Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 16351|Trả lời: 91
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám] Dream Man (Tội Ác Trong Mơ) | Linda Howard (#5 Top 100 Romances)

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Dream Man
(Tội Ác Trong Mơ)


  


Tên tác giả: Linda Howard
Tên dịch giả: Orkid ( e-thuvien.com )
Thể loại: tiểu thuyết (lãng mạn - trinh thám)
Tình trạng sáng tác: đã hoàn thành
Nguồn tác phẩm: http://e-thuvien.com/forums/showthread.php?t=33543
ebook: http://e-thuvien.com/forums/showthread.php?t=34256


Giới thiệu nội dung:

Sẽ ra sao nếu bạn không chỉ cảm nhận được những cảm xúc của người khác mà còn phải trải qua nó như thể chúng là những cảm xúc của chính bạn? Marlie Keen đã có món quà – lời nguyền đó từ khi còn là một cô bé, nàng đã phải sống với nó, chiến đấu với nó suốt quãng đời thơ ấu cho tới lúc trưởng thành, cho đến một ngày…

Trong lúc cố giúp cảnh sát truy bắt một kẻ chuyên bắt cóc và hãm hại trẻ em, Marlie đã bị cuốn vào vụ án, một kinh nghiệm khủng khiếp đã làm nàng chấn thương trầm trọng về mặt tinh thần, gần như đã giết chết nàng từ bên trong. Marlie mất khả năng ngoại cảm của mình. Nàng trở về với cuộc sống của một con người bình thường, những tưởng sẽ không bao giờ còn phải trải qua câu chuyện hãi hùng đó một lần nữa. Nhưng số phận không cho phép nàng cuộn mình trong vỏ ốc suốt đời, số phận có một kế hoạch khác dành cho nàng, và đến lúc nàng phải lựa chọn giữa sự yên bình của bản thân và sự an toàn của những con người vô tội, Marlie đã lựa chọn ra sao?

Một câu chuyện mang đậm phong cách Linda Howard: hành động hồi hộp kết hợp với tình cảm lãng mạn và không kém phần cảm động.

Top 100 Romances Poll for 1998 (likesbooks.com)
...
#5. Dream Man
Linda Howard
Romantic Suspense
1995

...



warning: 18+


Rate

Số người tham gia 1Sức gió +5 Thu lại Lý do
ngochanh721 + 5 thêm luôn truyện này vào danh sách.

Xem tất cả

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 1-3-2012 20:16:20 | Chỉ xem của tác giả
Chương 1


Khi Marlie Keen rời Cinemaplex cùng với những người đi xem phim khác trong đêm thứ Sáu thì đã là mười một giờ ba mươi. Đó là một bộ phim hay, một phim hài nhẹ nhàng khiến cho nàng cười lớn vài lần và khi hết để lại cho nàng một tâm trạng vui vẻ. Khi nàng đi thẳng tới xe ô tô của mình, nàng nghĩ nàng có thể nói được ai đã xem phim gì bằng cách nhìn vào biểu hiện lúc này của họ. Việc đó không khó lắm; những cặp đôi đang nắm tay nhau, hay thậm chí là trao đổi vài nụ hôn trong khu vực đỗ xe, rõ ràng là đã xem bộ phim tình cảm nóng bỏng. Nhóm những cậu thiếu niên nghịch ngợm đã xem bộ phim kinh dị hành động mới nhất. Hai nhân viên văn phòng trẻ tuổi ăn mặc chải chuốt đang tranh luận sôi nổi đã xem bộ phim Thelma và Louise làm lại gần đây. Marlie mừng là mình đã chọn bộ phim hài.

Chính vào lúc nàng đang lái xe về nhà trên đường xa lộ sáng trưng thì ý nghĩ đó chợt nảy ra: Nàng cảm thấy dễ chịu. Dễ chịu nhất trong hàng năm trời qua. Chính xác là sáu năm.

Trong sự hồi tưởng đầy ngạc nhiên, nàng nhận ra rằng đến giờ nàng đã có được sự bình yên trong vài tháng rồi, nhưng nàng quá mải mê với những công việc đều đặn hàng ngày của cuộc sống êm dịu nàng đã xây dựng được ở đây đến nỗi nàng không hề nhận ra. Trong một khoảng thời gian dài nàng chỉ đơn giản là tồn tại, trải qua các hành động, nhưng thời gian đã hoàn thành công việc chậm rãi của mình và dần dần nàng đã được chữa lành, giống như một người khuyết tật hồi phục lại sau chấn thương mất một chi và đang học cách để thích nghi, rồi lại tận hưởng cuộc sống một lần nữa. Tổn thất của nàng là về mặt tinh thần chứ không phải thân thể, và không giống như một người tàn tật, nàng đã khẩn cần trong suốt những đêm dài đen tối, bất tận của nàng rằng nàng sẽ không bao giờ lấy lại được cái phần đã đánh mất. Vào một thời điểm nào đó trong sáu năm vừa qua, nàng đã ngừng sống trong nỗi sợ hãi rằng sự tiên thị sẽ quay trở lại, và nàng chỉ đơn giản là tiếp tục sống cuộc đời mình.

Nàng thích làm người bình thường. Nàng thích việc có thể đi xem phim giống những con người bình thường vẫn làm, thích việc có thể ngồi trong một đám đông; trước đây nàng đã không thể làm được việc đó. Vài năm trước, khi nàng nhận ra việc đó là khả thi, nàng đã biến thành mọt phim trong một thời gian, ngốn ngấu hết những bộ phim mà nàng cho là an toàn. Trong một thời gian dài nàng không thể chịu được bất kì một cảnh bạo lực nào trên phim, nhưng một hai năm trở lại đây nàng đã có thể xem những cảnh hành động thông thường, mặc dù chúng không phải là thể loại nàng yêu thích. Trước sự ngạc nhiên của chính mình, nàng vẫn không thể xem bất kì một cảnh sex nào: nàng đã nghĩ rằng nàng sẽ cực kì khó đối mặt với bạo lực, có khi còn không thể, nhưng thay vào đó nàng lại gặp khó khăn với những cảnh thân mật. Tiến sĩ Ewell rất thích nói rằng người ta không bao giờ nên đặt cược vào tâm lý con người, và nàng thấy buồn cười khi nhận ra ông ta đã nói đúng. Bạo lực trong đời nàng đã gây thương tổn trầm trọng, trong khi tình dục chỉ là sự khó chịu, nhưng chính những cảnh “tình cảm” lại vẫn khiến nàng phải nhắm chặt hai mắt cho tới khi nó đã qua.

Nàng rời đường cao tốc để tiến vào một con phố bốn làn đường, và tất nhiên phải dừng lại ở chỗ đèn giao thông ở đoạn cuối dốc. Ra-đi-ô đã được chỉnh sang một chương trình dễ nghe và nàng hít thật sâu, cảm nhận tiếng nhạc chậm rãi kết hợp cảm giác khuây khoả của bộ phim trong một trạng thái thân thể thoải mái, dễ chịu –

- con dao bổ xuống, nhá lên mờ mờ. Một tiếng UỴCH khe khẽ, nhớp nháp khi nó đâm tới. Con dao lại giơ lên, đẫm màu đỏ -

Marlie giật lại, một sự phản ứng vô thức của cơ thể chống lại hình ảnh thực tàn khốc vừa nháng qua trí óc nàng. “Không,” nàng khẽ rên lên với chính mình. Nàng có thể nghe thấy tiếng thở của mình, ngắn và hổn hển.

“Không,” nàng lại nói, mặc dù nàng đã biết rằng phản đối chẳng ích gì. Hai bàn tay nàng bám chặt vào tay lái, trắng bệch, và thậm chí như thế cũng không đủ để ngăn cơn rùng mình đã bắt đầu từ bàn chân và truyền lên tận thân trên. Nàng mơ hồ nhìn thấy bàn tay mình bắt đầu run rẩy khi những cơn co thắt tăng lên.

-Niềm vui đen tối, hể hả. Niềm vui đắc thắng. Sự khinh miệt –

Nó lại xảy ra một lần nữa. Lạy Chúa, nó đã quay trở lại! Nàng tưởng rằng nàng đã thoát, nhưng không phải. Sự tiên thị lại đến gần hơn, mạnh hơn, to lớn hơn, và từ kinh nghiệm của mình nàng biết rằng nó sẽ nhanh chóng kiểm soát nàng. Sự phối hợp các giác quan của nàng đã bắt đầu trở nên vụng về, nàng đưa ô tô sang phải, để không chắn lối xuống dốc. Một tiếng còi xe vang lên khi nàng tiến quá gần chiếc xe đằng sau, nhưng âm thanh như từ xa vọng lại, bị nghẹt. Tầm nhìn của nàng mờ đi. Nàng phanh gấp một cách tuyệt vọng và gạt cần số xuống mức dừng đỗ, hi vọng nàng đã kéo được cái xe hoàn toàn ra khỏi làn đường, nhưng rồi hình ảnh ác mộng trở lại, đánh vào nàng với tất cả sức mạnh như lửa hiệu tràn qua nàng để tìm kiếm trước khi ùa vào.

Hai bàn tay nàng yếu ớt đặt trên đùi. Nàng ngồi trong xe nhìn thẳng về phía trước, đôi mắt không chớp, cũng không nhìn, mọi thứ đều tập trung vào bên trong.

Hơi thở của nàng trở nên hổn hển hơn. Những âm thanh thô ráp bắt đầu hình thành trong cổ họng nàng, nhưng nàng không nghe thấy chúng. Bàn tay phải của nàng chầm chậm nâng lên từ trên đùi và cuộn thành một nắm tay, như thể nàng đang nắm cái gì đó. Nắm tay vung mạnh, ba lần, trong một cử động đâm chém cứng ngắc. Rồi nàng lại im lặng, khuôn mặt bất động và vô cảm như mặt tượng, ánh mắt cố định và trống rỗng.

