Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 5496|Trả lời: 85
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Hoả Thần | Daniel Silva (Hoàn + Ebook)

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
HOẢ THẦN


Tên tác phẩm: Hoả Thần
Tác giả: Daniel Silva
Dịch giả: Khang Vinh
Độ dài: 37 chương
Thể loại: Tiểu thuyết, trinh thám, hình sự
Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành
Nguồn: http://vnthuquan.net/truyen/truy ... 343tq83a3q3m3237nvn
Nhà xuất bản: NXB Thời Đại
Ngày xuất bản: 6/2009
Giới thiệu sơ lược: Sau vụ nổ ở Rome phá hủy Đại sứ quán Israel, nhà phụ chế tranh cũ và là gián điệp Cabriel Allon đã khám phá ra một sự thật chấn động – một bộ hồ sơ đang nằm trong tay bọn khủng bố, bộ hồ sơ có thể lột trần bí mật và phơi bày thân phận thật sự của Allon. Bị lôi kéo vào trung tâm của một tổ chức mà anh từng một lần từ bỏ. Allon tự mình bám gót tên trùm khủng bố qua nhiều cục diện đẫm máu. Nhưng rồi Allon nhanh chóng tự hỏi ai bám gót ai trong cuộc chiến này. Rồi khi ván cờ cuối cùng kết thúc, không phải mình Allon bị đe dọa mạng sống, ngoài thân thế thật sự của anh, nhiều bí mật khác nữa cũng được phơi bày.


Đánh giá:

Những người quen biết thì gọi ông là John Le Carre mới. Còn độc giả thì không thể đặt sách ông xuống cho đến khi đọc xong”.

- Chicago Sun - Times

Bí mật đã bị phơi bày Daniel Silva chính là… “Tác gia tiểu thuyết về hoạt động gián điệp tầm cỡtình. thế giới”.

- The Washinton Post

“Tiểu thuyết gia viết về hoạt động gián điệp hàng đầu của chúng tôi”.

- Ricky Mountain News

“Một tác giả mang đến hơi thở mới cho mảng văn trinh thám quốc tế”.

- Newsday

“Tác gia bậc thầy về hoạt động gián điệp”.

- The Cincinnati Enquirer

“HỎA THẦN... SẼ BƯỚC RA VÀ VỒ LẤY ĐỘC GIẢ Diễn biến của nó hết sức bất ngờ khiến độc giả không thể nào đoán trước được và cứ thế bị cuốn theo. Cốt truyện (của Silva) sắp xếp thật khéo léo, tài tình.

- Detroit Free Press

Một câu chuyện mèo vờn chuột đầy kịch tính.

- The New Yorker

“Một mạng lưới với những âm mưu cực kỳ rắc rối và chồng chéo lên nhau”.

- USA Today


Mục lục



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 25-12-2013 18:37:00 | Chỉ xem của tác giả
Chương 1

ROME NGÀY 4 THÁNG 3

ĐÃ CÓ NHỮNG CẢNH BÁO TỪ TRƯỚC - Vụ nổ bom SHABBAT xảy ra tại trung tâm cộng đồng người Do Thái ở Buenos Aires làm 87 người chết; đúng một năm sau đó vụ nổ bom do một nhóm người Do Thái ở Istanbul gây ra cũng làm thiệt mạng 28 người khác - trong khi đó, Rome vẫn tiếp tục các cuộc chè chén linh đình, và do vậy, nơi này có thể trở thành địa điểm mà bọn chúng nhắm đến tiếp theo.

Ngay sau sự kiện này, dọc theo các hành lang và dãy phòng làm việc của các quan chức thuộc cơ quan tình báo danh tiếng của Israel vẫn nổi lên các cuộc tranh cãi gay gắt về thời gian và địa điểm của những âm mưu tấn công sắp tới. Lev Ahroni, vị Giám đốc đầy thận trọng của cơ quan tình báo, cho rằng âm mưu này đã được lên kế hoạch không lâu sau khi quân đội Israel ập vào tổng hành dinh của A’one ở Ramallah và lấy đi những hồ sơ bí mật. Ari Shamron, một điệp viên lão luyện của Israel nhận thấy ý kiến này thật đáng buồn cười. Shamron luôn bất đồng quan điểm với Lev, ngay cả trong những chuyện đơn giản như thể thao chẳng hạn. Shamron, người đã từng chiến đấu trong hàng ngũ của Palmach trong cuộc chiến giành độc lập và là người luôn cho rằng xung đột là chuyện đương nhiên, bằng trực giác của mình ông hiểu rằng thảm họa diễn ra tại Rome có mầm mống từ những hành động diễn ra cách đây hơn nửa thế kỷ. Tuy nhiên, những chứng cứ lại cho thấy rằng giả thiết của cả Lev và Shamron đều đúng. Lúc này, để có thể đạt được những điều kiện làm việc thuận lợi, họ cũng đã thỏa hiệp cho một sự khởi đầu mới: đó là ngày ngài Jean-Luc đến vùng đồi Lazio và ở lại khu biệt thự được xây cất từ thế kỷ XVIII nằm bên bãi biển Bracciano.

Thời điểm chính xác mà Jean-Luc đến đã được ấn định. Chủ biệt thự, ngài Laval, một người Bỉ thuộc dòng dõi quý tộc vốn rất đa nghi, đã thông báo rằng người thuê biệt thự sẽ đến vào lúc hai giờ rưỡi chiều ngày thứ sáu cuối cùng của tháng Một. Người thanh niên Israel trẻ tuổi, nhã nhặn và đầy sôi nổi đã đến nhà ngài Laval ở Brussels xác nhận ngày anh ta sẽ dọn đến. Ngài Laval lật cuốn sổ làm việc sang trọng có bọc da ra và chỉ vào cái ngày được khoanh tròn. Ở đó, có ghi bằng bút chì rõ ràng thời gian là hai giờ rưỡi chiều với dòng chữ: Gặp ông Jean-Luc tại biệt thự Bracciano.

“Sao ngài lại ghi là biệt thự Bracciano thay vì chỉ cần ghi là biệt thự?” vị khách người Israel hỏi, với tay chỉ vào quyển sổ.

“Để phân biệt nó với biệt thự Tropez của chúng tôi, hay là biệt thự Portuguese, hoặc cái Chalet trên dãy núi Alps ở Thụy Sĩ”.

“À, ra thế”, vị khách Israel nhủ thầm, tuy thế, ngài Laval nhận thấy giọng nói của vị khách dường như thiếu sự nhún nhường vốn có ở hầu hết các công chức bình thường khi tiếp xúc với những người danh giá giàu sang.

Ngoài ra ngài Laval còn nhớ tất cả những gì về người đến ở trong biệt thự của mình? Rằng anh này là một người luôn đúng giờ giấc, thông minh, quần áo chỉnh tề. Và anh trông khá hấp dẫn, luôn thoảng mùi nước hoa đặc trưng dễ chịu, quần áo trông giản dị nhưng lại khá đắt tiền. Anh ta lái chiếc Mercedes, với hai chiếc vali hàng hiệu kềnh càng có ống khóa bằng vàng. Anh đã trả trước tiền thuê nhà trong vài tháng liền bằng tiền mặt, mà với ngài Laval thì điều đó là khác thường ở cái đất nước Italy này. Những gì ngài còn có thể nhớ là anh ta là một người luôn biết lắng nghe, không bao giờ để người khác phải nói đến hai lần. Anh nói tiếng Pháp giọng Paris chuẩn. Rằng anh có vẻ là một người luôn làm chủ được mình trong các cuộc tranh cãi và rất biết chiều chuộng phụ nữ. “Anh ta được sinh ra trong một gia đình quyền quý”, Laval kết luận, ngài chắc chắn về điều đó và hoàn toàn nhận thức được những gì mình đang nói. “Anh ta có dòng máu quý tộc đấy. Hãy ghi lại điều này trong sổ tay”.

Những chi tiết khác về người đàn ông được gọi là Jean-Luc dần dần hiện rõ trong trí nhớ của ngài Laval. Và ngài nhận ra rằng anh ta không khác chính mình là mấy. Anh ta không cần thuê người giúp việc và luôn yêu cầu người làm vườn phải có mặt đúng chín giờ sáng và ra về lúc mười giờ. Anh ta luôn mua sắm ở siêu thị gần nhất và tham gia vào nhóm Mass ở cái villa với lối kiến trúc trung cổ nằm ven hồ ở Anguillara. Anh ta cũng dành nhiều thời gian tham quan những di tích còn lại của thời La Mã thuộc vùng Lazio và đặc biệt bị cuốn hút bởi khu nghĩa địa cổ ở Cerveteri.

Vào cuối tháng Hai - ngài Laval cũng không nhớ chính xác là ngày nào - anh ta biến mất tăm. Ngài cũng không được biết ngày anh ta quay trở lại, vì ngài chỉ được một phụ nữ ở Paris tự xưng là trợ lý riêng của anh chàng ta thông báo rằng anh ta đã rời đi. Mặc dù còn hai tuần nữa mới hết hạn thuê nhà, nhưng anh chàng không hề gây khó khăn cho chính mình, hoặc cho ngài Laval bằng việc đòi hoàn trả số tiền thuê. Cuối mùa thu năm ấy, khi ngài Laval thăm lại villa, ngài rất đỗi ngạc nhiên khi phát hiện ra một mảnh giấy cảm ơn nhỏ, được đánh máy cẩn thận, để trong một chiếc chén bằng pha lê đặt trên bàn trong phòng ăn, và tờ một trăm euro để trả cho bình rượu bị vỡ. Ngài xem xét kỹ lưỡng các ly rượu trong bộ sưu tập của mình và không thấy mất bất kỳ một cái ly nào. Khi ngài Laval cố gắng tìm cách liên lạc với trợ lý của anh ta tại Paris để trả lại số tiền thì số máy ấy lại không thể liên lạc được.

Tiếp giáp công viên Borghese là những đại lộ đẹp tuyệt vời, lá vàng nhẹ rơi bên vệ đường trông như những miếng vảy cá xếp lớp, thấp thoáng những vị khách du lịch qua lại trên những đường phố lớn gần trung tâm thành phố. Đó là những đại lộ kiêu sa ngốn rất nhiều tiền xây dựng, nhưng xe cộ rất thưa thớt, nên những tiếng còi xe hiếm hoi trở thành sự khuấy động khó chịu phá vỡ khung cảnh yên bình của nơi này. Một trong số các đại lộ là con đường cụt. Có một con dốc thoai thoải uốn cong về bên phải. Góc đường này luôn chìm sau bóng của tòa tháp nước bằng đá và bị những cây bạch đàn cao ngất che khuất nhiều giờ trong ngày. Vỉa hè hẹp bên đường bị bong lên bởi những gốc cây trơ rễ. Nó luôn bị phủ lấp bởi những trái thông và lá cây mục. Cuối con đường là khu vực chuyên dành cho các cuộc hội họp ngoại giao được rào chắn cẩn thận, chắc chắn hơn cả thành Rome.

Những người sống sót và sau này trở thành nhân chứng luôn nhớ rõ mồn một về sự hoàn hảo tuyệt đối của buổi sáng cuối đông ấy: một buổi sáng trời trong xanh, đủ lạnh để tạo nên những cơn rùng mình nhè nhẹ dưới bóng râm, đủ ấm để không cần phải tháo nút áo dưới ánh mặt trời. Đó là một buổi sáng lý tưởng để nghĩ đến một bữa trưa thịnh soạn ngoài trời. Ở thành phố Rome đầy tính chính trị ngoại giao thì những buổi tiệc như vậy cũng không phải là hiếm. Nó diễn ra thường xuyên giống như chỉ là một bữa để giết thời gian với ly càphê Cappuccino và Cornetto, để ngẫm nghĩ về một tình huống hoặc phân tích về hành vi của một người nào đó. Hôm nay, ở đây sẽ diễn ra một cộc họp vô cùng quan trọng. Nhiều cuộc họp bàn bình thường khác đã bị hủy bỏ. Tất cả các thủ tục giấy tờ khác bị chuyển qua ngày thứ Hai tuần kế tiếp.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 25-12-2013 18:38:52 | Chỉ xem của tác giả
Trên con đường cụt gần khu công viên Borghese, chẳng có một biển báo nào cắm ở ngoài liên quan đến sự kiện sẽ xảy ra. Những viên cảnh sát Ý và nhân viên an ninh canh gác vòng ngoài đang tán gẫu vu vơ dưới ánh nắng vàng rực rỡ. Cũng như hầu hết các cuộc họp ngoại giao khác ở Rome, thông thường sẽ có hai đại diện ngoại giao, một là phía Chính phủ Ý, một là phía Tòa thánh Vatican. Hai bên sẽ tiến hành họp bàn vào thời điểm được ấn định từ trước. Cuộc họp bàn sẽ diễn ra trong phòng họp nghiêm trang và kín đáo.

Đúng mười giờ mười lăm, một tu sĩ to béo lạch bạch đi xuống phía dốc, xách theo chiếc cặp da. Bên trong chứa công văn vận động ngoại giao của Ban Thư kí Toà thánh Vatican buộc tội phía quân đội Israel vì vụ đột nhập vào Bethlehem vừa qua. Người được giao nhiệm vụ chuyển tin đã trao toàn bộ tài liệu cho thư kí của vị đại sứ và hổn hển quay trở lại đầu dốc. Thông tin trong tập tài liệu sẽ được công bố trong cuộc họp, và những lời lẽ trong đó phần nào thể hiện động thái lúng túng từ phía Vatican. Ngay cả thời điểm chuyển tin cũng chứa đựng yếu tố may rủi. Nếu người chuyển tin chỉ cần đến muộn năm phút thôi, thì cả ông ta và bản gốc tờ công văn sẽ mất tăm trong sự kiện sắp diễn ra ở đây.

Thật không may cho những phóng viên của thông tấn xã Ý khi đã đến đây để phỏng vấn ngài đại sứ đương nhiệm về tình hình chiến sự Trung Đông. Đoàn người Do Thái đến để ủng hộ cho hội nghị về việc lên án chủ nghĩa tân phát xít do ngài đại sứ chủ trì sẽ diễn ra vào tuần sau ở Verona cũng không gặp may. Và cả một cặp người Ý, vốn chán ngấy với những trào lưu mới của phong trào bài trừ Do Thái ở Châu Âu, đến đây hỏi thông tin về chuyện nhập cư vào Israel và cũng cùng chịu chung sự kém may mắn đó. Khoảng mười bốn người đứng tụ lại ngay cổng vào, đang chờ nhân viên an ninh của Đại sứ quán khám xét người, trong lúc đó một chiếc xe tải trắng đang rề rề rẽ phải vào con đường cụt và bắt đầu thực hiện sứ mệnh chết người trong khu vực được rào chắn kỹ càng ấy.

Hầu hết mọi người đều nghe thấy tiếng xe trước khi nó xuất hiện. Tiếng gầm rú của động cơ xé toạc bầu không khích tĩnh mịch của buổi sáng. Dẫu có cố gắng đến đâu cũng không thể bỏ ngoài tai tiếng gầm rú ấy. Các nhân viên an ninh người Ý ngưng cuộc đàm thoại dang dở, ngước mắt nhìn lên, mười bốn người đang đứng tại sảnh ra vào của Đại sứ quán cũng ngước nhìn theo. Người tu sĩ to béo đang đứng chờ xe buýt tại phía cuối đường bên kia cũng rời mắt khỏi tờ báo L’Ossservatore Romano, ông ta ngẩng cái đầu tròn trịa của mình lên và dáo dác tìm nơi phát ra tiếng động đó.

Con dốc thoai thoải làm tăng tốc cho chiếc xe tải, nó lao đi với một tốc độ khủng khiếp. Khi đi qua khúc cua, toàn bộ tải trọng của nó như đổ dồn vào hai cái bánh trước. Chiếc xe chỉ chực đổ nhào. Rồi nó quẹo phải, và bắt đầu đâm thẳng vào khu vực có hàng rào che chắn ấy.

Tài xế xe tải thấp thoáng sau cửa kính xe. Đó là một người đàn ông trẻ tuổi, râu cạo nhẵn nhụi. Đôi mắt to, miệng há hốc đầy kinh ngạc. Anh ta như đứng hẳn trên bàn đạp số, và lầm bầm như đang tự chửi rủa mình. Chẳng hiểu vì lý do gì, chiếc cần gạt lại bật lên.

Lực lượng an ninh phản ứng ngay tức khắc. Một số nhảy vào nấp sau hàng rào kiên cố. Một số khác lao vào bốt bảo vệ được làm bằng sắt và thủy tinh. Hai nhân viên khác nã súng liên tục vào chiếc xe tải tử thần. Những tia lửa nổ lẹt xẹt ở phiến chắn, cửa kính chắn gió vỡ tan tành, nhưng chiếc xe tải không giảm tốc, nó vẫn lao thẳng tới. Sau này, chính phủ Israel đã tuyên dương hành động anh dũng của đội bảo vệ người Ý buổi sáng đó. Không một nhân viên bảo vệ nào rời vị trí. Nhưng kể cả có bỏ chạy, thì số phận của họ cũng đã được an bài.

Tiếng nổ to đến mức vang vọng đến quảng trường St. Peter, rồi Piazza di Spagna và đến cả đồi Janiculum. Mọi người ở tầng cao của những tòa nhà đó đã trông thấy một cảnh tượng kinh hoàng, một quả cầu lửa cam đỏ rực bao trùm cả khu bắc vùng Borghese, sau đó là một vùng khói đen kịt ngùn ngụt bốc lên. Những cánh cửa kính cách đó hàng dặm cũng bị vỡ tung do bị chấn động mạnh, cả những cánh cửa kính nhuộm màu của nhà thờ cạnh đó cũng vỡ tan. Cây tiêu huyền trơ trụi lá. Chim đang bay cũng chết cháy. Các chuyên gia nghiên cứu địa lý của trung tâm kiểm soát địa chấn ban đầu chẩn đoán rằng Rome đã trải qua một trận động đất kinh hoàng.

Không ai trong số những nhân viên bảo vệ sống sót sau vụ nổ ấy. Cả mười bốn người khách đang đứng chờ vì công việc của mình, và các quan chức ngoại giao đang làm việc trong văn phòng ngay cạnh vụ nổ khủng khiếp vừa xảy ra cũng cùng chung số phận.

Tuy nhiên, chiếc xe xuất hiện sau vụ nổ mới thực sự kết thúc số phận của những người còn may mắn sống sót. Người chuyển tin của Tòa thánh Vatican, người chỉ bị chấn động bởi vụ nổ đầu tiên, đã trông thấy một chiếc xe chạy vào con đường cụt với tốc độ kinh hoàng. Và đó là chiếc xe Lancia mui kín chạy với tốc độ nhanh, và trong xe có bốn người đàn ông, nên ông tưởng đó là các nhân viên cảnh sát đến ứng phó cho vụ nổ vừa qua. Người tu sĩ đứng lên và đi về phía những cột khói đen cao ngút với hi vọng có thể giúp đỡ những người bị thương và những người đang hấp hối. Nhưng chính mắt ông lại thấy một cảnh tượng kinh hoàng khác. Những cánh cửa chiếc Lancia đồng loạt mở ra, bốn người đàn ông mà ông nhầm tưởng là cảnh sát bắt đầu nã súng vào đám người đang quằn quại dưới đất. Những người sống sót sau vụ cháy chấn động tại tòa đại sứ đã bị giết chết một cách nhẫn tâm.

Bốn tay súng ngừng bắn và nhảy vào chiếc Lancia. Ngay khi chúng lao nhanh ra khỏi khu hỗn loạn đang bốc cháy ngùn ngụt, một tên khủng bố đã nhắm súng tự động thẳng vào tu sĩ. Người tu sĩ đứng thẳng người dang tay hình cây thánh giá, chuẩn bị sẵn sàng cho sự ra đi của mình. Tên khủng bố chỉ mỉm cười và mất hút sau màn khói dày đặc.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 25-12-2013 18:45:00 | Chỉ xem của tác giả
Chương 2

TIBERIAS, ISRAEL

Mười lăm phút sau loạt đạn cuối cùng nổ ra ở Roma, chiếc điện thoại bảo mật reo lên trong căn biệt thự rộng màu mật ong hướng ra phía biển Galilee. Ari Shamron, cựu Giám đốc hai nhiệm kỳ của Cục tình báo Israel, hiện đang là cố vấn đặc biệt của Thủ tướng về tất cả vấn đề liên quan đến an ninh và tình báo, nhận cuộc gọi trong phòng làm việc. Ông im lặng nghe một lúc lâu, cặp mắt nhắm nghiền vì giận dữ. “Tôi đang trên đường tới”, ông nói và gác máy.

Vừa quay lưng lại, ông thấy Gilah đang đứng ở cửa phòng làm việc. Trên tay bà là chiếc áo khoác bằng da của ông, mắt bà ngấn lệ.

“Người ta mới đưa tin trên tivi. Tình hình tệ đến mức nào vậy anh?”

“Rất tệ. Thủ tướng muốn anh giúp ông chuẩn bị bài phát biểu trước toàn dân”.

“Vậy anh không nên để Thủ tướng chờ lâu”.

Bà khoác áo và hôn lên má ông. Một hành động quá đỗi thường nhật nhưng vô cùng thân thương. Đã bao nhiêu lần ông phải để vợ ở lại một mình sau khi nghe tin người Do Thái đã bị giết bởi bom đạn? Từ lâu ông không còn đếm những lần như vậy nữa. Cho đến cuối cuộc đời mình, ông phải chấp nhận rằng việc này sẽ không bao giờ chấm dứt cả.

“Anh sẽ không hút quá nhiều thuốc chứ?”

“Tất nhiên rồi”.

“Gọi cho em nhé”.

“Anh sẽ gọi khi có thể”.

Ông bước ra cửa. Một luồng gió lạnh và ẩm ùa vào mặt. Một cơn bão đã đổ xuống Golan suốt đêm qua và vây hãm toàn bộ vùng thượng lưu Galilee. Shamron choàng tỉnh sau tiếng sấm gầm đầu tiên, ông nhầm đó là tiếng súng và điều này làm ông thao thức cả đêm. Với ông, ngủ cứ như làm một chuyện gì đó vụng trộm. Ông rất khó ngủ và một khi đã bị thức giấc thì không tài nào ngủ lại được. Trong tâm thức, ông thường hay thấy mình lang thang trong những căn phòng chứa hồ sơ bảo mật, sống lại với những kí ức đã qua, trở lại chiến trường xưa và đối mặt kẻ địch từ nhiều năm trước. Nhưng đêm qua thì khác. Linh tính mách bảo ông thảm họa sắp xảy ra, cảm giác đó rõ đến độ ông đã phải gọi ngay người lính trực đêm ở sở làm cũ để biết chắc mọi chuyện. Viên sĩ quan trẻ đã nói rằng. “Sếp cứ yên tâm. Mọi thứ vẫn ổn”.

Chiếc xe Peugeot bọc sắt và chống đạn màu đen của ông đã nổ máy chờ sẵn trên đường. Rami, viên chỉ huy đội an ninh có mái tóc đen đứng cạnh với cửa hông xe mở sẵn. Trong suốt thời gian hoạt động của mình, Shamron có rất nhiều kẻ thù, hơn thế, tình trạng dân cư ở Israel rất phức tạp nên họ phải sống lay lắt gần Tiberias. Rami luôn lầm lũi như một con sói cô độc và rất hiếm khi rời chủ nhân của mình.

Shamron dừng bước để châm thuốc, đó là một loại thuốc rẻ tiền của Thổ Nhĩ Kỳ mà ông hay hút từ dạo còn đương nhiệm. Ông bước ra vỉa hè. Dáng ông không cao nhưng tuổi tác không làm mất đi vẻ ngoài vạm vỡ ấy. Bàn tay dày đầy vết đồi mồi như thể được mượn từ một người to lớn gấp đôi mình. Khuôn mặt đầy vết nứt nẻ không khác gì quang cảnh sa mạc Negev nhìn từ trên cao xuống. Mái tóc xám bạc gần như rụng hết. Cặp kính ông đeo trông rất buồn cười, nhưng có vẻ ông lại muốn gắn bó với cái gọng xấu xí bằng nhựa không vỡ đó. Tròng kính dày làm đôi mắt xanh vốn từ lâu không còn tinh tường nữa trở nên to hơn. Ông bước đi như thể luôn lường trước một cuộc tấn công từ phía sau, đầu cúi xuống và khủy tay khép chặt lại để phòng thủ. Mọi người ở tổng hành dinh nằm trên đại lộ King Saul, đều gọi điệu bộ đó là “Shamron - tàu con thoi”. Ông cũng biết biệt hiệu đó và chỉ mỉm cười.

Shamron leo nhanh vào ghế sau của chiếc Peugeot. Chiếc xe nặng nề đảo bánh và lao nhanh xuống dốc về phía dòng sông. Xe rẽ phải và lao thẳng về phía Tiberias, sau đó rẽ về hướng tây, băng qua Galilee về hướng vùng đồng bằng ven biển. Trong suốt đoạn đường đi, Shamron cứ nhìn chằm chằm vào mặt chiếc đồng hồ đeo tay đầy những vết xước. Lúc này đây, đối với ông thời gian không khác gì kẻ thù. Cứ mỗi phút trôi qua, những tên sát nhân càng đi xa khỏi hiện trường tội ác. Giả như chúng tấn công vào Jerusalem hoặc Tel Aviv thì bây giờ chắc chắn chúng đã bị bao vây trong mạng lưới trạm kiểm soát và rào chắn. Nhưng cuộc tấn công lại xảy ra ở Ý, không phải ở Israel, và Shamron đành phó mặc cho cảnh sát Ý. Đã lâu lắm rồi, người Ý chưa phải đối mặt với một hành động khủng bố nào nghiêm trọng như vậy. Hơn nữa cầu nối giữa Israel và chính phủ Ý là Đại sứ quán Israel đã bị phá hủy nghiêm trọng. Điều này làm Shamron nghi ngờ vì đây là cơ quan trọng yếu của Cục tình báo Israel. Rome là cơ quan đầu não cho các điệp vụ ở vùng Nam Âu. Vùng này do một sĩ quan tình báo hay còn gọi là katsa tên Shimon Pazner chỉ huy, người đã được Shamron tuyển chọn và dày công đào tạo. Có thể Văn phòng vừa mất đi một trong những sĩ quan tài ba và dày dặn kinh nghiệm nhất.

Cuộc hành trình dường như kéo dài vô tận. Họ nghe tin trên đài phát thanh Israel, và mỗi một tin tức cập nhập về tình trạng ở Rome dường như ngày càng tệ hơn. Ông lo lắng rút chiếc điện thoại được bảo mật ra rồi lại nhét vào vỏ mà vẫn không gọi được cho bất kỳ số nào, đây đã là lần thứ ba rồi. Hãy để cho họ giải quyết, ông tự trấn an. Họ biết mình đang làm gì. Không có mình biết đâu họ lại có cách giải quyết tốt hơn. Hơn nữa, cũng không còn thời gian để một cố vấn đặc biệt của Thủ tướng như ông đề xuất những tham vấn hữu ích về vấn đề an ninh và khủng bố.

Cố vấn đặc biệt… ông vẫn thấy miễn cưỡng với chức danh này. Nó mang rất nhiều hàm ý. Ông bị xem là một Memuneh, nghĩa là người chịu trách nhiệm. Ông đã chứng kiến những giờ phút thăng trầm của đất nước và của chính Cơ quan tình báo mình. Lev cùng những thanh niên theo đường lối kỹ trị quy toàn bộ trách nhiệm cho ông và đày ông đến vùng sa mạc Judean hoang vu. Đáng lẽ ra ông đã phải ở đó đến suốt đời nếu Thủ tướng không mời ông quay lại. Một bậc thầy về “giật dây” như Shamron thừa hiểu rằng quyền lực có được khi làm việc tại văn phòng Thủ tướng không hề thua kém gì thời ông còn đương nhiệm tại Tổng hành dinh ở Đại lộ King Saul. Kinh nghiệm dạy ông phải biết kiên nhẫn. Rốt cuộc mọi chuyện cũng đâu vào đấy. Chắc chắn là như thế.

Họ lên dốc hướng về Jerusalem. Với Shamron, chuyến đi này sẽ không có gì đặc biệt nếu nó không làm ông gợi nhớ về chiến trường xưa. Ông lại linh cảm thấy cái thảm họa đó. Đó có phải là Rome mà ông vừa thấy đêm trước không? Hay nó lại là một điều gì đó thậm chí còn lớn hơn cả Rome chăng? Một kẻ thù cũ, ông tin chắc như thế. Đó là một người đã chết, có liên quan đến quá khứ của ông.

Văn phòng Thủ tướng Israel tọa lạc tại số 3 đường Kaplan, khu Kiryat Ben-Gurion phía tây Jerusalem. Shamron vào tòa nhà từ bãi đậu xe ngầm rồi đi lên phòng làm việc. Căn phòng tuy nhỏ nhưng được bố trí rất hợp lý ngay hành lang dẫn đến phòng Thủ tướng, từ đây Shamron có thể quan sát mỗi khi Lev hoặc bất kì quan chức tình báo cấp cao nào bước vào phòng họp riêng ở bên trong. Ông không có thư ký riêng, nhưng có một cô gái tên Tamara làm việc cho ông cùng với ba nhân viên khác. Cô mang vào cho ông một tách cà phê và bật cả ba chiếc tivi lên.

“Varash có cuộc họp tại văn phòng Thủ tướng lúc năm giờ”.

Varash là từ viết gọn theo tiếng Do Thái cổ thay cho Nhóm các nhà lãnh đạo cấp cao của Cục Tình báo. Bao gồm Tổng giám đốc của Shabak thuộc Bộ Nội vụ; Sĩ quan cấp cao của Aman thuộc tình báo quân đội; và cả lãnh đạo của Cục tình cáo Israel, thường được gọi chung là “Văn phòng”. Shamron với vai trò Lãnh đạo của mình luôn có mặt trong những buổi họp này.

“Nhân tiện”, Tamara nói, “Thủ tướng muốn có một bản tóm tắt tình hình trong hai mươi phút nữa”.

“Nói với ông ấy nửa tiếng nữa thì tốt hơn”.

“Nếu ông muốn nửa tiếng nữa thì xin hãy tự báo cáo với ông ấy”.

Shamron ngồi vào bàn, cầm lấy điều khiển lướt qua các kênh truyền thông quốc tế khoảng năm phút để nắm bắt những thông tin chung. Rồi ông nhấc điện thoại và gọi đi ba cuộc, một cho người quen đã lâu ở Đại sứ quán Ý tên Tommaso Naldi, hai là đến Bộ Ngoại giao Israel, nằm không xa trên trên đại lộ Yitzhak Rabin, ba là đến tổng hành dinh của Văn phòng trên đại lộ King Saul.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 25-12-2013 18:46:45 | Chỉ xem của tác giả
“Hiện thời ông ấy không thể tiếp chuyện với ông được”, thư ký của Lev nói. Shamron đã đoán trước được phản ứng của người thư ký này. Gọi Lev thông qua các trạm kiểm soát quân sự còn dễ hơn là thông qua thư ký của ông ta.

“Bảo ông ấy nghe máy đi”, Shamron nói, “hoặc là Thủ tướng sẽ gọi cho cô cuộc tiếp theo đấy”.

Lev để Shamron đợi khoảng năm phút.

“Anh biết những gì rồi?”. Shamron hỏi.

“Sự thật à? Chưa có gì cả”.

“Cơ quan ở Rome vẫn còn chứ?”

“Đừng nhắc đến nữa”, Lev đáp, “nhưng chúng ta vẫn còn katsa của Rome. Lúc đó Pazner đang đi công vụ ở Naples. Anh ta vừa làm xong thủ tục ở sân bay. Giờ anh ta đang quay về Rome”.

Ơn Chúa, Shamron nghĩ. “Còn gì nữa không?”

“Tôi cũng không rõ. Như anh thấy đấy, tình hình lúc này khá lộn xộn”. Lev luôn làm người khác khó chịu bởi cách nói giảm, nói tránh của mình. “Có hai thư kí và một nhân viên truyền thông mất tích”.

“Còn gì trong đống hồ sơ có thể gây thiệt hại hoặc làm rắc rối thêm tình hình không?”

“Chúng ta chỉ có thể hi vọng là chúng không bị tan thành tro”.

“Các hồ sơ đó được cất trong tủ có thể chịu được cả một tên lửa. Tốt hơn hết là phải lấy chúng đi trước khi người Ý lấy được”.

Tamara thò đầu vào cửa. “Thủ tướng muốn gặp ông ngay bây giờ”.

“Tôi sẽ gặp lại anh lúc năm giờ”, Shamron nói với Lev và dập máy.

Shamron gom các tờ ghi chú lại, rồi đi dọc hành lang theo Tamara đến phòng Thủ tướng. Hai vệ sĩ to lớn tóc cắt ngắn, áo bỏ ngoài quần thuộc nhóm bảo vệ đặc biệt Shabak của Thủ tướng nhìn Shamron đang tiến đến. Một người bước nghiêng qua và mở cửa. Shamron đi lướt qua và bước vào bên trong.

Căn phòng hơi tối với bầu không khí lành lạnh. Thủ tướng ngồi sau chiếc bàn lớn, dáng người nhỏ bé hẳn đi dưới bức chân dung cao lớn của nhà lãnh đạo chủ nghĩa phục quốc Do Thái Theodor Herzl treo trên tường. Shamron đã vào căn phòng này rất nhiều lần, nhưng chưa lần nào tim ông đập nhanh đến thế. Đối với Shamron, căn phòng này là biểu tượng cho sự kết thúc một quá trình đấu tranh đáng nhớ, cho sự ra đời của nhà nước Do Thái độc lập trên lãnh thổ Israel. Sự sống và cái chết, chiến tranh và nạn tàn sát người Do Thái - Shamron, cũng như ngài Thủ tướng, đều có vai trò vô cùng quan trọng trong tất cả chuỗi sự kiện này. Theo quan điểm cá nhân, họ xem đây là đất nước của họ, là kết quả họ đã tạo dựng được và họ phải bảo vệ nó khỏi những thế lực mà người Arập, người Do Thái hoặc một số quốc gia khác muốn làm suy yếu hoặc hủy hoại.

Thủ tướng không nói một lời nào, chỉ gật đầu ra hiệu cho Shamron ngồi xuống. Đầu ông hơi nhỏ lại đặt trên chiếc bụng khá to nên dáng ông trông giống như những tảng đá có nguồn gốc từ núi lửa. Đôi tay ông khoanh lại trên bàn, chiếc xương hàm to lộ ra dưới cổ áo sơ mi.

“Tình hình tệ đến mức nào rồi Ari?”

“Cuối ngày chúng ta sẽ biết cụ thể hơn”, Shamron nói. “Nhưng tôi có thể chắc một điều rằng đây là một hành động khủng bố vô cùng tồi tệ nhằm chống lại chúng ta, nếu không nói là tồi tệ nhất”.

“Bao nhiêu người chết?”

“Vẫn chưa có con số cụ thể”.

“Đại sứ hai nước thì sao?”

“Theo thông tin chính thức thì họ vẫn còn nằm trong danh sách mất tích”.

“Còn không chính thức?”

“Người ta cho rằng họ đã chết”.

“Cả hai à?”

Shamron gật đầu. “Và cả những cộng sự của họ nữa”.

“Bao nhiêu trường hợp đã chết thật sự?”

“Theo báo cáo của Ý thì có mười hai cảnh sát và nhân viên an ninh đã chết. Hiện tại, Bộ Ngoại giao đang xác nhận tình trạng hai mươi hai người bị giết cùng với các thành viên của mười ba gia đình sống tại khu liên hợp. Khoảng mười tám người được xem là mất tích”.

“Năm mươi hai người chết?”

“Đó là con số tối thiểu. Hình như lúc đó còn có vài người khách đang chờ để làm thủ tục ngoài cổng vào”.

“Còn cơ quan đại diện của Văn phòng?”

Shamron nhắc lại những gì vừa nghe từ Lev. Pazner còn sống. Ba nhân viên của Văn phòng được cho là đã chết.

“Ai gây ra vụ này?”

“Lev vẫn chưa tìm ra bất cứ…”

“Tôi không nhắc đến Lev”.

“Không may là danh sách nghi phạm khá dài. Những gì tôi có thể nói bây giờ chỉ là suy đoán. Nhưng lúc này đây, suy đoán cũng chẳng giúp ích gì được”.

“Tại sao chúng lại chọn Rome?”

“Khó nói lắm”, Shamron đáp. “Có lẽ đó chỉ là mục tiêu mang tính thời cơ thôi. Có thể chúng phát hiện ra một yếu điểm, sự lỏng lẻo trong phòng thủ của chúng ta, và chúng quyết định tấn công vào nó”.

“Nhưng anh không tin điều đó phải không?”

“Không thưa Thủ tướng”.

“Chắc hẳn phải có gì đó liên quan đến vụ xảy ra ở Vatican vài năm trước - sự việc liên quan đến Allon thì phải?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 25-12-2013 18:49:28 | Chỉ xem của tác giả
“Tôi cũng có nghi ngờ điều này. Tất cả chứng cứ đều cho thấy đó là một cuộc tấn công tự sát do bọn khủng bố Arập thực hiện”.

“Tôi muốn có một bản tường trình sau khi Varash họp xong”.

“Tôi nghĩ việc đó không khó”.

“Và tôi muốn chính anh viết nó”.

“Nếu ông muốn thế”.

“Anh đã thấy những tổn thất rồi đó Ari. Cả hai chúng ta đều biết. Cần dồn hết tâm sức cho lần này. Hãy tháo bỏ nỗi đau thương Ba Lan mà anh đang mang trong lòng. Tối nay cả đất nước cần phải khóc. Hãy để họ khóc. Nhưng hãy cho họ biết rằng những kẻ dã tâm gây ra chuyện này sẽ phải chịu sự trừng trị thích đáng”.

“Sẽ như vậy, thưa Thủ tướng”.

Shamron đứng dậy.

“Ai gây ra vụ này, Ari?”

“Chúng ta sẽ sớm biết thôi”.

“Tôi muốn lấy đầu hắn”, Thủ tướng nói vô cùng giận dữ. “Tôi muốn treo đầu hắn lên”.

“Chắc chắn ông sẽ có nó”.

Bốn mươi tám tiếng trôi qua, cảnh sát mới lần ra được dấu vết đầu tiên của bọn sát nhân. Nhưng không phải ở Rome mà ở thành phố công nghiệp nằm phía bắc Milan. Điều tra theo lời khai báo của người cung cấp thông tin nhập cư Tunisia, các đơn vị của lực lượng Cảnh sát quốc gia đã bất ngờ tiến hành khám xét một nhà trọ ở khu dành cho công nhân nằm ở phía bắc thành phố, nơi mà hai tên sát thủ còn sống sót được cho là đang trốn ở đây. Bọn chúng đã không còn ở đây nữa, và dựa theo hiện trạng của căn phòng thì có vẻ chúng bỏ đi rất vội vã. Cảnh sát còn phát hiện ra hai chiếc va li chứa đầy quần áo và nửa tá điện thoại cầm tay cùng với những tấm hộ chiếu giả và thẻ tín dụng ăn cắp. Tuy nhiên vật gây tò mò nhất là một chiếc đĩa CD được may chặt dưới tấm lót của một trong hai chiếc vali. Các nhân viên điều tra Ý ở phòng nghiên cứu tội phạm quốc gia ở Rome xác định rằng chiếc đĩa có chứa dữ liệu, nhưng họ vẫn chưa thể phá vỡ được bức tường bảo mật phức tạp của nó. Cuối cùng, sau nhiều tranh cãi nội bộ, phía Ý đành nhờ đến sự giúp đỡ của người Israel.

Chính vì vậy Shimon Pazner đã nhận được lời mời từ tổng hành dinh của Cục An ninh và Tình báo Ý. Anh đến khoảng sau mười giờ đêm và lập tức đến ngay văn phòng của Phó cục An ninh tên là Martino Bellano. Dáng vóc hai người nhìn khá trái ngược nhau: Bellano cao, hơi gầy và ăn vận cứ như vừa bước ra từ một tờ tạp chí thời trang Ý, còn Pazner nhỏ người nhưng vạm vỡ với mái tóc bù xù và chiếc áo khoác thể thao nhăn nhúm. “Một đống đồ chưa giặt” là cách Bellano mô tả Pazner sau cuộc gặp mặt. Trong lúc nói chuyện, Pazner đã cư xử một cách không thẳng thắn lắm, theo thường lệ Bellano thấy rằng người Israel này là “kẻ cho vay khoác trên người một chiếc áo đi mượn”.

Bởi vậy, trong lần đầu tiên, Bellano cũng không mấy bận tâm về vị khách của mình. Bởi Pazner không phải kiểu người gây được thiện cảm ngay lập tức với người mới gặp, khi anh xuất hiện tại văn phòng của Bellano, đôi mắt anh đã nặng trĩu do kiệt sức và cảm giác tội lỗi nặng nề vì mình là kẻ sống sót. Bellano dành vài phút bày tỏ “sự chia buồn sâu sắc” về vụ nổ bom trước khi đi vào lý do chính là tại sao lại mời Pazner đến đây vào lúc muộn như thế này: đó là chiếc đĩa dữ liệu. Ông đặt chiếc đĩa lên bàn một cách lịch sự và đẩy nó về phía Pazner bằng ngón trỏ đã được gọt giũa cẩn thận. Pazner lẳng lặng nhận lấy chiếc đĩa, sau này anh đã thú nhận với Shamron rằng lúc đó tim anh đập liên hồi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.

“Chúng tôi không làm sao bẻ được khóa”, Bellano nói. “Biết đâu các ngài sẽ gặp may mắn hơn”.

“Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức”, Pazner khiêm tốn đáp trả.

“Tất nhiên, các ngài phải trao cho chúng tôi mọi tài liệu tìm được trong chiếc đĩa này”.

“Điều đó là lẽ đương nhiên”. Pazner đáp và bỏ chiếc đĩa vào trong túi áo khoác.

Cả hai nói chuyện thêm khoảng mười phút nữa. Bellano nhận thấy đã đến lúc phải kết thúc cuộc gặp mặt. Nhưng Pazner vẫn ngồi đấy, tay nắm chặt thành ghế như đang rất thong thả bình tĩnh. Bất cứ người nào gặp anh tại sảnh lớn ở sân bay đều cho rằng anh không có chuyện gì để vội vã. Chỉ khi ra đến bên ngoài và bước ra khỏi cửa trước thì anh mới bước đi rất nhanh đầy nôn nóng vội vã.

Vài giờ sau cuộc tấn công, một nhóm chuyên viên về bom giàu kinh nghiệm của Israel đã có mặt ở Rome để bắt đầu tiến hành phân tích những mảnh vỡ nhằm tìm ra thành phần và nguồn gốc của quả bom. May mắn thay, nhóm chuyên viên của quân đội đã mang những mảnh này từ Tel Aviv về hiện vẫn còn trực chiến tại Fiumicino. Pazner, được sự chấp thuận của Shamron, đã trưng dụng một chiếc máy bay để bay về Tel Aviv. Anh đến ngay lúc mặt trời vừa mọc. Một nhóm người của Văn phòng ra đón anh. Sau đó họ đi nhanh về Đại lộ King Saul một cách thận trọng, món hàng họ đang mang cực kỳ quý giá, không thể để nó bị ảnh hưởng bởi vấn đề tồi tệ nhất ở Israel là đường xá. Vào tám giờ sáng hôm đó, tất cả những bộ óc thông minh của Bộ phận kỹ thuật Văn phòng đều dồn sức vào mở khóa chiếc đĩa và đến chín giờ bức tường lửa đã được phá bỏ. Sau này Ari Shamron có thể kiêu hãnh nói rằng những thiên tài kỹ thuật của Văn phòng chỉ mất một khoảng thời gian tương đương với thời gian nghỉ giải lao của người Ý để tìm ra được mã khóa. Việc giải mã tài liệu mất thêm một tiếng đồng hồ nữa, đến mười giờ bản in nội dung dữ liệu của chiếc đĩa đã được đặt trên bàn Lev. Tập tài liệu đó chỉ nằm đó được một lúc vì Lev đã ngay lập tức bỏ nó vào hành lý bảo mật và mang đến đường Kaplan ở Jerusalem để trình cho Thủ tướng. Tất nhiên lúc đó Shamron đang ở cạnh Thủ tướng.

“Phải làm cho Thủ tướng vào cuộc luôn”, Lev nói với sự hăng hái của một người vừa làm được một chuyện to tát. Shamron nghĩ có lẽ đó chính xác là những gì mà ông ta cảm thấy ông ta luôn xem Shamron là địch thủ, và cách thức đối mặt với địch thủ mà Lev thường làm, dù đó là địch thủ thật sự hay tiềm năng, đó là luôn làm địch thủ của mình phải khó chịu. “Tối nay Pazner sẽ quay về Ý. Hãy cử một nhóm chuyên về trích xuất dữ liệu theo anh ta”.

Shamron lắc đầu. “Anh ta là người của tôi. Tôi phải đưa anh ta về”. Ông dừng lại. “Hơn nữa, hiện tại Pazner còn có việc quan trọng phải làm”.

“Gì chứ?”

“Tất nhiên cứ nói với người Ý là chúng ta vẫn chưa thể mở khóa chiếc đĩa được”.

Lev vốn có thói quen không bao giờ là người đầu tiên ra khỏi phòng, vì vậy ông đứng dậy với một vẻ miễn cưỡng và đi ra ngoài. Shamron ngước nhìn lên và thấy Thủ tướng đang nhìn vào mình.

“Pazner sẽ ở đây cho đến khi kết thúc chuyện này”, ngài Thủ tướng nói.

“Vâng, anh ta sẽ ở đây”, Shamron đồng ý.

“Có lẽ chúng ta cần cho anh ta làm gì đó để giết thời gian”.

Shamron gật đầu ngay, thế là mọi chuyện đã hoàn thành.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 26-12-2013 16:50:30 | Chỉ xem của tác giả
Chương 3

LUÂN ĐÔN

Việc tìm gặp Gabriel khó khăn không kém gì việc truy tìm thủ phạm vụ thảm sát ở Rome. Anh ta vốn không hay báo cáo việc mình làm và cũng không thích khép mình vào kỷ luật của Văn phòng, vì thế khi anh ta rời Venice mà chẳng buồn báo lấy một tiếng. Chẳng ai thấy ngạc nhiên, kể cả Shamron Anh ta đến Anh để thăm vợ, Leah, vốn đang điều trị tại một bệnh viện tâm thần tư nhân nằm ở một nơi hẻo lánh của vùng Surrey. Tuy nhiên, trạm dừng chân đầu tiên của anh ta lại là con đường New Bond, nơi mà anh đồng ý tham gia cuộc đấu giá Old Master tại Bonhams theo yêu cầu của một nhà buôn nghệ thuật ở Luân Đôn tên Julian Isherwood.

Isherwood đến rất sớm, một tay cắp chiếc cặp da đã mòn gáy, tay kia cầm chiếc áo mưa hiệu Burberry. Một vài nhà buôn khác đang túm tụm trong hành lang. Isherwood lí nhí chào vài tiếng rồi đi ngay vào phòng để mũ áo. Sau khi cởi bỏ chiếc áo mưa Burberry ướt đẫm, ông giơ đồng hồ đến gần cửa sổ. Dáng người ông cao và mảnh khảnh trong bộ comple đấu giá thường lệ - một bộ sọc đứng đắn cùng với chiếc cà-vạt đỏ sẫm vốn được ông coi là thần hộ mệnh của mình. Ông chải nhẹ mái tóc hoa râm bồng bềnh che phủ phần hói và nhìn một lần nữa khuôn mặt mình phản chiếu qua mặt kính. Một người lạ có thể cho rằng ông hơi say. Nhưng Isherwood không phải là loại người như thế. Ông là một tay không hề biết say rượu là gì. Miệng lưỡi lại cực kì sắc sảo. Ông dang hai tay, kéo gấu áo xuống và thoáng liếc nhìn đồng hồ. Đã trễ rồi. Không giống như Gabriel, Isherwood luôn đúng giờ như bản tin lúc chín giờ vậy. Không bao giờ ông bắt khách hàng phải chờ mỏi gối. Càng không bao giờ ông bỏ qua việc chỉnh lại bề ngoài của mình đến từng nếp áo, tất nhiên trừ khi hoàn cảnh không cho phép.

Isherwood chỉnh lại cà-vạt và kéo thấp hai vai áo để hình ảnh đang phản chiếu trong gương có được phong thái ung dung, tự tin của một kẻ xuất thân từ tầng lớp cao quý ở Anh. Ông bước vào các cuộc đấu giá, rao bán những bộ sưu tập cho giới thượng lưu cũng như thay mặt họ giành mua những bộ sưu tập mới, nhưng thực chất ông không bao giờ có thể trở thành một người thuộc tầng lớp của họ được. Thế thì bằng cách nào ông lại làm được điều này? Cái họ chính gốc Anh cùng dáng người cao lêu nghêu đặc trưng đã giúp ông che đậy được sự thật rằng về mặt huyết thống ông không phải là người Anh. Ông có quốc tịch và hộ chiếu Anh, nhưng được sinh ra ở Đức, lớn lên tại Pháp và mang tôn giáo của người Do Thái. Chỉ một số ít bạn bè thân tín mới biết rằng vào năm 1942, đứa trẻ tỵ nạn có tên Isherwood được hai vị linh mục xứ Basque mang đến Luân Đôn sau khi vượt qua dãy núi Pyrenees tuyết phủ trắng xóa. Làm sao ông mang dòng máu người Anh khi cha ông, Samuel Isakowitz, một nhà buôn nghệ thuật tiếng tăm của Berlin, đã kết liễu đời mình tại một góc rừng Ba Lan, một nơi được gọi là Sobibor?

Còn khá nhiều điều mà Julian Isherwood giữ bí mật đối với các đối thủ của mình trong giới nghệ thuật Luân Đôn cũng như những người xung quanh. Đó là trong nhiều năm qua, ông vẫn thỉnh thoảng giúp đỡ một quý ông tên Shamron đến từ Tel Aviv. Theo biệt ngữ dựa trên tiếng Do Thái cổ của đội quân không thường trực của Shamron, Isherwood là một sayan, nghĩa là một người giúp đỡ tình nguyện không công, mặc dù các cuộc gặp gỡ giữa ông và Shamron chủ yếu mang tính bắt buộc hơn là tình nguyện.

Chợt Isherwood thoáng thấy bóng chiếc áo khoác da phủ chiếc quần jeans giữa dòng người co ro trong những chiếc áo mưa trên đường New Bond. Bóng người thoắt ẩn thoắt hiện như thể anh ta đang băng qua những tấm màn để bước ra sân khấu sáng rực ánh đèn. Isherwood vẫn luôn bất ngờ với vẻ ngoài không mấy ấn tượng của anh ta, chiều cao khoảng 1m67, nặng 70kg. Đôi bàn tay lọt thỏm trong chiếc áo khoác đen bằng da dài thườn thượt, vai hơi chúi về phía trước. Anh ta bước đi thoăn thoắt như không hề tiêu tốn chút sức lực nào. Đôi chân hơi cong cong của anh ta khiến Isherwood liên tưởng ngay đến những người có khả năng chạy rất nhanh hay đá bóng giỏi. Anh ta mang đôi giày da lộn đế cao su khá vừa vặn và không mang ô mặc trời mưa rất to. Gương mặt dần hiện rõ với chiếc trán cao, rộng và cái cằm nhọn. Chiếc mũi nhỏ gọn như thể được tạc từ gỗ, xương gò má cao và rộng còn đôi mắt xanh thăm thẳm ấy dường như có chút gốc gác của người Nga. Mái tóc đen được cắt ngắn gọn gàng và có chút hoa râm nơi thái dương. Khuôn mặt anh ta phảng phất sự kết hợp của nhiều nguồn gốc quốc gia khác nhau. Thật ra nếu nói như thế cũng chẳng có ai nghi ngờ điều này, bởi anh ta nói được rất nhiều ngôn ngữ khác nhau. Isherwood vẫn chưa biết Gabriel chính xác là ai? Không gốc gác, không tung tích. Anh ta là một người Do Thái nay đây mai đó.

Rồi anh xuất hiện ngay bên cạnh Isherwood. Không một lời chào hỏi, đôi bàn tay vẫn áp chặt trong túi áo khoác. Cách thức hoạt động trong thế giới ngầm khi làm việc cho Shamron đã hình thành nơi Gabriel một phong cách không mấy lịch thiệp trong các mối quan hệ xã hội bên ngoài. Chỉ trừ khi anh ta phải đóng vai một người lịch lãm. Isherwood nghĩ vẫn có những khoảnh khắc con người ta hé lộ bản chất thật của mình. Như Gabriel lúc này đây, dưới con mắt người ngoài, anh ta là một người lặng lẽ, buồn bã và khó gần. Gabriel khiến những ai tiếp xúc với anh đều cảm thấy khó chịu tột cùng. Hay đây cũng là một trong những biệt tài của anh?

Họ đi dọc hành lang đến bàn đăng ký. “Hôm nay chúng ta là ai đây?”. Isherwood khẽ hỏi, nhưng Gabriel chỉ cúi người về phía trước và viết nguệch ngoạc vài chữ khó đọc vào cuốn sổ đăng ký. Isherwood quên rằng anh ta là một người thuận tay trái. Ký tên bằng tay trái, cầm cọ vẽ bằng tay phải, dùng dao và nĩa bằng tay nào cũng được. Nhưng việc anh ta sử dụng khẩu Beretta bằng tay nào thì thật sự Isherwood cũng không biết.

Họ bước lên cầu thang, Isherwood bám sát Gabriel, lặng lẽ như một vệ sĩ. Áo khoác không vang lên tiếng sột soạt, quần jean cũng không, và đôi giày dường như đang trôi bồng bềnh trên tấm thảm. Isherwood phải chạm nhẹ vào vai Gabriel để nhắc anh ta về sự hiện diện của mình. Đến đầu cầu thang, một nhân viên an ninh yêu cầu Gabriel mở chiếc ba lô da. Anh mở khóa kéo để nhân viên xem xét đồ đạc bên trong: kính mắt một tròng hiệu Binomag, một đèn tia cực tím, một đèn hồng ngoại và một đèn chiếu halogen mạnh. Tay nhân viên vui vẻ ra hiệu cho họ đi tiếp.

Họ bước vào phòng bán hàng, hàng trăm bức tranh treo trên tường và đặt trên giá có phủ vải len tuyết được chiếu rọi dưới ánh đèn. Xen lẫn giữa các tác phẩm là những nhóm nhà buôn đang dáo dác nhìn quanh. Isherwood nghĩ bọn họ không khác gì những con chó rừng đang sục sạo trong đống rác hòng kiếm được một cục xương thừa. Vài người trong bọn họ cứ dí mặt sát vào bức tranh, còn số khác thì đứng xa quan sát. Nhiều phương án được đề xuất. Tiền đã đặt sẵn trên bàn. Các nhân viên ước tính lợi nhuận tiềm năng. Nó chẳng giống với thế giới nghệ thuật chân chính mà Isherwood hằng yêu mến. Gabriel phớt lờ. Anh đi nhẹ nhàng như thể đã rất quen với cảnh hỗn độn của khu chợ ở các nước Hồi giáo. Isherwood không cần nhắc Gabriel tránh sự chú ý của mọi người. Anh ta thừa biết điều đó.

Jeremy Crabbe, vị Giám đốc có tính cách khá vồn vã của Ban Tác phẩm kinh điển của Bonhams, đang đứng đợi bên cạnh tác phẩm ngoại cảnh trường học Pháp, miệng ngậm chặt chiếc tẩu chưa mồi lửa giữa những chiếc răng cửa đã ố vàng. Ông ta hờ hững bắt tay Isherwood và đưa mắt nhìn người trẻ hơn trong chiếc áo khoác da đứng cạnh bên. Gabriel tự giới thiệu “Tôi là Mario Delvecchio” và Isherwood lại một phen ngạc nhiên bởi giọng Venice được phát âm một cách chuẩn xác.

Crabbe thốt lên. “À, ngài Delvecchio bí ẩn. Tất nhiên tôi đã nghe đến danh ông từ lâu nhưng chúng ta chưa có dịp gặp nhau”. Crabbe liếc nhìn Isherwood đầy ẩn ý rồi nói. “Anh có ý định gì thế, Julian? Có điều gì mà anh chưa nói cho tôi biết chăng?”

“Jeremy, anh ta sẽ giúp tôi. Tôi nghĩ rất đáng đồng tiền bát gạo khi mời anh ấy đến thẩm định tranh trước khi mua”.

“Đi lối này”, Crabbe nói đầy nghi hoặc và dẫn họ đến một gian phòng nhỏ, không cửa sổ, cùng tầng với phòng tranh chính. Sự cạnh tranh khốc liệt trong nghề đã buộc Isherwood phải để mắt đến hầu hết các tác phẩm khác. Nếu không Crabbe sẽ không ngần ngại hét giá những bức tranh mà Isherwood đặc biệt chú ý. Tranh ở đây khá tầm thường - một Đức Mẹ thiếu sức sống bên cạnh Chúa hài đồng của Andre del Sarto, bức họa về cuộc sống tĩnh mịch của Carlo Magini, một lò rèn của Vulcan do Paolo Pagani - nhưng ở góc phía xa có một bức tranh sơn dầu không khung được đặt dựa vào tường. Isherwood nhận ngay ra rằng cặp mắt lão luyện của Gabriel cũng đang hướng về nó. Và anh ta cũng lập tức quay đi giả bộ không chú ý. Thật là đúng với phong cách của một người chơi tranh chuyên nghiệp.

Anh ta xem qua các tác phẩm khác trước và chỉ dừng lại đúng hai phút cho mỗi bức tranh sơn dầu. Khuôn mặt anh ta như chiếc mặt nạ, chẳng hề biểu lộ vẻ thích thú hay không hài lòng. Thái độ này khiến Crabbe phải từ bỏ nỗ lực đọc suy nghĩ của Gabriel mà thay vào đó bập tẩu thuốc để giết thời gian.

Cuối cùng anh dừng lại ở lô số 43, tác phẩm Daniel trong hang sư tử của Erasmus Quellinus, khổ 213cmx325cm, tranh sơn dầu, bề mặt sần sùi và khá là bẩn. Nó bẩn đến mức những chú mèo ở góc bức tranh chỉ còn là những bóng mờ. Anh khom người xuống và nghiêng đầu sang một bên để có chút ánh sáng. Sau đó anh liếm ba ngón tay và chùi chùi dung mạo của Daniel. Crabbe hắng giọng và đảo cặp mắt đỏ ngầu. Phớt lờ hắn ta, Gabriel quan sát bức tranh gần hơn, chỉ cách vài centimet và chăm chú nhìn vào cách Daniel khoanh tay và bắt chéo chân.

“Bức vẽ này từ đâu đến?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 26-12-2013 16:52:30 | Chỉ xem của tác giả
Crabbe rời môi khỏi tẩu và nhìn vào nõ tẩu thuốc. “Một bức phác họa từ thời các vua George được tìm thấy ở Cotswolds”..

“Lần cuối nó được phục chế là khi nào?”

“Chúng tôi không chắc lắm, nhưng nhìn bên ngoài thì có lẽ là từ thời Thủ tướng Disraeli còn đương nhiệm”.

Gabriel ngước mắt nhìn Isherwood, lập tức Isherwood quay qua Crabbe và nói. “Cho chúng tôi vài phút, Jeremy”.

Crabbe bước ra khỏi phòng. Gabriel mở túi lấy chiếc đèn tử ngoại. Isherwood tắt đèn, cả căn phòng chìm trong bóng tối. Gabriel bật chiếc đèn tử ngoại và chiếu tia sáng xanh vào bức vẽ.

“Sao?”. Isherwood hỏi.

“Việc phục chế được làm từ lâu lắm rồi nên dấu vết không hiện ra dưới tia tử ngoại”.

Gabriel rút chiếc đèn hồng ngoại ra khỏi túi. Nó giống khẩu súng lục một cách kỳ lạ, và Isherwood cảm thấy lành lạnh khi Gabriel nắm chuôi đèn để bật tia sáng phát quang màu xanh lá cây. Một quầng chấm đen xuất hiện trên bức tranh - vết tích của lần phục chế cuối cùng. Dù rất bẩn nhưng bức vẽ không có vẻ bị hư hại nhiều.

Anh tắt chiếc đèn hồng ngoại, lướt kính mắt một tròng phóng đại và săm soi dung mạo Daniel bằng tia sáng halogen trắng nóng.

“Cậu nghĩ sao?”. Isherwood liếc hỏi.

“Đẹp thật”, Gabriel hững hờ đáp. “Nhưng Erasmus Quellinus không vẽ nó”.

“Chắc không đó?”

“Đủ chắc để dám cá với ông hai trăm ngàn bảng”.

“Chắc cú rồi”.

Gabriel trờ ngón trỏ tới và miết dọc theo hình dáng vạm vỡ và thanh thoát trên bức tranh. “Anh chàng Daniel ở đây, Julian” anh nói, “Tôi cảm nhận được anh ta”.

Buổi trưa, họ đi đến đường James để ăn mừng tại quán Green, nơi gặp gỡ giữa các nhà buôn và các nhà sưu tầm trên phố Duke, cách phòng trưng bày của Isherwood chỉ vài bước. Một chai rượu vang trắng ướp lạnh đang chờ họ ở góc quán quen thuộc. Isherwood rót đầy hai ly và đẩy một ly về phía Gabriel.

“Của Mazel Tov đấy, Julian “.

“Chắc không?”

“Tôi chưa thể nhận định chính xác nếu chưa xem xét bề mặt bên dưới bằng máy phản chiếu hồng ngoại. Nhưng tác phẩm đó rõ ràng là dựa trên trường phái của Rubens, và chẳng nghi ngờ gì đây là phong cách vẽ của ông ta”.

“Tôi chắc cậu sẽ thấy rất tuyệt khi được phục chế nó”.

“Ai nói là tôi định phục chế nó?”

“Cậu chứ ai”.

“Tôi nói tôi sẽ phục hồi giá trị của nó, nhưng tôi chẳng nói gì đến việc phục chế nó cả. Việc đó cần ít nhất sáu tháng. Tôi e rằng lúc đó mình lại đang bận việc khác mất rồi”.

“Chỉ một người thực hiện được công việc này”, Isherwood nói. “Đó chính là cậu”.

Gabriel khẽ ngẩng đầu lên để đón nhận lời tán dương về khả năng chuyên môn đó rồi tiếp tục thờ ơ xem thực đơn. Isherwood có dụng ý khi nói ra điều đó. Gabriel Allon, nếu được sinh ra dưới một ngôi sao chiếu mệnh khác, có lẽ đã trở thành một trong những nghệ sĩ tài hoa nhất. Isherwood nhớ lại lần gặp gỡ đầu tiên - một chiều tháng Chín rực rỡ năm 1978, trên chiếc ghế dài hướng ra hồ Serpentine ở công viên Hyde. Isherwood vẫn còn nhớ lúc đó Gabriel mang dáng dấp nhỏ bé của một cậu trai mới lớn, nhưng hai bên thái dương đã lốm đốm hoa râm. Shamron từng nói rằng đó là dấu vết cho thấy đứa trẻ đó phải đảm đương công việc của một người lớn.

“Anh ta rời Viện nghệ thuật Bezalel năm 1972. Đến năm 1975, anh ta đến Venice học phục chế dưới sự dẫn dắt của nghệ sĩ vĩ đại Umberto Conti”.

“Umberto là chuyên gia xuất chúng nhất ở đó”.

“Tôi cũng nghe nói vậy. Có vẻ như Gabriel đã gây ấn tượng tốt đối với quý ngài Conti. Ông ta cho rằng đôi tay của Gabriel là đôi tay tài hoa nhất mà ông ta từng thấy. Tôi hoàn toàn đồng ý với điều này”.

Isherwood đã lỡ lời khi hỏi Gabriel đã làm gì từ năm 1972 đến 1975. Gabriel quay mặt sang nhìn một cặp tình nhân đang tay trong tay đi dạo nơi góc hồ. Còn Shamron thì lơ đãng nhặt mảnh gỗ vụn trên chiếc ghế.

“Cứ xem như cậu ta chính là một bức tranh bị đánh cắp nhưng đã lặng lẽ quay về đúng chủ của nó. Người chủ sẽ chẳng hỏi bức tranh đó đã ở đâu. Ông ta chỉ hạnh phúc treo lại bức tranh lên tường mà thôi”.

Sau đó Shamron đặt vấn đề “nhờ cậy” đầu tiên.

Có một quý ngài Palestine đã được đưa đi định cư ở Oslo. Tôi e rằng ý định của quý ngài đây không hay ho cho lắm. Tôi muốn Gabriel giám sát ông ta, và tôi muốn anh tìm cho cậu ấy công việc nào đó đàng hoàng. Chẳng hạn như một công việc phục chế đơn giản thôi, chỉ cần mất khoảng hai tuần. Anh có thể giúp tôi được không Julian?

Sự xuất hiện của người bồi bàn kéo Isherwood quay về thực tại. Ông gọi súp và tôm luộc, còn Gabriel thì gọi món rau trộn, cá bơn nướng nhạt và cơm. Dù sống chủ yếu ở châu Âu trong suốt ba mươi năm qua, nhưng anh vẫn giữ được khẩu vị bình dân của một người Israel gốc Do Thái lớn lên tại thung lũng Jezreel. Cao lương mỹ tửu, quần áo đẹp và xe đời mới - những thứ đó không thể làm thay đổi con người anh.

“Tôi ngạc nhiên khi cậu có thể bắt đầu công việc ngay hôm nay”, Isherwood nói.

“Tại sao lại không?”

“Rome”.

Gabriel vẫn không rời mắt khỏi thực đơn”. Đó không phải là nhiệm vụ của tôi, Julian. Hơn nữa, tôi nghỉ hưu rồi. Ông cũng biết vậy mà”.

“Thôi đi”, Isherwood khẽ rì rầm. “Vậy cậu đang làm gì trong mấy ngày này?”

“Tôi đang hoàn tất bức họa trang trí ở nhà thờ San Giovanni Crisostomo”.

“Một tác phẩm Bellini nữa à? Thì ra cậu đang tạo dựng tên tuổi cho chính mình”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 26-12-2013 16:53:43 | Chỉ xem của tác giả
“Tên tuổi thì tôi cũng đã có một chút ít rồi”.

Tác phẩm phục chế gần đây nhất của Gabriel, bức họa Bellini ở nhà thờ San Zaccaria đã gây xôn xao trong giới nghệ thuật và hình thành nên những chuẩn mực cho những tác phẩm phục chế của Bellini trong tương lai.

“Chắc là công ty của Tiepolo đang chịu trách nhiệm dự án nhà thờ Crisostomo phải không?”

Gabriel gật đầu đáp”. Tôi hầu như chỉ làm việc cho Fancesco”.

“Ông ta không trả nổi cho cậu đâu”.

“Tôi thích làm việc ở Venice, Julian à. Chỉ cần vừa đủ sống. Ông đừng lo. Tôi không muốn sống theo cái lối trước đây, khi mà còn học việc với thầy Umberto”.

“Vậy mà tôi nghe rằng gần đây cậu rất bận rộn. Có khá nhiều tin đồn rằng người ta gần như phải tháo bức họa trang trí sau bàn thờ ở San Zaccaria vì cậu bỏ việc ở Venice để lo việc riêng”.

“Julian, ông không nên nghe những tin đồn đó”.

“Ồ, thế hả. Tôi còn nghe là cậu đã qua đêm trong tòa lâu đài ở Cannaregio với một thiếu nữ đáng yêu tên là Chiara”.

Gương mặt anh ta đanh lại bên vành ly rượu đã chứng tỏ cho Isherwood rằng tin đồn về đời sống tình cảm của Gabriel là có thực.

“Con bé cũng danh giá chứ?”

“Họ của cô ấy là Zolli, và cô ấy không phải là một con bé”.

“Có đúng cha cô ta là Trưởng giáo Do Thái ở Venice không?”

“Ông ấy là Trưởng giáo duy nhất ở Venice. Đó không phải là một cộng đồng lớn. Chiến tranh đã đặt dấu chấm hết cho cộng đồng ấy”.

“Cô ta có biết cậu là đặc vụ ngầm không?”

“Cô ấy là người của Văn phòng đấy Julian”.

“Hãy hứa với tôi rằng cậu sẽ không đang tâm làm tan vỡ trái tim cô gái ấy như đối với những người con gái khác”, Isherwood nói. “Chúa ơi, người phụ nữ mà cậu vừa buông ra khỏi tầm tay. Tôi vẫn còn tưởng tượng ra hình ảnh tuyệt diệu của Jacqueline Delacroix”.

Gabriel rướn người về phía trước bàn, sắc mặt đột nhiên nghiêm túc. “Tôi sắp cưới cô ấy, Julian à”.

“Còn Leah?”. Isherwood từ tốn hỏi. “Cậu tính sao với Leah đây?”

“Tôi sẽ nói chuyện với cô ấy. Tôi định gặp cô ấy sáng mai”.

“Cô ấy sẽ hiểu chứ?”

“Thật tình tôi không chắc lắm, nhưng tôi đã mắc nợ cô ấy”.

“Thứ lỗi cho tôi khi phải nói ra điều này, cậu nợ chính bản thân mình thì đúng hơn. Đã đến lúc cậu phải sống cho chính mình. Tôi cũng không cần phải nhắc rằng cậu không còn là chàng trai hai lăm tuổi nữa”.

“Ông không là người phải nhìn vào mắt cô ấy và nói với cô ấy rằng mình đang yêu một người phụ nữ khác”.

“Thứ lỗi cho những lời nói đó của tôi. Rượu vào lời ra mà. Còn những tác phẩm của Rubens. Cậu có cần người đi cùng không? Tôi sẽ đưa cậu xuống đó”.

“Không”, Gabriel nói. “Tôi muốn đi một mình”.

Món đầu tiên được dọn ra. Isherwood húp xụp xoạp một cách ngon lành. Còn Gabriel chỉ xiên lấy một miếng rau diếp.

“Ông định trả công bao nhiêu cho việc làm sạch bức tranh của Rubens?”

“À… khoảng một trăm ngàn bảng là được”.

“Quá ít!”. Gabriel nói. “Hai trăm ngàn, tôi cố”.

“Thôi được, hai trăm ngàn, ông bạn ạ”.

“Tuần sau tôi sẽ gọi cho ông”.

“Điều gì khiến cậu không quyết định ngay bây giờ? Mấy tác phẩm Bellini à?”

Không phải, Gabriel nghĩ. Đó không phải là do các tác phẩm Bellini. Đó là Rome.

Viện Stratford, một trong những bệnh viện tâm thần danh tiếng nhất châu Âu, tọa lạc cách trung tâm Luân Đôn một giờ lái xe trên ngọn đồi vùng Surrey vốn thuộc vùng đất của dòng họ Victoria trước đây. Bệnh nhân đang điều trị lâu dài ở đây có cả những gia đình họ hàng của Hoàng gia Anh và người em họ thứ hai của Thủ tướng đương thời, và nhân viên ở đây đã quen với những yêu cầu bất thường của khách thăm. Gabriel đi qua cửa an ninh phía trước sau khi khai báo mình là “ông Browne”.

Anh đậu chiếc xe thuê hiệu Opel vào bãi đỗ dành cho khách ngay sân trước ngôi nhà gạch đỏ kiểu cũ. Leonard Avery, bác sĩ điều trị cho Leah, đón anh trên lối vào sảnh, với dáng vẻ mỏng manh trong chiếc áo khoác hiệu Barbour và đôi ủng Wellington. “Cứ mỗi tuần một lần tôi phải dẫn một nhóm bệnh nhân đi dạo để hít thở khí trời quanh vùng ngoại ô”, Leonard giải thích cho sự hiện diện của mình. “Đó là cách chữa bệnh rất hiệu quả”. Leonard bắt tay Gabriel mà không tháo găng ra và hỏi thăm về chuyến lái xe từ Luân Đôn nhưng có vẻ như ông ta không thực sự muốn biết câu trả lời. “Cô ấy đang đợi anh trong phòng tắm nắng. Cô ấy vẫn thích phòng tắm nắng nhất”.

Họ bắt đầu đi vào một hành lang có trải thảm lót sàn màu đỏ nhạt, gót giày Avery nện lộp cộp trên sàn cứ như đang đi dạo ở thung lũng Surrey. Ông ta là người duy nhất trong bệnh viện biết sự thật về bệnh nhân Lee Martinson. Ông ta biết họ thật của cô ấy là Allon cũng như biết về nguyên nhân của những vết bỏng khủng khiếp và tình trạng gần như rối loạn tâm thần của Lee Martinson. Đó không phải là hậu quả của vụ tai nạn môtô nào - theo như lời giải thích trong bệnh án của Leah - mà là hậu quả của vụ nổ bom xe hơi ở Venice. Ông ta cũng biết rằng thảm họa ấy đã cướp đi mạng sống đứa con trai của cô. Leonard tin rằng Gabriel là nhà ngoại giao Israel nên ông ta cũng không ưa gì anh.

Trên đường đi, ông ta nói ngắn gọn tiến triển mới nhất của Leah. Chẳng có gì biến đổi - Avery tỏ vẻ không mấy lo lắng. Ông không muốn làm người khác hi vọng hão huyền. Ông ta cũng chưa bao giờ tỏ ra thực sự lạc quan với tiến triển của Leah. Và ông ta đã đúng. Đã mười ba năm trôi qua kể từ vụ nổ bom, Leah vẫn chưa thốt được lời nào với Gabriel.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 26-12-2013 16:57:01 | Chỉ xem của tác giả
Cuối hành lang là một cửa đôi với khung cửa sổ hình tròn đầy bụi bẩn. Avery mở một cánh và dẫn Gabriel vào phòng tắm nắng. Hơi ẩm ngột ngạt ập vào người khiến Gabriel lập tức cởi áo khoác. Người làm vườn vừa tưới mấy chậu cam vừa nói chuyện phiếm với một nữ y tá - người phụ nữ khá quyến rũ với mái tóc đen mà trước đây Gabriel chưa gặp bao giờ.

“Giờ cô có thể đi rồi, Amira”. Bác sĩ Avery nói.

Cô y tá bước đi, theo sau là người làm vườn.

“Ai vậy?”. Gabriel hỏi.

“Cô ấy là thực tập sinh của trường Trung cấp y tá King và là một chuyên viên chăm sóc. Rất có tâm huyết với công việc. Vợ anh rất thích cô ấy”.

Avery vỗ nhẹ vai Gabriel, rồi bước ra ngoài. Gabriel quay người lại. Leah ngồi thẳng lưng trên một chiếc ghế sắt, mắt hướng về khung cửa sổ đọng hơi nước của phòng tắëm nắng. Nàng đang mặc chiếc quần trắng mỏng vải cotton của bệnh viện và một chiếc áo len cao cổ giúp giữ ấm cơ thể mỏng manh. Đôi tay đầy sẹo và dúm dó đang mân mê một nhành hoa. Mái tóc dài và đen tuyền ngày xưa đã bị cắt ngắn và bạc gần hết. Gabriel cúi xuống và hôn lên má nàng. Môi anh tê cứng khi chạm phải vết sẹo lồi. Leah dường như không có chút cảm giác nào với cái hôn đó.

Rồi anh ngồi xuống và nắm phần còn lại của bàn tay trái Leah. Anh không cảm thấy chút sự sống nào. Leah chậm rãi xoay đầu sang cho đến khi nàng nhìn thấy Gabriel. Anh trông chờ một chút dấu hiệu cho thấy nàng nhận ra anh, nhưng rồi lại một lần nữa anh bị thất vọng. Nàng đã mất trí nhớ. Trong tâm trí Leah giờ chỉ là vụ nổ bom. Nó tua đi tua lại không ngừng như vòng xoay của cuộn băng video vậy. Tất cả những thứ khác đã bị xóa sạch hoặc bị tống vào một góc khuất không thể chạm đến. Đối với Leah, Gabriel thậm chí còn không quan trọng bằng người y tá đã đem cô ra đây hoặc người làm vườn đến chăm sóc cây cối. Leah chính là sự trừng phạt cho những tội lỗi của Gabriel. Leah là cái giá mà một người đàn ông như anh phải trả khi bước vào con đường giết chóc và khủng bố. Đối với Gabriel, người vốn có khả năng thiên phú về việc phục hồi cái đẹp cho các bức hoạ nổi tiếng thì tình trạng của Leah càng trở nên bi thương gấp bội. Anh ao ước có thể xóa sạch những vết sẹo kia và phục hồi lại vẻ lộng lẫy ngày nào cho nàng. Nhưng Gabriel hoàn toàn bất lực. Không ai có thể nhận ra người đàn bà đang câm lặng ngồi sưởi nắng này đã từng một thời là nàng thiếu nữ mang họ Allon xinh đẹp.

Anh nói chuyện, kể về những ngày anh sống ở Venice cùng công việc phục chế tại nhà thờ. Nhưng anh không kể rằng thỉnh thoảng anh vẫn làm những công việc khác cho Ari Shamron, hoặc như việc hai tháng trước đây anh đã sắp đặt việc bắt giữ một tên tội phạm chiến tranh người Áo tên là Erich Radek và dẫn độ về Israel để chịu tội. Sau cùng, anh cố lấy hết can đảm để nói với nàng rằng anh đang yêu một người con gái khác và muốn cả hai chia tay để anh có thể cưới cô ấy, nhưng anh không thể nào thốt nên lời. Nói với Leah cứ như là nói với một người xa lạ. Bởi nàng có nghe thấy gì đâu. Mắt nàng xa xăm như đang sống trong một thế giới khác vậy.

Nửa giờ trôi qua, anh tạm biệt Leah và lầm lũi đi về hướng hành lang. Nữ y tá đã đợi sẵn ở đó, khoanh tay lại và dựa lưng vào tường.

“Ông xong rồi à?”, cô ta hỏi.

Gabriel gật đầu. Không nói thêm một lời, người phụ nữ đó lướt qua Gabriel và bước vào trong.

Chuyến bay từ sân bay Heathrow hạ cánh xuống Venice lúc cuối giờ chiều. Gabriel lên phà để vào thành phố, anh đứng ngay buồng lái, tựa lưng vào cửa cabin và ngắm nhìn những cột phao dập dềnh trong sương mù như những đoàn quân thất trận trở về. Chẳng mấy chốc quận Cannaregio đã hiện ra. Gabriel cảm thấy thoáng chút bình yên. Một Venice không lộng lẫy và dập dềnh sóng nước luôn mang đến cho anh tâm trạng đó. Đây là một thành phố cần phục chế toàn diện, Umberto Conti từng nói với anh như vậy. Hãy làm đi. Hãy hàn gắn Venice, và anh sẽ thấy được giá trị của việc đó.

Anh xuống phà ở Điện Lezze. Gabriel đi về hướng tây của quận Cannaregio rồi đi dọc theo bờ kênh Rio della Misericordia. Anh băng qua một cây cầu sắt, chiếc cầu duy nhất ở Venice. Vào thời Trung Cổ, từng có một cái cổng giữa cầu, nó luôn được một lính gác đạo Cơ Đốc canh giữ để các tù nhân phía bên kia không trốn thoát được. Gabriel qua cầu và đi băng qua sottoportego (lối đi phía dưới tòa nhà). Cuối lối bộ hành, một quảng trường rộng hiện ra trước mắt anh: quảng trường Campo di Ghetto Nuovo, trung tâm của khu phố Do Thái cổ ở Venice. Qua chiều cao của nó cũng có thể biết được đây từng là khu ổ chuột của hơn năm ngàn dân Do Thái. Ngày nay chỉ còn khoảng hai mươi trong số bốn trăm dân Do Thái của thành phố sống trong khu nhà cổ trên, và hầu hết những người lớn tuổi đã an cư ở khu Casa Israelitica di Riposo.

Gabriel tiến tới phía cửa tiệm có gương treo ngoài trông rất hiện đại đối diện quảng trường và bước vào trong. Bên phải là lối vào một cửa hàng sách nhỏ chuyên bán sách về lịch sử và người Do Thái ở Venice. Cửa hàng ấm lên dưới ánh đèn sáng rực, với các khung cửa sổ cao nhìn xuống dòng kênh bao quanh khu Do Thái cổ. Phía sau quầy thu tiền, một cô gái có mái tóc ngắn màu vàng ngồi trên ghế đẩu dưới ánh đèn. Cô mỉm cười chào khi Gabriel bước vào.

“Cô ấy rời khỏi đây được một tiếng rồi”.

“Thế à? Cô ấy đi đâu?”

Cô gái nhún vai. “Cô ấy không nói”.

Gabriel nhìn đồng hồ đeo tay. Bốn giờ mười lăm. Anh quyết định dành vài giờ cho các tác phẩm của Bellini trước khi ăn tối.

“Nếu gặp cô ấy, phiền cô nhắn giùm là tôi ở nhà thờ”.

“Không thành vấn đề. Chào Mario”.

Anh rảo bộ về phía cầu Rialto. Vừa đi hết con đường qua khỏi dòng kênh, anh rẽ trái đi về phía nhà thờ nhỏ có màu đất nung. Gabriel bỗng dừng lại. Anh nhận ra một nhân viên an ninh của Văn phòng tên Rami đang đứng ngay lối vào nhà thờ, bên dưới vòm cửa hình bán nguyệt. Sự hiện diện của người đàn ông này ở Venice chỉ có thể lý giải một điều. Bắt gặp ánh nhìn của Gabriel, ông vội đưa mắt về phía lối vào. Gabriel lướt qua và bước vào trong.

Nhà thờ đang trong những công đoạn cuối cùng của quá trình phục chế. Những dãy ghế dài được đưa ra khỏi gian giữa giáo đường Greek và tạm thời đặt dựa vào bức tường phía đông. Việc làm sạch bức tranh thờ chính Sebastiano del Piombo đã hoàn tất. Khó mà nhận ra nó dưới bóng chiều tà muộn nếu không thắp sáng đèn. Tác phẩm của Bellini được treo trong nhà nguyện thánh Jerome nằm phía bên phải nhà thờ. Lẽ ra nó phải được che khuất sau giàn giáo phủ vải dầu, nhưng giàn giáo đã bị dời sang một bên khiến bức vẽ nằm phơi dưới ánh đèn huỳnh quang chói sáng. Chiara quay ra nhìn Gabriel đang tiến tới. Shamron vẫn dán mắt vào bức tranh.

“Cậu biết đó, Gabriel, tôi phải thừa nhận là nó đẹp thật”.

Giọng người đàn ông lớn tuổi này không mấy thiện cảm. Shamron, một người Israel gốc, ít khi hào hứng với bất kỳ hình thức nghệ thuật hay trò tiêu khiển nào. Ông ta chỉ tìm thấy vẻ đẹp trong hoạt động thế giới ngầm được che đậy hoàn hảo hoặc trong sự hủy diệt kẻ thù. Nhưng Gabriel chú tâm đến chuyện khác - đó là việc Shamron vừa nói với anh bằng tiếng Do Thái cổ và đã phạm một sai lầm không thể tha thứ là thốt ra tên thật của Gabriel tại một nơi không an toàn như thế này.

“Đẹp thật”, Shamron lặp lại, rồi quay sang Gabriel và cười chua xót. “Tiếc là cậu sẽ chẳng bao giờ có thể hoàn tất nó”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách