Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: forevergreens
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Nửa Chừng Xuân | Khái Hưng

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2011 12:36:48 | Chỉ xem của tác giả
Cô Hàng Quà


Về buổi chiều vào giờ tan học và giờ đóng cửa các nhà máy, Các cửa hàng, người ta trông thấy từ đường Quan Thánh tới sở thuộc da rải rác từng tốp bốn năm người hay chín mười người hoặc đi chân, hoặc đi xe đạp. Màu trắng, màu chàm, màu nâu của bộ quần áo xen lẫn nhau, và tiếng Pháp tiếng Việt ồn ào lẫn tiếng cười khanh khách.

Đó là bọn học sinh với bọn lao động đi về làng Thụy Khuê xưa nay vẫn là nơi ăn trọ của hai hạng người:

cắp sách, và làm thợ.

Làng Thụy Khuê sáu, bảy năm về trước không giống hệt làng Thụy Khuê ngày nay, vì ngày nay cái trại trồng hoa của thành phố về phía đường bên hồ đã làm mất hẳn cái đặc sắc của làng: Cái đặc sắc ấy là cái hố rác khổng lồ về mùa hè bốc mùi ô uế rất nồng nực khó chịu.

Song ngoài sự thay đổi về hình thức ra, tính cách bản nguyên của làng Thụy không hề xuy xuyển: làng ấy vẫn và sẽ mãi mãi là nơi ẩn trọ của bọn học sinh và bọn thợ thuyền cho đến ngày trong hai hạng ấy không còn người nghèo, nghĩa là không bao giờ. Vì thế, dù ngày nay hai mươi năm về trước, những tên "xóm Ổi", "xóm Đồng Bản", "xóm Hàn Lâm" đều là những tên quen tai các bác mặc màu chàm hay các cậu cặp sách vở.

Chiều hôm ấy trên con đường từ trường Bưởi tới làng Thụy Khuê, họ chuyện trò vui vẻ khác thường. Vì mới xảy ra một sự lạ lùng, rất không ngờ trong cái đời ít thay đổi của anh em học sinh. Buổi sớm người gánh hàng quà bánh đến bán ở cửa trường không phải là bà Cán, mà lại là cô con gái. Bà Cán, người bán hàng cho các cậu, cho những người học trước các cậu không biết từ đời nào, còn ai dám đến đấy cướp mối hàng của bà. Thế mà bỗng thấy một cô con gái ung dung gánh một gánh quà đến ngồi bán ở cổng trường thì phỏng có lạ không, gánh cũng giống gánh hàng quà của bà Cán, một bên quang thúng đựng bánh dầy, xôi, giò chả, và một quang một nồi cháo đậu.

Trước buổi sáng, các cậu học sinh phần còn bỡ ngỡ, phần thấy cô hàng quà có nhan sắc, nên bẽn lẽn và vì nể không muôn vội hỏi lôi thôi.

Những buổi trưa, anh em đã quen quen, không bảo nhau mà cũng đến thường sớm lắm, y chừng để nhìn cô hàng xinh đẹp, cũng như, buổi sáng cô hàng đặt gánh dưới bóng mát cây bàng, rồi mỉm cười cúi đầu xuống lẩm nhẩm đếm những nắm xơi trên mẹt.

Một cậu đứng trong giậu găng thò tay ra ngoài vẫy hỏi:

- Cô có bán chịu đây chứ?

Cô hàng lắc đâu đáp:

- Không, tôi biết cậu là ai mà tôi bán chịu?

Anh em bạn đứng gần cô hàng cất tiếng cười to, nhưng cậu kia không chột dạ, không thẹn thùng, hỏi lại:

- Vậy là bà Cán xóm ổi đâu lại không đến và cô là người nào dám đến bán tranh. Cô phái biết tôi ăn quà chịu bà Cán đã ba bốn năm nay, không bao giờ tôi thèm quịt một đồng xu, và hiện giờ tôi còn nợ bà Cán đến bốn năm hào. Nay vì lẽ gì mà cô không bán chịu cho tôi?

Bài diễn thuyết của cậu học trò khiến mọi người lại cười vang. Cô hàng cũng cười nói:

- Nếu thế thì càng không nên bán chịu cho cậu lắm. Cậu hãy trà nợ cũ đi đã.

- Trà cô à? Tôi nợ gì cô?

- Trả nợ bà Cán chứ. Vì đây chính là hàng của bà Cán.

- A, ra cô bán hộ bà Cán, bà Cán ốm à?

Cô hàng mỉm cười:

- Không, tôi là cháu bà Cán.

Thế là từ ngoài đường vào đến trong sân trường, anh em học sinh họp nhau từng tốp, chỗ nọ thì thào, chỗ khi thì khúc khích, bảo nhau:

- Chúng mày ạ, bà Cán có con cháu kháu ra phết!

- Tình lắm!

- Nó láu dữ chúng mày ạ!

Luôn năm hôm, cô hàng xinh xắn gánh hàng đến bán ở cổng trường, mà hôm nào cũng bán chạy rầm rầm. Nhà hàng và khách nghe chừng đã quen nhau, vì đã có dăm sáu cậu mua chịu.

Hôm thứ năm, đương lúc anh em xúm xít chung quanh gánh hàng, thì một ông lão già hớt hơ hớt hải chạy lại hỏi:

- Thưa các thầy, đây có phải là trường Bưởi không?

Một cậu đáp:

- Không phải đâu, ông cụ ạ, đây là trường Bảo hộ.

Ông lão buồn rầu:

- Vậy trường Bưởi ở đâu, nhờ thầy làm ơn bảo dúm.

Ba bốn cậu vỗ tay cười:

- Mãi tận dưới chợ Cam kia, cụ ạ.

- Nhưng chợ Cam ở đâu kia thầy?

- Chợ Cam ở gần đường Quýt ấy.

Một Cậu ra dáng hiền lành trách bạn:

- Các anh cứ đùa cụ ấy thế.

Rồi quay sang ông lão, ôn tồn bảo:

- Phải đấy, cụ ạ. Chính đây là trường Bưởi. Vậy Cụ muốn hỏi gì?

Ông lão mừng rỡ:

- Cám ơn thầy, thưa thầy làm ơn tìm hộ tôi cậu Huy.

Cô hàng nghe thấy tên Huy, ngửng lên nhìn rồi không kịp giữ gìn, buột miệng kêu:

- Kìa ông Hạnh!

Ông Hạnh cũng vừa nhận được ra cô hàng:

- Giời ơi! Cô Mai!

Các cậu học sinh tò mò xúm chung quanh cô hàng với ông lão. Một cậu hỏi:

- Thầy cô đây à?

Nhưng Mai chỉ ứa nước mắt đứng lặng nhìn người lão bộc.

- Sao cô lại đến nông nỗi này?

- Thôi chốc về nhà hãy nói chuyện.

Rồi cô thản nhiên bán hàng tươi cười đáp những câu hỏi ngớ ngẩn của các bạn hàng.

Sau một hồi trông anh em học sinh vội vàng kéo tới nhau vào trường. Mai thong thả đặt gánh hàng lên vai quay lại bảo ông Hạnh:

- Bây giờ ta về.

ông lão ngớ ngẩn hỏi:

- Về đâu, cô?

- Về nhà nhưng trước hết tôi hãy hỏi ông:

- Ông đến đây làm gì?

Ông Hạnh buồn rầu thuật lại cho Mai biết rằng hôm trước ông ta nhận được thư của ông Tham Lộc gởi về nói Mai và Huy bỏ nhà đi đâu không biết, và hỏi thăm ông ta xem có về làng không. Ông ta nhờ người đọc thư rồi lo sợ đâm bổ đi tìm. Ông lão nói tiếp:

- Nhưng còn cô thì vì duyên cớ gì lại ra nông nỗi này?

Mai cười:

- Chả vì nông nỗi gì cả. Tôi đi bán hàng đề kiếm ăn.

- Thế ông Tham Lộc?

- Thì mặc ông ấy! Ông nên nghĩ đến em Huy còn hơn, vì em đương ốm nặng.

Ông Hạnh lo sợ nhớn nhác hỏi:

- Ốm ra sao? Giời ơi, rõ khổ tôi quá!

Mai buồn rầu đáp:

- Em nó ho, đau ngực. Mà giờ không có chỗ ở, không có tiền ăn, chứ đừng nói đến tiền uống thuốc nữa. May mà còn có người tử tế giúp đỡ, không thì cũng chưa biết tính mệnh ra sao rồi.

Nguyên ngay chiều hôm bà Án đến nhà thì Mai và Huy quả quyết ra đi, dù Huy đã bắt đầu ốm nặng.

Nhưng đi đâu? Chị hỏi em. Em nhìn chị. Bạn của Huy cũng nhiều, khốn nỗi chả nhẽ đưa chị đến ở nhờ. Dù thế nào mặc lòng, cũng phải rời bỏ ngay cái nhà mà mẹ con người ta hình như đồng lòng đuổi mình ra khỏi cửa.

Huy chợt nghĩ đến Trọng, nay cũng không còn là học sinh lưu trú nữa và vì lý tài eo hẹp đã xin ra ngoài, trọ nhà bà Cán bán hàng quà cho học trò. Lúc cấp bách còn biết sao, thì cũng đành liều.

Vừa tới nhà trọ, Huy lên cơn sốt nặng nằm liệt giường ngay.

Chị em Trọng hết sức cùng Mai trông nom săn sắc, ba hôm sau bệnh Huy hơi thuyên giảm.

Nhưng tiền không có một đồng, biết làm sao, chẳng lẽ ăn bám chị em Trọng cũng đương gặp lúc quẫn quách. Nghĩ tìm vật quý đem đi cầm, bán thì bao nhiêu đồ nữ trang Lộc sắm cho, trước khi đi, Mai đã trút hết ra để trả lại rồi.

May sao, bà Cán nghe Trọng thuật cho nghe chuyện đau đớn của chị em Mai thì đem lòng thương hại. Bà ta tuổi đã già, chồng đã chết, được một đứa con gái lại lấy chồng xa, nên bà ta nghĩ ngay đến nuôi chị em Mai làm con nuôi. Nhưng bà ta chưa dám ngỏ ý, định hãy cứ ăn ở tử tế với hai người đã.

Bà ta liền nghĩ cách gây dựng cho Mai, giao gánh hàng cho Mai đi bán. Mà Mai ở một hoàn cảnh khác hẳn với hoàn cảnh phú quý vừa rời bỏ, cũng muốn theo ngay cách sinh hoạt mới. Bởi vậy nàng tươi cười cảm ơn nhận lời bà Cán ngay, rồi vận áo nâu tứ thân, quần vải thâm, ngày ngày hai buổi gánh hàng quà đền cổng trường Bưởi ngồi bán.

Bà Cán thấy Mai mới buổi đầu đã thạo nghề bán hàng lại chạy hơn mình thì đem lòng quý mến, chia lãi cho. Mai từ chối, chỉ xin được ăn, ở nhờ ít bữa để khi về làng cầm hay bán được nhà sẽ đem tiền lên hoàn lại.

Giữa lúc Mai luống cuống lo sợ về bệnh trạng của Huy, về cách xoay tiền thuốc thang thì ông lão Hạnh tới Hà Nội.

Mai tuy cũng biết ông lão bộc chẳng có tài cán gì cứu được mình ra khỏi vòng quẫn song lúc khôn cùng gặp người thân thuộc thì vẫn nhẹ được vài phần khổ sở.

Hai người yên lặng đi bên cạnh nhau, không ai nói nửa lời, và cùng có dáng suy nghĩ đến những sự xảy ra hay sắp xảy ra. Bỗng ông Hạnh quay lại hỏi:

- Cô ở tận đâu mà đi xa thế?

Mai đáp:

- Gần đến nơi.

Rồi trỏ về phía trái nói tiếp:

- Đây là Xóm Đồng Bản. Xóm Ổi kia kìa, ở ngay trước cửa đình làng Thụy Khuê.

Một lát sau, ông lão bộc đi theo Mai, rẻ vào một cái ngõ, qua một cái cầu nhỏ làm bằng hai tấm ván bắc qua rãnh nước bùn, mà Mai kêu là sông Tô Lịch khiến cho ông lão phải mỉm cười.

Cuối ngõ ấy, mãi trong cùng xóm, là nhà bà Cán: Một nếp nhà bằng tre lợp lá, năm gian khá rộng, và một cái nhà ngang ba gian ngăn khu đất nhỏ ra làm hai mảnh, mảnh trước là sân, mảnh sau là hàng quà. Cái cơ nghiệp ấy, anh em học sinh trường Bưởi và anh em thợ thuyền các nhà máy đã gom góp bằng mấy chục năm tiền quà để gây dựng cho bà Cán.

Vì nhà trong lúc bấy giờ không có ai, Mai đưa thẳng ông Hạnh xuống nhà ngang làm ở dưới bóng mát một cây roi xinh tột lấm chấm rất nhiều hoa trắng.

Trên một chiếc giường lát tre buông màu nâu và đầy những mụn vài tây điều, Huy đang nằm vẫn vơ nghĩ ngợi.... Bỗng nghe rõ tiếng người quen ở ngoài hiên, Huy ngồi nhỏm dậy. Thấy Mai và ông Hạnh bước vào. Huy mừng rú kêu to:

- Ồ! Ông Hạnh!

Mai vội vàng chạy lại gần:

- Em nằm xuống, không ngồi dậy như thế lại ho bây giờ.

Huy dịu dàng vâng lời. Ông Hạnh đứng bên đưa tay sờ trán Huy, nói:

- Cậu gầy và xanh lắm! Có uống nước không?

Mai ứa nước mắt cúi đầu không đáp.

Khốn nạn! Ông lão bộc còn chưa rõ tình cảnh ra sao! Lấy tiền đâu mà uống thuốc! Ông Hạnh sau nghe chừng như cũng hiểu, thì thầm hỏi:

- Thế ông Tham! Ở đâu?

Mai cười ngất đánh trống lảng, quắc mắt nhìn ông Hạnh, rồi trỏ tay Vào Huy có ý bảo đừng nhắc đến cái tên Lộc ở trước mặt em. Mấy hôm nay, hễ ai nói động đến cái tên ấy, Huy lại lên cơn sốt dữ dội ngay. Mai ngắm Huy có dáng mệt là, da đã xanh lại phản chiếu sắc lá cây roi trồng ngay bên cạnh nhà nên càng xanh thêm.... Nàng khẽ bảo người lão bộc:

- Thôi ta ra ngoài nói chuyện cho em nó nghỉ.

Lên đến nhà trên, ông Hạnh bỡ ngỡ hỏi:

- Vậy cô thuê cái nhà này?

- Không, ở trọ đấy, Cả nhà đi vắng, mỗi người một việc. Nhưng bây giờ, ông bàn nên làm thế nào?

- Thế ông Tham?

Mai gắt:

- Ông Tham, ông Tham mãi! Ông cứ coi như ông Tham chết rồi, mà tôi cấm ông không được đả động đến ông Tham ở trước mặt em Huy đấy. Bây giờ chúng tôi không có một xu nhỏ, vậy ông tính làm thê nào? Tôi chỉ hỏi ông có thế.

Ông Hạnh ngẫm nghĩ rồi thong thả đáp:

- Được!... Được!... Mai tôi về tàu sớm.

- Nhưng về làm gì mới được chứ?

- Được, cô cứ yên lòng. Thế nào chuyến này tôi cũng bán được nhà cho cô, không ít ra cũng cầm được. Cô cứ vững tâm và tin cậy ở tên đầy tớ già này.... Ngày xưa tôi can cô đừng bán nhà, nhưng lần này thì ta phải quả quyết bán, mà linh hồn cụ Tú khôn thiêng chắc cũng giúp cho công việc ta được chóng xong xuôi.

Mai cảm động ứa nước mắt cười gượng bảo người lão bộc:

- Ông Hạnh ạ, ở đời chỉ có một sự đáng quý, là lòng tốt của con người ta. Còn ngoài ra, vứt đi hết.

Hai hôm sau cũng đương lúc Mai bán hàng quà cho học trò, người lão bộc tươi cười đi tới, trên vai vác một cái tay nải nâu nặng trĩu, Mai hớn hở:

- Thế nào, ông Hạnh, có xong không?

- Xong rồi, cô ạ!

Mai vui mừng:

- Thôi, về nhà ông thuật lại chuyện cho tôi nghe.

Rồi quay lại chỗ anh em học sinh, Mai xin lỗi:

- Các cậu cho phép tôi về thôi, tôi có việc cần lắm.

Một cậu tò mò hỏi:

- Việc gì thế cô?

Mai cười:

- Việc bí mật không thể nói được.

Một cậu nữa hỏi:

- Có phải thầy cô đấy không? Thầy cô lên tìm cô gả chồng cho cô chứ gì?

Mai đã đặt gánh hàng lên vai. Nghe cậu kia nói chuyện gả chồng, nàng vừa tức giận, vừa bẽn lẽn cúi nhìn xuống bụng, nghĩ tới Lộc, tưởng nhớ đến đứa con khốn nạn mai sau.

Mắt ướt lệ, nàng rảo bước trên đường. Đi đã được một quãng xa, nàng hãy còn nghe rõ tiếng nói đùa chế riễu ở sau lưng. Ông lão Hạnh cười bảo Mai:

- Nhất qủy, nhì ma, thứ ba học trò, câu tục ngữ không sai.

Mai cũng cười gượng đáp:

- Không đâu ông ạ, họ thế mà tử tế lắm!

Rồi Mai thở dài nói tiếp:

- Họ đương tuổi và tư lự, sung sướng thực! Còn em Huy...

Ông Hạnh an ủi:

- Cô cứ nghĩ làm gì thêm đau lòng. Có tiền thuốc thang, rồi cậu Huy khỏi bệnh đi học, đỗ đạt ra làm quan, làm tư chứ lo gì!

Mai hớn hở quay lại hỏi:

- À, thế nào, việc bán nhà thế nào ông?

- Không, có bán được đâu.

Mai cau mặt:

- Sao ban nãy ông bảo xong rồi!

- Nghĩa là không bán được, chỉ cầm được thôi.

Mai hơi hoàn hồn thở dài:

- Ông làm tôi lo sợ quá. Thế cầm được bao nhiêu cầm cho ai?

Ông Hạnh liền đem đầu đuôi câu chuyện kể cho Mai nghe:

- Vừa về tới làng, tôi đi khắp nơi giàu có hoặc khá giả dạm bán, dạm cầm nhưng họ đều từ chối, kẻ thì nói không sẵn tiền, kẻ thì nói không nỡ mua nhà của cụ Tú, tôi đã nản chí, thất vọng thì bỗng tôi lại nhớ đến ông Hàn Thanh....

Nghe tới tên Thanh, Mai mỉm cười ngắt lời:

- Cái ông Hàn ba vợ ấy à?

- Vâng. Khi tôi không dạm bán đâu được thì tôi liền sang liều bên ông Hàn. Ông ấy thế mà khó cô ạ. Ông ấy săn sóc hỏi thăm cô, cứ tiếc cho cô không nghe lời ông ấy. Ông ấy ba?o giá cô bằng lòng lấy ông ấy thì nay sung sướng biết bao.

Mai hơi cau mày:

- Chuyện cũ, ông nhắc đến làm gì?

- Ông Thanh lại nói nếu bây giờ cô muốn về lấy ông ấy, ông ấy cũng bằng lòng:

Mai gắt:

- Thê nghĩa là không bán được nhà phái không?

- Vâng không bán được nhà.

- Thế mà ông kể lôi thôi mãi.

- Thưa cô bán không được, nhưng cầm được.

- Cầm cho ai?

- Cho ông Hàn Thanh mà lại. Ông ấy không mua chỉ bằng lòng cho cầm thôi, vì ông ấy muôn để sau này cô chuộc lại, nên lãi ông ấy lấy rất nhẹ, chỉ có hai phân. Cô phải biết ở quê ta không mấy khi lại có người lấy lãi hai phân như vậy.

Mai nói đùa:

- Sao tự nhiên ông ấy lại giở chứng đâu ra tử tế thế nhỉ?

- Thì ông ấy vẫn tử tế đấy chứ!

Mai cười:

- Chừng ông ấy nhờ ông đến ca tụng ông ấy với tôi đấy chứ gì?

Ông Hạnh giận thở dài:

- Cô ngờ vực tôi thì còn giời đất nào?

Mai hôi hận, nói chữa:

- Tôi nói bỡn đấy mà. Thế cầm được bao nhiêu tiền, ông Hạnh?

- Cô thử đoán xem.

- Độ trăm bạc nhé?

- Hai trăm cô ạ.

- Ồ! Khá nhỉ. Thế có tiền rồi đấy Chứ?

Ông Hạnh cười:

- Có tiền làm sao chóng thế được! Còn phải làm văn khế đã chứ.

Mai buồn rầu hỏi:

- Thế độ bao giờ thì có?

- Cũng phải dăm ba hôm nữa. Đây, Văn khế tôi đã mượn người viết rồi. Tôi cầm lên lấy chữ ký của cô với cậu Huy, rồi về chỉ điền một chữ giả vào nữa là có tiền.

- Chữ giả gì?

- Nào tôi biết? Thấy chú khóa Vạn chú ấy nói thế thì cũng biết thế.

- Đâu ông đưa văn khế xem.

Ông Hạnh đặt tay xuống bên đường mở túi lấy đưa cho Mai một tờ giấy tín chỉ có viết chữ nho, Mai đọc một lượt rồi nói:

- Được để tôi ký. Thôi mọi việc nhờ ông trông nom cả cho đấy nhé!

Nàng nhìn cái tay nải hỏi:

- Những vật gì mà nghe loảng xoảng thế?

- Về nhà tôi mở cho cô xem.

Mai cười:

- Cái gì mà bí mật thế, ông Hạnh?

Về tới nhà, hai người gặp bà Cán đương ngồi bên giường nói chuyện với Huy.

Bà lão vui mừng đứng dậy hỏi:

- Kìa ông Hạnh. Công việc xong chứ?

Ông lão bộc đặt cái đẫy xuống đất:

- Chào cụ, vâng xong rồi.

Mai vội ngồi xuống cởi đẫy ra xem thì thấy một cái nôi, một xanh, một cái chậu thau và một đôi hạc thờ bằng đồng. Nàng cười hỏi:

- Ông đem những vật này lên đây để làm gì thế?

Ông Hạnh ngần ngừ đáp:

- Vì tôi lo cô cần tiền ngay.... Hôm nọ tôi nghe thấy cô gì cô ấy hỏi, cô có cật gì đem cầm không... nên tôi nghĩ đến những thứ này để ở nhà cũng vô ích.

Mai giọng cảm động:

- Ông Hạnh ơi, ông thật là người giời đưa lại giúp chúng tôi, ông nghĩ chu đáo quá! Lại đánh cát cẩn thận. Trông sáng nhoáng đẹp quá!

Bà Cán cũng ngồi xuống ngắm nghía các thứ nói:

- May ra cầm được dăm đồng đây!

Mai hỏi:

- Cầm ở đâu được bà?

Bà Cán cười:

- Rõ cô quê mùa quá! Không biết cầm ở đâu à? Cầm ở Vạn Bảo chứ ở đâu?

ông Hạnh nhớn nhác:

- Nhưng tôi biết Vạn Bảo đâu?

- Được, để tôi đưa đi. Phải đấy! Tôi đi cho. Chứ ông ngờ nghệch, họ bắt bí mất!

Mai cũng nói vào:

- Phải đấy, bà đi giùm.

- Vậy cô ở nhà trông coi cậu Huy nhé. Cầm được tiền, khi về qua phố hàng Thiếc tôi mời cụ lang Giao luôn thể....

Huy đương nằm, nghe nói mời thầy thuốc thì ngồi nhỏm dậy:

- Thôi, bà đừng mời ai hết. Họ chẳng biết gì đâu.

Bà Cán cười:

- Cậu khéo lẩn thẩn lắm! Ốm thì phải uống thuốc chứ!

- Nhưng tôi tin thuốc tây thôi.

- Khéo vẽ, thuốc tây nhiệt, người Việt Nam mình uổng sao chịu.

Huy nghe Bà Cán nói, im lặng nằm cười thầm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2011 12:37:46 | Chỉ xem của tác giả
Ông Thầy Thuốc


Trên đường Quan Thánh, ông Hạnh và bà Cán rảo bước trở về làng Thụy Khuê. Bà Cán đã đến mời ông Giao, bà ta chỉ biết ở Hà Nội có một ông lang ấy, song ông đi vắng.

Bấy giờ trời đã gần tối. Các đèn điện chiếu ánh lờ mờ lên những cây bàng trồng hai bên vệ đường cành lá giao nhau như cái cổng tò vò cao vót.

Thợ thuyền đi về làng rầm rập, cười đùa vui vẻ. Nhiều người quen biết bà Cán họ chào bà và hỏi thăm bà ân cần lắm. Rồi họ bắt đầu bình phẩm người nọ việc kia: nào oán giận ông đốc công ác, nào muốn bỏ nơi này xin làm nơi khác. Họ đem những câu chuyện ấy kể cho bà Cán nghe tưởng như bà ta có thể hiểu được.

Đối với những lời than phiền ấy, bà Cán chỉ có một Câu an ủi không đâu: "Thôi, việc ít người nhiều, có chỗ ăn, chỗ làm như thế là tốt lắm rồi!"

Bà Cán trả lời như thế là vì bà đã rõ những sự khốn khổ về nỗi thất nghiệp của bọn thợ thuyền lắm. Bà ta đã thấy nhiều người vì tức khí chốc lát, vì nghe lời xúi giục mà bỏ việc làm, rồi không có tiền để dành, chịu bao nỗi đắng cay đói khát.

Những sự quẫn bách của bọn anh em lao động, nhiều lần bà ta cũng chịu gánh chung một vài lần mà không hề hé môi than thở. Bọn lao động từ người làm thợ cho chí người làm cu ly biết bao là khách mua quà hoặc khách ăn cơm tháng của bà ta. Cố nhiên anh em cũng có đồng chịu đồng trả. Gặp những khi mất việc làm chẳng giúp được họ thì chớ, bà Cán nỡ đâu lại đòi nợ họ cũng chẳng có tiền đâu mà trả.

Vì thế bà ta nghe họ phàn nàn, oán trách, giận dữ mà lấy làm lo cho họ, mà lấy làm lo cho mình, nên luôn luôn vui cười vỗ về, khuyên dỗ:

- Thôi, ở đời biết nhịn nhục là hơn hết! Nhẫn nại là một tính tốt của những người đã từng trải cuộc đời, là khoa triệt lý rất sâu xa của bọn dân nghèo đói. Cho dẫu họ bị xử tàn ngược đến đâu, họ cũng chỉ đem lại cái tính nhẫn nại ra đối phó, hoặc yên lặng chẳng nghĩ ngợi gì, hoặc có cái tư tưởng sáo của cả một cái chủng tộc, để che đậy nhu nhược, tính nhu nhược cần phải có: "Tránh voi chẳng xấu mặt nào!"

Phải, tránh voi chẳng xấu mặt nào mà nhiều khi lại khỏi mất "cái kiếm cơm áo" nữa. Bà Cán đã từng thấy sự chật vật của bọn lao động đứng trước sự sống, như cây rong mọc ở dưới hồ cố sức ngoi lên mặt nước.

Song tính vui cười hồn nhiên vẫn là tính căn bản của hạng người làm việc bằng chân tay. Nhưng sự phiền muộn chốc lát, họ quên ngay. Rồi người này nói đùa một lời, người kia pha trò một câu, họ lại thi nhau cười khanh khách. Một người hỏi bà Cán:

- Cái cô bé ở nhà là con bà đấy à?

Bà Cán đáp:

- Phải, con tôi đấy.

Một người nói đùa:

- Giống bà nhỉ, chắc khi bà còn trẻ, bà cũng đẹp như thế.

- Cô em đã có chồng chưa bà?

- Cháu nó sắp có con rồi đấy.

Ông lão Hạnh nghe bà Cán nhận cô chủ mình là con thì không bằng lòng, nhưng vì thấy trong bọn lao động nhiều người có dáng dữ tợn, nên ông ta chỉ yên lặng đi bên cạnh, không dám bàn chêm một câu.

Về đến nhà, bà Cán thấy có nhiều người xúm xít chung quanh giường Huy nằm, Mai chạy ra đón rồi thì thầm:

- Chị Diên, chị ấy mời Đốc tờ về chữa cho Huy đấy.

Bà Cán hoảng hốt:

- Ấy chết! Mời đốc-tờ rồi lấy tiền đâu mà trả?

- Quý hồ khỏi bệnh thôi bà ạ, còn tiền thì đã có ông Hạnh. Phải không ông?

Ông lão bộc đáp:

- Ý chừng cô nói tiền cầm nhà, phải không?

Mai cười:

- Lại còn tiền gì nữa?

Bà Cán ngẫm nghĩ:

- Thôi cũng được! Nhưng ông đốc-tờ nào thế?

Ông đốc-tờ là một trong số người quen biết của cô Diên, chị cậu Trọng. Cũng chẳng ân nghĩa gì, chẳng qua trên con đường đời, không tình, không cảm, gặp nhau một hôm, kẻ cần sống, người cần thỏa lòng dục. Rồi mỗi người một ngả, nào ai còn tưởng tới ai?

Sự ngẫu nhiên tất phải thế. Song đây lại không phải là một sự ngẫu nhiên. Lòng sốt sắng muốn cứu giúp kẻ khốn cùng trong buổi hoạn nạn khiến Diên ngồi moi óc cố tìm được một người quen biết làm nghề thầy thuốc. Không nhớ ra, nàng liền đi lục tới những bức thư của đám tình nhân, thì chợt vớ ngay cái danh thiếp của ông đốc Minh.

Trong lòng hớn hở, nàng trang sức cực kỳ diễm lệ rồi rời gian phòng nàng thuê ở một phố hẻo lánh dưới xóm chợ Hôm, để đến nhà ông thầy thuốc mà, vì bạn em, nàng muốn nối lại tình xưa.

Đến nơi thì may yừa gặp Minh sắp sửa ra đi. Nhác thấy nàng, Minh mỉm cười:

- Kìa em Diên! Nay không phải anh tìm đến em mà lại chính em tìm đến thăm anh. Chắc em có việc gì cần đến anh?

Diên cũng cười, đáp:

- Có thế!

- Em cần tiền?

- Không. Nhưng anh sắp đi đâu thế?

- Anh định đi chơi mát. Nhưng chả thấy mấy khi em đến thăm anh thì cố nhiên anh phải ở lại nhà để tiếp em.

- Không, ta cùng đi, cần lắm!

- Đi đâu mà gấp thế, hử em?

- Nhân tiện ô-tô của anh đã đánh ra kia rồi, tôi xin anh đi ngay cho. Cần lắm!

Diên kéo Minh lên ô-tô, và ghé tai bảo anh tài xế:

- Lên làng Thụy Khuê.

Lúc tới nơi, Minh mới rõ là Diên mời mình đi chữa bệnh. Chàng mỉm cười nói:

- Có thế mà làm bí mật quá. Lần này là lần đầu tôi gặp một cô mời đi chữa bệnh một cách ngộ nghĩnh như thế.

Xem mạch xong. Minh quay lại hỏi Diên:

- Em cô, phải không?

Diên chỉ mỉm cười không đáp. Chàng lại hỏi:

- Có phải cậu này học ở trường Bưởi mà cô thường nói chuyện với tôi không?

Diên ngắm Mai, không muốn nói dối liền đáp:

- Không, cậu Huy là bạn học Của em Trọng. Chị Mai đây là Chị Cậu.

Minh quay lại. Dưới ánh đèn dầu trong gian nhà tối, chàng như nhận ra một người quen.

Đăm đăm nhìn Mai, chàng nói:

- Quái! Tôi đã gặp cô ở đâu mà không nhớ ra.

Mai thì Mai nhớ đích xác rằng ông đốc là bạn Lộc, vì đã hai, ba lần nàng gặp Minh đến chơi với chồng nàng. Song nàng chỉ bẽn lẽn cúi đầu không đáp.

Minh vừa rửa tay vừa bảo Mai:

- Vậy Cậu này là em cô. Bệnh cũng không nặng lắm đâu, cô cứ yên lòng. Chắc vì cậu ấy lo phiền quá.

Mai trả lời:

- Vâng, em nó sắp thi.

- Phải cho cậu ấy nghỉ hẳn, chứ đừng nghĩ gì đến thi cử hết.... Cậu ấy hình như có tức tối điều gì...

Diên định kể lể câu chuyện buồn rầu:

- Vâng, chính thế....

Nhưng Mai vội lấy tay bấm, ra hiệu đừng nói, nên Diên im ngay.

Hôm sau, Mai lại giao trả gánh hàng quà lại cho bà Cán, vì ông đốc-tờ bắt Mai phái giữ phận sự khán hộ và luôn luôn săn sóc bên giường người ôm.

Bốn giờ chiều, Minh một mình đến Thụy Khuê không phải có Diên đưa đường nữa. Chàng mang theo đủ các thứ thuốc cần dùng và thăm bệnh ân cần lắm. Cũng như hôm trước, chàng đăm đăm nhìn Mai hỏi:

- Có phải tôi đã gặp cô mấy lần ở đâu....

Mai cúi đầu đáp:

- Thưa ông, tôi không nhớ.

Minh như chợt nghĩ ra:

- Ã, phái rối, ở nhà anh Lộc.

Mai mặt tái mét, Minh lại nói luôn:

- Một hôm tôi đến chơi anh Lộc.... anh Lộc đi vắng, cô ra mở cửa, rồi tiễn tôi ra tận cổng.

Mai phần tức giận Lộc, phần xấu hổ, phần sợ em nghe rõ, cuống quít, nhớn nhác nhìn quanh, hai giòng lệ từ từ chảy hai bên má. Minh xin lỗi:

- Cô tha thứ cho. Tôi vô tình.

Mai cất giọng run run khẽ nói:

- Xin ông làm phúc đừng nhắc đến chuyện ấy ở trước mặt em Huy.

Minh gạt:

- Tôi hiểu rồi:

Ky thực Chàng chẳng hiểu gì hết.

Từ đó, ngày ngày Minh đến Thụy Khuê thăm bệnh.

Cái thông minh tình tứ của chị em Mai như có nhiều lưu luyến một chàng thanh niên chưa từng nếm lạc thú của gia đình. Bây giờ thì không những chàng không hiểu gia thê, cùng hoàn cảnh của chị em Mai ra sao, mà chàng lại không muốn dò xét ra để hiểu nữa. Chàng chỉ biết có một điều là mỗi ngày ngồi nói chuyện trong một vài giờ với hai người có một tâm hồn là lạ, điềm đạm mà cảm động, khẳng khái mà dịu dàng.

Một hôm, Minh đến giữa lúc Huy đương ngủ. Trông quanh phòng không thấy Mai đâu, chàng rón rén bước ra hiên đi vòng ra vườn sau, thì gặp Mai đương ngồi trên chiếc chõng tre, gục đầu khóc nức nở. Chàng lại gần, hỏi:

- Cô có điều chi buồn rầu?

Mai giật mình đứng dậy, bỏ vào túi bức thư đương cầm ở tay, rồi lau nước mắt, gượng cười đứng dậy:

- Bầm.... Không... Tôi lo cho bệnh trạng của em Huy.

Minh cười:

- Không phải, bệnh cậu Huy đã bớt nhiều, mười phần đã bớt đến bay, tám, chắc cô cũng biết thế... Nếu cô muốn tôi hết lòng chữa bệnh thì cô không nên giấu giếm tôi điều gì.

Mai sợ hãi, chẳng đứng được, đưa bức thư cho Minh. Minh đỡ lấy tờ giây bản, mỉm cười:

- Thơ việt bằng chữ nho, thì tôi hiểu sao được?

Mai liền thuật câu chuyện cầm nhà cho ông Hàn Thanh, rồi nói tiếp:

- Thưa ông, vì ông Hạnh bảo cầm được nhà hai trăm bạc, và văn khế lại làm xong đâu đấy cả rồi, nên tôi mới dám mời ông đến chữa cho em, tôi vẫn biết thuốc tây đắt lắm. Nhưng xem cơ chừng này thì thực khó lòng mà xong xuôi được. Chẳng qua ông Hàn Thanh ông ấy chỉ bày mưu lập kế để định ức hiếp mà thôi, vì ông ấy bặt tôi đến tận nhà ông ấy, ông ấy mới giao tiền.

Nói tới đấy, Mai lại bưng mặt khóc:

- Tôi khổ sở quá!

Minh cười:

- Tưởng là gì! Nếu chỉ có thế thì không lo. Tôi cứ chữa cho. Rồi bao giờ có tiền, trả tôi cũng được.

Thực sự ngờ vực đã vẫn vơ trong trí nghĩ ông bác sĩ trẻ tuổi. Cái lối khóc lóc của gái, Minh đã thừa biết. Chàng vẫn muốn chữa giúp, nhưng chàng rất ghét cái trò giả dối kia. Lòng kính mến một trí thức thông minh bỗng biên đi để nhường chỗ cho lòng khinh bỉ đối với một cô gái hà tiện quen thói đi lừa.... Chàng lại đứng sát gần Mai cười mát, rồi lấy tay khẽ đập vào má nàng mà an ủi bằng một câu bỡn cợt:

- Thôi, em nín đi chóng ngoan!

Mai đứng phắt dậy, mặt tái mét, cất tiếng cự tuyệt:

- Ông không được hỗn. Tôi là gái có chồng.

Minh càng ngờ vực, chỉ cười mà không đáp lại. Mai nói tiếp:

- Tôi là vợ bạn ông... Tôi là vợ ông Lộc.

Minh hoảng hột, ngơ ngác:

- Xin lỗi bà... Tôi vô tình.. không biết.

Rồi chàng nói chữa:

- Thảo nào, tôi trông bà quen quen. Thì ra tôi gặp bà ở nhà anh Lộc.

Mai vẫn còn căm tức, đứng thở hổn hển. Minh lại hỏi:

- Nhưng vì đâu bà gặp nông nổi này? Vì cớ gì, anh Lộc lại để bà phải khổ sở đến thế này?

Mai gượng cười:

- Bây giờ ông đã biết tôi là ai thì tôi xin ông một điều, ông sinh phúc cho là ông đừng nói với ông Lộc biết rằng tôi ở đây, đừng nói cho ông Lộc biết rõ tình cảnh chị em tôi...

Minh ngẫm nghĩ rồi đáp:

- Xin vâng.

- Thưa ông, tôi có thể tin được lòng hào hiệp của ông không?

Minh ngần ngừ:

- Nhưng tôi muốn anh Lộc... ăn năn tội lỗi...

Mai ngắt lời:

- Không... Đó là điều bí mật chưa thể để ông biết được... Nhưng rồi ông sẽ rõ... Vậy tôi có thể tin ở lòng nghĩa hiệp của ông. Tính mệnh em Huy ở trong tay ông, nếu ông Lộc mà tìm đến đây thì bệnh Của em Huy không hòng cứu được nữa.

Minh mỉm cười:

- Câu chuyện bí mật lắm nhỉ...Vâng thì tôi xin giữ bí mật.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2011 12:38:30 | Chỉ xem của tác giả
Thủ Tiết


Một buổi trưa mùa đông, một buổi trưa khô ráo ấm áp. Ở sân đình Thụy Khuê bên hồ tây, Mai và Huy ngồi sưởi ấm dưới ánh nắng mặt trời. Mấy cây muỗm, lá xanh đen, gió thoảng qua hơi rung động rì rào. Mặt nước hồ bằng phẳng lấp lánh như tấm gương lớn trong cái khung đục màu xám.

Ngắm những cây đại trơ trọi, khẳng khiu, giơ xương như người trần truồng giữa canh mùa đông giá lạnh. Mai lại nhớ tới tình cảnh nghèo đói của chị em mình. Nàng thở dài, mắt lờ đờ nhìn chân trời.

- Chị nghĩ gì vậy?

- Không, em ạ.

Câu hỏi của Huy thốt nhắc Mai nhớ tới hiện tại. Vì Mai đang sống trong một quãng đời quá khứ.

Sáu tháng qua....

Trong sáu tháng, đã xảy ra biết bao mừng vui, lo, ước mong. Nào bệnh Huy lúc nguy kịch, lúc thuyên giảm, nào thời kỳ sinh nở của Mai....

Mai lại thở dài. Huy hơi gượng nói đùa để cô làm khuây lòng chị.

- Chị ạ, trông con cóc đậu trên cái cọc be rau muống như pho tượng đồng đen một cô kỹ nữ Xiêm La giở hai tay ra múa.

Mai mỉm cười, rồi hai chị em ngồi yên lặng, nhìn vơ vẫn, nghĩ vơ vẫn, Huy bảo Chị:

- Can Chi Chị phải lo phiền. Ông đốc tờ đã hứa tìm việc cho em, rồi em đi làm cũng đủ tiền nuôi cháu.

- Ấy, chính vì thế mà chị buồn, em ạ. Trong sáu tháng nay, ông đốc Minh hết chăm nom thuốc thang cho em lại săn sóc đến chị và cháu. Chị em mình biết làm thế nào để đền lại ơn ấy cho xứng đáng. Nói đến tiền thì tất là chả đào đâu ra được rồi...

Huy mắt rầu rầu, nhìn chị. Cậu chẳng phải tìm đâu xa, cái duyên cớ sự tử tế của ông đốc Minh đã hiện ngay trước mặt cậu: Cái nhan sắc lộng lẫy, hoạt động của chị, nhất ngày nay chị lại là cô "gái một con", tuy chị mới ở cữ được có hơn một tháng. Ý tưởng ấy khiến Huy căm tức, nhớ lại những cử chỉ và hành vi khốn nạn của Lộc. Huy thở dài bảo chị:

- Những tư tưởng lạc quan của chúng ta sai lầm chăng? Bản tính loài người là tàn nhẫn chăng?

Mai mỉm cười:

- Em không nên vì một người, mà ghét lây, mà ngờ vực cả mọi người. Biết đâu ông đốc Minh chỉ vì nhân đạo mà muốn cứu vớt chị em ta!

Huy hơi cau mày:

- Phải anh tham Lộc cũng đã đem nhân đạo đối đãi với chúng ta!

Mai tỏ ý không bằng lòng:

- Em cũng nên xét lại, anh ấy chỉ vì vâng lời mẹ.

Huy gắt:

- Một người có dã tâm như thế mà chị còn bênh ư? Mẹ với con!

Mai buồn rầu bảo em:

- Chị xin em đừng nhắc tới chuyện ấy nữa.

- Chị quên câu chuyện bữa nọ rồi ư? Có phải vì anh ấy vâng lời mẹ anh ấy mà hôm đó gặp chị, anh ấy lánh mặt không?

Mai nghe em nói lấy làm khổ tâm, song sợ em vì tức giận quá mà bệnh cũ lại tái phát ra nên gượng cười đáp:

- Em tính hôm đó chị ăn bận lôi thôi, lại gánh hàng quà đi bán còn ai nhận ra được!

Rồi nàng nói lảng:

- Em ngắm hồ có nhớ hôm chị mới tới Hà Nội lần đầu, vào trường đón em không? Hôm ấy chị em ta ngồi trước của đền Quan Thánh, giời xuân mưa phùn, chị em ta kể chuyện con hươu vàng tìm mẹ...

Mai tưởng ôn lại chuyện cũ để làm vui lòng em, ngờ đâu càng khiến em thêm hối hận. Huy thở dài nói:

- Chỉ vì em... chỉ vì chị thương em.

Mai nghiêm sắc mặt hỏi Huy:

- Thế em có thương chị không?

Huy ứa nước mắt không trả lời. Mai lại nói:

- Nếu em còn thương chị thời em không được buồn, phải nhớ lời sau cùng của thầy: giữ lòng vui, linh hồn trong sạch và đem hết nghị lực ra làm việc. Ngày nay, Chị em ta càng cần có nghị lực....

Một tiếng còi điện ô tô. Hai người quay đầu lại. Chiếc xe hòm vừa đỗ bên cổng đình, và Minh ở trên xe bước xuống sắp rẽ vào làng Thụy Khuê, Huy vội chạy theo nói to:

- Bẩm chúng tôi ở đây!

Minh nhìn về phía hai chị em Mai, mỉm cười vẫy tay rồi hấp tấp đi tới, hỏi:

- Bà không lạnh à?

- Bẩm quan lớn không, hôm nay ấm lắm.

- Tôi đã nói bà đừng gọi tôi là quan lớn như thế không được thân, phải không cậu Huy?

Huy ngờ Minh giở giọng lả lơi cùng chị nên đứng im, nét mặt lãnh đạm. Song thực ra Minh không có ý bỡn cợt, chàng chỉ cốt tỏ ý không thích ai gọi mình là quan lớn hệt. Chàng như hiểu thấu sự ngờ vực của hai chị em Huy, điều đó chàng không muốn có, nhất chàng lại đứng trước mặt những người khổ sở đương bị hãm vào trong vòng quẫn bách. Chàng liền nghiêm trang nói tiếp:

- Tôi thích người ta gọi tôi là thầy thuốc còn hơn gọi tôi là quan đốc hay quan lớn. Tôi có làm quan lớn, quan bé gì đâu!

Mấy lời như xé cái màn nghi kỵ đương bọc hai chị em Mai. Cảnh nghèo nàn khiến hai người luôn luôn tưởng tới sự khinh bỉ, sự xúc phạm của kẻ khác đối với mình. Huy lấy làm hối hận, liếc mắt nhìn chị.

Minh hỏi Mai:

- Thế nào, cháu Ái ngoan đấy chứ? Đã đến nửa tháng nay, tôi bạn việc luôn không đến thăm bà và cháu.... Nhưng sao bà không ở nhà bế cháu?

- Bẩm, tôi nhờ bà Cán ẵm hộ.

- Không nên, bà ấy chân tay không được sạch sẽ. Khi nào bà mỏi tay thì đặt cháu xuống giường còn hơn. Bà đưa tôi về thăm qua cháu.

Ba người cùng vào làng Thụy Khuê. Tới ngõ, nghe tiếng trẻ khóc. Mai chạy vội về, đỡ lấy con, nói nựng để dỗ. Minh đứng gần nhìn thằng bé mập mạp, hồng hào, mỉm cười khen:

- Thằng bé kháu quá! Nó giống bố nó như đúc.

Câu nói vô tình khiến Mai và Huy cùng rầu rầu nét mặt. Ý chừng Minh cũng biết là mình lỡ lời, nên nói lảng:

- Bà nhớ cho cháu bú đúng giờ.

Rồi ông ngả đầu chào:

- Thôi, kính chào bà và cậu. Dăm hôm nữa tôi lại về thăm cháu.

Mấy phút sau, Minh trở lại, tươi cười bảo Huy:

- Tôi quên không báo tin cho cậu biết rằng tôi đã tìm giúp cho cậu một việc rồi đấy. Tôi có người anh em bạn lập ấp ở Nam Định cần một người thầy giáo để dạy các con. Tôi biên thư cho ông ấy và nhận được thư trà lời nói ngày mai cậu về chuyến xe hỏa thứ nhất. Ông ấy sẽ cho ô tô đón ở ga Gội.

Minh mở ví đưa cho Huy cái danh thiếp:

- Tên và địa chỉ của ông ấy đây... Nhớ ga Núi Gội nhé, qua Nam Định một ga.

Mai sung sướng nhìn em. Huy yên lặng ấp úng mấy câu cảm ơn. Minh vội gạt:

- Có gì mà ơn với huệ. Ông ấy chẳng mượn cậu cũng phải mượn người khác, mà vị tất đã giỏi bằng cậu... À! Lương tháng mười lăm đồng đấy còn cơm thì ăn với ông ta. Đây, tiền lộ phí của ông ấy gửi cho cậu đây.

Rồi Chàng đưa cho Huy hai cái giấy bạc một đồng. Tiền ấy chính là tiền của chàng, mà sợ Huy không nhận, chàng phải nói thác ra là tiền lộ phí của người bạn chàng gửi lên.

Bà Cán đứng nghe mừng rỡ:

- Bẩm quan lớn, thế thì hậu quá!

Tỏ lòng cảm ơn một cách gián tiếp, Huy bảo Mai:

- Vậy mỗi tháng em gửi cho chị mười hai đồng, em tiêu ba đồng cũng phong lưu chán.

- Thôi thế thì bà không phải nghĩ đến cách sinh nhai... lam lũ nữa. Không phải là tôi khuyên bà đừng làm việc, nhưng hiện giờ bà cần làm ở nhà nuôi cháu. Và người bà còn yếu lắm.

Chàng lại mỉm cười nói tiếp:

- Tiền của em gửi biếu chắc bà không thề từ chối được nữa!... Thôi chào tất cả nhà nghỉ nhé!

Mai và Huy tiển Minh ra tận cổng, cảm động không nói nên lời.

- Thế là ngày mai, chị em ta phải xa cách nhau.

Huy nhìn chị, khuyên giải:

- Chị đừng buồn, chị ạ. Còn sáu tháng nữa đã đến kỳ thi, em về thi đậu làm giáo học nhà nước thời chị em ta sẽ được sum họp mãi mãi.... Nay em cần phải làm tạm kiếm tiền để chị đỡ vất và. Số tiền mười hai đồng: chị trả bà Cán bốn đồng tiền ăn, còn thừa thì trả tiền nợ cũ. Còn như tiền thuốc, chị hãy khất ông đốc đến khi em đi làm giáo học.

Mai cười:

- Em chu đáo lắm!

Tuần lễ sau, một buổi chiều, Minh lại về Thụy Khuê thăm Mai. Bà Cán đi chợ bán hàng vắng, chỉ có mình Mai ở nhà, ẵm con nằm võng. Nàng thấy Minh đến, lo sợ, đứng dậy đặt con xuồng võng, rồi nhớn nhác, nhìn quanh mình nhử để tìm người cứu viện. Minh lại gần ngã đầu chào hỏi:

- Cậu Huy đã nhận việc rồi.

- Bẩm vâng, bẩm thực.... quan lớn, bẩn quan lớn ơn ấy....

Minh mỉm cười nhắc:

- Ơ kìa! Bà lại kêu tôi là quan lớn kìa!

Thực ra Mai sợ hãi cuống quít ấp úng không nói ra câu, Minh chữa thẹn cho Mai:

- Trông bà hôm nay khá nhiều, da dẽ đã hồng hào.

Nói cho đúng, Minh ngắm Mai thấy Mai đẹp lắm, đẹp ít người sánh kịp. Minh đăm đăm nhìn khiến Mai bẽn lẽn cúi mặt. Chàng nói:

- Tôi lấy làm ái ngại cho bà, ở vào giữa nơi thô lậu tục tằn.

Nghe giọng khinh bỉ của Minh, Mai đáp:

- Bẩm nếu không có nơi thô lậu tục tằn này thì chắc đâu chị em tôi còn sống sót đến ngày nay. Bẩm vì thế, không bao giờ chúng tôi quên được cái nhà này cùng là những người nhân đức ở trong cái nhà này.