Bình luận

nghe lời nàng, giờ ta đọc cái này trước đây!!!  Đăng lúc 13-10-2012 06:11 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 1-3-2012 20:17:37 | Chỉ xem của tác giả
Chính tiếng động cộc cộc đanh gọn nơi cửa xe đã đem Marlie trở lại. Bối rối và kiệt sức, trong một thoáng sợ hãi nàng không biết nàng là ai, hay đang ở đâu, hay chuyện gì đang xảy ra. Một ánh đèn màu xanh phi thực chiếu vào mắt nàng. Nàng quay cái nhìn sững sờ, ngô nghê sang người đàn ông đang cúi xuống, nhìn qua khung cửa khi anh ta gõ vào nó bằng cái gì đó phát sáng. Nàng không biết anh ta, không biết gì hết. Anh ta là một người lạ, và anh ta đang cố vào trong xe của nàng. Sự hoảng loạn rất mạnh mẽ và đắng nghét trong miệng nàng.

Rồi sự nhận dạng, cầu Chúa phù hộ cho nó, trở lại đột ngột và mang theo cả hiện thực. Cái thứ phát sáng người đàn ông đang dùng để gõ vào lớp kính tự chuyển mình thành chiếc đèn pin. Một mảnh phát sáng trên ngực anh ta trở thành tấm phù hiệu dễ nhận thấy, và anh ta, nhăn nhó và có giọng ra lệnh và mọi thứ, là một cảnh sát. Chiếc xe tuần tra của anh ta, với đèn xanh đỏ nhấp nháy, đang được đậu vuông góc với xe nàng.

Hình ảnh bạo lực vẫn còn quá gần, quá thực tới mức đáng sợ. Nàng biết nàng phải chặn nó lại nếu không nàng sẽ chẳng thể làm được gì hết, và nàng cần kiểm soát lại bản thân. Mối nguy hiểm to lớn nào đó đang rình rập; kí ức nào đó đang gần nhảy lên nhưng chưa hẳn sẽ đọng lại. Nàng tuyệt vọng đẩy đám sương bối rối đi và vụng về kéo cửa kính xuống, đấu tranh để có sức lực hoàn thiện cái hành động đơn giản đó. Sự kiệt sức thấm vào tận xương tuỷ, làm nàng tê liệt, cơ bắp nàng trở nên nhão nhoét.

Không khí ấm áp, ẩm ướt ào vào qua cửa xe. Viên cảnh sát rọi đèn quanh khoang xe của nàng. “Có vấn đề gì ở đây vậy, thưa cô?”

Nàng cảm thấy đầu óc đặc sệt, suy nghĩ rất mơ hồ, nhưng kể cả khi đó nàng vẫn biết là tốt hơn không nên phun ra sự thật. Việc đó sẽ ngay lập tức khiến nàng bị nghi ngờ đang phê thứ ma tuý gì đó, có lẽ là chất gây ảo giác. Phải, đúng là nó. Đó là mối nguy hiểm to lớn mà nàng đã cảm nhận. Một đêm trong tù, đối với một người bình thường đã đủ tệ rồi; đối với nàng, trong những trường hợp thế này sẽ là một thảm hoạ.

Nàng không hề biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua, nhưng nàng biết là chắc trông nàng phải xanh xao và kiệt quệ lắm.

“A… tôi xin lỗi,” nàng nói. Thậm chí giọng nàng cũng run. Nàng tuyệt vọng tìm kiếm một lời giải thích có thể tin được. “Tôi – tôi bị bệnh động kinh. Tôi bắt đầu cảm thấy chóng mặt và đã lái xe ra đây. Tôi nghĩ chắc tôi vừa bị lên cơn nhẹ.”

Ánh đèn pin chiếu vào mặt nàng, ngang qua những đường nét trên mặt. “Làm ơn bước ra khỏi xe, thưa cô.”

Cơn run rẩy trở lại; nàng không biết liệu chân nàng có thể giữ nàng được không. Nhưng nàng bước ra, bám vào cánh cửa để mở. Ánh đèn màu xanh xiên vào mắt nàng, và nàng quay đầu đi khỏi ánh sáng khi đứng như trời trồng trước cái nhìn chằm chặp, một con người đang run như cầy sấy.

“Tôi có thể xem bằng lái xe của cô được không?”

Tay chân nàng trở nên nặng nề. Phải cố gắng lắm nàng mới lấy được cái ví, và nàng làm rơi nó ngay lập tức, những thứ bên trong tung toé một nửa ra sàn xe, một nửa xuống đất. Những thứ vô hại, tạ ơn Chúa; không hề có lấy một lọ aspirin hay một bao thuốc lá nào. Nàng vẫn sợ những loại thuốc mua được tại quầy, thậm chí là sau sáu năm, bởi vì những tác động về mặt tinh thần quá khó đoán.

Bằng cách tập trung hết sức, kiểm soát sự mệt mỏi vô lý, nàng đã có thể nhặt ví của mình lên và lấy tấm bằng lái xe ra. Viên cảnh sát lặng lẽ kiểm tra nó, rồi trả cho nàng. “Cô có cần giúp đỡ không?” cuối cùng anh ta cũng hỏi.

“Không, giờ tôi thấy tốt hơn rồi, t-trừ những cơn r-run rẩy,” nàng nói. Răng nàng va vào nhau vì phản ứng đó. “Tôi sống không xa đây. Tôi về tới nhà được.”

“Cô có cần tôi lái theo sau, để đảm bảo cô về nhà an toàn không?”

“Vâng, làm ơn,” nàng nói một cách biết ơn. Nàng sẵn sàng nói bất kì lời dối trá nào để không bị đưa vào trong một bệnh viện, nhưng điều đó không có nghĩa là nàng đã đánh mất lý lẽ thông thường. Nàng mệt khủng khiếp, hậu chấn còn tệ hơn cả nàng nhớ. Và vẫn còn đó hình ảnh ác mộng – do tiên thị hay là từ kí ức, nàng không thể nói được – mà nàng cần phải đối mặt, nhưng nàng gạt nó ra khỏi trí óc nàng. Nàng không thể để mình nghĩ về nó; ngay bây giờ nàng chỉ được tập trung vào những nhiệm vụ trước mắt, đó là tiếp tục giữ tỉnh táo, đứng thẳng, và hoạt động bình thường, ít nhất cho tới khi nàng về nhà.

Viên cảnh sát giúp nàng nhặt lại đồ đạc, và trong vài phút nàng đã lại ngồi sau tay lái, đi dọc theo vỉa hè, lái xe với sự cẩn trọng khắt khe bởi vì mỗi một cử động đều là cả một nỗ lực. Hai lần nàng bắt gặp mình nhắm mắt, bóng tối của sự vô thức ào tới không cách nào tránh được.

Rồi nàng về tới nhà, rẽ vào lối lái xe. Nàng trèo ra được khỏi xe và vẫy tay với viên cảnh sát. Nàng dựa vào chiếc xe, nhìn anh ta lái đi, và chỉ khi anh ta đã rẽ nàng mới đặt ra cho mình nhiệm vụ đi vào trong nhà. Để phòng xa.

Với hai bàn tay yếu ớt, run rẩy, bất hợp tác nàng quàng quai túi quanh cổ để không làm rớt nó. Sau khi dừng lại một thoáng để tập hợp sức mạnh, nàng đẩy mình ra khỏi xe ô tô về hướng hiên trước. Vì là một cú đẩy, nó thiếu lực khủng khiếp. Nàng lảo đảo như một kẻ say rượu, bước chân loạng choạng, tầm nhìn mờ mịt. Mọi cử động ngày càng trở nên khó khăn hơn khi sự mệt mỏi lớn lên như một vật sống, chiếm lấy những cơ bắp nàng và kéo chúng ra khỏi tầm kiểm soát của nàng. Nàng vươn tới hai bậc thang dẫn lên hiên nhà và dừng ở đó, rung lắc tới lui, ánh mắt mù mờ của nàng nhìn vào hai bậc thang mà bình thường nàng chẳng tốn chút công sức nào. Nàng cố nâng bàn chân lên đủ để bước lên bậc thứ nhất, nhưng chẳng có gì xảy ra. Đơn giản là nàng không thể làm được. Sức nặng ngàn cân đang bám quanh cổ chân nàng, kéo nàng lại.

Nàng bắt đầu rung, một phản ứng quen thuộc khác giống lúc trước, trong cái cuộc đời khác của nàng. Nàng biết nàng chỉ có vài phút để vào trong trước khi hoàn toàn sụp đổ.

Nàng nặng nề quỵ xuống gối, cảm thấy cơn đau tới chỉ như một cảm xúc mơ hồ, xa cách.
(còn tiếp)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 1-3-2012 20:24:00 | Chỉ xem của tác giả
Chương 1 (tiếp)

Nàng có thể nghe thấy tiếng thở gấp gáp, đứt đoạn của mình vọng lại như không thật. Chậm rãi, đau đớn, nàng kéo mình lên hai bậc thang, đấu tranh với từng inch, đấu tranh để giữ bóng tối trong tầm kiểm soát.

Nàng tới được cửa trước. Chìa khoá. Nàng cần chìa khoá để vào nhà.

Nàng không thể nghĩ. Màn sương tối đen trong não nàng làm nàng tê liệt. Nàng không thể nhớ mình đã làm gì với những chiếc chìa khoá. Trong ví chăng? Vẫn còn trong xe? Hay nàng đã đánh rơi chúng? Nàng không thể nào bước trở lại, không thể nào duy trì tỉnh táo được lâu đến thế. Nàng bắt đầu lục lọi trong túi, hi vọng tìm thấy chùm chìa khóa. Đáng lẽ nàng có thể nhận ra nó bằng cách sờ; nó là một trong những vòng tay kéo dãn được, loại có thể trượt vào cổ tay. Nàng có thể cảm thấy kim loại, nhưng nó vẫn ở ngoài tầm tay nàng.

Vòng tay… Nàng đã trượt chùm chìa khoá lên cổ tay. Đó là một thói quen đã ăn sâu vào nàng tới mức hiếm khi nàng nghĩ về nó. Cơn run rẩy tệ hơn; nàng kéo chùm chìa khóa ra khỏi cổ tay nhưng không thể tra nó vào ổ khoá được. Nàng không thể nhìn được, lúc này bóng tối đã gần như bao phủ lên nàng. Nàng tuyệt vọng cố thử một lần nữa, định vị ổ khoá chỉ bằng cách sờ, vét hết gam sức mạnh cuối cùng của nàng tập trung vào nhiệm vụ vô cùng khó khăn là đưa chiếc chìa vào trong ổ khoá… Được rồi! Hổn hển, nàng xoay chìa cho tới khi nghe tiếng clích. Xong. Mở khoá.

Nàng không được quên chìa khoá, không được để chúng trên ổ khoá. Nàng trượt chiếc vòng trở lại cổ tay khi vặn nắm đấm cửa và đẩy cánh cửa mở toang, tránh xa khỏi nàng. Nàng đã phải dựa vào cánh cửa, và khi điểm tựa đó đột ngột mất đi nàng ngã nhào trên khung cửa, nửa người ở trong nửa ở ngoài căn nhà.

Chỉ một chút nữa thôi, nàng khẽ thúc giục bản thân, và lảo đảo bò trên tay và đầu gối. Bò vào đủ gần để đóng cánh cửa. Thế là đủ.

Bây giờ gần như không còn là bò nữa. Nàng kéo mình vào trong, rên rỉ vì nỗ lực, nhưng nàng không nghe thấy âm thanh đó. Cánh cửa. Nàng phải đóng cửa. Chỉ đến khi đó nàng mới để cho mình đầu hàng bóng tối.

Cánh tay nàng yếu ớt vẫy, nhưng cánh cửa ở ngoài tầm với. Nàng ra lệnh cho chân nàng và bằng cách nào đó nó vâng lời, chậm rãi nâng lên, đá – một cú đá rất yếu. Nhưng cánh cửa cũng nhẹ nhàng đóng lại.

Và rồi bóng tối áp đảo nàng.

Nàng nằm bất động trên sàn khi đồng hồ tích tắc chạy hàng giờ. Ánh sáng bình minh màu xám tràn vào căn phòng. Buổi sáng trôi qua được đánh dấu bằng đường đi của ánh sáng, chiếu qua khung cửa sổ, khi nó đi theo bức tường và ngang qua sàn nhà để cuối cùng chiếu vào mặt nàng. Chỉ đến khi đó nàng mới cử động trong một nỗ lực trốn thoát cái nóng, và tình trạng hôn mê sâu chuyển thành một giấc ngủ thông thường.

Khi nàng bắt đầu thức dậy thì đã là chiều muộn. Sàn nhà không phải là nơi ngủ dễ chịu nhất; mỗi sự chuyển vị trí lại khiến các cơ bắp cứng ngắc của nàng phản đối, đẩy nàng về phía tỉnh táo. Những phàn nàn khác của thân thể dần dần lên tiếng, một cái bàng quang kêu gào phản đối là khó cưỡng lại nhất. Nàng cũng thấy rất khát nữa.

Nàng vật lộn bò trên tay và đầu gối, đầu chúi xuống như một vận động viên ma-ra-tông ở cuối chặng đua. Đầu gối nàng bị đau. Nàng hổn hển trước cơn đau buốt nhói, khó hiểu. Có chuyện gì với đầu gối của nàng chăng? Và tại sao nàng lại đang nằm trên sàn?

Nàng mụ mẫm nhìn quanh, nhận ra ngôi nhà an toàn quen thuộc của mình, những đồ đạc ấm cúng của căn phòng khách nhỏ. Thứ gì đó đang quấn quanh nàng, ngăn trở nỗ lực đứng lên của nàng – nàng chiến đấu với hai quai túi xoắn xít và cuối cùng cũng kéo được thứ đó ra khỏi mình, rồi nàng nhăn nhó vì cả nó trông cũng quen thuộc. Túi của nàng. Nhưng tại sao quai túi lại lủng lẳng trên cổ nàng nhỉ?

Không quan trọng. Nàng đang mệt, rất mệt. Thậm chí cả xương nàng cũng như trống rỗng.

Nàng dùng cái ghế gần đó để giữ thăng bằng và từ từ đứng lên. Cái gì đó không đúng trong sự kết hợp các bộ phận của nàng; nàng lảo đảo và lắc lư như một gã say trên đường tới cùng một địa điểm: nhà vệ sinh. Nàng thấy sự so sánh đó hơi buồn cười.

Sau khi đã chăm sóc nhu cầu cấp thiết nhất, nàng lấy một ly nước và tu ừng ực, làm rớt nước xuống cằm trong lúc uống. Nàng không quan tâm. Nàng không thể nhớ được đã từng khát như thế bao giờ. Hay mệt như thế. Đây là lần tệ nhất, thậm chí còn tệ hơn cả sáu năm trước khi –

Nàng đông cứng, và ánh mắt đột ngột trở nên hãi hùng của nàng nhìn thấy hình phản chiếu của mình trong gương. Người phụ nữ đang nhìn lại nàng có khuôn mặt của nàng, nhưng nó không phải là khuôn mặt bình thản thường ngày mà nàng đã quen thuộc. Đó là khuôn mặt của quá khứ, từ sáu năm về trước, từ cái cuộc đời mà nàng đã tưởng, đã hi vọng, rằng mãi mãi kết thúc.

Nàng nhợt nhạt, da căng ra vì căng thẳng. Hai quầng thâm nằm dưới mắt nàng, làm màu xanh dương mờ đi thành một màu xám xịt. Mái tóc nâu sẫm thường ngày rất gọn gàng của nàng đang bám quanh khuôn mặt nàng trong một mớ hỗn độn. Trông nàng già hơn tuổi hai mươi tám của mình, khuôn mặt nàng là khuôn mặt của một người nào đó đã nhìn thấy quá nhiều, đã trải qua quá nhiều chuyện.

Nàng nhớ hình ảnh tiên thị đẫm máu kinh hoàng, cơn bão cảm xúc đen tối, bạo lực đã tiếm quyền kiểm soát tâm trí nàng, để lại nàng trống rỗng và kiệt sức, giống như tất cả những hình ảnh xưa kia. Nàng tưởng chúng đã kết thúc, nhưng nàng đã nhầm. Tiến sĩ Ewell đã nhầm. Chúng đã trở lại.

Hay là nàng đã có một cảnh hồi tưởng. Khả năng đó còn đáng sợ hơn, vì nàng không bao giờ muốn nhớ lại chuyện đó nữa. Nhưng dường như nó đột ngột trở nên có lý, bởi vì còn lý do nào khác khiến nàng nhìn thấy lưỡi dao ánh lên, nhỏ những giọt đỏ thẫm khi nó đâm và chém –

“Thôi đi,” nàng nói to lên, vẫn còn nhìn chằm chằm vào mình trong gương. “Thôi ngay đi.”

Trí óc nàng vẫn còn mờ mịt, vẫn còn bị những gì đã xảy ra níu giữ, với hậu quả của trạng thái hôn mê lâu. Rõ ràng là tác động của cảnh hồi tưởng cũng y hệt như là nàng có một hình ảnh tiên thị thực sự vậy.

Nếu trí óc nàng nghĩ rằng nó là thật, thì sự căng thẳng trên cơ thể cũng mạnh y chang.

Nàng nghĩ về việc gọi Tiến sĩ Ewell, nhưng khoảng cách sáu năm chen giữa họ và nàng không muốn xây một cây cầu qua nó. Đã từng có lúc nàng phải dựa vào ông ta trong hầu hết mọi chuyện, và mặc dù ông ta đã luôn hỗ trợ nàng, bảo vệ nàng, nàng đã quen với việc tự chăm sóc bản thân mình. Sự độc lập hợp với nàng. Sau sự bảo bọc trọn vẹn, gần như nghẹt thở trong hai mươi hai năm đầu của đời mình, sự cô độc và tự lực cánh sinh trong sáu năm vừa qua đặc biệt ngọt ngào với nàng. Nàng sẽ tự mình đương đầu với cảnh hồi tưởng này.
(hết chương 1)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 1-3-2012 20:25:28 | Chỉ xem của tác giả
Chương 2


Chuông cửa reo. Thám tử Dane Hollister mở một mắt, liếc vào đồng hồ, rồi nhắm mắt lại với một tiếng chửi thầm. Mới bảy giờ sáng thứ Bảy, cuối tuần được nghỉ đầu tiên của anh trong cả một tháng, và tên ngốc nào đó lại đang dựa vào chuông cửa nhà anh. Có lẽ cái tên cà chớn nào đó sẽ đi.

Tiếng chuông lại reo lần nữa, và theo sau nó là hai tiếng gõ vào cửa. Lẩm bẩm một lần nữa, Dane ném mép chăn sang một bên và trần truồng lao ra khỏi giường. Anh tóm lấy chiếc quần nhàu nhĩ tối qua đã cởi ra và mặc vào, kéo khoá nhưng không cài cúc. Theo thói quen, một thói quen thâm căn cố đế tới mức anh thậm chí không bao giờ phải nghĩ về nó, anh nhặt khẩu Beretta 9 li lên từ chiếc bàn cạnh giường. Anh không bao giờ ra mở cửa mà không mang vũ khí. Về mặt này, thậm chí anh còn không ra nhặt thư mà không trang bị. Cô bạn gái gần đây nhất của anh, với khoảng thời gian tồn tại rất ngắn bởi vì cô ta không thể chịu nổi thời gian biểu lộn xộn của một tay cớm, đã nói một cách cay độc rằng anh là người đàn ông duy nhất cô ta biết mang theo cả vũ khí vào trong phòng tắm.

Cô ta chẳng có mấy khiếu hài hước, vì thế Dane đã kìm mình không nói một câu nhận xét bẩn thỉu về súng ống của đàn ông. Ngoại trừ tiếc nối chuyện tình dục, anh đã thấy thật sự vui mừng khi cô ta kết thúc mọi chuyện.

Anh nâng một khe mành lên để nhìn ra ngoài, và với một tiếng chửi thề khác anh vặn khoá và mở cửa. Bạn và người đồng sự của anh, Alejandro Trammell, đang đứng trên cái hiên nhỏ. Trammell nhướn đôi lông mày đen thanh lịch lên khi anh ta quan sát chiếc quần thun nhàu nhĩ của Dane. “Pijama đẹp đấy,” Trammell nói.

“Cậu có biết bây giờ là lúc quái nào không hả?” Dane khạc ra.

Trammell xem đồng hồ đeo tay của anh ta, một chiếc Piaget mỏng dính. “Bảy giờ không hai. Sao?” Anh ta bước vào trong. Dane đóng sầm cánh cửa lại với một tiếng beng chói tai.

Trammell dừng phắt lại, hỏi một cách muộn màng. “Cậu có khách à?”

Dane lùa tay vào tóc, rồi xoa mặt, nghe tiếng đám râu lởm chởm cọ vào lòng bàn tay chai sạn. “Không, tớ ở một mình.” Anh ngáp, rồi quan sát người đồng sự của mình. Trammell đang đóng bộ hoàn hảo, như mọi khi, nhưng mắt anh ta cũng thâm quầng.

Dane lại ngáp lần nữa. “Đó là tại một đêm thức khuya, hay là một sáng dậy sớm?”

“Cả hai đều đúng. Chỉ là một đêm không ra gì, không ngủ được. Tớ nghĩ tớ sẽ ghé qua để dùng bữa sáng và uống ít cà phê.”

“Thật là hào phóng biết bao, chia sẻ cơn mất ngủ của cậu với tớ,” Dane lầm rầm, nhưng anh đã đang trên đường vào bếp. Anh cũng có những đêm tồi tệ của mình, vì thế anh hiểu nhu cầu cần một người bạn. Trammell chưa bao giờ bỏ rơi anh trong những trường hợp đó. “Tớ sẽ châm một bình cà phê, rồi cậu tự lo trong khi tớ đi tắm và cạo râu.”

“Quên đi,” Trammell nói. “Tớ sẽ chuẩn bị cà phê. Tớ muốn nó có thể uống được.”

Dane không tranh cãi. Anh có thể uống được cà phê của mình pha, nhưng từ trước tới nay chẳng ai khác uống được cả. Bản thân anh không quan tâm lắm tới vị của nó, nhưng đó là vì anh chỉ cần cú hích của chất ca-phê-in, nên hương vị phải xếp hàng thứ yếu.

Anh để Trammell lo chuyện cà phê và ngáp ngắn ngáp dài trở lại phòng ngủ, nơi anh lột quần ra, bỏ mặc chúng ở vị trí cũ trên sàn. Mười phút ở dưới vòi hoa sen, với một tay chống vào tường ốp đá trong khi nước phun vào đầu anh sẽ khiến cho việc thức dậy là khả dĩ; cạo râu khiến nó thành việc được trông mong, nhưng anh vẫn còn cần đến một vết xước trên cằm mới bị thuyết phục. Anh vừa thấm máu vừa lẩm bẩm. Anh có một lý thuyết là bất kì ngày nào bắt đầu với một vết xước lúc cạo râu sẽ đều là một ngày chó chết từ đầu đến cuối. Không may là, hầu như ngày nào mặt anh cũng có một vết cắt nho nhỏ. Anh không giỏi cạo râu lắm. Trammell đã từng uể oải khuyên anh chuyển sang máy cạo râu chạy điện, nhưng anh ghét cái ý tưởng để cho một lưỡi dao làm tốt hơn cả mình, vì thế anh khăng khăng giữ kiểu cũ, dâng máu mình trên bệ thờ của sự cứng đầu.

Ít nhất, mặc quần áo cũng dễ dàng. Dane chỉ đơn giản mặc vào bất kể cái gì trong tầm tay. Bởi vì đôi khi anh quên thắt cà vạt, anh luôn giữ một chiếc trong xe ô tô; nó có thể không hợp với bất kể cái gì anh đang mặc, nhưng anh nghĩ cà vạt chỉ là cà vạt, và điều quan trọng là tinh thần của nó chứ không phải là phong cách. Cảnh sát trưởng muốn các thám tử phải đeo cà vạt, vì thế Dane đeo một cái. Đôi khi Trammell nhìn anh kinh hoàng, nhưng Trammell là một gã sùng thời trang thường hướng về những bộ vét lụa Italy, vì thế Dane không thèm để tâm.

Nếu bất kì một tay cớm nào khác ăn mặc như Trammell, hay lái chiếc xe giống của Trammell, thì Bộ Nội vụ sẽ vây xung quanh anh ta như lũ ruồi bu vào phân, mà đó cũng là một cách thích hợp để mô tả BNV. Nhưng Trammell giàu có một cách độc lập, do được thừa kế một tài sản kha khá từ người mẹ Cuba cũng như vài món kinh doanh thành công của cha mình, một doanh nhân New England đã rơi vào bẫy tình ái trong một chuyến công tác tới Miami và dành phần đời còn lại ở Florida. Ngôi nhà của Trammell dễ ngốn đến một triệu, và anh ta không bao giờ thực hiện bất kì một nỗ lực nào để hạ bậc mức sống của mình. Người đồng sự của anh là một gã chó đẻ bí ẩn đến nỗi Dane không thể quyết định liệu Trammell đã sống xa hoa như thế chỉ vì anh ta thích lối sống ấy và có phương tiện, hay là anh ta làm như thế để chọc tức những tên con hoang ở BNV. Dane nghi cái sau là đúng. Anh đồng tình.

Anh và Trammell đối lập nhau trong rất nhiều chuyện. Trammell dẻo dai như một sợi roi da, và sống cách biệt như một con mèo. Bất kể tình huống nào, trông anh ta luôn luôn lịch sự và có văn hoá, quần áo hoàn hảo. Anh ta thích – thực sự thích – opera và ba lê. Dane thì hoàn toàn ngược lại: anh có thể mặc những bộ vét lụa đắt tiền nhất, cắt may hoàn toàn dành cho cơ thể cường tráng, sung sức của anh mà trông vẫn rối bù sao đó. Anh thích thể thao và nhạc đồng quê. Nếu họ là những chiếc xe, Trammell sẽ là một chiếc Jaguar[Chỉ có thành viên đã kích hoạt và đăng nhập mới thấy được liên kết. ], trong khi Dane là một chiếc bán tải. Bốn bánh dẫn động.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 1-3-2012 20:27:03 | Chỉ xem của tác giả
Mặt khác, Dane nghĩ khi anh lang thang trở lại nhà bếp, tự nhiên đã cân bằng lực lượng trên khuôn mặt của họ, theo kiểu ngược lại. Về mặt cá nhân, Trammell đẹp trai một cách bóng bẩy, nhưng trong ảnh khuôn mặt anh ta như báo điềm gở. Dane cho là mặt của anh sẽ doạ được bọn trẻ con và đám thú nhỏ, nếu xét đến sự khác biệt giữa hai người, nhưng máy ảnh lại yêu thích anh. Với tất cả những góc cạnh đó, Trammell đã giải thích. Trammel là một tay thích chụp ảnh và chụp rất nhiều; anh ta không bao giờ không mang theo máy ảnh. Vốn là đồng sự và thường xuyên đi cùng anh ta, Dane tự nhiên có mặt trong rất nhiều bức ảnh. Trên phim, nhưng đường nét thô bạo của hai gò má cao, nhô lên, đôi mắt sâu và cái cằm chẻ, tất cả đều trở nên đăm chiêu và hấp dẫn thay vì hung hăng thuần tuý. Thậm chí bằng cách nào đó chiếc mũi gãy của anh trông cũng thẳng ra trên ảnh. Ngoài đời, trông anh nhăn nhó, khuôn mặt bị méo mó, đôi mắt anh là đôi mắt của cớm, cảnh giác và quá già dặn.

Dane lấy cho mình một cốc cà phê và ngồi xuống bàn. Trammell vẫn đang nấu nướng, và bất kể đó là gì thì mùi cũng rất tuyệt.

“Bữa sáng có gì?” anh hỏi.

“Bánh mỳ làm bằng bột mỳ nguyên chất với dâu tươi.”

Dane khụt khịt. “Không bao giờ có bột mỳ nguyên chất trong nhà tớ cả.”

“Tớ biết. Vì thế tớ đã mang theo.”

Những thứ đồ bổ dưỡng. Dane chẳng quan tâm. Anh có thể khá lịch sự khi người khác nấu ăn. Trong lúc làm việc họ hầu như sống nhờ đồ ăn nhanh, bất kể cái gì nhanh và dễ làm, vì thế anh không phiền phải ăn những thứ ít béo, bổ dưỡng để cân bằng bất kể khi nào họ có thời gian. Quỷ thật, thậm chí anh còn học cách thích ăn mầm. Chúng có vị như đậu non, vừa được kéo ra khỏi mặt đất và còn chưa phát triển hết, với thân vẫn còn mềm. Anh ăn rất nhiều đậu non khi còn là một đứa trẻ, thích ăn chúng hơn thứ đậu đã chín hoàn toàn và cần phải đóng hộp.

“Vậy cái gì làm cậu không ngủ đêm qua?” anh hỏi Trammell. “Có gì đặc biệt không?”

“Không, chỉ là một trong những đêm khi một giấc mơ kì quái bắt đầu bất kể khi nào cậu gà gật.”

Những giấc mơ đến và đi thật là kì lạ. Tất cả cớm đều nằm mơ, nhưng anh và Trammell đã trải qua một khoảng thời gian khó khăn vài năm trước, ngay sau vụ xả súng; trong một thời gian đêm nào giấc mơ cũng tới. Phần lớn cớm trải qua toàn bộ sự nghiệp của họ mà không bao giờ phải nổ súng, nhưng Dane và Trammell không có cái may mắn đó.

Họ đang cố tìm một nghi phạm để thẩm vấn trong một vụ bắn giết và đã bị cô bạn gái phiền phức của nghi phạm dẫn ngay vào giữa một vụ buôn bán ma tuý lớn, do chính nghi phạm tổ chức. Đó thường là cách những tên tội phạm dính chấu; hầu hết chúng không bị bắt nhờ vào kết quả hoạt động vất vả của các thám tử, mà vì một kẻ nào đó đã bán rẻ chúng.

Vào lần đó, thay vì chuồn qua một cánh cửa sổ nào đó và biến mất trong những ống cống, bọn tội phạm đã nổ súng trước. Dane và Trammell đổ xuống sàn, bò vào một căn phòng khác, và trong năm phút dài nhất trong lịch sử họ đã bị dồn ép trong căn phòng đó. Đến khi quân tiếp viện tới, trong hình dạng của mọi cảnh sát ở gần đó, mặc đồng phục hoặc không, những người đã nghe cú gọi “cảnh sát bị bắn” của Dane, thì ba trong số những tên tội phạm và cô bạn gái đã bị bắn. Cô gái và một trong số ba gã đàn ông đã chết. Một viên đạn đã nảy ra, bật lại và một phần của nó trúng vào lưng Dane, suýt trúng vào xương sống của anh. Nó vẫn có đủ lực để làm gãy một xương sườn và tạo một cái lỗ trong lá phổi bên phải của anh. Lúc đó mọi thứ đã hơi lộn xộn, nhưng một kí ức anh vẫn còn nhớ rõ đó là Trammell quỳ bên cạnh anh và xổ ra một tràng chửi thề liên tu bất tận trong khi cố ngăn máu chảy ra. Ba ngày trong khu vực chăm sóc đặc biệt, tổng cộng mười lăm ngày nằm viện, chín tuần trước khi anh có thể trở lại với công việc. Phải, cả hai người họ đều đã có những cơn ác mộng trong một khoảng thời gian sau vụ đó.

Ngay khi Trammell dọn bánh mỳ ra, điện thoại reo. Dane vươn tay với ống nghe, và cùng lúc máy nhắn tin của Trammell cũng reng. “Cứt thật!” cả hai đồng thanh nói, nhìn chằm chằm vào nhau.

“Ngày thứ Bảy đấy, chết tiệt!” Dane quát vào ống nói. “Hôm nay chúng tôi nghỉ.”

Anh lắng nghe trong khi nhìn Trammell nhanh chóng nuốt vội một cốc cà phê, rồi thở dài. “Rồi, okay. Trammell đang ở đây. Bọn tôi lên đường đây.”

“Cái gì đã huỷ ngày nghỉ của bọn mình thế?” Trammell muốn biết khi họ ra khỏi cửa.

“Stroud và Keegan đã đang ở một hiện trường khác. Worley xin nghỉ ốm sáng nay. Freddie dang ở chỗ nha sĩ với cái răng sâu.” Chuyện thường ngày, điên tiết cũng chẳng được gì. “Tớ sẽ lái.”

“Vậy chúng ta đang đi đâu?”

Dane đưa cho anh ta địa chỉ khi họ vào trong xe của anh, và Trammell viết ra. “Một người đàn ông gọi điện báo và nói rằng vợ ông ta bị đau. Một chiếc xe cấp cứu đã xuất phát, nhưng một cảnh sát tuần tra đã tới đó trước. Anh ta chỉ nhìn qua và đã báo huỷ xe cấp cứu, và thay vào đó báo một Vụ giết người.”

Họ mất mười phút mới tới được địa chỉ đó, nhưng không cách nào nhầm nhà được. Con phố gần như bị chặn bởi những chiếc xe tuần tra, một chiếc xe tải của đội cấp cứu, và rất nhiều loại xe khác của các nhà chức trách. Những cảnh sát mặc thường phục đứng quanh một bãi cỏ nhỏ, trong khi mấy người hàng xóm tụ tập lại thành từng nhóm, vài người vẫn còn mặc bộ đồ ngủ của họ. Dane tự động quan sát những người đứng xem, tìm kiếm cái gì đó không khớp, ai đó dường như không thuộc về nơi này hoặc có lẽ hơi quá quan tâm. Những tên sát nhân thường xuyên lảng vảng tại hiện trường nhiều đến mức đáng ngạc nhiên.

Anh khoác chiếc áo khoác màu xanh hải quân và giật chiếc cà vạt thừa để ở ghế sau, thắt nó lỏng lẻo quanh cổ. Anh để ý thấy bằng cách nào đó Trammel đã thắt xong chiếc cà vạt của anh ta một cách không chê vào đâu được lúc ở trong xe. Anh nhìn lại một lần nữa. Chết tiệt, anh không thể tin được! Gã con hoang bảnh bao này đã chọn một bộ vét lụa Italy hai hàng khuy để mặc vào ngày nghỉ của gã. Anh thì chỉ đơn giản là trượt vào trong một chiếc áo vét khi họ rời khỏi nhà.

Đôi khi anh thấy lo cho Trammell.

Họ chìa phù hiệu cho viên cảnh sát ở ngoài cửa, và anh ta đứng sang một bên để cho họ vào.

“Cứt thật,” Dane nói thầm khi anh nhìn lần đầu tiên.

“Và tất cả những chất thải khác của cơ thể người nữa,” Trammel trả lời cũng bằng giọng khó tin như thế.

Hiện trường sát nhân không có gì là mới. Sau một khoảng thời gian, cảnh sát sẽ tới được một điểm mà với họ những cảnh bạo lực là chuyện thường ở huyện. Đâm chém và bắn giết có cả tá. Nếu bất kì một ai hỏi anh trước đó nửa giờ, Dane sẽ nói rằng anh và Trammell đã làm thám tử lâu đến nỗi, họ hầu như không thể bị choáng được nữa.
(còn tiếp)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 1-3-2012 20:28:25 | Chỉ xem của tác giả
Chương 2 (tiếp)

Nhưng lần này lại khác.

Máu ở khắp mọi nơi. Nó dây trên tường, trên sàn, thậm chí cả trên trần nhà. Anh có thể nhìn vào trong bếp, và một vệt máu kéo dài từ đó ngang qua phòng khách, rồi vào trong hành lang nhỏ và ra khỏi tầm nhìn. Anh cố tưởng tượng xem kiểu vật lộn nào sẽ làm toé máu nhiều đến mức độ này.

Dane quay sang một cảnh sát mặc đồng phục đang đứng gác ở cửa. “Mấy tay khám nghiệm hiện trường đã tới chưa?”

“Vẫn chưa.”

“Cứt thật,” anh lại nói. Đội khám nghiệm hiện trường, hay pháp y, càng mất nhiều thời gian, thì hiện trường phạm tội càng bị tổn hại. Vài sự can thiệp là không thể tránh khỏi, trừ khi những bác sĩ pháp y là người tìm ra nạn nhân và ngay lập tức phong toả khu vực. Nhưng bác sĩ pháp y không ở đây, và ngôi nhà thì đầy chặt cảnh sát cả thường phục lẫn đồng phục, đi ra đi vào và khó tránh khỏi xới tung hiện trường.

“Đừng để ai khác vào đây trừ người của Ivan,” anh nói với viên cảnh sát. Ivan Schaffer là sếp của đội khám nghiệm hiện trường. Ông ta sẽ cực kì bực mình về chuyện này.

“Trung uý Bonnes đang trên đường.”

“Cậu có thể để ông ấy vào cũng được,” Dane trả lời, miệng cong lên.

Ngôi nhà thuộc tầng lớp trung lưu, không có gì bất thường. Phòng khách có một chiếc sô pha và ghế đồng bộ, chiếc bàn cà phê cần thiết và bàn đèn đồng bộ dán gỗ thật, trong khi một chiếc ghế tựa lớn màu nâu chiếm vị trí tốt nhất trước mặt ti vi. Trên chiếc ghế tựa lúc này có một người đàn ông ở độ tuổi cuối bốn mươi đầu năm mươi trông mụ mị, có lẽ là chồng của nạn nhân. Ông ta đang trả lời những câu hỏi do một viên cảnh sát mặc đồng phục đặt ra cho mình với giọng đều đều một âm tiết.

Nạn nhân đang ở trong phòng ngủ. Dane và Trammell len qua đám đông và vào trong căn phòng nhỏ. Thợ chụp ảnh đã tới và đang làm việc, nhưng lần này đã đánh mất vẻ thờ ơ thường thấy của anh ta.

Người phụ nữ khoả thân nằm kẹp giữa chiếc bàn cạnh giường và bức tường. Bà ta đã bị đâm liên tiếp – chính xác hơn là bị xẻ thịt. Bà ta đã cố chạy, và khi bị dồn vào phòng ngủ bà ta đã cố chống trả, bằng chứng là những vết thương sâu trên hai cánh tay. Đầu bà ta gần như bị cắt lìa, ngực bị cầy xới bởi vô số vết thương, và tất cả những ngón tay của bà ta đã bị cắt rời. Dane nhìn quanh phòng, nhưng anh không thấy chúng. Chiếc giường vẫn còn gọn ghẽ, mặc dù bị vấy máu.

“Đã tìm được vũ khí chưa?” Dane hỏi.

Một cảnh sát tuần tra gật đầu. “Nó ở ngay bên cạnh nạn nhân. Một con dao Ginsu ở trong bếp. Bà ta có cả bộ. Có vẻ như chúng thực sự giống với quảng cáo; tôi nghĩ tôi sẽ mua cho vợ tôi một bộ.”

Một viên cảnh sát khác khịt mũi. “Tôi sẽ nghĩ lại ý tưởng đó nếu tôi là cậu, Scanlon.”

Dane lờ đi kiểu chế giễu xấu tính mà tất cả cớm đều dùng để giúp họ đối mặt được với sự xấu xí họ nhìn thấy hàng ngày. “Còn những ngón tay của bà ta?”

“Không. Không thấy dấu hiệu nào của chúng.”

Trammell thở dài. “Tớ nghĩ tốt hơn ta nên đi nói chuyện với người chồng.”

Thực tế là hầu hết các vụ sát nhân, trừ những vụ do bọn tội phạm vô tình qua đường gây ra, đều được thực hiện bởi ai đó biết nạn nhân: một người bạn, người hàng xóm, đồng nghiệp, hay họ hàng. Khi nạn nhân là một phụ nữ, danh sách nghi phạm thường được giảm xuống còn ít hơn nữa, bởi vì những tên sát nhân hầu như đều là chồng hoặc bạn trai. Rất nhiều lần, tên sát nhân chính là kẻ đã “phát hiện” ra xác chết và báo cáo tội ác.

Họ trở lại phòng khách, và Dane bắt gặp ánh mắt viên cảnh sát đang nói chuyện với người chồng. Viên cảnh sát tới chỗ họ.

“Ông ta có nói gì không?” Dane hỏi.

Viên cảnh sát lắc đầu. “Hầu hết là không trả lời các câu hỏi. Ông ta nói rằng vợ ông ta tên là Nadine, và tên ông ta là Vinick, Ansel Vinick. Họ đã sống ở đây hai mươi ba năm. Ngoài chuyện đó, ông ta không nói gì.”

“Ông ta có phải là người đã gọi điện báo không?”

“Vâng.”

“Okay. Chúng tôi sẽ lo từ đây.”

Anh và Trammell đi tới chỗ ông Vinick. Dane ngồi xuống chiếc sô pha, và Trammell di chuyển chiếc ghế còn lại tới gần hơn trước khi ngồi xuống, kẹp ông Vinick ở giữa họ một cách hiệu quả.

“Ông Vinick, tôi là Thám tử Hollister và đây là Thám tử Trammell. Chúng tôi muốn nói chuyện với ông, hỏi ông vài câu.”

Ông Vinick đang nhìn đăm đăm xuống sàn. Hai bàn tay to lớn đặt hờ hững trên tay cầm của chiếc ghế tựa. “Được,” ông ta trả lời thờ ơ.

“Ông có phải là người tìm thấy bà nhà không?”

Ông ta không trả lời, chỉ tiếp tục nhìn đăm đăm xuống sàn.

Trammell chen vào. “Ông Vinick, tôi biết việc này rất khó khăn, nhưng chúng tôi cần sự hợp tác của ông. Ông có phải là người gọi cho cảnh sát không?”

Ông ta chầm chậm lắc đầu. “Tôi chẳng gọi cảnh sát nào cả. Tôi đã gọi 911.”

“Ông gọi vào lúc nào?” Dane hỏi. Thời gian đã được ghi lại, nhưng những kẻ nói dối thường lỡ lời trong những chi tiết đơn giản nhất. Ngay lúc này, Vinick là nghi phạm chỉ vì đã cưới nạn nhân.

“Không biết,” Vinick lầm rầm. Ông ta hít một hơi dài và dường như nỗ lực để tập trung. “Bảy giờ ba mươi hoặc khoảng đó, tôi đoán vậy.” Ông ta vuốt mặt với một bàn tay run rẩy. “Tôi tan ca lúc bảy giờ. Mất khoảng hai mươi, hai lăm phút để lái xe về nhà.”

Dane bắt gặp cái nhìn của Trammell. Họ đã thấy đủ xác chết để biết rằng bà Vinick đã chết được vài giờ rồi, chứ không chỉ nửa tiếng hay một tiếng. Khám nghiệm pháp y sẽ thiết lập thời gian của cái chết, và nếu ông Vinick đang ở chỗ làm trong khoảng thời gian đó, nếu các nhân chứng đáng tin cậy xác nhận rằng ông ta đã không rời đi, thì họ sẽ phải bắt đầu tìm kiếm các khả năng khác. Có lẽ bà ta có tình nhân; có lẽ ai đó đã giữ ấm cho chiếc giường của ông Vinick trong khi ông ta đi làm ca ba.

“Ông làm việc ở đâu?”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 1-3-2012 20:29:28 | Chỉ xem của tác giả
Không có câu trả lời. Dane thử lại lần nữa. “Ông Vinick, ông làm việc ở đâu?”

Vinick động đậy và nêu tên một công ty vận chuyển địa phương.

“Ông có thường phải làm ca ba không?”

“Có. Tôi làm trên bến tàu, bốc và dỡ các toa móc. Phần lớn các chuyến hàng đều đến vào ban đêm, ông thấy đấy, để giao trong ngày.”

“Tối qua mấy giờ ông rời nhà đi làm?”

“Như thường lệ. Quãng mười giờ.”

Họ đang tiến triển, cuối cùng cũng có vài câu trả lời. “Ông có quẹt thẻ tính công không?” Trammell hỏi.

“Có.”

“Ông có quẹt thẻ ngay khi ông tới đó không, hay chờ tới giờ ca làm việc bắt đầu?”

“Ngay khi tới đó. Ca làm việc bắt đầu lúc mười giờ ba mươi. Chúng tôi có nửa giờ để ăn, và kết thúc lúc bảy giờ.”

“Ông có phải ghi giờ đến và đi ăn trưa không?”

“Có.”

Có vẻ như đêm của ông Vinick khá là đáng tin cậy. Tất nhiên họ sẽ kiểm tra mọi thứ ông ta đã kể với họ, nhưng sẽ không gặp vấn đề gì.

“Sáng nay ông có để ý thấy bất kì cái gì không bình thường không?” Dane hỏi. “Ý tôi là trước khi ông vào trong nhà.”

“Không. À, cửa đã khoá. Nadine thường dậy và mở cửa sẵn cho tôi, rồi mới bắt đầu nấu bữa sáng.”

“Ông thường về bằng cửa trước hay cửa sau?”

“Cửa sau.”

“Ông thấy gì khi mở cửa?”

Cằm của ông Vinick run run. “Đầu tiên, không thấy gì cả. Mành được kéo xuống và đèn chưa bật. Nhà tối om. Tôi nghĩ là Nadine đã ngủ quên.”

“Ông đã làm gì?”

“Bật đèn trong bếp lên.”

“Rồi ông thấy gì?”

Ông Vinick nuốt nước bọt. Ông mở miệng ra nhưng không thể nói. Ông đặt bàn tay lên che mắt. “M-máu,” cuối cùng ông cũng nói. “Mọi – mọi nơi. Trừ - lúc đầu trông nó như là sốt cà chua. Tôi tưởng cô ấy đã đánh rơi một lọ sốt cà chua và làm vỡ nó, từ cái cách nó bắn tung toé. Rồi – rồi tôi biết nó là gì. Nó làm tôi sợ. Tôi nghĩ chắc cô ấy đã tự cắt vào mình, rất tệ. Tôi kêu tên cô ấy và chạy vào phòng ngủ, tìm cô ấy.” Ông ta dừng lại, không thể mang câu chuyện đi xa hơn nữa. Ông ta bắt đầu run rẩy, và không để ý khi Dane và Trammell đứng dậy bước đi, để ông ta một mình với nỗi buồn và sự kinh hoàng của mình.

Ivan Schaffer và một người phụ tá đã tới với những chiếc túi của họ và biến vào trong phòng ngủ để thu thập những bằng chứng họ còn cứu vãn được từ vụ sát nhân. Trung uý Gordon Bonness đến ngay sau họ. Ông ta dừng phắt lại ngay trong cánh cửa, biểu hiện kinh hoàng.

“Chúa tôi,” ông ta lẩm bẩm.

“Có vẻ như thế là nhất trí,” Trammell nói bên cạnh Dane khi họ tới chỗ viên Trung uý.

Bonness không phải là một người xấu, cho dù ông ta tới từ California và có thể nghĩ ra một số những ý kiến kì quặc về mọi chuyện. Ông ta công bằng hết mức có thể trong cách điều hành đơn vị, việc mà Dane coi là một phẩm chất khá tốt, và ông ta chịu đựng những thói tật và cách làm việc khác nhau của các thám tử dưới quyền ông ta.

“Các cậu đã có những gì rồi?” Bonness hỏi.

“Chúng tôi có một người phụ nữ bị xả ra thành từng mảnh, và một người chồng đang ở chỗ làm. Chúng tôi sẽ kiểm tra chứng cớ ngoại phạm của ông ta, nhưng trực giác của tôi cho rằng ông ta trong sạch,” Dane trả lời.

Bonness thở dài. “Tình nhân chăng?”

“Chúng tôi còn chưa tìm hiểu được đến đó.”

“Okay. Hãy giải quyết vụ này nhanh nhé. Lạy Chúa, hãy nhìn mấy bức tường này.”

Họ đi vào trong phòng ngủ, và trung uý tái nhợt đi. “Chúa tôi,” ông ta lại nói. “Thật là bệnh hoạn!”

Dane dành cho ông ta một cái nhìn cảm thông, và dạ dày anh thắt lại. Một cảm giác kinh sợ dồn lên sống lưng. Bệnh hoạn. Phải, thật là bệnh hoạn. Và anh đột nhiên lo lắng hơn nhiều so với lúc trước.

Anh ngồi xổm bên cạnh Ivan khi người đàn ông cao lêu ngêu cần mẫn tìm kiếm những sợi vải, tóc, bất kì thứ gì có thể phân tích để tìm ra điều bí ẩn. “Tìm thấy gì không?”

“Không biết cho tới khi tôi về phòng thí nghiệm.” Ivan nhìn quanh. “Nếu chúng ta tìm được các ngón tay của bà ấy thì sẽ giúp ích nhiều. Có lẽ có chút da bên dưới các móng tay. Tôi đã cho người tìm trong các thùng rác ở quanh đây. Không có chút rác nào ở đây, vì thế không cần tìm.”

“Bà ấy có bị cưỡng hiếp không?”

“Không biết. Không nhìn thấy tinh dịch.”

Cảm giác kinh sợ của Dane càng trở nên mạnh hơn. Thứ dường như là một vụ giết người dù kinh khủng nhưng khá đơn giản đã thành phức tạp. Trực giác của anh hiếm khi sai, và nó đang bắn ra những tín hiệu cảnh báo như toàn bộ ban kèn đồng.

Anh lần theo vệt máu trở lại điểm xuất phát, ở trong bếp. Trammell đi cùng anh, và họ đứng trong căn phòng nhỏ, đầm ấm, nhìn quanh. Rõ ràng Nadine Vinick thích nấu ăn; căn bếp hiện đại hơn phần còn lại của ngôi nhà, với những vật dụng sáng bóng, một bệ bếp nho nhỏ, và một đống những chiếc nồi và chảo sáng bóng nhưng thường được dùng đến treo bên trên bệ bếp. Một cái thớt thái thịt đặt ở cuối bàn bếp, và bộ dao Ginsu, thiếu mất một con được sắp xếp trong giá phía trên cái thớt.

“Làm sao mà tên chó đẻ vào được nhỉ?” Dane lầm rầm. “Đã có ai tìm dấu hiệu đột nhập chưa, hay họ chỉ dựa vào ước đoán là ông chồng là người giết bà ta?”

Trammell đã làm việc với anh đủ lâu để hiểu anh. “Cậu có trực cảm gì về chuyện này hả?”

“Ừ. Rất xấu.”

“Cậu không nghĩ có lẽ bà ta có một tình nhân à?”

Dane nhún vai. “Có thể có, có thể không. Chỉ là có một chuyện trung uý đã nói, về chuyện này thật bệnh hoạn ấy. Và nó khiến tớ thực sự khó chịu. Thôi, hãy xem xem chúng ta có thể tìm ra làm sao hắn vào đây được không.”

Họ không mất nhiều thời gian. Có một đường cắt nhỏ ở dưới tấm màn cửa sổ trong phòng ngủ phụ. Tấm màn vẫn ở đúng chỗ nhưng đã bị mở ra, và một cái chốt cửa sổ bị mở, không có nghĩa là nó sẽ giữ chân được ai dù chỉ là một thằng bé mười tuổi. “Tớ sẽ gọi Ivan,” Trammell nói.

“Có lẽ ông ta có thể lấy ra một dấu vân tay, hay tìm vài sợi chỉ.”
(còn tiếp)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 1-3-2012 20:31:18 | Chỉ xem của tác giả
Chương 2 (tiếp)

Linh cảm của Dane lại càng tệ hơn. Một vụ đột nhập sẽ đặt ra một cách nhìn khác hẳn cho tình huống này, ám chỉ một kẻ lạ mặt. Vụ này không giống như một vụ trộm đã leo thang thành bạo lực khi kẻ đột nhập bị bà Vinick bắt gặp bất ngờ. Một tên trộm vặt sẽ thường bỏ chạy, và thậm chí nếu có tấn công, việc đó cũng xảy ra rất nhanh. Vụ tấn công vào bà Vinick vừa man rợ vừa kéo dài. Bệnh hoạn.

Anh trở vào nhà bếp. Liệu cuộc chạm trán đầu tiên đã diễn ra ở đây, hay bà Vinick đã nhìn thấy tên đột nhập và cố chạy ra cửa sau, càng xa nhà bếp càng tốt trước khi hắn bắt được bà ta? Dane nhìn chằm chằm vào những dụng cụ như thể chúng biết kể chuyện. Lông mày anh khẽ nhíu lại và anh đi tới chiếc máy pha cà phê tự động, loại được lắp đặt bên dưới cái tủ bếp cao để nó không chiếm nhiều diện tích của kệ bếp. Chiếc máy chứa khoảng năm cốc cà phê. Anh chạm vào bình thuỷ tinh, dùng khớp ngón tay. Nó lạnh ngắt. Máy pha cà phê là loại có bật tắt tự động sẽ tắt chế độ giữ ấm sau hai giờ. Một cốc cà phê gần đầy đến miệng nằm trên bàn. Trông nó như là không có ai đụng vào kể từ lúc cà phê được rót vào đó. Anh nhúng ngón tay mình vào chất lỏng sẫm màu. Lạnh ngắt.

Anh lôi một đôi găng tay cao su ra khỏi túi và đeo vào. Cẩn thận chỉ chạm vào rìa gỗ của cánh tủ bếp thay vì tay nắm kim loại, anh bắt đầu mở chúng ra. Cánh cửa thứ hai mở ra cho thấy một bịch cà phê đã gạn cafein. Bà Vinick có thể uống nó vào lúc đêm khuya mà không lo bị mất ngủ.

Bà ta đã pha một bình cà phê và đang ở đây, trong bếp. Bà ta chỉ vừa rót ra cốc đầu tiên và đặt chiếc bình pha vào đĩa để giữ ấm. Cánh cửa phòng khách ở đằng sau và bên tay phải của bà ta. Dane làm các cử động như thể anh vừa mới rót cho mình một cốc cà phê, đứng tại nơi mà bà ta sẽ đứng. Theo vị trí của chiếc cốc trên bàn, chắc hẳn bà ta sẽ đứng hơi dạt sang bên trái chiếc máy pha cà phê. Đó là lúc bà ta đã nhìn thấy kẻ đột nhập, ngay khi vừa đặt chiếc bình lên đĩa. Chiếc máy pha cà phê có bề mặt đen bóng loáng, gần như gương ở đằng sau kim chỉ giờ của chiếc đồng hồ gắn liền với nó. Dane khom đầu gối, cố làm mình thấp bằng chiều cao trung bình của bà Vinick. Cánh cửa mở được phản chiếu rong bề mặt của chiếc máy pha cà phê.

Bà ta đã không bao giờ cầm cốc cà phê của mình lên được. Bà ta đã nhìn thấy hình phản chiếu của kẻ đột nhập và quay lại, có lẽ trong giây phút đầu tiên nghĩ rằng chồng bà ta đã quên cái gì đó và trở lại để lấy. Vào lúc bà ta nhận ra được sai lầm của mình thì hắn đã ở trên bà.

Có lẽ bà ta đã không đứng khoả thân ở trong bếp, mặc dù Dane đã làm cớm đủ lâu để biết rằng chuyện gì cũng có thể xảy ra. Đó chỉ là một trực giác khác. Nhưng bà ta đã trần truồng khi tên sát nhân xong chuyện với bà, và có lẽ cũng vậy khi hắn bắt đầu.

Có khả năng là bà ta đã bị cưỡng hiếp ngay tại chỗ để dao, ngay ở trong căn bếp này. Việc không tìm thấy tinh dịch ở bên ngoài chẳng có ý nghĩa gì; sau quá nhiều thời gian, và sau cuộc vật lộn đã diễn ra, cần phải có các kiểm nghiệm pháp y mới đánh giá được. Và trong rất nhiều lần, những tên cưỡng hiếp cũng không đạt cực khoái được. Cực khoái không phải là mục đích của vụ cưỡng hiếp.

Sau khi cưỡng dâm, hắn đã bắt đầu làm việc với con dao. Cho đến khi đó, bà ta đã rất sợ hãi nhưng vẫn hi vọng, rằng có lẽ khi hắn xong việc hắn sẽ chỉ bỏ đi. Khi hắn bắt đầu cắt bà ta, bà ta đã biết hắn định giết mình và bắt đầu chiến đấu để giữ mạng sống. Bà ta đã thoát được hắn, hoặc có lẽ hắn đã để bà ta thoát, giống như một con mèo vờn một chú chuột, để cho bà ta nghĩ rằng bà ta đã thoát được trước khi dễ dàng tóm lại bà ta. Hắn đã chơi cái trò chơi nho nhỏ bệnh hoạn của hắn bao nhiêu lần trước khi cuối cùng cũng dồn bà ta vào phòng ngủ?

Bà ta đã mặc gì? Có phải tên sát nhân đã lấy cả quần áo của bà ta mang theo như một món đồ kỉ niệm hay chiến lợi phẩm của hắn?

“Sao?” Trammell khẽ hỏi từ lối vào, đôi mắt đen của anh ta căng thẳng khi nhìn đồng sự của mình.

Dane nhìn lên. “Quần áo của bà ta đâu?” anh hỏi. “Bà ta đang mặc gì?”

“Có lẽ ông Vinick biết.” Trammell biến mất, và chưa tới một phút sau đã trở lại. “Bà ta đã thay sang bộ váy ngủ khi ông ta rời nhà đi làm. Ông ta nói đó là một bộ váy màu trắng với những thứ màu xanh nhỏ xíu ở trên đó.”

Họ bắt đầu tìm kiếm bộ váy bị mất. Nó dễ tìm đến mức kinh ngạc. Trammell mở cánh cửa gập che máy giặt và máy sấy, và nó ở đó, đặt gọn gàng trên đỉnh đống quần áo trong giỏ đựng đồ cần giặt ở trên đầu máy sấy. Bộ váy bị vấy máu, nhưng chắc chắn là không bị rách. Không, bà ta đã không mặc nó khi cuộc tấn công bằng dao bắt đầu. Có lẽ nó đã nằm trên sàn, bị ném sang một bên, và máu đã vấy vào nó sau này.

Dane nhìn chằm chằm vào nó. “Sau khi cưỡng hiếp và giết bà ta, tên chó đẻ đã đặt bộ váy ngủ của bà ta lên đống đồ cần giặt sao?”

“Cưỡng hiếp?” Trammell hỏi.

“Cá đấy.”

“Tớ đã không chạm vào tay cầm. Hi vọng Ivan có thể lấy được một dấu vân tay; trong căn phòng ngủ thứ hai ông ta đã không tìm được gì.”

Dane có một linh cảm khác, một cái anh còn ghét hơn những cái trước. “Tớ e là chúng ta sẽ chẳng tìm được cái gì ở khắp mọi nơi,” anh nói một cách chán chường.
(hết chương 2)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 1-3-2012 20:33:31 | Chỉ xem của tác giả
Chương 3


Đó không phải là một cảnh hồi tưởng.

Nàng biết bởi vì nàng đã có những cảnh hồi tưởng thực sự suốt cả ngày, những kí ức đáng sợ trỗi dậy quét qua nàng, áp đảo nàng, và để lại nàng tê liệt và kiệt sức khi hiện thực của chính nàng trở lại.

Marlie biết những chi tiết của cơn ác mộng đặc biệt này của nàng, nàng quen thuộc với chúng như với chính khuôn mặt nàng; những chi tiết hiện lên trong trí não nàng suốt cả ngày nay đều mới mẻ, khác biệt. Khi nàng tỉnh dậy từ cơn mê sảng chiều ngày hôm trước, nàng đã có thể nhớ được nhiều hơn một hình ảnh con dao loé sáng, và nàng vẫn còn mệt đến nỗi gần như không hoạt động được. Nàng đã đi ngủ sớm và ngủ rất sâu, không mộng mị, cho đến lúc trời gần sáng khi các chi tiết bắt đầu nổi lên.

Những lần nhớ lại cứ diễn ra suốt cả ngày; nàng chỉ vừa mới hồi phục từ một lượt thì lượt khác, sống động và kinh khủng, lại ùa vào tâm trí nàng. Trước đây chưa từng có chuyện này; những hình ảnh luôn luôn choáng ngợp và làm nàng kiệt sức, đúng, nhưng nàng luôn có thể nhớ lại chúng ngay lập tức. Những cuộc tấn công liên tiếp lần này khiến nàng choáng váng, và bất lực trước sự mệt mỏi. Vài lần nàng đã suýt gọi cho Tiến sĩ Ewell và kể với ông về những sự việc mới đáng sợ này, nhưng cái gì đó trong nàng đã kéo nàng lại.

Một người phụ nữ đã bị giết. Đó là sự thực. Chúa giúp nàng, sự tiên thị đã trở lại, nhưng nó rất khác, và nàng không biết phải làm gì. Hình ảnh tiên thị rất mạnh mẽ, mạnh hơn bất kì hình ảnh nào nàng đã từng có trước đây, nhưng nàng không biết nạn nhân là ai và không thể nói được chuyện đó đã xảy ra ở đâu. Trước đây nàng luôn có ít nhất là một gợi ý, luôn bắt được một vài dấu vết về nhân dạng hoặc vị trí, nhưng không phải lần này. Nàng cảm thấy mất phương hướng, trí óc nàng vươn ra nhưng không thể tìm được tín hiệu, giống như chiếc kim chỉ nam của la bàn tìm kiếm một cực nam châm vốn không tồn tại.

Nàng đã nhìn thấy cảnh giết người diễn đi diễn lại trong đầu mình, và mỗi lần lại có nhiều chi tiết hơn hiện ra, như thể một cơn gió thổi đi các lớp sương mù. Và mỗi lần nàng tỉnh dậy từ cảnh tái diễn, nàng lại kiệt sức hơn lần trước, lại sợ hãi hơn lần trước.

Nàng đã nhìn thấy nó qua đôi mắt của hắn.

Chính trí óc của hắn đã tóm lấy nàng, sức mạnh tinh thần của cơn giận dữ của hắn đã thổi bay sáu năm trống rỗng yên bình của nàng và một lần nữa kéo nàng vào trong nhận thức siêu cảm. Không phải là hắn nhắm vào nàng; hắn không hề làm thế. Xung lực khổng lồ của sức mạnh tâm linh không hề có mục tiêu; không hề được định dạng; hắn không biết hắn đang làm gì. Những người bình thường không bao giờ tưởng tượng được trên đời có những người như nàng, những người có trí óc quá mẫn cảm đến nỗi họ có thể bắt được tín hiệu điện từ của ý nghĩ, đọc được những nguồn năng lượng vẫn còn lưu lại sau những sự kiện xảy ra từ lâu, thậm chí còn tiên đoán được sự hình thành của những việc còn chưa xảy ra. Không có nghĩa là người đàn ông này bình thường theo bất kì khía cạnh nào ngoại trừ thiếu khả năng siêu cảm, nhưng Marlie đã từ lâu tự phân biệt với mình: Người bình thường là những người không biết. Nàng có tiên thị, và nó đã mãi mãi tách biệt nàng, cho tới sáu năm về trước khi nàng bị bắt trong cơn ác mộng tới giờ vẫn còn ám ảnh nàng. Bị chấn thương, phần não bộ đó của nàng đã đóng lại. Trong sáu năm nàng đã sống như một người bình thường, và nàng đã tận hưởng nó. Nàng muốn cuộc sống đó tiếp tục. Suốt những năm qua, dần dần nàng đã để mình tin rằng sự tiên thị sẽ không bao giờ trở lại. Nàng đã sai. Có lẽ trí óc nàng cần nhiều thời gian mới lành, nhưng những hình ảnh đã trở lại, mạnh mẽ hơn và hút kiệt sức nàng hơn cả trước đây.

Và nhìn qua đôi mắt của kẻ sát nhân.

Một phần trong nàng vẫn hi vọng… điều gì? Rằng rút cuộc thì chuyện đó không phải là thật? Rằng nàng đã mất trí? Có phải nàng thà tự lừa dối mình còn hơn là chấp nhận những hình ảnh đã trở lại, rằng cuộc sống bình thường, an toàn của nàng đã đến hồi chấm dứt?

Nàng nhìn qua trang báo ngày Chủ nhật nhưng không thể tập trung; kí ức bật lên quá thường xuyên, quá mạnh. Nàng không tìm được một mẩu tin nào nhắc tới một vụ giết người khiến nàng bật ra phản ứng. Có lẽ nó ở ngay đó và nàng đơn giản là đã bỏ sót; nàng không biết. Có lẽ nó không xảy ra ở gần đây, nhưng vì một sự tình cờ quái gở nào đó nàng đã bắt được tín hiệu sóng não của tên giết người. Nếu người phụ nữ đó sống ở một thành phố khác, chẳng hạn ở Tampa hay Daytona, các tờ báo Orlando sẽ không đăng tải nó. Marlie sẽ không bao giờ biết được nhân dạng của người phụ nữ hay vị trí tội ác.

Một phần trong nàng hèn nhát. Nàng không muốn biết, không muốn lại là một phần của cái cuộc sống đó. Nàng đã xây dựng được một cái gì đó an toàn và vững chắc ở Orlando này, cái gì đó sẽ bị phá huỷ nếu nàng lại dính dáng vào chuyện này một lần nữa. Nàng biết chính xác chuyện gì sẽ xảy ra: bán tín bán nghi, tiếp theo là chế nhạo. Rồi, khi người ta buộc phải tiếp nhận sự thật, họ sẽ trở nên nghi ngờ và sợ sệt. Họ sẽ sẵn lòng sử dụng tài năng của nàng, nhưng họ không muốn làm bạn nàng. Mọi người sẽ trốn tránh nàng; những đứa nhỏ sẽ chỉ dám nhìn lén qua cửa sổ của nàng và vừa chạy vừa hét, nếu nàng nhìn lại. Những đứa lớn hơn sẽ gọi nàng là “mụ phù thuỷ.” Chắc chắn một vài người sùng đạo nào đó sẽ bắt đầu lẩm bẩm về “việc làm của quỷ dữ,” và thỉnh thoảng những đám người xa lạ sẽ hiện ra ở cửa nhà nàng. Không, nàng sẽ là một kẻ ngốc nếu lại để mình dính dáng vào chuyện này một lần nữa.

Nhưng nàng không thể ngừng thắc mắc về người phụ nữ. Có một nhu cầu đau đớn là ít nhất cũng biết được tên bà. Khi ai đó chết, ít nhất tên bà ta cũng nên được biết đến, như một mối liên kết nhỏ xíu với sự bất tử để nói rằng: Con người này đã ở đây. Con người này đã tồn tại. Không có tên, đó chỉ còn là một khoảng trống.

Vậy là bây giờ, vẫn còn run rẩy vì mệt mỏi, nàng bật ti vi lên và chờ chương trình tin tức địa phương, trong lúc đầu óc mụ mị. Vài lần nàng đã gần như ngủ gục, nhưng nàng đã tự lay mình tỉnh.

“Có thể là không có gì,” nàng lẩm bẩm thành tiếng. “Mày chỉ đang mất trí thôi.” Sự an ủi kì lạ, nhưng vẫn là an ủi. Nỗi sợ thầm kín của mỗi người đều khác nhau, và nàng thà bị điên còn hơn là đúng.

Màn hình ti vi nhấp nháy khi những phát thanh viên chuyển tiếp sang một câu chuyện khác, lần này dành toàn bộ thời gian một phút để có cái nhìn cận cảnh vào tác động của bọn tội phạm và băng nhóm trong khu vực nội đô. Marlie chớp mắt, đột nhiên sợ rằng những hình ảnh nàng đang nhìn thấy sẽ chôn vùi nàng bằng những hình ảnh tiên thị, giống như trong quá khứ khi nàng bắt được những tín hiệu cảm xúc của những người nàng đang nhìn. Không có gì xảy ra. Trí não nàng vẫn trống không. Sau một phút nàng thả lỏng, thở dài nhẹ nhõm. Không có gì ở đó, không có dòng cảm xúc thất vọng hay tuyệt vọng nào. Nàng bắt đầu cảm thấy hơi vui lên một chút; nếu nàng không thể nhận được những hình ảnh và cảm xúc ấy như lúc trước, có lẽ nàng chỉ đang điên một chút mà thôi.

Nàng tiếp tục xem, và lại gà gật. Nàng cảm thấy mình bắt đầu đầu hàng sự mệt mỏi, cứ thế trượt vào trạng thái mơ màng cho dù nàng vẫn cố nhắc mình phải tỉnh để xem hết bản tin thời sự -

-“…NADINE VINICK…”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách