|
Chương 3
Nửa giờ đồng hồ sau màn kịch mà chúng tôi vừa mô tả, cũng vẫn cánh cửa sổ đó của lữ quán nhà Biscarros mà ban nãy đã đóng sập lại một cách đột ngột, đang từ từ thận trọng hé ra và nơi bệ cửa hiện ra sau khi đã cẩn thận nhìn sang phải sang trái, một cậu thiếu niên độ mười sáu hoặc mười tám tuổi, ăn mặc toàn đen, với bên trong là một chiếc áo sơ mi trắng muốt viền đăng ten diêm dúa theo đúng mốt mới nhất của thời bấy giờ. Một bàn tay nhỏ nhắn, thanh lịch, mũm mĩm, một bàn tay quý phái chính hiệu, đang vò nát một cách nóng nảy cặp găng tay da hươu có những đường thêu, chiếc mũ phớt màu xám bạc, với một cọng lông màu xanh đẹp mắt, che khuất mái tóc dài và lóng lánh vàng bao phủ thật tuyệt vời một khuôn mặt trái soan trắng ngần với đôi môi hồng và hai hàng lông mày sẫm màu. Nhưng, cần phải nói thêm rằng tất cả vẻ duyên dáng đó lẽ ra sẽ khiến cho chàng thiếu niên trở nên một kỵ sĩ thanh lịch nhất lại bị u ám đi bởi một vẻ cau có mà nguyên nhân có lẽ do sự chờ đợi kéo dài vô hiệu, bởi vì chàng ta cứ mở to mắt dõi theo con đường đang bắt đầu chìm trong sương chiều.
Trong lúc nóng nảy, chàng thiếu niên đập mạnh cặp găng tay lên bàn tay trái. Nghe tiếng động đó, ông chủ quán đang sắp vặt lông xong ngẩng đầu lên và giở nón ra:
- Thưa ngài, ngài sẽ dùng bữa vào lúc mấy giờ ạ? Chúng tôi chỉ còn chờ ngài cho lệnh để dọn lên thôi.
- Ông cũng biết là tôi không dùng bữa một mình và tôi đang chờ một người. - Chàng thiếu niên nói - Chừng nào ông thấy người đó đến thì có thể dọn các món ăn lên.
- Ôi, thưa ngài! - Mét Biscarros trả lời - Tôi thật không dám chê trách gì người bạn của ngài vì người đó có quyền muốn đến hoặc không, nhưng bắt người khác chờ đợi như thế thật là một thói quen không được hay lắm.
- Mà đúng là người ấy đâu có thói quen đó, nên tôi rất ngạc nhiên vì sự chậm trễ này.
- Tôi không chỉ ngạc nhiên thôi, thưa ngài, tôi rất lấy làm buồn phiền, món gà quay sẽ bị cháy mất thôi.
- Thì lấy nó ra khỏi lò.
- Nếu vậy thì nó sẽ nguội đi.
- Cho một con khác vào lò.
- Thì nó sẽ không chín kịp mất.
- Thế thì ông bạn à, xin ông cứ làm theo như ý ông. - Chàng thiếu niên nói và dù đang bực bội cũng phải buồn cười trước vẻ tuyệt vọng của chủ quán - Tôi hoàn toàn tin tưởng vào sự khôn ngoan của ông.
- Không có sự khôn ngoan nào, dù là của đức vua Solomon đi nữa, có thể làm cho một bữa ăn đã hâm đi hâm lại mà ngon miệng được.
Khi đã thốt lên định luật bất di bất dịch đó, mà sau này Boilau sẽ viết nên cả một bài thơ, mét Biscarros trở vào quán, vừa đi vừa đau khổ lắc đầu.
Và chàng thiếu niên, như để quên đi sự chờ đợi, quay vào phòng, gõ ủng lên sàn nhà một hồi. Kế đó, nghe văng vẳng đằng xa như có tiếng vó ngựa, chàng vội quay lại cửa sổ.
- Chà! Ông ấy đây rồi! May quá!
Quả vậy, từ nơi bụi cây có con chim họa mi đang hót mà những nốt nhạc réo rắt không lôi cuốn nổi chàng thiếu niên có lẽ vì sự chờ đợi kéo dài, chàng thấy cái đầu của một kỵ sĩ, nhưng ngạc nhiên thay chàng hoài công khi đợi người này hiện ra trên con đường: Kẻ mới đến rẽ qua bên phải, ẩn vào bụi rậm và chỏm mũ tụt xuống, chứng tỏ người kỵ sĩ vừa đặt chân xuống đất. Một lát sau, chàng thiếu niên thoáng thấy, qua những cành lá được cẩn thận gạt sang một bên, một chiếc áo choàng xám và ánh phản chiếu dưới nắng chiều của một nòng súng dài.
Chàng thiếu niên đứng lặng bên cửa sổ. Rõ ràng là người kỵ sĩ ẩn nấp trong bụi rậm kia không phải là người mà cah`ng chờ đợi và nét nóng nảy trên khuôn mặt linh hoạt nhường chỗ cho vẻ tò mò.
Chẳng bao lâu, một cái mũ khác lại hiện ra nơi khúc quanh đường, chàng thiếu niên nấp qua một bên để không bị lộ diện.
Cũng vẫn chiếc áo choàng xám, vẫn thao tác đó,vẫn nòng súng bóng loáng kia, người mới đến nói vài câu với người thứ nhất mà chàng thiếu niên nghe không rõ vì khoảng cách khá xa, và sau vài lời dặn dò mà người bạn đưa ra, người thứ hai cũng đâm vào bụi cây kế cận, xuống ngựa nấp sau một tảng đá và chờ đợi.
Từ nơi ẩn hiện trên cao của mình, chàng thiếu niên trông thấy cái mũ phớt bên tảng đá. Bên cạnh cái mũ sáng lên ánh thép của nóng khẩu súng dài.
Một cảm giác hoảng sợ mơ hồ xâm chiếm tâm trí chàng thiếu niên khi nhìn thấy cảnh đó và chàng cố gắng lùi sâu vào tường.
"Chà, chà" - Chàng tự nhủ - "Có phải vì ta và vì một ngàn đồng Louis (Louis: Đồng vàng có giá trị bằng 20 quan) mà ta mang theo mà họ đã hành động như vậy chăng? Nhưng mà không, bởi vì giả sử như Richon có đến và tối nay ta có thể lên đường, thì ta sẽ đi Libourne chứ có đi Saint André de Cubzac đâu, bởi vậy ta sẽ không đi ngang qua chỗ mà mấy tên láo lếu ấy đang ẩn nấp. Phải chi có lão Pompéc ở đây, ta sẽ hỏi ý kiến lão. Nhưng mà, ta có lầm không nhỉ, lại thêm hai tên nữa. Chà! Đây có vẻ như một cái bẫy vậy".
Và chàng thiếu niên lại lùi sâu vào thêm một bước.
Quả thật, ngay khi đó hai người kỵ sĩ khác hiện ra nơi khúc quanh của con đường, nhưng lần này, chỉ có một trong hai người vận áo choàng xám. Người kia, cưỡi trên một con ngựa cao lớn đen tuyền và trùm kín trong một chiếc áo choàng rộng, đội một chiếc mũ phớt có viền được tô điểm bằng một cộng lông trắng, và dưới chiếc áo choàng thỉnh thoảng bay tung lên bởI làn gió chiều, ẩn hiện những đường thêu thêm diêm dúa của một chiếc áo chẽn màu đỏ tươi.
Có thể nói đó là ánh chiều tà kéo dài để rọi sáng cảnh tượng đó bởi vì những tia nắng cuối cùng lan ra từ sau những áng mây đen nơi chân trời bỗng lóe sáng lên như muôn ngàn viên hồng ngọc trên những ô cửa kính của một ngôi nhà xinh xắn nằm cạnh con sông khoảng một trăm bước chân, nếu không như vậy chàng thiếu niên sẽ không nhìn thấy ngôi nhà đó vì nó nằm khuất giữa các tán lá của những thân cây lớn. Ánh sáng đó cho thấy rằng, trước hết ánh mắt của mấy tên do thám chuyển từ ngõ vào làng qua căn nhà đó, sau nữa là mấy chiếc áo choàng xám tỏ ra rất kính cẩn với chiếc mũ có lông trắng và cuối cùng là qua một trong mấy khung cửa sổ vừa được mở toang, một người phụ nữ bước ra bao lơn, cúi xuống một lát như chính mình đang chờ đợi ai đó rồi vội quay vào như sợ bị bắt gặp.
Ngay sau khi người phụ nữ quay trở vào, mặt trời hạ thấp xuống sau đỉnh núi và càng xuống thấp, tầng trệt ngôi nhà chìm dần trong bóng tối, ánh sáng rời các cửa sổ chuyển lên mái ngói cuối cùng biến hẳn sau khi một lần cuối cùng, vẽ lên một chùm ánh sáng vàng chóe.
Đối với một đầu óc thông minh thì từng đó cũng đủ chứng cớ để dựng lên, nếu không phải là những điều xác thực thì cũng là những nghi vấn.
Rất có thể là những người này đang canh chừng ngôi nhà nhỏ hẻo lánh nơi người đàn bà vừa hiện ra ở bao lơn trong chốc lát. Cũng rất có thể là người phụ nữ và những người đàn ông kia cùng chờ đợi một người nào đó, nhưng với những ý định hoàn toàn khác hẳn nhau. Và cũng rất có thể là người đang được chờ đợi kia sẽ đến từ ngõ vào làng, do đó sẽ phải đi ngang qua trước lữ quán vì quán này nằm giữa làng và lùm cây um tùm kia cũng như lùm cây um tùm kia lại nằm giữa lữ quán và ngôi nhà trọ. Cuối cùng, cũng rất có thể là người kỵ sĩ với mũ gắn lông trắng là người chỉ huy mấy chiếc áo choàng xám. Và qua cử chỉ nóng nảy của người này khi rướn mình trên yên ngựa để nhìn được xa hơn có thể hiểu rằng người chỉ huy này đang ghen tức và chắc chắn là rình rập vì lý do riêng.
Ngay khi chàng thiếu niên vừa chấm dứt chuỗi lập luận đó, cánh cửa phòng của chàng mở ra và mét Biscarros bước vào.
- Chủ quán à! - Chàng thiếu niên nói mà không để cho kẻ mới bước vào phòng một cách tùy tiện trình bày lý do của lão, lý do mà chàng trai đã biết rất rõ - Hãy đến đây và nói cho tôi biết, nếu câu hỏi của tôi không phải là thiếu kín đáo, ngôi nhà thấp thoáng đằng xa kia như một chấm trắng giữa những cây liễu và bạch dương là của ai vậy?
Ông chủ quán nhìn theo hướng tay chỉ và đưa tay gãi trán:
- Nói cho đúng, khi thì của người này, lúc của người kia. - Ông ta trả lời với một nụ cười cố tỏ vẻ châm biếm - Nó là của ngài nếu ngài có một lý do nào đó để tìm kiếm cảnh cô tịch, hoặc là ngài muốn tránh né sự tò mò của kẻ khác, hoặc giản dị là ngài muốn che dấu ai đó.
Chàng thiếu niên đỏ mặt:
- Nhưng hôm nay thì ai ở trong ngôi nhà ấy?
- Một phu nhân trẻ tự cho mình là bà góa, mà bóng ma của người chồng đầu tiên, có lẽ của cả người chồng kế thỉnh thoảng vẫn trở về thăm viếng. Nhưng phải ghi nhận một điều này: Đúng là cả hai bóng ma đã có thỏa thuận với nhau nên không bao giờ trở về cùng một lúc.
- Bà góa xinh đẹp ấy - Chàng thiếu niên mỉm cười hỏi tiếp - đến ngụ trong nhà lắm bóng ma từ bao giờ vậy?
- Khoảng độ hai tháng nay. Vả lại, bà ta tỏ ra rất kiêu kỳ. Hai tháng qua, chẳng ai dám tự nhận là được thấy mặt bà ta: Bởi vì rất hiếm khi bà ta ra ngoài mà nếu có đi đâu cũng che kín mặt. Mỗi buổi sáng, một cô hầu khá xinh đến tôi đặt các bữa ăn cho ngày. Người của tôi mang đến: Người hầu nhận nơi phòng ngoài, thanh toán rất rộng rãi và đóng cửa ngay trước mũi thằng nhỏ. Như tối nay chẳng hạn, ở đấy có đãi đằng, và chính vì thế mà tôi vặt lông mấy con chim đa đa và chim cút mà ngài thấy đấy.
- Bà ta đãi ai vậy?
- Có lẽ là đãi một trong hai bóng ma mà tôi vừa kể với ngài.
- Ông có bao giờ thấy mấy bóng ma đó chưa?
- Có đấy, nhưng chỉ vào buổi tối, khi mặt trời đã lặn và sáng sớm khi ngày chưa đến.
- Ông Biscarros thân mến à, ngay từ câu đầu tiên, có thể thấy ông là một người có mắt quan sát. Sao ông không nhìn thấy gì đặc biệt trong cung cách của hai bóng ma đó à?
- Bóng thứ nhất của một một người đàn ông tuổi từ sáu mươi đến sáu mươi lăm, và có vẻ như là bóng ma của ông chồng trước, bởi vì nó đến như một kẻ vững tin vào quyền lực của mình. Bóng kia là của một chàng trai trẻ độ hai mươi sáu đến hai mươi tám tuổi, và cái bóng này tôi phải nói thêm là nó rụt rè hơn, cứ như là một cô hồn lang thang. Bởi vậy tôi chắc đây là người chồng kế.
- Còn hôm nay ông được lệnh mang bữa ăn tối đến vào lúc mấy giờ?
- Tám giờ.
- Bây giờ đã là bảy giờ ba mươi. - Chàng thiếu niên nói sau khi lôi từ từ trong túi ra một chiếc đồng hồ khá xinh xắn mà chàng vẫn chốc chốc coi giờ - Ông coi chừng trễ đấy!
- Ồ! Xin ngài đừng lo, nó sẽ được chuẩn bị kịp giờ, có điều tôi lên để hỏi vì tôi muốn nói rằng tôi vừa chuẩn bị một món khác. Bởi vậy, vì ông bạn của ngài đến quá trễ, bây giờ phải làm sao để ông ta đến sau một giờ nữa.
- Hãy nghe tôi đây, chủ quán à! - Chàng thiếu niên nói với vẻ mặt của người cho bữa ăn chỉ là một vấn đề thứ yếu, ông đừng lo lắng gì về bữa ăn của chúng tôi cả. Dù cho người bạn của tôi có đến đi nữa thì chúng tôi sẽ phải trò chuyện với nhau. Nếu các món ăn chưa chuẩn bị kịp thì chúng tôi sẽ nói chuyện trước, còn nếu đã có sẵn thì chúng tôi sẽ trò chuyện sau vậy.
- Quả thật, thưa ngài! - Ông chủ quán nói - Ngài thật là một người dễ chịu và bởi vì ngài đặt hoàn toàn tin tưởng vào tôi nên xin ngài cứ yên tâm, ngài sẽ được hài lòng.
Nói xong, mét Biscarros cúi chào thật sâu và được chàng thiếu niên đáp lại bằng một cử chỉ gật đầu nhẹ, rồi lão đi ra.
"Bây giờ" - Chàng thiếu niên tự nhủ khi quay lại với chỗ quan sát của mình bên cửa sổ - "Thì mình hiểu cả rồi. Bà phu nhân đang chờ đợi ai đó sẽ từ Libourne đến, còn những người nấp trong bụi rậm thì có có ý định gặp người khách trước khi chàng ta đến gõ cửa ngôi nhà".
Cũng ngay khi đó, như để chứng minh những dự đoán của chàng, tiếng vó ngựa vang lên từ phía bên trái. Nhanh như tia chớp, ánh mắt của chàng phóng vào bụi rậm để quan sát thái độ của những người đang ẩn nấp. Dù bóng đêm đã bắt đầu làm nhòa đi mọi vật, chàng trông thấy như kẻ thù vạch các cành cây, kẻ thì nhổm người lên để nhìn qua các tảng đá, những người ẩn nấp chuẩn bị một tư thế trông hoàn toàn giống như một cuộc tấn công. Ngay khi đó, một tiếng động khô khốc, như tiếng đạn lắp vào ổ súng, ba lần vang lên bên tai chàng và làm chàng run lên. Thế là chàng vội quay về hướng Libourne, cố gắng nhìn cho rõ kẻ đang bị đe dọa bởi những tiếng động chết chóc ấy và thấy trên một con ngựa tuyệt đẹp đang phi nước kiệu, hiện ra một chàng trai rất đẹp, vẻ mặt hớn hở với chiếc áo choàng ngắn có lót satin trắng để hở một cách duyên dáng bên vai phải. Từ xa, khuôn mặt trông thật lịch sự, đầy thơ mộng và mang một vẻ kiêu hãnh vui tươi. Nhìn gần thì đấy là một khuôn mặt với những đường nét thanh tú, vẻ mặt linh hoạt, ánh mắt cuồng nhiệt, với cái miệng hé mở vì thói quen tươi cười, một hàng ria đen duyên dáng và hàm răng đều đặn, trắng bóc.
Đằng sau chàng khoảng năm mươi bước, trên lưng một con ngựa được bắt nhịp theo bước chân ngựa của chủ là một tên người hầu khá hợm hĩnh, có vẻ như thuộc vào hàng đầy tớ cũng không kém phần quý phái như chủ của hắn giữa đám các nhà quý tộc.
Chàng thiếu niên bảnh trai đứng nơi cửa sổ của lữ quán, có lẽ còn quá trẻ để có thể lạnh lùng chứng kiến một cảnh tượng như kiểu chàng biết chắc sẽ nhìn thấy, nên không thể nào không rùng mình khi nghĩ rằng hai con người đang tiến tới, đầy vô tư và tin tưởng kia, sẽ không còn nghi ngờ gì nữa, rơi vào cái bẫy đang dành cho họ. Dường như trong chàng đang diễn ra một sự đấu tranh rất nhanh giữa tánh rụt rè của tuổi thơ và tình yêu đối với đồng loại. Cuối cùng thì lòng tốt chiến thắng và khi chàng kỵ sĩ sắp đi ngang qua cửa lữ quán mà cũng chẳng thèm liếc mắt vào, chàng thiếu niên, tuân theo một nhiệt tình đột ngột và một quyết định dứt khoát liền chồm mình đến trước và gọi người lữ khách xinh đẹp:
- Này ông ơi! - Chàng thiếu niên kêu lên - Dừng lại đi, tôi có điều quan trọng muốn nói với ông.
Nghe tiếng gọi và những câu nói đó, chàng thanh niên ngẩng đầu lên, bắt gặp cậu thiếu niên nơi cửa sổ liền giựt dây cương cho ngựa dừng lại.
- Ông không nên dừng ngựa lại. - Cậu thiếu niên lại nói tiếp - Trái lại, hãy đến gần tôi một cách tự nhiên và làm ra vẻ như ông có quen với tôi.
Người mới đến hơi do dự, nhưng khi thấy rằng mình đang giao tiếp với một người quý phái có phong cách và bộ mặt dễ mến nên giơ mũ cầm tay và mỉm cười tiến đến:
- Xin tuân theo lời anh bạn, tôi có thể giúp gì cho bạn được?
- Ông hãy đến gần hơn nữa! - Người đứng nơi cửa sổ lại nói - Bởi vì những gì tôi sắp nói đây không thể lớn tiếng được. Xin ông hãy đội mũ lên để mọi người nghĩ rằng chúng ta có quen biết với nhau từ lâu, và chính tôi là người mà ông đến đây để tìm gặp.
- Nhưng tôi chẳng hiểu gì cả.
- Rồi ông sẽ hiểu. Tạm thời hãy đội mũ lên đi, được rồi, hãy đến gần đây hơn, gần hơn, gần hơn nữa, đưa tay cho tôi, đấy! Rất hân hạnh được gặp ông! Bây giờ hãy nghe tôi nói, đừng đi xa hơn lữ quán này nếu không ông sẽ mất mạng.
- Có chuyện gì vậy? Anh bạn làm cho tôi sợ quá! - Chàng kỵ sĩ mỉm cười.
- Có phải ông muốn nói đến ngôi nhà nhỏ đằng kia, nơi có ánh đèn đấy không? - Người kỵ sĩ phác một cử chỉ.
- Nhưng trên đường từ đây đến đó, nơi khúc quanh, kế bên lùm cây um tùm đằng kia, có bốn người đang nấp chờ ông đấy.
- Thế sao! - Người kỵ sĩ kêu lên, mở to mắt nhìn cậu thiếu niên - Thật ư? Anh bạn chắc chứ?
- Tôi đã thấy họ lần lượt đến, kẻ sau người trước, xuống ngựa nấp sau những thân cây, và những tảng đá. Hồi nãy khi ông từ làng hiện ra, tôi có nghe thấy họ nạp đạn vào súng.
- Được lắm! - Chàng kỵ sĩ đã bắt đầu kinh hoảng.
- Vâng, thưa ông, đúng như tôi vừa nói, và nếu trời sáng sủa hơn, ông có thể nhìn thấy và nhận ra họ.
- Ồ, tôi không cần phải nhìn mặt họ, tôi biết rõ đấy là những ai. Nhưng còn anh làm sao biết được tôi đang đi đến ngôi nhà đó và chính tôi là kẻ mà người ta đang chờ đợi?
- Tôi đoán như vậy.
- Anh bạn thật tử tế, cám ơn nhiều lắm. À! Thì ra họ muốn cho tôi ăn đạn, mà họ có bao nhiêu người tất cả nhỉ?
- Bốn trong đó có một là người chỉ huy.
- Người chỉ huy đó lớn tuổi hơn mấy người kia, đúng không?
- Vâng, theo như mắt của tôi nhìn thấy từ đây.
- Lưng hơi khòm?
- Vai rộng, lông mũ trắng, áo chẽn thêu, áo khoác sẫm cử chỉ hiếm hoi nhưng đầy uy quyền.
- Đúng rồi, đó là công tước D'Epernon.
- Công tước D'Epernon! - Cậu thiếu niên kêu lên.
- À! Bây giờ thì anh bạn biết chuyện riêng tư của tôi rồi. - Người khách mới đến cười nói - Tôi chưa bao giờ tiết lộ những chuyện như vậy, nhưng anh bạn đã giúp tôi một việc rất lớn nên tôi không phải e dè với anh. Mà những người đi theo ông ta họ ăn mặc như thế nào?
- Áo khoác lính màu xám.
- Đúng rồi, đó là những tên vẫn theo hầu lão ta.
- Nhưng hôm nay họ có mang theo súng.
- Để tiếp đón tôi đấy mà, tôi thật lấy làm hân hạnh! Bây giờ thì anh bạn có biết anh bạn phải làm gì không?
- Không, nhưng xin ông cứ cho biết ý kiến, và nếu có thể giúp ích được cho ông điều gì, thì tôi rất sẵn lòng.
- Anh có mang vũ khí chứ?
- À, tôi có một thanh gươm.
- Anh có người hầu không?
- Có chứ! Nhưng lão ta không có ở đây, tôi đã sai lão đi đón người mà tôi đang chờ đợi.
- Nếu vậy thì anh bạn cần phải giúp tôi một tay.
- Để làm gì?
- Để đánh úp mấy tên khốn kiếp đó, và bắt bọn chúng cùng với tên chỉ huy phải van xin chúng ta tha mạng.
- Ông có điên không? - Chàng thiếu niên kêu lên, chứng tỏ rằng cậu không một chút nào sẵn lòng trước một hành động như vậy.
- Tôi xin lỗi anh bạn! - Người kia nói - Tôi quên rằng đây không phải là việc của anh.
Rồi quay về phía tên người hầu đã dừng lại cách đó một khoảng cách:
- Castorin, lại đây!
Cùng một lúc chàng ta đưa tay sờ đến bao súng nơi yên ngựa để biết rằng những khẩu súng vẫn nguyên vẹn.
- Ôi, thưa ông! - Chàng thiếu niên kêu lên vừa đưa tay ra như để cản chàng trai lại - Tôi van ông, không nên liều mạng mình vì chuyện như vậy! Tốt hơn cả là nên vào quán để đừng gây nghi ngờ cho những kẻ đang chờ đợi ông, hãy nghĩ đến danh dự của một người phụ nữ.
- Anh bạn có lý. - Người kỵ sĩ nói - Dù rằng trong trường hợp này vấn đề không phải là danh dự mà là tài sản. Này Castorin! - Chàng ta nói tiếp vừa quay về phía tên hầu - Tạm thời chúng ta không đi xa hơn đây nữa.
- Sao? - Castorin kêu lên, cũng thất vọng không thua gì chủ - Ngài nói gì kia?
- Tôi nói là tối nay cô Francinette sẽ mất niềm vui được gặp cậu, vì chúng ta sẽ ngủ lại đêm ở lữ quán Con Bê Vàng. Vào đi và bảo chủ quán chuẩn bị cho ta một bữa ăn tối cùng một cái giường.
Và có lẽ vì chàng ta thấy rằng Castorin đang toan phản đối, chàng kèm theo những lời nói cuối cùng đó một cái hất đầu tỏ ý không muốn bàn cãi thêm.
Thế là Castorin biến mất sau cánh cửa rộng, tai cụp xuống và không dám nói thêm một lời nào nữa cả.
Người mới đến nhìn theo Castorin một lát, sau một lúc nghĩ ngợi, chàng ta có vẻ như đã quyết định, đặt chân xuống đất, cùng đi vào nhà sau tên người hầu, sau khi đã ném dây cương lên cánh tay hắn, và chỉ với hai bước nhảy, đã lên đến phòng chàng thiếu niên. Cậu này khi thấy cánh cửa phòng mình bật mở, buông ra một cử chỉ kinh ngạc pha lẫn sợ sệt, mà người mới đến vì bóng tối, nên không thể thấy được.
- Rõ ràng rồi nhé! - Người mới đến vui vẻ bước lại gần chàng thiếu niên và thân mật siết bàn tay của chàng - Anh bạn đã cứu sống tôi đấy!
- Ồ, thưa ông, ông quá lời đấy thôi! - Chàng nói, vừa lùi lại một bước.
- Không, xin đừng khiêm tốn như vậy, đúng như tôi đã vừa nói mà, tôi biết rõ ngài công tước, lão ta rất tàn bạo. Còn anh bạn, anh bạn đúng là một kiểu mẫu về đức tính sáng suốt và lòng tốt. Nhưng xin cho tôi hỏi, vốn tử tế và đầy lòng trắc ẩn như vậy, anh bạn có ý nhắn giùm những người trong nhà kia chưa?
- Nhà nào?
- Thì nhà, nơi mà tôi đang muốn đến! Ở đấy người ta đang đợi tôi.
- Không. - Chàng thiếu niên nói - Tôi không nghĩ đến điều đó, xin thú thật như vậy. Mà có nghĩ đến đi nữa thì cũng không có cách nào đến được. Tôi vừa mới đến đây được hai tiếng đồng hồ, và chẳng quen biết ai trong ngôi nhà đó.
- Chà! Quái quỷ thật! - Người khách nói với cử chỉ lo âu - Tội nghiệp cho Nanon! Cầu mong đừng xảy ra chuyện gì với nàng.
- Nanon à? Nanon de Lartigues! - Chàng thiếu niên sửng sốt kêu lên.
- Ái chà! Anh bạn đúng là một tên phù thủy! Anh bạn thấy có người đến nấp sau bụi rậm và anh bạn đoán ngay được bọn họ muốn gì, tôi nói ra một cái tên và anh bạn đoán được cả họ. Nào, phải giải thích nhanh cho tôi rõ nếu không tôi sẽ tố cáo anh bạn, sẽ cho anh bạn lên giàn hỏa thiêu của chính quyền tỉnh Bordesux đấy.
- À, lần này thì chắc ông cũng đồng ý với tôi. - Chàng thiếu niên lại nói, rằng chẳng phải khôn ngoan gì cho lắm để tìm ra tung tích người đó. Ông đã nêu danh ngài công tước D'Epernon như tình địch của ông, thì rõ ràng là ông có nói ra một cái tên Nanon nào đó, thì chỉ có thể là Nanon de Lartigues thật đẹp, thật giàu, thật khôn ngoan như mọi người thường nói, người mà công tước D'Epernon đang mê mệt và đang cai trị trong chánh quyền của ông ấy, khiến cho trong toàn vùng Guyennes bà ấy căm ghét không khác gì ông ta. Mà ông lại đến nhà người đàn bà đó à? - Chàng thiếu niên nói tiếp với giọng trách móc.
- Vâng, xin thú thật điều này, và bởi vì tôi đã nói ra cái tên đó, nên tôi sẽ không chối cãi. Vả lại, Nanon đã bị vu khống và không ai hiểu rõ cô ấy đâu. Đó là một phụ nữ rất dễ mến, luôn luôn trung thành với lời hứa của mình chừng nào cô ấy còn muốn giữ nó, và luôn luôn tận tụy với người yêu, nhưng khi cô ấy còn yêu. Tối nay tôi sẽ dùng bữa với cô ấy, nhưng ngài công tước lại về phá đám. Anh bạn có muốn tôi giới thiệu anh với cô ấy không? Quỷ thật! Dẫu sao thì lão công tước lúc này hay lúc khác, cũng phải trở về Agen thôi!
- Cám ơn. - Chàng thiếu niên đáp lại với giọng cộc lốc - Tôi chỉ mới được biết tên cô De Lartigues và thấy không cần thiết phải biết mặt.
- Chà anh bạn nghĩ sai rồi đó!
- Tôi chỉ đi ngang qua đây - Cậu nói - và đêm nay buộc phải lên đường rồi.
- Ồ! Nhưng mà anh bạn sẽ không ra đi trước khi tôi được hân hạnh biết người đã cứu mạng tôi là ai.
Chàng thiếu niên có vẻ do dự, và một lát sau nói:
- Tôi là tử tước De Cambes.
|
|