Minh nói chữa:

- Vẫn biết thế, nhưng nay Cậu Huy đi xa thì bà cũng chả nên ở đây nữa. Chung quanh rặt những thợ thuyền dữ tợn.

- Bẩm, anh em thợ thuyền đều coi tôi như chị em cả.

- Bà nhẹ dạ lắm. Tin thế nào được bọn họ.

- Bẩm, tôi xin cám ơn... ông dạy bảo. Tôi chỉ tạm ở đây ít lâu để chờ em Huy kiếm được nhiều lương rồi cùng đi ở chung với em.

Mình ngẫm nghĩ, đăm đăm nhìn Mai, khẽ nói:

- Tôi có câu chuyện tâm sự nhiều lần muốn ngỏ cùng bà, nhưng chỉ vì bà là người còn chịu ơn tôi, nên lương tâm tôi bứt rứt, và tôi ngần ngại không dám hé môi. Song thiết tưởng đó là một việc nhân đạo.

Mai ngẫm nghĩ rồi đáp:

- Bẩm việc gì, xin ông cứ nói.

- Thưa bà, tôi xin làm người bạn trăm năm để che chở cho bà.

Ý Mai quả quyết từ chối. Song đối với ân nhân này, nàng không nỡ nói thẳng. Nàng đương tìm lời dịu dàng để thoái thác, thì Minh tưởng nàng bằng lòng, tiếp luôn:

- Thưa bà, tôi một thân trơ trọi ở trên đời thì không còn sợ xảy ra sự gì nữa.

Mai ôn tồn trả lời:

- Thưa ông, nếu tôi tái giá thì ông thực là người chồng tôi kính phục. Nhưng tôi đã trót yêu anh Lộc thì tôi không thể yêu ai được nữa.

Minh thất vọng buồn rầu:

- Thưa bà, ông Lộc đối với bà tàn nhẫn đến thế mà bà còn yêu được?

- Thưa ông, bây giờ có lẽ tôi không yêu chồng tôi, mà cũng không muốn trông thấy mặt nữa, nhưng tôi nói trót yêu một người thì tôi cho rằng cái đời tôi như thế là hết, dù tôi chỉ mới nửa chừng xuân.

- Thưa bà, đối với một người đã lừa dối bà, đã ruộng rẫy bà để lấy vợ khác, thiết tưởng bà chả cần gì phải thủ tiết. Bà tha lỗi cho, nhất lại đối với một người đã khinh bỉ bà một cách rõ rệt.

Chàng vừa nói vừa cầm lấy hai tay Mai. Trong trí nhớ của Mai thoáng hiện ra cái cảnh tượng bên hồ Tây, khi lần thứ nhất. Lộc tỏ tình thương yêu nàng. Nàng vội kêu rú lên, giật tay ra ngồi bưng mặt khóc. Đứng bên, Minh kêu van:

- Xin bà tha lỗi cho... Quả tôi thực tình...

Chàng lễ phép cúi đầu chào, rồi vội vàng ra xe về thẳng như người chạy trốn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2011 12:39:06 | Chỉ xem của tác giả
Họa Sĩ


Độc giả chắc nhiều người mong rằng một ngày kia Lộc sẽ nhận xét nỗi oan uổng của Mai và thân hành đến nếp nhà tranh tìm Mai để xin lỗi, để đón Mai cùng về ở với mình như xưa.

Sự ước mong của độc giả có khi cũng là sự ước mong của Mai. Không phải nàng quá mơ tưởng đến một tương lai tốt đẹp, sung sướng. Chỉ vì luôn luôn ngắm đời bằng con mắt lạc quan, nàng sẵn có lòng, nàng dễ có lòng tha thứ, tha thứ mình, tha thứ người.

Rồi sự ước mong kia ở trong tâm tư Mai thành như một sự có thực. Nàng cho rằng nàng đã yêu Lộc thế nào, thì cố nhiên Lộc cũng yêu nàng. Mà Lộc đã yêu nàng thì thế nào cũng phái tìm đến đón nàng dù nàng núp ở chốn hang cùng ngõ hẻm, ở nơi ẩn dật trong đám rừng xanh.

Những câu chuyện tàu, những câu chuyện thần tiên mà nàng được nghe ngày còn nhỏ càng làm chặt chẽ cái lòng yêu đợi và tin trời của nàng. Trong những chuyện ấy, người thiện bao giờ cũng được hưởng hạnh phúc, người oan uổng bao giờ cũng có dịp gỡ được nổi oan.

Mai tin ở Trời, tin ở lòng tốt của mình và của người. Nàng cho rằng bản tính con người ta không thể xấu được, và khi người ta tàn ác, ngờ vực, có những tư tưởng ghét đời là chẳng qua người ta mất trong chốc lát, cái bản tính của loài người mà thôi.

Thấy sự dễ tin ở Trời và ở lòng tốt của loài người lúc nào cũng chứa chan trong trí não, trong linh hồn Mai, chắc có nhiều người cho đó là kết quả của một nền Pháp văn lãng mạn. Rồi có lẽ họ sẽ kết án vai chủ động trong chuyện này, cho đó là cái gương xấu của sự mơ mộng không đâu.

Nếu yêu người, nếu sẵn lòng tốt tự nhiên, dễ cảm động khi đứng trước những sự dịu dàng tốt đẹp hay những sự đau đớn uất ức của loài người mà họ cho là lãng mạn, thì sự lãng mạn ấy là một sự tuyệt đích của nhân loại dù có khi nó đem đến cho ta những sự thiệt hại, thiệt hại về vật chất, thiệt hại về tinh thần. Song thử hỏi: ta có thể có sự phi thường nào mà lại không chịu phần thiệt hại riêng cho ta chăng? Ở đời có thể có sự tốt đẹp, lớn lao, cao thượng nào ngoài sự hy sinh được không?

Nhưng không, Mai không phải đã chịu ảnh hưởng nền Pháp văn lãng mạn. Hay nói trái lại thì từ cổ chí kim ở nước nào cũng có một hạng người giàu lòng cảm động, giàu lòng trắc ẩn, tin người đến nỗi phải lụy tới mình. Hạng người ấy nhiều khi yên lặng chịu đau, chịu nhục, chịu khổ; những kẻ có linh hồn khô khan, có trái tim khô khan, hiểu sao được? Mắt họ chỉ có thể trông thấy những sự nhỏ nhen, đê hèn làm cho quên nhãng trong chốc lát, cái bản tính tốt đẹp, cao thượng của Trời đã phú cho.

Mai chính là một người đã giữ được hoàn toàn cái ban tính đó.

Lúc Minh đã từ biệt nàng về, nàng còn ngồi khóc, khóc mãi. Một tiếng oe ở võng. Nàng vội lau nước mắt, ra ẵm con, vừa cười, vừa nói nựng đề dỗ cho con nín.

Thằng bé nghe tiếng hát ru, thiu thiu ngủ lại trong lòng mẹ, còn Mai thì tiếng cọt kẹt đưa võng, cũng như ru nàng trong giấc mộng.

Nàng cố ôn lại thái độ và cử chỉ của Minh. Nàng không ngờ vực lòng thành thực của Minh một chút nào, song nàng cho rằng dẫu sao, nàng vẫn là một người đàn bà có chồng tuy người chồng đó ruồng bỏ nàng.

Những ý tưởng phản rối loạn trong óc nàng. Nàng còn như nghe máng bên tai lời nói của Minh: "Thủ tiết là một sự vô nghĩa lý".

Nàng hồi tưởng đến câu chuyện trên đồi tám chín tháng trước. Nàng còn nhớ rành mạch hôm ấy Lộc bảo nàng: "Nhiều khi anh thấy tư tưởng của anh bị kiềm tỏa trong giới hạn nho giáo".

Nàng như tĩnh ngộ, nghĩ thầm: "Phải, nho giáo! Sự thủ tiết của ông Minh cho là vô nghĩa lý, Và ta khăng khăng tôn trọng, đó là anh hưởng của nho giáo. Khi nào làm việc gì mà ta suy trước tính sau, thì ta thấy ta muốn phản đối lại cái đạo mà ta cho là bó buộc, là không hợp với tính tình cao thượng của loài người. Song những lúc thốt nhiên, ta làm một việc mà chẳng hiểu sao, ta cho là phải, hay tránh một việc mà lương tâm ta cho là xấu, là bậy trước khi ta suy xét, thì việc ấy tất là kết quả của mấy đời nho giáo".

Thằng bé con động đậy ở trong lòng nhắc nàng nhớ đến hiện tại.

"Bây giờ ta chỉ biết có hai việc: Một là ta phải thủ tiết với chồng ta, tuy chồng ta bạc bẽo với ta. Ta cũng chẳng biết vì sao ta phải thế, nhưng hình như lương tâm ta bắt ta phải thế.

"Hai là cự tuyệt ông đốc Minh. Mà muốn cự tuyệt thì trước hết phải trả tiền thuộc đã. Cái món tiền ta nợ, đã nhiều lần ta hỏi là bao nhiêu, nhưng ông ấy vẫn giấu. Song ta chắc là một món tiền to, ít ra cũng đến trăm bạc. Vậy thì đào đâu ra tiền bây giờ".

Mai lại nhớ đến món tiền hai mươi đồng nàng nhận của Lộc trong buổi gặp gỡ lần đầu. Nàng thở dài, lẩm bẩm:

- "Chỉ vì hai chục bạc ấy!...Với cái lòng thương người".

Lời bà Án còn phảng phất trong trí nàng:

- "Nếu thấy ai, cô cũng thương thì nguy cho cô lắm!"

Song biết sao? Bẩm sinh sẵn thương người thì cũng phái chịu khổ, chớ biết sao? Nàng mỉm cười:

"Nhưng đã biết đâu rằng ta khổ? Những người có lòng cao thượng, biết hy sinh thì không bao giờ được phép tự cho mình là khổ!"

Muốn không nghĩ quanh lo quẩn, muốn không loay hoay mãi với tư tưởng. Mai se sẽ đặt con xuống võng đi ra đường cho được khuây khỏa và nhân tiện giúp bà Cán thu dọn hàng về.

Ra đến đình, Mai gặp bà Cán đặt gánh ngồi nói chuyện với một người vận âu phục. Nhác trông thấy Mai, bà chạy lại ghé tai thì thầm:

- Này cô ạ, có cái ông kia đã mấy hôm nay mang thuốc vẽ đến vẽ hồ, vẽ đình. Rồi chả biết ông ấy gặp cô bao giờ mà hôm nay ông ấy cứ đến nhì nhằng hỏi thuê cô làm kiểu mẫu. Tôi cũng chả hiểu làm kiểu mẫu là thế nào, nhưng thấy ông ta nói giá một đồng một ngày thì tôi cũng đòi hai đồng. Ông ta còn muốn xem người cô ta đã rồi mới định giá. Vậy cô thử lại xem.

Mai giẫy nẩy:

- Thôi, Chịu thôi!

- Thì cứ lại xem sao đã.

Nghe lời, Mai ung dung đến gần chỗ người kia đứng. Chàng ta cắp ở nách một cái hộp to với mấy cái bản gỗ nhỏ sắp sửa ra về. Nhác thấy Mai, chàng cất mũ chào, mỉm cười hỏi:

- Thưa cô, cô có phải là con bà cụ không?

- Thưa vâng, ông truyền điều gì?

Chàng kia lại mỉm cười, mắt đăm đăm nhìn, long lanh sau cặp nhỡn kính cận thị:

- Thưa cô, tôi là họa sĩ Bạch Hải, tôi đã ngõ lời với bà thân mẫu cô, muốn nhờ cô làm kiểu mẫu, vậy cô nghĩ sao?

Mai ngần ngại hỏi:

- Thưa ông! Làm kiểu mẫu là thế nào?

Bạch Hải cười:

- Có gì đâu! Cô đến xưởng vẽ làm kiểu mẫu cho tôi vẽ.

Mai cặp mắt đỏ hoe ấp úng:

- Thưa ông, thiếu gì... người mà ông lại thuê tôi.

- Thưa cô, chẳng giấu gì cô, tôi đi tìm kiều mẫu đã nhiều song chưa gặp được ai có nhan sắc như cô. Hôm nọ thoáng thấy cô ở chợ Bưởi, tôi dò la mãi hôm nay mới gặp.

Mai bẽn lẽn, còn bà Cán thì bắt thóp anh chàng hám sắc, trà lời một cách quà quyết:

- Thưa ông, phải hai đồng một buổi. Nhất định phải hai đồng.

Nhà hội họa ngẫm nghĩ, đăm đăm nhìn Mai.

- Vâng, thì hai đồng. Vậy mai cô đến nhé?

Mai trù trừ:

- Biết làm kiểu mẫu ra sao!... Thôi đi, chịu thôi.

Bạch Hải dỗ dành:

- Thì có gì nguy hiểm mà cô ngại. Sáng từ tám giờ đền mười một giờ, chiều cứ hai giờ đền sáu giờ cô lại đằng nhà ngồi trên một chỗ cho tôi vẽ. Thế là cuối tháng cô có mấy chục bạc.

Ba chữ "mấy chục bạc" bỗng nhắc Mai cái món nợ tiền thuốc. Nàng liền đáp:

- Vâng, mai tôi xin lại.

Họa sĩ tỏ vẽ vui mừng:

- Vậy tám giờ mai cô đến nhé? Nhà tôi ở phố B... 125.

- Thưa ông, tôi không biết phố B... ở đâu.

Bạch Hải ngẫm nghĩ:

- Thôi, để mai tôi lại đón. Vậy cô chờ tôi... À cô tên gì nhỉ?

Mai mỉm cười:

- Thưa ông, ông cần gì phải biết tên tôi? ông cứ gọi là người kiểu mẫu cũng đủ.

- Thôi thế cũng được... Mai tôi đến đón cô ở đây.

Sáng hôm sau, y lời hẹn, Bạch Hải đến đình Thụy Khuê.

Mai đã đứng chờ ở đây. Họa sĩ gọi xe cho Mai rồi đi xe đạp theo sau.

Mai đến làm kiểu mẫu cho họa sĩ được chàng đối đãi mộc cách rất lễ phép. Buổi đầu nàng cũng hơi khó chịu vì cái tính hay hỏi chuyện lẩn thẩn của ông họa sĩ, song về sau quen đi, nàng cho là một sự thường. Bây giờ, nghe họa sĩ giảng khoa tâm lý về hội họa, nàng không thấy làm lạ nữa, và bất cứ chàng nói điều gì nàng cũng cho phải ngay, dẫu nàng nghe trái tai đến đâu mặc lòng.

Được hai tuần lễ thì bức vẽ một cô gái ngôi tư lự đã gần xong. Suốt ngày họa sĩ chỉ loay hoay với bức tranh, hết chữa chỗ nọ chỗ kia lại ngồi thừ ra ngắm nghía.

Một hôm Mai đến nhưng chàng không biết, bao tâm thần dồn cả vào người mỹ nữ trong tranh.

Bỗng Mai kinh hoảng rón rén lảng ra ngoài hiên: Nàng vừa thấy họa sĩ lại gần bức tranh và ghé miệng hôn ảnh mình. Một lúc sau, nàng vờ gõ cửa rồi bước vào phòng.

Bạch Hải giật mình quay lại, ngây người, đứng nhìn, hồi lâu mới nói được nên lời. Chàng bào Mai:

- Cô ngắm bức tranh có ưng ý không?

Mãi bẽn lẽn đáp:

- Thưa ông, đẹp lắm. Ông vẽ đẹp hơn kiểu mẫu nhiều quá.

Bạch Hải cười:

- Cô nhún mình quá! Tôi còn lo chưa tả được cái dịu dàng của cô, cái tính dễ cảm động, cái lòng hay thương người của cô.

Mai ngượng ngùng:

- Sao ông biết tôi có tính dễ cảm động, có lòng hay thương người?

Bạch Hải cười:

- Thì tôi đã bảo tôi rất thích và rất sành khoa tâm lý mà lại!

Chiều hôm ấy họa sĩ khẩn khoản ép Mai cứ đề y phục kiểu mẫu mà về, và chàng nói chàng tặng hẳn Mai bộ quần áo ấy.

Nể lời thành thực của họa sĩ, Mai nhận và nói cảm ơn rồi ngỏ lời xin phép từ mai ở nhà vì bức tranh đã hoàn thành.

Sự thực, thấy cách thức cử chỉ của họa sĩ, nàng sinh ra lo lắng vẫn vơ. Bạch Hải vội kêu:

- Ồ! Đã xong thế nào được, ít ra phải hai tuần lễ nữa!

Ở nhà họa sĩ ra đến cổng. Mai thoáng thấy một cái xe nhà đi qua, người ngồi trên xe đăm đăm nhìn nàng. Nàng kêu rú lên một tiếng. Cái xe đi vùn vụt tận đằng xa. Nàng vội vàng gọi xe mặc cả về làng Thụy Khuê.

Người mà nàng vừa gặp, người vừa nhìn nàng một cách khinh bỉ, chính là Lộc, chồng nàng.

Mai ngồi trên xe buôn rầu, nghĩ ngợi lan man chẳng biết đã qua những phố nào.

- Đến đình Thụy Khuê rồi cô ạ!

Mai như chợt thức giấc, mỉm cười, lẳng lặng xuống xe trả tiền, rồi lững thững đi vào làng.

Về tới nhà, gặp Diên bế con mình đương đưa võng. Mai mừng quýnh:

- Kìa chị Diên! Quy hóa quá! Chị lại thăm em có việc gì?

Diên mỉm cười, nhìn từ đầu đến chân Mai một cách rất tò mò, khiến Mai bẽn lẽn. Diên khẽ nói:

- Cánh nào đấy?

Mai cười đáp:

- Chị hỏi bộ cánh này?... À Chị Chưa biết nhỉ.

Diên chau mày, hơi có giọng gắt:

- Không, tôi hỏi chị đi với ai về kia?

Mai nghe lời bạn, mặt nóng bừng, toan cự lại. Song chợt nghĩ ra, và không muốn nhắc đến cái đời giang hồ của Diên, nàng chỉ dịu dàng, bảo bạn:

- Không, chị ạ. Em đi làm kiểu mẫu cho một nhà hội họa về đây mà. Bộ cánh này là của họa sĩ cho em.

Diên ngờ Mai giấu giếm, nên cười mát, nói:

- Thế à?

Rồi lảng sang chuyện khác ngay:

- À, tôi nhờ vú em đi đằng kia có tí việc. Chị mướn vú em bao nhiêu tiền một tháng thế?

- Hai đồng đấy, chị ạ. Độ này tôi bận đi làm kiểu mẫu, nên phải mượn vú.

- Thế cũng phải.

Rồi hai người lại yên lặng, mỗi người nghĩ theo một ý tưởng riêng.

- Chị nghĩ điều gì thế hở chị Diên?

Diên cười chua chát rồi thong thả, buồn rầu bảo bạn:

- Tôi nghĩ tới đời một người giang hồ. Người giang hồ xưa là con nhà tử tế trong bọn trung lưu.

"Một buổi chiều xuân êm ái, bên dòng nước biếc trong veo, một trang công tử, đẹp trai, thông minh, đem lời đường mật cám dỗ.

"Rồi cập uyên ương cùng nhau sống trong một cảnh thần tiên mộng ảo.... Rồi lúc tỉnh giấc mộng... Rồi lúc cặp uyên ương chia rẽ... Rồi từ đó, kẻ khốn nạn lăn xuồng vực sâu hang thăn... Ghê lắm, chị ạ!... Thảm lắm, chị ạ!"

Mai đăm đăm nhìn Diên: có vẻ thương mến, hai giọt nước mắt long lanh... Diên ngừng một lát, lại nói:

- Nhưng kẻ đã qua cái dốc nguy hiểm ấy, khi tới đáy vực ngước mắt lên thấy có kẻ sắp ngã thì đem lòng thương hại, kêu to: "Đứng lại"!

Bấy giờ người vú em ở ngoài vào đưa cho Mai bức thư.

- Thưa cô, người đi xe đạp nói là người ông Bạch Hải bảo đưa cho cô cái thư.

Mai lẳng lặng xé phong bì, ghé vào ánh đền lù mù đứng xem. Rồi buồn rầu bảo Diên:

- Chị ạ, thế một người đã ở sườn dốc mà muốn không ngã có thể được không?

Diên lắc đầu:

- Khó lắm!... Nhưng thư của ai gửi cho chị thế?

- Đây Chị Xem.

Mai đưa thư cho Diên. Diên đỡ lấy, rồi trao Ái cho vú bế. Mảnh giấy vắn tắt có mấy dòng:

Thưa cô,

Cô là một trang diễm lệ, tôi là một nhà tài tử. Chúng ta nên làm một đôi bạn trăm năm. Từ mai, xin cô ở luôn đằng tôi, tôi xin hết sức làm cho cô được sung sướng. Đã nhiều lần tôi định ngỏ lời với cô, nhưng đứng trước mặt cô, tôi cứ ngần ngại.

Người yêu cô
BẠCH HẢI

Đọc xong Diên ngẫm nghĩ:

- Bạch Hải... có phải Bạch Hải ở phố B... không?

- Chính đấy. Tôi là kiểu mẫu cho ông ta.

Diên mủm mỉm cười:

- Hắn ta đã bắt chị cởi trần chưa?

Mai, mặt đỏ bừng, tức giận, đứng im, không đáp.

- Chưa, phải không? Tôi còn lạ gì anh chàng Bạch Hải. Anh ta nuôi đầy tớ gái, chỉ chọn đứa đẹp.

Mai gắt:

- Vậy chị cho ông Bạch Hải nuôi tôi làm đầy tớ, phải không?

Diên cười:

- Không! Nhân tình thì vẫn hơn đầy tớ chứ, trừ khi đầy tớ cũng là nhân tình.

Mai bưng mặt khóc. Diên xin lỗi:

- Thôi tôi lỡ lời... Chị tha cho. Vậy đã có gì chưa? Đã có gì với nhau chưa?

Mai nức nở thuật lại câu chuyện cho Diên nghe, từ khi Minh ngỏ lời xin cưới mình làm vợ cho đến khi bắt gặp Bạch Hải hôn trộm ảnh mình, Diên thương hại buồn rầu hỏi Mai:

- Bức tranh vẽ xong chưa?

- Tôi trông thì hình như xong rồi, nhưng ông ta bảo phải đến hai tuần lễ nữa.

- Chị làm kiểu mẫu được bao nhiêu lần rồi?

- Hai mươi hôm.

- Bạch Hải trà tiền rồi chứ?

- Đã. Ngày nào, ông ta trả tiền ngày ấy. Được tất cả bốn chục. Tôi muốn nhờ chị đem lại nộp hộ tiền thuộc ông Minh...

Diên gạt:

- Thôi! Cái đó đã có tôi. Hôm nọ hắn biếu tôi hai chục, tôi không nhận, tôi bảo hắn trừ vào tiền thuộc cậu Huy.

Nói dứt lời Diên cười khanh khách. Mai cảm động quá, đứng thừ người ra, một lúc lâu mới khẽ bào bạn:

- Chị muốn tôi không lăn xuống dốc thì chị nên giúp tôi. Thế nào chị cũng nộp món tiền này cho.

Diên ngẫm nghĩ:

- Phái đấy... Thôi cũng được!... Vậy chị đưa tiền đây tôi trả giúp.

Mai lấy đưa cho Diên bốn tập giấy một đồng, rồi hai người từ biệt nhau. Ra đến cổng, Diên còn quay lại dặn với bạn một câu:

- Thế này là hết nợ rồi đấy. Không cần tiền nữa, thì từ mai đừng đến nhà Bạch Hải làm kiểu mẫu nữa nhé!

- Cám ơn chị... À, cậu Trọng bây giờ ở đâu nhỉ?

- Em Trọng làm thư ký ở Vĩnh Yên. Nó gửi lời hỏi thăm chị và cậu Huy đấy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2011 12:40:01 | Chỉ xem của tác giả

PHẦN THỨ BA


Người Xưa



Năm năm sau.

Một nếp nhà ở chân đồi trong làng Trù Mật cách Phú Thọ độ hơn cây số.

Bên cạnh cửa sổ, một người đàn bà còn trẻ, còn đẹp ngồi mạng áo. Thỉnh thoảng nàng lại ngừng tay, thò đầu ra ngoài nhìn một thằng bé con đương cầm cái bay đào đất.

- Ái! Không được vầy đất nữa! Đi rửa tay để ăn cơm chứ!... Cậu giáo sắp về rồi. Ta bảo không được, chốc tao mách cậu cho đấy.

Thăng bé sợ hãi, chạy lại gần, kêu van:

- Ái lạy mẹ, mẹ đừng mách cậu cho Ái nhé!

- Ừ, thế đi rửa tay ngay... Chậu nước mẹ lấy rồi để ở thềm ấy.

Một lát sau, Ái chạy vào giơ hai tay khoe mẹ:

- Mẹ ơi! Tay Ái sạch rồi, mẹ đừng mách cậu cho Ái nhé!

Mai, vì người đàn bà ấy chính là Mai, ôm lấy con hôn, nói nựng:

- Con tôi ngoan lắm!... Ái có yêu mẹ không?

Ái hai tay quàng lấy cổ mẹ:

- Có chứ!

- Thế Ái có yêu cậu Huy không?

- Có chứ!

- Ngoan lắm! Thế Ái có hôn mẹ một cái thật kêu nào.

Ái kéo đầu mẹ xuống hôn chụt hai bên má, rồi nũng nịu:

- Mẹ cho phép Ái đi đón cậu nhé?

- Không được, lối ấy dốc mà có xe ô-tô hàng qua lại luôn. Con đứng ở cổng đón cậu cũng được.

- Mẹ bảo ông Hạnh đưa con đi... nhe mẹ nhé.

Mai nói dỗi:

- Ừ đấy! ông muốn đi đâu thì đi.

Thấy mẹ gắt, Ái gục đầu vào lòng khóc:

- Mẹ không yêu con rồi.

- Thế sao mẹ bảo, con không nghe?

Ái cười lau nước mắt, thỏ thẻ:

- Vâng, thế con chỉ đứng cổng chờ cậu thôi nhé? Thế mẹ yêu con, mẹ đừng giận con nữa nhé?

Mai không trả lời, ôm con hôn lấy hôn để.

Khi Ái đã ra cổng rồi, Mai xếp kim chỉ vào thúng khâu, ngôi chờ em về.

Năm năm trời, Mai theo em lên Phú Thọ. Thời gian thấm thoát, đoái tưởng đến hồi ở Hà Nội, mọi việc như mới xảy ra mấy tháng trước. Mai lẩm bẩm: "Thế mà đã năm năm!"

Từ ngày Mai và Huy lên Phú Thọ tới nay, chưa một lần nào về Hà Nội, dẫu tới kỳ nghỉ hè cũng vậy. Bốn người cùng nhau hưởng hạnh phúc êm đềm ở một nơi ẩn dật.

Ngày này sang ngày khác, tháng lại tháng, năm lại năm, cuộc đời không thay đổi. Ngày hai buổi Huy trèo dốc dài lên tỉnh dạy học. Trong khi ấy thì Mai và ông Hạnh trông nom nhà cửa và sửa soạn nấu ăn.

Chủ nhật, hai chị em đưa Ái lên đồi hay vào rừng, đem theo bánh mì và các món ăn, ở mãi đấy cho tới gần chiều mới về. Những hôm ấy, không lần nào Mai không nhờ đem theo các sách của em đương soạn để đọc, rồi hai chị em bàn nhau, hoặc thêm hoặc bớt một vài đoạn, hoặc chữa lại một vài chỗ.

Sự mong ước của Huy là dăm năm sau sẽ có cái vốn vài ba nghìn, và tìm nơi gần đồi, gần sông, mua ít ruộng, ít đất làm nhà cùng ở với chị. Vì thế ngoài giờ dạy học, Huy còn viết sách, viết truyện gửi về Hà Nội bán cho các báo. Sau mấy năm Huy đã để dành được gần một nghìn bạc.

Mai thì ngoài việc mua đất làm nhà, Mai còn nghĩ đến việc cưới vợ cho em nữa. Nhưng hễ nghe Mai nhắc tới, Huy chỉ một mực chối từ, nói mình hãy còn nghèo và việc ấy chưa vội.

Một đôi khi ngắm con. Mai cũng tưởng tới người xưa. Nhưng sự nhớ nhung chỉ có trong chốc lát. Cái hình ảnh người ngồi vắt vẻo trên xe lãnh đạm nhìn Mai đã cắt đứt cảm động, đã tiêu tán hết âu yếm dịu dàng trong tâm hồn Mai.

- A! Cậu giáo đã về! Mẹ ơi! Cậu giáo đã về.

Mai vui cười, ra cổng đón em, Ái phụng phịu chạy lại bên mẹ rơm rớm nước mắt:

- Mẹ ơi1 Cậu Huy giận con. Hôm nay Cậu không hôn con.

Mai đưa mắt nhìn em, nhận ra rằng Huy không được tươi tĩnh như mọi ngày.

Nàng Vội hỏi:

- Em sao thế?

Huy gượng cười:

- Không chị ạ.

Mai không tin hỏi luôn:

- Em có điều gì buồn?

- Không mà lại. Em có buồn đâu. Em mới về hơi mệt đấy thôi.

Muốn làm cho chị hết ngờ vực. Huy cúi xuống bế Ái lên, vừa hôn vừa nói:

- Ái không ngoan rồi, chỉ làm cho mẹ buồn thôi.

Được cậu ẵm, ái vui mừng, rồi tẩn mẩn nó thò tay vào túi áo Huy định lấy xu.

Bổng nó giơ lên một tờ giấy xanh, gọi Mai:

- Mẹ ơi! Cậu có cái này đẹp quá, mẹ ạ.

Thoáng trông thấy màu giấy và kiểu chữ trong thư, Mai mặt tái dần, phải đứng tựa vào tường như sợ ngã ngất.

Huy vội đặt Ái xuống đất, giật bức thư bỏ vào túi, rồi chạy lại hỏi:

- Chị sao thế?

Mai ấp úng:

- Em có điều gì giấu chị...

- Không.

- Thế thư của ai gửi cho em đấy?

Huy toan nói đó là một bức thư của bạn. Song hình như đọc được tư tưởng của em và muôn tránh cho em một sự nói dối vô ích, Mai cười gượng:

- Anh ấy vẫn dùng thứ giấy viết thư ngày xưa nhỉ?

Huy nghe chị nói, giật mình. Huy không ngờ ái tình của chị đối với Lộc lại bền chặt đến thế, trung thành đến ăn sâu vào tâm tư, đến nỗi nhớ tới những sự cỏn con như màu giấy viết thư dùng sáu năm về trước. Huy bỗng đem lòng thương hại chị đã trong bao lâu vui gượng để che sự nhớ nhung, sống trong lãnh đạm của cuộc đời hiện tại để cố quên tình ân ái của quãng đường quá khứ, đầu buổi thanh xuân.

- Cậu ơi! Sao mẹ lại khóc kìa, cậu ạ?

Huy nghe lời cháu gọi như một câu trách mắng. Và nhìn hai giọt lệ trên gò má Mai, Huy xiết bao hối hận. Chàng khẽ bảo chị:

- Chị nghĩ làm gì cho đau lòng. Con người như thế chả đáng chị nhớ thương.

Huy vừa nói vừa toan xé bức thư. Mai gạt:

- Em cứ đưa thư cho chị xem.

- Thôi chị ạ, xem làm gì?

Ái kéo áo Huy năn nỉ:

- Cậu cho mẹ tờ giấy xanh, đi cậu. Để mẹ làm cho Ái cái thuyền.

Mai không để ý đến con, nói:

- Không hề gì mà! Em cứ đưa cho chị xem.

Huy còn có ý do dự, thì Mai đã giật bức thư ở tay mở vội ra coi.

Thư vắn tắt có mười dòng:

Huyện Thạch Hà, ngày mùng... tháng ba...

"Em Huy,

"Tôi xin cậu cho phép tôi được gọi cậu là em và xưng anh với cậu như ngày xưa, như những ngày tháng sung sướng nhất trong đời ba chúng ta.

"Em ơi, anh là một người khốn nạn, một người có tội rất lớn đối với vợ anh và đối với em.

"Xin em làm ơn kêu van chị cho anh, tha thứ cho anh, không thể tha thứ được, nhưng rủ lòng thương cho phép anh đến tạ tội và tỏ nỗi oan uổng của anh.

"Thế nào, xin cậu trả lời cho biết, tôi sẽ xin đến ngay.

Kính thư

NGUYỄN VĂN LỘC

Lời trong thư loanh quanh, lúng túng, khi xưng anh, em, khi xưng cậu, tôi, tỏ ra rằng khi viết thư, Lộc băn khoăn cảm động lắm. Tay Mai cầm bức thư run lẩy bẩy, mặt Mai dần dần đỏ, rồi tái đi. Rồi cất giọng khàn khàn, ướt những nước mắt đương tắc ở họng. Mai bảo Huy:

- Thôi em ạ. Đừng trả lời nữa.

- Vâng.

Huy đáp lại vơ vẩn thế, song vẫ hiểu rằng câu nói của chị có một nghĩa trái ngược. Nàng muốn bảo em trả lời Lộc ngay. Huy đăm đăm nhìn chị thì thầm:

- Hay cứ để anh ấy đến.

Mai trù trừ, ngẫm nghĩ. Cái hình ảnh khing bạc người ngồi vắt vẻo trên xe nhà lướt qua tâm trí Mai... Nàng liền quả quyết xé vụn bức thư ra, bảo em:

- Thôi! Nhất định thôi. Không trả lời gì hết.

Ái mếu máo vì thấy mẹ giận dữ xé mất tờ giấy đẹp của mình.

- Sao mẹ lại xé của con ra ?

Mai gượng cười, cúi xuống bế con lên hôn rất nồng nàn. Nàng có ngờ đâu tình xưa còn ẩn trong tình mẩu tử, và cái hôn kia chỉ là cái hôn tiếc một quảng đời đã mất.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2011 12:40:53 | Chỉ xem của tác giả
Một Bức Tranh


Nhưng sáu năm, sáu năm ròng bặt vắng tin tức nay bỗng lại có bức thư của Lộc?

Chắc trong đời Lộc, đã xảy ra sự gì phi thường.

Thực vậy.

Hôm Lộc nhận được bức thư gửi cho Mai trong đựng cái giấy bạc hai chục, thì chàng căm tức đến mất ăn mất ngủ. Chàng không ngờ một người chàng yêu thương chiều chuộng, kính trọng đến thế mà lại nỡ lừa dối chàng một cách khốn nạn, đê hèn đến thế.

Song chàng cũng chỉ mới ghen tuông, ngờ vực mà thôi. Đương tra xét dò la, thì thốt nhiên Mai và Huy bỏ nhà trốn đi. Mai đi đâu? Chàng tự hỏi rồi lại tự trà lời: "Còn đi đâu nữa? Đi với tình nhân, đi với người gửi cho hai chục bạc chứ còn đi đâu?'

Trong lòng chàng bỗng nảy ra sự thù ghét, thù ghét cả loài người. Loài người trời ơi! Cái người mà chàng tưởng chỉ có tình yêu trong sạch, ai ngờ lại tà dâm đến như thế.

Lộc giận quá, uất lên bực tức muốn khóc mà không khóc được. Chàng cũng chẳng nghĩ gì đi tìm kiếm.

Chàng cười chua chát nói một mình: "Tìm1... Khốn nạn!"

Chiều hôm ấy, chàng cáo ốm, xin phép nghỉ ở nhà. Bữa cơm chiều chàng không ăn. Rồi bảy giờ tối lại phố H. thăm mẹ.

Nhác thấy hai con mắt sâu hoắm, đen quầng, hai má hốc hác, thì bà Án chạnh lòng thương và hối hận rằng mình đã quá tàn nhẫn. Song nghĩ đến cái diệu kế vừa thi hành đã có kết quả ngay, thì không thể không mừng thầm trong dạ. Bà vờ hỏi Lộc:

- Con sao thế?

Lộc không nghe rõ... Bà lại hỏi:

- Con ốm đấy à?

Lộc ngồi phịch xuồng ghế bưng mặt khóc nức nở:

- Bẩm mẹ... con...

Bà Án lại gần an ủi:

- Con có điều gì cứ nói cho mẹ hay, can chi lại để bụng cho thêm khổ.

Rồi bà để cho Lộc khóc, vì bà biết rằng khóc được như thế thì sự đau đớn sẽ theo dòng lệ mà tiêu tan đi. Một lát sau, bà vờ hỏi:

- Mẹ nghe nói độ này con ham mê cờ bạc. Hay con lại thua thay, rồi mang mắc nợ vào đấy?

Lộc lau nước mắt rồi ngẫm nghĩ:

- Bẩm mẹ... con có... đánh bạc bao giờ đâu!

Rồi Lộc đem đầu đuôi câu chuyện kể với mẹ câu chuyện mà bà Án đã biết, từ bức thư đựng tờ giấy bạc hai chục cho đến khi Mai đi trốn. Bà Án ngồi nghe con, chốc chốc lại thở dài. Cái thở dài của người mẹ thương con, hay cái thở dài của người đàn bà bị lương tâm cắn rứt? Bà để Lộc nói... nói nữa... thỉnh thoảng chỉ thêm một câu!

- Khôn nạn!

Lộc đăm đăm nhìn mẹ, nói tiếp:

- Con xin mẹ tha tội cho con. Chỉ vì con không vâng lời mẹ...

Ba tháng sau, Lộc cưới vợ. Vì bổn phận mới, Lộc mỗi ngày quên tình ái xưa.

Chẳng bao lâu hình ảnh Mai đã xóa nhòa trong ý nghĩ, đến nỗi hôm gặp Mai ở nhà họa sĩ Bạch Hải đi ra, chàng không còn cảm thấy mình ghen tuông, mà sự khinh bỉ lãnh đạm đối với kẻ đã lừa dối mình, càng ăn sâu vào tâm hồn.

Ngày qua.... tháng qua.... năm qua.... thời giờ lạnh lùng qua. Và cũng thời giờ lạnh lùng qua những mẫu đời vô vị của Lộc. Vô vị và trông rỗng.

Mà Lộc vẫn yêu vợ, yêu vì bổn phận. Song ái tình của con người ta chỉ một lần có... Ái tình thứ nhất, Mai đã mang đi, nó đã bị chôn sâu trong tim, trong linh hồn kẻ mà chàng không thể không yêu được nữa, mà khốn thay! Chàng vẫn không thể yêu được.

Ái tình vì bổn phận ba năm đầu đã đem đến cho vợ chồng Lộc hai thằng con. Song có sinh mà không có dưỡng, chúng đều chết cả.

Cuộc đời nhạt nhẽo càng thêm nhạt nhẽo. Đối với bà án thì đó lại là một cuộc đời hết hy vọng. Tập quán bắt buộc bà luôn luôn nghĩ tới những ý tưởng nối dõi tông đường, đầy đàn cháu chắt. Thế mà hai đứa thừa trọng tôn của bà lại kế tiếp nhau mà chết. Đau đớn cho bà biết bao!

Bà sinh ra lo sợ, lo sợ tương lai... Đã hai năm nay, con dâu bà không thấy thai nghén nữa... Hai đứa cháu bà chết, sự đó xảy ra, biết đâu lại không bởi lòng quả báo.... lòng oán giận của linh hồn.... Xưa nay bà thường nghe chuyện nhiều người rẫy vợ, bỏ con, rồi sau không thể có con với người vợ khác được nữa. Bà cố tìm chứng cớ cho cái thuyết lý ấy, và thấy có nhiều người ở vào tình cảnh đó thật.

Nào có thế thôi đâu! Con dâu bà, bà tự kén chọn lấy, trước kia ngoan ngoãn nết na là thế, mà mấy tháng nay vì buồn bực, khổ sở, sinh ra gắt gỏng, hỗn xược với bà. Bà là người tôn trọng Khổng giáo và những điều ngũ luân ngũ thường, bà chịu sao nổi sự bất hiếu, bất mục ấy của con dâu? Đến nỗi nhiều khi bà nghĩ lẩn thẩn nói một mình:

- Chỉ thương hại con Mai.

Câu ấy đã một vài lần lọt vào tai Lộc, khiến chàng sinh nghi hoặc, ngờ rằng có sự bí mật gì mà mẹ giấu mình.

Chàng đương để ý dò xét thì tình cờ một hôm về chơi Hà Nội (Lộc vừa được bổ tri huyện Thạch Hà) chàng đến xem những bức tranh các nhà danh họa bày bán ở trường Mỹ Thuật. Đứng trước bức tranh sơn một mỹ nhân mơ mộng chàng ngây ngất như bị thôi miên. Chàng nghĩ thầm: "Mai? Đích Mai rồi".

Cái nhan sắc tình tứ, dịu dàng, e lệ, âu yếm được nét bút nhà danh họa vờn chải càng thêm tình tứ, dịu dàng, e lệ, âu yếm, khiến Lộc lặng người đứng ngắm, mơ màng trong giấc mộng xưa.

Đống than hồng phủ tro tàn bị cái que cời rẽ ra, lại bùng bùng bốc lửa nóng rực hơn xưa. Tình yêu thương đã hầu như vùi sâu, như nguội lạnh ở trong lòng, nay đứng trước ảnh người xưa, Lộc bỗng lại thấy nồng nàn, ngùn ngụt...

Bao tình cảm của năm, sáu năm về trước đã hầu như chết hẳn trong ky ức, nay thốt nhiên ngổn ngang sống lại.

Lộc ngắm bức tranh rất lâu, mà chàng cũng chỉ ngắm có một bức tranh ấy...

Tiếng ai cười ở sau lưng, khiến chàng quay vội lại. Một người ngả đầu chào hỏi.

- Thưa ông, bức tranh có được không?

- Thưa ông, đẹp lắm!... Bức tranh này của ông?

- Vâng, của tôi.

Lộc vụt nhớ hôm gặp Mai cũng vận bộ quần áo vẽ trong tranh nhà một người phố B... đi ra. Chàng đăm đăm nhìn họa sĩ, hỏi:

- Ông ở phố B... thưa ông, có phải không?

- Vâng, tôi là Bạch Hải ở phố B... ông có thư thả mời lại chơi.

Lộc mỉm cười, khen:

- Chắc người làm kiều mẫu cho ông cũng đẹp lắm!

Mắt Bạch Hải long lanh chớp sau cặp kính sáng trong:

- Đẹp lắm1 Đẹp hơn người trong bức tranh nhiều!

Lộc hỏi lẩn thẩn:

- Chắc là người yêu của ông?

Bạch Hải thở dài:

- Người yêu trong mộng!

Lộc tỏ ý kinh ngạc:

- Sao vậy, thưa ông?

- Vì cô Mai tôi vẽ đây là một người có trái tim sắt đá, không ai làm chuyển nổi.

Lộc mỉm cười. Chàng mỉm cười vì câu nói của họa sĩ có vẻ cầu kỳ, bóng bẩy, hay vì một lẽ khác, vì lẽ khoái lạc! chàng vui Vẻ hỏi họa sĩ:

- Thưa ông bức tranh này ông bán bao nhiêu tiền? Sao không thấy để giá như ở các bức khác?

Câu trả lời lạnh lùng khô khan như nhát búa gõ xuống bàn:

- Tôi không bán!

Thất vọng, Lộc hỏi gạn:

- Sao đã bày ở đây, ông lại không bán?

- Không, không thể bán được.

- Đáng tiếc! Giá ông cho tôi bức tranh này, thì bao nhiêu tôi cũng mua.

- Không, thưa ông, ông trả bao nhiêu tôi cũng không bán.

Họa sĩ cố tìm được một câu ý vị:

- Ai lại bán một kỷ niệm êm đềm của đời mình bao giờ? Trừ khi ông là ông Lộc.

Mặt Lộc tái dần.... Bạch Hải đăm đăm nhìn chàng như đem hết khoa tâm lý ra mà quan sát diện mạo. Thốt nhiên, họa sĩ hỏi Lộc:

- Vì cớ gì, ông lại cần mua bức tranh ấy?... Còn chán bức họa khác đẹp hơn, sao ông không mua?

- Hay chính ông là ông Lộc?

Lộc cười gượng, chối:

- Không.

Rồi ngả đầu chào:

- Kính chào ông, chắc ông còn nhiều tranh ở nhà. Chiều nay ông có cho phép tôi lại xem không?

Bạch Hải vui mừng:

- Tôi lấy làm hân hạnh mời ông lại chơi.

Chàng giơ tay bắt tay Lộc Và nói tiếp:

- Vậy chiều nay năm giờ tôi chờ ông đấy. Thế nào ông cũng lại nhé?

- Xin vâng.

Năm giờ kém một khắc, Lộc đã tới cổng nhà Bạch Hải kéo chuông. Một người đầy tớ gái xinh xắn, y phục gọn gàng dễ trông, ra mở cổng, Lộc hỏi:

- Có phải đây là nhà họa sĩ Bạch Hải không?

Lộc hỏi thế cho có câu hỏi, vì chàng thấy người đầy tớ gái cứ trừng trừng nhìn mình mỉm cười, chứ cái cổng nhà Bạch Hải thì không bao giờ chàng quên được. Nó đã in hẳn vào tâm tư chàng cùng với cái hình ảnh của Mai lững thững từ trong nhà đi ra, năm năm về trước.

- Tôi hỏi có phải đây là nhà ông Bạch Hải không?

- Vâng, thưa ông hỏi gì? Ông tôi đi vắng.

Lộc chau mày ngẫm nghĩ đã toan quay gót. Chàng tru trừ mở đông hồ ra xem giờ và nói :

- Ông Bạch Hải hẹn tôi năm giờ hôm nay lại chơi.

Người đây tớ gái, nét mặt vẫn tươi như bông hoa, hỏi lại:

- Thưa ông, thế đã đến năm giờ chưa?

- Còn mười phút nữa.

- Thế thì mời ông vào ngồi chờ ông tôi ở buồng khách. Chắc ông tôi cũng sắp về...

Lộc theo vào phòng khách, một gian phòng nhỏ hẹp, bài trí theo kiểu Tàu.

Trên tường chính giữa, treo từ gần sát trần đến tận chạm mặt bệ lò sưởi, một bức tranh chấm phá bằng mực tầu, và bồi vải theo kiểu Tầu. Mới thoạt trông, Lộc cho là một bức thuỷ họa cổ, bồi lại. Nhưng người mỹ nữ ôm cây đàn tỳ bà, Cặp mắt đăm đăm, buồn rượi, chàng tò mò ngắm kỷ thì té ra đó là ảnh Mai vận y phục Tàu. Càng nhìn, Lộc càng bứt rứt khó chịu, trong lòng thấy áy náy, hồi hộp. Rồi bức tranh ấy, Lộc ngắm tới những bức nhỏ vẽ phác nét chì và đóng khung gỗ treo khắp bốn phía tường toàn thấy vẽ Mai trong các dáng điệu khác nhau, hoặc ngồi tư lự, hoặc đứng bên hồ, hoặc nghiêng mình trên kỷ dài, mỉm cười mơ mộng.

- Mời ông xơi nước ạ, ông tôi đã về.

Lộc quay lại, người đầy tớ gái đặt xuống bàn cái khay: trong đựng hai chén nước.

- Cám ơn... chị, ông Bạch Hải đã về đấy à?

- Vâng, Xin mời ông xơi nước, ông tôi sắp ra... Kìa! ông tôi kìa.

Họa sĩ ở buồng bên kia mở cửa bước ra, giơ tay bắt tay khách và xin lỗi. Đông hồ treo trên tường thong thả buông năm tiếng. Lộc ngước mắt nhìn mỉm cười:

- Thưa ông, ông có lỗi gì? Chính tôi mới có lỗi vì đã đến sớm quá. Ông hẹn năm giờ, mà năm giờ kém mười lăm tôi có ở đây.

- Mời ông xơi nước rồi ta lên phòng hội họa.

Thất Lộc tò mò đưa mắt nhìn tranh, Bạch Hải vờ như không để ý tới. Kỳ thực, Chàng đương ngấm ngầm quan sát diện mạo người ngồi trước mặt mà chàng đoán chắc là Lộc, đột ngột chàng hỏi:

- Thưa ông, ông trông có giống không?

Vô tình Lộc đáp:

- Thưa ông, giống lắm.

Thấy họa sĩ mỉm cười, Lộc nói chữa liền.

- Giống như hệt bức tranh ông bày ở trường Mỹ Thuật.

- Trừ bức tranh chấm phá ra, xin ông chọn lấy một bức. Ông ưng bức nào , tôi xin biếu.

Lộc lộ vẻ vui mừng:

- Xin cám ơn ông. Tôi toan hỏi mua một bức.

Bạch Hải tỏ ý không bằng lòng:

- Tôi đã nói với ông rằng những bức tiêu tượng của cô Mai, không bao giờ tôi bán.

Rồi họa sĩ nói lang sang chuyện khác ngay, phàn nàn người Việt Nam không biết chuộng mỹ thuật, không có con mắt my thuật. Bỏ hàng trăm ra mua bộ phòng khách lố lăng, hay cái thông, cái bát cổ đời Khang Hy, Thành Hóa thì không tiếc, chứ giá có đứng trước một bức danh họa của chàng, và trông thấy cái phiếu mã giá trăm rưởi, hai trăm đã kêu la rằng đắt. Chàng nói:

- Bao giờ cho mình dám trả một bức tranh tới hàng vạn bạc như người Âu Mỹ?

Lộc ngồi tiếp chuyện đưa đà để chờ dịp gợi nói đến Mai. Nhưng nào họa sĩ có để cho chàng kịp hỏi. Hết phàn nàn, họa sĩ lại bình phẩm tranh, bình phẩm người, nào người Âu, người Tàu, người Việt Nam, người đời xưa, người đời nay. Lộc sốt ruột, đưa mắt nhìn đồng hồ. Kim đã chỉ gần sáu giờ. Chàng đứng dậy cáo biệt.

Hoa sĩ vội mời:

- Ấy! Ta còn lên gác xem phòng hội họa chứ, đấy mới có nhiều tranh đẹp... Và tôi còn kể chuyện cô Mai cho ông nghe kia mà!

Lộc thở mạnh, khoan khoái, mỉm cười. Chàng đến chơi chỉ cột có một việc: nghe chuyện Mai.

Chủ đưa khách lên gác tới phòng hội họa. Nói phòng chứa tranh thì đúng, vì ở đấy để ngổn ngang, treo la liệt không biết bao nhiêu là bức tranh nữa: bức dựng ở tường, bức đặt trên giá, bức không khung, bốn cái đinh đóng sơ sài vào tường kẻ hoa màu xanh nhạt.

Họa sĩ trỏ một cái ghế thấp, mời khách ngồi và nói:

- Đó, ông coi, một cô Mai đã làm kiểu vẽ cho biết bao bức tranh của tôi.

Chàng thở dài nói tiếp:

- Sung sướng nhất trên đời là người được lấy Mai làm vợ.

Lộc cảm động, hối hận:

- Thưa ông, thế mà người ấy đương sung sướng bỗng vì một sự xảy ra đã phải chịu suốt đời khổ sở.

Bạch Hải ngơ ngác nhìn Lộc không hiểu. Lộc lại nói luôn:

- Vì, thưa ông, người chồng ấy chính là tôi.

Bạch Hải luống cuống:

- Thưa ông, tôi vô ý, Xin ông tha lỗi cho.

- Thưa ông, ông dạy quá lời. Hôm nay đến thăm ông, tôi chỉ ước ao được ông cho nghe chuyện cô Mai.

- Thế ra chính ông là ông Lộc, là ông Tham Lộc đấy?

- Vâng.

- Vậy thì để tôi nộp lại món tiền này.

Bạch Hải vừa nói vừa mở ví lấy đưa cho Lộc cái giấy bạc hai chục.

Lộc ngơ ngác hỏi:

- Tiền nào thế thưa ông ?

- Rối ông sẽ biết.

- Nhưng nếu ông không nói rõ số tiền ở đâu ra thì không khi nào tôi dám nhận.

- Cũng được. tôi xin tuân ý ông.

Bạch Hải chống tay vào cằm ngẫm nghĩ như đương góp nhặt chắp nối những mẩu chuyện sắp kể. Còn Lộc thì trong khi chờ đợi, chàng cố soát trong ký ức xem có cho ai vay số tiền hai chục ấy không. Chàng sực nhớ tới cái giấy bạc đựng trong phong bì của người ký tên Ng.Y. gửi cho Mai. Hay họa sĩ chính là Ng.Y?... Nhưng nếu họa sĩ Ng.Y thời lẽ gì lại đưa trả Lộc hai chục bạc? Họa chăng chàng đòi lại hai chục bạc thì còn có lý. Lộc đương băn khoăn tự hỏi và sống lại những quãng đời đã qua thì tiếng Bạch Hải làm chàng giật mình nhớ tới thời hiện tại.

- Năm năm về trước, một sự ngẫu nhiên khiến tôi gặp cô Mai. Xin lỗi ông, tôi quen mồm cứ gọi bà ấy là cô Mai.

- Thưa ông, điều đó không hề gì.

- Buổi đầu, cô Mai đối với tôi cũng chỉ là một người đẹp, một người kiều mẫu hiếm có, ngày hai buổi cô đến đây ngồi theo các kiểu chỗ tôi vẽ... Thế thôi. Cô lại ít nói, hỏi câu nào trả lời câu ấy, không hay chuyện trò vui vẻ như phần nhiều các cô kiểu mẫu. Cái dáng điệu buồn rầu của cô, tôi cho cô giấu một sự bí mật gì về tình ái... Ấy là tôi đem khoa tâm lý ra đoán thôi.

"Cái đẹp và cái buồn là hai thứ dễ cảm lòng người, nhất là khi lại hợp với cái dịu dàng ngây thơ... Đến nỗi hai tuần sau, đứng trước mặt Mai, tôi mất hết tính tự nhiên, từ ngôn ngữ cho chí cử chỉ. Xin ông tha thứ cho, nếu tôi đem sự thực ra kể chuyện hầu ông nghe.

Lộc vội đáp:

- Thưa ông, chính tôi xin ông kể hết sự thực cho tôi nghe, dù sự thực ấy có sống sượng đi nữa cũng mặc lòng.

- Thưa ông, tôi vẫn tự phụ là một nhà tâm lý học, thế mà đến tôi, tôi cũng không hiểu tôi... nghĩa là một tuần lễ sau cùng, tôi chẳng vẽ được một tí gì ra hồn...

Bạch Hải ngừng lại như ngượng với Lộc mà chàng đã biết là chồng của Mai.

Lộc liền nhắc:

- Thưa ông, thế rồi sao?

- Thế rồi một hôm bỗng cô Mai không đến nữa... Cô ấy biết... Cô ấy thông minh lắm.... tôi xin thú thực rằng cái đó cũng tại tôi, vì tôi dại dột gửi cho cô một bức thư...

"Ba hôm tôi khổ sở...

"Ngày thứ tư, không chịu nổi nhớ thương, tôi mò xuồng Thụy Khuê , thì chính hôm ấy tôi tỉnh giấc mộng.

"Nằm trên võng, trong một gian nhà tiều tụy, cô Mai đương hát ru con. Thấy tôi đến, cô đứng phắt dậy lạnh lùng nhìn.

"Tôi hỏi:

"Cô bế con ai?

"Cô đáp rất khẽ:

"- Con tôi.

"Thưa ông, thực tôi không ngờ cô Mai lại là một người đã có chồng có con..."

Lộc cảm động thở dài. Bạch Hải nghĩ một lát lại kể:

"- Tôi hỏi cô Mai sao không đến đằng nhà, thì cô nói không cần tiền nữa, cô chỉ cốt kiếm đủ trả nợ thôi. Tôi gắt:

"- Cô tưởng dễ dàng như thế được ư?

"Cô chỉ nghĩ đến trả nợ xong, còn bức tranh bỏ dỡ của tôi, cô tính sao?

"Cô Mai có vẻ ngần ngại, nhưng hình như cũng hiểu ra. Bỗng đăm đăm nhìn đứa con bế trong lòng, nước mắt cô dàn dua hai bên má. Tôi hôi hận xin lỗi và chào cô để đi. Nhưng cô lại bảo tôi:

"- Mời ông hãy ngồi cho, tôi thưa câu chuyện. Tôi cũng biết bức tranh đó ông vẽ chưa xong, và tôi thốt nhiên bỏ không đến nữa như thế thật không phải với ông. Nhưng chiều hôm ấy tôi gặp... chồng tôi ở cổng nhà ông thì tôi vụt nhớ tới bổn phận của tôi. Vẫn biết bao giờ tôi cũng nghĩ tới bổn phận, nhưng tôi không muốn để ai ngờ được lòng đoan chính của tôi.

"Mai đem hết chuyện kể cho tôi nghe từ hôm cụ Án đến nhà cô, khẩn khoan nói năng xin rời bỏ ông ra..."

Mặt tái mét, Lộc ấp úng hỏi:

- Mẹ tôi.... đến?

- Vâng, cụ đến và vì cụ, Mai đã hy sinh ái tình, hạnh phúc, lạc thú của gia đình. Khốn nạn! Bụng mang, dạ chửa, em thời đau ốm, bơ vơ trên đường đời, không chỗ nương nhờ, không nơi trú ẩn.

Bạch Hải ngưng lại vì thấy Lộc hai tay ôm đầu, ngồi khóc như một đứa trẻ con.

- Xin lỗi ông, tôi làm phiền lòng ông...

Lộc ngửng đầu, cặp mắt đỏ ngầu, cất tiếng nói như thét:

- Tôi là một thằng khôn nạn!

- Thế ra ông không biết gì hết ư ?

- Nào tôi có biết gì đâu!

- Tội nghiệp! Cô Mai ngờ ông bàn mưu với cụ Án đề đuổi cô đi.

Lộc hoảng hốt rú:

- Thôi, khổ tôi rồi! Cái giấy bạc hai chục... Tôi ngờ oan cho người ta... Trời ơi, giờ tôi mới nghĩ ra... Chính mẹ tôi gửi đến...

Bạch Hải không hiểu, bỡ ngỡ hỏi:

- Cái giấy bạc hai chục nào?... Tờ giấy bạc này chăng?

- Không! Không phải thế! Nhưng câu chuyện rồi ra sao, xin ông làm phúc kể nốt cho tôi nghe nhờ.

- Lúc quẫn bách may cho Mai gặp được hai người cứu giúp, một người...

Lộc lắng hết tinh thần để hết tên hai người sung sướng ấy, Bạch Hải nói luôn:

- Là bà bán hàng quà ở trường Bưởi và người nữa... một cô gái giang hồ.

Lộc nhắc lại:

- Gái giang hồ?

Bạch Hải mỉm cười:

- Vâng, gái giang hồ. Chính cô gái giang hồ ấy đã thân đi mời tình nhân làm thầy thuốc đến chữa cho cậu Huy và mấy tháng sau đã trông nom săn sóc cho Mai mẹ tròn con vuông. Lại chính vì món tiền thuốc nên Mai đã chịu đến làm kiểu mẫu cho tôi để kiếm tiền trả nợ. Kể tới đoạn này cho tôi nghe, cô Mai cảm động lắm, và cũng vì thế mà tôi được cái hân hạnh cô đến làm kiểu mẫu thêm cho mười hôm nữa. Cô ứa nước mắt bảo tôi:

"- Chỉ vì hai chục bạc mà tôi đến mỗi ngày. Hai chục ấy thế nào cũng phải hoàn lại. Đó là món nợ thứ nhất trong đời tôi.

"Thực bấy giờ tôi cũng không hiểu cô nợ ai, chỉ biết cô lại đến làm kiểu mẫu cho tôi mười buổi nữa. Rồi hôm thứ mười, khi đã nhận tiền công, cô nhờ tôi đem sô tiền hai chục bạc này lại nộp cho ông, nói là hãy xin trả ông cái món nợ thứ nhất.

"Xin ông tha thứ cho tôi, số tiền ấy tôi không mang ngay đằng ông, là vì tôi sợ nhỡ ông hỏi chuyện tôi lại buột miệng nói ra, mà cô Mai thì bắt tôi phái giữ kín, không được để ông biết, chỉ có một việc là đưa ra nộp ông sô tiền mà thôi.

"Và còn điều này tôi xin thú thực ngày ấy tuy bị cô Mai cự tuyệt như cô đã cự tuyệt ông đốc Minh, tôi vẫn hy vọng rằng một ngày kia tôi sẽ cảm động được lòng cô vì thế tôi không muốn gặp ông là người - xin ông tha thứ cho - tôi vừa... ghét, vừa sợ, nhất là sợ... tôi chỉ sợ ông thân lại đón cô Mai.... vì tôi biết cô Mai vẫn thương yêu ông lắm.

"Bây giờ tôi đã kể đầu đuôi câu chuyện cho ông nghe thì hẳn ông không thể từ chối không nhận món tiền hai chục này được nữa".

Lộc lau nước mắt, cười gượng:

- Vâng, tôi xin vui lòng mà nhận. Tôi sẽ giữ làm kỷ niệm, vì nó sẽ nhắc tôi luôn luôn nhớ đến... những sự đau đớn lặng lẽ của loài người. Sau hết, tôi xin hỏi ông một điều nữa:

- Bây giờ Mai ở đâu?

Bạch Hải đáp:

- Tôi chỉ biết bây giờ.... bà ấy ở với em làm giáo học, nhưng không rõ ở đâu.

Lộc ngả đầu chào, cáo biệt rồi giơ tay bắt tay Bạch Hải và cám ơn đi cám ơn lại. Chàng có vẻ vội vàng, ra cổng gọi xe bảo kéo mau tới nhà Học chánh.

Mãi lúc xe đỗ, Lộc mới sực nhớ hôm đó chủ nhật, các công sở đều nghỉ việc.

Và lúc bấy giờ đã gần bảy giờ chiều thì dẫu là ngày thường cũng chẳng nơi công sở nào còn mở cửa. Lúc quá hấp tấp, nóng nẩy, chàng quên bẵng rằng có là ngày chủ nhật mình mới về chơi được Hà Nội.

Lộc xuống xe, đứng thừ người, buồn rầu nhìn qua hai cánh cổng thưa then khép chặt dưới những cành cây leo hoa tím. Rồi chàng lại bước lên xe bảo kéo.

Anh xe cắm đầu chạy, chẳng biết khách đi đâu, mà Lộc cũng chẳng biết mình đi đâu.

Chiều hôm ấy, Lộc không ăn cơm. Lần mò đi tìm các chỗ quen biết đề tìm tin tức của Huy.

Mãi chín giờ tối mới có người bạn mách nhà và viết thư giới thiệu một người làm thư ký ở nhà Học chánh.

Hỏi được chỗ ở của Huy, Lộc như cất hẳn gánh nặng bên lòng. Chàng thấy đỡ khổ, lương tâm đỡ làm bứt rứt, rồi sự sung sướng lại man mác bên lòng. Có lẽ vì chàng đã biết rằng người xưa không đến nỗi bị lầm than, đầy đọa như chàng vẫn tưởng. Hay vì tưởng niệm nhắc tâm trí ôn tới quãng đời âu yếm, dịu dàng khi xưa, chàng lại hy vọng đến một tương lai tốt đẹp?

Bây giờ Lộc mới thấy đói, về khách sạn uống cốc sữa, ăn cái bánh. Rồi chàng lên buồng ngủ gọi bồi lấy giấy, bút mực, viết thư.... Song cảm động quá, chàng viết chẳng ra văn. Viết xong lại xé đến ba bốn lượt.

Khi đã xé hết mấy tờ giấy, Lộc ngồi hút thuốc lá, nhìn khói, nghĩ vơ vẫn... Đêm khuya yên lặng, chuông đồng hồ nhà thờ lớn nghe rõ mồn một. Lẩn mẩn, Lộc đếm đủ mười hai tiếng dè dè như ướt đầy nước mắt. Lộc vặn tắt đèn lên giường nằm.
         
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2011 12:41:29 | Chỉ xem của tác giả
Hai Quan Niệm


Sáng hôm sau, khi về tới huyện, Lộc đi thẳng vào nhà trong, tuy ở Công đường các thầy thơ lại đã đương lúi húi làm việc, và dân đã đứng đợi đông đen nghịt ở ngoài hiên.

Nét mặt bơ phờ, chàng vào buồng nằm nghỉ, vì đêm hôm trước, chàng thức suốt sáng không chợp mắt.

Thấy Chàng kêu ốm, vợ buồn rầu theo vào buồng, hỏi thăm. Lộc biết vợ có tính hay lo sợ nên cười gượng nói:

- Không, tôi không sao đâu, chỉ nhức đầu qua loa thôi, thế nào lát nữa cũng khỏi.

Vợ vẫn không được yên lòng nói đi mời thầy lang thì chàng gạt:

- Ấy, để vậy thì tôi khỏi, chớ mợ mà đi rước thầy lang về thì bệnh lên rầm rầm ngay bây giờ.

Câu nói đùa khiến người vợ cười khanh khách rồi vui vẻ hỏi:

- Cậu đi Hà Nội sao không mua lấy vài cân lên để mẹ xơi.

- Ấy, tôi quên đấy mợ ạ.

Hai người lặng yên, hai tâm hồn cùng đương rung động bởi những ý nghĩ ngấm ngầm.

Lộc lấy làm lạ rằng vợ bỗng lại có cái tính ôn tồn đáng quý như mấy năm mới cưới. Phải, ba năm đầu, ái tình chân thật lặng lẽ của người vợ trẻ đã đem đến trong gia đình chàng nền hạnh phúc êm đềm đầm ấm. Bà Án luôn mồm khen ngợi và kể lể với con những đức tính tốt của nàng dâu. Muốn đẹp lòng mẹ, chàng đã đổi hẳn, lạnh lùng buồn tẻ, chứ không vui cười nhanh nhẹn như xưa.

Trong khi ấy, vợ chàng vẫn hết sức chiều chuộng để cố độc chiếm ái tình mà kẻ khác đã cướp mất, hay đương cùng mình ngấm ngầm san sẻ. Đoạn tình sử của Lộc, nàng đã rõ từ ngày chưa cùng chàng nên chồng vợ.

Những hôm nàng thấy chồng ít nói, ít cười, lúc nào cũng có dáng tư lự là những hôm nàng mất ăn, mất ngủ, nhưng lại là những hôm nàng trở nên một người đàn bà hoàn toàn âu yếm, vui vẻ đảm đang.

Biết Lộc kính yêu mẹ, nàng để hết tâm trí vào sự phụng dưỡng mẹ chồng, nhẹ nhàng từ lời nói cho đến dáng điệu, nhẫn nại đến nỗi đôi khi bà Án quá nóng nảy mắng nhiếc oan, nàng cũng chỉ ngọt ngào xin lỗi.

Lộc thấy vậy, càng ngày càng thêm vị nể vợ. Có khi chàng đương buồn bực về một việc gì, thoáng thấy vợ, chàng phải cố làm ra mặt vui tươi để vợ khỏi khổ sở, khỏi ngờ vực rằng mình tưởng tới Mai.

Nhưng mọi sự đều có giới hạn. Nhất là sự miễn cưỡng tự ép mình làm việc gì để tới một mục đích khó khăn. Sau ba năm, chịu biết bao nhẫn nhục, lại đau đớn vì cái chết của hai đứa con, vợ Lộc hình như đổi hẳn tính nết. Mềm mại dịu dàng, nàng trở nên cau có, gắt gỏng; vâng lời kính cẩn, nàng đổi ra hỗn xược, vô lễ...Như thế trong gần một năm nay rồi, Lộc cũng hơi lấy làm khó chịu nhưng chàng chỉ khuyên can, an ủi chứ không hề mắng, trách giận dữ bao giờ.

Nay bỗng thấy vợ lại trở lại có tính nết ngôn ngữ, cử chỉ ngày xưa thì chàng hỏi sao không cảm động!

- Cậu ạ, mẹ đi lễ đền Vân đấy.

Sau một tiếng thở dài, chàng trả lời vắn tắt:

- Thê à?

Ngẫm nghĩ một lát, nàng lại nói:

- Đền Vân có tiếng anh linh lắm, cậu ạ.

- Thê à?

- Tôi xin theo hầu mẹ, nhưng mẹ không cho đi.

- Đi làm quái gì?

Câu trả lời cộc cằn của chông khiến vợ lấy làm lạ. Nàng gợi đến chuyện bà Án cũng chỉ vì khác hẳn mọi lần, lúc chàng mới về, nàng không thấy chàng hỏi tới mẹ, người mẹ mà chàng kính yêu, người mẹ có đủ oai quyên bắt con phải cùng nàng kết hôn. Thế mà nay đi chơi về chàng không hề hỏi qua một câu, không biết rằng mẹ vắng nhà nữa. Chắc đã xay ra sự gì đây? Người đàn bà, nhất là người yêu bao giờ cũng là một nhà tâm ly học trông rõ lòng người, như là trông vào trang giấy có chữ:

- Cậu ơi, cậu lo nghĩ điều gì thế?

Lộc nhìn vợ đáp:

- Không, có điều gì đâu!

Muốn tránh sự ngờ vực của vợ, Lộc đứng dậy mặc quần áo ra công đường.

Ngồi bàn giấy, Lộc chống tay nghĩ ngợi. Dân cầm đơn vào kêu, chàng vẫy tay trỏ sang buồng thầy lục Sự. Rồi chàng lấy giấy viết Cho Huy bức thư, bức thư bị Mai xé vụn...

Hôm ấy mãi quá mười hai giờ, cả nhà mới ăn cơm sáng, vì còn chờ bà Án đi lễ về nhưng Lộc ăn trước để còn đi nghỉ trưa. Đó là một sự ít khi xảy ra.

Mọi lần dầu trễ đến đâu, Lộc cũng chờ mẹ về, mới ăn cơm.

Lộc cố ý tránh mặt mẹ, hình như không muốn cùng mẹ nói tới câu chuyện đau đớn có thể làm giảm lòng kính yêu của chàng đối với mẹ, và làm hư tổn lòng tự ái của mẹ đối với mình.

Nằm trong buồng, vờ ngủ nghe tiếng cười, cấu nói của mẹ, chàng tưởng tượng có giấu bao sự lừa dối ở trong. Chàng kinh hoảng lấy tay bịt lại. Lúc buông tay ra, tiếng nói nhu mì êm ái của vợ như an ủi lòng chàng được đôi chút. Nàng nói với mẹ chồng:

- Bẩm mẹ, nhà con chỉ cảm xoàng đấy thôi, không can gì!

Bà Án đáp:

- Cũng nên cẩn thận, quẻ thẻ tôi xin cho cậu ấy không được tốt. Cung gia trạch và cung tật bệnh không được yên.

Cơm nước xong mọi người đều đi nghỉ. Cái huyện nhỏ ở giữa làng bị vùi sâu trong bầu không khí yên lặng, lạnh lùng. Thỉnh thoảng chiếc xe lượn qua cổng, tiếng cút kít, một dịp kéo dài rồi xa xa như biên vào quãng sương mù, càng làm tăng vẻ tịch mịch của nơi thôn dã.

Có ai rón rén vào phòng. Lộc vờ nhắm mắt ngủ say.

Một bàn tay mát, đặt trên trán chàng, rối tiếng giày lại se sẽ rón rén từ trong phòng bước ra ngoài. Lộc chẳng cần trông thấy cũng biệt đó là vợ vào thăm bệnh mình.

Lộc lấy làm khó nghĩ... Một người vợ vừa hiền hậu, vừa khôn khéo, chàng không thể không trọng được. Đã bao lần bà Án khuyên chàng lấy vợ lẽ, nhưng chàng chỉ có một lời từ chối: "Bẩm thời này, lấy vợ lẽ, người ta cười cho".

Lộc nói thế, nhưng chính Lộc không nghĩ thế. Lộc chỉ thương hại, vì nể người vợ đã thành thực yêu mến chàng. Ái tình ấy, chàng không thể đáp lại bằng một ái tình nồng nàn buổi đầu xuân. Nay ái tình của chàng chỉ có thể đầm ấm mà thôi, chàng nỡ nào còn đem san sẻ với một người vợ lẽ.

Nhiều khi khuyên bảo con không được bà Án nói sẵng:

- Hay tôi gọi con Mai về cho anh nhé?

Lộc chỉ đỏ bừng mặt mà không đáp, khiến bà án tưởng còn lưu luyến Mai lắm.

Thực ra Lộc cho Mai là một người bỏ đi, nhất là từ hôm gặp nàng ở cổng nhà họa sĩ Bạch Hải. Song chàng cũng tự an ủi rằng cuộc đời đày đọa chính nàng đã chuộc lấy, nào chàng có chút trách nhiệm gì...

- Trời ơi!

Tiếng kêu rú lên của Lộc khiến vợ ở phòng ngoài chạy vội vào. Nhưng thấy chàng vẫn nằm yên, càng cho là chồng nói mê, nên lại bước ra ngay.

Lộc kêu lên như thế, là vì lúc đó trí chàng ôn lại quãng đã qua; Mai rời bỏ nhà chàng trốn đi. Lương tâm chàng cắn rứt. Chàng hối hận lấy làm thẹn, lấy làm buồn vì những cử chỉ tàn ác của mẹ... Một người bụng mang dạ chửa mấy lời của họa sĩ Bạch Hải còn văng vẳng bên tai chàng... Lộc mỉm cười nghĩ thầm: "Cũng còn may cho ta, cho mẹ ta mà Mai chống lại được sự cám dỗ, mà Mai chịu nổi sức đè nén của sự nghèo hèn, đói rét... Nếu không thì cái trách nhiệm nặng nề... nay ai mang cho?

Nhưng biết rằng Mai vẫn giữ được tiết sạch giá trong giữa lúc lầm than, đói khát cũng chẳng hay gì cho Lộc. Lòng chàng chỉ thêm phiền mà mình không thể yêu đường hoàng được nữa thì phỏng có ích gì?

"Thà rằng nó bậy bạ, khôn nạn, đê hèn!"

Tính ích kỷ tự nhiên của loài người đã dấn vào tâm trí chàng giữa lúc phân vân những y nghĩ vô lý ấy.

Phái! Thà rằng có một quãng chông gai ngáng hẳn con đường ân ái của hai người! Chứ quay về đường cũ thì khó khăn lắm, thì không thể được nữa. Vì vợ chàng kia, một người đàn bà đã phó thác tính mệnh và linh hồn trong tay chàng.

"Thà rằng nó bậy bạ, khôn nạn, đê hèn".

Vợ chàng không có chỗ nào khiến chàng có thể ghét được. Tuy một đôi khi nàng cãi lại mẹ chàng, song cũng nên nhận xét rằng có một gia đình nào con dâu không bao giờ vô phép với mẹ chồng? Chàng thở dài lẩm bẩm" "Với lại cũng tại mẹ ta nữa kia".

Từ khi cưới đến nay, lần này là lần thứ nhất, Lộc nghĩ tới lỗi của mẹ đối với vợ. Chàng tưởng tượng mẹ chàng ra một người đàn bà cay nghiệt, cứng cỏi trong khuôn phép lễ nghi, không bao giờ cảm động khi đứng trước những sự đáng thương tâm nhưng ở ngoài vòng luân lý cổ.

"Cái đó chỉ vì giáo dục, vì tập quán, chứ nào phái lỗi của mẹ ta!"

Không gì đáng cảm động, đáng đau lòng cho ta bằng khi ta tìm hết các lẽ đề tự làm thầy cãi cho người mà ta phái kính mến. Một đằng thì lương tâm nó dõng dạc buộc tội, nào nó có xét đến tình mẫu tử? Một đằng thì lời nói văn hoa bóng bẩy cố tìm những sự kiện có thể làm nhẹ bớt tội lỗi của mẹ. Lộc thở dài:

"Phải, bao nhiêu sự lầm lỡ của mẹ ta nguyên do chỉ ở chỗ quá suy tôn cổ tục, quá thiên trọng tập quán. Mẹ ta đuổi Mai cũng chỉ vì thế, chứ khi nào mẹ ta tàn ác được đến thế?"

Một hồi trống hầu! Lộc như ở cõi mộng quay về nơi hiện tại. Trở dậy rửa mặt, mặc áo, chàng ra công đường. Chàng muốn làm việc thực nhiều, để bắt tâm trí phái luôn luôn nghĩ tới việc công, mà rời bỏ việc tư ra.

Tan hầu đã lâu, nha lại đã ra về cả. Lộc vẫn còn lúi húi ngồi ở bàn giấy. Chàng tẩn mẩn giở cái hồ sơ ra xem lại một lượt, tuy việc chẳng có chi quan hệ.

- Ông Huyện!

Nghe tiếng gọi, chàng giật mình quay lại.

Bà Án đứng ngay bên cạnh.

- Bẩm mẹ... bảo con điều gì?

Bà Án thở dài, nói:

- Tôi buồn lắm, cậu ạ. Hôm nay tôi đi lễ xin cho cậu phái quẻ thẻ xấu quá.

Lộc đáp:

- Bẩm mẹ, đã chắc đâu là đúng.

- Đền Vân thiêng lắm kia cậu ạ. Thẻ xin ở đấy bao giờ cũng nghiêm. Chứ quẻ thẻ này thì mẹ lo cho đường tử tức của con lắm.

Lộc đương giận mẹ, thế mà nghe giọng mẹ run run cũng phải đem lòng thương. Chàng toan tìm lời an ủi, thì bà Án lại nói thêm:

- Mẹ đi xem bói, thầy bói cũng bảo vì có kẻ thù oán, nên cậu khó lòng mà có được.

Lộc mỉm cười:

- Con chả có ai thù oán hết!

Bà Án đăm đăm nhìn con khẽ nói:

-Thế mẹ con con Mai?

Lộc đứng lặng hồi lâu, không đáp, như bị nghẹn lời. Chàng đã cố tránh không đáp, như chuyện Mai với mẹ, ai ngờ lại chính mẹ gợi ra khiến chàng ngây ngất cả người. Lạnh lùng chàng đáp:

- Đối với người ta con chả làm gì nên tội mà người ta thù oán con.

Mẹ nhìn con có vẽ nghĩ ngợi, lo sợ. Con nhìn mẹ ra chiều ân hận vì lời nói trách móc của mình. Bỗng Lộc ngồi phịch xuống ghế, bưng mặt khóc. Bà Án cũng kéo ghế ngồi bên cạnh con, rồi hỏi.

- Con có chuyện gì, cứ nói cho mẹ biết can chi mà phiền muộn, sinh ốm người.

Lộc lau nước mắt, rồi như ông quan tòa, cất giọng nghiêm nghị hỏi mẹ:

- Thưa mẹ, nếu con người ta chết thì mẹ có hối hận gì không?

Bà Án nhìn con, cặp mắt răn reo sáng quắt. Bà thừa biết con đã rõ hết đầu đuôi câu chuyện ngày xưa. Bà Án lại cũng biết rằng mẹ con Mai còn sống. Bà bảo Lộc:

- Chắc con oán mẹ lắm?

Không trả lời, Lộc lạnh lùng nói:

- Ở vào địa vị Mai khi bị mẹ đuổi ra khỏi nhà con, mà không có nghị lực, không thực có ái tình đối với người yêu thì chắc đã bị sa xuống nơi vực sâu hoang thẳm rồi...

- Thì cậu biết đâu rằng nó giữ được một lòng một dạ với cậu?

- Bẩm con biết. Con biết nhiều hơn nữa. Con biết rằng nhiều người giàu sang gấp mấy lần con muốn lấy người ta làm vợ, mà người ta chỉ có một lời từ chối và cam chịu ở cảnh nghèo nàn đói rét. Trong khi ấy thì con vui thú cảnh gia đình đầm ấm với vợ mới... mẹ cưới cho.

Lộc cảm động quá phải ngừng lời. Bà Án lãnh đạm nhìn con không nói.

- Con còn biết nhiều điều nữa. Chẳng hạn con biết rằng bây giờ người ta ở cùng với em, cùng con người ta, tiết vẫn sạch, giá vẫn trong và không hề oán trách mẹ con ta đã làm cho người ta...

Bà Án không chờ con nói hết câu, vội hỏi:

- Bây giờ nó ở đâu? Nó sinh được một thằng con trai, phái không?

- Vâng, chính thế.

- Nhưng bây giờ nó ở đâu?

- Mẹ hỏi làm gì, con vừa viết thư xin lỗi người ta, nhưng vị tất người không thèm phúc đáp.

- Nhưng khổ lắm. Tao hỏi mày bây giờ nó ở đâu?

- Bẩm mẹ, người ta ở Phú Thọ với cậu Huy, Với ông Huy làm giáo học ở đấy.

- Được! Rồi tao lên Phú Thọ.

Lộc vội gạt:

- Chết! Sao mẹ lại lên đấy? Mẹ lên làm gì?

- Lên bắt con mày về.

Lộc cười nhạt:

- Ai người để cho mẹ bắt về!

- Con mày sao tao lại không bắt được?

- Nhưng con lấy người ta đã khai giá thú đâu, khi người ta sinh nở, con có nhận con con đâu?

- Được, tao sẽ có cách.

Dứt lời, bà Án lững thững xuống nhà.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2011 12:42:12 | Chỉ xem của tác giả
Cháu Ái


Ái chơi ô tô ở chung quanh nhà. Trí tưởng tượng của trẻ con rất dễ dàng mà rất có tài khiến một vật hay một việc trở nên sự thực như ý muốn. Ái chỉ một mình lượn vòng tròn trong miếng đất, mà mắt nó trông thấy biết bao thứ vô thanh. Mồm nó kêu luôn: "Bí bo? Bí bo!" là một cái kèn ô tô rất tốt, hai tay nó khùynh ra làm như hệt người tài xế lái ô tô, chân nó giậm xuống đất bành bạch đề bắt chước tiếng bánh xe lăn trên đường đá. Thỉnh thoảng nó dừng lại quay ra hỏi một cái thân cây bên hàng giậu:

- Có lên xe không?

Nó lại trả lời ngay một câu hỏi tưởng tượng:

- Đây đi Phủ Đoan Sáu hào... Không được! Giá nhất định sáu hào, không bớt một xu, không đi thì thôi.

Rồi nó cắm đầu chạy.

- Bác tài ơi, cho tôi lên với.

Ái đứng lại quay cổ nhìn sang hai bên, hỏi:

- Ai gọi xe đấy?

Có tiếng trả lời ở cổng:

- Tôi!

- Mấy người.

Sau một dịp cười, bà Án - vì người ấy chính là bà án, - đáp:

- Có hai người thôi.

- Vào mà đi!

- Nhưng cửa đóng khóa vào sao được?

- Vậy đứng ngoài đợi một tí để em gọi ông Hạnh cho nhé.

Ái lại mồm kêu bí bo, chân giặm bành bạch lượn về lối sau. Một lát nó cùng ông Hạnh đi ra. Ông lão bộc nhác trông thấy bà khách có một người đàn ông vận áo lương theo hầu, thì đoán chắc là quý khách, liền cung kính chắp tay chào:

- Lạy bà ạ! Thưa bà hỏi gì à?

- Không dám. Ông giáo có nhà không, ông?

- Thưa bà, cậu giáo tôi đã đi dạy học, cũng sắp về đây. Vì tàu đã ngược thì cũng đến quá mười giờ rưỡi rồi.

- Lúc bấy giờ chiếc ô tô hàng chạy qua cổng.

Ông Hạnh liền trỏ vào bà Án:

- Đấy, xe Tuyên đấy! Gần mười một giờ.

Rồi ông ta vừa mở khóa vừa nói:

- Thưa bà, vì cả nhà đi vắng tôi lại bận dọn cơm ở dưới bếp, nên phái đóng khóa cổng, sợ em Ái ra đường.

Bà Án có vẻ thất vọng, ngơ ngác hỏi người lão bộc:

- Vậy cô.. Vậy bà chị... ông giáo cũng đi vắng à?

- Thưa bà, cô Mai?

Bà Án chưa kịp trà lời, ông Hạnh đã tỏ ý buồn rầu và nói luôn:

- Thưa bà, kể thì là bà Tham cơ đấy, nhưng cô tôi không cho gọi là bà Tham, bắt cứ phái đọc tên tục ra như thế.

Bà Án làm bộ không hiểu:

- Thế à? Vậy cô... Vậy bà ấy đi Vắng ư?

- Nhưng mời bà cứ vào chơi. Ý chừng bà nuốn mua sơn hẳn thôi. Cô tôi cũng sắp về.

Ông Hạnh đưa khách vào và anh người nhà vào sàn rồi lại toan khóa cổng, thì bà án vội gạt đi:

- Thôi được, ông để tôi coi cháu cho, chả cần phải đóng cổng.

- Thưa bà chả dám... Nhưng mời bà vào chơi trong nhà. Thưa bà, bà hỏi cậu giáo tôi có việc gì thế? Hay bà đến mua sơn?

Bà Án đương ngẫm nghĩ tìm câu trả lời, thì Ái lượn ở phía sau ra, vẫn cái mồm "bí bo! bí bo!". Thấy bà Án đứng cười, nó vội kêu:

- Kìa! Xe ô tô bóp còi mà không tránh!

Bà Án cúi xuống toan bế Ái lên, nhưng Ái giật mạnh tay ra:

- Ô kìa! Sao lại ôm ô tô?

Bà Án cười:

- Ô tô ngoan nào, tôi hôn cái nào!

Ái vỗ tay cười hét lên:

- Ô tô lại ô tô ngoan! Mà ai lại hôn ô tô bao giờ?

Dứt lời, nó lại chạy lượn về sàn sau. Bà Án quay ra vờ hỏi người lão bộc:

- Con ông giáo đấy à?

- Thưa không. Cháu Ái là con...

Ông ta như nghẹn lời không nói được dứt câu. Bà Án tiếp luôn:

- Con bà Tham, phải không?

- Vâng, con bà Tham.

- Nó ngoan lắm nhỉ. Cháu lên mấy thế ông?

- Thưa bà, cháu lên sáu.

Bà Án đứng ngẩn người ra, nghĩ ngợi. Bà hồi tưởng lại năm năm trước, hôm bà đến nhà con... Bà chỉ còn nhớ mang máng diện mạo, cử chỉ, ngôn ngữ của Mai mà thôi. Nhưng mà biết ra Mai đẹp, đẹp dịu dàng phúc hậu. Bà lẩm bẩm nói một mình:

- Giống quá, khuôn mặt giông như đúc!

Ông lão Hạnh hỏi:

- Thưa bà, bà biết cô tôi?

Bà Án giật mình, quay lại trả lời mấy câu ấp úng. Song cũng như lần trước, tiếng còi ô tô của Ái đến giúp bà ra khỏi sự khó khăn. Ông lão Hạnh thấy Ái có dáng mệt, vừa chạy vừa thở thì giữ lại:

- Thôi, không được chạy nữa. Nghỉ còn ăn cơm chứ.

- Ông Hạnh để Ái chạy nốt cho đến Tuyên Quang đã chứ.

Bà Án cười, cũng cúi xuống giữ Ái lại:

- Thôi đến Tuyên Quang rồi, cho ô tô nghỉ thôi, chẳng có mệt.

Ái phụng phịu không bằng lòng. Ông Hạnh ghé tai nói thầm:

- Ái đưa bà vào chơi trong nhà đi... Chóng ngoan, không có chốc cậu về, tôi mách cho đấy.

Nghe nói mách cậu, Ái sợ hãi nhớn nhác nhìn ra cổng. Rồi hình như nhớ tới giờ cậu sắp về nó ngoan ngoãn dắt bà khách lên thềm vào nhà. Bà án đăm đăm nhìn Ai nghĩ thầm: "Trời ơi! cặp mắt nhanh nhẹn với cái trán cao rộng, sao mà giống cậu nó thế! Lại cái mồm nữa".

Lúc bấy giờ bà Án tìm ra nhiều cái giống lắm. Nói cho đúng Ái cũng giống Lộc thật. Song cái ý tưởng dự định trong tâm trí ngay từ lúc ở huyện Thạch Hà bước ra đi khiến bà trông Ái càng hệt con bà. Thốt nhiên bà hỏi:

- Mợ cháu đi chơi đâu?

Ái cười như chế nhạo bà khách:

- Không có mợ... Chỉ có cậu thôi... với lại có mẹ thôi.

- Ừ, thế mẹ Ái đâu?

- Mẹ Ái đi chợ.

Bà Án trông thằng bé con xinh xắn đáng yêu quá, ôm ghì vào lòng hôn lấy, hôn để. Ái đẩy ra không được, kêu to:

- Ông Hạnh ơi!

- Cái gì thế? Cái gì mà hét ầm lên thế? Nghe tiếng cậu hỏi, - vì Huy vừa về. Ai lấy tay chùi má, vừa mếu vừa nói:

- Cậu ơi, cậu! cái bà này bà ấy làm đau Ái đấy.

Bà Án thấy Huy, đứng dậy gật đầu chào, Huy chắp tay đáp lễ, rồi hỏi:

- Thưa cụ, cụ tha thứ cho, chúng tôi không được hân hạnh nhớ cụ. Xin cụ chỉ giáo cho chúng tôi được biết.

Bà Án trù trừ rồi hỏi lại:

- Ông có nhận được bức thư của cậu... huyện Lộc nó không?

- Thưa cụ, có.

- Vậy... tôi là mẹ... cậu huyện Lộc....

- Thưa cụ, chúng tôi vô tình không biết, xin cụ đại xá cho. Thì ra, thưa cụ, cụ là cụ Án, thân mẫu anh... thân mẫu quan huyện tôi đó... Rước cụ ngồi chơi.

Rồi Huy quay lại bảo Ái:

- Em xuống bảo ông Hạnh đun cho cậu ấm nước nhé.

Ái vâng lời, ngoan ngoãn xuống nhà. Bà án ngồi ngẫm nghĩ, muốn hỏi chuyện Mai, nhưng chẳng biết xưng hô thế nào. Gọi là bà Tham hay bà Huyện thì ngượng mồm, và sợ Huy cười, mà gọi là cô thì cũng bất tiện. Chẳng có chuyện gì nói, Huy vịn ghế im lặng đứng nhìn. Bỗng bà Án tìm được một cách xưng hô mà bà cho là rất ổn liền cất tiếng hỏi:

- Thưa ông, lệnh tỉ đi chơi vắng?

- Thưa cụ, chị cháu cũng sắp về. Chị cháu sang bên làng Cao Du mua mấy lường sơn.

- Buôn sơn kia đấy à?

Huy mỉm cười:

- Thưa cụ, làm giáo học lương bổng ít ỏi lắm, chị cháu phải buôn bán cho được dư dật đồng tiền. Và như thế cũng có việc đỡ buồn.

- Cũng phải. Tôi nghe buôn sơn lãi lắm thì phải.

- Thưa cụ, thỉnh thoảng mới được một năm lãi, còn thì làng nhàng thôi. Huy lại nói luôn:

- Thưa cụ, chả mấy khi cụ quá bộ lên chơi, xin mời cụ xơi với chị em cháu một bửa cơm xoàng.

- Cám ơn ông, nhưng tôi đã ăn cơm trên xe lửa rồi.

- Thưa cụ, nhưng chắc ăn cơm sớm thì bây giờ đói rồi.

- Qủa thực tôi no lắm.

Bà Án làm ra thân mật nói tiếp:

- Chỗ ông với anh Lộc thì ông cho ăn can chi mà phái từ chối... Nếu đói thì tôi ăn ngay chứ.

Huy nghe bà Án gợi đến chuyện cũ, tình xưa biết chắc rằng bà lên Phú Thọ có mục đích ích lợi. Nghĩ tới chị, nghĩ tới quãng đời đầy đọa, khổ sở, Huy căm tức, muôn nói mấy câu cho hả dạ, song đôi với một bà khách đến chơi nhà, chàng cho rằng xử như thế rất bất lịch sự. Và dẫu sao chị em chàng cũng vẫn là người chịu ơn Lộc, điều ấy không bao giờ chàng quên.

Hai người ngồi đối diện nhau, đăm đăm nghĩ ngợi như đương tìm một câu chuyện thù ứng thì Ái rón rén đứng sau lưng cậu kéo áo nói:

- Cậu ơi-i... c-h-a-u sắc đ-o-i sắc r-ô-i huyền.

Câu nói đánh vần mà Ái cho là một câu nói lóng, khiến khách và chủ phái bật cười Bà Án hỏi Huy.

- Cháu đã đi học.

- Thưa cụ, vâng, cháu đã học hết vần quốc ngữ.

- Cháu ngoan lắm.... Ái đến đây tôi nào.

Nhưng Ái nhớ tới cử chỉ của bà khách ban nảy, nên không dám lại gần, lo lắng đứng nấp ở sau lưng cậu.

- Kìa bà gọi Ái!

Bà Án nghe Huy kêu mình là "bà" thì hiểu theo nghĩa bà với cháu. Bà sung sướng quá, hây hây đỏ hai má răn, híp cặp mắt nheo cười ứa lệ. Huy thây cháu vẫn ngần ngừ không dám đến, liền dắt tay đưa lại bên bà Án.

Ái sợ cậu phải đứng im, nhưng trong lòng áy náy không yên. Bà Án xoa đầu hỏi:

- Ái có yêu mẹ không?

- Có

- Ái có yêu cậu không?

Ái ngước mắt nhìn Huy, mỉm cười đáp:

- Có

- Thế Ái có yêu tôi không?

Ái không trà lời. Bà An lại hỏi:

- Ái không yêu tôi à?

Ái lắc đầu, Huy ngượng, nhưng lấy làm sung sướng rằng cháu đã trả thù cho chị. Chàng vờ mắng:

- Hổn nhé!

Ái phụng phịu, nước mắt chạy quanh. Bỗng nó giật tay bà Án, chạy vội ra và vui vẻ vui mừng:

- A! mẹ đã về!

Nghe tiếng thằng bé, bà Án bối rối lo sợ, nghĩ tới khoa ngôn luận, tài ngoại giao sắp phải cùng Mai thi thố.

Nhìn Mai, tay dắt con, ở ngoài ung dung đi vào, bà luống cuống trong vài giây, ngập ngừng chưa biệt bắt đầu câu chuyện ra sao. Bỗng nhờ có thói quen về sự thù tiếp, bà cất tiếng hỏi một cách rất tự nhiên:

- Kìa, chào mợ! Mợ đi chơi về?

Mai chắp tay đáp lễ, rồi ngây người đứng im. Bà Án cười, vui vẻ hỏi:

- Mợ quên tôi rồi!

Mai cũng cười, cười chua chát trả lời:

- Bẩm cụ, bao giờ con quên được cụ... Con chỉ hơi lấy làm lạ một tý thôi.

Bà Án hiểu rằng bên địch đã khai thế công mà mình thì chưa sẵn sàng để tiếp ứng, liền dùng kế hoãn binh:

- Nhưng đi ăn cơm đã chứ? có phải không Ái? Vì Ái đ...o...i sắc rối kia mà.

Ái quả thực đói lắm, nghe bà khách nói trúng y nghĩ của mình thì mỉm cười ngước nhìn, tỏ ý cám ơn, còn Mai thì nàng đưa mắt hỏi ý kiến em xem có nên mời khách ăn cơm không. Bà Án như hiểu cách bàn định lặng lẽ của hai người, giục luôn:

- Mợ với cậu giáo xơi cơm cho cháu ăn xong bữa đi! Tôi ăn cơm trên xe hỏa roi.

Mai nói:

- Chả mấy khi cụ lên chơi, thế nào cũng xin cụ chiếu cố xơi với chị em cháu một bữa cơm xoàng.

- Tôi cảm ơn mợ. Nhưng quả thực tôi no lắm, tôi không làm khách đâu.

Huy bảo chị:

- Ấy em đã hết sức mời cụ nhưng cụ một mực từ chối.

Mai mỉm cười:

- Hay cụ chê nhà chúng cháu nghèo, cụ khinh chúng cháu là con nhà hạ tiện.

Lần thứ hai, Mai khiêu chiến, lần thứ hai, bà Án tạm lui:

- Thôi, chỗ quen biết chẳng nên khách sáo. Đi ăn cơm rồi ra đây nói câu chuyện.

Mai kính cẩn chắp tay chào:

- Vâng, mời cụ ngồi chơi, chúng cháu xin vô phép cơm cụ.

Mai, Huy cúi đầu chào một lần nữa rồi dắt Ái vào trong nhà. Ái hỏi Mai:

- Mẹ ơi! Sao bà ấy gọi mẹ bằng mợ?

Câu hỏi bất thình lình của thằng bé khiến Mai buôn rầu. Còn bà Án thoáng nghe thấy cũng lây làm ngượng ngùng.

Ngồi một mình trong phòng khách, tìm sẵn hết các ý tưởng đề chốc nữa có thể đối phó với Mai, bà nghĩ thầm: "Ta lên đây, mục đích là đề bắt thằng cháu về... Trời ơi! Thằng bé mới kháu khỉnh làm sao!... Nhưng muôn bắt cháu về thì chỉ có hai cách... Phải cần phái khôn khéo lắm mới được?"

- Mời cụ xơi nước ạ?

Bà Án quay lại. Ông lão Hạnh ở sau lưng chắp tay đứng hầu. Bà chắc là Mai đã dặn ông ta nói như thế, vì lúc bà mới tới, ông lão chỉ kêu bà là bà thôi. Nhưng Mai cẩn thận dặn người lão bộc như thế là điềm hay, hay điềm dở. Mai muôn mua chuộc lòng bà hay đó chỉ là một câu riêu cợt? Bà tự hỏi, trong lòng phân vân, nửa mừng nữa lo...

Bỗng một nụ cười nở trên cặp môi khô khan của bà, bà vừa nhác trông thấy ở trên tường ngay sát chỗ bà ngồi, treo xòe hình quạt, những ảnh của Ái từ năm Ái lên một cho tới năm ái lên sáu tuổi. Mỗi cái chụp một kiểu, hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, cái nào cũng rõ ràng phân hắc bạch và tô điểm đẹp thêm ra bởi một ông thợ ở nơi tỉnh lỵ nhỏ... Tình yêu lại ngùn ngụt trong lòng bà Án:

- Cụ xem anh cháu có giống không?

Bà Án quay lại, Mai đã đứng sau lưng.

- Mợ ăn chóng thế! Thật thà đấy chứ? Hay là nhà có khách lại ăn vội ăn vàng?

Bà Án trỏ ghế bảo Mai:

- Mợ ngồi tôi nói câu chuyện.

Mai vẫn đứng:

- Được ạ, cụ mặc con.

- Ngồi xuống chứ đứng thế mỏi, vì câu chuyện tôi sắp nói tới đây hơi dài.

Mai kéo ghế ngồi:

- Bẩm cụ, chuyện gì thế? Cụ làm cho con lo quá?

Bà án quay lại, thấy tên người nhà mình đứng hầu liền vẫy tay khẽ bào:

- Cho mày xuống nhà.

Tên kia vâng lời đi ngay. Mai trên lặng ngôi chờ. Còn bà Án thì ngẫm nghĩ tìm câu để mở chuyện. Bỗng bà ngửng phắt đầu lên, trên nét mặt tỏ rõ sự quả quyết.

Bà thong thả hỏi Mai:

- Mợ có biết tôi đến đây làm gì không?

Mai chưa kịp trả lời thì bà Án lại nói luôn:

- Hôm nay tôi thân hành lên đây là vì bổn phận cũng có, nhưng điều thứ nhất là vì... là vì... thôi có mình mợ với tôi đây, can gì phái úp phái mở... Tôi lên đây là vì sự hối hận bắt buộc phải xin lỗi mợ.

Mai vội vàng đáp:

- Ấy chết! cụ dạy quá lời, con đâu dám.

- Không, mợ cứ để tôi nói dứt câu đã. Phải kể ra tôi già nua tuổi tác thế này mà hạ mình, xin lỗi mợ thì cũng hơi quá thật. Song thiết tưởng, bất cứ bề trên đối với bề dưới, hay bề dưới đối với bề trên, ai ai cũng nhận biết lỗi mình. Tôi, thì tôi biết lỗi ngay, tôi hối hận ngay hôm sau... khi cô... khi mợ... bỏ nhà ra đi.

- Được, cụ lớn cứ gọi con là cô cũng được.

Bà Án bắt đầu kể một chuyện đã xếp sẵn từ trước... Bà nói bà không ngờ đâu lại xảy ra như thế khiến dòng dã sáu năm, ngày đêm đã bị lương tâm cắn rứt. Ngay tối hôm Mai từ biệt con bà một cách kín đáo, lặng lẽ, bà hối hận quá vì thấy Lộc đau đớn, khổ sở, nên bà đã đi tìm Mai khắp các nơi không thấy. Bà tưởng thế nào Mai cũng trở về, ngờ đâu Mai lại quyết liệt như thế.

Rồi bà khen ngợi Mai, lấy làm khâm phục lòng hy sinh của Mai, lòng nhẫn nại của Mai, lòng trinh tiết cao thượng của Mai: bao lâu sống trong cảnh lầm than mà vẫn giữ được trong như ngọc, trắng như ngà. Bà ví Mai với cây sen mọc trong bùn mà không nhiễm mùi bùn.

Mai yên lặng ngồi nghe không hề ngắt câu, không hề đáp một lời. Bà Án ngừng lại để dò ý Mai, nhưng sắc mặt Mai vẫn không thay đổi. Bà nói tiếp:

- Nay tôi muốn chuộc lại những điều lẫm lỗi của tôi, mà ở đời chỉ có mình mợ mới có thể giúp tôi được việc ấy.

Mai thành thực, kính cẩn trả lời:

- Bẩm cụ, cụ dạy thế chứ con đâu dám.

- Không, tôi nói thực đấy. Mợ không nên để tôi hối hận suốt đời, vì một điều lẫm lỗi trong giây phút...

Mai làm bộ như không hiểu:

- Nhưng, thưa cụ, có điều gì cụ cứ cho biết, nếu có thể giúp được thì thực con không dám từ chối.

Bà Án do dự một chút rồi quả quyết bảo Mai:

- Mợ ạ, một ngày cũng là nghĩa. Huống hồ đã ăn ở với nhau có con, có cái. Mợ cũng chẳng nên giận cậu ấy, chẳng nên oán tôi nữa.

Mai ngơ ngác hỏi:

- Ô hay! Sao cụ biết con oán giận? Mà con có quyền được oán giận ai đâu?

- Vậy có bao giờ mợ nghĩ tới sự tái hợp không?

Mai hai má đỏ bừng, đầu nóng như sốt, ngồi im không đáp. Bà án lại hỏi:

- Mợ nên nghĩ đến cậu ấy, trong sáu năm nay không một chút nào là không nhớ, không thương mợ.

Mai giận đến cực điểm rồi, không nhịn được nữa:

- Tôi xin cụ đừng gọi tôi là mợ. Tôi không phải, tôi không còn là con dâu cụ, mà cũng không bao giờ cụ thèm nhận tôi là con dâu cụ, cụ nhớ điều ấy cho. Vậy cụ cứ dùng chữ cô cũng đủ lắm rồi.

Bà Án ngượng ngịu lúng túng, không tìm được câu gì để đối phó, đành nhắc lại câu đã nói:

- Mợ chớ nên thế, một ngày là nghĩa.

Mai mắt đỏ ngầu hỏi lại:

- Chớ sao hôm cụ đuổi tôi, cụ không nhớ đến câu ấy?

Bà Án mỉm cười:

- Có cô không nhớ đấy chứ? Còn tôi trước sau tôi vẫn muốn cô với Lộc lấy nhau, - chẳng se vào thì chớ, ai nỡ chia rẽ duyên người bao giờ, không bằng lòng là tự cô đấy thôi.

Mai cười một cách rất chua chát:

- Phải! Bà lớn khuyên tôi lấy lẽ cậu Lộc, lấy lẽ con bà.

- Lấy lẽ củng ba bảy đường lấy lẽ. Lấy lẽ làm nàng hầu cũng có, lấy lẽ làm chị, làm em với vợ cũng có.

Mai không nói, hai mắt căm tức nhìn thẳng ra sân. Bà Án tiếp luôn:

- Vậy nếu bây giờ tôi rước cô về làm chị làm em với mợ huyện, nói thì cô nghĩ sao?

- Thưa cụ, sáu năm về trước hình như tôi đã trình cụ biết rằng nhà tôi không có mà lấy lẽ. Đối với kẻ khác (Mai đăm đăm nhìn bà Án) đối với kẻ kia rồi lên làm cô huyện rồi cô Phú, cô Thượng, nay mai là một vinh dự. Nhưng tôi, tôi cho làm cô Thượng không bằng, không sung sướng bằng làm chị xã, chị bếp chị bồi, mà được vợ một chồng yêu mến nhau, khi vui có nhau... khi buồn có nhau, khi hoạn nạn có nhau... Cô Huyện! Cụ lớn không nên đem cái mồi cô Huyện ra nhử tôi. cô Huyện!

Bà Án thong thả ung dung trả lời:

- Sao lại cô Huyện, bà Huyện chứ?

Mai cười mũi:

- Phải bà Huyện hai.

- Chứ sao1 Các đấng đế vương ngày xưa có đông cung và Tây cung Hoàng hậu, thì sao! Nói hơn nữa, Dương quí Phi có là Hoàng Hậu đâu, có là bà vua chính thức đâu?

- Vâng tôi biết, các bà vỡ lẽ bao giờ củng chỉ có hai đường: một là họ bị áp chế, hai là lấn áp cả quyền vợ cả, lúc đó thì họ trở nên hạng Đắc Kỷ, Bao Tự.

Mai cười nói tiếp:

- Đó, cụ coi, cụ nhớ sử, dễ tôi không nhớ sử. Song có điều này tôi xin thưa ngay hầu cụ! cụ đừng vào con đường ấy để dụ tôi, con đường vinh hoa, phú quy....

Bà Án nghiêm sắc mặt dõng dạc nói:

- Thế thì cô lầm. Tôi chỉ đi vào đường bổn phận. Tôi có lỗi, tôi cam chịu lỗi, nhưng tôi phải ăn năn sửa lỗi. Bởi vậy, tôi không muốn vì tôi mà cô mang tiếng... mang tiếng là một người không chồng... không chồng... mà... mà có con...

Mai cũng dõng dạc đáp lại:

- Xin cảm ơn cụ. Nhưng nếu chỉ vì tôi mà cụ muốn sửa lỗi thì tôi sẵn lòng - xin cụ miễn chấp - tôi sẵn lòng tha thứ cho cụ, tha thứ cho cụ đày đọa tôi, đã... trong bao lâu...

Mai chỉ cố làm ra cam đảm được như thế. Trí Mai ôn lại cuộc đời quá khứ, thì thốt nhiên, lòng Mai tủi cực thổn thức. Mai cảm thấy nghị lực tiêu tán không còn để tranh luận được nữa. Như một cái xác không hồn, Mai gục đầu xuống ta vịn ghế nức nở khóc, khóc không ra tiếng.

- Ô hay! Bà lão này, sao bà lại chòng mẹ cho mẹ khóc?

Mai ngửng đầu lên thấy em dắt con đứng bên cạnh. Gượng cười, nàng ẵm Ái vào lòng hôn hít. Bà Án buồn rầu bảo Huy:

- Ông giáo, ông nghĩ tôi nói có phải không? Ông ngồii xuống đây, tôi thưa câu chuyện. Ai chả có lúc lầm lẫn, huống chi tôi tuổi tác thì lại càng hay lâm lẫn lắm. Bây giờ tôi nghĩ lại, tôi biết tôi lầm, tôi hối hận, tôi thân hành lên tận đây để đón mợ và cháu về, ông là người học rộng, biết nhiều, nên khuyên mợ cháu một câu.

Huy lạnh lùng đáp:

- Thưa cụ, việc đó là việc riêng của chị cháu. Tùy ý chị cháu cư xử. Cháu không có quyền lạm bàn tới, tuy đối với chị cũng như đối với quan huyện Lộc, cháu vẫn là người chịu ơn.

Mai như nói một mình:

- Mẹ con tôi tưởng được yên thân ở nơi hẻo lánh này, ai ngờ cụ chưa tha, cụ còn theo đuổi cho bằng được để cụ hành hạ.

Bà Án thở dài, cất giọng phàn nàn, cố làm ra vẻ thành thực:

- Khổ cho tôi chưa! Người ta không hiểu tôi. Ở nhà thì con tôi không hiểu tôi. Con tôi cũng vậy, mà cô cũng vậy, các người cho tôi là một hung thần giời sai xuống để phá cuộc hạnh phúc của các người.

Bà Án đưa khăn lên lau nước mắt:

- Nhưng nào tôi có ác nghiệt gì, tôi chỉ là một người bao giờ cũng nghĩ tới hạnh phúc của con, cháu, nghĩa là nghĩ tới bổn phận của một người mẹ, của một người bà.

Huy đứng lạng nhìn bà Án, lấy làm thương hại. Chàng thong thả nói:

- Cụ cho phép cho cháu tỏ bày cùng cụ vài điều. Cụ là người rất tốt, bao giờ cũng nghĩ tới bổn phận. Cháu biết lắm. Không bao giờ cháu ngờ vực cụ, cụ dung thứ cho mấy lời sông sượng của cháu, cụ tức là cái biểu hiện, tức là một người đại diện cho nền luân lý cũ. Mà tâm trí chúng cháu đã trót nhiễm từng tư tưởng mới. Hiểu nhau khó lắm, thưa cụ. Cụ với bọn hậu sinh chúng cháu như hai con sông cùng như một nguồn, cùng chảy ra bể, nhưng mỗi đằng chảy theo một phía dốc bên sườn núi, gặp nhau sao được. Vậy chị em chúng cháu không dám tranh luận với cụ nữa, chỉ xin cụ ban cho một cái ơn tối hậu, cũng như khi xưa chị cháu vì cụ mà hy sinh hết hạnh phúc, lạc thú gia đình... Cái ân tối hậu ấy, là cụ và ông Huyện quên hẳn chúng cháu đi, đừng bận lòng nghĩ tới chúng cháu nữa.

Bà án vội ngắt.

- Cô Mai đã vậy. Nhưng còn cháu tôi?... Khi nào tôi nỡ để cháu tôi... cháu tôi nó mang tên họ chồng tôi, tên họ con tôi...

Mai cười gằn:

- Cái đó cụ không lo.

Rồi nàng cúi xuống hỏi con:

- Tên con là gì?

Ái nũng nịu, âu yếm, ôm lấy cổ Mai:

- Tên con là Ái.

- Vậy Ái họ gì?

Ái chẳng tru trừ, trả lời luôn:

- Ái họ Dương.

Bà Án kinh hoảng:

- Cô dạy nó thế à? Cô dám dạy cháu tôi những điêu trái luân thường, đạo lý như thế ư?

Mai mỉm cười:

- Thưa cụ, cụ lầm, nó là con tôi. Tôi muốn dạy nó điều gì mặc tôi. Cũng như cụ đã dạy con cụ quyến rũ người ta, rồi khi người ta thai nghén, lại ruộng rẫy người ta ra.

Bà án đứng phắt dậy, tức giận quát tháo:

- Cô không được hỗn. Cô không được phép khinh tôi!

Mai vẫn ôn tồn:

- Thưa cụ, ở đây là nhà tôi, chớ không phải là dinh quan tri huyện, xin cụ nhớ cho.

Bà Án lại ngồi xuống ghế, nghĩa là tự để rơi xuống ghế. Mất hết cam đảm và biết rằng khó lòng cãi lý với Mai được nữa, bà quay ra giọng van lơn:

- Cô Mai ơi, cô nên thương tôi già yếu... cho tôi được cùng cháu tôi sum họp...

Mai ái ngại nhìn bà Án không nỡ dày vò quá nữa. Nàng ôn tồn thưa lại:

- Bẩm cụ, cụ thiếu gì cháu, nào con bà Huyện, nào con các cô, cháu nội, cháu ngoại đủ cả. Thêm một cháu Ái có làm gì mà bắt mẹ con phải xa nhau.

Bà Án gắt:

- Thì tôi có muốn chia rẽ mẹ con cô đâu, trước sau tôi vẫn xin đón cô về ở với chồng cô kia mà...

Lòng căm tức, Mai cố nén, chỉ chực bùng bốc lên. Về phần bà Án thì bà hết sức giấu nhược điểm của mình, là bà chưa có cháu nội, chưa có người nối dõi tông đường. Lòng ích kỷ của bà vẫn ngờ rằng nếu Mai biết sự thực là nàng sẽ bắt bí.

Bỗng chợt nghĩ ra một điều, bà Án tươi cười bảo Mai:

- Nếu tôi đền ơn cô một nghìn bạc thì cô nghĩ sao?

Mai không hiểu:

- Thưa cụ, ơn gì ạ?

- Ơn cô nuôi nấng cháu tôi.

Mai cười nhạt:

- Thưa cụ, cụ cho tôi là một người vú em nuôi cháu cho cụ phải không?

Bà Án như mê mẩn, không nghĩ tới câu hỏi của Mai.

- Vậy hai nghìn nhé?

Mai đứng phắt dậy, dắt con đi ra cửa phòng quay lại nói:

- Cháu xin phép cụ, cháu phải đi đằng này có chút việc cần!

Rồi nàng bảo Huy:

- Cậu ở nhà hầu chuyện bà nhé.

Bà Án và Huy còn ngơ ngác nhìn theo thì thoăn thoắt, Mai đã cùng Ái bước lên con đường giốc.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2011 12:42:48 | Chỉ xem của tác giả
Trên Đồi


- Sao hôm nay chủ nhật lại không đi chơi đồi hở cậu?

Huy đương ngồi đọc một quyển tiểu thuyết ở hiên, nghe tiếng Ái hỏi, liền gập sách lại ôm cháu vào lòng, khẽ bảo:

- Vì hôm nay rét lắm nên chúng ta ở nhà.

Ái phụng phịu tỏ ý không bằng lòng:

- Không phải thế đâu, mọi lần rét hơn thế này, cũng đi chơi thì sao?

Thấy Ái thông minh, có trí xét đoán, Huy vui cười cúi xuống hôn cháu lên hai má rồi hỏi:

- Vậy Ái có biết vì sao không đi được không?

Ái buồn rầu:

- Chỉ tại hôm nọ cái bà gì bà ấy đến chơi, bà ấy chòng mẹ, nên mẹ giận, mẹ ở nhà có phải thế không, cậu?

Một dịp cười khanh khách trả lời câu hỏi. Hai cậu cháu nhìn ra.

Mai ở sân bước lên thềm, hai tay ôm Ái vào lòng vừa hôn, vừa nói:

- Con tôi ngoan quá, thương tôi quá! Nhưng tôi có buồn đâu? Có ai giận đâu?

Ái hôn trả lại Mai rồi nũng nịu ghé vào tai nói thầm:

- Thế đi chơi đồi, mẹ nhé?

Mai lại cười:

- Thôi, mẹ xin khất con đến chủ nhật sau.

Thấy Ái cứ nhì nhằng làm rầy chị, Huy nghiêm sắc mặt bảo cháu:

- Ái đứng xuống đi chơi! Không được quấy.

Ngoan ngoãn Ái vâng lời, lảng ra sân.

Hai chị em yên lặng ngồi nhìn vơ vẫn.

Rồi Huy uể oải mở tiểu thuyết ra xem. Bỗng nghe tiếng thở dài của Mai, Huy quay lại buồn rầu bảo chị:

- Chị quên câu chuyện ấy đi thì hơn.

Thì Mai có nhớ đâu tới câu chuyện ba hôm trước? Suốt những ngày, nàng như người mất hồn, là chỉ vì lần hội kiến thứ hai với bà Án đã nhắc nàng tưởng tới bao sự cảm động quãng đời qua.

Người mà nàng thường thề với nàng rằng không thể nào còn yêu được nữa. Nàng có ngờ đâu đã chiếm đoạt nàng đến nỗi sau gần sáu năm nay những cảm giác vui buồn, bỗng vì một câu chuyện không đâu lại làm rung động được lòng nàng.... Rồi nàng cảm thấy sự sống lạnh lẽo, tẻ ngắt, tuy bên mình nàng luôn luôn có con và em, những người mà nàng thương yêu trong cùng tận linh hồn. Huy cất tiếng hỏi:

- Cái đời êm đềm hiện tại của chúng ta há không phải một đời lý tưởng sao?

Mai vẫn không trả lời, mắt mơ mộng nhìn lên ngọn đồi. Huy nói luôn:

- Ta còn thiếu một thứ gì?... Giàu có ta không mong, quan sang ta không tưởng.... Bên mình chị, lúc nào cũng chỉ có những người yêu mến, yêu mến thành thực... Em và con chị.

Nước mắt chạy quanh, Mai ngập ngừng đáp lại em:

- Khốn, nhưng mỗi lúc chị ngắm con... chị lại...

Mai im bặt, cảm đổng thổn thức, Huy nhìn chị thương hại, buột miệng nói tiếp:

- Chị lại nhớ tới anh, phải không?

Mai bẽn lẽn, hai má đỏ ửng, chữa thẹn:

- Không! Không bao giờ nữa, em ạ!.... Hết! thực rối!

Có người giật chuông. Huy đứng dậy ra mở cổng... Mai nhìn ra, thấy người lính trạm đưa cho em một bức thư. Mai bỗng hoảng hốt, trong lòng bối rối những tính tình tương phản: vừa giận, vừa lo, vừa ghét, vừa mừng. Huy dí mắt vào nhìn chữ đề ngoài phong bì, như cố đoán xem thư của ai.

Chàng lặng thinh đưa bức thư cho Mai. Mai xua tay em:

- Thôi em đọc, chị không muốn có sự gì dính dáng đến mẹ con họ nữa.

- Thì chị thử đọc xem! Đã biết là thư của ai?

Mai lãnh đạm:

- Còn của ai nữa?... Nhưng dẫu của ai, em cũng xem hộ chị.

Rồi nàng ngồi, tò mò nhìn em xé chiếc phong bì vàng.

- Thư của chị Diên, chị ạ.

Mai vui mừng:

- Thê à? Vậy em đọc.

Huy ngần ngại hỏi:

- Có tiện không? Thôi đây, chị xem lấy.

Mai cười:

- Em bầy vẽ lắm. Chị em mình còn bao giờ có đến gì giấu nhau.

Nhưng nàng cũng đỡ lấy bức thư lẩm nhẩm đọc:

"Lạng Sơn, ngày... tháng... 193...

Chị Mai và cậu Huy thân yêu!

Chị em xin kính chúc chị và cậu cùng hỏi thăm cháu Ái bình yên mạnh giỏi.

Sau này, em xin chị tha thứ cho em. Bức thư chị gửi cho em tháng trước để mừng em Trọng, em đã nhận được. Song em không trả lời ngay chị vì là một cớ nói ra, đau lòng, nên muốn giấu chị đó thôi. Và em Trọng cũng khuyên em đừng ngỏ cho chị biết.

Nhưng nay em hối hận lắm, em thấy em xấu xa, nhơ nhuốc, có thể làm tổn hại đến hạnh phúc của kẻ khác, nên muốn hỏi ý kiến chị, em muốn chị khuyên em nên tự xử trí ra sao.

Hồi năm ngoái em có viết thư cho chị đề báo tin em Trọng trúng tuyển số đầu kỳ thi tham tá phổ thông. Cũng tưởng cố đậu lên chức tham tá để lương bổng được rộng rãi, ăn tiêu được dư dật, chứ đối với em Trọng thì chức tham với chức thư ký có khác gì nhau. Ấy em nó vẫn nói thế mà quả thực có thế.

Ai ngờ vì cái chức quan tham ấy mà quan bố báo tin muốn gả con cho Trọng.

Trọng bằng lòng ngay. Chắc chị đã mỉm cười, mỉm cười chê nhạo, khinh bỉ em Trọng đã hăm hở lăn lưng vào nơi phú quý.

Thực ra, anh chị đã gặp nhau nhiều lần, và tuy không hề tỏ với nhau nữa lời mà trong lòng đã cùng nhau thầm hẹn.

Mai đọc tới đó, buông bức thư xuống thở dài, và nàng nhớ tới lần gặp gỡ của nàng trên xe hỏa.

Huy hỏi chị:

- Chị đọc xong rồi. Trong thư nói những gì thế.

- Chưa xong em ạ.

Mai lại thì thầm, đọc tiếp:

Ấy, chỉ vì thế, nên em Trọng mừng rỡ nhờ một ông phán già làm mối hộ, và quan bố, bà bố nhận lời gả ngay.

Nhưng hai tháng trước đây, một buổi chiều, quan cho người ra tìm. Trọng vào dinh. Rồi khi Trọng vừa tới, ngài ra sân đón tiếp và ghé tai nói thầm:

- Có đứa mách bà rằng chị cậu không được tử tế, đứng đắn.

Quan bố nói tiếp:

- Cái đó cũng không hề chi. Nhưng khi bà nó hỏi thì cứ chối phắt đi là xong.

Nhưng chị ạ. Trọng nó điên rồ quá, không những đứng trước mặt bà bố nó không chối rằng em là một cô gái giang hồ, là em một con đĩ, nó lại còn kể lể, lôi thôi hết cái đời xấu xa, hèn hạ của chị nó ra... Thế thì chị tính có khổ cho em không.

Khi về nhà, nó thuật lại cho em nghe mà em vừa tức vừa giận, vừa xấu hổ, xấu hổ vì đã phá hoại tương lai của em Trọng. Em bảo thế, thì nó quả quyết vắn tắt một câu:

- Đối với em, chị chỉ là một người em yêu mến chứ không là gì khác nữa.

Rồi nó thề với em rằng suốt đời nó không lấy ai hết.

Chị tính thế thì có khổ cho em không? Em có ngờ đâu cái quãng đời đã qua của em lại có thể có trách nhiệm nặng nề với tương lai của kẻ khác đến như thê.

Vậy bây giờ chị bảo em nên tự xử ra sao? Tuy chị kém em những mười tuổi, song chị học rộng biết nhiều hơn, chị thực đáng là chị em, chị khuyên em nên thế nào?

Em định một là đi tu, hai là trốn biệt vào Nam Kỳ chẳng hạn, đề khỏi phiền đến em Trọng, để khỏi làm ngăn trở con đường tương lai hạnh phúc của nó.

Em mong thư chị.

DIÊN

Tái bút - Em Trọng nhắc tới chị và cậu Huy luôn. Đến lễ sinh nhật, thế nào chúng em cũng sang chơi bên ấy.

Bà Cán hiện ở chơi đây, bà ấy nhớ chị lắm.

Hôn cháu Ái thực kêu hộ em nhé.

Mai đưa vạt áo lên lau nước mắt, rồi buôn rầu trao bức thư cho Huy:

- Em đọc.

Nàng ngồi suy nghĩ chờ Huy xem xong thư. Nghe Huy thở dài ngửng đầu lên, nàng hỏi:

- Thế nào? Ý kiến em như thế nào?

Huy cười chua chát rồi nói một mình:

- Người mình không bao giờ có giá trị riêng hết. Ta chỉ là con ông nọ, cháu bà kia. Vô phúc cho ta, nếu ta có một người anh, người chị không ra gì!

Mai cười nói tiếp:

- Cứ gì anh. Đến nhà có đứa đầy tớ gái phải lòng giai, họ cũng dị nghị... họ cũng cho là mình phạm tới luân lý nữa là!

- Bao giờ cho họ hiểu tới tự do, tới danh dự cá nhân?

Mai mỉm cười bảo em:

- Nhưng mà, em ạ, bức thư của chị Diên đã làm cho chị tỉnh ngộ... Bây giờ thị chị thực đã dứt được tình yêu, vì chị trông thấy, chị nhận biết chắc chắn rằng ái tình của Lộc nếu Lộc quả vẫn yêu chị như lời bà Án nói, còn phải thuộc quyền một người thứ ba, một người thứ tư nữa thì dẫu sao cũng không nên tưởng tới, chỉ nên coi như nó đã chết hẳn rồi, chết hẳn rồi trong trái tim đau đớn... giữa lúc đầu xanh... nửa chừng xuân...

Mai bỗng ngừng lại, cất tiếng cười, cười khanh khách, cười rũ rượi, cười chảy nước mắt, khiến Huy ngồi ngắm chị lấy làm lo lắng thương hại, và Ái cũng hoảng hột ở sân sau chạy lại hỏi:

- Cái gì thế mẹ? Mẹ cười cái gì thế?

Mai cúi xuồng ôm con vào lòng, rồi vừa hôn vừa nói:

- Bây giờ tôi mới tỉnh giấc mộng ngày xuân. Tôi cứ tưởng ở đời chỉ có ái tình! Bên mình tôi, bao người yêu tôi, con tôi, em tôi, bạn tôi! Thế mà, trời ơi! Tôi chỉ tưởng tới người... một người khốn nạn.

Mai không giữ nổi cảm động, ngồi bưng mặt rưng rưng khóc.

Đứng trước một cảnh đau lòng, Huy lấy làm ái ngại cho chị. Huy không ngờ tấm ái tình của chị mình với Lộc vẫn nồng nàn đến thế. Huy căn cứ ở những ý tưởng thương mền... đối với người xưa. Thong thả dịu dàng. Huy bảo chị:

- Chị ạ, ta nên nghe theo cháu Ái, lên đồi chơi đi. Chị coi, trời mát thế kia, ta không nên bỏ, hoài một ngày chủ nhật.

Ái cười:

- Rét đấy cậu ạ, chả mát đâu.

Câu nói của con khiến Mai phải bật cười, nàng đứng dậy lấy áo mặc cho Ái, rồi vui tươi hỏi con:

- Phải đấy em ạ, ta đi chơi đồi.

Ra tới ngoài đường, cảnh đồi xanh trong không khí sáng sủa một ngày mùa đông khô ráo, êm đềm khiến Mai lại vui vẻ, hầu như quên hẳn nỗi nhớ thương.

Một giờ sau, trong khi Mai đương ngồi sưởi ở dưới ánh nắng dịu, đọc lại bộ tiểu thuyết của em và trong khi Ái đương chạy quanh tìm quả sim, Huy trỏ tay xuống chân đồi khẽ bào chị:

- Ai như anh Lộc ấy kia.

Mai hoảng hột bỏ rơi quyển sách, trông theo, rồi muốn giấu cảm động, nàng ôm ái vào lòng thì thầm nói chuyện.

Đứng dưới ngước nhìn lên đỉnh đồi, nên mấy cây trầu cành lá xác xơ. Lộc thoáng thấy bóng ba người. Chàng đoán chắc đó là Mai, Huy Và ái.

Ban nãy, khi Lộc mới tới nhà Huy, ông Hạnh ra mở cổng nói rằng cà nhà vừa đi vắng thì chàng lấy làm thất vọng, tưởng chừng như khát khao được gặp mặt người xưa. Nhưng bây giờ, theo lời dặn của người lão bộc, và tìm được đến chỗ Mai, Lộc bỗng thấy lòng sốt sắng, lòng quả quyết của mình tiêu tan hết.

Chàng dừng bước đứng lại thở, làm như chưa nhìn thấu Mai, rối ung dung lấy thuốc lá đánh diêm hút. Bao nhiêu cử chỉ cốt để lui giờ hội kiến mà Lộc biết sẽ rất khó khăn.

Thong thả Lộc theo con đường nhỏ, đi trong cỏ vàng cao và sắc, mọc chen chóc với những cây sim dại hoa tím và cây mẫu đơn hoa đỏ. Giữa cảnh đời rậm rạp hoang vu và mọi rợ, chàng lại cảm thấy can đảm, bạo dạn. Ngửng đầu lên, chàng mạnh mẽ bước thẳng tới chỗ Mai ngồi.

Mai, má nóng bừng, làm bộ lạnh lùng, nhìn nơi chân trời trước mặt.

Mai vờ không nghe rõ tiếng con hỏi, cặp mắt mơ mộng nhìn xa.

Huy ngắm hai người lấy làm thương hại. Rón rén lại gần, chàng vỗ vai Lộc, cười nói rất tự nhiên:

- Anh Lộc, lên bao giờ thế?

Lộc quay lại bẽn lẽn, ấp úng mấy câu và giơ tay bắt tay. Làm ra vẻ thân mật, Huy hỏi luôn:

- Anh vẫn được mạnh đấy chứ? Lâu nay nhớ anh quá.

Lộc khẽ trả lời:

- Cảm ơn cậu.

- Trông anh xanh lắm.

Lộc đưa mắt nhìn trộm Mai:

- Tôi khổ sở lắm, cậu ạ... khỏe mạnh sao được!

Mai đứng dậy dắt con lảng sang phía dốc bên kia đồi. Lộc nhìn theo, thở dài bảo Huy:

- Chị giận tôi lắm, phái không cậu Huy?

Huy nghe câu hỏi, lòng thương hại bỗng đổi ra lòng căm tức, cười nhạt không đáp. Lộc như hiểu thấu tính tình của Huy, nói luôn:

- Phải, cậu khinh tôi là phái! Tôi thật là một thằng khôn nạn! Nay tôi lên đây không có mục đích gì khác là để trần tình cùng chị...

Tiếng cười gằn của Huy khiến Lộc ngừng lại, và hình như có chiều sợ hãi, lo lắng. Huy động lòng trắc ẩn. Yên lặng vài giây, Lộc lại nói:

- Vâng, cậu ngờ tôi... mà ai cũng phải ngờ tôi... Và tôi đã tự nhận rằng tôi là một thằng khốn nạn. Song cậu nghĩ đến nỗi thống khổ của tôi trong ròng rã sáu năm... thì cậu cũng nên thương tôi... mà để tôi giãi bày tâm sự cùng chị... Mục đích tôi lên đây hôm nay chỉ có thế thôi.

- Cậu giáo!

Ái vừa gọi vừa kéo áo cậu. Lộc ngồi xuống ôm Ái vào lòng hỏi Huy:

- Bác tài Ái đây, phải không?

Rồi chàng hôn hít con. Thật ra mới gặp Ái, chàng đã biết là con mình rồi, và chàng chỉ muốn ẵm ngay lấy. Song thấy Ái ngồi trong lòng Mai càng rụt rè chưa dám đường đột, sỗ sàng... Cuống quít, chàng chẳng biết hỏi con điều gì, chỉ luôn mồm kêu:

- Trời ơi!

Đó hình như chỉ là một câu vô nghĩa nhưng thực chứa bao tình yêu thương, nỗi nhớ tiếc cái thời kỳ ân ái dịu dàng. Ái giật tay ra rồi bảo Huy:

- Cậu ơi, mẹ bảo Ái đến giục cậu đi về.

Lộc nhìn con, thở dài ngẫm nghĩ hàm răng trên cắn lên môi dưới. Trong lòng thổn thức, chàng cố giấu sự cảm động, sự cảm động như sắp sửa theo hai hàng lệ tuôn ra. Bỗng chàng quả quyết chạy thẳng Sang phía dốc bên kia đồi. Ái sợ hãi toan chạy theo sang để bênh vực, bảo hộ mẹ mà Ái cho rằng sắp bị người lạ kia hà hiếp, Huy nhanh tay giữ cháu lại:

- Ngồi đây chơi với cậu.

- Thế cậu không sợ cái người kia người ta bắt nạt mẹ à?

Huy mỉm cười:

- Không cháu ạ, người ấy yêu mẹ, yêu mẹ như cháu yêu mẹ.

Ái không tin nhưng nghe cậu nói thế cũng yên lòng.

Sang tới phía bên kia, Lộc thấy Mai ngồi bưng mặt khóc nức nở ở dưới gốc cây dọc. Chàng yên lặng đứng nhìn Mai, rồi thong thả cúi xuống ghé tận tai thì thầm:

- Em tha thứ cho anh.

Mai nghe rõ tiếng Lộc, nhưng không dám ngửng nhìn, nửa vì xa nhau đã hơn sáu năm, nàng tự thấy hồi hộp, bẽn lẽn, run sợ, nửa vì sự xúc cảm quá mạnh, làm tiêu tan lòng quyết đoán, khiến tim nàng như ngừng đập, tư tưởng nàng như mất hết, và nàng như xác không hồn. Âu yêm, dịu dàng Lộc cầm lấy tay Mai, bàn tay ngà ngọc, suốt sáu năm nay chàng hằng tưởng nhớ.

Tựa đứa trẻ ngoan ngoãn, nàng để tay trong tay Lộc.

Bỗng dưng luông điện giật, nàng đứng phắt dậy, mở bừng mắt, đăm đăm nhìn Lộc, Lộc sợ hãi, mặt tái mét.

Luồng gió lạnh thoảng qua. Hai người rùng rợn thoáng nhìn nhau. Mai khẽ bảo Lộc:

- Ông về đi! Ông về ngay đi!

Lộc cúi đầu không nói. Ngắm qua dáng điệu khuất phục, vẻ mặt hốc hác, và thân thể gầy yếu của Lộc, Mai đem lòng thương hại, êm đềm khẽ hỏi:

- Ông còn lên đây làm gì?

Lộc vẫn cúi đầu, run run đáp lại:

- Anh lên thăm em... mà có lẽ thăm em lần cuối cùng.

Giọng nói của Lộc rất thành thực, âu yếm, song hai chữ cuối cùng khiến Mai đoái tưởng tới mấy năm qua, đoái tưởng tới những ngày xanh tàn tạ, mà tiếc cái hạnh phúc vì đâu bị tiêu diệt giữa chừng xuân. Sự căm tức thốt nhiên đầy rẫy ùa vào tâm hồn. Lạnh lùng nàng cười nhạt bảo Lộc:

- Cuối cùng! Cái lần cuối cùng đã qua hơn sáu năm rối! Ngày nay đối với tôi, ông chỉ là một người...

Mai cố làm ra vẻ bình tĩnh, nhưng trí nghĩ vẫn không được tự nhiên đến nỗi đương giở câu mà không tìm ra lời nói cho trọn. Lộc tiếp luôn:

- Anh chỉ là một con người khốn nạn, đê hèn, ti tiện.... còn gì nữa?

Mai thổn thức, nức lên một tiếng bưng mặt khóc. Ngồi bên cạnh Mai, cầm tay nàng, Lộc xin lỗi. Lộc tìm hết các chữ dịu dàng êm ái để xin Mai quên những điều thống khổ bởi chàng gây nên. Rồi Lộc kể lể, Lộc ôn lại hết những sự xay ra, đã khiến chàng dám ngờ oan một người vợ đoan chính.

Lộc nói, nói rất lâu. Mai im lặng ngồi nghe, óc Mai rung động, tim Mai hồi hộp. Mai thấy đỡ khổ, lòng dịu dịu dần. Chàng nói tiếp:

- Anh xin thề với em rằng, anh xin viện những sự thiêng liêng nhất trên đời anh thề với em rằng, đối với anh, chỉ mình em là vợ, là người vợ mà anh đã, mà anh vẫn, mà anh sẽ mãi mãi đem hết tâm trí, đem hết linh hồn ra anh yêu mến.

Như người điên, Mai cười sằng sặc, tiếng cười nức nở như tiếng khóc. Cái cười sung sướng hay cái cười ngờ vực?

Lộc nói luôn:

- Em không tin anh. Phải. Em không tin anh là phải lắm. Anh không đủ để em tin.

Nghiêm sắc mặt, Mai đáp:

- Thôi, ông ạ, dẫu sao....

Lộc vội ngắt lời:

- Em Mai ơi, anh xin em ban cho anh một cái ân tối hậu:

Em đừng gọi anh bằng ông như thế. Đó là phát súng cuối cùng mà kẻ ngắc ngoải ăn mày kẻ hành hình.

Mai cười gằn:

- Trong hai ta, ai là kẻ hành hình? Mà ai là kẻ bị hành hình: Thưa ông... Thưa anh...

- Em nhắc tới chi những sự đau lòng. Chẳng qua số phận đôi ta...

Mai nói luôn:

- Chỉ có thế.

Lộc như tỉnh ngộ:

- Phải không em nhỉ? chẳng lẽ lại chỉ có thế?

Mai lau nước mắt, ôn tồn đáp lại:

- Không, anh nói rất đúng: chỉ có thế. Đôi ta nếu còn tình ái, cũng chỉ là tình ái tuyệt vọng mà thôi. Từ nay, từ sáu năm nay, chúng ta nếu có còn nhau thời cũng chỉ là để chuộc những tội lỗi của ta.

Lộc ngắt lời:

- Ta có tội gì? Ta chỉ yêu nhau.

- Em thì em cho là có. Vì yêu nhau là có tội rồi.

Mai dõng dạc, nghiêm khắc nói tiếp:

- Nay ta chỉ còn một cách là anh đi đường anh, tôi đi đường tôi. Ta không nên làm phiền lòng nhau, không nên quấy rồi hạnh phúc riêng của nhau nữa. Đó là sự hy sinh cuối cùng của đôi ta.

Lộc như điên, như cuồng, nói rất nhanh:

- Không, em không cần hy sinh. Chỉ anh được phép hy sinh mà thôi, hy sinh để báo đáp lại tâm lòng yêu thương của em: anh sẽ bỏ hết, bỏ quan, bỏ vợ, bỏ hết để cùng em đi biệt một nơi, gây lại hạnh phúc. Anh đã sửa soạn đâu đấy cả rồi, tiền nong sẵng sàng anh đã đem đi... để cả ở trong va li gửi ở khách sạn kia... Anh chưa dám ngỏ lời với em đó thôi.

Mai ngẫm nghĩ:

Tung trời, đôi chim nhạn liền cánh bay về nẻo xa. Mai thở dài:

- Không được. Vợ anh có tội gì anh anh nỡ bỏ?

Lộc vội đáp:

- Chỉ mình em là vợ anh.

Mai buồn rầu:

- Em sẵn lòng tin anh. Song người vợ kia dầu sao cũng là người vợ chính thức của anh, người vợ mẹ anh cưới cho anh. Trách nhiệm nặng nề của anh đối với em, đối với vợ, người vợ đã phó thác vào anh, anh phải một mình mang lấy.

Lộc ngắt:

- Thế còn em? Em không phó thác vào anh hay sao?

Mai mỉm cười:

- Không, em khác. Ở đời có phải ai ai cũng có thể hy sinh được đâu?

Lời nói của Mai có vẻ tự cao, có giọng khinh bỉ, khiến Lộc ngơ ngác nhìn, lấy làm xấu hổ. Mai tiếp luôn:

- Thôi, câu chuyện của đôi ta đã quá dài. Ngày hôm nay, anh đến thăm em, thực suốt đời em ghi nhớ, vì ngày hôm nay đã giúp em hy sinh được một sự to tát nhất trên đời. Ngày xưa vì thân mẫu anh, em đã hy sinh gia đình hạnh phúc, ngày nay vì anh, vì trách nhiệm của anh, vì thanh danh của anh, em hy sinh được một sự tro trùm vũ trụ: Sự ấy là ái tình. Anh ra ga mau cho kịp chuyến xe hỏa bốn giờ và em nhờ anh chuyển lời tạ tội của em lên cụ Án. Hôm nọ, em lỡ lời xin cụ tha thứ cho.

Mai nói rất ôn tồn.

Lộc đáp:

- Em đuổi anh?

Mai mỉm cười:

- Vâng. Em quả quyết lắm rồi. Nếu anh còn yêu em thì anh nên nghe lời em, anh về ngay cho... Thế là hơn cà.

Buồn rầu, Lộc đứng dậy toan quay đi:

- Em có cho phép anh hôn em một lần cuối cùng không?

Mai trù trừ:

- Xin vâng.

Cái hôn nồng nàn như trao cả linh hồn cho người yêu không làm Mai cảm động. Nàng vẫn lạnh lùng, vẫn thản nhiên như không.

Khóc rưng rưng, Lộc lững thững bước xuống chân đồi.

Mai nhìn theo, mỉm cười, cái mỉm cười thương hại. Rồi thong thả nàng đi lại chỗ em và con.

Bỗng Lộc chạy vội đến, ôm gì lấy Ái vừa hôn lấy hôn để, vừa nói:

- Khốn nạn, anh mất trí nghĩ đến nỗi suýt nữa anh quên con và em anh.

Chàng giơ tay bắt tay Huy Và nói luôn:

- Nhất là có hai việc mẹ dặn, anh đều quên nói cả hai. Việc thứ nhất là đón em. Việc thứ hai là xin em cho Ái về ở với bà.

Mai nghe không hề đổi sắc mặt, dịu dàng trả lời:

- Em cũng thuận cho con anh về ở với anh và cụ Án. Song, nếu anh quả quyết chia rẽ mẹ con em thì chắc em khó lòng mà sống được.

Lộc vội nói:

- Thế nào anh có định tâm chia rẽ! Anh chỉ nhắc lại lời mẹ anh xin với em.

Mai rất ôn tồn:

- Em cam đoan với anh rằng ngày sau thế nào em cũng cho nó về ở với anh. Em nói câu này xin anh đừng giận, em chỉ sợ con em, nó nhiễm cái giáo dục nghiêm khắc... tàn nhẫn của cụ Án...

Mai mỉm cười nói tiếp:

- Vậy anh về thưa với cụ Án hộ rằng bao giờ Ái cũng là cháu cụ, và em sẽ đổi họ nó ra họ Nguyễn, để chiều lòng cụ.

Lộc không hiểu, ngơ ngác nhìn Mai, Mai giục:

- Thôi, thế là mọi việc đều xong xuôi cả. Vậy anh ra ga cho, kẻo nhỡ chuyến xe hỏa bốn giờ.

Lộc như người không hồn, buồn rầu xuống đồi.

Mai đứng trông theo. Một lát khi Lộc đã đi khuất quãng đường vòng, nàng chép miệng:

- Thôi! chúng ta đi về.

Ba người lững thững trở về nhà. Mai nhìn em, nhìn con, rồi đưa mắt ngắm canh đồi trùng trùng điệp điệp bao bọc những thung lũng lúa xanh, thấy trong lòng dìu dịu, êm ả như mặt hồ im sóng sau cơn gió mạnh: hạnh phúc vẫn vơ như phang phất quanh mình, như man mác trong bầu trời dưới ánh nắng vàng tươi một ngày mùa đông tốt đẹp.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 21-9-2011 12:44:30 | Chỉ xem của tác giả
Bên Lò Sưởi


Chiều hôm ấy, ăn cơm xong thì trời đã tối. Nghe tiếng gió vù vù thổi, Mai hỏi Ái:

- Con có lạnh không?

- Có mẹ ạ.

- Vậy con không nhớ lạnh thì phải làm gì ư?

Ái vội vàng xuống bếp ôm lên một ôm củi. Bên cạnh lò sưởi, Huy đương ngồi làm việc ở bàn giấy, nghe tiếng kịch kịch, cúi xuống bảo Ái:

- Làm gì thế, cháu?

- Ái đốt lò sưởi cho cậu.

Huy ẵm Ái vào lòng, nói:

- Cháu tôi ngoan quá. Nhưng sao cháu ướt cả thế này?

- Giời mưa đấy cậu ạ.

- Tội nghiệp! Mưa mà cháu tôi cũng chịu khó lặn lội xuống bếp.

Rồi Huy quay lại bảo ông Hạnh:

- Thôi ông ạ, không rét đâu, đốt lò làm gì cho tốn củi.

Ái đáp:

- Mẹ bảo đốt đấy, cậu ạ.

Mai ngồi khâu ở bên giường, buồn rầu bảo em:

- Sao em lại thế? chị chả bằng lòng tí nào. Ông đốc đã dặn cẩn thận rằng hễ đêm nào lạnh thì phải đốt lò sưởi. Em không nhớ năm kia vì em làm việc đêm bị cảAm lạnh mà bệnh đau ngực của em lại phát ra đấy ư? Còn suốt mùa rét năm ngoái thì có việc gì đâu?

Thấy chị săn sóc chăm nom mình như một người mẹ nâng niu âu yếm con, Huy cảm động không nói được nên lời. Mai tiếp luôn:

- Bất quá mỗi tháng đốt mất độ một đồng bạc củi thôi chứ mấy! Ở đây củi rẻ lắm kia, em ạ. Chả hơn vì hà tiện mà sinh ốm, sinh đau thì tiền lại có thể tốn gấp mấy mươi lần.

Ông Hạnh đương lúi húi nhóm lò, quay lại bảo Mai:

- Cô chỉ nói dại.

Cái tính thực thà hay kiêng những lời nói rong của ông lão bộc khiến Huy bật cười. Chẳng hiểu vì sao cậu lại cười.

Ái đứng dậy hỏi:

- Cậu cười gì thế cậu?

Huy xoa đầu Ái nói:

- Cậu cười Ái đấy.

- Nhưng sao cậu lại cười Ái.

Mai ngừng khâu nhìn về phía bàn giấy bảo Ái:

- Vì Ái không đi kiếm củi về cho cậu sưởi.

- Thế mai Ái đi kiếm củi, nhé! Ở trên đồi sau nhà có vô số cành khô cơ mẹ ạ.

- Nhưng Ái có gánh được không?

- Được chứ!

Lúc đó trong lò đã bén củi, đương bùng bùng cháy, tiếng nỗ lách tách, lẹt đẹt, Ái vỗ tay reo:

- Nó kêu như pháo ấy, cậu ơi!

- Ừ, pháo của cậu đấy.

Một tiếng nổ mạnh làm bắn than hồng ra ngoài, Huy bảo Ái:

- Lại cả pháo ông lệnh nữa đấy. Tết năm nay đỡ tốn tiền mua pháo nhĩ, cháu nhỉ!

Ái nũng nịu:

- Không đâu, cậu ạ, cháu thích pháo thật cơ. Pháo thật đỏ đẹp hơn chứ...

Huy trỏ than hồng bảo cháu:

- Thế pháo của cậu không đỏ là gì? Mà lại ấm nữa kia.

Ái cười quay lại gọi Mai:

- Mẹ ơi, mẹ!

Mai vẫn khâu, hỏi lại:

- Cái gì thế, con?

- Cậu bảo pháo của cậu ấm mẹ ạ.

- Thế à!... Nhưng con để cậu làm việc chứ.

Ái ngoan ngoãn tụt xuống đất. Rồi sau khi đứng nghĩ ngợi vài phút, Ái đến bàn ăn khệ nệ bê lại bên lò sưởi một cái ghế mây. Huy như hiểu cháu định làm gì, ngồi trên ngắm nghía, trong làng cảm động. Còn Mai thấy con lôi lệt sệt cái ghế thì ngửng đầu lên mắng:

- Ái nghịch quá! Có để cho cậu làm việc không?

Ái vờ không nghe rõ tiếng mẹ, cố sức ôm cao cái ghế cho chân nó khỏi chạm đất. Rồi khi đã đặt cái ghế bên lò sưởi, Ái rón rén lại gần Mai thỏ thẻ:

- Mẹ lại ngồi ghế kia mà khâu cho ấm.

Huy cất tiếng cười sung sướng. Còn Mai thì cảm động quá ôm lấy con mà hôn, nước mắt ướt cả hai bên má. Rồi nàng đứng dậy theo con lại ngồi bên bàn giấy của Huy.

Một lát sau ba người cặm cụi làm việc đến nỗi không lưu y đến tiếng chuông ở ngoài cổng.

Ông Hạnh chạy ra hỏi:

- Ai?

Người đứng ngoài ghé vào cổng nói khẽ:

- Se sẽ chứ ông.

- Nhưng ai đấy mới được chứ?

- Tôi, tôi là ông huyện Lộc, đến đây lúc ban chiều ấy mà.

- Ã ông tham... ông huyện!

Vội vàng, ông Hạnh mở khóa. Lộc lại nói:

- Se sẽ chứ.

Cánh cổng hé từ từ. Lộc bước vào thì thầm hỏi ông Hạnh:

- Ở trong nhà chưa có ai biết có người đến đấy chứ?

- Bẩm, hình như chưa.

- Vậy ông đừng có nói ai đến chơi nhé, cứ đề cổng đấy, một tí nữa tôi lại ra ngay.

Ông Hạnh không hiểu còn đang ngơ ngác nhìn, thì Lộc đã nhẹ nhàng rón rén bước lên thềm, và đứng dán mắt nơi khe cửa nhìn vào trong nhà.

Một bức tranh gia đình đầm ấm bỗng vẽ ra trước mắt chàng: Trong lò sưởi, ngọn lửa hồng và rung động, xây lưng lại lò sưởi, Huy ngồi bàn giấy hí hoáy viết, thỉnh thoảng lại ngừng bút ngẫm nghĩ. Đầu bàn phía trong, Mai ngồi khâu, màu trắng của mấy vuông vải mới long lanh phản chiếu ánh vàng dịu của cây đèn dầu có chụp giấu màu xanh. Đầu bàn đối diện, A;i đứng ngay lưng ra ngoài và đương đánh vần đọc truyện Tấm Cám.

Lộc nhịn thở, yên lặng như một pho tượng. Vì, trong lòng lo lắng, chàng tưởng như Mai và Huy có thể nghe rõ được những tiếng động se sẽ của chàng. Bỗng chàng giật mình; Mai vừa ngửng đầu lên đăm đăm nhìn ra chỗ chàng đứng. Chàng toan bỏ chạy thì nghe thấy Mai bảo con:

- Ái! Lấy vở ra viết đi. Mai hãy tập đọc.

Ái đương muốn khoe tài với cậu, thấy mẹ không cho phép đọc nữa thì không bằng lòng, phụng phịu nhìn Mai. Rồi nó lại cúi xuống đánh vần luôn:

- Ô kìa1 Đã bảo thôi để cậu làm việc mà!

Huy thương hại cho cháu đọc.

- Chị cứ để vậy cho cháu đọc.

- Ngày mai cậu đi dạy học thì tha hồ mà đọc.

Huy cười bảo Ái:

- Thôi cháu nên nghe lời mẹ, chóng ngoan! Đây, cậu cho quyên sổ và cái bút chì, muốn vẽ gì thì vẽ.

Một lát sau Ái hớn hở mang những công trình của mình lại khoe cậu. Huy vừa nhác trông thấy đã cất tiếng cười rộ:

- Trời ơi! cháu tôi thực là một nhà hội họa có tài. Nhưng Ái vẽ ai thế?

Ái tự phụ trả lời:

- Cháu vẽ cậu đấy.

Huy lại cười:

- Cháu vẽ đẹp quá! Mà sao tóc cậu lại đứng dựng lên thế này.

Mở sang trang sau, Huy trỏ vào một cái hình vuông bốn góc có bốn nét gạch quay ra bốn phía và hỏi Ái:

- Cái gì thế này, cháu?

- Cái bàn đấy.

Huy vừa cười vừa đưa quyển sổ cho Mai coi:

- Chị này. Ái vẽ cái bàn trông thấy đủ cá bốn chân.

Mai nhìn tranh của con cũng không sao nhịn cười được. Ái cho là mẹ và cậu không phục tài mình liền tìm ra một cách để tỏ rằng mình vẽ không sai. Nó chạy chung quanh bàn, cất tiếng đếm thực to số chân rồi bảo Huy:

- Chả bốn chân là gì, đấy nhé.

Mai cầm quyền sổ mở lật lại trang trên. Nhìn hình Huy với cái đầu tròn như quả bóng và hai bàn tay to nghêu ngao những ngón dài, nàng cười như nắc nẻ bảo Huy:

- Ái vẽ em giống như hệt. Mà đẹp trai quá.

Ái tưởng Mai khen thực, lấy làm đắc chí hỏi:

- Mẹ đưa sách cho con, để con vẽ cả ảnh của con nữa.

- Nhưng anh thợ vẽ hãy xuống nhà bảo ông Hạnh lấy thêm củi lên đã, trong lò than đã gần tàn mà mẹ với cậu rét lắm.

Ái vâng lời xuống nhà bếp. Song tìm ông Hạnh không thấy đâu, nó lại lên nhà.

Mai hỏi:

- Thế nào? Sao con lại lên tay không?

- Ái không thấy ông Hạnh đâu cả.

Trong khi ấy, người lão bộc vẫn đừng chờ Lộc ra đề đóng cổng. Nghe tiếng Ái gọi, ông ta liền vội vàng đóng sập cánh cửa lại và lách tách gài then, rồi chạy vào.

Mai hỏi:

- Đêm tối ông còn mở cổng đi đâu thế?

Ông lão ấp úng:

- Không.

Nhưng ông ta tính tình chất phác, không biết nói dối nên cử chỉ và ngôn ngữ không được tự nhiên.

- Có điều gì mà ông phải giấu giếm thế?

Ông lão càng lúng túng, đứng nghĩ ngợi một lát rồi nói:

- Không, tôi có đi đâu làm gì... Tôi mở cổng cho ông...

Mai hỏi:

- Ông nào?

- Ông.. ông tham... ông huyện.

Huy đương viết nghe nói đến ông huyện liền ngửng lên hỏi:

- Ông huyện Lộc phải không?

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách