Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: tit_mit
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu thuyết] Hai Số Phận| Jeffrey Archer

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 25-2-2012 14:52:48 | Chỉ xem của tác giả

- Ô mẹ nhìn này, - William nói và chỉ vào tấm ảnh Ở trang bên trong, - đây là ảnh chiếc tàu của Bố. Tai nạn là cái gì, hả Mẹ?
Ảnh con tàu Titanic chiếm hết cả bề ngang của trang báo.
  Không cần nghĩ đến người của họ Cabot hay họ Kane phải xử sự như thế nào, Anne bỗng ôm chặt lấy con mà khóc nức nở. Hai mẹ con cứ ôm nhau ngồi trên giường như thế một lúc lâu. William không hiểu đầu đuôi thế nào. Anne biết là hai mẹ con đã mất đi người thân yêu nhất của mình trên đời này.
   Ông Piers Campbell, bố của anh bạn Stuart, đến phòng thượng khách 107 của khách sạn Ritz. ông ta chờ Ở hành lang trong khi người đàn bà góa bận đồ đen vào người. Chị chỉ mang đi theo có một bộ đồ sẫm đó thôi. William cũng được mặc quần áo chỉnh tề. Cho đến lúc này chú vẫn chưa hiểu tai nạn là thế nào. Anne đề nghị ông Piers giải thích như thế nào đó cho đứa con của chị hiểu được. Nhưng William chỉ nói: Cháu muốn cùng đi tàu với bố cháu, nhưng bố cháu không cho đi. Chú không khóc, vì chú không thể nào tin rằng bố chú lại có thể bị chết được. Thế nào trong số những người sống sót cũng có bố chú.
   Suốt đời ông Piers làm một nhà chính trị, nhà ngoại giao, và bây giờ làm chủ tịch ngân hàng Kane và Cabot Ở London, ông chưa hề thấy một người nào còn nhỏ tuổi mà có nhiều nghị lực như vậy. ít người có cá tính như chú nhỏ này. Nhiều năm sau ông vẫn
còn thấy đúng như vậy. Cá tính ấy đã từng có Ở Richard Kane và truyền lại cho đứa con duy nhất của anh. Vào ngày thứ năm của tuần đó, William đã lên sáu tuổi. Nhưng chú không hề mở bất cứ gói quà nào đến tặng chú.
   Anne xem đi xem lại rất kỹ những danh sách người còn sống sót được gửi dần từ Mỹ sang. Danh sách nào cũng đều xác nhận là Richard Lowell Kane còn đang mất tích trên biển, coi như đã bị chết đuối. Một tuần sau nữa, ngay cả đến William cũng không còn hy vọng gì là bố chú còn sống.
    Anne đau đớn bước lên tàu Aquitania trở về Mỹ. William muốn được ra ngay biển khơi. Chú ngồi hàng giờ trên boong tàu nhìn xuống mặt nước phẳng lặng.
  - Ngày mai con sẽ tìm thấy bố, - chú cứ nói mãi với mẹ như thế. Lúc đầu, bằng một giọng tin tưởng, nhưng dần dần tự chú cũng thấy khó mà tin được.
- William con ạ, chả ai có thề sau ba tuần Ở Bắc Đại Tây Dương này mà còn sống được đâu.
  - Cả bố con cũng thế ư?
  - Cả bố con cũng thế.
    Khi Anne trở về đến Boston, cả bà nội bà ngoại đều đã chờ sẵn chị Ở nhà rồi. Trách nhiệm bây giờ giao lại cho hai bà. Anne để mặc eho hai cụ làm chủ mọi thứ. Chị thấy cuộc đời đối với mình bây giờ chả có ý nghĩa gì mấy nữa. Điều quan trọng là William, mà số phận của chú bây giờ là các cụ nhất định phải nắm lấy. William thì tỏ ra rất lễ độ, nhưng không muốn gần hai bà. Ban ngày, chú yên lặng ngồi học với ông thày Munro, và đến đêm lại khóc trong lòng mẹ.
   - Nó cần phải có những đứa trẻ khác làm bạn mới được - các cụ tuyên bố như vậy, và liền sau đó cho cả ông thày Munro và cô bảo mẫu nghỉ việc, và cho William đến Viện Sayre theo học vì các cụ tin rằng cho nó sống với thế giới thực tế bên ngoài và có thêm nhiều bạn khác thì thằng bé sẽ trở lại bình thường.
   Richard đã để lại phần lớn tài sản cho William, với sự ủy nhiệm của gia đình, cho đến khi nào chú hai mươi mốt tuổi. Trong chúc thư của bố chú có một bản phụ lục. Richard muốn rằng con trai mình sau này sẽ xứng đáng là Thống đốc và Chủ tịch của ngân hàng Kane và Cobot. Chỉ có mỗi điểm đó trong chúc thư là William thấy hứng thú, còn những cái khác tất nhiên đều là quyền của chú được hưởng cả. Aune được nhận một số tiền gốc là 500 nghìn đôla với thu nhập hàng năm là 100 nghìn đô-la cho đến chót đời trừ các khoản thuế, và số tiền đó chỉ chấm dứt ngay nếu chị tái giá. Chị cũng được hưởng cả ngôi nhà trên đồi Beacon, biệt thự mùa hè trên BỜ Bắc, ngôi nhà Ở Maine với cả một hòn đảo nhỏ ngoài khơi Mũi Cá Thu, và tất cả những tài sản ấy sau khi chị qua đời sẽ trao lại cho William. Hai cụ nội ngoại mỗi người được hưởng 250 nghìn đô-la cùng những thư dặn lại là nếu Richard chết trước các cụ thì trách nhiệm của các cụ là như thế nào. Toàn bộ tài sản của gia đình do ngân hàng quản lý và được ủy thác cho những cha mẹ đỡ đầu của William. Thu nhập do tất cả những thứ trên đây đem lại được tái đầu tư mỗi năm vào những xí nghiệp đã sẵn có.
    Cũng phải mất đến một năm trời các cụ mới cảm thấy hết tang tóc, còn Anne thì mặc dầu chị chỉ mới hai mươi tám tuổi nhưng đến bây giờ chị mới thấy mình lần đầu tiên trong đời sống lại được cái tuổi đó.
   Các cụ không như Anne, không che giấu nỗi buồn của mình làm gì. William thấy thế không bằng lòng, lên tiếng trách các cụ.
   - Bà không nhớ bố cháu hay sao? - chú ngước đôi mắt xanh lên hỏi bà nội Kena khiến bà nhớ đến đứa con trai của mình.
   - Có chứ cháu, nhưng bố cháu không muón cho chúng ta cứ ngồi đó để mà thương thân được. . .
    - Nhưng cháu muốn tất cả chúng ta lúc nào cũng phải nhớ đến bố cháu cơ, luôn luôn nhớ đến, - William xẵng giọng nói.
    -  William này, bây giờ bà sẽ nói với cháu như lần đầu tiên nói chuyện với một nguời lớn nhé. Tất cả chúng ta sẽ luôn luôn có hình ảnh thiêng liêng của bố cháu trong lòng, còn cháu thì cháu sẽ phải làm thế nào cho xứng với điều bố cháu mong muốn Ở cháu. Bây giờ cháu là người đứng đầu trong gia đình và là người thừa kế một tài sản lớn. Vậy cháu phải chuẩn bị làm thế nào cho xứng đáng với sự thừa kế đó, cũng với tinh thần mà bố cháu đã làm để đến lượt cháu được thừa hưởng như vậy.
    William không trả lời. Nhưng như vậy là chú đã hiểu được mình sống có mục đích như thế nào. Trước đây chú không biết. Bây giờ chú sẽ nghe theo lời khuyên của bà nội. Chú học cách sống với nỗi đau buồn của mình nhưng không một lời phàn nàn kêu ca.Từ đó trở đi, chú chăm chỉ học tập, và chỉ khi nào thấy bà nội Kena có vẻ bằng lòng thì chú mới yên tâm. Chú giỏi tất cả các môn học, và riêng trong môn toán không những chú đứng đầu lớp mà còn vươn tới cả những lớp trên nữa. Bất cứ gì bố chú đã làm được, chú quyết tâm làm được hơn thế. Chú gần gũi với mẹ hơn bao giờ hết, và trở thành hoài nghi đối với tất cả những ai không phải trong gia đình. Cứ như vậy, chú trở thành một đứa trẻ cô đơn, đơn độc, và hóa ra một con người hợm mình.
    Các cụ đã tính rằng khi nào William bảy tuổi thì sẽ đến lúc dạy cho nó hiểu biết về giá trị của đồng tiền. Các cụ cho chú bắt đầu được có tiền túi cứ mỗi tuần một đô-la, nhưng bắt chú phải làm bản khai về mỗi đồng xu tiêu vào việc gì. Với chủ trương đó, các cụ tặng chú một cuốn sổ bìa da màu xanh giá 95 xu và trừ ngay vào khoản một đô-la của tuần đầu. Từ tuần thứ hai trở đi, các cụ cứ mỗi sáng thứ bảy lại phát một đô-la cho chú. William đầu tư năm mươi xu vào quỹ tiêu hai mươi xu, đem mười xu cho bất cứ đối tượng từ thiện nào mà chú muốn, còn giữ lại hai mươi xu dự trữ. Cứ đến cuối mỗi quý, các cụ lại rà soát sổ sách và xem chú báo cáo về các khoản chi tiêu như thế nào. Sau ba tháng đầu, William đã hoàn toàn sẵn sàng tự xử lý lấy mọi thứ. Chú đã hiến 1,30 đô-la cho tổ chức Hướng đạo sinh Mỹ mới thành lập, đầu tư 5,55 đô-la và yêu cầu bà nội Kane gửi vào quỹ tiết kiệm theo tài khoản của cha đỡ đầu J.P. Morgan đã quá cố Chú chi 2,60 đô-la không phải thanh toán và để 2,60 đô-la vào quỹ dự trữ. Sổ thu chi của chú khiến cho các cụ rất hài lòng. RÕ ràng William là đứa con của Richard Kane, không còn nghi ngờ gì nữa.
   Ở trường, William không có mấy bạn, phần vì chú ngại không muốn chơi với những ai không thuộc gia đình Cabot và Lowell, hoặc đám trẻ thuộc những gia đình giàu có hơn mình. Điều đó khiến chú trở thành một con người hay tư lự. Mẹ chú lo ngại, thâm tâm chỉ muốn chú sống một cuộc sống bình thường, không thích chú lao vào những chuyện sổ sách chi thu hoặc chương trình đầu tư gì hết. Anne muốn William có nhiều bạn trẻ hơn là mấy vị cố vấn già, muốn chú cứ chơi nghịch cho bẩn thỉu và xây xát còn hơn là lúc nào cũng sạch sẽ trắng bong, muốn chú sưu tập ếch nhái và rùa hơn là chú ý đến chứng khoán và báo cáo của công ty, tóm lại muốn chú như tất cả mọi đứa bé khác Tuy nhiên chị không bao giờ dám có can đảm nói với các cụ về những điều chị suy nghĩ, vả lại các cụ cũng chẳng quan tâm gì đến bất cứ đứa trẻ nào khác.
   Vào ngày sinh nhật thứ chín của chú, William đưa sổ cho các cụ kiểm soát lần thứ hai trong năm. Cuốn sổ bọc da màu xanh cho thấy trong hai năm qua chú đã tiết kiệm được hơn năm đô-la. Đặc biệt chú rất tự hào nêu ra cho các cụ thấy một khoản đã ghi từ lâu đánh dấu "B6", tức là khoản tiền chú đã rút Ở ngân hàng J.P. Morgan ra ngay sau khi chú được tin nhà tài chính lớn này qua đời, vì chú nhớ là ngay những chứng khoán của ngân hàng bố chú đã bị tụt xuống sau khi có tin bố chú mất. Wilham đã tái đầu tư số tiền đó ba tháng sau, và chú cũng như công chúng hiều rằng một công ty bao giờ cũng lớn hơn một cá nhân.
   Các cụ thấy thế rất cảm động, cho phép William bán chiếc xe đạp cũ của chú đi và sắm chiếc xe mới. Mua xong, vốn liếng của chú vẫn còn trên 100 đô-la. Bà nội Kane đem số tiền đó của chú đầu tư vào công ty dầu hỏa Standard của bang New Jersey. William biết rằng dầu hỏa là thứ chỉ có mỗi ngày một đắt lên. Chú giữ cuốn sổ thu chi đó rất kỹ và ghi hên tục vào đó cho đến ngày chú hai mươi mốt tuổi. Giá như đến lúc đó các bà nội ngoại của chú còn sống, thì chắc các cụ sẽ làm tự hào về mục cuối cùng ghi vào cột bên phải của cuốn sổ, nhan đề "Tài sản".
  
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 25-2-2012 23:03:12 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7

   Wladek là người duy nhất trong những ai còn sống sót được biết kỹ các gian hầm của lâu đài. Hồi còn chơi ú tim với Leon, chú đã từng sống rất nhiều giờ thoải mái tự do trong những gian hầm bằng đá ấy, lúc nào thích thì lên lâu đài, không thì thôi.
Dưới đó có tất cả bốn gian hầm, chia làm hai tầng. Hai ngăn, một lớn một nhỏ, Ở ngang tầm với mặt đất. Ngăn nhỏ liền với tường của lâu đài và có chút ánh sáng rọi xuống qua tấm lưới sắt đặt lẩn vào trong đá Ở phía trên. Đi xuống năm bậc còn có hai căn phòng bằng đá Ở phía trên. Đi xuống năm bậc còn có hai căn phòng bằng đá nữa nhưng quanh năm tối om và không có mấy không khí. Wladek đưa Nam tước vào căn phòng con Ở tầng hầm phía trên. ông cứ ngồi yên trong góc, không động đậy, chỉ nhìn vào khoảng không mà không nói một lời. Chú cử chị Florentyna làm người hầu riêng của Nam tước.
    Vì Wladek là người duy nhất dám Ở lại trong cùng ngăn hầm ấy với Nam tước, những người hầu khác không ai hỏi chú là có quyền gì. Thế là mới chín tuổi, chú đứng ra đảm đương trách nhiệm đối với các bạn tù nhân khác Ở đây. Mọi người, vốn hàng ngày rất bình thản nhưng quá khiếp sợ với cảnh tự nhiên bị giam giữ Ở nhà hầm này chẳng lấy gì làm lạ về việc một chú bé chín tuổi nắm vận mệnh của họ. Trong nhà hầm, chú trở thành người chủ của các tù nhân. Chú chia số người hầu ra làm ba nhóm, mỗi nhóm tám người, cộng tất cả hai mươi bốn, cố xếp cho các gia đình được cùng Ở với nhau một chỗ. Ba nhóm người này luân phiên nhau đổi chỗ, tám giờ đầu trong ngày được lên tầng hầm trên để có ánh sáng, không khí, ăn uống và vận động thân thể. Tốp thứ hai và là phổ biến nhất trong tám giờ đó là làm việc phục vụ bọn chiếm đóng lâu đài, còn tám giờ cuối trong ngày là xuống ngủ Ở tầng hầm dưới. Không ai, trừ Nam tước và Florentyna, có thể biết được Wladek ngủ vào lúc nào, vì cuối mỗi ca chú đều có mặt tại chỗ để giám sát việc họ luân chuyển. Cứ mười hai tiếng đồng hồ lại chia thức ăn một lần. Bọn lính gác sẽ giao cho chú một bọc sữa dê, bánh mì đen, kê hoặc thỉnh thoảng là một ít lạc. Wladek chia số đó ra làm hai mươi tám phần, bao giờ cũng nhường cho Nam tước hai suất nhưng không đề cho ông ta biết.
    Mỗi khi thu xếp xong một ca làm việc rồi, chú trở về chỗ Nam tước Ở căn hầm nhỏ. Lúc đầu, chú chờ đợi Ở Nam tước đôi điều hướng dẫn nào đó, nhưng lâu dần chú thấy cái nhìn của ông cũng dữ dội và lạnh nhạt chả kém gì cái nhìn của bọn lính gác người Đức. Từ khi bị bắt giam Ở chính lâu đài của mình đến giờ, Nam tước không hề thốt ra một lời nào. Râu của ông đã mọc dài đến ngực. Cáì dáng khỏe mạnh của ông đã bắt đầu hom hem. Cái vẻ tự hào trước kia của ông đã chuyển sang nhịn nhục. Wladek hầu như không còn nhớ lại được cái giọng nói dễ thương của ông trước đây nữa. Chú nghĩ có lẽ không bao giờ còn nghe lại được tiếng nói ấy. Dần dà, chú cũng im lặng, không nói gì, chỉ làm theo những gì Nam tước muốn nhưng không nói thành lời mà thôi.
    Trước đây sống trong cảnh an toàn của lâu đài, Wladek không bao giờ nghĩ đến chuyện đã xảy ra ngày hôm trước, vì hàng ngày hàng giờ chú có những việc bận mới. Nhưng bây giờ thì chú cũng không thể nhớ được chuyện gì vừa xảy ra lúc nãy, vì cuộc sống không hề có tí gì thay đổi. Những phút hy vọng biến thành giờ, giờ biến thành ngày, ngày biến thành tháng, và cứ thế trôi đi không để lại dấu vết gì. Chỉ có thức ăn đưa đến, chỉ có ánh sáng và bóng tối, cho biết là mười hai tiếng đồng hồ đã trôi qua Chỉ có ánh sáng nhiều hay ít, tuỳ Ở trời quang hay có giông bão, rồi đến băng tuyết đóng trên tường hầm, và khi có ánh sáng rọi vào nó lại chảy ra, là báo cho biết từ mùa này chuyển sang mùa khác, mà Wladek thì không thể nào rút được bài học gì của thiên nhiên cả. Qua những đêm dài, Wladek cảm thấy cái mùi ghê tởm của thần chết đã thấp thoáng ngay Ở nhữag góc xa xa của tường hầm, chỉ đến lúc có chút nắng của buổi sáng chiếu vào, hoặc một làn gió lạnh, hoặc có trận mưa kéo đến thì mới xua tan được nó đi phần nào mà thôi.
    Cuối một ngày giông bão liên miên, Wladek và Florentyna lợi dụng trời mưa ra tắm rửa Ở vũng nước hình thành trên nền đá của tầng hầm trên. Cả hai người đều không để ý đến cặp mắt của Nam tước đang trợn trừng lên nhìn Wladek khi chú cởi chiếc sơ mi rách ra cuộn bỏ xuống chỗ nước còn tương đối sạch, và lấy tay kỳ cọ người chú đến trắng bệch. Bỗng nhiên, Nam tước lên tiếng.
    - Wladek, - tiếng nói nghe không rõ lắm, - ta không nhìn rõ được cháu lắm. Cháu lại đây coi.
    Wladek hoảng hồn khi nghe thấy tiếng nói của ông chủ mình, vì đã lâu lắm chú chỉ thấy ông im lặng. Thậm chí chú không nhìn về phía có tiếng nói nữa. Chú chợt nghĩ ngay đó là cái điềm báo trước một tình trạng điên dại đã từng xảy đến với hai người hầu già trước đây.
     -Lại đây, cháu.
    Wladek sợ hãi bước đến trướe mẳt Nam tước. ông nheo đôi mắt và giơ tay ra sờ vào người chú. Ông lần ngón tay trên ngực            Wladek rồi nhìn chú rất kỹ.
    -Wladek, cháu có thể giải thích cho ta biết tại sao lại có chút khiếm khuyết trên cơ thể cháu thế này không?
    - Không, thưa ông, - Wladek lúng túng nói. - Từ khi cháu sinh ra đã thế rồi. Mẹ nuôi cháu thường nói đó là dấu Đức Chúa Cha đã để lại trên người cháu.
    - Những người đàn bàn ngốc thế. Đây là cái dấu của chính cha đẻ của cháu.
     Nam tước nhẹ nhàng nói, rồi im lặng mấy phút. Wladek vẫn cứ đứng trước mặt ông, không động đậy.
Nam tước lại lên tiếng, lần này giọng dứt khoát hơn.- Ngồi xuống, cháu.
    Wladek tuân theo lời ông ngay. Lúc ngồi xuống, một lần nữa chú lại đề ý cái vòng bạc đeo lủng lẳng Ở cổ tay Nam tước. Chút ánh sáng từ khe tường rọi vào khiến cho huy hiệu Rosnovski của ông lóe lên trong bóng tối của căn hầm.
    - Ta không biết bọn Đức có ý muốn giam giữ chúng ta Ở đây bao nhiêu lâu nữa. Lúc đầu ta nghĩ cuộc chiến tranh này chỉ mấy tuần lễ. Nhưng ta nhầm. Bây giờ chúng ta phải xét đến khả năng nó sẽ còn tiếp tục một thời gian rất lâu nữa. Vì nghĩ như vậy, cho nên chúng ta phải biết sử dụng thời gian một cách có tính chất xây dựng hơn, mà ta thì biết mình cũng sắp chết rồi.
    - Không, không, - Wladek lên tiếng ngăn lại, nhưng Nam tước vẫn nói tiếp, coi như không nghe thấy chú.
    - Còn đời cháu thì bây giờ mới bắt đầu. Do đó, ta sẽ tiếp tục làm cái việc dạy dỗ cho cháu.
   Ngày hôm đó, Nam tước không nói thêm gì nữa. Hình như ông đang suy ngẫm về ý nghĩa lời tuyên bố eủa mình. Thế là Wladek đã có được một ông thầy học mới. Do hai người không có sách vở và phương tiện viết lách gì, nên Nam tước nói câu nào là bắt chú phải nhắc lại câu đó. ông dạy chú những đoạn thơ dài của Adam Mickiewicz và Jan Kochanowski cùng những phần trích từ Aeneid. Trong cái lớp học đơn giản ấy Wladek đã được biết thế nào là địa lý, toán, và chú nắm thêm được bốn ngoại ngữ nữa là Nga, Đức, Pháp và Anh. Nhưng thú vị nhất đối với chú là những lúc chú được học về sử. Đó là. sử của đất nước hàng trăm năm bị chia cắt, của những hy vọng bất thành về một nước Ba lan thống nhất, của nỗi lo âu của những người dân Ba lan khi Napoleon thất bại thảm hại trước quân Nga năm 1812. Chú được học về những chuyện dũng cảm của những thời quang vinh đã qua do Vua Jan Casimir đánh lui người Thụy Điển Ở Czestochowa và hiến dâng đất nước này cho Đức mẹ đồng trinh, về chuyện Hoàng tử Radziwill, một người rất nhiều quyền thế, một đại địa chủ và một nhà săn bắn nổi tiếng, đã lên ngôi và thiết triều của mình Ở lâu đài lớn gần Warsaw như thế nào. Bài học cuối mỗi ngày của Wladek là về lịch sử gia đình của dòng họ Rosnovski. Chú được nghe nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiều lần về tổ tiên vẻ vang của Nam tước đã phục vụ trong quân ngũ năm 1794 dưới quyền Tướng Dabrowski, rồi năm 1809 dưới quyền chỉ huy của chính Napoleon, và sau đó được Hoàng đế thưởng công, cấp đất và ban danh tước. Chú cũng được biết là ông nội của Nam tước đã từng có chân trong Hội Đồng Warsaw, rồi sau đó bố đẻ của Nam tước cũng có một vai trò trong việc xây dựng đất nước Ba-lan mới. Wladek cảm thấy rất hạnh phúc việc Nam tước đã biến căn hầm nhỏ này thành một lớp học.
    Lính gác đứng ngoài cửa hầm cử bốn giờ lại một lần đổi phiên. Chúng bị cấm không được nói chuyện với tù nhân. Thoáng nghe nhữag mẩu chuyện giữa chúng với nhau, Wladek có thể biết được về diễn tiến của chiến tranh, về những việc chúng tiến hành Ở Hindenburg và Ludendorff, về cách mạng nồi lên Ở nước Nga và nước này đã rút khỏi chiến tranh bằng Hòa ước Brest-Litovsk.
    Wladek bắt đầu nghĩ rằng con đường thoát duy nhất của tất cả những người Ở dưới hầm này là chỉ có chết. Trong hai năm sau đó, cánh cửa dẫn xuống địa ngục đã mở ra chín lần, và Wladek cũng tự hỏi nếu như mình không được tự do thì tất cả những kiến thức chú được trang bị này sẽ coi như vô ích.
    Nam tước tiếp tục dạy cho chú mặc dầu tai và mắt ông đã dần dần kém đi. Mỗi ngày Wladek lại phải ngồi xích lại gần ông thêm một ít.
    Florentyna, người vừa là chị vừa là mẹ lại vừa là bạn gần gũi nhất của chú, đã phải rất vất vả đối phó với tình trạng Ô uế trong căn hầm. Thỉnh thoảng bọn lính gác đem đến cho một chậu cát hoặc một ít rơm rạ để trải lên nền nhà. Như vậy cũng đỡ được hôi thối trong vài ngày. Chuột bọ chạy ra chạy vào chỗ tối nhặt nhạnh những mẩu bánh hay mầu khoai rơi vãi, nhưng chúng cũng đem theo đủ các thứ bẩn thỉu với bệnh tật. Mùi nước tiểu với phân của cả người lẫn súc vật hòa vào nhau xông lên . sặc sụa đến không thở được Wladek lúc nào cũng thấy mình như người ốm, chỉ muốn nôn mửa. Chú rất thèm khát làm sao được sạch sẽ trở lại. Chú ngồi hàng giờ nhìn lên trần hầm nhớ lại những bồn nước tắm bốc hơi và có cả xà phòng của cô bảo mẫu mang đến cho Leon với chú sau một ngày họ chơi đùa thỏa thích. Chỗ đó cũng Ở trong lâu đài này, cách chỗ chú đang ngồi không xa lắm, nhưng chuyện ấy đã từ bao giở bao giờ rồi.
    Đến mùa xuân 1918, chỉ còn mười lăm trong số hai mươi sáu người bị giam cùng với Wladek là còn sống. Nam tước vẫn được mọi người đối xử như với một ông chủ, còn Wladek thì được coi như người quản lý của ông Wladek cảm thấy rất buồn cho Florentyna mà chú rất yêu quý. Florentyna đến giờ đã hai mươi tuổi rồi. CÔ đã hoàn toàn thất vọng về cuộc đời mình và cô tin rằng những ngày còn lại của đời mình sẽ chỉ là sống trong những căn hầm này thôi. Trước mặt cô, Wladek không bao giờ tỏ ra đã mất hết hy vọng, nhưng dù bây giờ chỉ mới mười hai tuổi chú cũng đã bắt đầu tự hỏi không biết mình còn có dám tin Ở tương lai nữa không.
   Một buổi chiều, vào đầu mùa thu, Florentyna đến bên Wladek lúc đó đang Ở căn hầm lớn phía trên.
     - Nam tước gọi chú đấy
    Wladek đứng ngay dậy, đưa suất ăn của mình cho người hầu lớn tuổi rồi xuống gặp Nam tước. ông đang đau nặng. Wladek nhìn thấy ông đã hốc hác đi ghê gớm, hầu như chỉ còn xương với da. Nam tước đòi uống nước. Florentyna đem đến cho ông lưng bơ nước vẫn treo bên ngoài tường đá. Uống xong rồi, ông từ từ nói với một giọng hổn hền.
    - Wladek, cháu đã trông thấy nhiều cái chết rồi, nên trông thấy một người chết nữa cũng vậy thôi. Ta thú thật là bây giờ có chết ta cũng không sợ nữa.
    - Không, không, không thể thế được, - Wladek kêu lên, ôm lấy ông già. - Chúng ta sắp gần đến ngày thắng rồi. Nam tước đừng bỏ đi. Bọn lính cho cháu biết là chiến tranh sắp kết thúc và chúng ta sắp được thả ra rồi.
    - Chúng hứa như vậy từ nhiều tháng nay rồi, Wladek. Ta không thể tin chúng được nữa. Dù sao ta cũng không muốn sống trong cái thế giới mà chúng tạo ra đâu. - ông ngừng lại nghe chú khóc. Nam tước nghĩ giá nước mắt ấy mà uống được cũng đỡ, nhưng ông nhớ ra nước mắt là rất mặn nên cười khẩy với mình. - Cháu đi gọi ông quản gia và người hầu bàn của ta đến đây, Wladek.
    Wladek làm theo nhưng trong bụng không hiểu sao lại đi gọi những người đó.
     Hai người hầu đang ngủ say được đánh thức dậy đến đứng trước mặt Nam tước. Sau ba năm bị bắt giam, đối với họ chỉ có việc ngủ là dễ làm nhất. HỌ vẫn còn mặc bộ đồng phục thêu hoa, nhưng những màu xanh và vàng của nhà Rosnovski mà họ . tự hào mặc trên người mình bây giờ không còn ra màu gì nữa. HỌ đứng yên lặng nghe ông chủ nói.
   - Họ đã đến đây chưa, Wladek? - Nam tước hỏi.
    - Dạ, đã. ông không nhìn thấy nữa sao? - Wladek bây giờ mới hiểu ra là Nam tước đã mù hẳn rồi.
    - Bảo họ đến gần đây để ta sờ vào người họ. Wladek đưa hai người đến gần Năm tước sờ vào mặt.
    - Hãy ngồi xuống đây, - Nam tước nói. - Các anh có nghe được ta nói không, Ludwik, Alfors?
    - Dạ có.
    - Tên ta là Nam tước Rosnovski. - Thưa ngài, chúng tôi biết, - người quản gia đáp.
    - Đừng ngắt lời ta, - Nam tước nói. - Ta sắp chết rồi.
   Chết đã thành chuyện bình thường nên hai người không có phản ứng gì.
    - Ta không thề làm được bản di chúc mới Ở đây vì không có giấy bút hay mực gì hết. Vì vậy ta làm bản di chúc đó trước mặt các người Ở đây, hai anh hãy làm chứng cho ta, theo luật cổ của nước Ba-lan đã thừa nhận như vậy. Hai anh hiểu ta nói gì không?
    - Dạ, híểu, - hai người cùng đáp.
    - Đứa con đầu lòng của ta là Leon đã chết rồi, - Nam tước ngừng lại một lát. - Vì vậy, ta để lại toàn bộ đất đai tài sản của ta cho đứa nhỏ có tên là Wladek Koskiewicz.
Wladek đã nhiều năm không nghe nói đến tên họ của mình nên chú chưa hiều ngay được ý nghĩa những lời Nam tước vừa nói.
     - Và để chứng minh cho quyết định của ta, - Nam tước nói tiếp - ta giao cho nó cái vòng tay của gia đình.
    Ông già từ từ giơ cánh tay phải lên, rút chiếc vòng ra khỏi cổ tay và đưa nó ra phía trước cho Wladek.  Chú im lặng. không biết nói gì. Nam tước chỉ nắm chặt lấy chú, đưa ngón tay sờ lên ngực chú để biết chắc đó là Wladek.
    - Con ta, - ông thốt lên và lồng chiếc vòng bạc vào cổ tay chú bé .
    Wladek khóc và suốt đêm nằm trong cánh tay Nam tước cho đến lúc chú không còn nghe tiếng tim ông đập nữa và cảm thấy những ngón tay ôm vào người chú đã cứng ra. Đến sáng, xác Nam tước được bọn lính gác đem ra bên ngoài, và chúng cho phép Wladek được đem ông chôn lên cạnh mộ con trai ông, Leon, Ở trong sân nhà thờ, gần tháp chuông. Wladek lấy tay không bới đất. MỘ nông choèn. Lúc đặt xác Nam tước xuống, chiếc áo sơ mi rách của ông bật tung ra. Wladek nhìn vào ngực Nam tước. ông chỉ có một bên vú.

    Thế là Wladek Koskiewicz, mười hai tuổi, thửa kế 60 000 mẫu đất, một lâu đài, hai trang viên, hai mươi bảy ngôi nhà nông thôn, một bộ sưu tập tranh quý giá nhiều bàn ghế đồ đạc châu báu khác, trong khi đó chú sống Ở căn hầm bằng đá dưới đất. Từ hôm đó trở đi, tất cả những người bị bắt giam còn lại đều coi như ông chủ có đầy đủ quyền hành đối với họ. Giang sơn của chú bây giờ là bốn căn hầm. Hầu hạ thì có mười ba kẻ ốm yếu với một người duy nhất còn lại cho chú yêu quý là Florentyna.
    Chú trở về với nếp sống tưởng như vô tận Ở dưới hầm cho đến cuối mùa đông năm 1918. Vào một ngày ấm áp, khô ráo, bỗng có một loạt tiếng súng nổ vang gần đó và nghe như có vật lộn gì Ở phía trên. Wladek tin chắc là quân đội Ba lan đã về cứu sống và bây giờ chú sẽ có thể đàng hoàng đòi họ nhận quyền thừa kế của mình. Bọn lính gác người Đức không còn đứng ngoài cửa hầm nữa. Các tù nhân lặng lẽ ngồi xích lại gần nhau Ở tầng hầm phía dưới. Wladek đứng một mình Ở cửa ra vào, xoay chiếc vòng bạc Ở cổ tay với một vẻ đắc thắng, và chờ người đến giải phóng. Những người thắng tràn quả đã đến. Nhưng họ nói bằng thứ tiếng Xla-vơ khàn khàn, thứ tiếng mà hồi đi học chú đã được biết và nghe còn sợ hơn cả tiếng Đức nữa. Wladek và tất cả bị lôi ra bên ngoài ngồi chờ. HỌ bị khám xét lục soát một lần nữa rồi lại bị tống trở lại các căn hầm. Bọn mới chiếm đóng Ở đây không hề biết rằng chú bé mười hai tuổi này chính là người chủ của tất cả những gì đang diễn ra trước mắt họ. HỌ không nói tiếng Ba lan. Nhưng những gì họ nói chú đều hiều hết: ai chống lại hòa ước Brest-Litovsk là giết luôn, phần đất Ba lan này là thuộc về họ, còn những ai không chống lại cũng cho tất cả về Trại 201 để sống nốt những ngày cuối cùng. Bọn Đức chỉ chống lại qua loa rồi bỏ chạy, rút về sau đường ranh giới mới. Wladek và mọi người lại chờ xem sẽ còn những gì xảy ra, không biết số phận của mình thế nào.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 25-2-2012 23:17:17 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8:

    Tháng Chín, William trở lại Viện Sayre để tiếp tục học với tâm lý ổn định và sẵn sàng hòa với mọi người hơn. Chú lập tức tìm cách ganh đua với những người lớn tuổi hơn mình. Với bất cứ môn học gì, nếu chú thấy mình không giỏi hơn người thì không yên tâm. Những người cùng lớp với chú xem ra không ai địch nổi được chú. Dần dần Wilham hiểu ra là phần lớn những ai xuất thân từ hoàn cảnh quyền quý như chú thì đều không có gì để kích thích đua tranh được, mà muốn có được địch thủ thì phải tìm được những ai so với chú nhỏ hơn và có ít điều kiện học hành hơn kia.
   Năm 1915, trong trường có một phong trào sưu tập nhãn diêrn. William đứng ngoài quan sát phong trào này một cách rất thích thú nhưng không tham gia. Chỉ trong mấy ngày, những nhãn diêm bình thường đã trao tay với giá mười xu một nhãn, thứ nào hiếmcó giá tới năm mươi xu. William nghiên cứu tình hình đó rồi quyết định sẽ không làm chuyện sưu tập mà làm viêc kinh doanh.
    Vào ngày thứ bẩy sau đó, chú đến nhà hàng Leavitt và Peirce, một trong những nhà buôn thuốc lớn nhất Boston, và ngồi cả một buối chiều ghi lại tên và địa chỉ của những nhà sản xuât diêm chủ yếu trên thế giới, đặc biệt ghi tên những nước nào không tham gia chiến tranh. Chú bỏ ra năm đô la mua giâý, phong bì và tem, viết thư cho tất cả những chủ tịch hay giám đốc công ty mà chú đã có trong danh sách. Thư chú viết rất đơn giản, nhưng cùng đã phải viết đi viết lại đến bẩy lần.
    Thưa ông Chủ tịch,
Tôi là một nguời rât thích sưu tập các thứ nhãn diêm, nhưng tôi không có tiền để mua tất cả mọi thứ diêm đượC. Tiền túi của tôi mỗi tuần có một đô-la thôi, nhưng tôi xin gửi kèm theo đây chiếc tem ba-xu để chứng thực rằng việc sưu tập nhãn diêm
của tôi là nghiêm túc. Tôi xin lỗi đã làm ông phải phiền lòng, nhưng tôi chỉ có thểtìm được tên ông để viết thư này.
Kính thư,
William Kane (9 tuổi)
T.B. Nhãn diêm của ông là một trong
những thứ tôi thích nhất.

   Trong vòng hai tuần, William có được 55 phần trăm thư trả lời và có được 78 loại nhãn diêm khác nhau. Hầu hết những người trả lời thư cho chú đều gửi lại chiếc tem ba xu, mà William cũng dự kiến trước là họ sẽ làm như vậy.
    Trong bẩy ngày sau đó, William dựng lên một thị trường về nhãn diêm Ở ngay trong trường. Chú luôn luôn nghĩ xem cái gì có thể bán được thì mới mua. chú để ý thấy có một số bạn học không quan tâm mấy đến loại nhãn diêm hiếm, mà chỉ xem nó đẹp hay không thôi. Thế là với những người này, chú đem những nhãn đẹp đổi lấy nhãn hiếm để bán lại cho những ai sưu tập công phu hơn. Sau hai tuần mua bán, chú cảm thấy thị trường đã đạt đến một đỉnh cao vì chú tính nếu mình không cẩn thận thì sắp đến những ngày nghỉ lễ là sẽ không mấy ai quan tâm đến chuyện này nữa. Chú bèn nghĩ ra một cách quảng cáo, thuê in một loạt giấy thông báo, mỗi tờ mất nửa xu, và chú để tờ giấy đó vào từng chỗ ngồi của các lớp, báo cho biết chú sẽ tổ chức bán đấu giá tất cả 211 nhãn diêm chú đã sưu tập được. Cuộc bán đấu giá tiến hành trong phòng tắm rửa của trường vào giờ ăn trưa. SỐ người tham gia còn đông hơn cả những trận đấu khúc côn cầu trong trường.
   Kết quả là William đã thu được 57,32 đô-la, so với số tiền đầu tư ban đầu của chú đã lãi được 51,32 đô-la. William gửi 25 đô-la vào ngân hàng với lãi suất 2,5 phần trăm, mua chiếc máy ảnh 10 đô-la, đem 5 đô-la biếu cho Hội Thiên Chúa những người trẻ tuổi lúc này đang mở rộng hoạt động cứu trợ cho những người mới nhập cư, mua một ít hoa tặng mẹ, còn mấy đô la cất vào túi. Thị trường nhãn diêm bị xẹp xuống trước khi kết thúc khóa học. ĐÓ là một trong những cơ hội đầu tiên William học làm chủ được tình hình thị trường. Bà nội bà ngoại của chú nghe kể lại chuyện này rất lấy làm tự hào về chú. Các cụ thấy rất giống như trường hợp các cụ ông ngày xưa đã làm giàu trong thời kỳ hỗn độn của năm 1873.
   Đến kỳ nghỉ hè, William nghĩ có lẽ có một cách khác đem lại lãi suất nhiều hơn cho số vốn chú gửi ngân hàng tiết kiệm. Trong ba tháng sau đó, chú nghe bà nội Kane đem tiền bỏ vào những chứng khoán do tờ Nhật báo phố Wall quảng cáo. Chú đã bị mất quá nửa số tiền thu được do kinh doanh nhãn diêm, vì vậy bây giờ chú chỉ tin vào những lời khuyên về chuyên môn của tờ báo trên đây, hoặc cùng lắm là dựa vào những thông tin chú thu nhặt được Ở ngoài đường phố.
   Tức mình vì bị mất đi 20 đô-la, William quyết định trong những ngày nghỉ lễ Phục sinh thế nào cũng phải tìm cách thu hồi lại. Chú tính xem trừ những buổi chiêu đãi và các việc khác mà mẹ chú cần chú tham gia, còn lại chú chỉ có mười bốn ngày được hoàn toàn tự do. Chừng đó thôi là đủ cho chú có thể tính chuyện làm ăn được. Chú đem bán hết những cổ phần còn lại trong tờ Nhật báo phố Wall, được 12 đô-la. Với số tiền này, chú mua một mảnh gỗ, hai bộ bánh xe, trục, và một sợi dây thừng, tất cả hết 5 đô-la sau khi đã mặc cả nhiều lần. Rồi chú đội một chiếc mũ vải và mặc bộ quần áo cũ đã chật và ra ga xe lửa địa phương kiếm ăn. Chú đứng Ở ngoài cửa ra vào, trông có vẻ đói và mệt, chờ một số hành khách bước ra ngoài và nói với họ rằng những khách sạn chính Ở Boston đều gần ga xe lửa, không cần phải thuê tắc xi hoặc xe cộ gì khác, mà chú sẵn sàng chở hành lý cho họ với 20 phần trăm giá tắc xi thôi. Chú còn thuyết phục họ là đi bộ cho khỏe người. Cứ như thế làm mỗi ngày sáu tiếng chú đã có thể kiếm được suýt soát 4 đô-la.
   Năm ngày trước khi kỳ học mới bắt đầu, chú đã có thể phục hồi được những khoản bị mất và còn kiếm thêm được 10 đô-la lợi nhuận. Nhưng đến đây chú gặp phải một vấn đề. Những tay lái xe tắc xi đã bắt đầu khó chịu với chú. William bèn nói với họ là chú chỉ mới có chín tuổi, nhưng chú sẵn sàng rút lui khỏi chỗ này nếu mỗi người giúp cho chú 50 xu để chú bù vào cái tiền chú đã phải mua vật liệu để làm lấy chiếc xe chở đồ. Họ đồng ý ngay. Thế là chú lại kiếm được thêm 8,50 đô-la nữa. Trên đường trở về nhà trên đồi Beacon, William bán lại chiếc xe đó với giá 2 đô-la cho một bạn học lớn hơn chú hai tuổi, anh bạn kia tưởng có thể kiếm ăn bằng chiếc xe đó được, nhưng những tay lái xe tắc xi không cho, vả lại trời mưa suốt những ngày còn lại trong tuần.
   Ngày trở về trường học, William lại gửi tiền vào ngân hàng với lãi suất 2,5 phần trăm. Trong suốt năm học sau đó, chú không có điều gì đáng lo ngại vì tiền tiết kiệm của chú vẫn tiếp tục tăng lên. Việc con tàu Lusitania bị đắm vào tháng năm 1915 và lời tuyên chiến của Tổng thống Wilson đối với Đức năm 1917 không làm cho William bận tâm. Chú cam đoan với mẹ chú là chẳng có gì và chẳng có ai đánh nổi nước Mỹ đâu. William còn bỏ ra 10 đô-la mua công trái Tự do để chứng minh nhận định của chú là đúng.
    Đến ngày sinh nhật lần thứ mười một của William, cuốn sổ thu chi riêng của chú cho thấy chú đã thu được lợi nhuận 412 đô-la. Chú mua tặng mẹ chiếc bút máy và tặng hai cụ bà nội ngoại hai chiếc trâm cài áo mua Ở hàng vàng bạc địa phương. Chiếc bút máy có nhãn hiệu Parker, còn hai chiếc trâm được gói vào những hộp đồ trang sức đặc biệt gửi về tận nhà cho hai cụ. Không phải là chú có ý lừa dối gì các cụ bằng những thứ bao bì rất đẹp ấy, mà chính là chú đã rút được kinh nghiệm hồi bán nhãn diêm, biết rằng bao bì càng đẹp càng dễ bán sản phẩm. Các cụ thấy hộp đồ mang nhãn hiệu Shreve, Crump và Low, lấy làm hãnh diện về những chiếc trâm của mình và luôn luôn cài trên áo.
   Các cụ theo dõi từng bước cúa William và quyết định rằng đến tháng Chín năm tới sẽ chuyển chú lên học Ở trường St Paul, Ở Concord ban New Hamphires như trước đây đã dự kiến. Chú lại được hưởng học bổng cho môn toán, đỡ được khoản 300 đô-la một năm cho gia đình mà thực ra điều đó không cần thiết. Vì vây mặc dầu William nhận học bống nhưng các cụ vẫn trả lại tiền cho nhà trường để "nhường cho những đứa trẻ ít may mắn hơn". Anne không thích chuyện William phải xa mẹ để vào trường nội trú, nhưng các cụ đã muốn như vậy, hơn nữa, chị biết rằng trước đây Richard cũng đã muốn như vậy. chị thêu tên đánh dỉấu vào những đồ dùng của William, giầy dép, quần áo, và cuối cùng chị đích thân sửa soạn hòm xiểng cho chú, không nhờ ai giúp đỡ. Khi William sắp sửa lên đường, mẹ chú hỏi chú cần bao nhiêu tiền túi cho học kỳ sắp tới.
   - Con không cần, - chú trả lời gọn.
   William hôn vào má mẹ. Chú không hiểu được mẹ chú sẽ nhớ chú như thế nào.
    Chú đi xuống đường, mặc chiếc quần dài đầu tiên trong đời, tóc cắt rất ngắn, tay xách chiếc va-li nhỏ, và tiến đến chỗ anh lái xe Roberts. Chú ngồi lên phía sau chiếc xe Rolls Royce. Chiếc xe đưa chú đi. Chú không ngoái cổ lại. Mẹ chú cứ vẫy tay mãi rồi khóc. William cũng muốn khóc, nhưng chú biết giá bố còn sống thì bố sẽ không bằng lòng như vậy.
    Điều đầu tiên Wilham Kane thấy rất lạ là Ở trường này, tất cả những học sinh khác không ai cần biết rằng chú là ai. Ở đây không còn những cái nhìn trầm trồ hoặc im lặng thừa nhận sự có mặt của chú nữa. Một đứa nhiều tuổi hơn hỏi tên chú là gì, nhưng sau khi chú nói tên rồi, không thấy nó tỏ vẻ xúc động gì hết. Thậm chí có đứa gọi chú là Bill. Chú đã phải cải chính ngay và giải thích rằng xưa kia không ai gọi bố chú là Dick cả.
    Cơ ngơi mới của chú là một căn phòng nhỏ với những giá sách bằng gỗ, hai chiếc bàn, hai ghế, hai giường với một chiếc ghế dài bọc da đã hơi cũ. Bàn ghế và chiếc giường kia là của một cậu học sinh khác từ New York đến, có tên là Matthew Lester. BỐ cậu ta là Chủ tịch công ty Lester Ở New York, cũng là một gia đình ngân hàng cũ.
    William đã sớm quen ngay với những giờ giấc hàng ngày Ở trường. Bẩy rưỡi sáng ngủ dậy, tắm rửa, ăn sáng Ở phòng ăn lớn với cả trường, 220 học sinh hối hả với những món trứng, thịt rán và cháo kê. ăn sáng xong vào nhà thờ, rồi vào lớp, trước bữa ăn trưa có ba tiết mỗi tiết 50 phút, sau bữa ăn trưa có hai tiết nữa, rồi tiếp theo đó là bài học nhạc mà William rất ghét vì chú không thể nào hát được cho đúng nốt và chú cũng không hề có ý muốn học chơi bất cứ một thứ nhạc cụ nào. Bóng đá vào mùa thu, khúc côn cầu và bóng quần vào mùa đông, chèo thuyền và quần vợt vào mùa xuân, ngoài những thứ đó ra, chú không còn mất thời giờ làm gì khác. Vì là học lớp chuyên toán nên mỗi tuần William lại có ba buổi được phụ đạo đặc biệt do ông thày thuê riêng tên là G. Raglan phụ trách. Bọn trẻ cho ông thày này một biệt danh, gọi là
ông "Xấu tính".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 25-2-2012 23:26:20 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8 (cont)

    Trong năm học đầu, William tỏ ra rất xứng đáng với học bổng của chú, luôn luôn dẫn đầu Ở tất cả các môn và cả trong lớp chuyên toán. Chỉ có anh bạn mới, Matthew Laster, là đối thủ thực sự với chú, vì hai người cùng Ở một phòng với nhau. Trong khi theo học chính quy như vậy, William vẫn tỏ ra mình là một nhà tài chính. Mặc dầu chuyến đầu tư đầu tiên của chú không thành công, chú vẫn không từ bỏ niềm tin của mình là thế nào rồi cũng thu về được món tiền lớn, và chú cho rằng giành được nó trên thị trường chứng khoán mới là quan trọng. Chú theo dõi tờ Nhật báo phố Wall và báo cáo của các công ty. Mới mười hai tuổi, chú đã bắt đầu thí nghiệm làm những cuộc đầu tư vào một hồ sơ giả. Chú ghi lại tất cả những cuộc mua bán giả, cái tốt và cái không tốt lắm, vào một cuốn sổ khác màu, rồi đến cuối tháng đem so sánh những dự tính của mình với thị trường xem sao. Chú không theo những chứng khoán đã có trong danh sách, mà tập trung vào một số những công ty vô danh nào đó không có khả năng mua vào nhiều hơn những cổ phần họ có được. Wilham tự quy ước cho mình bốn điều trong đầu là: bội số thu nhập thấp, tỷ lệ phát triển cao, cơ sở tài sản mạnh và triển vọng kinh doanh thuận lợi. Chú thấy ít có chỗ nào cổ phần đáp ứng được đầy đủ những tiêu chuẩn chú đặt ra như vậy Nhưng chú tính nếu mình đã làm thì phải trông thấy lợi nhuận mới được.
    Đến lúc chú thấy rằng chương trình đầu tư ma của mình đã có thể liên tục thắng được những chỉ tiêu Dow Jones, thế là William biết rằng đã có thể bỏ tiền ra đầu tư được rồi. Chú bắt đầu với 100 đô-la và luôn luôn cải tiến phương pháp của mình. Chú theo sát lợi nhuận và giảm bớt hao hụt. Một khi chứng khoán tăng lên gấp đôi, chú đem bán ngay một nửa cổ phần, giữ lại nguyên một nửa không suy chuyển và kinh doanh phần chứng khoán còn lại của chú, coi như đó là một phần thưởng của lãi suất. Một số những công ty chú phát hiện ra lúc đầu, như Eastman Kodak và I.B.M sau trở thành nhữag công ty đứng đầu Ở quy mô toàn quốc. Chú cũng ủng hộ cả công ty Sears, một công ty kinh doanh hàm thụ, vì chú cho rằng càng về sau này nó sẽ là một khuynh hướng phổ biến trong cách mua bán.
    Vào khoảng cuối năm học đầu tiên Ở trường, chú đã trở thành cố vấn cho nửa số nhân viên và một số phụ huynh học sinh về chuyện làm ăn. William Kane thấy mình Ở trường rất hạnh phúc.
   William đi học ở St. Paut nên Ở nhà chỉ còn có một mình Aune Kane đơn độc với hai bà nội và ngoại giờ đã mỗi lúc một già thêm. Chị lấy làm buồn thấy mình đã ngoài ba mươi rồi, và cái tươi đẹp của tuổi trẻ trước đây bây giờ đã biến đi đâu mất. Chị bắt đầu liên hệ lại với những bạn cũ do cái chết của Richard làm cho đứt đoạn. John và Milly Preston, mẹ đỡ đầu của William, lại mời chị đi ăn và đi xem hát, lần nào cũng chú ý kéo thêm một người đàn ông để cho Anne có bạn. Những người mà vợ chồng Preston mời đi theo thường là những người mà Anne thấy khủng khiếp, và chị cười thầm với mình mỗi khi họ tỏ ra muốn ve vãn. Cho đến một hôm vào tháng giêng 1919, sau ngày William về nghỉ đông và đã trở lại trường, Anne được mời đến dự bữa ăn thân mật bốn người. Milly thú thật với chị là họ chưa hề gặp người khách này bao giờ, chỉ biết đó là Henry Osborue và nghe như trước đây cùng học với John Ở Harvard.
   Milly nói trên điện thoại:
    - Thực ra John không biết rõ lắm về anh ấy, có điều John bảo anh ta khá đẹp trai.
    Về điều này, cả Anne và Milly đều công nhận ý kiến của John là đúng. Lúc Anne đến, anh ta đang ngồi bên lò sưởi. Anh ta đã đứng ngay dậy để chờ Milly giới thiệu. Người cao lớn, tóc đen, mắt đen, dong dỏng và có dáng thể thao. Anne cảm thấy hài lòng được ngồi nói chuyện buổi tối với một người đàn ông trẻ đẹp và có vẻ cương nghị, còn Milly thì cũng bằng lòng với ông chồng đang bước vào tuổi trung niên so với anh bạn học cũ kia. Henry Osborne phải đeo tay vào một sợi băng gần che lấp chiếc ca-vát Harvard trên ngực.
   - Anh là thương binh ư? - Anne hỏi với giọng thương cảm.
   - Không, tội bị ngã cầu thang ngay sau cái tuần Ở mặt trận phía Tây về, - anh ta cười nói.
      Đó là một trong những bữa ăn khá hiếm đối với Anne, vì thời gian trôi đi một cách vui vẻ nhẹ nhõm. Henry Osbome trả lời tất cả nhữag gì Anne tò mò muốn hỏi. Sau khi rời trường Harvard, anh ta làm việc cho một công ty quản lý nhà đất Ở Chicago là nơi anh ta sinh trưởng. Chiến tranh nổ ra, anh không thể không tham gia. Anh có cả một kho chuyện lý thú về Châu âu và về cuộc đời anh đóng vai một trung úy đứng ra bảo vệ danh dự của nước Mỹ Ở trận Mame. Từ sau khi Richard mất đi, Milly và John chưa từng thấy Anne cười nhiều như thế bao giờ, và lúc Henry đề nghị đánh xe đưa chị về nhà thì họ mỉm cười nhìn nhau ra vẻ hiểu ý.
    - Bây giờ sau khi đã trở về với đất của những anh hùng này, anh định sẽ làm gì đây? - Anne hỏi trong khi Henry Osbome đánh chiếc xe Stutz ra ngoài và đi vào phố Charles.
   - Tôi chưa định gì hết, - anh ta đáp. - May mà tôi còn một ít tiền riêng nên chưa vội lao vào chuyện gì hết. CÓ thể tôi sẽ tiến hành đặt ngay công ty nhà đất của tôi Ở Boston này. Từ hồi Ở trường Harvard, tôi vẫn luôn luôn cảm thấy gần gũi với thành phố này.
   - Vậy anh không quay về Chicago nữa ư ?
    - Không, tôi chả còn gì Ở đó. Cha mẹ tôi đã chết cả, và tôi lại là con một, vì vậy tôi có thể lại bắt đầu Ở bất cứ chỗ nào cũng được. Quay phía nào đây?
    - Ô rẽ sang phải Ở ngã tư đầu, - Anne nói.
    - Chị Ở trên đồi Beacon ư?
   - Vâng. Khoảng hơn một trăm thước phía bên phải trên đường Chesnut, có ngôi nhà đỏ Ở góc quảng trường Louisburg ấy.
     Henry Osborne đỗ xe lại và đưa Anne đến tận cửa nhà Chào và chúc ngủ ngon xong, anh ta đi ngay mà Anne chưa kịp cảm ơn. Chị nhìn theo xe anh ta từ từ đi xuống đồi Beacon, biết rằng thế nào cũng còn gặp lại: Ngay sáng hôm sau, chị lấy làm sung sướng tuy không ngạc nhiên lắm thấy anh ta gọi điện thoại lại cho chị.
   - Dàn nhạc giao hưởng Boston, Mazart với một nhân tài mới rất ầm ĩ, Mahler, vào thứ hai tới, mời chị đi được không?
    Anne bối rối thấy mình mong cho chóng đến thứ hai. Hình như đã lâu lắm chị mới thấy có một người mà chị cho là hấp dẫn theo đuổi chị. Henry Osbonle đến rất đúng giờ hẹn. Hai người bắt tay nhau hơi ngượng ngập. Chị mời anh ta uống một cốc wisky.
    - Ờ trên quảng trường Louisburg này cũng thú vị lắm nhỉ. Chị thật là một người may mắn.
    - Vâng, có lẽ thế. Thực ra tôi cũng không để ý lắm. Tôi sinh trưởng trên Đại lộ Commonwealth kia. Tôi thì lại cho là Ở chỗ này hơi bí.
    - Tôi đang nghĩ nếu tôi quyết định Ở lại Boston thì có thể mua một ngôi nhà Ở ngay trên đồi này.
    - Người ta không có sẵn nhà bán như vậy nhiều lắm đâu, - Anne nói. - Nhưng có thể anh sẽ may mắn mua được. Ta đi thôi chứ?  Đi nghe hòa nhạc mà đến  muộn và phải giẵm lên chân người khác để vào chỗ ngồi của mình thì chán lắm.
    Henry liếc nhìn đồng hồ tay.
- Vâng, tôi cũng thấy thế. Vả cũng còn phải xem nhạc trưởng bước vào nữa chứ. Tuy nhiên, chị không phải lo giẵm lên chân ai trừ chân tôi, vì chúng ta ngồi đầu hàng ghế.
    Sau buổi hòa nhạc thú vị ấy, Henry cầm tay Anne dẫn chị vào nhà hàng Ritz, và anh ta cho điều đó là tự nhiên. Từ sau khi Richard mất, chỉ có William là người đã cầm tay chị nhưng phải nói mãi chú mới làm vì chú cho rằng như thế là có tính đàn bà. Lại một lần nữa, thời gian trôi qua nhanh, không biết đó là do rnón ăn ngon hay do có Henry cùng đi? Lần này, anh ta kể những chuyện về Harvard làm cho chị cười, và những kỷ niệm về chiến tranh khiến chị phải khóc. Mặc dầu chị rất biết rằng trông bề ngoài anh ta trẻ hơn chị, nhưng đời anh ta đã trải qua rất nhiều sự kiện nên ngồi trước mặt anh ta, chị cảm thấy mình bé nhỏ và ngây thơ hơn nhiều. Chị nói lại cho anh ta biết về cái chết của chồng chị, và lại khóc. Anh ta cầm lấy tay chị. Chị nói về đứa con trai của mình với một niềm kiêu hãnh và trìu mến. Anh ta nói là vẫn mong muốn có một đứa con trai. Henry rất ít nói đến Chicago hay đời sống gia đình riêng của mình, nhưng Anne biết chắc là anh ta thấy thiếu gia đình lắm. Đêm đó đưa chị về nhà, anh ta nán ngồi lại uống rượu một lát rồi lúc ra về hôn vào má chị. Trước khi ngủ, Anne ôn lại trong đầu từng phút hai người đã sống với nhau.
    Ngày thứ ba, họ lại cùng nhau đi xem hát. Thứ tư, họ rủ nhau lên thăm ngôi nhà nghỉ hè của Anne Ở BỜ Bắc. Thứ năm, rủ nhau về nông thôn Massachusetts phủ đầy băng tuyết. Thứ sáu, đi mua đồ cổ và thứ bẩy thì làm tình với nhau. Sau ngày chủ nhật, hai người hầu như không rời nhau nữa. Milly và John Preston hoàn toàn sung sướng thấy việc giới thiệu của mình như thế là đã rất thành công. Milly đến khắp nơi Ở Boston khoe với mọi người rằng chính chị đã làm cho hai ngườl gắn bó với nhau được.
    Không ai ngạc nhiên đối với việc hai người tuyên bố đính hôn với nhau mùa hè năm đó, trừ có một người là William. Chú đã tỏ ra không thích Henry ngay từ cái hôm Anne, với một vẻ ngần ngại, đã giới thiệu hai người với nhau. Câu chuyện đầu tiên diễn ra dưới dạng Henry thì hỏi rất nhiều, tỏ ra muốn thân mật, nhưng Willliam thì toàn trả lời nhát gừng, ra vẻ không ưa anh ta. Từ đó William vẫn cứ như thế. Anne cho rằng chẳng qua con mình ghen đó thôi, vì sau Richard qua đời chỉ có William là người thân yêu nhất. Hơn nữa, William ìuôn luôn cho rằng sau khi bố chú mất đi, trên đời này không thể có ai thay thế vào được nữa. Anne cố thuyết phục Henry rằng với thời gian rồi William sẽ thay đổi tính nết và thái độ lạnh nhạt của chú.
   Anne Kane trở thành bà Henry Osborne vào tháng mười năm đó Ở nhà thờ lớn của giáo phái E-pi-xcô-panli St. Paul, đúng vào lúc lá vàng bắt đầu rụng, tức là khoảng hơn chín tháng kể từ ngày họ mới gặp nhau. William giả vờ ốm để khỏi đến dự đám cưới, và chú cũng quyết định Ở lại trường luôn. Các cụ bà nội ngoại đều có tham dự nhưng không giấu được sự bất bình của các cụ đối với việc Anne tái giá, nhất là lại đi lấy một người có vẻ trẻ hơn chị rất nhiều. Bà nội Kane nói: - Thế nào rồi cũng kết thúc bằng một tai họa.
    Đôi vợ chồng mới ngay ngày hôm sau đáp tầu đi Hy Lạp cho đến tận giữa tháng chạp mới trở về căn nhà đỏ trên đồi, vừa đúng lúc để đón Wilham về nghỉ những ngày lễ Giáng sinh. William khó chịu thấy ngôi nhà đã trang hoàng lại, hầu như không còn dấu vết gì của cha chú nữa. Qua lễ Giáng sinh, thái độ của William đối với ông bố dượng vẫn không tỏ ra dịu đi chút nào, mặc dầu Henry đã tặng chú chiếc xe đạp mới và chú cũng hiểu đó là một thứ hối lộ. Henry Osbome vẫn kiên nhẫn chịu đựng thái độ ấy và không thèm nói gì nữa. Anne lấy làm buồn thấy ông chồng mới tuyệt vời của mình không tỏ ra cố gắng tranh thủ cảm tình gì của con mình nữa.
    William cảm thấy bực dọc về chuyện ngôi nhà của mình bị người khác xâm chiếm, chú thường biến đi đâu chơi cả ngày. Khi Anne hỏi chú đi đâu, chú chỉ ậm ừ hoặc không nói gì. Các cụ bà cũng thấy vắng chú nhưng không hỏi. Những ngày nghỉ lễ Giáng sinh vừa hết là William trở lại trường ngay. Thấy chú đi, Henry cũng không lấy gì làm buồn. Còn Anne thì lấy làm lo ngại đối với cả chồng và con.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 25-2-2012 23:44:33 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9:  

    Dậy đi! Bé con? Dậy đi!
   Một tên lính thúc báng súng vào cạnh sườn Wladek. Chú giật mình ngồi dậy, nhìn nấm mộ của chị chú, cả Leon và của Nam tước. Rồi chú ngước nhìn tên lính. Chú không còn giọt nước mắt nào nữa.
    - Tôi sẽ sống. Anh không giết tôi được, - chú nói bằng tiếng Ba-Lan. - Đây là nhà của tôi. Các anh đang Ở trên đất của tôi.
    Tên lính nhổ toẹt vào Wladek một cái và đẩy chú về bên bãi cỏ đang có tất cả đám người hầu Ở đó, người nào cũng mặc bộ áo ngủ màu xám trên lưng đều có ghi số. Vừa trông thấy thế Wladek đã khiếp sợ. Chú biết là mình sẽ không tránh khỏi số phận ấy. Tên lính dẫn chú về phía sau lâu đài và bảo quỳ xuống. Chú nghe có tiếng dao trên đầu và thấy mớ tóc đen rậm của chú rụng xuống cỏ. Chỉ độ mươi nhát như thế là họ đã cạo sạch tóc trên đầu chú, chẳng khác gì người ta cắt lông cừu. Sau đó chú được lệnh mặc vào người bộ đồng phục mới, tức bộ áo ngủ màu xám gồm một chiếc sơ mi rộng thùng thình và một chiếc quần. Wladek cố giấu chiếc vòng bạc đeo Ở cổ tay. Rồi chú được dẫn ra nhập bọn với đám người hầu Ở phía trước lâu đài.
      Họ đứng chờ trên bãi cỏ. Bây giờ không ai còn tên gì nữa, chỉ có số. Wladek bỗng nghe xa xa có tiếng ồn rất lạ tai. Chú quay về hướng có tiếng ghê rợn ấy. Một chiếc xe từ ngoài cổng sắt lớn tiến vào. Xe này có bốn bánh, không có ngựa hay bò kéo mà nó di chuyển được Tất cả tù nhân đều nhìn vào đó mà không tin Ở mắt mình. Khi chiếc xe đó dừng lại, bọn lính kéo đám tù nhân đến gần và bắt trèo lên xe. Rồi chiếc xe không có ngựa kéo ấy quay đầu đi ra ngoài những hàng cổng sắt. Không một ai dám mở miệng nói gì. Wladek ngồi phía sau xe, đăm đăm nhìn lại tòa lâu đài của chú cho đến lúc không còn thấy những tháp gôtích trên nóc nó nữa.
    Chiếc xe không có ngựa kéo chạy về phía làng Slonim. Wladek vừa không hiểu sao chiếc xe đó chạy được vừa không biết nó đưa mọi người đi đâu. Chú bắt đầu nhận ra những con đường chú đã từng đi học trước đây. Ba năm sống dưới hầm lâu đài khiến chú không còn nhớ được những con đường ấy đi đến tận nơi nào. Đi được mấy dặm thì chiếc xe dừng lại và mọi người bị xua xuống. Ra đây là nhà ga xe lửa. Wladek chỉ mới trông thấy chỗ này một lần trong đời, tức là khi chú cùng Leon ra đón Nam tước Ở Warsaw về . Chú còn nhớ là khi họ bước vào sân ga thì người lính gác Ở đó đã giơ tay chào. Lần này không có ai chào, và tù nhân thì chỉ được uống sữa dê, ăn . súp củ cải và bánh mì đen. Wladek lại được đứng ra nhận thức ăn về đem chia cho mười ba người còn lại với chú. Chú ngồi trên một chiếc ghế gỗ và đoán rằng họ đang chờ một chuyến xe lửa. Đêm đó, mọi người nằm ngủ trên đất nhìn trời sao. Nếu so với căn hầm thì đây đã là thiên đường rồi. Chú cảm ơn Chúa là mùa đông này không lấy gì làm rét lắm.
     Đến sáng hôm sau, mọi người vẫn chờ đợi. Wladek hướng dẫn mọi người vận động một chút, nhưag chỉ được vài phút thì phần lớn đã gục xuống. Chú bắt đầu nhẩm trong bụng để nhớ tên những người cho đến hôm nay còn sống sót. Tất cả còn lại có mười hai người đàn ông, hai người đàn bà, trong số hai mươi bảy người đã bị giam trong hầm trước đây. Cả ngày hôm ấy họ vẫn cứ phải ngồi chờ chuyến xe lửa mà không thấy nó đến. CÓ một chuyến tàu đến nhưng chỉ thả thêm lính xuống đây, rồi lại đi mà không chở đám người của Wladek. Họ lại ngủ một đêm nữa trên đất.
    Wladek nằm nhìn lên trời sao trong bụng nghĩ không biết có thể làm thế nào để trốn đi được. Trong đêm, một trong số mười ba người của chú bỏ chạy sang bên kia đường xe lửa, nhưng chưa sang được đến nơi đã bị lính bắn chết. Wladek chăm chăm nhìn vào chỗ đồng bào của chú vừa ngã xuống. Chú sợ không dám cbạy ra cứu vì rất có thể lại cùng chịu số phận ấy Sáng hôm sau, bọn lính gác cứ để xác chết đó nằm trên đường để đe những người khác đừng có bắt chước chạy mà chết.
    Không ai nói gì về chuyện đã xảy ra, nhưng suốt ngày hôm đó mắt Wladek không rời được người đã chết. Người đó chính là Ludwik, một trong hai người đã đến làm chứng lúc Nam tước dặn dò. để lại gia tài cho Wladek.
   Vào buổi tối ngày thứ ba, một chuyến xe lửa khác từ từ lăn bánh vào ga. Một chiếc đầu tầu rất to chạy bằng hơi nước kéo theo một lô toa chở hàng và chở hành khách. Những toa chở hàng chất đầy rơm và hai bên sườn có viết chữ Gia Súc. Một số toa khác đã chở toàn những tù nhân mà Wladek trông họ cũng nhem nhuốc như đám người của chú vậy. Chú và tốp người của chú bị vứt ìên một trong những toa đó để bắt đầu một cuộc hành trình. Phải chờ mấy tiếng đồng hồ nữa đoàn tàu mới bắt đầu ra khỏi ga và đi về một hướng mà Wladek đoán là hướng Đông vì mặt trời đang lặn
phía sau.
    Cứ ba toa lộ thiên thì có một lính gác ngồi bắt tréo chân Ở toa trên có mái. Suốt dọc đường tưởng như không bao giờ hết ấy, thỉnh thoảng lại có tiếng súng bắn trên tàu, khiến Wladek nghĩ có muốn chạy trốn cũng vô ích.
    Lúc tàu đỗ lại Ở Minsk, họ được cho ăn một bữa đầu tiên gồm bánh mì đen, nước uống, lạc và kê. Rồi lại đi tiếp CÓ khi họ đi đến ba ngày trời mà chẳng thấy một ga nào. Rất nhiều người trên tàu này bị đói lả và chết. Họ bị vứt xuống đường trong khi tàu đang chạy. Khi tàu dừag lại, có khi họ phải chờ đến hai ngày đề nhường đường cho tàu khác đi về phía Tây. Những chuyến tàu ấy thường là chở đầy lính. Wladek hiểu ra là tàu chở quân đội bao giờ cũng được ưu tiên đi trước. Trong đầu Wladek lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện trốn, nhưng có hai điều khiến chú chưa dám thực hiện tham vọng ấy. Thứ nhất là chú thấy hai bên đường tàu chỉ toàn là rừng thẳm không biết đến đâu mới hết, và thứ hai là tất cả những người còn sống sót Ở nhà hầm ra đây đều chỉ biết dựa vào chú. Chính Wladek là người lo ăn uống cho họ và cố động viên cho họ còn muốn sống. Chú là người trẻ nhất trong cả bọn và cũng là người cuối cùng tin Ở cuộc sống.
     Từ đây trở đi, đêm nào cũng rất lạnh, có khi lạnh tới 30 độ dưới không. HỌ phải nằm sát vào nhau trên sàn để người nọ truyền hơi ấm sang cho người kia. Wladek thầm đọc lại những đoạn Aeneid để cố ngủ cho được. Nếu một người muốn giở mình thì tất cả những người khác đều phải đồng ý giở mình một lượt mới được. Wladek nằm Ở đằng đầu và cứ qua mỗi giờ đồng hồ, chú đoán như vậy vì chỉ có thể căn cứ vào bọn lính đổi gác, thì chú lại ìấy tay gõ vào thành xe và mọi người lại cứ thế trở mình quay sang phía kia. Một đêm, có một người không trở mình được nữa. Họ báo cho Wladek biết và chú báo lại cho tên lính gác biết. ĐÓ là một người đàn bà trong nhóm, và bà ta đã chết. Phải bốn người mới nhấc được xác bà ta lên và vứt xuống cạnh đường trong khi tàu vẫn đang chạy. Tên lính gác còn bắn theo xác chết một loạt đạn nữa đề biết chắc rằng đó không phải là người định trốn.
     Đi quá Minsk hai trăm dặm, họ đến một thị trấn tên là Smolensk. Ở đây họ được ăn súp củ cải nóng hơn với bánh mì đen. Trong toa xe của Wladek có thêm mấy tù nhân nữa, và mấy người này nói cùng một thứ tiếng với bọn lính gác. Người cầm đầu nhóm mới này hình như cũng cùng tuổi với Wladek. Wladek với mười một người còn lại trong nhóm, mười đàn ông, một đàn bà, đã thấy nghi ngờ ngay bọn mới lên này. HỌ chia toa xe ra làm hai nửa, mỗi nhóm Ở một bên toa.
    Một đêm trong khi Wladek đang nằm thức và ngắm nhìn trời sao, chờ cho người nóng lên, chú bỗng thấy tên cầm đầu của nhóm người mới lên Ở Smolenski bò đến chỗ người nằm ngoài của nhóm chú, tay hắn cầm một sợi dây thừng. Chú trông rõ thấy hắn luồn sợi dây vào cổ Alfons lúc này đang ngủ. Alfons là người hầu cận của Nam tước trước đây. Wladek biết rằng nếu mình nhổm dậy ngay thì hắn sẽ nghe thấy và chạy về đầu toa bên kia, vì thế chú khẽ bò dọc theo nhóm người của chú. HỌ biết chú bò qua mình nhưng không ai lên tiếng. . Đến cuối hàng, chú nhảy chồm lên người tên kia. Mọi người trong toa thức dậy ngay. Ai nấy kéo dồn về một đầu toa, trừ có Alfons nằm lại đó không động đậy.
    Tên cầm đầu đám Smolenski cao lớn và nhanh nhẹn hơn Wladek. Nhưng vật nhau trên sàn toa thì cũng như nhau cả. Cuộc đấu diễn ra đến mấy phút. Bọn gác nhìn cười và đánh cuộc xem ai được. Một tên thấy đánh nhau mà không có máu thì không thích, bèn quẳng một chiếc lưỡi lê xuống giữa sàn tàu. Cả hai tranh nhau giành lấy lưỡi lê sáng loáng. Tên Smolenski vớ được trước. Hắn đâm một nhát vào cạnh chân Wladek tóe máu. Bọn người Smolensk thấy thế hoan hô. Nhát đâm thứ hai trượt qua tai Wladek cắm xuống sàn tàu. Hắn chưa kịp rút lười lê lên được thì Wladek đã dùng hết sức mình thúc một cái thật mạnh vào dái hắn. Hắn ngửa người ra sau và phải rời tay khỏi lưỡi lê, wladek chồm lên, nắm lấy cán lưỡi lê và đè lên người tên Smolenski, thọc một nhát vào miệng hắn. Hắn thét lên một tiếng làm náo động cả đoàn tàu . Wladek rút lưỡi lê ra rồi lại liên tiếp thọc xuống mấy nhát nữa cho đến khi tên kia hết cựa quậy. Wladek quỳ lên người hắn thở dốc rồi lát sau nhấc người hắn lên vứt ra ngoài tàu. Chú nghe rõ tiếng xác hắn rơi đánh huych xuống cạnh đường tàu và cả tiếng súng của bọn gác bắn theo.
     Wladek loạng choạng đi đến chỗ Alfons còn nằm đó. Chú quỳ xuống bên cạnh. Anh ta đã chết thật rồi. Thế là người làm chứng thứ hai của chú cũng chết nốt. Bây giờ còn có ai tin được Wladek là người Nam tước đã chọn ra để thừa kế gia sản của ông nữa? Cuộc đời thế là không còn mục đích gì nữa rồi.
     Chú cúi gục xuống, nắm chặt hai tay vào cán và xoay mũi lưỡi lê vào bụng. Bỗng một tên lính gác nhảy xuống giằng lưỡi lê ra khỏi tay chú.
    - Ô không được, không được, - hắn càu nhàu. "Chúng tao cần có những người sống như mày Ở trong trại giam. Đừng hòng chúng tao làm mọi việc, nghe không".
     Wladek ôm hai tay lên đầu. Bây giờ chú mới thấy đau buốt Ở chỗ chân bị lưỡi lê đâm lúc nãy. Chú đã mất hết cả gia tài, để bây giờ cầm đầu luôn cả lũ người Smolenski kia nữa. Cả toa tàu bây giờ là giang sơn của chú, và chú phải quản hai chục tù nhân. Chú lập tức chia họ ra để mỗi người Ba-lan bao giờ cũng nằm kề với một người Smolenski, và như vậy giữa hai nhóm không còn có chuyện lục đục với nhau được nữa.
    Wladek bỏ thì giờ ra đề học cái ngôn ngữ quái lạ của họ. Mãi sau chú mới biết đó chính là tiếng Nga, rất khác với thứ tiếng Nga cổ điển mà Nam tước đã dạy cho chú. Và bây giờ thì chú biết là đoàn tàu đi về hướng nào.
      Ban ngày, chú lấy ra hai người Smolenski để dạy tiếng của họ cho chú. Khi nào hai người đó mệt quá rồi, chú lại lấy hai người khác, cứ thế cho đến lúc cả bọn người đó mệt rũ.
    Dần dần chú đã có thể nói chuyện dễ dàng với bọn người mới phụ thuộc vào chú. Chú phát hiện ra một số trong bọn đó là lính Nga, sau khi về nước bị đi đày ngay về cái tội đã để cho bọn Đức bắt làm tù binh. SỐ còn lại là người Bạch Nga, toàn là dân làm ruộng, làm mỏ và lao động bình thường nhưag đều là những người rất chống đối cách mạng.
   Đoàn tàu đi tiếp đến những vùng đất trơ trụi mà Wladek chưa hề thấy bao giờ. HỌ đi qua những thị trấn chú cũng chưa từng nghe nói đến bao giờ, như Omsk, ovosibirsk, Krasnoyarsk. Chỉ những nghe đến tên thôi chú cũng đã thấy sợ. Cuối cùng, sau hai tháng trời và qua hơn ba ngàn dặm họ đến được Irkutsk, và đến đây là hết đường sắt.
    Họ bị xua ra khỏi tàu, được cho ăn uống và được phát những đôi giày bằng da thô, và những chiếc áo choàng rất nặng. HỌ phải tranh nhau để giành lấy áo ấm nhưng cũng chẳng có thứ áo nào chống nổi cái lạnh mỗi lúc một ghê gớm hơn.
     Lúc sau thấy xuất hiện những chiếc xe không có ngựa kéo, giống như loại xe Wladek đã thấy lúc rời khỏi lâu đài. Họ quẳng xuống một loạt những dây xích. Các tù nhân bị khóa một tay vào dây xích dài ấy mỗi bên hai mươi lăm ngưởi. Bọn lính gác trèo lên xe, còn đám tù nhân đi theo với dây xích buộc vào xe. Họ cứ đi bộ như thế liền trong mười hai tiếng đồng hồ, được nghỉ lại hai tiếng rồi lại đi tiếp. Sau ba ngày. Wladek tưởng mình sẽ chết vì lạnh và mệt, nhưng ra khỏi những vùng có dân cư rồi, họ chỉ phải đi ban ngày, còn ban đêm được nghỉ. Một bếp lưu động của tù nhân trong trại cứ sáng ra và tối trước khi nghỉ cho họ ăn xúp củ cải và bánh mì. Wladek hỏi những tù nhân trong trại thì được biết rằng tình hình Ở đó còn tệ hơn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 25-2-2012 23:56:22 | Chỉ xem của tác giả
     Trong tuần đầu, họ không được tháo ra khỏi xích nhưng dần dà thấy không ai có thể nghĩ đến trốn chạy được nữa, họ được tháo xích vào ban đêm để ngủ. Tù nhân phải tự đào lấy hố trong tuyết để tìm chỗ ấm. Đôi khi vào những ngày nắng ráo họ tìm được một khu rừng để ngả lưng, nằm ngổn ngang khắp chỗ. HỌ vẫn tiếp tục đi qua những hồ nước rất rộng và những con sông băng giá. Họ đi mãi về phía bắc, gió càng lạnh, tuyết càng dầy. Chỗ chân bị thương của Wladek luôn luôn đau buốt, nhưng đến giờ thì hai tai và các đầu ngón tay bị giá lạnh còn buốt hơn nữa. Chung quanh là cả một khoảng mênh mông trắng toát, không có dấu hiệu gì của sự sống và thứ gì ăn được. Wladek biết rằng ban đêm có trốn đi đâu thì cũng sẽ chỉ chết mòn vì đói. Những người già yếu ốm đau thì đêm đêm chết dần, và như thế họ cũng còn là may mắn. Còn những người không may, không bước đi được nữa, thì được tháo ra khỏi xích và bỏ lại một mình trong bãi tuyết vô tận. Những người còn sống sót với dây xích lại đi tiếp, đi mãi về phía bắc, cho đến lúc Wladek hoàn toàn không còn khái niệm gì về thời gian nữa, chỉ còn biết tay mình vẫn bị khoá vào xích. Chú cũng không còn nhớ là mình đã đào hố vào trong tuyết đề ngủ đêm và sáng hôm sau tỉnh dậy như thế nào nữa. Những ai không còn biết được như vậy coi như đã sắp đào mồ để chôn chính mình rồi.
     Sau một chặng dài chín trăm dặm, những người nào còn sống sót thì được dân Ostyak đem xe trượt do hươu kéo ra đón. Ostyak là dân du mục trên thảo nguyên Nga. Bây giờ tù nhân lại bị xích vào những xe trượt ấy và được dẫn đi tiếp . Gặp một trận bão tuyết lớn đoàn tù phải dừng lại mất gần hai ngày. Wladek tranh thủ nói chuyện được với một tay Ostyak trẻ trên chiếc xe trượt mà chú đang bị xích vào đó. Chú dùng thứ tiếng Nga cổ với giọng Ba lan để nói lõm bõm với anh ta được ít câu. Chú phát hiện ra một điều là dân Ostyak cũng rất ghét những người Nga Ở phía nam, vì họ đối đãi với dân này tồi tệ chẳng khác gì với các tù nhân. Dân Ostyak do đó cũng có phần nào cảm tình với những người tù tội nghiệp không có tương lai này. Họ gọi tù nhân ìà những người bất hạnh.
* *
    Chín ngày sau, trong ánh sáng mờ mờ của đêm mùa đông Bắc cực, họ đến được Trại 201. Wladek không thể nào ngờ được rằng mình còn có cái may mà trông thấy chỗ này. Trước mắt chú là một dãy những căn lều bằng gỗ và một khoảng không gian mênh mông trống rỗng. Những căn lều cũng đánh số như tù nhân vậy. Lều của Wladek số 33. Giữa căn lều có một chiếc lò nhỏ đen sì. Chung quanh là những dãy giường ván có đệm rơm Ở trên với chiếc chăn mỏng. Trong đêm đầu không có mấy tù nhân ngủ được. Tiếng gào tiếng khóc trong Lều 33 có khi còn to hơn cả tiếng gầm rú của chó sói Ở bên ngoài.
     Sáng hôm sau, ngay từ lúc mặt trời chưa mọc, họ đã bị tiếng gõ vào thanh sắt tam giác đánh thức dậy. Sương giá đóng đầy cả hai mặt cửa sổ khiến Wladek nghĩ thế nào mình cũng chết rét. ăn sáng chỉ được kéo dài mười phút trong một gian chung lạnh buốt với một bát cháo kê hơi âm ấm trong có vài miếng cá mòi và một cọng rau cải nổi lềnh bềnh. Những người mới đến bỏ xương cá lên bàn, nhưng những tù nhân đã quen với cảnh Ở đây rồi thì ăn hết xương và cả mắt cá nữa.
     Ăn sáng xong, họ được giao nhiệm vụ. Wladek trở thành anh chặt củi. Anh được dẫn đi bảy dặm đến một khu rừng hoang và được lệnh mỗi ngày phải chặt được một số cây nhất định. Tên lính gác bỏ anh lại đó với nhóm sáu người và suất ăn của họ gồm có một ít cháo kê vàng nhạt nhẽo và bánh mì. Bọn lính gác không sợ có tù nhân nào dám trốn, vì đến được thị trấn gần đó nhất cũng phải một nghìn dặm và dù có biết hướng đi cũng không đi nổi.
    Đến cuối ngày tên lính gác sẽ quay lại đếm số củi đã chặt được. Anh ta cũng đã nói trước với tù nhân là nếu chặt không đủ số củi quy định thì anh ta sẽ giữ thức ăn lại đến hôm sau mới phát. Nhưng lúc anh ta quay lại thì đã bảy giờ tối, chỉ còn thu thập được cho đầy đủ tù nhân thôi, chứ không nhìn được xem họ đã chặt bao nhiêu củi. Wladek bày cho những người trong nhóm biết cách để một phần thời gian buổi chiều quét dọn tuyết trên đống củi đã chặt hôm trước và xếp vào cùng với củi chặt hôm sau. Cách đó của anh rất có hiệu quả, vì vậy nhóm của Wladek không ngày nào bị cắt suất ăn cả. Đôi khi họ cố gắng đem theo một ít củi về trại bằng cách buộc nó vào chân Ở trong quần, để đến đêm có thể cho vào lò mà sưởi. Nhưng họ cũng phải rất cẩn thận vì mỗi lần ra vào đều bị khám xét kỹ lưỡng. Nếu chẳng may bị bắt mang theo gì trong người, họ có thể bị phạt ba ngày không được ăn.
      Qua mấy tuần nữa, cái chân củạ Wladek bị cứng ra và rất đau. Anh mong cho có những ngày cực rét, vì khi nào thời tiết xuống tới 40 độ dưới không thì họ không phải đi làm Ở ngoài trại, mặc dầu ngày Ở nhà ấy sẽ phải thế bằng một ngày chủ nhật khác, mà chủ nhật thì họ thường được phép nằm nghỉ cả ngày trên giường.
   Một buổi tối trong khi Wladek đang vác củi, anh bỗng thấy chân mình đau nhức không thể chịu nổi. Nhìn xuống vết sẹo do tên Smolenski gây ra, anh thấy nó sưng vù lên và bóng đỏ. Đêm đó anh giơ vết thương cho tên lính gác xem. Hắn bảo anh đến sáng mai sớm phải báo cho bác sĩ của trại biết. Wladek ngồi suốt đêm áp chân vào gần lò. Chung quanh lò toàn những ủng ướt. Lửa trong lò quá yếu nên không làm cho anh bớt đau tí nào.
     Hôm sau Wladek dạy sớm hơn bình thường một giờ vì anh nghĩ nếu không gặp được bác sĩ trước giờ làm việc thì sẽ lại phải để đến hôm sau nữa. Nếu để qua một ngày nữa thì Wladek không thể chịu đau nổi.
Anh đến báo cáo với bác sĩ, ghi tên và số tù của anh. Pierre Dubien hóa ra là một ông già dễ tính. ông ta hói đầu, hơi gù lưng. Wladek nghĩ có lẽ ông ta còn già hơn cả Nam tước trước khi qua đời. Bác sĩ khám chân Wladek và không nói gì.
     - Vết thương có việc gì không, thưa bác sĩ? - Wladek hỏi.
      - Anh nói tiếng Nga được à?
    - Thưa được.
    - Mặc dầu, anh sẽ bị thọt, nhưng chân anh rồi sẽ khỏi. Nhưng khỏi để làm gì? Để suốt đời đi chặt củi ư?
      -  Không, thưa bác sĩ, cháu có ý muốn trốn và trở về Ba-lan, Wladek nói.
     Bác sĩ chằm chằm nhìn anh.
    - Nói khẽ chứ, ngốc Ở đâu... Đến bây giờ thì anh biết là không trốn được chứ. Chính tôi đã bị bắt Ở đây mười lăm năm nay rồi, và không một ngày nào là tôi không nghĩ đến trốn. Nhưng không có cách nào được. Chưa hề có ai trốn mà lại sống được, mà chỉ nói đến chuyện trốn không thôi cũng đã bị phạt giam mười ngày dưới xà-lim, mà Ở đó thì ba ngày người - ta mới cho anh ăn một lần, còn lò thì đốt chỉ đủ để tan giá Ở trên tường thôi.
    Qua được cái đoạn trừng phạt ấy mà anh còn sống là may lắm rồi đấy.
    - Cháu sẽ trốn, nhất định trốn, - Wladek nhìn ông già nói.
Bác sĩ nhìn vào mắt Wladek và mỉm cười.
    - Này anh bạn ơi, chớ có nhắc đến chuyện trốn nữa, kẻo họ có thể giết anh đấy. Anh trở về làm việc đi, cố giữ cho cái chân tiếp tục vận động, rồi mỗi sáng đến đây cho tôi xem.
     Wladek trở về rừng chặt củi, nhưng anh thấy bây giờ mình chỉ kéo được gỗ đi mấy bước thôi. Chân đau đến mức anh tưởng như nó sắp rụng ra. Sáng hôm sau trở lại chỗ bác sĩ, ông ta khám chân anh cẩn thận hơn.
     - Chà, gay go đây, - bác sĩ nói. - Anh bao nhiêu tuổi rồi?
     - Có lẽ cháu mười ba rồi, - Wladek nói. Năm nay là năm bao nhiêu ạ?
     - Một nghìn chín trăm mười chín, - bác sĩ đáp.
      - Vâng, mười ba. Còn ông bao nhiêu? - Wladek hỏi. ông ta nhìn xuống đôi mắt xanh của cậu thanh niên, hơi lấy làm ngạc nhiên về câu hỏi.
     - Ba mươi tám, - ông khẽ nói. - ôi lạy Chúa, - Wladek nói.
    - Nếu anh bị tù mười lăm năm thì cũng sẽ già như tôi thôi, - bác sĩ nói với một giọng bình thản.
    - Nhưng tại sao ông lại Ở đây chứ? - Wladek nói. Tại sao đã bao nhiêu lâu thế mà họ không để cho ông đi?
    - Tôi bị bắt Ở Moscow năm 1904, ngay sau khi, tôi có danh nghĩa bác sĩ. Tôi làm việc cho sứ quán Pháp Ở đó HỌ bảo tôi là gián điệp, nên bỏ tôi vào tù Ở Moscow. Tôi nghĩ cho đến sau cách mạng cũng vậy. Họ tống tôi vào cái địa ngục này đây. Ngay cả đến những người Pháp cũng quên rằng tôi còn sống. Cả thế giới chả ai tin được là có một chỗ như thế này. Ở cái Trại Hai-Không-Một này chưa từng có ai Ở cho đến hết hạn được, vì vậy tôi sẽ chết Ở đây như một người khác mà thôi. CÓ điều chưa chết ngay được đâu.
   - Không, ông không nên mất hy vọng, Bác sĩ ạ.
   - Hy vọng ? Tôi đã mất hết hy vọng từ lâu rồi. CÓ lẽ anh thì không, nhưng anh nên nhớ là đừng có nhắc đến hy vọng ấy với bất cứ ai. Ở đây có những tù nhân họ chỉ nghe nói thế là đi báo cáo ngay, để nhận về một phần thưởng hoặc đó là thêm một miếng bánh hoặc một chiếc khăn mà thôi. Bây giờ thế này nhé. Wladek, tôi sẽ cho anh làm việc phụ bếp trong một tháng, và suốt thời gian đó sáng nào anh cũng phải đến báo cáo. ĐÓ là cơ hội duy nhất để anh khỏi mất cái chân kia, mà tôi có cưa chân của anh đi thì cũng chẳng sung sướng gì. Ở đây chúng tôi không có những dụng cụ giải phẫu tốt lắm đâu, - ông vừa nói vừa nhìn lên một con dao to.
    Wladek rùng mình sợ hãi.
   Bác sĩ Dubien viết tên Wladek lên một mẩu giấy. Sáng hôm sau Wladek xuống trình diện dưới nhà bếp.
Anh được giao việc rửa bát đĩa trong nước lạnh cóng và chuẩn bị thức ăn không cần phải ướp lạnh. Sau một thời gian phải chặt củi suốt ngày, anh thấy đây là một sự thay đổi đáng mừng. Được ăn thêm súp cá, thêm bánh mì đen, và nhất là được Ở trong nhà ấm áp. CÓ hôm anh được nhà bếp chia cho một nửa quả trứng mà không ai biết rằng đó là trứng con gì. Chân anh đã dần dần khỏi, tuy phải hơi chịu thọt một chút. Bác sĩ Dubien không thể có được thứ thuốc gì tử tế mà chữa cho anh, chỉ biết theo dõi từng ngày vậy thôi.
Ngày giờ trôi qua, bác sĩ trở thành người bạn của Wladek, thậm chí còn tin Ở hy vọng của tuổi trẻ đối với tương lai. Mỗi sáng hai người thường nói chuyện với nhau bằng các thứ ngôn ngữ, nhưng người bạn mới kia thích nhất là được nói tiếng Pháp vì đó là tiếng mẹ đẻ.
   - Trong bảy ngày nữa, Wladek, anh sẽ phải trở lại với nhiệm vụ Ở trong rừng. Bọn lính gác sẽ khám phá cái chân của anh, và tôi sẽ không thể giữ anh Ở lại trong bếp nữa. Vậy anh nghe kỹ tôi nói đây nhé, vì tôi đã có một kế hoạch cho anh trốn đi.
   - Cùng trốn, bác sĩ. - Wladek. - Chúng ta cùng trốn.
   - Không, chỉ mình anh thôi. Tôi nhiều tuổi rồi, không đi được xa như thế, mặc dầu hơn mười lăm năm nay lúc nào tôi cũng mơ đến chuyện trốn. Tôi sẽ chỉ làm vướng chân anh thôi. Biết có ai trốn đi được là tôi đủ hài lòng rồi, và anh là con người đầu tiên tôi gặp khiến tôi tin rằng anh có thể thành công được.
    Wladek yên lặng ngồi trên sàn nghe bác sĩ nói kế hoạch của ông.
- Trong mười lăm năm qua, tôi đã dành dụm được hai trăm rúp. Đây là tiền làm "ngoàì giờ" nhưng không phải như một tù nhân Nga đâu. - Wladek nhăn nhó cười. - Tôi giấu tiền trong một chai thuốc. CÓ bốn tờ mỗi tờ năm mươi rúp. Khi nào anh đi thì phải
khâu tiền đó vào trong áo. Tôi sẽ làm việc đó cho anh.
   - áo nào? - Wladek hỏi.
   - Tôi có một bộ quần áo và một sơ mi trước đây mười hai năm đã mua lại được của một tên lính gác, và hồi đó tôi còn tin Ở chuyện trốn được. BỘ quần áo không mới lắm, nhưng có thể phục vụ cho mục đích của anh được.
    Mười lăm năm dành dụm được hai trăm rúp, một chiếc sơ mi và một bộ quần áo, thế mà bác sĩ sẵn sàng chỉ trong chốc lát hy sinh tất cả những cái đó cho wladek. Suốt đời mình, Wladek sẽ chẳng còn bao giờ được thấy một hành động quên mình như thế nữa.
   - Thứ năm tới sẽ là cơ hội duy nhất của anh, - bác sĩ nói tiếp. - Tù nhân mới sẽ đến Irkutsk bằng xe lửa. Bọn ìính gác bao giờ cũng lấy bốn người của nhà bếp để tổ chức những chuyến xe thức ăn cho bọn người mới đến.
   - Tôi đã thu xếp với "bếp trưởng" - ông ta buồn cười với cái từ đó để anh được lên xe thức ăn. Tôi đem một ít thuốc đánh đổi cho anh ta đấy. Không khó khăn gì lắm đâu. Thực ra không ai muốn đi một chuyến đến tận đó rồi lại quay về đây, nhưng anh thì chỉ đi một lượt ra đến đó thôi. Wladek vẫn nghe rất kỹ.
     - Ra đến ga, anh hãy chờ cho đến khi nào tàu chở tù nhân vào ga. Một khi họ đã xuống sân ga cả rồi thì anh chạy qua đường sắt rồi nhảy lên chuyến tàu sẽ đi Moscow, mà chỉ sau khi tàu chở tù nhân đến rồi thì tàu đó mới khởi hành được vì bên ngoài ga chỉ có một đường tàu thôi. Anh phải mong làm sao cho đến lúc có hàng trăm tù nhân mới chạy đi chạy lại như thế thì bọn gác mới không để ý đến chuyện anh biến mất được. Từ lúc đó trở đi là tuỳ anh định liệu. Nên nhớ rằng nếu chúng trông thấy anh là chúng bắn liền chứ không cần hỏi han gì hết. Tôi chỉ có thể giúp anh được một điều này nữa. Mười lăm năm từ khi tôi bị đưa đến đây, tôi đã vẽ trong đầu óc một bản đồ con đường đi từ Moscow đến Thổ nhĩ kỳ. CÓ lẽ đến bây giờ nó
không còn chính xác nữa nhưng có thể đáp ứng cho mục đích của anh được. Anh phải tìm hiểu cho chắc chắn xem người Nga họ đã chiếm đóng Thổ-nhĩ-kỳ chưa. CÓ Trời mà biết được cho đến nay họ đã làm những gì. Theo tôi biết thì có thể họ cũng đã kiểm soát được cả nước Pháp nữa.
     
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 26-2-2012 00:23:46 | Chỉ xem của tác giả
     Bác sĩ bước vào phòng thuốc và lấy ra một cái chai lớn trông như đựng một chất gì đó màu nâu. ông mở nút và lấy ra một tấm da khô đã cũ. Nét mực đen qua năm tháng đã bị nhạt màu, mang chữ "Tháng mười 1904". Trên mảnh da vẽ con đường từ Moscow đến Odessa và từ Odessa đi Thổ nhĩ kỳ, tất cả 1.500 dặm đường đi đến tự do.
     - Trong tuần này, mỗi sáng anh cứ phải đến đây và chúng ta sẽ lại bàn thêm về kế hoạch này. Nếu như không thành công thì đó không phải là do thiếu chuẩn bị.
     Mỗi đêm, Wladek thức giấc nhìn ra ánh sáng mờ mờ ngoài cửa sổ, thử nghĩ trước những tình huống bất ngờ xem mình sẽ đối phô như thế nào. Đến sáng, anh lại đem bàn thêm với bác sĩ. Vào tối thứ tư trước ngày WTladek định trốn, bác sĩ gấp mảnh bản đồ đó làm tám, cùng để với bốn tờ bạc 50 rúp vào một gói nhỏ và ghim nó vào bên trong tay áo của bộ đồ. Wladek cởi bỏ quần áo cũ, mặc chiếc sơ mi vào người rồi lại mặc quần áo tù ra ngoài. Lúc anh mặc lại thì cặp mắt của bác sĩ bỗng trông thấy chiếc vòng bạc của Nam tước
     Từ khi mặc áo tù, anh vẫn luôn luôn đeo nó lên trên khuỷu tay vì sợ bọn lính gác trông thấy sẽ cướp mất của quý duy nhất còn lại đó của anh.
    - Cái gì thế? - bác sĩ hỏi. - Trông rất đẹp đấy
    - Đây là quà tặng của cha tôi, - Wladek nói. Tôi có thể tặng lại ông để tỏ lòng cảm tạ của tôi được không? Anh trút chiếc vòng xuống cổ tay và đưa cho bác sĩ.
     Bác sĩ nhìn chiếc vòng bạc một lúc lâu rồi cúi đầu nói:
     - Không nên. Thứ này chỉ có thể thuộc về một người thôi. - ông im lặng nhìn anh. - Hẳn cha anh là một người cao quý lắm.
Bác sĩ đeo trả lại chiếc vòng bạc vào cổ tay Wladek, rồi bắt tay anh nồng nhiệt.
     - Chúc anh may mắn, Wladek. CÓ lẽ chúng ta không bao giờ còn gặp nhau nữa.
      Họ ôm chầm lấy nhau và bước ra ngoài. Anh cầu cho đây là đêm cuối cùng của mình Ở trong lều trại giam. Anh không sao ngủ được suốt đêm đó, chỉ sợ một trong những tên lính gác phát hiện ra bộ quần áo dưới áo tù Tiếng chuông buổi sáng vừa vang lên, anh đã mặc xong quần áo và xuống bếp sớm. Tù nhân bếp trưởng đẩy Wladek đi lên trước khi bọn lính gác đến kiểm soát xe thức ăn. Tổ phục vụ chọn ra có bốn người tất cả. Wladek là trẻ nhất trong đám.
   - Tại sao lại thằng này? - một tên gác chỉ tay vào Wladek hỏi.
     Wladek như chết đứng và khắp người lạnh run. Kế hoạch của bác sĩ thế là hỏng, và phải ba tháng nữa mới lại có một đợt tù nhân nữa đến trại. Đến lúc đó thì anh sẽ không còn Ở bếp nữa.
    - Nó nấu bếp rất giỏi, - tù nhân bếp trưởng nói. - NÓ được rèn luyện trong lâu đài của một Nam tước đấy Chỉ có nó mới nấu ăn được ngon lành cho lính gác thôi.
    - À thế đấy, - tên lính gác nói, nghi ngờ không bằng tham ăn. Vậy thì nhanh lên.
    Cả bốn người chạy ra xe, rồi đoàn xe lên đường. Cuộc hành trình lại một lần nữa chậm chạp, vất vả, nhưng lần này ít nhất anh không phải đi bộ và cũng không lạnh chết người vì bây giờ đang là mùa hè. Wladek làm việc cật lực đề chuẩn bị thức ăn. Anh không muốn để ai chú ý đến mình. Suốt dọc đường anh chỉ nói vài câu với bếp trưởng là Atanislaw.
    Cuối cùng, sau khi họ đã đến được Irkutsk tính ra hết gần mười sáu ngày. Chuyến tàu chờ đi Moscow đã nằm sẵn Ở ga. NÓ đã đến đây mấy tiếng đồng hồ rồi nhưng không thể bắt đầu cuộc hành tnnh quay trở về Moscow chừng nào chuyến tàu chở tù nhân mới chưa đến được. Wladek cùng với mấy người làm bếp ngồi chờ Ở sân ga bên này, ba người không quan tâm đến gì khác chung quanh, còn một người chú ý theo dõi đoàn tàu Ở bên kia sân ga. CÓ nhiều cửa lên tàu, nhưng Wladek đã ngắm trước một cửa để đến lúc là anh sẽ nhảy lên đó.
    - Anh có định trốn không? Atanislaw chợt hỏi.
    Wladek toát mồ hôi nhưng không trả lời.
    - Đúng là anh định trốn rồi - Atanisla chăm chăm nhìn anh.
Wladek vẫn không nói gì.
   Ông bếp già vẫn nhìn anh thanh niên mười ba tuổi, rồi ông ta gật đầu ra vẻ tán thành. Giá như anh có cái đuôi thì nó đã vẫy ngay rồi.
     -Chúc anh may mắn. Tôi sẽ cố làm cho họ không để ý đến chuyện anh vắng mặt, được chừng nào hay chừng đó .
     Atanislaw nắm lấy tay anh. Wladek nhìn thấy đòàn tàu chở tù nhân Ở ngoài xa đang từ tử tiến đến chỗ họ ngồi. Anh cảm thấy căng thẳng, tim dồn dập, mắt theo dõi cử chỉ của từng tên lính. Anh chờ cho đến khi đoàn tàu kia dừng hẳn, nhìn theo đám tù nhân trên tàu đổ xuống sân ga. HỌ có hàng trăm người, dáng mệt mỏi, không tên không tuổi. Trong lúc sân ga .đang bề bộn một đống người và bọn lính gác bận rộn, Wladek chui xuống dưới gầm đoàn tàu chở tù nhân rồi nhẩy lên đoàn tàu sẽ đi Moscow. Không một ai trên tàu để ý đến anh lúc đó vào phòng vệ sinh Ở cuối toa. Anh cài cửa lại rồi đứng bên trong chờ, bụng lâm râm cầu nguyện, chỉ sợ có ai gõ cửa. Wladek cứ đứng như thế không biết bao nhiêu lâu rồi mới thấy đoàn tàu bắt đầu lăn bánh ra khỏi ga. Thực ra, chỉ có mười bảy phút.
   - Thế là xong, thế là xong, - anh thốt lên. Anh nhìn qua khung cửa sồ con của buồng vệ sinh, thấy nhà ga nhỏ dần và xa dần, đám tù nhân mới đã bị xích tay vào nhau sắp sửa lên đường về Trại 201, và bọn lính gác thì vừa cười vừa xích họ lại. Không biết sẽ có bao nhiêu người sống sót khi về đến trại? Bao nhiêu người sẽ làm mồi cho chó sói? Bao lâu nữa thì họ biết là thấy thiếu anh?
    Wladek ngồi trong buồng vệ sinh thêm mấy phút nữa, không dám động đậy và không biết bây giờ mình phải làm gì. Bỗng có tiếng đập cửa. Wladek nghĩ ngay, không biết đó là tên ìính gác hay người soát vé? Bao nhiêu hình ảnh diễn ra trong óc anh, mỗi hình ảnh một ghê sợ hơn. Anh thấy cần phải sử dụng buồng vệ sinh một lần xem sao. Tiếng đập cửa vẫn tiếp tục.
    - Nhanh lên, nhanh lên, - một giọng Nga ồm ồm lên tiếng.
    Wladek không chần chừ được nữa. Nếu là một tên lính thì anh sẽ không có lối thoát. Cửa sổ nhỏ thì đến một chú bé tí hon cũng không chui lọt qua được.Nhưng nếu không phải là một tên lính thì việc anh Ở lâu trong này chỉ càng khiến người ta chú ý. Anh cởi bỏ bộ áo tù, cuộn nó lại thành một túm nhỏ rồi vứt ra ngoài cửa sổ. Sau đó lấy ra một chiếc mũ mềm để sẵn trong túi bộ đồ đội lên đầu bị cạo trọc và mở cửa bước ra. Một người đàn ông sốt ruột đẩy cửa bước vào Wladek chưa ra khỏi thì thấy ông ta đã tụt quần ngồi xuống.
    Ra đến hành lang rồi, Wladek thấy mình bơ vơ ghê gớm, lại thêm khiếp sợ đối với bộ đồ lạc hậu mình đang mặc trên người, khác nào như một quả táo nằm giữa đống cam. Anh lập tức lại đi tìm ngay một chỗ nào khác có buồng vệ sinh. Tìm được một chỗ không có người, anh chui tọt ngay vào đó, khóa cửa lại, rồi tháo gỡ mấy tờ bạc 50 rúp giấu Ở trong tay áo ra. Anh giấu trở lại ba tờ, rồi quay ra hành lang. Anh tìm đến một toa nào đông người nhất rồi rúc vào ngồi trong một góc toa. Mấy người ngồi giữa toa đang đánh súc sắc ăn vài rúp Wladek đã quen chơi trò này với Leon Ở lâu đài và lần nào cũng được, nên anh rất muốn nhập vào đám người kia nhưng lại sợ đánh được thì họ chú ý đến mình ngay. HỌ vẫn ngồi đánh rất lâu, và Wladek dần dần nhớ lại những thủ thuật của mình. Anh chợt thấy thèm đem 200 rúp của mình ra mà sử dụng lúc này.
    Một tay chơi bị thua khá nhiều bỗng rút ra và ngồi xuống bên cạnh Wladek, miệng chửi thề.
    - SỐ ông không may rồi, - Wladek lên tiếng. Anh cũng muốn nói lên xem giọng mình thế nào.
    - A, đúng là không may, - tay kia nói. - Ngày nào tớ cũng đánh được với bọn nông dân ấy, nhưng tớ cạn mất tiền rồi.
    - ông có muốn bán cái áo của ông không? - Wladek hỏi.
   Tay chơi này là một trong số ít hành khách trên toa khoác chiếc áo lông cừu dầy đẹp và ấm như vậy.
ông ta nhìn cậu thanh niên.
- Cậu không mua nổi đâu. - Wladek nghe giọng nói của ông ta thì biết là mình sẽ có thể mua được. - TỚ sẽ đòi bảy mươi lăm rúp.
   - Tôi trả ông bốn chục, - Wladek nói.
   - Sáu chục, - tay chơi kia nói.
   - Năm chục, - Wladek nói.
   - Không. Sáu chục là ít nhất thì tớ mới bán được. Chiếc áo này giá hơn một trăm rúp kia đấy, - tay chơi nói.
   - áo cũ rồi, - Wladek nói và nghĩ bụng sẽ lấy tiền trong tay áo ra cho đủ, nhưng rồi anh lại thôi vì sợ làm người ta chú ý đến mình. Anh đành chờ một dịp khác vậy. Wladek không muốn tỏ ra mình có thể mua được chiếc áo. Anh sờ tay vào cái cổ và nói với một giọng khinh khỉnh? - ông bạn ơi, đắt quá đấy. Thôi, năm chục rúp, không thêm một xu nào nữa. - Wladek đứng dậy làm như sắp bỏ đi chỗ khác.
  - Khoan, khoan, - tay chơi kia nói. - TỚ để cho cậu năm chục rúp vậy.
    Wladek móc túi lấy ra tờ bạc năm mươi rúp và tay chơi kia cũng cởi tấm áo đổi lấy tờ bạc đỏ đã cũ. Chiếc áo đối với Wladek quá rộng và dài gần chấm đất, nhưng chính anh đang cần như thế để che bộ đồ bên trong hơi lộ liễu. Anh nhìn tay chơi trở lại chỗ đánh bạc và thấy ông ta lại thua nữa. Từ ông thày mới trước đây, anh đã học được hai điều, đó là: chớ bao giờ đánh bạc trừ phi anh có thủ thuật giỏi và chắc ăn, và khi đã mặc cả đến mức nhất định nào đó thì nên bỏ đi là vừa.
    Wladek bỏ sang ngồi toa khác, trong bụng cảm thấy yên tâm hơn với chiếc áo mới mua được. Anh bắt đầu nhìn ngắm toa tàu đề tìm hiểu. Hình như các toa chia làm hai hạng, hạng phổ thông trong đó hành khách chỉ có đứng hoặc ngồi trên những dẫy ghế gỗ, và hạng đặc biệt trong đó anh rất lạ thấy chỉ có một người đàn bà ngồi mà thôi. Bà ta cỡ trung niên và ăn mặc có vẻ sang trọng hơn mọi hành khách khác trên tà.  Bà ta mặc chiếc áo xanh thẫm và quàng một tấm khăn trên đầu. Wladek nhìn bà ta ngập ngừng. Bà ta mỉm cười, khiến anh yên tâm bước vào trong toa.
   - Tôi ngồi được không?
   - Xin mời, - người đàn bà nhìn anh nói.
   Wladek không nói gì nữa. Anh đề ý nhìn người đàn bà và những đồ đạc chung quanh. Bà ta có nước da nhợt và hơi nhăn nheo, to béo quá khổ, có lẽ vì ăn nhiều. MỚ tóc ngắn và đen, mắt nâu, có thể như đã từng một thời hấp dẫn. Bà có hai chiếc túi to bằng vải để Ở giá trên đầu với một chiếc va-li con để bên cạnh. Mặc dầu đang trong hoàn cảnh nguy hiểm như vậy, nhưng Wladek thấy mình đã mệt quá không chịu nổi nữa. Anh đang nghĩ không biết mình có dám ngủ đi Ở đây không, thì nguời đàn bà lên tiếng.
   - Anh đi đâu?
   - Câu hỏi bất chợt làm Wladek giật mình.
   - Moscow, - anh nói và nín thở.
   - Tôi cũng đi Moscow, - bà ta nói.
   Wladek bắt đầu cảm thấy toa xe nảy vắng vẻ quá và lấy làm chột dạ về điều mình vừa nói ra, dù chỉ là một câu. Anh nhớ là bác sĩ đã dặn: "Chớ nói chuyện với ai. Nhớ đấy đừng có tin ai hết.
    Nhưng Wladek cũng yên tâm thấy bà ta không hỏi gì thêm nữa. Anh vừa cảm thấy thế thì người soát vé đến. Wladek bắt đầu toát mồ hôi, mặc dầu lúc đó thời tiết là hai mươi độ âm. Người soát vé cầm lấy tấm vé của người đàn bà, xé một đoạn rồi trả lại cho bà ta và quay sang Wladek.
    - Vé, anh bạn, - ông ta nói gọn lỏn, bằng một giọng trầm buồn.
   Wladek không biết nói gì, chỉ sờ vào túi áo để tìm ít tiền.
   - Nó là con tôi, - người đàn bà nói ngay.
    Người soát vé quay lại nhìn bà ta, rồi lại nhìn Wladek, cúi đầu chào bà ta rồi bỏ đi không nói câu gì.
Wladek ngước nhìn bà ta.
   - Cảm ơn bà - anh khẽ nói, và không biết làm gì hơn nữa.
   - Tôi đã trông thấy anh chui dưới gầm đoàn xe tù,- người đàn bà bình thản nói. Wladek cảm thấy rụng rời, - Nhưng tôi không tố cáo anh đâu. Tôi cũng có một người anh em họ Ở trong cái trại khủng khiếp ấy, và tất cả chúng tôi ai cũng biết về những trại ấy đều sợ rằng sẽ có một ngày mình phải vào đấy. Anh mặc đồ gì dưới chiếc áo này?
   Wladek định bụng chạy ra ngoài cởi chiếc áo lông, nhưng nếu chạy ra ngoài kia thì trên tàu không còn chỗ nào khác mà trốn được. Anh đành chỉ cời khuy ngoài.
   - Thế này cũng không có gì đáng ngại lắm đâu, - bà ta nói.
   - Vậy còn bộ áo tù anh để đâu?
   - Tôi vứt ra ngoài cửa sổ.
   - Mong rằng họ không tìm thấy nó trước khi anh đến Moscow.
   - Anh có chỗ nào Ở Moscow không?
Anh lại nghĩ đến lời dặn của bác sĩ là đừng có tin ai, nhưng anh nghĩ tin bà này thôi.
Tôi không có chỗ nào cả.
   - Vậy anh có thể Ở với tôi đến khi nào anh tìm được một chỗ khác. Chồng tôi là trưởng ga Ở Moscow, và toa xe này chỉ giành cho những quan chức chính phủ thôi - bà ta giải thích. - Nếu anh lại nhầm một lần như thế nữa thì họ cho anh ngồi xe trở về Irkutsk ngay.
   - Bây giờ tôi có nên đi không? - Wladek hồi hộp.
    - Không, vì người soát vé đã trông thấy anh rồi. Lúc này anh Ở đây với tôi thì được yên. Anh có giấy tờ gì không?
   - Không. Giấy tờ như thế nào?
   - Từ sau cách mạng, mỗi người công dân Nga đều phải có giấy chứng minh để người ta biết mình là ai, Ở đâu làm gì, nếu không sẽ phải ngồi tù cho đến khi có được những giấy tờ ấy. Nếu không có được thì sẽ ngồi tù mãi, - bà ta thủng thẳng nói. - Vậy đến Moscow, anh phải đi sát bên tôi, và nhớ là đừng có mở miệng.
   - Bà đối với tôi tốt quá, - Wladek nói với vẻ ngờ vực
   - Bây giờ Nga hoàng đã chết rồi, trong chúng ta đây chẳng có ai yên thân được đâu. Tôi may mắn mà lấy được một người có thế, - bà ta nói tiếp. - Còn không có người công dân nào Ở nước Nga này, kể cả các quan chức chính phủ, mà lại không sống trong nỗi lo sợ là có thể bị bắt và đưa vào trại giam. Tên anh là gì?
   - Wladek.
   - Tốt. Bây giờ anh ngủ đi, Wladek, vì trông anh mệt mỏi lắm. Đường thì còn rất xa, mà anh thì cũng chưa an toàn được đâu.
    Wladek ngủ ngay.
    Lúc anh tỉnh dậy thì mấy tiếng đồng hồ đã trôi qua nhưng trời bên ngoài đã tối. Anh nhìn người đàn bà đã che chở cho mình, bà ta mỉm cười nhìn lại.
   Wladek thầm mong có thể tin được bà ta, đừng có nói với các quan chức rằng anh là ai. Hay là bà ta đã nói rồi? Bà ta lấy ra ít. thức ăn trong gói đưa cho Wladek. Anh yên lặng ăn. Tàu dến ga sau, hầu hết hành khách bước xuống. Một số xuống hẳn, một số chỉ đề ruỗi chân ruỗi tay, nhưng phần lớn là tìm xem có gì uống được không.
Người đàn bà trung niên đứng dậy nhìn Wladek nói:
   - Đi theo tôi.
   Anh đứng dậy theo bà ta xuống sân ga. Bà ta đem anh nộp lại chăng? Nhưng không, bà ta giơ tay ra và anh cầm lấy tay bà như bất cứ đứa trẻ mười ba tuổi nào đi theo mẹ vậy. Bà đi đến một nhà vệ sinh có chữ để dành cho phụ nữ. Wladek ngập ngừng đứng lại. Bà cứ bảo anh vào. Vào đến bên trong rồi, bà bảo Wladek cời bỏ quần áo ra. Anh ngoan ngoãn nghe theo. Từ sau khi Nam tước qua đời, anh chưa nghe theo ai như vậy. Trong khi anh cởi quần áo, bà mở vòi nước gần đó Một làn nước vừa lạnh vừa đục chầm chậm chảy ra. Bà thấy kinh tởm, nhưng với Wladek thì nước này còn khá hơn nhiều so với nước trong trại giam. Người đàn bà bắt đầu lấy mảnh giẻ ướt lau những vết xây xát trên người anh. Bà nhăn mặt khi trông thấy vết thương xù xì Ở chân. Wladek đau nhưng không xuýt xoa tí nào, và bà lau rất nhẹ.
    - Về đến nhà, tôi sẽ chữa chạy cho anh tử tế, - bà nói. - Còn Ở đây hãy tạm thế này đã.
   Bà trông thấy chiếc vòng bạc Ở tay anh. Bà đọc những chữ trên đó rồi nhìn kỹ Wladek, và hỏi:
   - Cái này có phải của anh không? Anh lấy nó của ai thế ?
Wladek hơi giận.
   - Tôi không lấy của ai. Bố tôi cho tôi trước khi ông chết.
Bà ta lại chăm chăm nhìn anh, nhưng cái nhìn lần này khác. Không biết đó là sợ hay tôn kính? Bà ta cúi đầu nói :
   - Anh phải cẩn thận đấy, Wladek. Người ta có thể giết anh vì cái của quý này đấy.
    Anh gật đầu và bắt đầu mặc vội quần áo vào. Họ quay trở lại toa xe. Tàu chậm lại Ở ga một giờ đồng hồ là chuyện thường. Đến khi đoàn tàu lại bắt đầu lăn bánh, Wladek cảm thấy mừng lại được nghe tiếng bánh xe lạch cạch Ở dưới. Tàu đi mất mười hai ngày rưỡi thì đến Moscow. Khi người soát vé mới xuất hiện, Wladek và người đàn bà lại diễn lại những động tác như cũ Wladek thì tỏ ra còn nhỏ dại và người đàn bà thì tỏ ra một người mẹ. Người soát vé cúi chào người đàn bà trung niên ấy, và Wladek bắt đầu nghĩ rằng Ở nước Nga thì những trưởng ga hẳn phải là những người rất quan trọng.
   Sau khi đã hoàn thành chuyến đi một ngàn dặm đến Moscow, Wladek coi như đã tin hẳn Ở người đàn bà và mong chóng được trông thấy ngôi nhà của bà ta.
   Tàu đến ga vào đầu buổi chiều. Mặc dầu đã trải qua một đoạn đường dài như thế. Wladek vẫn thấy khiếp sợ không hiều rồi tình hình sẽ ra sao. Anh chưa được thấy một thành phố lớn nào bao giờ, nói gì đến thủ đô của toàn nước Nga. Anh cũng chưa được thấy nhiều người như thế bao giờ, và ai cũng đi lại vội vã Người đàn bà hiểu được tâm trạng anh lúc này.
  - Đi theo tôi, đừng nói gì và đừng có bỏ mũ ra.
   Wladek lấy hai cái túi của bà Ở trên giá xuống, kéo chặt cái mũ lên đầu lúc này đã lởm chởm ít tóc đen, rồi bước theo bà xuống sân ga. Một đống người đang nối nhau Ở trước thang chắn để chờ ra khỏi một cánh cửa rất nhỏ.
    Họ ùn lại vì mỗi người phải xuất trình giấy tờ cho lính gác. Bước đến gần cái thang chắn ấy, Wladek thấy tim mình đập thình thình như trống trận. Nhưng đến lượt họ thì nỗi sợ lại tan bỉến đi rất nhanh. Người lính gác chỉ liếc nhìn vào giấy tờ của người đàn bà.
    - Đồng chí, - anh ta nói và giơ tay chào. Rồi nhìn Wladek.
    - Con tôi, - bà nói.
   - À vâng, mời đồng chí. - Anh ta lại chào.
    Thế là Wladek đã Ở Moscow.
     Mặc dầu đã đặt hết lòng tin vào người đồng hành mới này, linh tính đầu tiên của Wladek là muốn bỏ chạy. Nhưag với 150 rúp thì không thể sống được nên anh quyết định hãy chờ đã, để khi nào có dịp sẽ chạy.
Một chiếc xe ngựa đã chờ sẵn Ở ngoài ga để đưa người đàn bà với đứa con mới của bà ta về nhà. ông trưởng ga không có đấy, nên bà đã tranh thủ xếp ngay một cái giường cho Wladek nằm. Rồi bà đun nước đổ vào một chiếc thùng kẽm lớn và bảo anh ngồi vào đó. Đây là lần tắm đầu tiên của anh sau hơn bốn năm, trừ lần hụp xuống sông trước đây. Bà lại đun thêm nước nóng nữa và bảo anh tắm với xà phòng. Bà cọ lưng cho anh. Nước tắm dần dần đục ngầu. Wladek lau khô người rồi, bà bôi thuốc lên chân tay cho anh và băng bó vào những chỗ bị nặng. Bà nhìn vào bộ ngực chỉ có một bên vú và lấy làm lạ. Anh mặc vội quần áo và theobà vào bếp. Bà đã chuẩn bị một bát súp nóng với đậu. Wladek háo hức ăn như ăn tiệc. Hai người không ai nói gì. Anh ăn xong rồi, bà khuyên anh tốt nhất là lên giường ngủ một giấc. .
     - Tôi không muốn cho ông nhà.tôi trông thấy anh trước khi tôi cho ông ấy biết tại sao anh Ở đây - bà giải thích. - Anh có muốn Ở đây với chúng tôi không, Wladek, nếu chồng tôi đồng ý?
Wladek gật đầu cảm ơn.
    - vậy anh đi ngủ ngay đi, - bà nói.



(cont)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 26-2-2012 16:37:38 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9 ( tiếp)

    Wladek nghe lời bà, trong bụng thầm mong ông chồng bà sẽ cho phép anh được ở lại đây. Anh chậm chạp cởi quần áo và trèo lên giường. Người anh đã sạch sẽ lắm rồi, khăn trải giường cũng rất sạch, đệm rất mềm. Anh bỏ chiếc gối lên sàn nhà. Tất cả những tiện nghi đó đều rất mới lạ nhưng anh đã quá mệt rồi nên nằm ngủ thiếp đi từ lúc nào không biết. Mấy tiếng đồng hồ sau, anh bỗng tỉnh dậy vì nghe có tiếng nói to ở trong bếp. Anh không biết là mình đã ngủ được bao lâu. Bên ngoài trời đã tối. Anh bò ra khỏi giường bước đến mở hé cửa và nghe rõ hai người đang nói chuyện trong bếp.
    - Bà thật ngốc, - Wladek nghe một giọng hơi gắt. - Bà không hiểu là nếu họ bắt được thì sẽ rắc rối như thế nào ư Có thể là bà bị người ta tống vào trại giam đấy.
    - Nhưng, Poitr, ông không biết là nó như một con thú bị săn đuổi ấy. - Thế là bà muốn bản thân chúng ta sẽ như những con thú bị săn đuổi chứ gì, - Người đàn ông nói. – Có ai trông thấy nó không?
    - Không, không có ai đâu,   - Người đàn bà nói.
    - Thế thì cảm ơn Chúa. Phải cho nó đi ngay trước khi có ai biết là nó ở đây. Chỉ còn cách đó thôi. - Nhưng đi đâu, Poitr? Nó lạc lõng và không quen biết một ai, - Người đàn bà che chở cho Wladek nói. - Mà tôi thì vẫn mong có đứa con trai.
    - Tôi không cần biết bà muốn gì hay là nó đi đâu. Nó không phải là trách nhiệm của chúng ta, và chúng ta phải tống nó đi cho nhanh chóng.
    - Nhưng, Poitr, tôi nghĩ nó là dòng dõi quý tộc. Hình như bố nó là một Nam tước. Nó có đeo một chiếc vòng bạc ở cổ tay, trên đó có những chữ....
     - Như thế lại càng rắc rối. Bà không biết là các nhà lãnh đạo mới đã ra lệnh như thế nào ư? Không Nga hoàng, không vua chúa, không đặc quyền đặc lợi gì hết. Mà chúng ta cũng chẳng cần phải đến trại giam nữa cơ, các nhà cầm quyền có thể bắn chết mình luôn chưa biết chừng.
     - Chúng ta vẫn mong có đứa con trai, Poitr. Chẳng lẽ chúng ta không dám mạo hiểm chuyện này được ư?
      - Bà mạo hiểm được, nhưng tôi thì không. Tôi bảo nó phải đi và đi ngay.
     Wadek không cần nghe họ nói gì thêm nữa. Anh nghĩ cách duy nhất để đỡ cho bà ta là người đã có ơn với anh là iến hẳn vào đêm tối. Anh vội mặc quần áo vào và nhìn lại chiếc giường, chỉ mong không phải chờ thêm bốn năm nữa mới lại được nằm một chiếc giường như thế Anh đang tìm cách.mở cứa sổ thì cửa ra vào phòng bỗng bật tung và ông trưởng ga bước vào Người ông ta nhỏ bé, không cao hơn Wladek nhưng có cái bụng to và cái đầu hói chung quanh chỉ còn ít sợi bạc chải qua loa tưởng như một bộ tóc giả. ông ta đeo đôi mắt kính không có gọng khiến dưới mỗi con mắt có nét hằn đỏ trũng xuống. Tay ông ta cầm chiếc đèn nến. Ông ta đứng nhìn Wladek. Wladek nhìn lại như thách thức.
      - Đi xuống dưới này, - Ông ta ra lệnh.
      Wladek miễn cưỡng theo ông ta xuống bếp. Người đàn bà đang ngồi khóc bên bàn.
      - Bây giờ chú bé nghe đây nhé - Ông ta nói.
      - Tên nó là Wladek, - Người đàn bà chen vào.
      - Bây giờ chú bé nghe đây, - Ông ta nhắc lại. - Anh sẽ gây ra chuyện rắc rối ở đây, vì vậy tôi muốn anh phải đi khỏi chỗ này và đi càng xa càng tốt.
    Tôi cho anh biết là tôi sẽ làm như thế này để giúp anh nhé.
     Giúp ư? Wladek nhìn ông ta không nói.
     - Tôi sẽ cho anh một cái vé tàu. Anh muốn đi đâu?
     - Odessa, - Wladek nói. Anh không biết nơi đó là ở đâu và đây đến đó hết bao nhiêu tiền. Anh chỉ biết đó là thành phố thứ hai bác sĩ vẽ trên bản đồ để từ đó mà đi đến tự do.
     - Odessa, hừ, nơi sản sinh ra tội ác, thật là một địa chỉ thích hơp đấy, - Ông trưởng ga cười khẩy. - Đến đó thì anh chỉ gặp toàn những người như anh và rắc rối thêm mà thôi.
    - Thế thì đề nó ở lại đây, Piotr. Tôi sẽ chăm nom cho nó, tôi sẽ....
    - Không, không bao giờ. Tôi thà mất tiền cho nó còn hơn.
    -Nhưng làm sao nó đi lọt được? - Người đàn bà van nài.
    - Tôi sẽ cho nó tấm vé và một giấy thông hành đi làm việc ở odessa. - Ông ta quay sang Wladek. - Anh lên tàu đó đi rồi, nếu tôi còn trông thấy anh hay nghe nói đến anh ở Moscoqu, tôi sẽ báo cho người ta bắt và giam anh ở một nhà tù nào gần đây nhất. Rồi người ta sẽ tống anh trở lại cái trại đó ngay, nếu không thì họ cũng bắn anh luôn.
    Ông ta nhìn lên chiếc đồng hồ trên bếp: đã mười một giờ năm phút. Ông ta quay sang phía vợ.
     - Có chuyến tàu đi odessa vào mười hai giờ đêm. Tôi sẽ tự đưa nó ra ga. Tôi muốn biết chắc chắn là nó đã rời Moscoqu rồi. Anh có hành lý gì không?
    Wladek vửa sắp trả lời không thì người đàn bà đã nói ngay:
    - Có để tôi đi lấy cho nó.
    Wladek với ông trưởng ga nhìn nhau hằn học.
     Người đàn bà đi một lúc lâu. Chuông đồng hồ đánh lên một tiếng. Hai người vẫn không ai nói gì. Mắt ông trưởng ga không rời khỏi Wlađek. Bà vợ Ông ta quay lại tay cầm một gói giấy màu nâu có buộc dây cẩn thận Wladek nhìn gói giấy, định lên tiếng từ chối nhưng thấy trong ánh mắt của bà có cái gì như sợ hãi, nên anh chỉ biết nói:
     - Cảm ơn bà.
     - Hãy ăn cái này đi đã, - Bà ta nói và đẩy bát súp nguội đến chỗ anh.
      Anh nghe theo. Mặc dầu bụng anh lúc này vẫn còn đang rất no, nhưng anh cũng ăn bát súp thật nhanh để bà ta khỏi phiền lòng.
     - Súc vật - Người đàn ông nói.
     Wladek ngước nhìn ông ta, mắt đầy căm giận. Anh lấy làm tội nghiệp cho người đàn bà phải sống với một ông chồng như vậy suốt đời.
     - Đi thôi, chú bé, - Ông trưởng ga nói. - Mau kẻo lỡ tàu thì phiền lắm.
     Wladek theo người đàn ông ra khỏi bếp. Anh ngập ngừng một chút khi đi qua chỗ người đàn bà đứng. Anh giơ tay ra và bà ta khẽ nắm lấy tay anh. Không ai nói gì, nhưng có nói cũng không nói được gì. Ông trưởng ga với con người tị nạn ấy vừa đi vừa nấp qua mấy phố tối của Moscoqu và đến ga. Ông ta lấy một chiếc vé đi một lượt đến odessa và đưa cho Wladek.
    -  Còn giấy thông hành của tôi đâu? - Wladek hỏi.
     Ông ta rút ở túi trong ra một tấm giấy, ký vội vào đó rồi kín đáo đưa cho Wladek. Ông ta để ý nhìn quanh xem có thể có gì nguy hiểm không. Trong bốn năm qua, Wladek đã từng trông thấy những đôi mắt giống như của ông trưởng ga này nhiều lần rồi. Đó là đôi mắt của một anh hèn.
     - Đừng để tôi trông thấy anh hay nghe nói đến anh nữa nhé, .- Ông trưởng ga nói. Giọng nói thì ra vẻ hách dịch. Trong bốn năm qua,Wladek cũng đã được nghe những giọng nói như thế nhiều lần.
     Anh nhìn lên ông ta, định nói lại, nhưng ông ta đã đi vào bóng đêm mất rồi. Wladek nhìn vào những người đi qua trước mặt anh. Cũng những đôi mắt sợ sệt như nhau cả. Trên đời này không ai được tự do cả sao? Wladek cắp cái gói giấy nâu vào nách, sửa lại mũ trên đầu rồi bước ra chỗ thang chắn. Lần này, anh cảm thấy tự tin hơn. Anh xuất trình giấy thông hành cho người gác và đi qua không có chuyện gì. Anh trèo lên toa tàu. Thế là anh chỉ được thấy Moscoqu có một lúc ngắn ngủi, Và trong đời anh sẽ chẳng còn bao giờ thấy lại thành phố này nữa. Anh sẽ nhớ mãi lòng tốt của người đàn bà vợ Ông trưởng ga ấy. Đồng chí gì nhỉ.... Anh cũng không biết đến cả tên bà ta nữa.
     Wladek ngồi ở toa thường. Odessa gần Moscoqu hơn nhiều so với irkutsk. Trên bản đồ của bác sĩ, khoảng cách chỉ bằng ngón tay, vậy mà trên thực tế những 800 dặm. Wladek đang nhìn vào chiếc bản đồ sơ sài ấy thì ở đầu toa cũng đang diễn ra một vụ cờ bạc. Anh giấu bản đồ vào trong áo rồi bắt đầu để ý đến chỗ đánh bạc ấy. Anh thấy một người dù chơi thế nào cũng vẫn thắng, không lần nào bị thua cả. Wladek nhìn kỹ một lúc thì hiểu ra anh chàng kia là một tên bịp bợm.
      Anh chuyển sang đứng phía bên kia, đối diện với tên bạc bịp để xem hắn làm ăn thế nào. Nhưng đứng chỗ này khó nhìn nên anh cố chen vào ngồi được bên trong. Anh thi hành một cái mẹo là chờ cho tên bạc bịp giả vờ thua thi anh bỏ tiền vào đó gấp đôi lên cho đến lượt hắn được. Tên bạc bịp không thấy ngay được thủ thuật ấy của anh nên không để ý. Chỉ mãi đến lúc tàu đỗ ở ga sau hắn mới hiểu ra. Wladek đánh được mười bốn rúp. Anh bỏ ra hai rúp mua quả táo và một chén súp nóng. Anh đã kiếm được đủ tiền cho cả chuyến đi xuống đến odessa. Anh thầm nghĩ nếu cứ tiếp tục chơi kiểu này thì sẽ kiếm thêm được ít tiền nữa. Nghĩ thế, anh quay trở lại sòng bạc và sẵn sàng theo đuổi cál mẹo cũ của mình. Nhưng vừa bước vào đến trong toa, anh đã bị đánh một nhát ngã dúi vào góc. Tay bị bẻ quặt ra sau lưng và đầu bi đập vào thành toa. Máu mũi anh chảy ra. Một mũi dao kề vào sau gáy.
    - Mày nghe tao nói không, thằng nhóc?
    - Dạ, - Wladek hoảng sợ đáp.
    - Mày còn quay lại toa này nữa, tao sẽ cắt cái tai này đi, biết chưa? Tao mà cắt tai thì mày không còn nghe được nữa, biết chưa?
    - Vâng ạ, - Wladek nói.
   Wladek cảm thấy mũi dao ấn vào sau mang tai rồi máu bắt đầu chảy xuống cổ.
     - Tao cảnh cáo cho mày biết thế. Một cái đầu gối bỗng thúc mạnh vào bụng anh. Wladek nằm lăn ra sàn tàu. Một bàn tay sục vào mấy túi áo của anh, lấy đi mấy rúp anh vừa kiếm được.
     - Tiền của tao, - Hắn nói.
    Máu vẫn còn chảy ở mũi và ở cổ Wladek. Lúc anh mở mắt ra nhìn lên thì không thấy tên bạc bịp đâu nữa. Anh cố đứng dậy nhưng không đứng được, đành cứ ngồi lại trong góc toa một lúc. Đứng dậy được rồi, anh lê bước ra đầu toa đằng kia, tránh xa chỗ tên bạc bịp chừng nào hay chừng đó. Anh chui vào một toa chỉ có đàn bà trẻ con rồi ngủ thiếp đi.
    Đến ga sau, Wladek không dám xuống tàu. Anh mở gói giấy xem trong đó đựng gì. Hóa ra trong đó có đủ thứ táo bánh mì, lạc, một chiếc sơ mi, một chiếc quần và có cả một đôi giầy nữa. Thật là cả một kho báu. Anh bèn thay ngay những quần áo mới vào người. Ôi, người đàn bà quý hóa quá. Còn ông chồng, sao mà quá đáng thế.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 26-2-2012 16:59:05 | Chỉ xem của tác giả
   Chương 9 (tiếp)

    Anh ăn rồi lại ngủ, lại mơ. Cuối cùng, sau năm đêm bốn ngày, đoàn tàu lừ đừ lăn bánh vào ga odessa. Ở cửa chắn vẫn kiểm soát vé và giấy tờ như cũ Giấy tờ của anh hợp lệ nên tên lính gác không để ý gì hết. Từ lúc này trở đi, anh phải tự do lấy hết. Anh vẫn còn 150 rúp giấu trong tay áo. Anh chưa dám tiêu đi đồng nào vào lúc này.
     Wladek đi lang thang cả ngày trong thành phố để làm quen với đường xá ở đây, nhưng có nhiều cảnh lạ mắt quá nên anh không nhớ được chỗ nào với chỗ nào. Toàn những nhà to, cửa hàng lớn, rất nhiều những người đi bán rong trên đường phố, thậm chí có cả một con khỉ ngồi trên đầu gậy của người bán hàng rong nữa. Wladek cứ đi mãi đến lúc anh ra tới bến cảng và trông thấy biển. À ra đây rồi, đúng cái mà Nam tước gọi là biển đây. Wladek đứng lặng nhìn khoảng mênh mông xanh ngắt. Nơi xa kia là tự do, là trốn thoát khỏi nước Nga. Thành phố này hẳn là vừa trải qua trận chiến ghê gớm, vì còn những căn nhà cháy trụi và nhiều chỗ nhếch nhác, rất không hơp với làn gió biển thơm mát đang thổi vào đây. Wladek không biết trong thành phố còn đánh nhau không. Anh không biết hỏi ai được. Mặt trời đã lặn xuống sau những ngôi nhà cao tầng. Anh phải bắt đầu đi tìm một chỗ nào để ngủ đêm. Wladek đi vào một ngõ bên đường cái Khoác chiếc áo lông dài chấm đất và cắp một gói giấy nâu trong tay, trông anh thật lạc lõng giữa khung cảnh ở đây. Anh không tìm thấy một chỗ nào an toàn được. Lát sau anh ra đến khu đường sắt, thấy có một toa tàu nằm đơn độc một chỗ. Anh ngó nhìn vào bên trong, chỉ thấy tối và yên lặng. Trong toa không có người. Anh quẳng gói giấy lên đó, trèo vào bên trong và chui vào một góc nằm ngủ. Anh vừa đặt mình xuống thì một thân hình đè lên người anh và hai tay ghì chặt lấy cổ họng. Anh hầu như không thở được.
      - Mày là ai? - Giọng một đứa bé gầm lên. Trong bóng tối, anh đoán tên kia không lớn tuổi hơn mình được
      - Wladek Koskiequicz.
       - Mày ở đâu đến?
      - Moscow. - Lúc đó Wladek đã định nói là Slonim.
       - Mày không được ngủ trong toa của tao, dù là mày ở Moscow đến, - Tên kia nói.
      - Xin lỗi, - Wladek nói. - Tôi không biết.
      - Mày có tiền không? - Hai ngón tay cái của tên kia ấn chặt xuống cổ họng anh.
      -  Ít thôi, - Wladek nói.
      - Bao nhiêu? Bẩy rúp.
      - Đưa đây.
     Wladek thọc tay vào túi áo. Tên kia cũng bỏ một tay ra mò vào túi áo khác. Còn một tay hắn bỏ lỏng.
     Wladek chợt dồn hết sức vào đầu gối thúc lên hạ bộ của nó một nhát. Tên kia ôm lấy dái lăn ra. Wladek chồm dậy đánh liên hồi. Tự nhiên tình hình thay đổi hẳn. Tên kia không thể địch lại Wladek. Thế là nằm ngủ trong một toa tàu bỏ hoang chẳng khác nào như một khách sạn năm sao so với những căn hầm và trại giam mà anh vừa trải qua.
    Wladek chỉ ngừng tay khi tên kia đã chịu nằm bẹp xuống sàn tàu, cựa quậy gì được nữa. Hắn phải van xin Wladek.
     Mày ra tít đầu toa kia mà nằm và cứ ở yên đấy,- Wladek nói. - Mày mà động đậy nữa tao giết.
    - Vâng, vâng, - Tên kia cố bò di.
    Wladek theo dõi thấy hắn đã bò đến đầu toa. Anh ngồi nghe động tĩnh một lúc không thấy gì mới từ từ đặt mình xuống sàn toa và lát sau ngủ thiếp đi.
    Lúc anh tỉnh dậy đã thấy mặt trời chiếu qua khe ván của toa tàu. Anh quay người lại và bây giờ mới nhìn thấy rõ tên địch thủ đêm qua. Hắn vẫn nằm co rúm và còn ngủ ở đầu toa đằng kia.
    - Lại đây, - Wladek ra lệnh.
   Tên kia từ từ thức dậy.
    - Lại đây, - Wladek nhắc lại, giọng to hơn trước.
    Tên kia vâng lời ngay. Lần đầu tiên Wladek mới nhìn kỹ được hắn. Hai người chạc tuổi nhau nhưng rõ ràng tên kia cao lớn hơn Wladek một chút, mặt mũi trông trẻ hơn và mớ tóc hắn bù xù.
    - Việc đầu tiên là kiếm cái gì ăn đã, - Wladek nói.
   - Anh theo tôi, - Tên kia nói và nhảy luôn ra ngoài toa. Wladek thất thểu đi theo hắn lên đồi và vào trong thành phố lúc đó đang họp chợ sáng.
   Kể từ sau những bữa ăn tuyệt vời ở chỗ Nam tước đến giờ, anh chưa từng thấy ở đâu có nhiều thức ăn như thế. Các thứ hoa quả, rau cỏ, kể cả thứ lạc mà anh thích, chất đầy trên các ngăn hàng. Tên kia cũng có thể thấy Wladek bị ngợp trước cảnh này.
   Bây giờ chúng mình làm thế này nhé, - Tên kia nói bằng một giọng tin tưởng. - Tôi sẽ đi vào một góc ngăn hàng ăn cắp một quả cam rồi bỏ chạy. Anh sẽ đứng đó và hét thật to: Bắt lấy thằng ăn cắp? Người trông hàng sẽ đuổi theo tôi, thế là lúc đó anh nhặt ngay lấy mấy quả nhét vào túi. Đừng có lấy nhiều, chỉ đủ ăn một bữa thôi. Xong rồi, anh quay lại chỗ này, hiểu chưa nào?
  - Có lẽ thế, - Wladek nói.
    - Để xem dân Moscow như anh có làm được chuyện đó không. - Hắn nhìn anh cười khẩy một cái rồi bước ra. Wladek nhìn theo hắn với một vẻ khâm phục. Hắn đàng hoàng đi vào góc một sạp chợ nhấc lấy một quả trên cả một đống cam cao ngất, nói câu gì đó với người bán hàng rồi thủng thẳng bước đi. Hắn nhìn lại Wladek lúc đó đã hoàn toàn quên cả câu nói "Bắt lấy thằng ăn cắp", nhưng người bán hàng ngửng lên trông thấy vội chạy ra đuổi. Mọi người đang chú ý nhìn theo tên kia thì Wladek vơ quàng lấy ba quả cam, một quả táo và một củ khoai nhét cả vào túi áo ngoài. Lúc người bán hàng đã sắp đến gần tên kia thì hắn ném quả cam trả lại cho ông ta. Người đó đứng lại vừa nhặt quả cam vừa chửi rủa, giơ nắm đấm lên dọa rồi quay lại quầy hàng phàn nàn với những người khách quanh đó.
     Wladek đang có vẻ khoái trá với cảnh vừa rồi thì một bàn tay đã đặt mạnh lên vai. Anh hoảng sợ quay lại tưởng mình bị bắt.
       - Anh có vớ được gì không, anh Moscow, hay chỉ đứng đó xem thôi?.
     Wladek cười và đưa ra ba quả cam, quả táo với củ khoai.
     - Tên kia cũng cười theo. - Tên cậu là gì? - Wladek hỏi.
     - Stephan.
     - Stephan này, mình lại làm một lần nữa đi.
      - Thôi đi anh Moscow, anh đừng tưởng thế là khôn nhé Nếu muốn làm nữa thì phải ra đầu chợ đằng kia và phải chờ ít ra một giờ nữa. Tôi đã chuyên làm ở đây rồi, nhưng anh đừng tưởng là thỉnh thoảng không bị bắt đâu.
     Hai anh chàng lặng lẽ đi ra đầu chợ đằng kia. Stephan đi với một vẻ rất đàng hoàng khiến Wladek nghĩ bụng giá mình không biết thì đã mất hết với hắn rồi. Họ trà trộn vào chỗ những người mua hàng buổi sáng, và khi Stephan cho rằng đã đến lúc thì họ tái diễn hai lần cảnh đã làm lúc trước. Cả hai người đều rất thỏa mãn, quay trở về toa xe bỏ hoang để hưởng những gì đã ăn cắp được: sáu quả cam, năm quả táo, ba củ khoai, một quả -lê, rất nhiều loại lạc với một phần thưởng đặc biệt là quả dưa to. Trước kia Stephan không bao giờ có túi đủ to để cho quả dưa vào đó được Chiếc áo ngoài của Wladek bây giờ mới làm được chuyện ấy.
    - ăn được, - Wladek cắn vào củ khoai và nói.
    - Cậu ăn cả vỏ ư? - Stephan ngạc nhiên nói.
    - Mình đã ở những chỗ được ăn vỏ khoai đã là sang lắm rồi, - Wladek nói.
      Stephan nhìn anh bằng con mắt khâm phục.
      - Vấn đề nữa là chúng ta làm thế nào có. tiền đây?- Wladek nói.
       - Trong một ngày mà cậu muốn có đủ thứ thế ư, hả ông chủ? - Stephan nói. - Nếu cậu định làm ăn to thì phải nhập bọn với đám ở ngoài bến kia, ông Moscoqu ạ.
      - Cậu chỉ cho tớ xem. - Wladek nói.
     Họ ăn hết nửa số quả và giấu chỗ còn lại xuống dưới đống rơm ở góc toa xe, rồi Stephan dẫn Wladek xuống bến chỉ cho anh xem rất nhiều tàu đậu dưới đó. Wladek không tin ở mắt mình nữa. Anh đã được nghe Nam tước kể cho biết về những tàu to chạy xuyên qua các biển lớn đem hàng đến cho nước ngoài, nhưng những chiếc tàu anh được thấy tận mắt đây còn to hơn nhiều so với điều anh tưởng tượng, và chúng đậu thành một hàng dài không thể nhìn thấy hết được.
     Stephan nói làm anh sực tỉnh.
    - Cậu trông thấy chiếc tàu to tướng màu xanh kia không? Nếu muốn làm thì cậu chỉ việc xuống dưới gầm cái ván cầu, nhặt một cái rổ, chất đầy thóc vào đó rồi trèo lên thang và đổ xuống khoang tàu. Cứ bốn chuyến như thế thì cậu được một rúp. Cậu phải đếm cho đúng, không thì cái thằng cầm đầu ấy sẽ bịp và ăn chặn tiền của cậu đấy.
     Cả buổi chiều, Stephan và Wladek làm cái việc vác thóc lên thang. Hai người kiếm được hai mươi sáu rúp. Sau một bữa ăn no nê với số lạc, bánh và hàng ăn cắp được, hai người lăn ra ngủ trong cái toa xe lúc trước.
     Sáng hôm sau Wladek dậy trước và Stephan thấy anh ngồi xem bản đồ.
      - Cái gì thế? - Stephan hỏi.
      - Đây là bản vẽ con đường để tớ chạy ra khỏi nước Nga. - Cậu có thể ở đây và nhập bọn với tớ thì việc gì phải bỏ nước Nga? - Stephan nói. - Chúng mình cùng làm ăn với nhau được chứ!
      - Không, tớ phải đi đến Thổ nhĩ kỳ. Đến đó tớ sẽ được là người tự do lần đầu tiên trong đời. Sao cậu không cùng đi với tớ, hả Stephan?
       - Tớ chả bao giờ có thể bỏ odessa được. Đây là nhà tớ Đường sắt là nơi tớ sống, những người ở đây tớ đã quen biết từ bé đến giờ rồi. Ở đâychẳng hay gì lắm, nhưng có khi ở Thổ nhĩ kỳ còn tệ hơn. Nhưng nếu cậu muốn đi thì tớ sẽ giúp.
    - Tớ làm sao biết được tàu nào đi Thổ nhĩ kỳ? - Wladek hỏi.
     - Dễ thôi, tớ có thể biết tất cả những tàu nào sắp đi đâu Tụi mình sẽ hỏi ông Joe Một Răng ở cuối cầu tàu là biết ngay. Nhưng cậu phải trả ông ấy một rúp.
     - Chắc hai người lại chia nhau chứ gì?
     - Mỗi người một nửa. - Stephan nói. - Cậu học được nhanh đấy, cậu Moscow ạ. - Nói đến đây, hắn liền nhảy ngay ra ngoài toa.
     Wladek chạy theo hắn len lỏi giữa những toa tàu. Anh càng thấy bọn chúng đứa nào cũng nhanh nhẹn, chỉ có mình là phải đi cà nhắc thôi. Đến cuối cầu tàu, Stephan dẫn anh vào một căn lều nhỏ có những đống sách phủ đầy bụi và những bảng giờ tàu đã cũ. Wladek không nhìn thấy ai, nhưng bỗng có tiếng nói từ đằng sau đống sách:
    - Chúng mày muốn gì thế? Tao không có thì giờ đâu nhé.
    - Hỏi một tí cho anh bạn tôi đây, Joe. Chuyến tàu sang sắp tới đi Thổ nhĩ kỳ là bao giờ đấy?
    - Bỏ tiền ra đã, - Một ông già thò đầu từ phía sau đống sách nói. Mặt mũi ông rõ ra một người đã trải qua nhiều nắng gió. Đầu đội mũ lính thủy. Đôi mắt đen nhìn xoáy vào Wladek.
    - Ông ấy là người đi biển giỏi lắm nhé, - Stephan nói thầm với Wladek nhưng đủ để Joe nghe thấy.
    - Đừng nói lôi thôi, mày. Rúp đâu?
     - Ông bạn tôi cầm tiền, - Stephan nói. - Wladek, -cậu đưa đồng rúp cho ông ấy.
      Wladek lấy ra đồng tiền. Joe cắn thử vào đồng tiền xem có thật không, rồi đi ra tủ sách rút lấy một bảng giờ tàu màu xanh rất to. Bụi bay tứ tung. Ông ta vừa ho vừa lật mấy trang trong đó, đưa ngón tay sần sùi dò tìm các tên tàu.
    - Thứ năm sau tàu Renaska sẽ đến lấy than, rồi có lẽ đi vào thứ bảy. Nếu nó lấy được nhanh thì có thể đi vào đêm thứ sáu để đỡ tiền thuê cảng. Nó sẽ đậu ở cảng mười bảy.
     - Cảm ơn ông Một Răng nhé, - Stephan nói. - Để tôi xem có thể dẫn vài ông bạn giàu đến đây được không.
     Joe Một Răng giơ nắm đấm lên chửi, còn Stephan với Wladek kéo nhau chạy ra ngoài.
     Trong ba ngày sau đó, hai anh chàng lại tiếp tục đi ăn cắp lương thực, khuân vác thuê và lăn ra ngủ. Đến hôm thứ năm tuần sau đó, chiếc tàu Thổ' nhĩ. kỳ đến cảng thì Stephan hầu như đã thuyết phục được Wladek ở lại odessa. Nhưng cuối cùng vì nỗi sợ hãi đối với người Nga ám ảnh Wladek nên anh thấy cuộc sống mới với Stephan dù sao cũng không thể hấp dẫn anh hơn được nữa.
      Họ đứng trên cầu tàu nhìn con tàu mới đến đậu ở cảng mười bảy.
     - Mình làm thế nào lên tàu được? - Wladek hỏi.
     - Dễ thôi, - Stephan nói, - Sáng mai mình sẽ nhập bọn với đám người khuân vác. Tớ sẽ đi sát ngay sau cậu. Chờ lúc nào than đổ gần đầy thì cậu nhảy ùm ngay xuống đó, tìm chỗ trốn, còn tớ thì nhặt cái giỏ của cậu và quay ra phía bên kia.
     - Rồi cậu lĩnh luôn cả phần tiền của tớ chứ gì, - Wladek nói.
      - Tất nhiên, - Stephan đáp. - Tớ có sáng kiến thế thì phải được thưởng tiền chứ, nếu không thì ai người ta còn tin ở chuyện làm ăn tự do được nữa?
    Sáng hôm sau, họ nhập hội với đám khuân vác than. Họ lên lên xuống xuống trên chiếc ván cầu đồ than, nhưng than đổ xuống mãi chỉ thấy lọt thỏm. Cho đến tận chiều tối mà vẫn chưa được nửa khoang. Đêm đó, hai người ngủ thật say. Rồi lại đến sáng hôm sau nữa, họ tiếp tục khuân vác cho đến giữa buổi chiều thì khoang tàu chở than mới gần đầy. Stephan đá vào gót chân Wladek làm hiệu.
    - Lần sau nhé, cậu Moscow, - Hắn nói.
    Lên đến đầu ván cầu, Wladek đổ thúng than của mình xuống, bỏ lại cái thúng trên cầu tàu, vịn vào lan can và nhẩy xuống đống than. Stephan nhặt cái thúng của Wladek lên rồi tiếp tục đi sang phía bên kia, vừa đi vừa huýt sáo.
     - Tạm biệt anh bạn nhé, - Stephan nói. - Và chúc cậu may mắn với bọn Thổ vô đạo nhé.
    Wladek ép người vào góc khoang tàu và nhìn đống than tiếp tục đổ xuống bên cạnh mình. Bụi than bay mù lên, vào cả mũi mồm, chui cả vào phổi và vào mắt anh. Anh cố gắng chịu đau không dám ho lên, sợ thủy thủ trên tàu nghe thấy. Đúng đến lúc anh thấy không thể nào chịu được cái không khí ngột ngạt, đã định quay lên với Stephan để rồi sau này tìm cách khác mà trốn thì người ta đóng cửa khoang lại. Wladek được thể, ho ran một hồi.
      Một lúc sau, anh thấy có cái gì như cắn vào gót chân. Anh rùng mình nhìn xuống xem là cái gì, hóa ra đó là chuột rất to. Anh cầm cục than nén vào con vật khủng khiếp ấy, nhưng nó vừa chạy đi thì con khác, rồi lại con khác nữa kéo đến. Con sau còn mạnh bạo hơn, leo cả lên chân anh. Không biết nó ở đâu ra. Vừa to, vừa đen sì và rất đang đói ăn. Anh cúi xuống nhìn kỹ. Lần đầu tiên trong đời Wladek thấy chuột có mắt đỏ. Anh vội trèo lên đống than và cố mở cái nắp trên cửa khoang. ánh nắng rọi vào và lũ chuột chui tọt xuống hầm dưới. Anh định trèo ra ngoài, nhưng con tàu vừa ra khỏi bến cảng. Anh hoảng sợ, lại rút vào trong khoang. Nếu như con tàu này buộc phải quay lại và giao Wladek cho nhà cầm quyền thì anh biết chắc mười mươi là sẽ phải trở về trại giam 201 bọn Bạch Nga mà vĩnh viễn không bao giờ ra khỏi được nữa. Anh đành ở lại với lũ chuột. Anh vừa đậy cái nắp vào là chúng lại kéo đến. Anh phải nhặt than ném liên tiếp vào chúng, nhưng con này vừa đi thì con khác lại xuất hiện. Chốc chốc anh phải hé mở cái nắpcho ánh sáng lọt vào, vì chỉ có ánh sáng mới là đồng minh duy nhất giúp cho anh có thể xua lũ chuột đi được.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 26-2-2012 17:17:22 | Chỉ xem của tác giả

    Suốt hai ngày ba đêm Wladek phải vật lộn chiến đấu với lũ chuột, không được một lúc nào ngủ yên với chúng. Cuối cùng khi con tàu đến cảng Constantinople và người ta mở nắp khoang ra thì Wladek đen kịt suốt từ đầu đến chân, còn từ đầu gối xuống đến ngón chân thì đầy những máu, Thủy thủ trên tàu kéo anh ra khỏi đống than. Wladek cố đứng dậy, nhưng rồi lại ngã gục xuống trên boong tàu.
    Lúc Wladek tỉnh lại - Anh không biết mình ở đâu và sau đó bao lâu - Thấy mình nằm trên chiếc giường trong một căn phòng nhỏ, có ba người mặc áo dài trắng đứng chung quanh đang nhìn anh rất kỹ, và họ nói một thứ tiếng gì đó anh chưa từng nghe thấy bao giờ Trên thế giới này có bao nhiêu thứ ngôn ngữ nhỉ? Anh nhìn lại mình, vẫn còn đen kịt và đầy những máu me. Anh định ngồi dậy thì một trong ba người mặc áo trắng, nhiều tuổi nhất và có bộ râu dê trên khuôn mặt gầy nhỏ, lại đẩy anh nằm xuống. Ông ta nói với Wladek bằng một thứ tiếng gì lạ lắm. Wladek lắc đầu ông ta lại nói tiếng Nga. Anh vẫn lắc đầu. Anh biết là nếu mình trả lời bằng tiếng đó thì lập tức bị đưa về chỗ cũ ngay. Thứ tiếng sau đó ông bác sĩ thử nói là tiếng Đức. Wladek biết rằng mình còn giỏi hơn ông ta về tiếng này.
    - Anh nói được tiếng Đức?
     - Vâng. A, thế ra anh không phải người Nga?
     - Không.
     - Vậy anh làm gì ở Nga?
      - Tôi trốn.
     - À ra thế. - Ông ta quay lại nói với những người kia bằng thứ tiếng của mình, rồi ba người đi ra ngoài.
     Một cô y tá bước vào lau sạch người cho Wladek, mặc cho anh kêu đau. Cô ta buộc thuốc vào chân cho anh, rồi bỏ anh nằm đó ngủ tiếp. Lần thứ hai Wladek tỉnh dậy thấy chỉ có mỗi mình anh trong phòng. Anh nhìn lên trần nhà trắng toát, suy nghĩ xem sẽ làm gì.
      Anh vẫn không biết được mình đang ở xứ nào. Anh trèo lên bệ cửa sổ nhìn ra ngoài. Anh thấy có một cái chợ, không khác gì lắm với chợ Ở odessa, chỉ trừ có những nguời ở đây mặc áo dài trắng và da dẻ họ thẫm hơn. Họ cũng đội những chiếc mũ có nhiều màu, trông những chậu hoa con ở trên đầu, còn chân thì đi dép. Đàn bà thì mặc toàn đồ đen, cả đến mặt họ cũng che kín chỉ chừa hai con mắt cũng đen. Wladek nhìn họ đi lại tấp nập trong chợ, nhìn các bà mua bán, và anh cảm thấy có lẽ ở xứ nào thì cũng chỉ là như vậy thôi.
      Lát sau anh nhìn thấy bên cạnh cửa sổ có chiếc thang đỏ bằng sắt gắn vào tường và xuống đến tận đất Anh bước xuống và khẽ ra mở cửa, ngó nhìn hành lang bên ngoài. Mọi người đi đi lại lại nhưng không ai để ý gì đến anh. Anh lại khẽ đóng cửa vào, tìm ra mấy thứ đồ vật của anh trong ngăn tủ ở góc phòng rồi vội mặc quần áo vào. Wần áo của anh vẫn còn bám đầy than, cọ sát vào da thịt anh lúc này đã được rửa ráy sạch sẽ. Anh quay trở ra cửa sổ. Cánh cửa sổ mở rất dễ. Anh bám lấy thang vịn chữa cháy nhảy ra ngoài cửa sổ rồi theo cái thang sắt xuống đến đất. Điều đầu tiên là anh thấy nóng, nóng hết sức. Anh chỉ muốn mình đừng khoác cái áo lông nặng nề này nữa.
      Xuống đến đất, Wladek đã định chạy ngay, nhưng đôi chân anh còn yếu và rất đau nên chỉ có thể đi được chậm. Anh ước gì mình thoát được cái cảnh cà nhắc này. Anh không quay lại nhìn bệnh viện nữa mà đi lẫn vào đám đông trong chợ.
     Wladek nhìn vào những thứ bầy trên quầy hàng mà thèm. Anh định mua một quả cam và ít lạc. Anh lần tìm trong áo, nhớ là tiền còn giấu ở trong tay áo. Nhưng anh không thấy gì, và cả đến chiếc vòng bạc cũng không còn nữa. Ra những người mặc áo trắng trong bệnh viện đã lấy mất của anh rồi. Anh định quay lại bệnh viện đòi cái di sản ấy những nghĩ bụng phải ăn một cái gì đã, rồi có đi đâu mới đi được. Có lẽ trong túi còn tiền. Anh sục tay vào các túi bỗng thấy cả ba tờ bạc và một ít tiền đồng. Cả tấm bản đồ của bác sĩ và chiếc vòng bạc cũng còn trong đó. Wladek vui mừng hết sức. Anh đeo lại chiếc vòng bạc vào tay và kéo nó lên tận trên khuỷu tay.
     Wladek chọn lấy một quả cam to nhất với một gói lạc Người bán hàng nói cái gì đó anh không hiểu. Wladek nghĩ cách dễ dàng nhất để ông ta hiểu được ìà đưa ra tờ bạc 50 rúp. Người bán hàng nhìn vào tờ giấy bạc, cười và giơ hai tay lên trời.
    - Lạy Thánh Allah? - Ông ta kêu lên, giằng lấy gói lạc và cam trong tay Wladek rồi giơ ngón tay trỏ xua anh đi. Wladek buồn rầu bước ra ngoài. Anh nghĩ là có lẽ tiếng nói khác thì phải dùng thứ tiền khác. Ở Nga thì nghèo, còn ở đây thì anh không có một xu nào. Có lẽ anh phải ăn cắp một quả cam thôi, Nếu sắp bị bắt thì vứt trả lại cho người bán hàng. Wladek đi ra đầu chợ đằng kia như kiểu Staphan đã làm, nhưng anh không bắt chước được kiểu đi đàng hoàng và tin tưởng như Stephan. Anh chọn quầy hàng cuối cùng, và liếc nhìn thấy không có ai trông hàng, anh vội nhặt một quả cam rồi bỏ chạy. Bỗng có tiếng ồn ào phía sau. Anh tưởng như có đến nửa thành phố này đang đuổi theo mình.
     Một người to lớn nhẩy đến túm lấy Wladek vật xuống đất. Sáu bảy người nữa nắm lấy anh kéo trở lại quầy hàng. Một đám đông xúm lại chung quanh. Một viên cảnh sát đứng đó chờ. Người ta làm biên bản. Người bán hàng với viên cảnh sát to tiếng với nhau. Viên cảnh sát quay sang quát tháo với Wladek, nhưng anh chẳng hiểu ông ta nói gì. Viên cảnh sát nhún vai rồi lấy tai Wladek dẫn đi. Những người chung quanh đó nhìn anh quát mắng. Một số người còn nhổ vào mặt anh. Về đến trạm cảnh sát, Wladek bị tống xuống một gian xà lim chật hẹp trong đó đã có sẵn vài ba chục những tên lưu manh ăn cắp mà anh không biết ai vào ai nữa. Wladek không nói năng gì với chúng, và bọn chúng cũng có vẻ không muốn nói gì với anh. Anh ngồi dựa lưng vào tường, co rúm người lại, im lặng và khiếp sợ. Họ để anh ngồi đó một ngày một đêm không cho ăn uống gì. Ngửi mùi hôi thối trong xà lim khiến anh nôn mửa hết không còn gì trong bụng. Anh không thể ngờ rằng lại có một ngày mà ngay cả đến những căn hầm ở Slonim cũng còn yên ấm dễ chịu hơn.
     Sáng hôm sau có hai người línhh gác đến kéo Wladek ra khỏi nhà hầm để ra bên ngoài cùng xếp hàng với nhiều tù nhân khác. Họ bị buộc vào với nhau bằng một sợi dây thừng vòng quanh ngực rồi đưa ra phố. Một đám đông người đã đứng chờ sẵn ở đây. Họ reo hò khi thấy tù nhân được dẫn ra. Rồi họ kéo theo đoàn tù ra chợ, vừa vỗ tay vừa hét. Wladek không hiểu tại sao họ làm như vậy. Ra đến chợ, tất cả dừng lại Tên tù đầu tiên được cởi trói? và dẫn ra giữa chợ: ở đây đã có hàng trăm người đứng chung quanh, và ai cũng hò hét rầm trời.
     Wladek nhìn quang cảnh mà không thể tưởng tượng được. Khi tên tù đầu tiên ra đến quảng trường, hắn bị tên lính gác đánh cho quỳ xuống rồi bàn tay phải của hắn bị buộc lên một cục gỗ to. Một người khác to lớn giơ cao lưỡi kiếm lên khỏi đầu và chặt xuống cổ tay tên tù đó. Người kia chỉ chặt vào đúng mấy đầu ngón tay. Tên tù hét lên đau đớn. Người kia lại giơ cao lưỡi kiếm lên. Lần này chặt vào đúng cổ tay, nhưng bàn tay chưa đứt hẳn, còn lủng lẳng ở cánh tay tên tù và. máu tuôn xuống mặt đất. Lưỡi kiếm lại giơ lên lần thứ ba và lần này thì bàn tay của tên tù rụng hẳn xuống đất. Đám người chung quanh rồ lên tán thưởng. Tên tù được cởi dây trói và lăn ra đó, ngất đi. Một tên lính gác đến kéo hắn ra ngoài, vứt dưới chân đám người đứng đó. Một người đàn bà khóc lóc, - Wladek đoán đó là vợ anh ta - Và vội lấy một mảnh vải ra buộc cho cầm máu. Tên tù thứ hai đã chết luôn sau nhát kiếm thứ tư. Tên đao phủ to lớn kia không quan tâm đến chuyện ai sống ai chết. Hắn chỉ vội vã làm nhiệm vụ của hắn. Hắn được trả lương để chuyên chặt tay những người khác.
     Wladek nhìn ra chung quanh mà khiếp sợ đến nghẹt thở. Giá như còn cái gì trong bụng thì anh cũng đến nôn ra hết. Anh quay ra các phía xem có ai cứu giúp hoặc có cách gì trốn được. Không ai nói cho anh biết là theo luật của Hồi giáo, nếu định chạy trốn thì sẽ bị chặt chân. Trong các khuôn mặt đứng trong đám đông, anh nhìn ra một người ăn mặc bộ đồ sẫm như kiểu Châu âu. Người đó đứng cách Wladek chỉ độ vài chục mét và rõ ràng là ông ta nhìn cảnh này với một thái độ kinh tởm. Nhưng ông ta không nhìn về phía Wladek, cũng không nghe tiếng anh gào lên kêu cứu mỗi khi có nhát kiếm hạ xuống. Không biết ông ta là người Pháp, hay Đức, hay Anh, hoặc có thể là Ba-lan nữa? Wladek không biết ông ta là người nước nào nhưng hẳn phải có lý do gì mới đứng xem cái cảnh rùng rợn này. Wladek vẫn cứ nhìn về phía ông ta, chỉ mong ông ta quay ra nhìn về phía mình. Nhưng không, ông ta vẫn nhìn đi chỗ khác. Wladek còn một bên tay không bị trói giơ lên vẫy nhưag ông ta không để ý Họ cởi trói người thứ hai đứng trước Wladek và kéo anh ta đi. Lưỡi kiếm lại vung ìên đám đông lại reo hò. Người đàn ông mặc bộ đồ sẫm quay mặt đi không dám nhìn. Wladek lại giơ tay vẫy ông ta lần nữa.
     Ông ta nhìn Wladek rồi quay sang nói với người bên cạnh mà Wladek từ nãy không để ý thấy. Lúc này tên lính gác đang giằng co với một tù nhân đứng trước Wladek. Anh ta đặt bàn tay tù nhân xuống dưới sạp. Lưỡi kiếm vung lên và chỉ một nhát là bàn tay đó rụng. Đám đông thấy thế thất vọng. Wladek lại quay lại nhìn mấy người châu âu kia. Lúc này cả hai người đó đều nhìn anh. Anh muốn họ bườc đến, nhưng họ chỉ đứng đó nhìn.
    Tên lính gác bước đến, vứt chiếc áo 50 rúp của Wladek xuống đất, mở khóa và xắn tay áo của anh lên. Hắn lôi Wladek đi nhưng anh cố giẫy giụa. Anh không đủ sức cưỡng lại tên lính. Ra đến gần cục gỗ, hắn đá vào khoeo chân cho anh quỳ xuống đất. Sợi dây da lại được quấn vào cổ tay anh. Anh không còn biết làm gì nữa, chỉ nhắm mắt lại trong khi tên đao phủ giơ cao lưỡi kiếm lên trên đầu hắn. Anh hồi hộp chờ đợi nhát kiếm hạ xuống, nhưag tự nhiên thấy trong đám đông im lặng hẳn đi, và chiếc vòng bạc của Nam tước từ trên khuỷu tay anh rơi tụt xuống lăn trên cục gỗ. Đám người chung quanh im lặng nhìn chiếc vòng bạc di sản kia óng ánh dưới nắng. Tên đao phủ ngừng lại, bỏ kiếm xuống và ngắm nghía chiếc vòng bạc. Wladek mở mắt ra. Tên lính đứng đó định lồng chiếc vòng bạc trở lại cổ tay Wladek, nhưng còn vướng sợi dây da nên không kéo lên được. Một người mặc quân phục ở đâu vội chạy đến bên tên đao phủ. Anh ta cũng nhìn vào chiếc vòng bạc với nhưng chữ viết trên đó rồi chạy đến một người khác, có lẽ là cấp chỉ huy, vì người đó cũng đang chầm chậm bước đến chỗ Wladek. Thanh kiếm vẫn nằm trên mặt đất. Đám đông lại bắt đầu gào hét. Tên lính thứ hai cũng định kéo chiếc vòng bạc lên nhưng không được vì muốn thế thì hắn phải cởi sợi dây da mới được. Hắn quát mấy tiếng vào mặt Wladek, nhưng anh không hiểu gì và chỉ đáp lại bằng tiếng Ba-lan:
     - Tôi không nói được tiếng của ông.
   Tên sĩ quan tỏ vẻ ngạc nhiên, giơ hai tay lên trời và hét ìên một tiếng:
    - Allah!
     Wladek nghĩ có lẽ đó cũng giống như câu "Lạy Chúa". Tên sĩ quan bước đến chỗ hai người mặc bộ đồ Châu âu đứng trong đám đông và hoa tay múa chân một lúc. Wladek thầm cầu nguyện. Trong hoàn cảnh này, người ta cầu nguyện bất cứ thần linh nào, dù đó là thánh Allah hay là Đức mẹ đồng trinh. Hai người Châu âu nhìn về phía Wladek và Wladek cũng gật đầu rối rít. Một trong hai người đó bước theo tên sĩ quan Thổ Nhĩ Kỳ đến chỗ anh. Người đó quỳ một chân xuống bên cạnh Wladek, nhìn chiếc vòng bạc rồi nhìn anh rất kỹ. Wladek chờ đợi. Anh có thể nói chuyện được bằng năm thứ tiếng, và anh thầm mong ông ta sẽ nói một trong năm thứ tiếng ấy. Khi nghe thấy người âu Châu đó quay sang nói với tên sĩ quan kia bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ thì anh thất vọng. Đám đông lúc này đang rít lên và ném những quả thối vào phía trong. Tên sĩ quan kia gật đầu rồi người âu Châu quay sang nhìn Wladek.
    - Anh nói được tiếng Anh không?
    Wladek thở dài nhẹ người.
    - Thưa ông có. Tôi nói được. Tôi là công dân Ba-lan.
    - Tại sao anh có được chiếc vòng bạc ấy? Nó là của cha tôi, thưa ông. Cha tôi chết trong nhà tù của người Đức ở Ba lan, còn tôi thì bị bắt và tống giam vào một trại tù ở Nga. Tôi đã trốn được và đến đây bằng tàu thủy. Đã nhiều ngày nay tôi không được ăn uống gì. Khi người bán hàng không chịu bán cho tôi quả cam bằng tiền rúp, tôi phải lấy một quả vì tôi đói quá rồi.
     Người Anh từ từ đứng dậy, quay sang phía tên sĩ quan và nói với một giọng cứng rắn. Tên sĩ quan lại nói với tên đao phủ. Tên đao phủ ngập ngừng một chút, nhưng tên sĩ quan gắt lên hắn mới cúi xuống miễn cưỡng tháo sợi dây da. Wladek lại nôn ọe.
   - Đi theo tôi, - Người Anh nói, - Đi mau lên, kẻo họ thay đổi ý kiến.
    Wladek vẫn còn hoang mang chưa hiểu, vội vớ lấy chiếc áo rồi đi theo ông ta. Đám đông đứng ngoài la ó kêu hét và ném theo các thứ họ có sẵn trong tay. Tên đao phủ nhanh chóng đặt bàn tay một tù nhân khác lên cục gỗ, rồi bằng nhát kiếm đầu hắn chỉ chặt đi một ngón tay cái thôi. Hình như chỉ có cách đó mới làm yên được đám đông.
    Người Anh lách qua được đám đông nhốn nháo ra đến ngoài quảng trường, và người bạn cùng đi với ông ta cũng ra theo.
    -  Chuyện gì thế, Edquard?
   -  Chú bé này này nó là người Ba-lan và trốn khỏi nước Nga. Tôi nói với tên sĩ quan trong kia bảo nó là người Anh, vì vậy nó thuộc thẩm quyền của chúng ta. Bây giờ hãy đưa nó về sứ quán rồi tìm hiểu xem nó có nói thật hay không.
     Wladek chạy theo giữa hai người rảo bước qua chợ và đi vào phố Bẩy ông Vua. Anh vẫn còn nghe loáng thoáng tiếng người trong đám đông mỗi khi lưỡi kiếm của tên đao phủ hạ xuống lại reo hò tán thưởng.
     Hai người Anh đi qua một cái cổng cuốn vào một mảnh sân rải sỏi và đến trước một ngôi nhà lớn quét sơn màu xám. Họ bảo Wladek đi theo. Trên cửa có tấm biển đề ĐẠi SỨ QUÁN ANH. Bước vào trong nhà rồi, Wladek mới cảm thấy an toàn. Anh đi theo sau hai người qua một dãy hành lang dài trên tường có treo những bức tranh vẽ lính và thủy thủ ăn mặc rất lạ. Ở cuối hành lang là bức chân dung một người già trong bộ quân phục màu xanh của Hải quân và trên ngực đeo rất nhiều huân chương. Bộ râu của nglrời đó khiến Wladek nhớ đến Nam tước. Một người lính ở đâu bước ra chào.
    - Ông cai Smithers, ông nhận lấy chú bé này, cho nó đi tắm. Rồi cho nó ăn ở trong bếp. Bao giờ nó ăn xong và đỡ cái mùi hôi thối thì ông kiếm cho nó vài cái quần áo mới rồi dẫn nó lên chỗ tôi nhé.
    - Thưa vâng, - Ông cai nói và lại giơ tay chào.
    - Cậu bé, đi theo tôi. - Ông ta bước đi và Wladek ngoan ngoãn theo sau. Anh phải chạy mới theo kịp bước chân ông ta được. Ông ta đưa anh xuống tầng hầm sứ quán và dẫn vào một căn phòng nhỏ, có cửa sổ bé tí. Ông ta bảo anh cởi quần áo ra rồi chờ đó. Lát sau ông ta quay lại với mấy chiếc quần áo mới, nhưng thấy Wladek vẫn mặc nguyên quần áo và ngồi ở cạnh giường xoay xoay chiếc vòng bạc quanh cổ tay.
     - Nhanh lên cậu bé. Đây không phải chỗ dưỡng bệnh nhé.
    - Xin lỗi ngài ạ. - Wladek nói.
    - Đừng gọi tôi là ngài. Tôi là ông Cai Smithers. Gọi tôi là Cai thôi.
    - Dạ, tôi là Wladek Khônggkiequicz. Ông gọi tôi là Wladek
       - Này, đừng có đùa. Trong quân đội Anh đã có khối người đùa rồi, không cần phải có thêm cậu vào đấy nữa. Wladek không hiều ông ta nói gì. Anh vội cởi quần áo.
     - Theo tôi nhanh lên.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách