả lời:
-Vì bà không hiểu chúng nó dùng để làm gì? Chúng nó bò lổm ngổm và đen sì sì. Chúa đã giao cho mỗi loài một nhiệm vụ: có bọ đất tức là trong nhà ẩm thấp; có rệp tức là tường bẩn; có rận tức là người sắp ốm. Tất cả mọi thứ đều có ý nghĩa! Còn loài gián thì không ai rõ ma quỷ nào nhập vào, chúng sinh ra để làm gì?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách