Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: tit_mit
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu thuyết] Hai Số Phận| Jeffrey Archer

[Lấy địa chỉ]
41#
 Tác giả| Đăng lúc 27-2-2012 17:43:12 | Chỉ xem của tác giả
Chương 13



Đêm đó Abel nằm trong căn phòng nhỏ của anh ở khách sạn Plaza mà không sao ngủ được. Anh nghĩ đến người con trai có tên là William mà người ta bảo là nếu cha anh còn sống thì sẽ tự hào về anh ta. Tự nhiên anh cũng thấy đó chính là điều anh muốn thực hiện. Anh muốn được người ta coi mình là ngang hàng với những người như William trên đời này.
Từ khi đến New York, Abel đã phải trải qua một cuộc vật lộn gay go. Anh về ở một căn phòng chỉ có hai giường, thế nhưng anh lại phải ở chúng với George và hai người an hem họ khác của George. Kết quả là Abel chỉ có thể được ngủ khi nào một trong hai chiếc giường ấy không có người. Ông chú của George không sao có việc làm cho Abel được. Sau mấy tuần lễ rất lo lắng vì tiêu gần hết số tiền tiết kiệm mà chưa tìm được việc gì mặc dầu phải chạy đi chạy lại từ Brooklyn sang vùng Queens, cuối cùng anh xin được một chỗ ở cửa hàng thịtò. Họ trả cho anh chín đôla một tuần làm việc sáu ngày rưỡi và chỉ cho anh được nằm ngoài hiên. Cửa hàng đó nằm giữa một khu cộng đồng người Ba Lan nhỏ bé và nghèo ở phía Đông thành phố. Abel bắt đầu lấy làm sốt ruột với tính cách sống biệt lập của đồng bào anh ở đây, trong số đó còn có rất nhiều người không chịu học tiếng Anh.
Abel vẫn thường thấy George cứ mỗi ngày cuối tuần lại đi với các bạn gái, hết cô này đến cô khác. Riêng anh, hầu hết các tối trong tuần đều đi học trường đêm để nâng cao khả năng viết và đọc tiếng Anh. Anh không lấy làm xấu hổ về chuyện mình học chậm, vì từ hồi tám tuổi đến giờ anh có dịp nào được học nữa đâu. Trong hai năm, anh đã trở nên thông thạo với ngôn ngữ mới này, hầu như khi nói ra không còn ngượng ngịu mấy nữa. Anh cảm thấy mình đã sẵn sàng đi khỏi cửa hàng thịt này rồi. Nhưng đi đâu? Và đi bằng cách nào? Bỗng một hôm trong khi đang chuẩn bị một cái chân cừu cho khách, anh thoáng nghe thấy một trong những khách hàng quen là người chuyên cung cấp lương thực cho khách sạn Plaza phàn nàn với chủ hàng là ông ta sẽ phải đuổi một người phục vụ trẻ tuổi vì anh ta ăn cắp vặt. Ông ta nói: “Gấp quá, tôi biết tìm đâu ra người thay thế bây giờ được?” Chủ hàng không biết giúp ông ta giải quyết thế nào. Nhưng Abel thì biết ngay. Anh khoác bộ quần áo duy nhất của mình vào, đi bộ suốt bốn mươi bảy khu phố và qua năm quãng đường nữa vào thành phố nhận công việc nói trên.
Một khi yên thân ở Plaza rồi, anh ghi tên vào một lớp học đêm Anh ngữ cấp cao ở trường Đại học Columbia. Đêm nào anh cũng học rất đều, một tay mở từ điển, một tay viết lia lịa. Mỗi buổi sang, giữa giờ phục vụ ăn sáng và bày bàn cho bữa trưa, anh tranh thủ chép những bài xã luận của Thời báo New York, mỗi khi gặp từ nào không chắc chắn thì lại giở cuốn từ điển Webster cũ ra xem.
Ba năm sau đó, Abel leo dần lên các cấp phục vụ trong khách sạn Plaza cho đến lúc anh được cử vào phục vụ trong phòng Gỗ Sồi, hưởng lương mỗi tuần hai mươi lăm đôla với những khoản khách cho thêm. Trong cuộc sống riêng của mình, Abel không còn thiếu gì nữa.
Ông thầy dạy Abel có ấn tượng tốt với những tiến bộ của anh, đã khuyên Abel xin học thêm lớp ban đêm nữa để chuẩn bị thi lấy bằng Tú tài văn chương. Lúc rỗi rãi anh chuyển từ chỗ đọc những bài báo về ngôn ngữ sang đọc những bài về kinh tế, rồi bắt đầu chép riêng những bài trong Nhật báo phố Wall chứ không chép những bài trong Thời báo nữa. Cái thế giới mới này đối với anh hết sức hấp dẫn. Anh bị cuốn hút vào đó đến mức, ngoại trừ George, còn những bạn Ba Lan cũ trước đây anh không gặp họ được vào lúc nào nữa.
Trong khi phục vụ ở khách sạn Plaza, anh vẫn luôn luôn nghiên cứu tìm hiểu về những người nổi tiếng của các gia đình Baker, Loeb, Whitney, Morgan và Phelp (những nhà tài chính ngân hàng nổi tiếng trong lịch sử hình thành CNTB Mỹ) và cố hình dung được tại sao người giàu lại khác với mọi người như vậy. Anh đọc Henry Louis Mencken (1880-1956 nhà văn kiêm nhà báo Mỹ), đọc báo Mercury Mỹ, đọc Scott Fitzgerald (1896-1940 tiểu thuyết gia, nổi tiếng về viết truyện ngắn), Sinclair Lewis (1885-1951 nhà văn soạn kịch kiêm nhà báo Mỹ), và Theodore Dreiser (1871-1945 tiểu thuyết gia) để có thêm kiến thức càng nhiều càng tốt. Anh đọc kỹ từ Thời báo New York trong khi những người phục vụ khác chỉ liếc qua tờ Tấm gương. Anh đọc tờ Nhật báo phố Wall vào giờ nghỉ trong khi những người khác ngủ gà ngủ gật. Anh không biết là những kiến thức mới này sẽ đưa anh đến đâu, nhưng anh không một lúc nào nghi ngờ câu châm ngôn của Nam tước đã nói với anh rằng không gì có thể thay thế được cho việc học hành tử tế.
Vào một ngày thứ năm của tháng Tám năm 1926 – anh nhớ rất kỹ ngày này vì hôm đó Rudolph Valentino qua đời và rất nhiều bà đi mua sắm trên đại lộ Năm đều mặc đồ đen để tang anh ta – Abel đang phục vụ như mọi ngày thường ở một chiếc bàn góc phòng, Những bàn ở góc phòng bao giờ cũg dành cho các nhà kinh doanh lớn, họ thường ngồi ăn một cách kín đáo và nói chuyện riêng không ai nghe thấy được. Anh thích được phục vụ ở các bàn đặc biệt này, vì đây là khu vực người ta bàn chuyện mở rộng kinh doanh và qua những mẩu chuyện anh thoáng nghe được của họ thường có những thông tin rất quý. Sau khi họ ăn xong, nếu khách là người của một ngân hàng hay một công ty cổ phiếu lớn, Abel sẽ tìm cách kiểm tra giá cổ phiếu của những công ty ấy. Nếu giọng điệu của những ông khách này trong khi nói chuyện có vẻ lạc quan, thì anh sẽ đầu tư một trăm đôla vào công ty nhỏ với hy vọng sẽ được công ty mẹ vực lên. Nếu vào cuối bữa ăn mà ông khách gọi mang xì gà lên, Abel sẽ tăng tiền đầu tư lên hai trăm đôla. Cứ mười lần như vậy thì giá cổ phiếu anh chọn theo kiểu đó chỉ trong sáu tháng đã tăng lên gấp đôi, cũng tức là thời gian Abel bám lấy chứng khoán. Trong bốn năm làm việc ở khách sạn Plaza và làm theo cách đó, anh chỉ mất tiền có ba lần thôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

42#
 Tác giả| Đăng lúc 27-2-2012 17:44:46 | Chỉ xem của tác giả
Trong việc phục vụ hôm nay, anh thấy có một điều rất không bình thường ở cái bàn góc phòng này là khách đã gọi ngay xì gà ngay từ trước bữa ăn. Abel nhìn vào sổ ghi khách đặt bàn trước thấy có tên là Woolworth. Abel đã gần đây có nói đến tên ông ta nhưng anh không xác định ngay được. Còn ông khách cũng ngồi kia là Charles Lester, khách thường xuyên của Plaza và là một nhà ngân hàng có cỡ ở New York. Trong khi phục vụ bữa ăn, anh cố nghe xem họ nói chuyện gì. Khách thì hoàn toàn không quan tâm gì đến người phục vụ mặc dầu anh tỏ ra chú ý nghe họ bàn bạc. Abel không thể phát hiện được chi tiết gì quan trọng, nhưng anh biết được loáng thoáng là sáng hôm đó kết thúc một vụ làm ăn và đến cuối ngày người ta sẽ công bố. Anh chợt nhớ ra. Anh đã đọc thấy tên ông này trên tờ báo Nhật ký phố Wall. Woolworth chính là người có ông bố đã từng lập ra cửa hàng đầu tiên nổi tiếng là chỉ bán những thứ từ năm đến mười xu. Ra bây giờ người con định đi quyên vốn để mở rộng hệ thống cửa hàng ấy. Khi khách hang ăn tráng miệng - phần lớn khách đều chọn thứ bánh dâu pho-mát (do Abel gợi ý) – anh tranh thủ ra ngoài phòng ăn một lúc cho đại diện của anh trên phố Wall.
- Ông Woolworth đang buôn bán gì ấy nhỉ? – anh hỏi.
Đầu dây kia im lặng một chút rồi nói:
- Cổ phiếu thôi. Gần đây hoạt động lắm, không rõ tại sao.
- Vào cuối ngày hôm nay nếu nghe thấy công ty thông báo thì anh lấy tài khoản của tôi ra mua nhé.
- Họ sẽ thông báo gì? – Người đại diện không hiểu hỏi lại.
- Lúc này chưa tiết lộ được, - Abel đáp.
Người đại diện chột dạ. Xưa nay anh ta vẫn biết là chớ hỏi kỹ về những nguồn thông tin của khách hang. Abel vội trở lại phòng Gỗ Sồi, vừa kịp để đem cà phê lên cho khách. Họ còn ngồi nán lại một lúc và chỉ đến lúc họ chuẩn bị ra về thì Abel mới quay lại bàn đó. Ông cầm biên lai cảm ơn Abel về việc anh phục vụ chu đáo. Ông ta quay sang ông bạn rồi hỏi anh:
- Này, cậu em có muốn tiền thưởng không nào?
- Dạ, cám ơn ông, - Abel nói.
- Vậy thì cậu em nên mua cổ phiếu Woolworth.
Hai người khách phá lên cười. Abel cũng cười, cầm lấy 5 đôla ông khách chìa ra cho và cảm ơn ông ta. Trong sáu tuần sau đó, anh kiếm được 2412 đôla lợi nhuận từ cổ phiếu Woolworth mà ra.

Mấy ngày sau, sinh nhật thứ hai mươi mốt của mình, Abel được chấp nhận vào quốc tịch Mỹ và anh quyết định nhân dịp này phải tổ chức lien hoan chiêu đãi. Anh mời George với Monika đến dự. Monika là người tình mới nhất của George. Ngoài ra còn có một cô gái tên là Clara, người tình cũ của George. Anh rủ họ đi xem John Barrymore trong phim Don Juan, sau đó đến nhà hàng Bingo ăn bữa tối. Hồi này, George vẫn chỉ là thợ tập việc trong lò bánh của ông chú anh tavới lương tám đôla một tuần. Mặc dầu vẫn coi George là bạn thân nhất, nhưng Abel hiểu là giữa hai người đã có sự khác biệt vì George là một anh rỗng túi còn Abel thì đã có trên tám nghìn đôla gửi ngân hàng và bây giờ đang là học sinh năm cuối của trường Đại học Columbia chuẩn bị thi tú tài về kinh tế. Abel biết là mình đang đi đến đâu, còn George thì bây giờ không dám mở miệng nói với ai rằng mình sẽ là thị trưởng New York nữa.
Bốn người có một tối liên hoan rất vui, nhất là do Abel biết ăn ở chỗ nào ngon. Ba người bạn kia được một phen chén thỏa thích. Khi nhà hàng đưa biên lai ra, George hoảng sợ thấy số tiền của bữa ăn đó nhiều hơn lương tháng của anh ta. Abel trả tiền một cách thản nhiên coi như số tiền đó chả nghĩa lý gì. Vả lại, nếu đã không chịu được thế thì vào nhà hàng làm gì. Coi như không, đừng nói gì hoặc đừng tỏ ra ngạc nhiên, đó là điều những người giàu có đã dạy cho anh biết như thế.
Đến tận hai giờ sáng cuộc liên hoan mới kết thúc. George và Monika trở về phía Đông cuối thành phố, còn Abel thì thấy mình được hưởng Clara. Anh đưa cô ta vào phía cửa sau khách sạn Plaza qua thang máy chuyên chở đồ giặt rồi đưa về phòng anh trong đó. Cô ta không chờ phải giục giã mới trèo lên giường và Abel cũng vội vã vào nằm ngay với cô ta để còn ngủ một chút sáng mai dậy sớm làm việc. Anh lấy làm hài lòng đã hoàn thành nhiệm vụ với cô ta vào lúc hai giờ rưỡi sang. Anh nằm lăn ra ngủ một mạch cho đến sáu giờ thì chuông đồng hồ gọi dậy. Lúc đó anh vẫn còn đủ thì giờ hành động với Clara một lần nữa trước khi đứng dậy mặc quần áo.
Clara ngồi trên giường phụng phịu nhìn Abel thắt ca vát rồi hôn cô ta một cái tạm biệt.
- Em nhớ lúc ra về cũng bằng lối cửa lúc đêm qua nhé, kẻo lôi thôi cho anh lắm đấy, - Abel nói. – Bao giờ thì gặp lại em?
- Anh không gặp lại đâu, - Clara lạnh lùng đáp.
- Tại sao thế? – Abel ngạc nhiên hỏi. – Anh làm gì đâu?
- Không, chính là cái anh không làm ấy chứ. – Cô ta nhảy xuống giường và vội vã mặc áo vào.
- Cái gì anh không làm? – Abel hỏi. – Em muốn đi ngủ với anh kia mà, không phải thế à?
Cô ta quay lại nhìn thẳng vào anh.
- Đúng là em muốn thế, nhưng về sau mới biết là anh với Valentino cũng chả khác gì nhau, nghĩa là cả hai cùng chết rồi. Anh có thể là của quý khách sạn Plaza vào những lúc người ta đói ăn, nhưng ở trên giường thì anh chẳng là cái gì hết. - Mặc xong quần áo, cô ra cửa còn nắm lấy tay vịn và ngoái lại nói. – Có lẽ anh chưa thuyết phục được cô nào đi nằm với anh phải không?, - rồi đóng sầm cửa lại.
Abel đứng ngớ người. Suốt ngày hôm đó, anh băn khoăn về câu nói của Clara. Anh không thể tìm được một ai để bàn về vấn đề này. Có nói với George chỉ tổ cho anh ta cười thêm. Còn nhân viên khách sạn Plaza thì ai cũng tưởng anh biết đủ mọi thứ. Anh hiểu rằng vấn đề này, cũng như các vấn đề khác anh đã gặp trên đường đời, đều có thể vượt qua được miễn là mình hiểu biết và có kinh nghiệm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

43#
 Tác giả| Đăng lúc 27-2-2012 17:46:38 | Chỉ xem của tác giả
Sau bữa trưa được nghỉ nửa ngày, anh tìm đến hiệu sách Scribner ở đại lộ Năm. Trước đây cửa hàng này đã giúp anh giải quyết được nhiều vấn đề về kinh tế và ngôn ngữ, nhưng anh không tìm ra được cái gì có vẻ như giúp anh giải quyết được những vấn đề về tình dục. Các nhãn sách đều chẳng nói được gì, và cuốn gọi là Khó xử về tinh thần thì hoàn toàn không thích hợp.
Abel bỏ hiệu sách đi ra, không mua gì, và cả buổi chiều la cà trong một nhà hát bẩn thỉu ở đường Broadway, không xem chiếu bóng mà chỉ luẩn quẩn suy nghĩ về điều Clara nói lúc sáng. Cuốn phim đang chiếu là một chuyện tình có Greta Garbo đóng, mãi đến cuối phim mới có cảnh hôn hít, thành ra cũng chẳng giúp đỡ gì hơn được cho anh so với hiệu sách Scribner.
Ở rạp chiếu bóng ra thì trời đã tối. Ngoài đường đang có gió lạnh. Abel lấy làm lạ thấy về đêm đường phố cũng ồn ào và nhiều đèn sáng như ban ngày vậy. Anh bắt đầu đi bộ lên đường 59, hy vọng gió mát sẽ làm cho đầu óc mình tỉnh táo hơn chút ít. Anh dừng lại ở góc đường 52 để mua tờ báo buổi chiều.
- Tìm gái hả? - một giọng nói ở góc đường bên quầy bán báo lên tiếng.
Abel ngẩng đầu lên nhìn. Bà ta chừng ba mươi lăm tuổi, mặt bự phấn sáp, môi bôi một thứ son kiểu mới. Chiếc áo lụa trắng có một khuy đã cởi sẵn. Bà ta mặc váy lên đến tận bẹn.
- Chỉ năm đôla thôi, mất xu nào đáng xu ấy, bà ta nói và vẹo mông sang một bên để hở một đường bên váy lên đến tận bẹn.
- Ở đâu? – Abel hỏi.
- Có nhà riêng ở gần đây.
Bà ta hất đầu chỉ cho Abel biết là hướng nào. Lần đầu tiên, Abel trông thấy rõ mặt bà ta dưới ánh đèn đường. Bà ta cũng không phải không hấp dẫn. Abel gật đầu đồng ý. Bà ta cầm lấy tay anh ta rồi hai người cùng đi.
- Nếu bị cảnh sát giữ thì anh bảo là bạn cũ và tên tôi là Joyce nhé, - bà ta nói.
Họ đi đến đầu phố rồi vào một ngôi nhà nhỏ bẩn thỉu có nhiều buồng cho thuê. Abel kinh sợ thấy phòng bà ta nhếch nhác quá. Tất cả bên trong chỉ có một bóng đèn trần, một chiếc ghế, một chậu rửa mặt với một chiếc giường đôi ọp ẹp mà hình như trong ngày hôm đó đã được dùng đến nhiều lần.
- Chị ở đây à? – anh ngần ngại hỏi.
- Trời ơi, không đâu. Chỗ này chỉ để làm ăn thôi.
- Tại sao chị làm chuyện này? – Abel hỏi, trong bụng nghĩ không biết mình có nên tiếp tục kế hoạch này không.
- Tôi phải nuôi hai đứa con, mà chồng thì không có. Anh bảo còn cách nào khác nữa? Nào, anh có muốn hay không đây?
- Có nhưng không phải như chị nghĩ, - Abel nói.
Bà ta nhìn anh chột dạ.
- Anh không phải là cái đám chuyên hành hạ người ta như Hầu tước de Sade (nhân vật Pháp 1740-1814 nổi tiếng trác táng) đấy chứ?
- Chắc chắn là không rồi, - Abel hỏi.
- Anh không châm thuốc lá vào người tôi chứ?
- Không, không có chuyện đó đâu, - Abel giật mình đáp. – Tôi muốn được chỉ bảo tử tế. Tôi muốn học.
- Học? Anh nói đùa đấy à? Anh bạn thân mến, dễ anh tưởng đây là trường đêm chuyên dạy về ngủ với gái sao?
- Đại khái là như vậy, - Abel nói và ngồi xuống góc giường, nói lại cho bà ta nghe đêm trước Clara đã phản ứng với anh thế nào. - Chị xem có thể giúp tôi được không?
- Người đàn bà kia nhìn Abel một lúc lâu, tự hỏi không biết anh chàng này có định bịp mình không.
- Được thôi, - bà ta nói. – Nhưng cứ mỗi buổi ba mươi phút là anh sẽ mất năm đôla đấy.
- Đắt hơn bằng tú tài Columbia, - Abel nói. – Tôi cần học mấy bài tất cả.
- Còn tùy ở chỗ anh học nhanh hay chậm chứ, - bà ta nói.
- Được, ta bắt đầu luôn đi, - Abel nói và rút trong túi ra năm đôla. Anh đưa tiền cho bà ta. Bà ta nhét tiền vào trong bít tất. Như vậy rõ ràng là bà ta sẽ không cởi tất cả ra nữa.
- Cởi quần áo ra, anh bạn, - bà ta nói. – Mặc quần áo thế này thì chẳng học được gì đâu.
Anh cởi ra rồi, bà ta nhìn ngắm anh bằng con mắt thông thạo.
- Anh không phải như Douglas Fairbanks (nhân vật nổi tiếng đẹp trai hấp dẫn của điện ảnh Mỹ), phải không nào? Nhưng thôi, anh đừng lo. Tắt đèn đi rồi thì người anh thế nào cũng không quan trọng nữa. Cái quan trọng là anh có thể làm được gì cơ.
Abel ngồi xuống cạnh giường. Bà ta bắt đầu giảng giải cho anh biết là phải làm những gì đối với người đàn bà. Bà ta lấy làm lạ không những Abel không tỏ ra thèm muốn gì mình, mà lại còn ngạc nhiên thấy hai tuần sau đó ngày nào anh cũng đến rất đều.
- Bao giờ thì tôi biết là mình học xong? – Abel hỏi.
- Rồi anh sẽ biết, - Joyce đáp. - Nếu anh làm cho tôi sướng được thì đến một cái xác ướp Ai Cập anh cũng làm cho sướng được.
Bà ta dạy cho anh biết đâu là những chỗ nhạy cảm trên cơ thể bà ta, và bảo anh phải biết kiên nhẫn trong khi làm tình. Những dấu hiệu như thế nào khiến anh có thể biết được là anh làm cho người ta thỏa mãn. Abel nghe rất kỹ và làm theo từng cái bà ta dặn. Lúc đầu anh có hơi máy móc, nhưng bà ta đảm bảo rồi anh sẽ thành công không thể tưởng tượng được. Quả nhiên, đến tuần thứ ba và sau khi đã có thể làm cho người đàn bà Joyce này trở nên sống động và háo hức trong vòng tay của mình. Lần đầu anh nghe thấy tiếng rên rỉ của Joyce và cảm thấy sung sướng một cách lạ kỳ. Bà ta cứ bấu chặt lấy anh rên rỉ hoài, lúc to, lúc nhỏ, cho đến lúc bà ta phải hét lên rồi buông tay ra, rã rời.
- Anh bạn ơi, thế là anh đỗ thủ khoa rồi đấy nhé. - Thở được rồi, bà ta nói. Nhưng Abel thì chưa thấy gì.
Abel tốt nghiệp cả hai bằng. Anh tự thưởng cho mình bằng cách rủ cả mấy người, George, Monika và Clara nữa, đi xem trận đấu quyền Anh vô địch thế giới giữa Gene Tunney với Jack Dempsey và mua vé hạng nhất. Đêm đó, sau khi xem trận đấu rồi, Clara miễn cưỡng làm cái bổn phận đi nằm với Abel vì anh ta chi cho cô khá nhiều tiền. Nhưng đến sáng hôm sau thì chính Clara lại cầu khẩn Abel là đừng có bỏ rơi cô ta.
Mặc dầu vậy, Abel không bao giờ rủ cô ta đi nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

44#
 Tác giả| Đăng lúc 27-2-2012 17:49:42 | Chỉ xem của tác giả
Tốt nghiệp Đại học Columbia rồi, Abel cảm thấy không hài lòng với cuộc sống ở khách sạn Plaza. Tuy nhiên, anh chưa hình dung được mình sẽ tiến lên nữa như thế nào. Mặc dầu anh đã phục vụ một số trong những người giàu nhất và thành công nhất ở Mỹ, nhưng anh chưa hề bao giờ dám nói chuyện trực tiếp với những người đó, vì anh sợ làm như thế có thể mất việc như chơi. Dù sao, anh nghĩ các vị khách đến ăn ở đây sẽ chẳng ai thực sự quan tâm đến nguyện vọng của một người hầu bàn. Abel quyết chí mình sẽ trở thành một người đứng đầu những tay phục vụ bàn.
Một hôm có ông bà Ellsworth Statler đến ăn trưa ở phòng Gỗ Sồi trong khách sạn Plza là nơi Abel đang làm thay người khác một tuần. Anh nghĩ bụng vận may của mình đã đến. Anh làm mọi cách để có thể gây ấn tượng cho nhà chủ và bữa ăn hôm đó thật là tuyệt. Lúc ra về, ông Slatler cảm ơn Abel một cách nồng nhiệt và cho anh mười đôla. Nhưng rồi chỉ thế là hết, Abel nhìn theo khách đi ra phía cửa ngoài khách sạn, không biết làm thế nào nữa.
Sammy, người đứng đầu những tay hầu bàn, vỗ vào vai anh hỏi:
- Ông Statler cho cậu gì đấy?
- Ông ấy không cho tiền thưởng ư? – Sammy nghi ngờ hỏi.
- Ồ, có chứ, - Abel nói. - Mười đôla. – Anh đưa tiền cho Sammy.
- Khá đấy nhỉ, - Sammy nói. - Tớ đã tưởng cậu định lòe tớ, Abel. Mười đôla, với ông Statler như thế cũng là tốt lắm đấy. Có lẽ cậu đã làm cho ông ta phải cảm động.
- Không tôi có làm gì đâu.
- Cậu nói thế là sao? – Sammy hỏi.
- Nhưng thôi, không quan trọng. – Abel đáp và định bỏ đi.
- Khoan đã, Abel, có mẩu giấy này cho cậu đây. Ông khách ở bàn mười bảy, ông Leroy muốn nói chuyện riêng với cậu đấy.
- Về cái gì thế, Sammy?
- Ai mà biết? Có lẽ ông ta thích đôi mắt xanh của cậu chăng.
Abel liếc nhìn ra bàn 17. Bàn đó chỉ dành cho những khách hiền lành không đòi hỏi gì và là khách vô danh nữa. Vị trí của chiếc bàn gần ngay cửa ra vào bếp. Abel thường tránh không phục vụ bất cứ bàn nào cuối phòng.
- Ông ta là ai thế? – Abel hỏi. – Ông ta muốn gì.
- Tớ không biết, - Sammy nói và cũng không buồn ngẩng lên. -Tớ không quen tìm hiểu về lịch sử đời sống của khách như cậu. Cho họ ăn tử tế, yên trí có tiền thưởng càng nhiều càng tốt rồi mong họ trở lại nữa, thế thôi. Cậu có thể cho đó là triết lý đơn giản, nhưng với tớ thế là tốt lắm rồi. Có lẽ ở Columbia họ quên không dạy cho cậu những cái cơ bản. Thôi, cậu ra đó đi, Abel, và nếu được tiền thưởng thì mang ngay về đây.
Abel nhìn vào cái đầu hói của Sammy, cười rồi bước đến bàn 17. Có hai người đang ngồi ở đó. Một người mặc chiếc áo ngoài sặc sỡ mà Abel không thích lắm, người kia là một cô gái khá xinh đẹp có mớ tóc vàng xoăn mà anh đoán là bồ của ông khách và trong bụng nghĩ thế nào cũng được nghe khách phàn nàn về chuyện cái cửa ra vào gần bếp, đòi phải đưa bàn đi chỗ khác để làm oai với cô gái tóc vàng kia. Không ai thích ngửi cái mùi trong bếp xông ra và những người phục vụ đi ra đi vào khiến cánh cửa bật thình lình liên tiếp. Nhưng cũng không thể không dùng đến chiếc bàn đó, vì khách sạn thì rất đông người ở, mà người New York vốn đã quen hễ thấy người lạ là không bằng lòng. Tại sao Sammy lại để anh phải đối phó với những khách có vẻ khó chơi như thế này? Abel từ từ bước đến bên người khách mặc áo sặc sỡ.
- Thưa, ông muốn nói với tôi ạ?
- Đúng thế, - ông ta đáp bằng một giọng miền Nam. – Tên tôi là Davis Leroy, còn đây là con gái tôi, Melanie.
Abel quay sang nhìn đôi mắt xanh của cô ta, một đôi mắt anh chưa từng thấy bao giờ.
- Trong năm ngày qua, Abel, tôi đã quan sát anh rất kỹ, - ông Leroy nói tiếp với giọng Nam lê thê ấy.
Nếu ai hỏi vặn lại thì Abel sẽ phải thừa nhận rằng anh chưa bao giờ để ý đến ông Leroy mà chỉ cách đây năm phút mới biết.
- Tôi rất có ấn tượng về những gì đã trông thấy, Abel, vì xem ra anh là người có hạng, có hạng thật sự, mà tôi thì vẫn chú ý đến những người như vậy. Ellsworth Statler không chọn những người như anh thì thật là ngốc.
Abel bắt đầu nhìn anh Leroy kỹ hơn. Đôi má đỏ hồng và chiếc cằm bạnh của ông ta khiến Abel nghĩ ông ta không biết cấm rượu là gì. Những đĩa thức ăn trước mặt đã ăn sạch chứng tỏ ông ta ăn cũng rất khỏe. Nhưng cái tên đó của ông ta, bộ mặt của ông ta, như không có nghĩa gì với anh cả. Nếu là bữa ăn trưa bình thường, thì Abel đã có thể rất biết kỹ về lý lịch của bất cứ ai ngồi ở ba mươi bảy trong số ba mươi chín chiếc bàn trong phòng Gỗ Sồi rồi. Nhưng hôm đó bàn ông Leroy ngồi lại là một trong hai bàn mà anh không biết.
Vẫn cái giọng miền Nam cất lên.
- Tôi không phải là một trong những nhà đại triệu phú thường ngồi ở mấy chiếc bàn trong góc của anh mỗi khi họ đến Plaza đâu nhé.
Abel ngạc nhiên. Nếu là khách bình thường thì không ai có thể biết giá trị của những bàn khác nhau trong phòng ăn này.
- Nhưng tôi làm ăn cũng không đến nỗi tồi đâu. Thực ra, một ngày kia khách sạn của tôi cũng sẽ có thể gây ấn tượng tốt được như khách sạn này, Abel.
- Tôi tin chắc như vậy, thưa ông. – Abel đáp.
Leroy? Cái tên này sao không nói lên điều gì nhỉ.
- Để tôi nói thẳng cho anh biết nhé. Khách sạn đầu đàn trong số những khách sạn của tôi cần có một người phó quản lý mới phụ trách nhà ăn. Nếu anh quan tâm đến điều đó thì khi nào xong việc anh lên phòng gặp tôi.
Ông ta đưa cho anh một tấm thiếp.
- Xin cảm ơn ông, - Abel nói và nhìn vào thiếp: Davis Leroy. Công ty khách sạn Richmond, Dallas. Ở dưới có khẩu hiệu: Mỗi ngày kia mỗi bang có một khách sạn. Abel vẫn chưa thấy cái tên này của ông ta có nghĩa gì đối với mình.
- Tôi chờ gặp anh nhé, - ông khách miền Texas có chiếc áo sặc sỡ thân mật nói.
- Xin cảm ơn ông, - Abel nói. Anh mỉm cười với Melanie. Mắt cô ta vẫn xanh và lạnh lung như từ nãy đến giờ. Anh quay trở lại chỗ Sammy, trong đầu nghĩ ngợi.
- Anh có nghe thấy nói Công ty Khách sạn Richmond bao giờ không, Sammy?
- Có chứ. Cậu em tớ đã hầu bàn ở đó một lần. Hình như họ có tám chin khách sạn gì đó ở khắp miền Nam, do một anh chàng điên rồ người Texas quản lý nhưng mình không nhớ rõ tên. Sao cậu hỏi thế? – Sammy ngửng lên với vẻ ngờ vực.
- Chả có lý do gì đặc biệt cả, - Abel nói.
- Với cậu thì bao giờ cũng có lý do tất. Thế bàn 17 muốn gì? – Sammy hỏi.
- Họ phàn nàn về tiếng ồn trong nhà bếp. Chả trách họ được.
- Vậy ông ta muốn thế nào? Cho ra ngồi ngoài hiên ư? Ông ta tưởng mình là gì chứ, John D. Rockefeller chăng?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

45#
 Tác giả| Đăng lúc 27-2-2012 17:52:38 | Chỉ xem của tác giả
Abel để mặc cho Sammy đứng đó tính toán và càu nhàu, còn anh đi dọn mấy chiếc bàn của mình cho nhanh. Rồi anh trở về phòng bắt đầu tìm hiểu về Công ty Richmond. Chỉ gọi điện thoại đi vài nơi là anh đủ biết được hết. Đây là một công ty tư nhân, có tất cả mười một khách sạn, cái lớn nhất là một tòa nhà có 342 phòng sang trọng ở Chicago, gọi là Richmond Continental. Abel quyết định đến thăm ông Leroy và Melanie mà sẽ chẳng mất gì. Anh hỏi số phòng của ông Leroy. Đó là phòng 85, nhỏ nhưng thuộc loại sang. Anh đến trước bốn giờ, hơi thất vọng vì cô Melanie không có đó.
- Hoan nghênh anh đến, Abel. Mời anh ngồi.
Lần đầu tiên kể từ hơn bốn năm làm việc trong Plaza, bây giờ Abel mới được ngồi như một người khách.
- Anh được trả lương bao nhiêu? – Ông Leroy nói.
Câu hỏi bất ngờ làm Abel sửng sốt.
- Tôi được khoảng hai mươi lăm đôla mỗi tuần kể cả tiền thưởng.
- Tôi sẽ bắt đầu trả bằng trả anh ba mươi lăm mỗi tuần.
- Ông muốn nói khách sạn nào kia ạ? – Abel hỏi.
- Nếu tôi đoán đúng, Abel, thì anh xong việc lúc ba rưỡi, và trong khoảng nửa giờ sau đó là anh tìm hiểu về khách sạn, tôi nói vậy có đúng không?
Abel đã bắt đầu ưa ngay ông khách này. Anh bạo dạn đoán ngay.
- Khách sạn Richmond Continental ở Chicago, phải không ạ?
- Tôi đoán đúng, và cả về anh. – Davis Leroy cười.
- Trên người phó quản lý thì có bao nhiêu người nữa. – Abel nghĩ thật nhanh.
- Chỉ có người quản lý và tôi. Người quản lý là một người chậm chạp, dễ thương và cũng gần về hưu. Tôi còn đến mười khách sạn nữa phải lo. Anh sẽ chẳng gặp khó khăn gì lắm đâu. Tuy nhiên tôi cũng phải thú thật Chicago là chỗ tôi thích nhất. Đó là khách sạn đầu tiên của tôi ở miền Bắc, Melanie đi học ở đó nên tôi cũng mất nhiều thời gian ở thành phố này. Anh đừng có mắc sai lầm của nhiều người ở New York là đánh giá thấp Chicago. Họ thường nghĩ Chicago chỉ là một chiếc phong bì.
Abel mỉm cười.
- Lúc này khách sạn hơi xuống cấp một chút, - ông Loroy nói tiếp, - Tự nhiên anh chàng phó quản lý của tôi bỏ đi, tôi cần có một người thay thế và hiểu biết công việc. Anh nghe đây, Abel, trong năm ngày qua tôi đã theo dõi anh cẩn thận, và tôi biết là anh có thể ngay thế người đó. Anh có muốn đi Chicago không nào?
- Bốn mươi đôla cộng với mười phần trăm lợi nhuận. tôi sẽ nhận việc ngay.
- Sao? – Davis Leroy rất ngạc nhiên hỏi. – Không có một người quản lý nào của tôi ăn lương trên cơ sở lợi nhuận như thế cả. Những người khác mà biết được như thế thì lôi thôi ngay.
- Tôi sẽ không nói cho ai biết nếu ông không nói, - Abel nói.
- Bây giờ thì tôi biết là mình đã chọn được đúng người, dù cho anh ta mặc cả còn giỏi hơn cả một người Bắc Mỹ có sáu cô con gái, - ông ta vỗ tay vào thành ghế. – Tôi đồng ý với điều kiện của anh, Abel.
- Ông có cần tham khảo gì thêm nữa không, ông Leroy?
- Tham khảo? Tôi biết rõ về lý lịch của anh từ khi anh rời châu Âu sang đây, cho đến lúc anh đỗ bằng kinh tế ở Columbia. Thế anh tưởng mấy ngày vừa qua ở đây tôi làm gì? Nếu phải cần tham khảo nữa thì tôi đã không để anh làm người đứng thứ hai trong khách sạn tốt nhất của tôi như vậy. Bao giờ anh bắt đầu làm việc được?
- Một tháng nữa tính từ hôm nay.
- Tốt. Tôi chờ đến lúc đó sẽ gặp anh, Abel.
Abel đứng dậy. Anh thấy mình đứng thế này dễ chịu hơn là ngồi ghế khách sạn. Anh bắt tay ông Davis Leroy, người khách ngồi ở bàn 17, chiếc bàn chỉ để cho những người không ai biết đến.
Rời thành phố New York và khách sạn Plaza, ngôi nhà thật sự của anh kể từ sau khi anh rời lâu đài ở Slonim, Abel cảm thấy bứt rứt trong lòng. Anh không ngờ có lúc phải chia tay như thế. Từ biết George, Monika và các bạn ở Columbia, anh thấy bịn rịn vô cùng. Sammy và những người hầu bàn khác tổ chức chiêu đãi tiễn anh đi.
- Rồi cậu còn lên nữa chứ không phải chỉ có thế đâu, Abel Rosnovski, - Sammy nói và mọi người cũng đồng ý như vậy.
Khách sạn Richmond Continental ở Chicago nằm giữa Đại lộ Michigan, trung tâm của một trong những thành phố phát triển nhanh nhất ở Mỹ. Điều đó khiến Abel rất hài long. Anh rất nhớ câu châm ngôn của Ellsworth Statler nói rằng, có ba điều cực kỳ quan trọng đối với một khách sạn, đó là: địa điểm, địa điểm và địa điểm. Nhưng Abel cũng phát hiện ra ngay rằng khách sạn Richmond này chỉ được có mỗi cái là địa điểm thôi. Davis Leroy có nói rằng khách sạn hơi bị xuống cấp, nhưng như vậy là ông ta chưa nói đúng lắm. Desmond Pacey, người quản lý, không phải một người chậm chạp hiền lành như Davis Leroy nói, mà ông ta còn là một anh chúa lười nữa. Ông ta còn tỏ ra không ưa Abel lắm. Ông ta để cho anh phó quản lý mới của mình ở trong một căn phòng nhỏ tí dành cho nhân viên dành cho nhân viên khách sạn ở bên kia đường, chứ không cho ở ngay trong khách sạn. Mới xem qua những sổ sách của Richmond, anh đã biết ngay rằng số khách hàng ngày chỉ dưới 40 phần trăm phòng, còn nhà ăn thì không bao giờ có đến nửa số khách, mà nguyên nhân chính là thức ăn không ra gì. Nhân viên phục vụ thì nói đến ba bốn thứ tiếng gì với nhau nhưng hình như chẳng có ai trong số họ thông thạo tiếng Anh. Họ rõ rang không tỏ ra có chút gì hoan nghênh anh chàng Ba Lan ở New York này lên đây.
Anh không lấy làm lạ tại sao người phó quản lý trước đây đã vội vã bỏ đi như vậy. Nếu như đây là khách sạn mà Davis Leroy cho rằng ông ta ưa thích nhất, thì Abel cũng lấy làm lo ngại cả mười khách sạn còn lại kia lắm, dù cho ông chủ mới của anh có vẻ là người lắm tiền nhiều của ở Texas.
Nhưng trong những ngày đầu ở Chicago, cái tin hay nhất mà Abel biết được là: Melanie Leroy là đứa con duy nhất của ông chủ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

46#
 Tác giả| Đăng lúc 27-2-2012 17:54:45 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 14



William và Matthew học năm đầu ở Harvard mùa thu năm 1924. Mặc dầu không được các cụ đồng ý, William vẫn nhận học bổng Hamilton về toán là 290 đôla, dùng số tiền đó sắm chiếc Daisy, kiểu xe mới nhất của hãng Ford và cũng là điều đầu tiên William yêu quý nhất đời mình. Anh đem xe đi sơn màu vàng nhạt. Tiền sơn bằng nửa tiền xe, hưng số bạn gái của anh lại tăng gấp đôi. Lúc đó Calvin Coolidge (Tổng thống thứ 30 của Mỹ) thắng lớn trong bầu cử để trở lại Nhà trắng, và thị trường chứng khoán New York đạt kỷ lục đầu tiên từ năm năm là có đến 2336160 cổ phiếu.
Cả hai chàng trẻ tuổi đều mong cho chóng đến ngày vào đại học. Sau một mùa hè hoạt động sôi nổi với quần vợt và đánh gôn, họ sẵn sang đi vào những thứ người lớn hơn nữa. William bắt đầu ngay từ hôm về đến căn phòng mới của mình trên “Bờ biển Vàng”, so với căn phòng nhỏ hồi còn ở trường St. Paul thì khá hơn nhiều lắm. Còn Matthew thì đi tham gia vào câu lạc bộ bơi thuyền của trường. Matthew được bầu làm đội trưởng của đội năm thứ nhất. Mỗi chiều chủ nhật, William lại bỏ sách vở để ra xem bạn chèo thuyền trên sông Charles. Anh mừng với mỗi thành công của Matthew, nhưng cũng tỏ ra nghiêm khắc với bạn.
- Cuộc đời không phải chỉ có tám người cắm đầu cắm cổ khua mái chèo dưới nước và nghe một anh chàng nhỏ bé hơn mình ngồi đầu thuyền mà hét đâu nhé, - William nói.
- Cậu đi mà nói cái đó cho bọn Yale (một trường Đại học ở bang Connecticut) đó nghe, - Matthew đáp.
Trong khi đó William nhanh chóng chứng minh cho các giáo sư về toán thấy rằng anh không khác gì Matthew trước đây, tức là bỏ xa các bài đang được học rất nhiều. William cũng được bầu làm Chủ tịch Hội tranh luận của năm thứ nhất trong trường. Anh thuyết phục ông ngoại của mình là chủ tịch Lowell thực hiện kế hoạch bảo hiểm đầu tiên của trường bằng cách bảo đảm cho mỗi sinh viên tốt nghiệp Harvard được bảo hiểm sinh mạng suốt đời mà mỗi người chỉ phải đóng có 1000 đôla, do nhà trường thu dần. William tính rằng như vậy mỗi sinh viên tham gia bảo hiểm chỉ phải đóng mỗi tuần không đến một đôla và nếu cả 40 phần trăm từ năm 1950 trở đi, trường Harvard đã có thể có được thu nhập mỗi năm chừng 3 triệu đôla. Ông chủ tịch nghe anh trình bày kế hoạch đó liền ủng hộ ngay và một năm sau mời William tham gia vào bộ phận lãnh đạo của ủy ban quyên góp trong trường. William rất tự hào nhận chức vụ đó mà không biết là anh sẽ phải làm chuyện ấy suốt đời. Chủ tịch Lowell báo cho là bà nội Kane của anh biết là ông đã có được một trong những bộ óc tài chính giỏi nhất của thế hệ này mà chẳng mất đồng nào. Bà nội Kane trả lời ông em họ của bà rằng: mọi thứ đều có mục đích của nó cả, và như vậy William càng có thêm nhiều kinh nghiệm xử thế sau này.
Năm thứ hai vừa bắt đầu là đã đến lúc phải chọn dần một trong số những Câu lạc b Chung kết, tức là những tổ chức của trường có liên quan đến những cở xã hội của từng người, nhất là những con nhà giàu. William được đưa vào câu lạc bộ Porcell là một hội lâu đời nhất, giàu nhất, độc đáo nhất nhưng cũng kín đáo nhất. Trong hội quán của nó ở đại lộ Massachusetts đặt trong một tiệm cà phê rẻ tiền có tên là Hayes-Bickford, anh có thể ngồi đàng hoàng trong một chiếc ghế bành, suy nghĩ về những chuyện đang xảy ra ngoài đời, ngắm nhìn quanh cảnh ngoài đường phố qua tấm gương đặt ở góc phòng và nghe chiếc đài lớn mới lắp.
Đến kỳ nghỉ Giáng sinh, William bị thuyết phục đi trượt tuyết với Matthew ở Vermont và anh phải mất một tuần vất vả trèo núi để theo kịp người bạn của mình.
- Này Matthew này, tại sao lại phải mất một giờ trèo lên núi cao để rồi chỉ trượt xuống trong có mấy giây đồng hồ mà lại nguy hiểm đến tính mạng hoặc bị ngã gãy chân như vậy?
Matthew càu nhàu.
- Như thế chả hơn là ngồi với những lý thuyết về đồ thị hay sao? Này William, sao cậu không thừa nhận là leo lên hay trượt xuống cậu đều tồi cả?
Trong năm thứ hai, họ bận nhiều việc khác nên bỏ qua một số môn học, tuy với mỗi người khái niệm về “bỏ qua” cũng rất khác nhau. Hai tháng đầu nghỉ hè, họ làm việc với tư cách trợ lý tập sự cho ngân hang Charles Lester ở New York. Ông bố của Matthew bây giờ đã thôi không giữ một khoảng cách với William nữa. Vào những ngày nóng ẩm của tháng tám, William và Matthew nhảy lên chiếc Daisy về vùng nông thôn New York hoặc di chuyển trên sông Charles với các cô gái, và hễ cứ đâu có chiêu đãi là họ tranh thủ để được mời và đến dự. Họ lúc nào chả phải đóng vai những nhân vật quan trọng của trường. Ai cũng có thể biết rằng hễ cô gái nào lấy William Kane hoặc Matthew Lester thì đều không có gì phải lo cho tương lai của mình nữa.
Ngày 18 tháng tư 1927, William mừng ngày sinh nhật thứ hai mươi mốt của mình bằng một cuộc gặp cuối cùng với những người được ủy thác trông coi tài sản của anh, Alan Lloyd và Tony Simmons đã chuẩn bị các thứ giấy tờ cho anh ký.
- Thôi nhé, William thân mến, - bà Milly Preston nói với một giọng như vừa được trút khỏi gánh nặng, - Tôi tin rằng anh sẽ có thể làm được từng việc cụ thể như chúng tôi đã làm.
- Tôi hy vọng như vậy, thưa bà Preston, nhưng nếu như khi nào tôi cần mất nửa triệu đôla trong một đêm, thì tôi sẽ biết phỉa gọi cho ai.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

47#
 Tác giả| Đăng lúc 27-2-2012 17:56:05 | Chỉ xem của tác giả
Milly Preston đỏ bừng mặt nhưng không dám trả lời.
Quỹ ủy thác bây giờ đã được trên 32 triệu đôla. William đã có kế hoạch trong đầu để nuôi số tiền ấy, nhưng anh cũng tự đặt cho mình nhiệm vụ là kiếm thêm một triệu đôla nữa trước khi rời trường Harvard. So với tiền ủy thác thì nó không là bao nhiêu, nhưng tài sản thừa kế đối với anh không thể nào có ý nghĩa bằng tài khoản tự anh làm ra được và gửi ở ngân hàng Lester.
Mùa hè năm đó, các cụ bà nội ngoại rất lo sợ có các cô gái nhòm ngó tiền của các cháu mình, đã cho William và Matthew đi chơi một tua ở châu Âu. Chuyến đi này lại hóa ra thành công lớn cho cả hai người. Matthew vượt qua mọi trở ngại về ngôn ngữ, hễ cứ đến một thủ đô nào của châu Âu là lại kiếm được một cô gái đẹp. Anh ta bảo với William rằng tình yêu là một thứ hàng tiêu dung có tính quốc tế. Còn William thì tự giới thiệu mình với mỗi giám đốc của các ngân hàng châu Âu. Anh bảo Matthew rằng tiền cũng là một thứ hang tiêu dung có tính quốc tế. Từ London đến Berlin và Rome, hai anh chàng để lại sau lưng một loạt những trái tim tan vỡ và những nhà ngân hàng với khá nhiều ấn tượng. Về đến Harvard vào tháng chin, cả hai người đã sẵn sang lao vào sách vở để chuẩn bị cho năm cuối cùng ở trường.
Vào mùa đông năm 1927 khá rét mướt, bà nội Kane qua đời, hưởng thọ 85 tuổi. Đã lâu lắm rồi kể từ sau khi mẹ chết, bây giờ William mới lại khóc.
Ít ngày sau khi cùng chia buồn với William về cái chết của bà cụ. Matthew nói:
- Thôi cậu, bà cụ đã sống một cuộc sống cuộc sống sung sướng và cụ cũng đã chờ khá lâu để tìm hiểu xem Chúa là người thuộc họ Cabot hay Lowell rồi.
William nhớ đến những lời bà nội trước đây thường nói, mặc dầu anh không thích lắm. Nhưng anh tổ chức một đám tang rất linh đình cho bà. Anh cho chở bà trên chiếc xe tang Packard đen đến nghĩa trang một cách sang trọng, trang nghiêm mà nếu bà còn sống chắc sẽ không bằng lòng. Cái chết của bà khiến cho William càng tập trung vào việc học hơn trong năm cuối ở Harvard. Anh quyết tâm giành giải thưởng hàng đầu về toán của trường để kỷ niệm bà nội. Sáu tháng sau bà ngoại Cabot cũng mất nốt. William nghĩ có lẽ vì bà buồn không còn ai để trò chuyện nữa.
Tháng hai năm 1928, đội trưởng đội tranh luận đến gặp William. Họ báo là tháng sau đó sẽ có cuộc tranh luận và mọi người phải ăn mặc chỉnh tề để nói về Chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản cho tương lai của nước Mỹ. Trong cuộc tranh luận này, cố nhiên William sẽ được yêu cầu đại diện cho chủ nghĩa tư bản.
- Nếu như tôi bảo với anh rằng tôi chỉ muốn phát biểu nhân danh những quần chúng bị áp bức thì sao nhỉ? – William hỏi lại đội trưởng. Anh ta ngạc nhiên, vì xưa nay vẫn nghĩ rằng William vốn là dòng dõi con nhà giàu và lại là một nhà ngân hang có triển vọng thì không thể có ý nghĩa quái gở ấy được.
- Ồ, William, chúng tôi vẫn tưởng anh sẽ chọn lựa…
- Thôi được. Tôi nhận lời. Nhưng tôi được tự do chọn người đồng sự với tôi chứ?
- Tất nhiên.
- Tốt. Thế thì tôi chọn Matthew Lester. Tôi có được biết đối phương của chúng tôi là những ai không?
- Một ngày trước khi tổ chức tranh luận anh mới biết được. Người ta sẽ yết thị trên sân trường ấy.
Cả một tháng sau đó, Matthew và William biến những cuộc phê phán báo chí tả hữu thường làm vào những bữa ăn trưa buổi sáng và cả những cuộc thảo luận buổi tối về ý nghĩa của Cuộc sống thành những buổi họp có tính chất chiến lược, khiến cả trường đều gọi đó là Cuộc tranh luận vĩ đại. William để cho Matthew dẫn đầu những buổi đó.
Gần đến ngày quyết định, người ta được biết tất cả những sinh viên có hiểu biết về chính trị, các giáo sư và cả một số chức sắc của Boston với Cambridge sẽ đến dự. Sáng hôm trước ngày đó, hai người lên văn phòng trường để xem đối phương của mình là những ai.
- Leland Crosby và Thaddeus Cohen. Cả hai cái tên này cậu có nghe nói bao giờ không, William? Crosby có lẽ là một trong những Crosby của Philadelphia đấy chăng?
- Đúng rồi đấy. Bà cô của anh ta đã có lần mô tả đó là Anh chàng đỏ điên rồ ở quảng trường Rittenhouse. Đúng rồi đấy. Anh ta là một người cách mạng say sưa nhất ở khu học xá này, rất nhiều tiền và đem tiền tiêu hết cho những hoạt động bình dân cấp tiến gì đó. MÌnh đã có thể thấy được anh ta sẽ mở đầu như thế nào rồi.
Và William nhại cái giọng lanh canh của Crosby: “Tôi đã biết rất rõ cái tính tham tàn và hoàn toàn thiếu ý thức xã hội của giai cấp có tiền ở Mỹ. Nếu như mọi người trong cử tọa chưa từng nghe cái câu đó đến năm chục lần rồi, thì mình có thể cho anh ta sẽ là một đôi thủ đáng gờm đấy”.
- Thế còn Thaddeus Cohen?
- Chưa nghe nói đến anh chàng này bao giờ.
Tối hôm sau, trong bụng hồi hộp, hai người khoác áo dày lên mình đi qua gió tuyết ngoài sân trường, qua những dãy cột nhẵn bóng của thư viện Widener lên hội trường Boylston. William có cảm tưởng về cha mình trước đây đã bước xuống con tàu Titanic vậy.
- Với thời tiết như thế này, giá chúng mình có thua thì cũng chẳng có mấy ai đi nói lại làm gì, - Matthew nói.
Nhưng lúc hai người đi qua thư viện thì đã thấy rất đông người lục tục theo nhau lên cầu thang và kéo và hội trường. Vào đến bên trong, họ chỉ cho hai người lên ngồi trên bục diễn đàn. William ngồi im lặng, nhưng mắt anh nhìn khắp mọi người trong cử tọa: Chủ tịch Lowell ngồi kín đáo ở hàng ghế giữa, cựu giáo sư môn thực vật Newbury St. John, vài bà phụ nữ trong giới văn học mà anh nhận ra được tại những cuộc chiêu đãi ở nhà mình. Phía bên phải hội trường có một nhóm thanh niên nam nữ trông như dân du mục và có một sỗ cũng không chịu đeo ca vát nữa. Họ vỗ tay ran khi thấy những người phát ngôn của mình, Crosby và Cohen, bước lên diễn đàn.
Trong hai người, Crosby có vẻ ra dáng hơn. Người anh ta cao gầy, gần như trong một bức tranh biếm họa, mặc bộ đồ vải sọc với chiếc sơ mi là rất thẳng, miệng ngậm một chiếc tẩu thuốc dính vào môi dưới không ăn nhập gì với kiểu người, Thaddeus Cohen lùn bé hơn, đeo đôi mắt kính không có gọng, mặc bộ đồ len sẫm quá mức ngay ngắn.
Bốn diễn giả bắt tay nhau một cách thận trọng. Tiếng chuông nhà thờ cách học xá chừng mấy chục thước vang lên bảy tiếng.
- Xin mời ông Leland Crosby, - người đội trưởng lên tiếng.
Bài diễn văn của Crosby khiến William lấy làm yên lòng. Anh dự kiến được trước mọi thứ. Cái giọng oang oang và gay gắt của Crosby là biểu hiện anh ta rất nóng tính, dễ mất tỉnh táo. Anh ta dẫn chứng không biết bao nhiêu những thí dụ của chủ nghĩa cấp tiến ở Mỹ. William nghĩ chẳng qua Crosby chỉ nhân dịp này mà quảng cáo cho cá nhân mình và nhiều lắm là được nhóm thanh niên ngồi phía bên phải kia vỗ tay mà thôi. Lúc Crosby nói xong và ngồi xuống rồi, rõ ràng anh ta không có thêm được người mới nào ủng hộ, mà có thể trong những người cũ lại mất đi một số. Việc anh ta dẫn chứng William với Matthew là hai người bạn giàu có với nhau không chịu hy sinh cho sự nghiệp công bằng xã hội ở đây quả là một điều dại dột.
Matthew nói thẳng vào vấn đề, với một giọng ôn tồn. Anh tỏ ra mình là hiện thân của sự rộng lượng và tự do. Anh trở về chỗ, được vỗ tay nhiệt liệt. William nắm chặt lấy tay bạn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

48#
 Tác giả| Đăng lúc 27-2-2012 17:57:22 | Chỉ xem của tác giả
- Chỉ còn có tiếng hò hét thôi, - anh nói khẽ.
Nhưng đến lượt Thaddeus Cohen thì mọi người phải ngạc nhiên. Anh ta có kiểu nói nhỏ nhẹ dễ được cảm tình. Những thí dụ dẫn chứng của anh mang tính tôn giáo và sắc sảo. Anh ta làm cho toát ra một sự nghiêm túc về tinh thần, đồng thời cũng thừa nhận những thiếu sót và cả những cái quá đáng của phía mình. Nói chung, anh ta làm cho người nghe thấy rằng mặc dầu có những nguy cơ này khác nhưng muốn cho loài người có thể tiến lên được thì không có con đường nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội.
William thấy hơi bối rối. Anh nghĩ nếu trực tiếp đánh thẳng vào lập trường chính trị của đối phương thì sẽ là vô ích, nhất là sau khi Cohen đã trình bày một cách dẽ nghe và có tính thuyết phục như vậy. Tuy nhiên, nếu muốn vượt lên trên anh ta để tỏ ra mình làn gười phát ngôn của hy vọng và niềm tin ở tinh thần nhân đạo của con người thì cũng không được. William tập trung trước hết vào việc bác bỏ những lời buộc tội của Crosby, rồi sau đó anh trả lời cho những lý luận của Cohen bằng cách nói lên niềm tin của chính mình vào khả năng của xã hội Mỹ có thể đem lại những hiệu quả tốt nhất qua sự ganh đua với nhau về tinh thần và kinh tế. Anh cảm thấy mình bảo vệ cho luận điểm của mình thế là đủ, không cần gì nhiều hơn. Anh ngồi xuống với cảm tưởng như bị Cohen đánh bại.
Crosby lại lên nói tiếp. Anh ta hùng hổ làm như bây giờ sẽ đánh bại luôn cả Cohen cũng như William và Matthew. Anh ta còn hỏi cử tọa xem có biết được đâu là kẻ thù của nhân dân trong số những người ngồi đây. Anh ta nhìn khắp hội trường một lúc lâu, chỉ thấy cử tọa ngồi yên lặng một cách khó chịu, còn đám thanh niên ủng hộ anh ta thì cúi nhìn xuống mũi giày. Rồi anh ta gào lên:
- Anh ta đứng trước mặt mọi người đó. Anh ta vừa nói đó. Tên anh ta là William Lowell Kane. – Giơ tay chỉ vào William nhưng không nhìn vào anh, Crosby quát tháo. – Ngân hàng của anh ta làm chủ những hầm mỏ trong đó công nhân đang chết dần mòn để đem lại cho bọn chủ số tiền lãi hàng triệu đôla mỗi năm. Ngân hàng của anh ta trợ giúp cho bọn độc tài tham nhũng vầ khát máu ở Mỹ La tinh. Thông qua ngân hàng của anh ta, Quốc hội Mỹ ăn hối lộ, bóc lột nông dân nghèo. Ngân hàng của anh ta…
Anh ta cứ như thế nói thao thao một lúc nữa. William ngồi im lặng, chỉ thỉnh thoảng ghi vào chữ vào tập giấy trong tay mình. Một số người trong cử tọa bắt đầu lên tiếng bác bỏ. Những người ủng hộ Crosby quát lại. Các vị quan chức bắt đầu tỏ ra khó chịu.
Thời gian cho Crosby nói đã sắp hết. Anh ta giơ nắm đấm lên trời và nói:
- Thưa các vị, tôi có thể nói rằng chỉ cách phòng này vài trăm bước là chúng ta sẽ tìm thấy câu trả lời cho cái tai họa của nước Mỹ. Đó là thư viện Widener, một thư viện tư lớn nhất thế giới hiện nay. Ở thư viện này, các nhà học giả nhập cư tội nghiệp cùng với những người có hiểu biết nhất ở Mỹ đến để làm cho thế giới này có thêm trí thức và thịnh vượng. Nhưng tại sao lại có thư viện ấy? Vì mười sáu năm trước đây do có một chàng thanh niên nhà giàu nhảy lên chiếc tàu Titanic để đi chơi rồi chẳng may gặp nạn. Thưa quý ông quý bà, tôi đề nghị rằng trong khi nhân dân Mỹ chưa cấp cho mỗi người của giai cấp cầm quyền một tấm vé để lên chiếc tàu Titanic của chủ nghĩa tư bản ấy, thì phải đem tất cả những của cải tàng trữ trên lục địa này mà giải phóng và phục vụ cho sự nghiệp của tự do, bình đẳng và tiến bộ.
Nghe cái cách ăn nói của Crosby như vậy, Matthew đã thấy ngay anh ta làm một việc rất dại dột là đã nhắc đến vụ đắm tàu Titanic, và điều đó sẽ quật lại chính anh ta. Anh không biết William sẽ trả lời đối với thái độ khiêu khích ấy như thế nào.
Trật tự và im lặng lại rồi, đội trưởng bước ra nói:
- Xin mời ông William Lowell Kane.
William bước lên bục diễn đàn nhìn khắp lượt cử tọa. Trong phòng im phăng phắc.
- Ý kiến của tôi là những quan điểm do ông Crosby vừa nói không đáng được trả lời.
Rồi anh bước xuống. Cả phòng bỗng im lặng một cách lạ thường, rồi liền đó là tiếng vỗ tay vang dậy.
Đội trưởng bước lên diễn đàn nhưng lúng túng chưa biết làm gì. Một tiếng nói phía sau lưng anh ta bỗng phá tan giây phút căng thẳng.
- Ông chủ tịch. Xin cho phép hỏi ông Kane là tôi có thể dùng thời gian trả lời của ông ấy được không. – Thaddeus Cohen nói.
William nhìn đội trưởng và gật đầu.
Cohen bước lên bục diễn đàn, chớp chớp mắt nhìn cử tọa rồi nói:
- Từ lâu đã rõ ràng là trở ngại lớn nhất cho sự thành công của chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Mỹ lại chính là chủ nghĩa quá khích trong một số đồng minh của nó. Không có gì chứng minh cho sự thật đáng buồn ấy hơn là bài nói của người đồng sự của tôi tối nay. Việc kêu gọi hủy diệt những người chống nó lại chính là làm hại đến sự nghiệp tiến bộ, và chúng ta có thể hiểu điều đó là tiêu biểu cho những cuộc đấu tranh xa lạ ở đâu đâu chứ không phải của chính chúng ta. Ở Mỹ thì điều đó là đáng buồn và không thể biện minh được. Riêng về phần tôi, tôi thành thật xin lỗi ông Kane về chuyện này.
Lần này thì tiếng vỗ tay vang lên dồn dập. Hầu như cả hội trường đứng dậy vỗ tay lien tục.
William bước đến bắt tay Thaddeus Cohen. Họ không lấy làm lạ thấy khi bỏ phiếu William và Matthew đã được hơn 150 phiếu. Buổi tối tranh luận thế là kết thúc. Mọi người lần lượt bước ra ngoài, đi trên những lối nhỏ phủ đầy tuyết và kéo ra đường phố oang oang nói chuyện với nhau.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

49#
 Tác giả| Đăng lúc 27-2-2012 17:58:27 | Chỉ xem của tác giả
William mời Thaddeus Cohen cùng đến uống nước với anh và Matthew. Họ cùng đi qua đại lộ Massachusetts, dầm trong tuyết đang rơi rồi cuối cùng đến trước một cánh cửa to đen sì gần như đối diện với hội trường Boylston.
William lấy chìa khóa ra mở rồi cả ba người bước vào bên trong nhà sảnh.
Trước khi cánh cửa khép lại, Thaddeus Cohen bỗng nói:
- Có lẽ tôi không được hoan nghênh ở đây đâu.
William ngạc nhiên một giây lát.
- Nói vớ vẩn. Anh đi với tôi kia mà.
Matthew liếc nhìn bạn, biết là William đã có một ý định gì.
Họ bước lên cầu thang vào một căn phòng rộng lớn, có đầy đủ bàn ghế nhưng không sang trọng lắm. Khoảng hơn chục người đứng ngồi rải rác. Thấy William xuất hiện ở cửa vào, họ reo mừng.
- Cậu cừ lắm, William. Đối xử với loại người ấy, phải như thế mới được.
- Hoan nghênh hiệp sĩ trở về.
Thaddeus Cohen chựng lại, còn đứng ở phía sau. Nhưng William không quên anh ta.
- Các bạn, tôi xin giới thiệu đối thủ xứng đáng của tôi là ông Thaddeus Cohen.
Cohen ngần ngại bước lên.
Trong phòng im lặng. Mấy cái đầu quay đi như đang nhìn lên cây thông cuối sân trường, cành lá phủ đầy tuyết.
Cuối cùng có tiến lạo xạo trên sàn. Một người bước ra khỏi phòng bằng cửa bên. Lại một người nữa bước theo. Lần lượt cả đám người trong phòng bước ra hết. Người cuối cùng còn quay lại nhìn William một cái rồi mới ra hẳn.
Matthew nhìn bạn mà buồn thảm. Thaddeus Cohen tím mặt, cúi nhìn xuống chân. William cắn môi, mím miệng, trông giận dữ như khi Crosby nhắc đến chuyện con tàu Titanic.
- Thôi, chúng mình đi đi. – Matthew kéo tay bạn.
Cả ba chậm chạp đi về phòng của William và lặng lẽ uống rượu.
Sáng hôm sau ngủ dậy, William thấy dưới cửa có chiếc phong bì. Bên trong là mấy chữ của chủ tịch Câu lạc bộ Porcell viết cho anh, hy vọng là sẽ không bao giờ tái diễn việc đáng tiếc như tối hôm qua nữa.
Đến trưa thì chủ tịch nhận được hai thư từ chức.

* * *


Sau mấy tháng miệt mài, William và Matthew hầu như đã sẵn sang lao vào những đợt thi cuối cùng. Trong sáu ngày liền, họ liên tục trả lời các câu hỏi, viết hết tờ nọ đến tờ kia, điền vào cuốn sổ màu xanh, rồi chờ đợi. Họ đã không uổng công, vì cả hai đều đã tốt nghiệp trường Harvard như dự kiến vào tháng sáu năm 1928.
Một tuần sau kỳ thi, người ta công bố William đã giành được giải thưởng về Toán của Tổng thống. Anh ước gì bố mình còn sống để chứng kiến lễ trao giải thưởng ngày tốt nghiệp. Matthew củng cố được cái giải ba. Anh thở dài yên tâm và những người khác cũng không lấy thế làm ngạc nhiên. Cả hai đều không muốn học hành gì nữa, vì bây giờ họ đã có quyền được đi vào đời sống thực tế càng sớm càng tốt.
Tài khoản trong ngân hàng New York của William trôi lên thêm một triệu đôla nữa tám ngày trước khi anh rời trường Harvard. Đến lúc đó anh mới bàn một các chi tiết với Matthew về kế hoạch lâu dài của anh là giành lấy sự kiểm soát Ngân hàng Lester bằng cách nhập nó với ngân hàng Kane và Cabot.
Matthew thấy thế cũng bằng lòng và anh thú nhận là sau khi ông già mình mất đi rồi, có lẽ chỉ còn cách đó thì mình mới kế nghiệp và tiến lên được mà thôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

50#
 Tác giả| Đăng lúc 27-2-2012 17:59:42 | Chỉ xem của tác giả
Hôm làm lễ tốt nghiệp, Alan Lloyd, bây giờ đã sáu mươi tuổi, cũng có đến trường Harvard. Sau buổi lễ, William mời ông ta ra uống trà trên quảng trường.
Alan nhìn người trẻ tuổi một cách âu yếm.
- Bây giờ tốt nghiệp Harvard rồi, anh định làm gì?
- Tôi sẽ về ngân hàng Charles Lester ở New York. Tôi muốn có được ít kinh nghiệm trong mấy năm trước khi về ngân hàng Kane và Cabot.
- Nhưng anh đã sống với ngân hàng Lester suốt từ hồi anh hai mươi tuổi đến giờ kia mà, William. Tại sao bây giờ anh không về thẳng chỗ chúng tôi đi? Chúng tôi sẽ cử anh làm giám đốc ngay lập tức.
Alan Lloyd chờ anh trả lời, nhưng không thấy anh nói gì.
- William, chẳng có gì khiến anh bị ngỡ ngàng đến mức không nói lên được như vậy. Rất không phải con người của anh là thế.
- Nhưng tôi không bao giờ có thể ngờ rằng ông sẵn sàng mời tôi tham gia ban lãnh đạo trước khi tôi hai mươi lăm tuổi. Hồi cha tôi…
- Đúng là cha anh đến hai mươi lăm tuổi mới vào ban lãnh đạo. Tuy nhiên không có lý do gì ngăn trở anh tham gia ban lãnh đạo trước cái tuổi đó nếu như các giám đốc khác tán thành ý kiến này, mà tôi thì tôi biết là họ đều tán thành cả. Dù sao cũng còn có những lý do riêng mà tôi muốn thấy anh làm giám đốc càng sớm càng tốt. Trong năm năm nữa tôi rút khỏi ngân hàng, tôi muốn chắc chắn là người ta bầu lên được một chủ tịch xứng đáng. Nếu anh làm việc ở ngân hàng Kane và Cabot trong năm năm đó thì anh sẽ ở tư thế thuận lợi hơn để tác động đến việc bầu chọn này, chả hơn là anh đi làm một viên chức cao cấp bên ngân hàng Lester hay sao? Nào, thế anh có đồng ý tham gia ban lãnh đạo không đây?
Đây là lần thứ hai trong ngày, William ước gì cha anh còn sống để được thấy cảnh này.
- Tôi sẽ rất sung sướng nhận lời, thưa ông. – Anh đáp.
Alan nhìn William.
- Đây cũng là lần thứ hai anh “thưa ông” với tôi kể từ bữa đánh gôn đấy nhé. Tôi phải coi chừng anh mới được.
William cười.
- Tốt rồi, thế là giải quyết xong. – Alan Lloyd nói. – Anh sẽ là giám đốc thứ hai phụ trách về các khoản đầu tư, trực tiếp làm việc dưới quyền Tony Simmons.
- Tôi có thể cử người phó cho riêng mình được không? – William hỏi.
Alan Lloyd nhìn anh mỉm cười.
- Chắc là Matthew Lester?
- Vâng. Đúng thế.
- Không, tôi không muốn anh ta làm ở ngân hàng chúng ta cái mà anh định làm ở ngân hàng bên đó. Đáng lẽ Thomas Cohen đã phải dạy cho anh biết điều này rồi chứ.
William không nói gì nhưng từ đó không dám đánh giá thấp Alan nữa.
Anh kể lại nguyên văn câu chuyện đó cho Charles Lester nghe và ông ta phá lên cười:
- Rất tiếc là anh không về với ngân hàng chúng tôi, dù với tư cách là một gián điệp, - ông ta tươi cười nói. – Nhưng tôi chắc là một ngày nào đó anh cũng sẽ về đây, với tư cách này hay tư cách khác.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách