Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 7536|Trả lời: 166
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Kẻ Mạo Danh | Jeffrey Archer (Hoàn + Ebook)

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
KẺ MẠO DANH


Tên tác phẩm: Kẻ Mạo Danh
Tác giả: Jeffrey Archer
Dịch giả: Nhiều dịch giả
Độ dài: 78 chương + Phi lộ
Thể loại: Tiểu thuyết, trinh thám, hình sự
Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành
Nguồn: http://vnthuquan.net/truyen/truy ... 343tq83a3q3m3237nvn
Nhà xuất bản: NXB Văn học & Phương Đông
Ngày xuất bản: 1/2011
Giới thiệu sơ lược: … Đó là buổi tối hạnh phúc nhất trong cuộc đời Danny vì nhận được lời đáp “vâng” ngọt ngào của người yêu khi anh quỳ gối cầu hôn nàng giữa một nhà hàng đầy lãng mạn. Và buổi tối đó cũng đánh dấu bước ngoặt lớn cho số phận của Danny. Anh cùng Beth, vị hôn thê tương lai rời nhà hàng và đến quán bar Dunlop Arms để gặp Bernie, anh trai của Beth, cũng là bạn thân từ thuở thiếu thời của Danny. Cuộc hội ngộ đầy vui mừng của họ bị gián đoạn vì sự “xía mũi” trêu chọc của những kẻ hợm hĩnh trong quán bar và xô xát xảy ra… Bernie bị đâm chết, còn Danny trở thành nghi can của vụ án, hung thủ giết người.
Từ một người vô tội, giờ Danny trở thành kẻ vượt ngục - “kẻ mạo danh”, trong mắt người khác, anh chẳng khác một kẻ ăn cắp, tên lừa đảo khi lợi dụng danh phận của Nick để tiến thân, trở nên giàu có… Họ đâu biết đằng sau sự mạo danh này, Danny đã phải đấu tranh, day dứt và phấn đấu như thế nào. Liệu rằng hành trình đầy mạo hiểm và gian nan của Danny có kết thúc tốt đẹp? Liệu rằng tội lỗi của những kẻ hỡm hĩnh kia: Spencer Craig - luật sư, Gerald Payne - quản lý tư vấn địa ốc, Lawrence Davenport - ngôi sao phim truyền hình có bị phơi bày trước ánh sáng?...

Mục lục

PHI LỘ
Chương 1 Chương 2 Chương 3
Chương 4 Chương 5 Chương 6
Chương 7 Chương 8 Chương 9
Chương 10 Chương 11 Chương 12
Chương 13 Chương 14 Chương 15
Chương 16 Chương 17 Chương 18
Chương 19 Chương 20 Chương 21
Chương 22 Chương 23 Chương 24
Chương 25 Chương 26 Chương 27
Chương 28 Chương 29 Chương 30
Chương 31 Chương 32 Chương 33
Chương 34 Chương 35 Chương 36
Chương 37 Chương 38 Chương 39
Chương 40 Chương 41 Chương 42
Chương 43 Chương 44 Chương 45
Chương 46 Chương 47 Chương 48
Chương 49 Chương 50 Chương 51
Chương 52 Chương 53 Chương 54
Chương 55 Chương 56 Chương 57
Chương 58 Chương 59 Chương 60
Chương 61 Chương 62 Chương 63
Chương 64 Chương 65 Chương 66
Chương 67 Chương 68 Chương 69
Chương 70 Chương 71 Chương 72
Chương 73 Chương 74 Chương 75
Chương 76 Chương 77 Chương 78
HẾT
Download Ebook

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 26-1-2014 11:49:11 | Chỉ xem của tác giả
PHI LỘ

“Vâng,” Beth nói.

Nàng cố tỏ ra ngạc nhiên, nhưng rõ là nàng đã quyết định hai người sẽ kết hôn từ hồi còn ở trung học. Tuy nhiên, nàng thực sự kinh ngạc khi Danny quỳ một chân xuống giữa đám đông, ngay trong nhà hàng.

“Vâng,” Beth lặp lại, hi vọng rằng anh sẽ đứng dậy trước khi mọi người trong phòng dừng ăn và quay lại nhìn chằm chằm vào hai người. Nhưng anh không hề nhúc nhích. Danny vẫn quỳ nguyên đó và như một nhà ảo thuật, chẳng biết lôi ở đâu ra chiếc hộp nhỏ. Anh mở nó, để lộ ra một chiếc nhẫn vàng mỏng, đơn giản, có đính viên kim cương lớn hơn nhiều so với mong đợi của Beth - mặc dù anh trai nàng đã nói rằng Danny phải tốn vào đó những hai tháng lương.

Cuối cùng thì Danny cũng đứng dậy, nhưng anh lại làm nàng ngạc nhiên thêm lần nữa, bằng cách ngay lập tức nhấn phím điện thoại di động. Beth biết rõ ai đang sẽ ở đầu dây bên kia.

“Nàng đã nói vâng!” Danny phấn khích thông báo. Beth mỉm cười khi nàng để hạt kim cương dưới ánh đèn và đưa gần vào mắt. “Sao không đến đây với bọn tôi?” Danny đế thêm trước khi nàng kịp ngăn anh lại. “Rồi, gặp nhau tại quán bar cuối đường Fulham nhé - quán mà năm ngoái mình đến sau trận gặp Chelsea đó. Thế nhé, bạn hiền.”

Beth không phản đối, dù sao, Bernie không chỉ là anh trai nàng, mà còn là bạn thân nhất của Danny.

Danny cúp máy, kêu người bồi bàn đi ngang tính tiền. Viên quản lý tiến về phía họ. “Hôm nay chúng tôi mời,” ông ta nói, kèm theo một nụ cười thân thiện.

Đó là một đêm đầy bất ngờ.

° ° °

Khi Beth và Danny bước vào bar Dunlop Arms, họ đã thấy Bernie ngồi ở bàn trong góc với một chai champagne và ba cái ly.

“Tin hấp dẫn quá đi,” anh nói trước khi họ ngồi xuống.

“Cảm ơn, bạn hiền,” Danny đáp lời, bắt tay người bạn thân nhất của mình.

“Anh đã gọi cho bố mẹ rồi,” Bernie vừa nói vừa bật nút chai champagne và rót ra ly. “Bố mẹ có vẻ không nhạc nhiên lắm, nhưng đây sẽ là điều bí mật khó giữ kín nhất ở khu Bow.”

“Đừng nói với em là họ sẽ có mặt ở đây ngay bây giờ nhé,” Beth nói.

“Không đâu,” Bernie nói và nâng ly lên, “lần này thì có mỗi anh bên em thôi. Cho đời tươi và cho West Ham sẽ đoạt cúp”.

“Tốt, một trong hai thứ khả thi đó”, Danny nói.

“Nếu anh cưới được West Ham chắc anh cũng cưới nhỉ”, Beth mỉm cười với anh trai mình.

“Cưới quá đi chứ,” Bernie đáp lời.

Danny cười phá lên. “Tôi sẽ cưới cả hai suốt phần đời còn lại.”

“Ngoại trừ các chiều thứ Bảy,” Bernie nhắc nhở.

“Và anh có thể sẽ phải hi sinh một số thứ khi anh chính thức tiếp quản việc kinh doanh của bố,” Beth nói.

Danny cau mày. Anh đã gặp bố của Beth trong giờ nghỉ trưa và xin phép được kết hôn với con gái ông - một tập tục đã từ lâu không tồn tại ở Khu Đông(1). Ông Wilson đã rất vui vẻ về việc Danny trở thành con rể của mình, nhưng ông cũng cho anh biết ông đã thay đổi ý định về những việc anh nghĩ rằng họ đã đồng ý với nhau từ lâu.

“Và nếu anh nghĩ rằng tôi sẽ gọi anh là ngài khi tiếp quản công việc từ bố tôi,” Bernie nói, cắt ngang dòng suy nghĩ của anh, “thì anh nên quên điều đó đi.” Danny không phản ứng gì.

“Đó có thể là ai nhỉ?” Beth hỏi.

Danny chợt nhìn kỹ hơn bốn người đứng ở quầy bar. “Nhất định là hắn ở kia”.

“Hắn nào?” Bernie hỏi.

“Tay diễn viên đóng bác sĩ Beresford trong phim The Prescription.” (Đơn thuốc).

“Lawrence Davenport,” Beth thì thầm.

“Anh có thể sang và xin hắn chữ ký,” Bernie nói.

“Không cần,” Beth trả lời. “Dù mẹ chưa hề bỏ lỡ một tập nào”.

“Anh tưởng em hâm mộ hắn,” Bernie nói khi rót đầy cả ba ly.

“Không, em không”. Beth nói to hơn chút xíu, làm một trong bốn người ở quầy bar quay lại. “Trong bất cứ trường hợp nào,” và nàng cười với người chồng tương lai, “Danny trông ngon lành hơn Lawrence Davenport nhiều.”

“Ngồi đấy mà mơ,” Bernie nói. “Chỉ vì cậu chàng Danny cạo râu và gội đầu cho một dịp quan trọng thôi, đừng nghĩ điều này sẽ trở thành thói quen, em gái ạ. Không có cơ hội đâu. Nên nhớ rằng công việc tương lại của chồng em là ở Khu Đông, không phải trong trung tâm thành phố đâu.”

“Danny muốn thế nào thì anh ấy sẽ trở thành như thế,” Beth đáp lại, và nắm tay anh.

“Trong đầu em nghĩ gì thế? Tài phiệt hay kẻ huênh hoang?” Bernie nói và thụi khẽ vào tay Danny.

“Danny đã có kế hoạch cho garage và sẽ làm anh...”

“Suỵt”, Danny ra dấu và anh rót đầy ly của bạn mình.

“Tốt nhất là cậu ta nên có đi, bởi lấy vợ sẽ rất tốn kém đấy,” Bernie nói. “Nhân tiện, hai người định sống ở đâu?”

“Có một căn hộ ở tầng trệt, ngay góc đường này đang rao bán,” Danny trả lời.

“Nhưng hai người đã chuẩn bị đủ chưa?” Bernie gặng hỏi. “Nhà tầng trệt cũng chẳng rẻ rúng gì đâu, kể cả ở Khu Đông.”

“Bọn em đã dành dụm đủ để đặt cọc,” Beth trả lời, “và khi Danny thừa kế từ bố...”

“Vì chuyện này, phải uống đã,” Bernie ngắt lời nàng, nhưng chai rượu đã trống không. “Để anh kêu chai nữa.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 26-1-2014 11:52:57 | Chỉ xem của tác giả
“Thôi anh,” Beth cương quyết nói. “Sáng mai em phải đi làm đúng giờ, dù anh thì không.”

“Kệ chuyện đó đi,” Bernie nói. “Không phải ngày nào em gái tôi cũng đính hôn với bạn thân của tôi. Cho chai nữa!” Bernie hô to.

Tay bồi bàn mỉm cười khi lôi chai champagne thứ hai từ tủ lạnh dưới quầy lên. Một trong nhóm bốn người đứng ở quầy bar nhìn vào nhãn rượu. “Pol Roger,” gã nói, rồi vọng thêm một câu: “Toàn thứ bỏ đi.”

Bernie nhảy dựng lên, nhưng Danny ngay lập tức kéo anh ngồi xuống.

“Kệ chúng,” anh nói, “chúng không đáng ngồi có mặt ở đây.”

Tay bồi bàn đi nhanh về phía bàn của ba người. “Đừng sinh sự gì nhé, mấy bạn,” anh ta vừa nói vừa xoay cái mở nút chai. “Hôm nay là sinh nhật của một trong mấy tay đấy và nói thật là họ cũng hơi quá chén rồi.”

Beth nhìn kỹ hơn bốn người đàn ông kia trong khi anh phục vụ rót đầy ly cho họ. Một trong số đó cũng đang nhìn chằm chằm vào cô. Gã nháy mắt, mở miệng và thè lưỡi ra liếm một vòng quanh cặp môi. Beth vội quay lại, thấy Danny và anh trai mình đang nói chuyện.

“Vậy hai người định đi trăng mật ở đâu?”

“Saint Tropez,” Danny trả lời.

“Tốn nhiều tiền quá nhỉ”

“Và lần này thì anh không đi cùng đâu nhé,” Beth nói.

“Em gái này cũng đàng hoàng đấy, nhưng mở miệng ra là thấy chất “hàng họ” liền,” một giọng nói từ phía quầy bar vọng đến.

Bernie lại nhảy dựng lên, và thấy hai gã đang nhìn mình đầy thách thức.

“Họ say rồi,” Beth nói. “Kệ họ đi.”

“Ồ, tôi không biết,” một gã khác nói. “Rằng đã nhiều lần tôi rất thích cái miệng của em “hàng” mở to như vậy.”

Bernie vớ ngay lấy cái vỏ chai, và Danny phải dùng hết sức để lôi anh ngồi xuống.

“Em muốn về,” Beth nói dứt khoát. “Em không cần một đám lắm tiền hợm hĩnh làm hỏng bữa tiệc đính hôn của mình.”

Danny đứng phắt dậy, nhưng Bernie vẫn ngồi đó, uống champagne. “Nào, Bernie, hãy ra khỏi đây trước khi làm điều gì khiến mình phải hối hận,” Danny nói. Bernie miễn cưỡng đứng dậy đi theo hai người, nhưng vẫn không rời mắt khỏi bốn gã ở quầy bar. Beth cảm thấy dễ chịu hơn khi thấy họ đã quay lưng về phía mình, có vẻ như đang say sưa tán phét.

Nhưng ngay lúc Danny mở cửa sau của quán, một gã chợt quay lại. “Về à” hắn hỏi. Rồi rút ví ra và nói thêm, “Khi chú mày xong việc với em gái này thì bọn anh chắc cũng được hưởng sái để tổ chức vụ chơi tập thể đấy nhỉ?”

“Đồ cứt đái,” Bernie lên tiếng.

“Vậy sao chúng ta không ra ngoài để làm rõ vấn đề này nhỉ?”

“Rất sẵn lòng, Đầu trọc ạ”, Bernie nói và bị Danny lôi qua cửa ra ngoài con hẻm nhỏ trước khi anh kịp nói thêm điều gì khác. Beth đóng sập cửa sau lưng và bắt đầu đi bộ dọc con hẻm. Danny túm chặt chỗ khuỷu tay Bernie nhưng chỉ đi được vài bước là đã bị giật ra. “Quay lại giải quyết bọn khốn đó đã.”

“Không phải tối nay,” Danny nói, và lại túm tay Bernie kéo đi tiếp.

Khi Beth ra đến đường lớn, nàng đã thấy gã mà Bernie gọi là Đầu trọc đã đứng đó, một tay cho ra sau lưng. Gã liếc nàng một cách đểu cáng và lại liếm môi, trong khi đó, một gã khác cũng chạy ra đứng ở đó, hơi thở có phần gấp gáp. Beth quay lại nhìn anh trai mình, thấy Bernie đang đứng choãi chân, rất vững chãi. Và anh mỉm cười.

“Mình vào trong ngay,” Beth gào lên với Danny và thấy hai gã còn lại đứng chắn trước cửa sau quán bar.

“Con mẹ chúng nó,” Bernie nói. “Đến lúc dạy mấy thằng khốn này một bài học rồi.”

“Không, không”, Beth cố cưỡng lại trong khi một gã bắt đầu lao sầm sầm về phía họ.

“Anh lo thằng Đầu trọc,” Bernie nói, “còn tôi lo ba thằng kia.”

Beth lo sợ ngước lên nhìn, đúng lúc Đầu trọc tung cú đấm trúng vào một bên cằm Danny làm anh loạng choạng lùi lại. Nhưng Danny cũng đã kịp hồi lại để đỡ được cú đấm tiếp theo, làm động tác giả và tặng lại cho Đầu trọc một cú đầy bất ngờ. Gã khuỵu xuống nhưng cũng nhanh chóng đứng dậy và lại lao vào Danny.

Hai gã còn lại đứng ở cửa có vẻ không muốn nhập cuộc, và Beth cho rằng cuộc chiến khá công bằng. Nàng chỉ có thể thấy anh trai mình tung ra một cú móc hàm vào đối thủ và gần như làm gã gục ngã. Và trong khi đợi gã đứng dậy trở lại, Bernie quát Beth, “Hãy giúp bọn anh, em gái, gọi taxi đi trước đi. Vụ này sẽ không kéo dài đâu, và chúng ta cần biến khỏi đây.”

Beth quay sang phía Danny để chắc rằng anh vẫn đang chiếm ưu thế trước Đầu trọc. Gã đang nằm thẳng cẳng dưới đất, chân tay dang rộng còn Danny ngồi trên người gã, rõ ràng là làm chủ được tình hình. Nàng nhìn hai người lần cuối trước khi ngập ngừng làm theo lời anh trai. Beth chạy ra khỏi ngõ và khi tới đường lớn, nàng bắt đầu tìm taxi. Chỉ phải đợi khoảng hai phút là Beth đã thấy tín hiệu “For Hire” (đang hoạt động) màu vàng quen thuộc. Nàng vẫy xe lại, cùng lúc đó gã đàn ông bị Bernie đánh ngã lảo đảo đi qua nàng và biến vào bóng tối.

“Đi đâu, thưa cô?”, tài xế taxi hỏi.

Đường Bacon, Bow,” Beth nói. “Hai người bạn tôi sẽ ra đây ngay bây giờ,” nàng nói thêm khi mở cửa xe.

Tay tài xế liếc nhìn qua vai nang về phía con hẻm. “Tôi không nghĩ cô cần taxi, cô ạ,” anh ta nói. “Nếu họ là bạn tôi, tôi sẽ gọi xe cứu thương ngay lập tức.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 26-1-2014 16:09:36 | Chỉ xem của tác giả
Phần 1 - Toà Án

Chương 1

“Vô tội.”

Danny Cartwright có thể cảm thấy đôi chân mình run rẩy như trước hiệp thứ nhất trong một trận đấu bốc mà anh biết chắc mình sẽ thua. Viên trợ lý ghi lại những lời bào chữa trong cáo trạng rồi ngẩng lên nhìn Danny và nói, “Anh có thể ngồi.”

Danny gần như đổ xuống chiếc ghế nhỏ kê ở giữa khu vực dành cho bị cáo, nhận ra phần đầu tiên đã kết thúc. Anh ngước nhìn người chứng nhận ngồi ở phía bên kia phòng xử án, trong một chiếc ghế dựa lưng cao bọc da mau xanh tựa hình dáng tựa như ngai vàng. Trước mặt ông ta là chiếc bàn dài chất đầy các cặp giấy tờ buộc vào nhau, và một quyển sổ mở ra trang giấy trắng tinh. Ngài thẩm phán Sackville nhìn về phía Danny, nét mặt chẳng biểu hiện sự đồng tình hay phản đối. Ông đẩy cặp kính hình bán nguyệt lên khỏi sống mũi mà nói với giọng đầy quyền lực, “Mời bồi thẩm đoàn.”

Trong khi tất cả cùng chờ đợi mười hai người cả nam lẫn nữ xuất hiện, Danny cố gắng nắm bắt những dấu hiệu và âm thanh lạ lùng trong phòng xử án số bốn tại Old Bailey. Anh nhìn về phía hai người ngồi ở chỗ mà được bảo là bàn luật sư. Luật sư trẻ của anh, Alex Redmayne ngước lên và trao cho anh một nụ cười thân thiện, nhưng người nhiêu tuổi hơn ngồi ở phía bàn bên kia - mà Redmayne cho anh biết là công tố viên - thì không thèm liếc anh lấy một lần.

Danny chuyển ánh mắt về phía khu dành cho người đến tham dự phiên tòa. Bố mẹ anh ngôi ở ngay hàng ghế đầu tiên. Cánh tay vạm vỡ có xăm hình của bố anh gác lên rào chắn bằng gỗ, còn mẹ anh thì cúi đầu xuống. Thi thoảng bà mới ngước mắt lên nhìn đứa con duy nhất của mình.

Vụ xử Daniel Arthur Cartwright đã kéo dài vài tháng và cuối cùng đưa đến tòa trung tâm, tức Old Bailey. Với Danny, một khi đã vướng vào chuyện pháp luật, mọi thứ diễn ra theo nhịp độ rất chậm. Và bỗng nhiên, không hề báo trước, cánh cửa ở góc xa của phòng xử án mở ra và người gác cửa xuất hiện trở lại. Theo sau anh ta là bảy người đàn ông và năm phụ nữ - những người được lựa chọn để định đoạt số phận của anh. Họ đi về khu dành cho bồi thẩm đoàn và ngồi vào những chiếc ghế trống - sáu ở hàng trước, sáu ở đằng sau, hoàn toàn xa lạ, không có điểm gì chung ngoài việc được lựa chọn một cách ngẫu nhiên.

Khi tất cả đã yên vị, người trợ lý đứng dậy nói. “Các thành viên bồi thẩm đoàn,” ông ta bắt đầu, “bị cáo Daniel Arthur Cartwright đang đứng trước mặt các vị bị buộc tội giết người. Với tội danh này, bị cáo đã được bào chữa là vô tội. Các vị có trách nhiệm lắng nghe, cân nhắc các bằng chừng và quyết định bị cáo có tội hay vô tội.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 26-1-2014 16:12:50 | Chỉ xem của tác giả
Chương 2

“Ngài thẩm phán Sackville liếc xuống chiếc bàn dài phía dưới ông ta. “Ông Pearson, ông có thể bắt đầu.”

Một người đàn ông thấp, tròn trịa chậm chạm đứng lên. Arnold Pearson QC mở tập hồ sơ dầy nằm trên cái bục trước mặt. Ông ta sờ mái tóc giả đã sờn của mình, như để chắc chắn rằng mình đã nhớ đội nó lên đầu, rồi lại sờ ve áo choàng, những động tác đã không thay đổi từ ba mươi năm qua.

“Xin phép ngài,” Arnold Pearson bắt đầu bằng giọng nói buồn tẻ, “Tôi đại diện cho tòa án trong vụ này, còn người đồng nghiệp của tôi”, ông ta liếc nhìn cái tên trên tập giấy trước mặt, “ông Alex Redmayme đại diện cho bên bị cáo. Vụ án ở đây là một vụ giết người. Vụ giết ông Bernard Henry Wilson một cách dã man và có toan tính.”

Ở khu dành cho người đến dự phiên tòa, bố mẹ của nạn nhân ngồi ở một góc xa trên hàng ghế cuối cùng. Ông Wilson nhìn Danny, không thể che giấu sự thất vọng trong mắt. Bà Wilson nhìn về phía trước, trống rỗng, mặt trắng bệch, khác hẳn lúc gào khóc trong đám tang. Mặc dù những sự kiện bi kịch xung quanh cái chết của Bernie Wilson không thể thay đổi cuộc sống của hai gia đình ở khu Đông - đã có tình bạn keo sơn từ vài thế hệ, nhưng nó đã tạo ra một làn sóng dư luận vượt ra ngoài mười mấy con phố xung quanh đường Bacon ở khu Bow.

“Trong suốt tiến trình của phiên tòa này, mọi người sẽ biết bằng cách nào bị cáo” - Arnold Pearson tiếp tục, vẫy tay về phía khu dành cho bị cáo mà không buồn liếc Danny - “lừa được ông Wilson tới một quán bar ở Chelsea vào tối thứ Bảy ngày mười tám tháng Chín năm 1999, nơi anh ta đã tiến hành vụ giết người man rợ và đã được lên kế hoạch trước. Đầu tiên anh ta dẫn em gái ông Wilson” - ông ta lại nhìn vào tập giấy trước mặt - “Elizabeth, tới nhà hàng Lucio ở đường Fullham. Bồi thẩm đoàn sẽ biết rằng Cartwright đã cầu hôn cô Wilson sau khi cô tiết lộ mình đã có bầu. Sau đó anh ta gọi anh trai của cô Wilson - tức ông Bernard Wilson - bằng điện thoại di động và mời ông Wilson đến cùng họ tại Dunlop Arms, một quán bar ở đằng sau khu Hambledon, Chelsea, để cùng chia vui.”

“Cô Wilson đã viết lời khai rằng mình chưa bao giờ đến quán bar này, mặc dù Cartwright biết rõ quán, và chúng tôi đưa ra giả thuyết anh ta chọn nó cho một mục đích và mục đích duy nhất: cửa sau của quán mở ra con hẻm yên tĩnh, một địa điểm lý tưởng cho kẻ đang có ý định giết người, một vụ mưu sát mà Cartwright sau đó đã đổ tội lên một nhóm người xa lạ tình cờ cũng là khách tại Dunlop Arms vào đêm đó.”

Danny nhìn chằm chằm vào ông Pearson. Làm sao ông ta có thể biết chuyện gì đã xảy ra vào đêm đó, khi mà ông ta không có mặt? Nhưng Danny không quá lo lắng. Xét cho cùng, Redmayne đã đảm bảo rằng câu chuyện theo lời của Danny cũng được xem xét đầy đủ trong suốt quá trình phiên tòa diễn ra và anh không nên quá lo lắng nếu mọi thứ có vẻ u ám khi công tố viên nêu ra các luận điểm của mình. Mặc dù đã được nhắc đi nhắc lại điều này nhưng Danny vẫn lo ngại về hai vấn đề: Alex Redmayne không hơn anh nhiều tuổi và đây mới chỉ là vụ thứ hai anh được làm luật sư biện hộ chính thức.

“Nhưng không may cho Cartwright,” Pearson tiếp tục, “bốn người khách có mặt ở Dunlop Arms hôm đó đã kể một câu chuyện khác hẳn, một câu chuyện không chỉ rất thống nhất mà còn được chứng thực bởi người bồi bàn đang làm việc ở quán lúc đó. Phía tòa án sẽ gọi vào năm nhân chứng, và họ sẽ kể cho mọi người rằng họ tình cờ nghe được cuộc cãi vã giữa hai người đàn ông, sau đó được thấy ra khỏi quán bar sau khi Cartwright nói, “Vậy tại sao chúng ta không ra ngoài và làm rõ vấn đề này nhỉ?” Cả năm người đều thấy Cartwright ra ngoài bằng cửa hậu, theo sau là Bernard Wilson và em gái Elizabeth, người rõ ràng đang trong trạng thái kích động. Một lúc sau, một tiếng hét vang lên, ông Spencer Craig, một trong các khách hàng đã rời khỏi bạn hữu và chạy ra ngõ sau, nơi ông ta thấy Cartwright một tay chẹn cổ ông Wilson, tay kia liên tục đâm dao vào ngực ông Wilson.

“Ông Craig ngay lập tức đã gọi 999 bằng điện thoại di động của mình. Thời gian cuộc gọi, thưa ngài, và nội dung cuộc gọi đã được đồn cảnh sát Belgravia ghi lại. Vài phút sau, hai cảnh sát đã đến hiện trường và thấy Cartwright quỳ bên xác ông Wilson, với con dao trong tay - con dao mà chắc hẳn anh ta đã lấy từ quán bar, bởi có chữ Dunlop Arms trên chuôi dao.”

Alex Redmayne cắm cúi ghi chép lời của Pearson.

“Các thành viên bồi thẩm đoàn,” Pearson tiếp tục, lại sờ ve áo, “mọi kẻ sát nhân đều có động cơ, và trong vụ án này, chúng ta không cần nhìn xa hơn vụ giết người đầu tiên Cain giết Abel(1) để nhận ra động cơ đó: đố kỵ, tham lam và tham vọng chính là các thành phần bẩn thỉu nhất, và khi kết hợp với nhau, chúng đã xúi giục Cartwright phải loại trừ người đang đứng trên con đường anh ta đi.

Các thành viên bồi thẩm đoàn, Cartwright và ông Wilson cùng làm việc trong ga - ra của nhà Wilson trên đường Mile End. Garagr này do ông George Wilson sở hữu và quản lý, bố của nạn nhân, người đã định nghỉ hưu vào cuối năm nay, và giao lại công việc kinh doanh cho đứa con trai duy nhất của mình, Bernard. Ông George Wilson đã cho lời khai về việc này, và với sự đồng ý của luật sư, chúng tôi sẽ không gọi ông với tư cách nhân chứng.

Các thành viên bồi thẩm đoàn, trong quá trình xử án, các vị sẽ biết hai người đàn ông trẻ đã có một thời gian dài ganh đua và đứng đối lập nhau, từ hồi còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhưng cùng việc loại bỏ Bernard Wilson, Cartwright đã lên kế hoạch cưới con gái ông chủ và chiếm đoạt công việc kinh doanh đang rất phát đạt cho mình.

Tuy nhiên, mọi việc diễn ra không như dự tính của Cartwright, và khi bị bắt, anh ta đã cố đổ mọi thứ lên đầu một người ngoài cuộc vô tội, người đã chạy vào ngõ để xem chuyện gì khiến cô Wilson phải hét lên. Nhưng thật không may cho Cartwright, đó không không phải là một phần kế hoạch của anh ta, bởi có tới bốn người khác cũng có mặt khi toàn bộ sự việc xảy ra.” Pearson mỉm cười với bồi thẩm đoàn. “Các thành viên bồi thẩm đoàn, một khi các vị nghe lời khai của họ, các vị sẽ không còn nghi ngờ về việc Daniel Cartwright đã phạm phải tội giết người một cách tàn ác.” Ông ta quay sang ngài thẩm phán. “Phần khởi tố ban đầu đã kết thúc, thưa ngài.” Ông ta vuốt ve áo thêm lần nữa trước khi nói thêm. “Nếu ngài cho phép, tôi xin được gọi nhân chứng đầu tiên.” Ngài thẩm phán Sackville gật đầu, và Pearson nói với giọng chắc nịch. “Cho gọi ông Spencer Craig.”

Danny Cartwright nhìn về bên phải và thấy người gác tòa ngồi ở cuối phòng xử án mở cửa, bước ra hành lang và hô lớn, “Ông Spencer Craig.” Vài phút sau, một người đàn ông mặc áo khoác kẻ xanh, sơ-mi trắng với cà-vạt hoa cà, cao, cỡ tuổi Danny bước vào. Trông gã khác nhiều so với lần đầu họ gặp mặt.

Danny đã không nhìn thấy Spencer Craig trong sáu tháng qua, nhưng không ngày nào anh không hình dung về gã một cách cực kỳ rõ ràng. Anh nhìn gã đầy thách thức, nhưng Craig không hề liếc về phía Danny, như thể anh không tồn tại.

Craig đi qua phòng xử ánh như một người biết chắc mình đang đi đâu. Khi dừng lại ở bục nhân chứng, gã lập tức cầm ngay cuốn Kinh thánh lên và đọc lời thề mà không thèm nhìn vào mẩu giấy để trước mặt. Pearson mỉm cười với nhân chứng quan trọng nhất của mình, trước khi liếc xuống dãy câu hỏi đã mất cả tháng trời để chuẩn bị.

“Tên ông là Spencer Craig?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 26-1-2014 16:13:53 | Chỉ xem của tác giả
“Vâng, thưa ngài,” gã trả lời.

“Và ông sống ở số bốn mươi ba khu nhà Hambledon, London SW3?”

“Đúng, thưa ngài.”

“Ông làm công việc gì,” Pearson hỏi, như thể ông ta không biết gì hết vậy.

“Tôi là luật sư.”

“Về lĩnh vực nào?”

“Án hình sự.”

“Vậy là ông rất quen thuộc với các vụ án giết người?”

“Không may là đúng như vậy, thưa ngài.”

“Bây giờ, tôi sẽ đưa ông về buổi tối ngày mười tám tháng Chín năm ngoái, khi ông cùng một nhóm bạn tới nhâm nhi ở bar Dunlop Arms ở khu nhà Hambledon. Có thể ông sẽ cho chúng tôi biết rõ những gì xảy ra vào tối hôm đó.”

“Tôi và các bạn lúc đó đến uống mừng sinh nhật thứ ba mươi của Gerald...”

“Gerald?” Pearson ngắt lời.

“Gerald Payne”, Craig nói. “Anh ấy là bạn cũ, từ thời tôi còn học ở Cambridge. Chúng tôi đã dành cả tối vui vẻ với nhau, cùng thưởng thức một chai vang.”

Alex Redmayne ghi lại - anh muốn biết chính xác là bao nhiêu chai.

Còn Danny muốn hỏi từ “vui vẻ” nghĩa là gì.

“Nhưng rất buồn là buổi tối đã không kết thúc một cách vui vẻ,” Pearson bình phẩm.

“Còn hơn thế nữa,” Craig trả lời, vẫn không liếc về phía Danny.

“Vậy ông hãy cho tòa biết chuyện gì đã xảy ra sau đó,” Pearson nói, và nhìn xuống tờ ghi chú.

Craig lần đầu tiên quay mặt về phía bồi thẩm đoàn. “Chúng tôi, như tôi đã nói, đang ngồi uống rượu mừng sinh nhật thứ ba mươi của Gerald, thì tôi nghe thấy hai giọng nói, có vẻ to tiếng. Tôi quay lại và thấy một người đàn ông đang ngồi tại bàn ở góc xa với một cô gái trẻ.”

“Ông có thấy người đàn ông đó trong phòng xử án ngay lúc này không?” Pearson hỏi.

“Có,” Craig trả lời, chỉ về phía khu dành cho bị cáo.

“Xong rồi sao?”

“Anh ta đột nhiên nhảy dựng lên,” Craig tiếp tục, “bắt đầu quát tháo và chỉ ngón tay vào một người đàn ông khác vẫn ngồi trên ghế. Tôi nghe thấy một người nói: ‘Nếu anh nghĩ rằng tôi vẫn tiếp tục gọi anh là bạn khi anh lấy tất cả từ bố tôi, thì anh hãy quên chuyện đó đi.’ Cô gái trẻ cố làm anh ta bình tĩnh trở lại. Tôi định quay lại với các bạn mình, vì vụ cãi nhau đó đâu liên quan đến tôi - thì bị cáo quát lên, “Vậy tại sao chúng ta không ra ngoài và làm rõ chuyện này?”. Tôi tưởng họ đùa, nhưng người nói câu này đã cầm ngay một con dao ở trong quán...”

“Cho phép tôi ngắt lời một chút, ông Craig. Ông thấy bị cáo cầm dao ra khỏi quán bar?” Pearson hỏi.

“Vâng, tôi có thấy.”

“Chuyện gì xảy ra sau đó?”

“Anh ta đi về phía cửa sau, điều đó làm tôi ngạc nhiên.”

Tại sao ông lại ngạc nhiên?”

Bởi vì Dunlop Arms là quán quen của tôi, và tôi chưa thấy người này ở đây bao giờ.”

“Tôi không chắc mình hiểu ý ông, ông Craig,” Pearson nói, nắm rõ từng từ trong câu hỏi của mình.

“Cửa hậu bị khuất nếu ngồi ở góc phòng, nhưng có vẻ anh ta biết rõ mình đang đi đâu.”

“A, tôi hiểu rồi,” Pearson nói. “Mời ông tiếp tục.”

“Rồi sau người kia cũng đứng dậy và đuổi theo bị cáo, cùng với cô gái trẻ ra phía cửa sau. Tôi không nghĩ thêm về chuyện này nữa, nhưng một lúc sau tất cả chúng tôi đều nghe thấy tiếng hét.”

“Tiếng hét?” Pearson nhắc lại. “Tiếng hét kiểu gì?”

“Rất lớn, tiếng hét của phụ nữ.” Craig trả lời.

“Và ông đã làm gì?”

“Ngay lập tức tôi rời khỏi các bạn và chạy ra ngõ xem cô gái có gặp nguy hiểm gì không.”

“Và cô ấy đang gặp nguy hiểm thật?”

“Không, thưa ngài. Cô ấy hét lên với bị cáo, van xin anh ta dừng lại.”

“Dừng lại cái gì?” Pearson hỏi.

“Đánh người đàn ông kia.”

“Họ đang đánh nhau à?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 26-1-2014 16:15:18 | Chỉ xem của tác giả
“Vâng, thưa ngài. Người tôi thấy đầu tiên chỉ ngón tay và quát tháo lúc đó đang ấn người kia vào tường, tay đè lên cổ anh ấy.” Craig quay về phía bồi thẩm đoàn và giơ tay trái lên diễn tả lại động tác.

“Và ông Wilson có cố gắng tự vệ không?” Pearson hỏi.

“Ông ấy cố hết sức, nhưng bị cáo đã đâm dao vào ngực ông ấy, liên tục.”

“Anh đã làm gì lúc đó?”

“Tôi gọi số khẩn cấp, và họ hứa sẽ cho cảnh sát và xe cứu thương đến ngay.”

“Họ có nói gì nữa không?” Pearson hỏi, và lại nhìn xuống tờ ghi chú.

“Có,” Craig trả lời. “Họ bảo tôi không được tiếp cận người cầm dao, hãy trở vào quán ngồi chờ tới khi cảnh sát đến.” Gã dừng lại. “Và tôi đã nghe theo lời chỉ dẫn đó.”

“Các bạn anh phản ứng thế nào khi anh quay lại và kể cho họ nghe những gì anh đã thấy?”

“Họ muốn ra ngoài xem có giúp gì được không, nhưng tôi nói cảnh sát đã khuyên nên ở trong quán, và tôi cũng nghĩ trong những trường hợp này thì tốt nhất là nên bảo họ về nhà.”

“Trong những trường hợp này?”

“Tôi là người duy nhất chứng kiến toàn bộ sự việc và tôi không muốn họ gặp nguy hiểm nếu người cầm dao trở lại quán bar.”

“Rất đáng khen,” Pearson nói.

Ngài thẩm phán cau mày với Arnold Pearson. Alex Redmayne lại ghi gì đó vào tờ giấy.

“Ông phải chờ bao lâu thì cảnh sát đến?”

“Chỉ một lát là tôi nghe thấy tiếng còi xe, và vài phút sau là một cảnh sát mặc thường phục đã vào quán bằng lối cửa sau. Ông ta cho tôi xem phù hiệu và tự giới thiệu là Thanh tra Fuller, hạ sĩ. Ông ta cũng thông báo rằng nạn nhân đã trên đường tới bệnh viện gần nhất.”

“Rồi sau đó thế nào?”

Tôi cho lời khai đầy đủ, và hạ sĩ Fuller nói tôi có thể về nhà.”

“Anh có về nhà không?”

“Có, tôi về nhà, chỉ cách Dunlop Arms khoảng trăm mét, và lên giường, nhưng không ngủ được.”

Alex viết xuống mấy chữ: khoảng trăm mét.

“Cũng dễ hiểu thôi,” Pearson nói.

Ngài thẩm phán cau mày lần thứ hai.

“Nên tôi ngồi dậy, sang phòng làm việc và viết ra tất cả những gì đã xảy ra vào buổi tối hôm đó.”

“Tại sao ông lại làm vậy, ông Craig, khi đã cho cảnh sát lời khai đầy đủ?”

“Do kinh nghiệm đứng ở vị trí như ngài, ngài Pearson, rằng các bằng chứng được đưa ra ở bục nhân chứng này thường rời rạc, chắp vá, thậm chí không đúng sự thật, trong khi đó phiên xử thường diễn ra vài tháng sau khi tội ác đã được thực thi.”

“Khá đúng”, Pearson nói, và lật sang một trang giấy khác. “Anh biết Daniel Cartwright bị bắt vì tội mưu sát Bernard Wilson khi nào?”

“Tôi đã đọc khá tường tận về chuyện này trên tờ Evening Standard vào ngày thứ Hai tuần sau đó. Bài báo viết ông Wilson đã chết trên đường tới bệnh viện Westminster ở khu Chelsea, và Cartwright bị bắt vì tội giết người.”

“Và ông có nhận ra rằng, sự việc này có liên quan tới cá nhân ông?”

“Có, và tôi biết rằng tôi sẽ được gọi làm nhân chứng cho phiên tòa sắp tới, nếu Cartwright không nhận tội.”

“Nhưng, dù là anh, với tất cả kinh nghiệm của mình về các vụ trọng án, cũng không thể đoán trước được điều này.”

“Rõ ràng như vậy,” Craig trả lời. “Chiều hôm sau, hai cảnh sát tới văn phòng tôi để tiến hành cuộc thẩm vấn thứ hai.”

“Nhưng rõ ràng anh đã cho khẩu cung và viết lời khai cho hạ sĩ Fuller,” Pearson nói. “Tại sao họ phải thẩm vấn anh lần nữa?”

“Bởi vì Cartwright khi đó buộc tội tôi giết ông Wilson, và thậm chí còn quả quyết chính tôi đã lấy con dao trong quán bar.”

“Trước buổi tối hôm đó, ông đã bao giờ gặp ông Cartwright hay ông Wilson chưa?”

“Chưa, thưa ngài,” Craig trả lời rất thật thà.

“Cảm ơn, ông Craig.”

Hai người mỉm cười với nhau trước khi Pearson quay lại ngài thẩm phán và nói, “Tôi không còn gì để hỏi, thưa ngài.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 26-1-2014 17:17:58 | Chỉ xem của tác giả
Chương 3

Thẩm phán Sackville nhìn sang luật sư ngồi ở đầu bàn phía bên kia. Ông rất quen thân với bố của Alex Redmayne, người gần đây đã rời khỏi chức thẩm phán tòa tối cao về nghỉ hưu, nhưng đứa con trai chưa một lần được xuất hiện trước mặt ông.

“Ông Redmayne,” ông kéo dài giọng, “ông có cần đối chất với nhân chứng này không?”

“Dĩ nhiên là tôi rất muốn,” Redmayne vừa trả lời vừa sắp xếp lại các ghi chép của mình.

Danny nhớ lại không lâu sau khi bị bắt, một cảnh sát đã khuyên anh tìm cho mình một luật sư. Nhưng chuyện này cũng không phải dễ dàng. Anh nhanh chóng nhận ra rằng luật sư, cũng như thợ máy ở garage tính tiền theo giờ và anh chỉ có thể nhận được những gì anh đủ khả năng chi trả. Anh có thể trả đến mười ngàn bảng, tất cả số tiền anh tích cóp được trong mười năm qua, số tiền mà anh định đặt cọc căn hộ tầng hầm ở khu Bow, nơi Beth, anh và đứa con sắp chào đời sẽ sống ở đó sau khi kết hôn. Mỗi đồng tiền trong số đó đã bị tiêu đi từ rất lâu trước khi vụ án được xét xử ở tòa. Luật sư mà anh chọn, một ông Makepeace nào đó đòi năm ngàn bảng đưa trước và năm ngàn bảng khi ông ta giao vụ án cho Alex Redmayne, người sẽ đại diện cho anh trước tòa. Danny không hiểu tại sao mình phải cần tới hai luật sư để làm cùng một công việc. Khi sửa xe, anh chẳng bao giờ phải nhờ Bernie nâng ca-pô để anh nhìn vào động cơ, và anh rõ ràng cũng không đòi đặt cọc trước khi sờ vào túi đồ nghề của mình.

Nhưng Danny thích Alex Redmayne ngay lần đầu gặp mặt, không phải chỉ vì anh ta cũng ủng hộ đội West Ham. Anh ta có giọng nói của người ở tầng lớp trên, đã tốt nghiệp Oxford và anh ta chưa một lần coi thường anh.

Khi ông Makepeace đọc hồ sơ vụ án và nghe những gì Danny phải nói, ông ta đã khuyên thân chủ của mình nhận tội ngộ sát. Ông ta tự tinh rằng mình có thể thương lượng với tòa tối cao, qua đó để Danny nhận một cái án sáu năm. Danny không đồng ý.

Alex Redmayne thì bắt Danny và vợ chưa cưới kể đi kể lại những gì xảy ra tối hôm đó, và anh ta nhặt ra những chi tiết mâu thuẫn trong câu chuyện. Anh không tìm thấy gì, và khi Danny hết tiền thì Alex Redmayne nhận bào chữa cho anh.

“Ông Craig,”, Alex Redmayne bắt đầu, không sờ ve áo hay tóc giả. “Tôi chắc rằng không cần phải nhắc nhở rằng ông đã tuyên thệ, và bên cạnh đó là những nghĩa vụ và trách nhiệm mà một luật sư phải có.”

“Cẩn trọng ngôn ngữ, ông Redmayne,” ngài thẩm phán ngắt lời. “Hãy nhớ rằng thân chủ của anh đang bị xử, chứ không phải nhân chứng.”

“Chúng ta sẽ xem ngài còn cảm thấy thế nữa không, thưa ngài, khi ngài đã có được kết luận cuối cùng.”

“Ông Redmayne,” giọng ngài thẩm phán sắc lại. “ông không có trách nhiệm nhắc nhở vai trò của tôi trong phòng xử án này. Công việc của ông là hỏi nhân chứng, còn của tôi là giải quyết các vấn đề luật pháp phát sinh, và sau đó cả hai chúng ta sẽ để bồi thẩm đoàn đưa ra phán quyết.”

“Nếu ngài vui lòng,” Redmayne nói và quay lại với nhân chứng. “Ông Craig, ông và bạn bè đến Dunlop Arms lúc mấy giờ tối hôm đó?

“Tôi không nhớ chính xác thời gian,” Craig trả lời.

“Vậy để tôi cố gắng vận động trí nhớ của ông. Bẩy giờ? Bẩy rưỡi? Tám giờ?”

“Gần tám giờ, tôi cho là như vậy.”

“Vậy là ông đã uống khoảng ba tiếng cho tới khi thân chủ của tôi, vợ chưa cưới và bạn thân của anh ấy đi vào quán.”

“Như tôi đã nói trước tòa, tôi không thấy họ vào.”

“Gần như vậy,” Redmayne nói, bắt chước Pearson. “Và ông đã uống tổng cộng bao nhiêu rượu, cho đến lúc mười một giờ?”

“Tôi không biết. Hôm đó là sinh nhật lần thứ ba mươi của Gerald, nên không ai đếm cả.”

“Tốt, như chúng ta xác định là anh đã uống trong ba tiếng, vậy cứ coi là sáu chai vang. Có thể bảy, thậm chí tám?”

“Năm chai là tối đa,” Craig trả miếng. “Không quá mức cho bốn người.”

“Tôi đồng ý với ông, ông Craig, có một người bạn ông viết trong bản khai là ông ta chỉ uống Coke Diet, còn người khác chỉ uống một hoặc hai ly vì ông ta phải lái xe.”

“Nhưng tôi thì không phải cầm vô-lăng,” Craig trả lời. “Dunlop Arms ở ngay khu nhà tôi, tôi sống cách đó chỉ khoảng trăm mét.”

“Chỉ khoảng trăm mét?” Redmayne nhắc lại. Khi Craig không trả lời, anh tiếp tục, “Ông nói với tòa rằng ông không nhận ra bất kỳ khách hàng nào trong bar cho tới khi nghe thấy có người to tiếng?”

“Chính xác.”

“Khi ông khẳng định mình nghe thấy bị cáo nói: “Vậy tại sao chúng ta không ra ngoài và làm rõ chuyện này?”

“Cũng chính xác.”

“Nhưng có phải là sự thật không, ông Craig, rằng chính là ông đã khởi đầu vụ đánh lộn khi đưa ra một thông điệp khó quên cho thân chủ của tôi lúc anh ấy rời khỏi quán” anh nhìn xuống tờ ghi chú - “Khi chú mày xong việc với em gái này thì bọn anh chắc cũng được hưởng sái để tổ chức vụ chơi tập thể đấy nhỉ?” Redmayne đợi Craig trả lời, nhưng gã vẫn giữ im lặng. “Ttừ việc ông không trả lời, phải chăng tôi có thể thừa nhận rằng mình đã đúng?”

“Ông không thể thừa nhận điều gì từ việc này, ông Redmayne. Tôi đơn giản chỉ cho rằng câu hỏi của ông không đáng để trả lời,” Craig khinh khỉnh đáp lại.

“Tôi hi vọng ông cảm thấy, ông Craig, rằng câu hỏi tiếp theo đây đáng để trả lời, bởi vì tôi sẽ gợi ý rằng khi ông Wilson nói ông là “đồ cứt đái”, chính ông mới là người nói “Vậy sao chúng ta không ra ngoài để làm rõ vấn đề này nhỉ?”

“Tôi nghĩ mấy từ này khá giống kiểu ngôn ngữ được mong đợi xuất phát từ thân chủ của ông,” Craig đáp lại.

“Hay từ người đã quá chén và đang thể hiện với đám bạn say xỉn trước mặt một phụ nữ xinh đẹp?”

“Tôi phải nhắc ông lần nữa, ông Redmayne,” ngài thẩm phán lên tiếng, “rằng thân chủ của ông mới là người bị xử trong vụ án này, không phải ông Craig.”

Redmayne khẽ nhún vai, nhưng khi ngước mắt lên, anh nhận thấy bồi thẩm đoàn đang dõi theo từng lời của mình. “Tôi cho rằng, ông Craig,” anh tiếp tục, “ông khỏi cửa trước và chạy vòng về đằng sau quán bar bởi vì ông muốn đánh nhau.”

“Tôi chỉ chạy ra ngõ sau khi nghe thấy tiếng hét.”

“Có phải đó là lúc ông lấy con dao ở trong quán?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 26-1-2014 17:19:36 | Chỉ xem của tác giả
“Tôi không làm điều đó,” Craig cao giọng. “Thân chủ của ông cầm dao lúc anh ta bước ra ngoài, và tôi đã nói rõ điều này trong tờ khai.”

“Có phải là tờ khai với những chi tiết được ông chuẩn bị kỹ lưỡng khi bị mất ngủ trong đêm đó?” Redmayne hỏi.

Craig lại im lặng.

“Có phải đây là ví dụ nữa cho những thứ không đáng để ông quan tâm?” Redmayne ám chỉ. “Có người bạn nào của ông theo ông ra chỗ con hẻm không?”

“Không có ai.”

“Vậy là họ không được chứng kiến ông với Cartwright đánh nhau?”

“Sao mà họ thấy được, khi tôi và Cartwright không đánh nhau?”

“Ông đã có đai xanh quyền anh từ hồi còn học ở Cambridge, phải không ông Craig?”

Craig lưỡng lự. “Đúng vậy.”

“Và hồi còn ở Cambridge, ông có bị đuổi học tạm thời vì...”

“Chuyện này có liên quan không?” Thẩm phán Sackville hỏi.

“Tôi rất sẵn lòng để bồi thẩm đoàn quyết định chuyện này, thưa ngài,” Redmayne nói. Quay lại với Craig, anh tiếp tục, “Có phải ông đã từng bị trường Cambridge đuổi học tạm thời vì dính đến vụ say rượu và đánh lộn với vài người dân ở đó, những người sau này bị ông mô tả với cơ quan chức năng là “một lũ thô lỗ?”

“Chuyện đó đã xảy ra nhiều năm rồi, khi tôi vẫn còn chưa tốt nghiệp.”

“Và cũng là ông, vài năm sau, vào buổi tối ngày mười tám tháng Chín năm 1999, lại đánh lộn với “một lũ thô lỗ” khác và lần này phải dùng đến cả con dao lấy từ quán bar?”

“Như tôi đã nói với ông, tôi không phải người cầm dao, tôi chỉ chứng kiến cảnh thân chủ của ông đâm dao vào ngực ông Wilson thôi.”

“Và sau đó ông quay vào quán bar?”

“Vâng, tôi quay vào ngay sau khi gọi cứu trợ khẩn cấp.”

“Chúng ta hãy cố gắng chính xác hơn nữa nhé, ông Craig. Ông không thực sự gọi cứu trợ khẩn cấp. Sự thực là ông gọi vào điện thoại di động của hạ sĩ Fuller.”

“Đúng, ông Redmayne, nhưng có vẻ như ông đã quên rằng lúc báo cáo về vụ án, tôi nhận ra hạ sĩ Fuller đã thông báo cho cứu hộ khẩn cấp. Cho nên, xe cứu thương đã đến trước cả ông hạ sĩ.”

“Vài phút trước đó,” Redmayne nhấn mạnh. “Tuy nhiên, tôi tò mò muốn biết sao anh có thể có số điện thoại di động của một cảnh sát cấp thấp dễ dàng như vậy?”

“Trước đó không lâu chúng tôi cùng phải làm một vụ buôn bán ma túy lớn, kéo dài vài tháng”

“Vậy ông Fuller là bạn của ông?”

“Tôi không biết nhiều về ông ta,” Craig trả lời. “Quan hệ của chúng tôi hoàn toàn trong lĩnh vực chuyên môn.”

“Tôi cho rằng, ông Craig, ông biết ông ta đủ rõ để điện thoại và chắc chắn rằng ông ta sẽ nghe câu chuyện theo lời kể của ông trước.”

“Thật may là còn bốn nhân chứng khác xác nhận câu chuyện của tôi là đúng.”

“Tôi rất mong chờ tới lúc đối chất mấy người bạn thân của ông, ông Craig, và tôi cũng tò mò muốn biết vì sao sau khi quay lại quán bar ông lại khuyên họ về nhà?”

“Họ không nhìn thấy thân chủ của ông đâm ông Wilson, vì thế họ không liên quan gì hết,” Craig nói. “Và tôi cho rằng có thể họ sẽ gặp nguy hiểm nếu ở lại.”

“Nhưng nếu có người gặp nguy hiểm, ông Craig, đó sẽ là người chứng kiến vụ sát hại ông Wilson, vậy tại sao ông không về cùng các bạn?”

Craig lại giữ im lặng, nhưng lần này không phải vì gã thấy câu hỏi không đáng để trả lời.

“Có thể lý do thật sự ông bảo họ về,” Redmayne nói, “là vì ông cần họ không có mặt để ông kịp chạy về nhà và thay bộ quần áo còn dính máu trước khi cảnh sát đến nơi? Sau cùng, ông chỉ sống, như ông đã thừa nhận “cách đó trăm mét.”

“Có vẻ ông quên, ông Redmayne, rằng hạ sĩ Fuller đến nơi chỉ vài phút sau khi tội ác diễn ra”, Craig đáp trả với vẻ khinh bỉ.

“Chính xác là bảy phút sau khi ông điện thoại, ông hạ sĩ mới đến hiện trường, và ông ta cũng mất chút ít thời gian để thẩm vấn thân chủ của tôi trước khi vào quán bar.”

“Ông có cho rằng tôi dám mạo hiểm làm thế khi tôi biết rằng cảnh sát có thể đến bất cứ lúc nào?” Craig nói to.

“Có,” Redmayne trả lời, “nếu như anh phải ở cả quãng đời còn lại trong tù.”

Tiếng rì rầm lan ra trong phòng xử. Mắt các thành viên bồi thẩm đoàn đổ dồn vào Craig, nhưng một lần nữa gã lại không trả lời câu hỏi. Redmayne đợi thêm một lúc trước khi nói tiếp, “Ông Craig, tôi nhắc lại là tôi nóng lòng chờ được đối chất với các bạn của ông, từng người một.” Quay lại với ngài thẩm phán, anh nói, “Tôi không còn gì để hỏi, thưa ngài.”

“Ông Pearson?” ngài thẩm nói. “Chắc là ông muốn hỏi thêm nhân chứng chứ?”

“Vâng, thưa ngài,” Pearson trả lời. “Có một câu hỏi tôi rất muốn biết đáp án.” Ông ta mỉm cười với Craig. “Ông Craig, ông có phải Siêu nhân không?”

“Craig có vẻ bối rối, nhưng nhận ra Pearson đang có ý giúp mình, liền đáp, “Không, thưa ngài. Sao ngài lại hỏi thế?”

“Bởi vì chỉ có Siêu nhân, vừa chứng kiến một vụ giết người, mới có thể quay vào quán bar, kể lại cho các bạn, chạy về nhà, tắm rửa, thay quần áo, quay lại quán bar và bình tĩnh ngồi ở đó đợi hạ sĩ Fuller đến.” Vài thành viên bồi thẩm đoàn cố nhịn cười. “Hoặc phải có trạm điện thoại công cộng ngay gần đó.” Pearson đợi họ lấy lại vẻ mặt bình thường rồi tiếp tục. “Ông Craig, cho phép tôi bỏ qua thế giới huyền ảo của ông Redmayne và hỏi ông một câu nghiêm túc.” Ông ta chờ tới khi cặp mắt của mọi người đổ dồn về phía mình. “Theo kết quả của các chuyên viên pháp y của Sở cảnh sát (Scotland Yard), thì dấu vân tay trên chuôi dao là của ông, hay của bị cáo?”

“Rõ ràng không phải của tôi,” Craig nói, “nếu không tôi mới là người ngồi ở ghế bị cáo.”

“Tôi không còn gì để hỏi, thưa ngài,” Pearson kết thúc.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 26-1-2014 17:27:38 | Chỉ xem của tác giả
Chương 4

Cánh cửa phòng giam mở ra và một người đưa cho Danny cái khay nhựa chia thành nhiều ô nhỏ để các món ăn mà anh đã chọn trong lúc chờ đợi phiên xử buổi chiều bắt đầu.

Alex Redmayne đã bỏ bữa trưa để nghiền ngẫm lại các ghi chép của mình. Phải chăng anh đã đánh giá hơi thấp sự quan trọng của quãng thời gian trống mà Craig có được trước khi hạ sĩ Fuller bước vào quán bar?

Ngài thẩm phán Sackville dùng bữa trưa với bồi thẩm đoàn, không buồn bỏ tóc giả ra và cũng chẳng thảo luận gì với nhau, tất cả uể oải nhai trệu trạo phần ăn là thịt và hai đĩa rau.

Pearson ăn trưa một mình ở bar Mess trên tầng thượng. Ông ta biết rằng đồng nghiệp của mình đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi hỏi Craig về thời gian, nhưng rõ ràng là ông ta không cần phải chỉ ra điều đó. Vừa phân tích vấn đề, ông ta vừa đẩy hạt đậu Hà Lan trong đĩa từ bên này sang bên kia.

Chuông đồng hồ điểm hai tiếng, phiên xử bắt đầu trở lại. Ngài thẩm phán Sackville bước vào phòng xử án, ném cho bồi thẩm đoàn một nụ cười mơ hồ trước khi ngồi xuống ghế. Ông nhìn xuống hai luật sư và nói, “Xin chào các ông. Ông Pearson, ông có thể gọi nhân chứng tiếp theo.”

“Cảm ơn ngài,” Pearson trả lời và đứng dậy. “Cho mời ông Gerald Payne.”

Danny nhìn người đàn ông bước vào, không nhận ra ngay. Gã này cao khoảng một mét bảy mươi sáu, hơi hói, và chiếc áo khoác vải len màu be cắt khéo không thể che giấu sự thật là gã đã giảm khoảng sáu ký kể từ lần cuối gặp Danny. Người gác tòa hướng dẫn gã đi tới bục nhân chứng, đưa cho gã một cuốn Kinh thánh và giúp gã tuyên thệ. Mặc dù phải nhìn giấy đọc lời thế, gã cũng vẫn tỏ ra tự tin y hệt Spencer Craig lúc sáng.

“Ông là Gerald David Payne, sống ở số sáu mươi hai khu Wellington, London W2?”

“Đúng vậy,” Payne trả lời chắc nịch.

“Ông làm việc trong lĩnh vực nào?”

“Tôi là quản lý tư vấn địa ốc.”

Redmayne viết chữ đại lý bất động sản bên cạnh cái tên Payne.

“Ông làm cho công ty nào?” Pearson hỏi.

“Tôi là đối tác của Baker, Tremlett và Smythe.”

“Có vẻ ông quá trẻ để làm đối tác cho một công ty lớn như vậy nhỉ,” Pearson bình phẩm kiểu rất vô tư.

“Tôi là đối tác trẻ nhất trong lịch sử công ty này,” Payne trả lời, cho thấy gã đã được chuẩn bị trước rất chu đáo.

Redmayne thấy rõ đã có người tập cho Payne kỹ càng từ rất lâu trước khi gã đứng ở bục nhân chứng. Và với một vài lý do đặc biệt, đó không thể là Pearson, vậy là chỉ còn một đối tượng khả thi nhất.

“Chúc mừng ông,” Pearson nói.

“Hãy quay lại vấn đề chính, ông Pearson,” ngài thẩm phán lên tiếng.

“Tôi xin lỗi, thưa ngài. Tôi chỉ cố gắng tạo sự tín nhiệm của bồi thẩm đoàn với nhân chứng.”

“Vậy ông đã thành công rồi,” ngài thẩm phán Sackville nói một cách rõ ràng. “Bây giờ mời ông tiếp tục vấn đề chính.”

Pearson kiên nhẫn đặt ra câu hỏi đưa Payne trở lại với những sự việc xảy ra. Phần đúng, gã xác nhận, là Craig, Mortimer và Davenport đều có mặt tại Dunlop Arms buổi tối đó. Phần không đúng, là gã đã không chạy ra ngõ khi nghe thấy tiếng hét. Phần đúng, là cả ba đã về nhà khi được Spencer Craig khuyên nên làm thế. Phần không đúng, là gã chưa bao giờ gặp bị cáo trước đó.

“Cảm ơn ông Payne,” Pearson kết luận. “Ông vui lòng ngồi lại đó.”

Redmayne chầm chậm đứng dậy, cố tình xếp lại mấy tờ giấy trước khi đặt câu hỏi đầu tiên, một thủ thuật bố anh đã dạy khi họ phải xử lý những phiên xử có tính chất giả dối. “Nếu con bắt đầu bằng một câu hỏi bất ngờ, con trai,” bố anh thường nói, “hãy buộc nhân chứng phải đoán.” Anh đợi đến khi ngài thẩm phán, bồi thẩm đoàn và Pearson đều nhìn vào mình. Chỉ vài giây thôi, nhưng anh biết với người đứng ở bục kia, quãng thời gian đó dài bằng cả thế kỷ.

“Ông Payne,” cuối cùng Redmayne cũng lên tiếng, nhìn vào nhân chứng, “hồi còn chưa tốt nghiệp ở Cambridge, có phải ông là thành viên của một hội mang tên Những người lính ngự lâm?”

“Đúng vậy,” Payne trả lời, rõ là bối rối.

“Phải chăng nguyên tắc của hội này là: Mọi người vì một người, một người vì mọi người?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách