Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 3065|Trả lời: 41
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Kiếm Hiệp] Đoạn Hồn Tuyệt Cung | Cổ Long (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Tên tác phẩm: Đoạn Hồn Tuyệt Cung

Tác giả: Cổ Long

Dịch giả: N/A

Độ dài: 34 chương

Thể loại: Tiểu Thuyết Kiếm Hiệp

Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành


Nguồn: http://motsach.info/


Nhà xuất bản: N/A

Ngày xuất bản: N/A

Giới thiệu sơ lược: N/A
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 23:03:14 | Chỉ xem của tác giả
HUYẾT CHIẾN TRÊN ĐỈNH BĂNG SƠN

Một đêm cuối đông. Tuyết vẫn còn rơi lả tả. Gió nổi lên từng cơn đùa cây rừng lã ngã trong dãy Trường Độc sơn. Một dãy núi cây cối um tùm nhưng cũng nổi tiếng về lam sơn chướng khí. Song cũng tích tụ lắm dị thảo thiên niên. Bởi lắm nguy nan nên it kẻ lui tới, chỉ có những tay giang hồ thượng đẳng hay kẻ chuyên tầm dị thảo mới dám qua lại trong dãy núi này mà thôi.
Vậy mà đêm nay, gió lạnh tuyết rơi, một mỹ phụ trang phục giang hồ, tóc rối tung theo gió cuốn, đang nằm rạp trên lưng ô mã phi thật nhanh vào động cốc của dãy Trường Độc phong sơn.
Mỹ phụ vừa cho ngựa dừng lại trong độc cốc, lảo đảo xuống ngựa, tay trái ôm một gói da thú chặt vào trong lòng. Tay mặt vói ra phía sau bả vai, với đôi mắt mệt nhọc nhưng chứa đầy căm hờn, rút một mũi kim trâm vàng óng ánh bật ra khỏi thịt. Một dòng máu đen chảy tuôn theo ướt đẫm tay áo. Mỹ phụ nuốt vội một viên thuốc trắng đồng thời lấy một chiếc lọ đổ bột thuốc trắng rắc vào nơi vết thương.
Vừa lúc đó phía ngoài miệng cốc đã có tiếng binh khí va chạm, tiếng người hét vang vào trong cốc. Mỹ phụ trong thoáng chốc suy tư rồi vội vã đem cái gói bằng da thú đến bên con ô mã và nhanh nhẹn cột gói này vào dưới bụng con ngựa. Xong mỹ phụ lại kéo hai vạt da lót dưới yên ngựa cho dài để phủ kín cái gói dưới bụng ngựa.
Bỗng hai bóng người phóng đến gần mỹ phụ hét lên:
- Hãy đưa ngay bộ bí kíp toàn thư cho chúng ta.
Mỹ phụ hất ngược mái tóc ra sau để lộ ra gương mặt như tiên nữ lúc sa cơ, nàng gằn giọng:
- Hay cho Song Hung Ma Trảo, chúng bay cũng cấu kết với bọn nhị điện và tam động mưu đoạt bí kíp nữa à?
Một tên mặt dài như ngựa, da xanh như chàm cất tiếng cười khả ố đáp:
- Bí kíp toàn thư, người võ lâm ai mà không thèm muốn, vậy nên Tiên cơ đừng vội trách hai ta hợp lực với gần mỗi trăm cao thủ võ lâm đột công phu phụ Tiên cơ.
Mỹ phụ gật đầu đáp:
- Song hung nổi tiếng hung tàn bởi trảo quỷ, vậy giờ đây cũng còn gọi ta bằng hai tiếng Tiên cơ à?
Tên kia lúc nãy giờ đứng lặng thinh, chực chờ tấn công mỹ phụ nhưng giờ này hắn cũng nhe bộ răng quỷ trên khuôn mặt tròn lẳng với màu da đỏ tía trả lời cho tên mặt ngựa:
- Ai mà không sợ Bích Lạc Tiên Cơ nhuyễn tiên thần kiếm và phu quân của nàng là Thánh Kiếm Nam Chính Hùng, một đôi giai nhân hành hiệp vang danh võ lâm với đại danh Tiên Kiếm song hiệp.
Hắn gật gù rồi tiếp:
- Vì vậy mới có đêm hôm nay.
Vừa lúc đó từ phía ngoài miệng cốc, một thanh niên hán tử, bạch y bào máu nhuộm gần hết, tay cầm thanh báu kiếm loạng choạng chạy vào.
Mỹ phụ hốt hoảng gào lên:
- Phu quân
Nàng vừa hét vừa lao lại, nhưng Song hung đã chuẩn bị liền hợp lực, bốn cánh tay tung liền bốn trảo quỉ chớp giăng chận ngay mỹ phụ lại. Bích Lạc Tiên Cơ vội vung nhuyễn tiên kiếm phản công quỷ trảo.
Cùng lúc đó có hơn mấy chục cao thủ Hắc đạo ùa vào cốc, thế là một cuộc đụng độ lại tiếp diễn.
Lúc này Nam Chính Hùng đã mỏi mệt, vì cuộc tử chiến đã kéo dài từ đầm Dạ Mục, đến độc cốc cố ngăn kẻ thù cho Bích Lạc Tiên Cơ cùng ô mã chạy trước nhưng địch nhân quá đông và gồm những tay cao thủ liên hợp, luân chiến nên Thánh Kiếm Nam Chính Hùng đã bị mấy vết thương máu ra nên giảm sức.
Tuy vậy mang danh Thánh Kiếm nên đường kiếm của Nam Chính Hùng với những tuyệt chiêu tàn khốc đã làm thiệt hại không ít cho bọn Hắc đạo.
Đột nhiên Bích Lạc Tiên Cơ thoát ra miệng cốc. Thấy vậy Thánh Kiếm Nam Chính Hùng cũng không chậm trễ băng mình theo. Nhưng hai người vừa thoát đi đã hơn bốn chục tên Hắc đạo phóng theo.
Thánh Kiếm Nam Chính Hùng và Bích Lạc Tiên Cơ thoát khỏi cốc là chạy theo triền dãy Trường Độc phong sơn lên hẳn trên đỉnh cao đầy tuyết trắng.
Hai người vừa dừng chân đã có hơn năm mươi cao thủ Hắc đạo mai phục sẵn bổ vây hai người vào giữa.
Một giọng nói như lệnh vỡ vang lên:
- Đêm nay trên đỉnh băng sơn này là tuyệt địa của hai ngươi.
Thánh Kiếm Nam Chính Hùng nổi giận, gằn từng tiếng:
- Nhị vị Điện chủ và tam vị Động chủ cũng có mặt ở đây nữa à?
- Tại sao không? Vì chúng ta cần xem cho biết một bảo vật võ lâm ngàn năm đâu dễ tìm. Vậy vợ chồng ngươi biết điều thì hãy đưa ra đây, để cùng được chết toàn thây bên nhau.
- Chừng nào vợ chồng ta không có mặt trên thế gian này, lúc đó chúng bay tự do tự tại, còn bây giờ hãy động thủ.
Lời vừa dứt, Thánh Kiếm Nam Chính Hùng và Bích Lạc Tiên Cơ nhuyễn tiên thần kiếm hợp công với gần một trăm cao thủ Hắc đạo giang hồ.
Cuộc lưu huyết thế gian hi hữu trên đỉnh băng sơn được ghi lại như một huyền thoại trong suốt một đêm đông gió tuyết vì một bảo vật võ lâm nơi dãy Trường Độc phong sơn.
Những ngày mùa xuân sắp đến. Người nơi thành thị đã tấp nập mua sắm để chuẩn bị đón xuân.
Các quán hàng người người chen chúc.
Đại tửu lâu Thanh Xuân Mộng cũng đã chật khách. Lúc đó, một lão ông râu năm chòm bạc phếu, mình mặc thanh bào, tay cầm chiếc quạt đang dắt một đứa bé lên mười, bước vào tửu quán đưa mắt tìm bàn ngồi thì từ phía trong có một lão ăn mày tay cầm bầu rượu, chệnh choạng bước đến trước mặt ông lão thanh bào, chụp vai ông ta, sặc mùi rượu lên tiếng hỏi:
- La huynh, còn nhớ thằng ăn mày này không?
Lão trượng mặc thanh bào, nét mặt vui mừng như bắt được bạn hiền lâu ngày, đáp ngạc nhiên:
- Trời ơi! Đã hơn mười năm rồi mà Giang huynh cũng vẫn không rời bầu rượu.
Lão ăn mày vừa kéo lão trượng mặc thanh bào vào chiếc bàn lão ta đang ngồi lúc nãy tận phía trong vừa nói:
- Hãy vào đây cái đã. Chúng mình chén tạc chén thù cho bỏ những ngày xa cách.
Vừa ngồi xong, lão ăn mày nhìn đứa bé hỏi lão trượng mặc thanh bào:
- Đứa bé này là gì của La huynh vậy?
Lão trượng mặc thanh bào vừa xoa đầu thằng bé vừa đáp:
- Cháu của đệ đó.
- Ủa! La huynh đâu có con sao có cháu?
Lão trượng mặc thanh bào muốn ngăn nhưng cũng chẳng kịp nữa rồi. Lập tức liếc mắt nhìn thằng bé rồi cười dã lã với lão ăn mày:
- Giang huynh chưa biết đấy thôi, chứ đứa bé này tên là Đông Bích vì cha mẹ nó chẳng may bạo bịnh qua đời rồi ký thác lại cho lão từ thưở mới sinh đến giờ đấy chứ.
Nói xong, lão quay sang thằng bé, ôn tồn nói:
- Đông nhi, cháu bái kiến Giang lão tiền bối đi.
Đông nhi bước đến trước mặt lão ăn mày toan cúi xuống chào thì lão ăn mày đã đưa cái bầu rượu ra cản và cười khề khà với Đông Bích:
- Ông cháu thì lúc nào cũng lễ nghi phiền phức. Lão không thích đâu, cháu cứ tự nhiên đi.
Đông Bích bị lão ăn mày cản lại nên không hành lễ bái kiến được liền nghe lão trượng mặc thanh bào khẽ bảo:
- Lão tiền bối đã không thích thì thôi, cháu nên tuân lời người vậy.
Rồi lão nói tiếp:
- Nhân dịp này, ông cũng cho cháu biết là lão tiền bối đây là một người bạn hiền của ông, phương danh của người là Giang Thượng Khả với đại hiệu giang hồ là Túy Hồ lão tử.
Lão ăn mày tu một hơi rượu nơi bầu rồi xua tay lia lịa cười khề khà:
- La huynh, lão là kẻ ăn mày, nay đây mai đó, nhà không có một mái, thân sống lênh đênh theo gió bụi mây ngàn, tên hiệu đó có là gì đâu, chẳng qua giang hồ bạn hữu gán cho xú hiệu vì tật uống rượu ưa say của đệ đấy thôi.
Lão đưa bầu rượu lên nốc một hơi nữa rồi tiếp liền:
- Có cái danh mà thiên hạ giang hồ đến phải ca tụng là Ngự Thanh Y Lang, tay thần dược của tiên đế và là quan Ngự sử của Thanh triều đã dứt bỏ quan chức về mặc thanh bào phiêu diêu nơi rừng cao núi thẳm để tìm chế danh dược, mai ẩn cái tên La Hồng Chấn có đúng như vậy không, La huynh?
Lão mặc thanh bào nhìn bạn cảm thông:
- Giang huynh nhắc lại tiên đế làm lòng đệ chợt thấy nao nao, quyến luyến cho tình vua tôi đậm đà, rồi tiên đế đột ngột ra đi, cho bầy tôi trung phải căm hận mưu gian của nịnh thần, đành dứt áo ra đi khỏi vòng kiềm tỏa danh lợi.
Lão ăn mày tức Túy Hồ lão tử Giang Thượng Khả đang mải miết chuyện vãn với lão trượng mặc thanh bào tức là Ngự Thanh Y Lang La Hồng Chấn mà quên bẵng đi thằng bé mang tên Đông Bích, nên Túy Hồ lão tử nói lên với Ngự Thanh Y Lang:
- Chúng ta cứ mải miết luận đàm mà để cháu Đông Bích ngồi buồn mỗi mình vậy.
- Đã mười năm qua, hôm nay đệ mới đưa nó ra thị thành cho biết cảnh phong lưu, tấp nập, chứ ở nhà mãi, bắt nó vùi đầu trong bút nghiên và theo đệ hái thuốc, cứu người, bắt mạch, sợ nó chán nản, buồn phiền, hơn nữa cũng là dịp để cho cháu học thêm lịch duyệt, so sánh cái học trong văn chương, sách vở với thực tiếng trên đời ô trọc này.
Túy Hồ lão tử gật đầu tán đồng:
- Phải phải, nên lắm nên lắm, người xưa có nói "đi một ngày đàng, học một sàng khôn", huynh xử sự như vậy là phải lắm.
Rồi đột nhiên lão ngừng lại nói để cho Ngự Thanh Y Lang chú ý hơn:
- Nhưng theo đệ, đệ cứ thắc mắc trong lòng là tại sao La huynh không cho cháu Đông Bích tập luyện võ công. Vì theo con mắt của đệ, thì đệ thấy thiếu sót điều đó là làm mai một cho một thể chất căn cơ thành tựu thiên tài, trăm năm khó tìm, thiện ý của đệ như vậy huynh có thấy đúng được chỗ nào không?
- Với cặp mắt sắc bén của Giang huynh thì đệ xin thán phục. Nhưng vì huynh hỏi thì đệ cũng xin bày tỏ ý hướng của đệ mà theo đó là đệ nghĩ rằng cháu Đông Bích, thiên căn cốt cách được trời nắn thật hiếm hoi mới tìm thấy, nhưng cứ lấy cái võ học làm sức mạnh cho công lý thì trên giang hồ sao có được thanh bình trong tình thương.
Ngự Thanh Y Lang trầm ngâm, rồi nói:
- Mà dẫu cho có dụng võ học thì phải có căn bản về văn học, luyện tánh dưỡng tâm, như vậy cái văn mới tải được cái võ học thì lúc đó văn võ uyên thâm đạt thành mới phô diễn cái sở học tải được cái đạo mưu phúc cho quần hùng, bá tánh.
Từ lúc đầu đến giờ, Đông Bích vẫn ngồi lẳng lặng vừa nghe vừa ăn bữa cơm chiều cùng hai vị lão trượng, nhưng khi nghe Ngự Thanh Y Lang bàn về cái văn học, cái võ học với cái đạo làm người nên cậu mới lên tiếng góp ý với giọng chửng chạt.
- Thưa ngoại, thưa Túy Hồ lão tiền bối, theo sự hiểu biết thô thiển của cháu thì trong cái văn chương, sách vở cũng có hàng hà sa số đủ loại vì kẻ viết sách với từng mục đích riêng của họ. Nếu được đọc các bảo thư thì sự hữu ích thật là muôn ngàn cũng như khi va chạm với cõi đời phức tạp bởi lòng người man trá mà biết phân biệt giữa tà và chánh không có nguồn, bờ ngăn cách, vì trong Phật môn có câu "bỏ dao đồ tể có thể trở về với Phật". Như vậy con người có thể hôm nay dẫm trong nguồn mê tội ác nhưng nếu được giác tỉnh, hồi đầu quay về đường thẳng nẻo ngay thì lúc đó mới khó xử cho quan niệm hẹp hòi và như thế cũng đủ thấy lòng người khó đo, khó dò.
Túy Hồ lão tử vỗ tay đánh đốp một cái, gật đầu khen ngợi:
- Hay lắm, cháu mới bằng chừng ấy tuổi mà lý luận thông suốt, hợp đạo, hợp lẽ lắm. Nhưng lão vẫn nghĩ rằng ngoại cháu không cho cháu hấp thụ nền võ học là điều thiếu sót.
Ngự Thanh Y Lang chận lời ngay:
- Giang huynh nói vậy, chứ như thân đệ đây có biết gì là võ công, mà thấy vậy hay hơn, vì tránh được những cuộc đụng độ lưu huyết gây ân oán trong giang hồ triền miên bất tận.
Lão ngần ngừ giây lát rồi nhìn Đông Bích và Túy Hồ lão tử nói thong thả:
- Tuy vậy, nhưng đối với cháu Đông Bích nếu có cơ duyên, đệ đâu cố hẹp hòi, bo bo theo lối cố chấp.
Hai già một trẻ luận đàm cho đến nến đèn trong tửu lầu đã lên mới rời bàn ăn, rồi cùng lên lầu trên mướn phòng trọ ngụ qua đêm.
Một tên điếm nhị vừa đưa ba người vào một căn phòng rộng lớn nói lấy lòng khách trọ.
- Căn phòng này dành cho khách thượng lưu như tam vị, tuy tiền thuê có đắt chút ít, nhưng chắc chắn tam vị cùng chung ngụ với mọi tiện nghi thoải mái.
Ngự Thanh Y Lang quay bảo điếm nhị:
- Bây giờ còn sớm, nhưng đến khoảng hết canh hai ngươi nhớ mang lên cho ta một khay trà thượng hạng nhé!
Tên điếm nhị rối rít:
- Dạ, dạ vâng, con sẽ đưa loại trà thượng hảo hạng cho chư vị, mà chư vị thích loại Bạch Cúc trà hay Long Tỉnh trà vì hai loại này đều thuộc loại thượng hảo hạn ở đây.
- Nhà ngươi chọn cho ta loại Long Tỉnh trà vì loại này hương vị thắm đậm hơn.
Tên điếm nhị lại rối rít dạ vâng rồi rút lui sau khi cung cấp mọi cần thiết cho gian phòng mà hai già một trẻ trú ngụ.
Đai tửu lâu Thanh Xuân Mộng được dựng cạnh giòng Đại Thủy nên giờ này đứng trên lầu của tửu lầu nhìn được ra đến mặt sông với cảnh thuyền ghe đủ loại, đủ cỡ, đèn sáng chạy xuôi ngược dập dìu.
Cả ba mải miết ngắm cảnh thuyền đèn trên sông mà quên đi thời gian, cho đến khi bóng thuyền đã vắng ngắt trên sông, lúc đó cả ba mới quay vào phòng.
Gian phòng có ba chiếc giường nên Đông Bích xin phép Ngự Thanh Y Lang và Túy Hồ lão tử để đi nghỉ trước. Nó bèn lên giường nằm quay mặt vào phía tường không buồn động đậy như người đã ngủ, nhưng thật ra nó đã có chủ ý. Vì lúc chiều, trong cuộc nói chuyện giữa Ngự Thanh Y Lang và Túy Hồ lão tử đã đề cập đến thân phận của nó nhưng từ lúc nhỏ đến giờ, mặc dù sống trong tình thương trọn vẹn, cũng như sự săn sóc đầy đủ của ngoại nó là Ngự Thanh Y Lang nhưng chưa bao giờ ông nói cho nó biết về thân thế của cha mẹ nó. Đêm nay, nó hy vọng ngoại nó sẽ cho Túy Hồ lão tử biết một vài điều vì ngoại nó đã gọi trà để uống đêm. Nó đoán thế nên giả đò xin phép đi ngủ sớm để khỏi trở ngại cho hai người và biết đâu nó sẽ được nghe lén về thân thế, dẫu biết rằng nghe lén là không tốt, song đó là điều hệ trọng cho cuộc đời nó. Nó cố dằn sự nôn nao trong dạ, và thầm khấn cho cơ hội mà nó nghĩ sẽ xảy ra.
Nó chờ chực mãi rồi nó nghĩ miên man. Nó nghĩ đến những ngày ở nhà. Ngoại nó luôn luôn bắt nó phải đọc, phải học biết bao sách vở, chỗ nào nó không hiểu được là nó hỏi ngoại nó. Ngoài việc học hành văn chương kinh sách, ngoại nó lại bày vẽ nó cách thức nhận bệnh, kiểm mạch, chế luyện đan dược mà vì vậy trong mười năm qua, nó được huấn luyện mỗi cách căn bản về cái học văn chương, y lý kinh mạch. Nó đang để ý tưởng trở về với quá khứ thì có tiếng gõ cửa làm nó giật mình. Thì ra tiếng điếm nhị bưng trà như lời dặn của khách.
Sau khi điếm nhị lùi ra, cửa được đóng lại, Ngự Thanh Y Lang tay rót trà mời Túy Hồ lão tử:
- Đệ biết rằng Giang huynh chỉ thích rượu, nhưng Giang huynh cũng nên nhấm nháp chén trà để đổi mùi hương vị vậy, Giang huynh có thấy khó chịu lắm không?
- Ồ! La huynh sao bày vẽ quá. Dẫu đệ không biết uống trà, đệ cũng không dám chối từ, huống hồ đệ cũng thích loại Long Tỉnh trà đậm đà hương vị này lắm chứ!
Cả hai cười ra chiều đắc ý tương phùng.
Chợt Túy Hồ lão tử vừa để chén trà xuống với dáng nghiêm trang nhắc nhở:
- Mỗi lần đệ nhấm trà lại nhớ đến đại ca của La huynh, không biết bây giờ lão ở đâu?
Ngự Thanh Y Lang trầm ngâm buồn bã thở dài:
- Nhắc đến sư huynh của đệ làm đệ cảm thấy một sự éo le kỳ lạ. Bởi vì đệ và sư huynh của đệ thân tình từ thưở trẻ thơ, cùng chung một ý thích là tìm học về y dược. Nhưng sau đó, bởi chữ tình ngang trái thế nào mà sư huynh của đệ liền dứt tình ra đi phiêu diêu mây ngàn không còn biết dấu tích. Tuy nhiên, trong mười năm gần đây, đệ có nghe giang hồ đồn đại về tài thánh dược của một nhân vật kỳ quái, đệ định tâm tìm kiếm, để cần biết nhân tài một lần và xem ra có thể may mắn biết dấu tích sư huynh của đệ.
Túy Hồ lão tử gật gù:
- Chí phải, chí phải, mà có lẽ nhân vật nào đó tài dược hơn được huynh không, chứ hiện nay ai mà qua nổi huynh nữa chứ?
- Giang huynh khéo khen cho đệ thêm hổ thẹn. Đệ nghĩ rằng so với nhân vật đó chắc đệ còn thua kém nhiều.
Túy Hồ lão tử xua tay nói:
- Chuyện đó chưa minh chứng rõ ràng, đợi ngày nào có sự gặp gỡ hẳn hay, mà nhân vật đó đại hiệu gì huynh có rõ không?
- Nếu không biết được đại hiệu thì đệ đâu dám đề cập đến. Người đó có tên hiệu là Thánh Dược Độc Cô Sĩ.
- Đệ đi đây đó cũng quá nhiều, vậy mà chưa được nghe đến tên hiệu đó. Đúng là nghề nào tài ấy, cũng chẳng qua La huynh là tay thần y nên mới tìm biết được.
Sau những câu chuyện đắc ý là một ngụm trà thấm giọng.
Rồi Túy Hồ lão tử quay nhìn về phía Đông Bích, thấy nó ngủ yên nên mới quay sang hỏi Ngự Thanh Y Lang:
- Bây giờ, nếu có thể thì huynh cho đệ biết về trường hợp nào mà huynh có được cậu bé Đông Bích quá khôi ngô, thông minh và căn cơ hiếm thấy làm đệ thấy thích nó quá.
Ngự Thanh Y Lang dễ dãi:
- Chuyện gì chứ việc ấy đệ xin trình bày với huynh ngay.
Lão uống ngụm trà nữa rồi bắt đầu kể:
- Giang huynh à, hôm đó vào một ngày cuối đông, cách nay đã hơn mười năm. Buổi sáng hôm đó tuyết vẫn còn rơi nơi miền núi Trường Độc phong sơn. Đệ tìm các loại thuốc thông thường thôi. Nên đệ lại tiếp tục vào độc cốc dưới chân dãy Trường Độc phong sơn nhưng vừa vào thì đệ nghe tiếng trẻ con khóc lên mấy tiếng có vẻ yếu ớt lắm. Đệ tìm mãi, bỗng thấy một con ngựa ô nằm chết trong một lùm cây mà tuyết rơi phủ đầy. Đệ lại men đến, lúc này nghe tiếng khóc của đứa trẻ chỗ con ngựa nên không còn ngần ngại nữa, đệ moi tuyết lên thì dưới bụng con ngựa còn có một gói bằng da thú. Đệ vội vàng mở đem ra và khi cái bao da được mở tung ra, đệ mới thấy một thằng bé đang lạnh cóng, khóc ú ớ. Thằng bé này chắc cũng vừa sinh hạ một đôi ngày thôi. Song nó nhờ có bao da thú che tuyết lạnh chứ nếu không thì không cách gì đệ cứu sống nó được. Đệ vội vàng đem hồi dương sinh khí dược hoàn mớm cho nó và rồi mang về tệ gia mướn người nuôi nấng cho đến khi biết đi biết nói, đệ mới huấn dạy văn chương, phong cách và ngoài ra đệ còn ra công chăm luyện cho nó những gì đệ hiểu biết về ngành y lý. Nhờ được sự thông minh tột chúng, nó thu đạt một cách dễ dàng. Rồi nó ngày càng khôi ngô, vương vĩ. Sự mến yêu của đệ đối với nó có thể là tột cùng. Và đệ lúc nào cũng thích có nó ở bên cạnh bàn chuyện văn chương thế sự trong những giờ nhàn rỗi.
Từ nãy đến giờ Túy Hồ lão tử yên lặng lắng nghe Ngự Thanh Y Lang lược kể. Đến đây lão mới lên tiếng:
- Rồi La huynh nghĩ thế mà đặt cho nó cái tên Đông Bích hay là cha mẹ nó có để tên họ tông tích lại.
Ngự Thanh Y Lang mỉm cười trả lời:
- Thật khi đặt tên cho nó, đệ không có nghĩ gì sâu xa cả. Thứ nhất là đệ thấy trong người nó có mang một viên ngọc bích hình bát giác, có lẽ là cha mẹ nó lưu lại cái di vật cuối cùng này cho nó và đệ tìm gặp nó vào mùa đông nên đệ đặt nó là Đông Bích.
Lão ngừng lại, uống một hớp trà rồi tiếp:
- Hơn nữa, chữ Đông Bích là tên của một ngôi sao trong thập nhị bát tú, thuộc văn chương mà đệ có hoài bảo là nó sẽ nở mày nở mặt với thiên hạ bằng sở học văn chương. Chính vì vậy mà đệ dùng một chữ kép điển tích, mang ước vọng của đệ và cùng hòa hợp với sở vật của nó và mùa sinh ra nó để hợp tên mà đặt.
Túy Hồ lão tử ngắt ngang:
- Còn họ của nó, nếu huynh không biết sao không để họ của huynh mà lại để tên không vậy. Chẳng lẽ nó mang họ Đông?
- Cũng ở chỗ đệ chẳng biết họ của cha mẹ nó nên đệ không muốn hồ đồ mà cứ để vậy mà đợi trời cao dun dủi cho nó tìm gặp cha mẹ nó, lúc đó nó gán cái họ vào cũng chẳng sao.
- La huynh thật là người ngay thẳng, nhưng như vậy ắt trong lòng La huynh đã ngờ rằng một ngày nào đó La huynh phải cho cháu Đông Bích tầm sư học võ để cho nó tìm thù chứ.
Ngự Thanh Y Lang gật gù:
- Không phải là đệ cố chấp hẹp hòi, trọng văn khinh võ như đã trình bày với huynh, nên đệ nghĩ rằng, trước hết nó phải có một căn bản văn học, rồi sau sẽ tùy duyên ngộ riêng tư của nó mà an bài cho hành trình mai hậu của nó vậy.
Hai vị lão trượng chuyện trò thật đắc ý, và cũng tưởng rằng cậu bé Đông Bích đã thả hồn trong giấc ngủ nhiều mộng đến. Nhưng thật ra nó vẫn thức và thức một cách tỉnh táo. Nó ghi vào lòng cuộc đàm thoại này. Cuộc đàm thoại mà mười năm nay nó hằng mong ước mà chẳng bao giờ ngoại nó hé môi cho nó biết. Và giờ đây, nó hiểu được thân thế của nó mù mịt. Cha mẹ của nó đã như thế nào và tại sao lại bỏ nó bên con ngựa chết trong vùng băng tuyết. Đã mười năm rồi nó sống trong khắc khoải mong chờ của một đứa trẻ thông minh tuyệt vời. Nó yên lặng nằm quay mặt vào trong tường mà tưởng nghĩ trong muôn ngàn ý nghĩ để tưởng tượng hình ảnh của cha mẹ nó. Sự bi thương cùng cực đã làm cho nước mắt nó rơi ước lạnh bên má nên nó giật mình, nhưng may thay lúc này trong phòng đèn tắt. Ngự Thanh Y Lang và Túy Hồ lão tử đã đi nghỉ nên chẳng ai thấy cảnh thương tâm, đau lòng này. Rồi nó lại suy nghĩ và đột nhiên đưa tay sờ miếng ngọc bích hình bát giác đeo nơi ngực mà thấy mến yêu một cách lạ lùng và tha thiết hơn bao giờ hết. Những hình ảnh chập chờn đến với nó theo sự tưởng tượng dồi dào của nó. Nó suy luận và cho rằng cha mẹ hẳn phải là người trong giới võ lâm vì nó nằm bên cạnh con ngựa chết trong vùng tuyết giá, nơi độc cốc hiểm nguy thì kẻ thường tình chẳng bao giờ bén mảng đến làm gì. Nếu không thì nó bị người bắt và rồi người này có lẽ bị giết đồng thời với con ngựa. Nhưng cách nào rồi nó cũng nghĩ rằng cha mẹ nó cũng đã bị kẻ nào giết chết ngay lúc nó vừa sinh ra. Như vậy thì nó phải tìm cho ra kẻ thù để biết thân phận và cha mẹ nó. Nó nghĩ mãi, nghĩ cho đến lúc mệt quá, nó thiếp đi trong cơn mộng hãi hùng, triền miên dằn vặt nó, đang nung nấu, manh nha cho sự bất bình trong uất hận của tuổi trẻ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 23:05:40 | Chỉ xem của tác giả
HÀN ĐỘC MA TÔN

Sau một đêm nghỉ tại đại tửu lâu Thanh Xuân Mộng, sáng hôm sau Ngự Thanh Y Lang, Túy Hồ lão tử và Đông Bích dự định ra dạo vòng quanh phố xá nhộn nhịp. Nhưng vừa ra khỏi đại tửu lâu chưa xa, bỗng Túy Hồ lão tử lại đổi ý nên nói với Ngự Thanh Y Lang:
- La huynh, gặp huynh mừng rỡ quá nên mải mê hàn huyên mà quên bẳng một việc người bạn của đệ đã ký thác nên bây giờ đệ xin phép ra đi trước một bước.
Ngự Thanh Y Lang mau mắn:
- Ồ! Nếu Giang huynh có bận việc thì cứ tự tiện đi. Chúng ta sẽ gặp lại lần khác để đàm luận thỏa thích hơn.
- Đệ cũng mong như vậy, bây giờ đệ xin cáo từ La huynh hãy dạo phố phường cùng với cháu Đông Bích.
Vừa nói dứt, lão chào hai người rồi phút chốc khuất dạng, Túy Hồ lão tử trở ngược đường, lẫn vào đám người đi thật nhanh.
Đông Bích quay mặt nhìn theo dáng suy tư rồi cất tiếng hỏi Ngự Thanh Y Lang:
- Ngoại ơi! Túy Hồ tiền bối cũng là nhân vật giang hồ?
- Ừ, mà cháu hỏi chi vậy?
Đông Bích hơi ngần ngừ rồi mới nũng nịu:
- Cháu hỏi vậy để cho biết, mà có lẽ lão tiền bối đó vang danh bởi cái bầu rượu, lúc nào ông ta cũng giữ bên mình phải không ngoại?
Ngự Thanh Y Lang nhìn Đông Bích nói:
- Cháu nói đúng đấy, vì cái bầu rượu của lão ta là vũ khí phòng thân của lão đấy. Bầu rượu đó được chế luyện đặc biệt lắm, dùng như thép quí vậy. Hơn nữa, nghe nói trong bầu rượu của lão có cái ảo diệu mà hắc bạch giang hồ cũng ngại lắm. Nhưng điều đó là ngoại mới nghe thôi, chứ chưa được thấy lão ta sử dụng bao giờ.
Đông Bích buộc miệng:
- Giang hồ thật là phức tạp.
Ngự Thanh Y Lang tiếp lời:
- Vì vậy mà ngoại muốn cháu có một nhận định rõ ràng, sáng suốt trước khi hành động để tránh cái hậu quả khó lường của tình đời nhân thế.
Khi bóng của Túy Hồ lão tử đã khuất xa trong đám người, hai ông cháu Đông Bích mới quay gót tiếp tục cuộc hành trình đã định.
Vừa đi Đông Bích vừa hỏi:
- Ngoại ơi! Cháu nghe rằng những vị ăn mày mà là cao thủ võ lâm thì ở trong Cái bang và được định cấp bằng gậy và y trang. Song ở Túy Hồ lão tiền bối cháu chẳng thấy ông ta có túi nào cả mà sao cũng là cao thủ lừng danh như ngoại nói?
Ngự Thanh Y Lang gật gù trả lời:
- Cháu có nhiều nhận xét và quan sát lắm. Nhưng riêng trường hợp Túy Hồ lão tử tiền bối lại ngoại lệ. Vì lão ta không muốn gia nhập vào Cái bang, mà cũng không đi xin ăn. Sở dĩ vì vậy lão ta trước kia là đệ tử của một Bang chủ đã quá vãng nên lão hành hiệp dưới danh hiệu lão ăn mày với cái bầu rượu thành danh trong giang hồ.
Đông Bích cười tán đồng:
- Như vậy cũng hay, miễn là mục đích là hành hiệp cứu đời chánh danh là được, không cần chú thiết đến hình thức rườm rà, khi không có thực chất phải không ngoại?
- Ừ! Cháu nghĩ thế cũng phải lắm.
Hai ông cháu Đông Bích vừa chuyện trò vừa dạo ngắm phố hàng, thỉnh thoảng ghé mua các thực dụng hay các món sắm sửa cho những ngày xuân sắp đến.
Mọi việc mua sắm đã xong xuôi thì trời đã quá trưa. Hai ông cháu tìm quán độ trưa, rồi lại tiếp tục lên đường trở về nhà.
Ngự Thanh Y Lang quay sang nói với Đông Bích:
- Vậy là mùa xuân này, ông cháu chúng ta đầy đủ bánh mứt, trà rượu để đón chúa xuân rồi Đông Bích nhỉ?
Đông Bích hớn hở:
- Còn hơn hai mươi ngày nữa là chúa xuân ngự trên vạn vật. Cháu nghĩ đến cái vườn hoa của ngoại mà thấy thích quá. Mặc dù gian nhà cỏ của chúng ta mãi tận trong hốc núi nhưng nó thơ mộng quá phải không ngoại?
Không đợi cho Ngự Thanh Y Lang trả lời, Đông Bích miên man nói tiếp:
- À! Này ngoại này, trời xuân tiết đẹp gió thoảng nghe hương, mà nhà mình lại đủ loại bánh lan thì còn mùi hương nào diễm tuyệt bằng. Trời ơi! Lúc ấy ông cháu mình chắc sẽ thấy thanh thoảng thoát tục biết mấy. Rồi muông chim rừng hợp tấu khúc nhạc xuân chắc hay hơn trong những sáng chúng thường ca hót trên cành bách tùng, hay trên thùy dương chót vót.
Nó đang nói thao thao bỗng nhiên nó ngưng bặt, mặt buồn hiu đột ngột làm Ngự Thanh Y Lang ngạc nhiên nhìn nó hỏi:
- Ủa sao cháu đang vui vẻ mà tại vì sao lại ủ dột vậy?
Đông Bích làm thinh cắm cúi tiến bước không trả lời. Ngự Thanh Y Lang tiến sát bên nó vừa đi vừa ôn tồn:
- Hay là cháu buồn vì cô đơn như hơn mười năm qua. Một mái nhà nhỏ chỉ có hai ông cháu quạnh hiu hủ hỉ với nhau cùng muôn chim, muôn thú vạn hoa thiên nhiên.
Đông Bích chợt ngừng chân, ngẩng mặt nhìn Ngự Thanh Y Lang rồi không hiểu nó muốn nói gì lại thôi, nên ngoại nó mới hỏi:
- Cháu có điều gì thắc mắc cứ nói để ông cháu chúng ta cùng bàn luận xem sao.
Nó yên lặng một chốc rồi nhỏ nhẹ:
- Thôi ngoại ạ, bây giờ chúng ta đi cho nhanh hơn để về nhà cháu có mấy điều xin thỉnh ý của ngoại.
- Vậy mà cháu làm ngoại tưởng là việc gì hệ trọng gấp gấp lắm.
Ngự Thanh Y Lang và Đông Bích mải miết đi cho đến hoàng hôn thì gặp ngả ba một con đường vắng.
Ngự Thanh Y Lang đứng lại nơi ngả ba lên tiếng:
- Chúng ta tách qua con đường này lên mạn Bắc để ngoại ghé thăm một ông bạn chí thân rất thường đi lại nơi giang hồ để học hỏi thêm.
- Vậy thì thích quá, cháu lại được biết thêm về danh lam thắng cảnh nữa.
- Chứ cháu không nóng về nhà à!
- Thưa ngoại, trước sau gì cũng về tới nhà, mười năm vậy mà đã qua nhanh chóng huống hồ trong vài hôm thưởng ngoạn thâu thập nhiều điều hữu ích.
- Nếu thế thì chúng ta đi gấp đêm nay, nhân đường từ đây đến vùng có quán xá khoảng canh một đến thôi.
- Thế bây giờ chúng ta cứ đi đến đâu hay đến đó.
Ngự Thanh Y Lang ngần ngừ:
- Mà con đường này từ hơn mười năm nay ngoại chưa qua lại lần nào, không hiểu có gì thay đổi chưa?
Rồi lão cương quyết:
- Ồ, nói thế chứ chúng ta có làm hại ai, gây sự ai đâu mà ngại.
Thế rồi hai ông cháu rẽ qua ngã ba tiến bước trong buổi hoàng hôn.
Con đường phải đi qua một vùng rừng vắng nhưng hai người không e ngại, lầm lủi tiến bước.
Những tia nắng sau cùng yếu ớt chen qua kẻ lá trong khoảnh khắc, rồi chết lịm khi vừng ô chui vào phía trời tây. Từng đàn chim kéo nhau về tổ. Thỉnh thoảng bên mé đường vài con chim lạ rúc lên từng hồi não ruột. Bóng tối lên nhanh. Rồi bỗng trời vần vũ. Mây đen kéo nhau chạy về phủ lấy một vùng. Những ngọn gió đổi chiều xoáy lốc lá rừng bay tán loạn. Những con chim nó giật mình rời nơi trú ẩn kêu lên hãi hùng vù bay nơi khác. Tiếng sấm rền vang sau cái chớp ngoằn ngoèo.
Rồi trời chợt đổ mưa.
Ngự Thanh Y Lang chỉ tay về phía trước:
- Cháu à, phía trước kia có ngôi miếu cũ kìa, chúng ta chạy mau đến nơi đó để trú mưa đi.
Hai ông cháu cước trình dồn dập chạy nhanh về phía trước nhưng vì còn khá xa nên cũng bị nước mưa thấm ướt cả đồ đạc, áo quần. Hai người chui nhanh vào miếu cũ tạm trú mưa và thay đổi y phục. Sau khi sửa soạn lại đồ đạt, Ngự Thanh Y Lang mới lên tiếng:
- Cơn mưa giông bất chợt này hại quá, nhưng chắc là sắp tạnh rồi.
Vì là mưa giông nên cơn mưa không lâu lắm. Khi dứt hẳn cơn mưa, mây đen không còn nữa, nhường lại cho bầu trời đầy sao.
Ngự Thanh Y Lang bước ra khỏi miếu cũ cùng với Đông Bích nhìn trời tư lự rồi hỏi Đông Bích:
- Bây giờ chúng ta đi hay là nghỉ tạm ở miếu này.
Đông Bích do dự rồi nói:
- Trời mát quá, chúng ta đi tiếp nữa đi ngoại, chừng nào buồn ngủ hãy tìm chỗ sau. Dẫu thế nào cũng ngủ nhè nơi miếu cũ, bóng cây rồi đó.
Ngự Thanh Y Lang đồng ý:
- Vậy chúng ta lên đường.
Khí trời oi ả lúc chiều, giờ được cơn mưa đã làm mát diệu. Trời đã tối rồi nhưng bầu trời có sao sáng nên hai người vẫn thấy lối đi dễ dàng. Chỉ hơi ngại ngùng vì đường quá vắng vẻ thê lương.
Một già một trẻ đi độ hơn ba khắc thời gian nữa thì bỗng nhiên nghe tiếng rên khe khẽ một cách đau đớn của một người bị thương. Cả hai đều dừng lại rồi cùng tiếng về phía có tiếng rên rỉ. Đi hơn mười bước thì phía sau một tảng đá có một nhà sư ngoi ngóp. Ngự Thanh Y Lang vừa trông thấy là sà xuống chẩn mạch ngay cho nhà sư. Gương mặt lão trầm trọng trong giây lát rồi nhìn Đông Bích lắc đầu khẽ bảo:
- Kinh mạch của vị này hoàn toàn bị phá hủy. Đây là giây phút hồi dương của người đây.
Trong khi lão ngẩng đầu lên liền bắt gặp một vài cái xác ngổn ngang gần đấy nên lão đi nhanh lại mấy xác đó xem mạch, may ra còn cứu sống được người nào. Trong khi đó, nhà sư vừa tỉnh lại trong giây phút chót của cuộc đời nơi trần thế. Nhà sư vừa mở mắt nhìn thấy Đông Bích ngồi cạnh bên nên thều thào:
- Nhờ tiểu bằng hữu vui lòng giúp ta đưa vòng hạt này về chùa Thiếu Lâm và
Nói đến đây nhà sư gần như đứt hơi, tay yếu ớt đưa chiếc vòng kết bởi tám hạt bồ đề đen tuyền rồi mắt chớp lên mấy cái nói tiếp, giọng đứt quảng:
- Nói lại với Phương trượng lão đã gặp Hàn Độc Ma Tôn và bị hại bởi tay lão.
Nói tới đây, nhà sư ngoẹo đầu đi về bên kia thế giới.
Đông Bích bùi ngùi cầm lấy vòng hạt bồ đề bỏ vào người thì lúc đó tại cuộc diện đã có ba người từ lúc nào.
Một tràng cười ma quái của một lão quái nhân tóc đen phủ dài xuống áo màu đen rộng, nổi lên rùng rợn.
Chưa nói thêm lời nào thì lão quái nhân đã liền tay tung hai chưởng cực mạnh vào người Ngự Thanh Y Lang.
Trong lúc này Ngự Thanh Y Lang đang đứng cách xa Đông Bích hơn mười bước đang hứng trọn hai ngọn chưởng khủng khiếp của lão ma quái thì lão ta cũng đã buông lời ngạo nghễ:
- Cho tên đạo sĩ đồng bọn này gặp mặt bạn bè bởi tay Hàn Độc Ma Tôn thì vinh hạnh lắm rồi.
Lão quát xong thì Ngự Thanh Y Lang như diều đứt dây, thân hình bay bổng ra phía sau mười trượng, rơi chạm vào một tảng đá lớn nát nhừ thân xác.
Đông Bích ngẩng ngơ rồi khi thấy ngoại nó bị người ta đánh chết nên phóng người chạy theo xác Ngự Thanh Y Lang nhưng khi vừa đến bên xác ngoại nó. Nó bỗng cảm thấy một luồng gió lạnh như băng tuyết thốc vào người, cuốn bỗng nó lên trên không, văng vẳng còn nghe tiếng của lão quái nhân:
- Cho tên tiểu đồng này nếm Hàn Băng Độc Trùng Phân Cốt chưởng của Ma tôn.
Rồi nó cảm thấy buốt người và lịm dần theo tiếng cười của lão ma quái.
Vừa tỉnh dậy, cặp mắt hé mở từ từ, Đông Bích thấy lờ mờ trước mắt dáng một nhà sư đang ngồi im nhìn nó. Đông Bích nhắm mắt lại rồi mở mắt ra và thấy nhà sư trước mắt một cách rõ ràng hơn.
Nó nghiêng mình định nhỏm dậy nhưng cả thân người nó cảm thấy đau nhức khủng khiếp làm nó nhăn mặt đành nằm im và nghe tiếng nhà sư nói khẽ:
- Tiểu bằng hữu, khoan cử động, cứ nằm yên, tĩnh dưỡng cho thương tích liền hợp đã.
Cơn đau hơi bớt một chút ít thì Đông Bích liền nghĩ lại cái đêm tai nạn với ngoại nó nên nó liền hỏi:
- Thưa đại sư, nơi đây là đâu và tại sao cháu lại nằm ở đây.
Nó nhìn theo dáng dấp hiền từ của vị sư già khi ông ta cười nhẹ bảo với nó:
- Thật hữu duyên may mắn nên khi tiểu bằng hữu bị nạn, thì cũng đêm hôm ấy đại sư bá của bần tăng đi ngang qua chỗ cục diện nan nguy nên mới có dịp cứu được tiểu bằng hữu mang về Thiếu Lâm đại tự.
Vị sư già ngừng một chốc rồi lại tiếp:
- Lúc đó tiểu bằng hữu bị trúng Hàn Băng Độc Trùng Phân Cốt chưởng nên châu thân kinh mạch đã rời rạc. Cũng may là thể cốt của tiểu bằng hữu thế gian hi hữu và nhờ đó mà đại sư bá của bần tăng dùng Thiên Niên Hóa Độc hoàn và Huyền Công cương khí mới dồn độc trùng và hàn băng về phía dưới Đan Điền của tiểu bằng hữu nhưng
Vị đại sư nói đến đây rồi bỏ lửng câu chuyện không nói tiếp nên Đông Bích nhìn đại sư nói nho nhỏ:
- Vì độc trùng và hàn băng không thoát được ra khỏi thân thể nên phương pháp trên chỉ tạm thời giữ an nguy trong một thời gian rồi cũng có một ngày nào đó nó phát tác là không có cách gì cứu được phải không thưa đại sư?
Vị đại sư gật đầu thán phục:
- Tiểu bằng hữu tuổi còn trẻ mà y lý cũng quá rành, chắc là tiểu bằng hữu được danh y truyền nghề phải không?
Khi đại sư nhắc đến việc y lý làm cho Đông Bích nhớ đến Ngự Thanh Y Lang, nó hốt hoảng hỏi dồn đại sư:
- Thưa đại sư, còn ngoại cháu ra thế nào.
Vị đại sư chưa biết phải trả lời ra sao thì bên ngoài gian phòng để cho Đông Bích dưỡng bịnh có tiếng vọng vào:
- Nguyên Lăng sư đệ, có đại sư bá vào thăm vị tiểu bằng hữu đây.
Vị đại sư quay sang nói với Đông Bích:
- Phương Trí chưởng môn và đại sư bá của bần tăng vào thăm tiểu bằng hữu đó.
Vừa nói xong đại sư vượt nhanh ra ngoài để đón nhị vị đại sư kia vào phòng của Đông Bích đang nằm.
Cánh cửa phòng vừa mở ra thì đã thấy vị đại sư lúc nãy tức là Nguyên Lăng đại sư đưa hai vị sư già khác vừa đến bên giường bệnh của Đông Bích. Nó lật đật định ngồi dậy nhưng sự đau đớn làm nó nhăn mặt và cũng nghe tiếng vị đại sư bá của Nguyên Lăng đại sư lên tiếng:
- Tiểu bằng hữu chớ ngồi dậy, cứ nằm yên dưỡng cho vết thương chóng lành.
Đông Bích đành nằm yên cất tiếng:
- Hạ mạc hậu sinh tên Đông Bích xin kính ra mắt nhị vị đại sư.
Vị Phương trượng Chưởng môn nhìn hai vị sư kia rồi lên tiếng trước:
- Tiểu bằng hữu chớ ngại, bần tăng cũng xin giới thiệu để tiểu bằng hữu được rõ ràng hơn.
Rồi đại sư đưa tay chỉ vị sư đứng gần Đông Bích nói:
- Đây là đại sư bá của bần tăng đã may mắn đưa được tiểu bằng hữu về đây, vì người phiêu bạt mây trời ít khi ghé tới đại tự này lắm, hiệu danh của người là Huyền Không.
Đông Bích tuy nằm trên giường nhưng vẫn chắp tay bái đại sư, nói:
- Ơn cứu tử của người, Đông Bích này trọn đời xin ghi tạc.
Huyền Không đại sư ngồi xuống chiếc ghế cạnh Đông Bích xua tay:
- Tiểu bằng hữu đừng có nói vậy, cũng may mắn là cốt thể của tiểu bằng hữu thật lạ lùng, nếu không thì bần tăng có là thánh cũng không chữa nổi.
Vị đại sư quay sang vị Chưởng môn rồi nói cho mọi người đó nghe:
- Sư bá sẽ lưu lại đại tự này chừng mươi ngày để xem thương tích của tiểu bằng hữu đây như thế nào rồi sau đó sư bá sẽ liệu. Trong thời gian tiểu bằng hữu lưu lại đây, ta muốn nhờ Phương trượng Chưởng môn lo liệu cho mọi việc và bây giờ Chưởng môn và Nguyên Lăng ở đây vì ta cần đến tịnh thất lấy ít thuốc cho vị tiểu bằng hữu đây.
Nói xong, vị đại sư thủng thỉnh đi ra, Đông Bích nhìn vị đại sư Huyền Không mà lòng thấy thương mến và kinh ngạc vì đại sư đã là sư bá của vị Chưởng môn, mà Phương Trí chưởng môn cũng đã già rồi, thì chắc Huyền Không đại sư có hơn trăm tuổi, song dung mạo thật phương phi. Nó chợt nhớ đến Ngự Thanh Y Lang nên hỏi vị đại sư Chưởng môn:
- Thưa Chưởng môn, để cho được thân mật hơn, xin đại sư cứ gọi cháu là Đông Bích chứ đừng dùng ba chữ tiểu bằng hữu mà cháu thấy đắc tội với quí vị đại sư quá. Mong rằng quí vị đại sư chấp thuận cho.
- Nếu cháu muốn thì bần tăng xin chìu vậy.
Một sự thông cảm đôi bên đạt thành sự thân mật chí tình.
Lúc này Đông Bích mới hỏi:
- Thưa đại sư Chưởng môn, lúc bị nạn có cả ngoại của cháu, cũng bị chưởng độc của tên Ma tôn, không biết bây giờ ở nơi nào đại sư có biết không?
- Bần tăng có nghe đại sư bá của bần tăng kể lại là có nhiều người bị chết tại nơi đó đều được đại sư bá của bần tăng chôn trong vùng đó cả rồi, riêng có vị bát sư đệ của bần tăng là được đại sư bá mang về hỏa thiêu.
Rồi đại sư quay nhìn Đông Bích hỏi:
- Trong khi săn sóc thương tích cho cháu, bần tăng có bắt gặp chiếc vòng tám hạt bồ đề của bát sư đệ của bần tăng nên bần tăng đã để trên kệ thờ và giờ đây xin hỏi thêm để hiểu biết duyên cớ vì sao mà cháu có chiếc vòng đó.
Đông Bích đã biết không còn chiếc vòng trong người từ lúc tỉnh dậy nhưng chưa tiện hỏi, bây giờ đã biết được nên trả lời:
- Thưa đại sư Chưởng môn, trên đường về nhà cháu và ngoại cháu là Ngự Thanh Y Lang La Hồng Chấn...
Vị đại sư Chưởng môn nghe Đông Bích nói đến đây liền chận lời kinh ngạc:
- Trời ơi! Té ra ngoại của cháu là vị thần y ẩn tích.
Rồi đại sư Chưởng môn lẩm bẩm một mình:
- Mô phật, lại một tai ách võ lâm, đã mất đi một nhân tài kỳ bí hiếm có.
Rồi đại sư Chưởng môn nhìn sang Nguyên Lăng đại sư truyền lệnh:
- Ngũ sư đệ, hãy trở lại chỗ vị thần y Ngự Thanh Y Lang lập chi mộ cho người cẩn thận để lưu dấu cho hậu thế.
Nguyên Lăng đại sư vâng lệnh đi ngay.
Đại sư Chưởng môn lại nói với Đông Bích:
- Mọi sự để cho bần tăng lo liệu, cháu cứ an tâm dưỡng thương vì từ đây đến nơi cháu bị nạn có hơn tám trăm dặm đường. Vậy khi nào cháu lành mạnh hãy đến chiêm bái. Mà có phải là ngoại cháu râu năm chòm bạc dài và mặc thanh y phải không?
Đông Bích đáp ngay:
- Dạ, đúng y nguyên dạng rồi vậy, kính tại hạ ơn sâu của đại sư lo lắng.
Vị Chưởng môn xua tay hỏi tiếp:
- Chuyện đó không đáng gì, bây giờ bần tăng muốn biết trường hợp gặp gỡ của bát sư đệ của bần tăng.
Đông Bích nhíu mày, thong thả kể tất cả sự gặp gỡ và những lời bát sư đệ của vị Chưởng môn dặn dò cho đến khi nó bị Ma tôn tung chưởng đánh nó bay lên trên không.
Đại sư Chưởng môn nghe xong thở dài:
- Duyên nghiệp của bát sư đệ vậy là đã mãn. Nhưng cũng là một điều đại họa cho võ lâm sắp đến rồi.
Đông Bích tiếp:
- Đại sư Chưởng môn muốn đề cập đến tên quái nhân Ma tôn.
Đại sư nhìn xa xôi gật đầu:
- Phải lắm, chẳng những thế mà nghe nói hiện giờ còn lắm phe phái Hắc đạo bí mật hoành hành gây cảnh thê lương cho bá tánh quần hào võ lâm. Nên bát sư đệ của bần tăng phải ra giang hồ tìm dò tin tức, chẳng may vắn số về chầu dưới chân Phật tổ mà nhiệm vụ chưa thành.
Rồi đại sư nói với Đông Bích:
- Hiện trạng bệnh tình của cháu
Đông Bích thấy vị đại sư ngần ngừ nên nó tiếp lời:
- Hiện giờ bệnh cháu tạm yên, chờ ngoại thương lành là cử động như thường nhưng nội thương chờ ngày phát tác khó lường.
Vị đại sư Chưởng môn e ngại:
- Sư bá của bần tăng đã hết tâm chữa trị nhưng thứ độc trùng và hàn băng của tên Ma tôn thật thiên hạ khó trị, vì cháu không có võ công, nên không tự trục ra được. Chắc cháu thông đạt vè y lý cũng biết được điều đó. Chỉ trừ ra, gặp được thứ tiên dược có đặc tính hấp thụ được hàn băng và độc trùng trong vòng một trăm ngày nữa, nếu quá hạn đó mà không chữa trị được thì
Đông Bích cũng biết được hậu quả sau một trăm ngày nên nó thản nhiên:
- Đại sư Chưởng môn có lòng lo nghĩ cho cháu, cháu rất đội ơn nhưng hữu mạng hữu số lo lắng lắm cũng chẳng cải được gì. Nhưng cháu chỉ tiếc rằng là tên Ma tôn độc ác không được chính tay cháu sửa trị mà đã nằm sâu dưới ba thước đất là điều đáng thủi nhục cho đấng tu mi thế thôi.
Vừa lúc này, Huyền Không đại sư trở lại, vừa đưa một hoàn thuốc màu đỏ nực hương thơm ngát, vừa nói với Đông Bích:
- Không ngờ ngoại của tiểu bằng hữu đây là Ngự Thanh Y Lang. Thật đáng tiếc và đáng giận cho tên cuồng ma Hàn Độc Ma Tôn giết người bất chấp, bất biết nguyên lý phải trái gì cả.
Đông Bích sụt sùi:
- Đại sư hôm đó có chôn cất ngoại của cháu phải không ạ?
Đại sư gật đầu:
- Ta chôn cất tất cả mọi người nhưng lúc đó ta thật tình chưa biết là Ngự Thanh Y Lang, vì tự lúc nào đến giờ, ta chưa được hội kiến với thần y đó cả.
Đột nhiên đại sư quay gọi tha thiết:
- Tiểu bằng hữu
Đông Bích nhìn đại sư ngăn:
- Đại sư gọi cháu bằng cháu hay Đông nhi đi cho được gần gủi hơn.
Đại sư gật gù:
- Được, ta bằng lòng, vậy cháy hãy uống viên thuốc Đả ngoại thương hàn này đi để cho dễ chịu vì cháu đã mê thiếp luôn ba ngày hôm nay rồi, cứ uống hoàn thuốc này chắc ngày mai có thể cử động đi đứng như thường rồi.
Đông Bích vâng lời, bỏ ngay viên thuốc vào miệng, vói tay lấy bát nước uống ngay viên thuốc vào. Huyền Không đại sư đã nói:
- Cháu hãy đi nghỉ đi, ta và Chưởng môn có việc phải ra và thay mặt Chưởng môn nhân đây có lời cảm ơn thạnh ý của cháu về việc trao lại bửu vật bát khuyên huyền hạt về chùa Thiếu Lâm của bát đệ tử Thanh Chì.
- Xin đại sư đừng dạy vậy, cháu đây còn hơi thở là muôn lòng ghi tạc nghĩa cứu sanh của đại sư.
- Thôi được rồi, bây giờ chúng ta lui để cho cháu yên nghỉ vậy.
Hai vị đại sư lui ra, cánh cửa vừa được nhẹ nhàng khép lại. một mình nằm trên giường bệnh, Đông Bích miên man nghĩ đến nguy cảnh vừa qua. Vậy mà đã ba hôm nó mê man bởi độc chưởng và giờ đây, sự sống của nó chỉ còn có trăm ngày. Ý nó rối loạn nhưng nó cố gắng dằn lại để đợi thương thế lành mạnh sẽ tùy cơ định liệu. Nó nghĩ đến cái giá buốt khốn cùng lúc bị độc chưởng. Nó còn nghe văng vẳng bên tai tiếng cười ma quái của Ma tôn lão quỷ, nó thấy nó bay bổng lên không rơi tòm xuống cái vực thẳm đen ngòm, nó sợ hãi quá và hết lên một tiếng, giật mình mới hay nó mới chợp mắt đã vào cơn mơ. Mồ hôi tuông ra ướt cả mình. Nó lại cố dỗ dành giấc ngủ vì nó cảm thấy đôi mắt nó nặng trĩu nhưng lại sợ mê sảng nữa, nhưng sau lượt ra mồ hôi, nó cảm thấy dễ chịu hơn, yên lành hơn, và nó ngủ quên cả bữa ăn, cho riết buổi chiều hôm đó sang sáng hôm sau mới chợt tỉnh dậy.
Đông Bích mở tròn mắt ra nhìn gian phòng, thấy hoàn toàn khác lạ với gian phòng hôm qua nó nằm. Chung quanh toàn bằng đá nhẵn bóng. Nó nhỏm người dậy thấy thể chất không còn đau nhức nữa. Một vài tia sáng xuyên qua phên che cửa sổ thạch thất, lọt vào trong phòng và nó ngạc nhiên khi nhìn thấy Huyền Không đại sư đang ngồi yên lặng tọa công trên chiếc bồ đoàn đôi mắt khép lại. Nó không dám kinh động nên rón rén bước đến bên cửa sổ thì có tiếng Huyền Không đại sư khẽ nói:
- Đông nhi, cháu thấy khỏe hẳn rồi chứ?
Đông Bích vội vàng đến thi lễ trước Huyền Không đại sư rồi đáp.
- Thưa đại sư, cháu thấy khỏe hẳn rồi song đứng bên cửa sổ gió lạnh ập vào thì cảm thấy muốn tắt nghẹn đường hô hấp, như vậy có phải khí lạnh là môi trường để trùng độc sinh dưỡng không, thưa đại sư?
Huyền Không đại sư vẫn ngồi trên bồ đoàn, mở mắt nhìn Đông Bích trả lời:
- Đông nhi y lý thông đạt lắm, điều này ắt hẳn rồi ta không ngạc nhiên. Nhưng chắc chắn là Đông nhi chưa hiểu được loại độc trùng này không thể dùng ngoại lực đẩy nó ra được mà chỉ phải cần nội lực thâm hậu, tự trục xuất trong vòng bảy ngày liên tục mới có hy vọng.
Rồi đại sư thở dài:
- Mà trường hợp này, tuy Đông nhi có cốt cách đặc biệt nên chưa tận nhưng vì Đông nhi không biết võ công, nhưng dẫu có biết, chưa chắc đã đủ hỏa hầu để tự chữa được. Ta sẽ lưu lại đây với Đông nhi mươi hôm nữa để xem bệnh tình phát hành như thế nào, rồi ta sẽ tìm kiếm được danh y chữa trị cho Đông nhi. Hiện giờ cháu cứ lưu lại tại thạch thất này để tránh lãnh khí của tiết xuân nên ta mới đặc biệt di chuyển chỗ ngụ của cháu.
Đông Bích rất cảm kích lòng từ bi của đại sư nhưng cảm thấy kiếp sống của mình không thấy gì là hy vọng mà đi dần vào cái tự tận một cách nhạt nhẽo nên tỏ ý:
- Cháu hết sức cảm kích lòng đại từ bi của đại sư, nhưng cái kiếp sống của cháu không còn hy vọng gì thì đại sư dừng quá lo cho cháu làm gì cho nhọc mệt đại sư.
Huyền Không đại sư mỉm cười cảm thông, rồi suy nghĩ giây lát bước ra khỏi bồ đoàn đến bên Đông Bích xoa nắn các huyệt đạo cho nó được dễ chịu phần nào rồi nói:
- Ta có nghĩ ra một phương cách thế này, không biết Đông nhi có vui lòng hưởng ứng không?
Đông Bích đáp ngay:
- Việc gì xin đại sư cứ dạy, cháu chẳng bao giờ dám sai ý người, dẫu khó khăn mấy cháu cũng không ngại ngùng đâu.
- Chuyện này không khó, chỉ ngại Đông nhi chẳng khứng theo thôi.
- Xin đại sư cứ truyền dạy.
Huyền Không đại sư nhìn chăm chăm Đông Bích, mở lời:
- Để chống cái lãnh khí có thể xâm nhập cơ thể của cháu, ta có một phương pháp là cháu phải tập thở để khí huyết được lưu thông, gây nên một khí nhiệt trong cơ thể hầu là, giảm đi sức hành phá của độc trùng. Mà khi thực hành lúc ban đầu thể nào cũng gặp khó khăn vì độc trùng bị ép về Đan Điền sẽ chống chọi nên gây ra sự đau đớn nhưng dần dần hỏa khí tựu công, nó sẽ nằm yên chờ đủ trăm ngày mới cùng bộc phát. Nhưng lúc đó ta sẽ tính sau. Cháu nghĩ thế nào?
Đông Bích nghe xong, không do dự:
- Sự đau đớn đâu có gì trở ngại, cháu nhận thấy trong những ngày vô vọng này cũng cố tìm cách kéo dài thời gian, nghĩa là cứ tranh đấu rồi trời sẽ giúp vậy.
Huyền Không đại sư gật đầu tỏ vẻ bằng lòng rồi nghiêm nghị nói:
- Bây giờ cháu khá lưu ý, nhớ kỹ những khẩu quyết mà thực hành nhé! Mà trước khi thực hành, ta cũng nói cho cháu biết về sự tương hoàn để giữ cái hỏa khí cho tâm tịnh của thân thể con người ví như cái vòng khuyên chuyển dịch, chạy từ bên trái qua mặt với trung tâm là trái tim. Nó có thể liên tục chuyển vận để tạo hỏa khí hay thoát hỏa khí theo chủ đích của ta. Cháu biết đại lượt như vậy và bây giờ ta chỉ khẩu quyết, cháu hãy nhớ lấy mà thực hành nhé!
Nói đoạn, Huyền Không đại sư đọc và giảng kỹ lưỡng những khẩu quyết cho Đông Bích ghi nhớ.
Mặc dù Đông Bích là đứa trẻ rất thông minh, đỉnh tuệ, cũng đã đọc nhiều bảo thư, văn học căn bản, nhưng nơi đây là phần võ học của Phật môn, rất uyên thâm, phức tạp mà nó chưa biết gì về võ học nên đây cũng là ngưỡng cửa mới mẽ nhất cho cuộc đời nó. Trong cái rủi gặp được cái may. Có bị nạn tử sanh mới gặp được cao tăng, còn lại là bậc sư bá của Chưởng môn Thiếu Lâm đại tự thì võ học của người phải kinh khiếp như thế nào rồi. Huống hồ nơi đây Huyền Không đại sư đã đích truyền phương pháp nội công tâm pháp chỉ nguyên là một môn chí cao của Phật môn. Ngay cả đến Phương Trí chưởng môn cũng chưa thu thập được vì môn nội công tâm pháp chỉ nguyên này cần phải có một cốt thể đặc biệt mà Huyền Không đại sư đã thấy được nơi Đông Bích. Vì vậy đại sư đem ra truyền cho Đông Bích mà vị đại sư chỉ bảo đó là cách hô hấp cho điều hòa khí huyết. Đại sư Huyền Không cũng không đắn đo khi truyền lại cho Đông Bích môn thượng đẳng nội công khi mà các vị đại sư hiện diện tại Thiếu Lâm đại tự này chỉ luyện được nội công tâm pháp di hành là thứ nội công để cho mọi đệ tử Phật môn có công tu luyện sẽ đạt thành mà cũng đã vang danh võ lâm đại phái rồi. Huyền Không đại sư hy vọng rằng nếu trời giúp cho Đông Bích gặp được duyên cớ nào đó nó sẽ là tinh hoa của võ lâm trong tương lai, dầu là hy vọng đó mong manh quá, nhưng dẫu sao cũng còn có hy vọng nên đại sư mới truyền dạy cho Đông Bích môn tâm pháp chỉ nguyên này.
Về phần Đông Bích, sau khi thông thạo lý thuyết về những điều Huyền Không đại sư vừa giảng, nó liền y lời thực hành.
Mới đầu, đúng như lời đại sư vừa nói là sự đau đón khởi từ Đan Điền chạy lên nhói buốt làm nó mồ hôi nhễ nhại nhưng nó vẫn kiên trì, bền chí chịu đựng trong gần nữa ngày mới bắt đầu cảm thấy dễ chịu trở lại thì cũng vừa lúc bữa cơm trưa đưa lên.
Theo lời Huyền Không đại sư nó ngưng tập và dùng bữa.
Rồi nó lại chăm chú luyện tập được ba hôm, thì thấy cái đau nhói bất thần trong người đã giảm hẳn.
Đến ngày thứ mười thì nó đã thấy có thể tự tạo thân nhiệt để chống lại với băng hàn và độc trùng hành hạ. Nó có thể ra khỏi thạch thất để dạo ngắm cảnh chùa thì cũng vừa gặp Huyền Không đại sư và Phương Trí chưởng môn nơi khách sảnh.
Huyền Không chẳng đề cập đến việc dạy cho Đông Bích cách hô hấp gì cả trước mặt Phương Trí mà đại sư chỉ nói:
- Giờ đây ta đi trong một thời gian may ra tìm được tiên dược giúp cho Đông nhi qua cơn tử nạn.
Phương Trí đại sư săn sóc cho Đông nhi nhé!
Phương Trí đại sư lãnh lệnh:
- Đệ tử xin lãnh lệnh đại sư bá và nguyện cầu đại sư bá duyên may để có thể cứu nạn cho vị tiểu bằng hữu đây. Xin sư bá cứ an tâm di hành.
Huyền Không đại sư quay sang Đông Bích:
- Đông nhi cứ an tâm tĩnh dưỡng nhé.
Nói xong đại sư quay đi liền.
Phương Trí cúi đầu nghiêng mình tiễn đưa.
Đông Bích ngẩn ngơ nhìn theo buồn bã.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 23:06:56 | Chỉ xem của tác giả
PHƯƠNG THUỐC VÔ TÌNH

Chỉ còn mấy hôm nữa mọi người vui vẻ đón chúa xuân. Vạn vật như đều tươi tốt hơn. Khí trời dịu mát hẳn lại. Nhà nhà ai ai cũng đã trở về đoàn tụ trong sự nhộn nhịp tình thân. Những đứa trẻ tụ năm, tụ ba hỏi han áo mới, quần đẹp, để có dịp phô trương trong ngày đầu xuân. Niềm vui sướng của mọi đứa trẻ đều được cha mẹ, gia đình chúng luôn luôn cố gắng thỏa mãn.
Nhưng giữa sự vui sướng của muôn ngàn đứa trẻ thì giờ này cũng có một đứa trẻ lạc loài, đang âm thầm lầm lủi tìm đường đi trong vùng núi hiểm về phía Bắc Thiếu Lâm đại tự năm trăm dặm hơn. Đứa trẻ đó không ai khác hơn là Đông Bích.
Từ hôm Huyền Không đại sư rời khỏi Thiếu Lâm đại tự thì nó đã được dạo quanh chùa, ngày ngắm cảnh mà nhớ đến Ngự Thanh Y Lang, một người thân duy nhất của nó trên trần thế, cũng oan ức ra đi vĩnh viễn để lại nó bơ với một mình, không còn ai thân thích với nguồn gốc, thân phận mịt mờ. Rồi đêm lại nghe câu kinh, tiếng mỏ não ruột, tiếng chuông vang xa cho lòng trông lạnh mùa khơi.
Nghĩ đến còn có năm ngày nữa là hết ba trăm sáu mươi lăm ngày. Nó muốn đến thăm mộ của người thân yêu nhất của nó là Ngự Thanh Y Lang nên qua ngày hôm sau nó gặp được Phương Trí đại sư Chưởng môn, nó ngõ lời ngay:
- Thưa đại sư, xuân cũng sắp đến rồi, cháu có ý định thăm ngôi mộ của ngoại cháu, nên xin phép đại sư cho rời chùa xuống núi.
Phương Trí kinh ngạc chận lời:
- Đường xá xa xôi lắm, cháu đi sao yên đặng, hơn nữa xuân đã kề cận, theo ý bần tăng thì cháu nên đợi qua xuân, Nguyên Lăng ngũ sư đệ sẽ thân hành đưa cháu đến ngôi mộ của Ngự Thanh Y Lang, chứ hôm nay ngũ sư đệ của bần tăng đã thi hành phận sự nên vắng mặt rồi. Ngoài Nguyên Lăng ra không còn ai biết nơi ấy cả.
Đông Bích thản nhiên:
- Xin đại sư chớ lo ngại vì nơi ấy chắc chắn cháu không quên rồi và từ đây đến đó cháu dọ hỏi theo phương hướng mà Vệ đại sư bá của đại sư Chưởng môn đã có lần chỉ cho cháu rồi.
Sau một phút suy nghĩ, đại sư Chưởng môn đưa ra đề nghị:
- Nếu vậy thì bần tăng phải chìu theo định ý của cháu nhưng bần tăng muốn sai vài tên đệ tử cùng đi với cháu cho có bạn, cháu nghĩ sao?
Đông Bích đáp ngay:
- Cháu hết sức cảm ơn đại sư Chưởng môn quá lo lắng nhưng ý định của cháu là được một mình tìm đến cũng chẳng ngại. Xin đại sư chìu ý tha thứ cho cháu.
Trước ý cương quyết của Đông Bích, Phương Trí đại sư đành nhượng bộ và đại sư thầm khấn duyên may sẽ đưa đến cho Đông Bích trong những ngày chờ đợi nguy nan của nó.
Đông Bích giả từ đại sư Phương Trí chưởng môn rồi rời chùa xuống núi mải miết đi về hướng Bắc của đại tự Thiếu Lâm.
Đã bốn ngày lần dò tìm đường lên chỗ tai nạn ngày trước, Đông Bích đã đi hơn năm trăm dặm đường.
Hôm nay là ngày cuối cùng của một năm, từ sáng đến giờ nó cứ lầm lủi đi xuyên qua cánh rừng nhưng nó cứ mải suy nghĩ nơi đâu nên đã lạc lúc nào không hay biết.
Gói lương khô đã hết tự bao giờ, nó quên bẳng đi nên từ sáng đến giờ phần đói khát bắt đầu hành hạ nó.
Hoàng hôn đã về phủ quanh vùng rừng núi âm u này. Nó bắt đầu lo ngại cho đêm nay không biết nương thân vào đâu. Nó đi thêm một đoạn nữa để tìm lối ra nhưng vẫn mờ mịt. Bóng tối đã lớn dần.
Đông Bích đang hoang mang thì sự mệt mỏi cũng dồn vào làm khí lạnh núi rừng xâm nhập cơ thhẻ, độc trùng lại có dịp hoành hành. Nó mệt mỏi quá vì đói và khát nên không đủ sức hành công hô hấp mà nó đã được học hỏi nơi Huyền Không đại sư. Cơn đau lên nhiều khiến nó lảo đảo thì cũng vừa kịp lúc nhìn thấy một cái hang vừa người chui vào.
Nó không ngần ngại nữa, liền chui nhanh vào để cho qua cơn đau và cũng nghỉ đêm luôn.
Nó vừa chui vào thì chẳng thấy gì cả nhưng một chặp đã hơi quen, nó thấy lờ mờ trong cái hang hoàn toàn đá với đất, phía trên là những lớp thạch nhũ tua tủa nhọn hoắc như chực chờ ghim xuống người nó. Nó vào sâu hơn thì lòng hang càng trở nên hẹp và thấp, mấy cây thạch nhũ ở đây to lớn quá mà trông thật nặng nề, nhọn hoắc. Cơn đau buốt lên. Cơn đói cũng chẳng kém.
Vừa đau vừa đói làm người nó toát mồ hôi, chân đi loạng choạng. Trong hang càng lúc càng tối hơn nhưng bỗng nó thấy một miếng trăng trắng, to hơn cái đĩa bàn lớn nằm trên một miếng đá bằng phẳng. Nó liền chộp ngay cho vào miệng cắn thử thì thấy trong ruột có những hột nho nhỏ, thơm thơm nên nó cắn xé cái vỏ ngoài nhai ngấu nghiến rồi nuốt luôn cả cái ruột bên trong. Trong cơn đói, nó nhai ngấu nghiến thật nhanh và nuốt ừng ực trong thoáng chốc đã hết sạch thì cảm thấy thân người từng luồng nóng, từng luồng lạnh chuyển lưu làm tay chân nó ngứa ngáy muốn cào cấu.
Trong trạng thái khác lạ của cơ thể, Đông Bích lại đột nhiên nhìn thấy hai đốm lửa tiến nhanh tới như từ phía sâu tăm tối trong lòng hang phóng ra.
Hai đốm lửa như bay là là chồm lên người nó. Nó đang ngứa ngáy tay chân, bèn chụp luôn đốm lửa để bấu xé nhưng hai đốm lửa chịch qua né tránh làm nó bấu đụng vào một thanh cây lông nhám.
Nó kinh hoàng buông ra thì hai đốm lửa tung lên cao chạm vào mấy ngọn thạch nhũ và nghe tiếng gãy vỡ và tiếng kêu rít lên chi chít rồi hai đốm lửa tắt đi và một tảng đá to lớn, lông lá phủ trùm nặng nề rơi đè trên người nó. Đông Bích bị sức nặng đẩy ngã nhào ngửa người thì cái tảng lông lá nặng nề lại phủ kín mặt nó. Một mùi khen khét hăng hắc vào mũi nó lại bị che kín khó thở. Nó kinh hoàng quá hả miệng cắn phập vào cái tảng đè nó thì lập tức một dòng nước âm ấm tuông chảy phủ mặt nó.
Đông Bích nhắm nghiền mắt lại nghiêng qua một bên nhưng dòng nước vẫn cứ chảy mạnh nên nó đành phải nuốt hết ngụm này thì lớp nước khác lại chảy dồn tới khiến nó cứ việc nhắm mắt liều uống ừng ực chẳng biết nước gì, cho đến khi đầu óc nó quay cuồng, mê man trong hang đá.
Một đêm cuối năm rồi cũng trôi qua, buổi sáng đầu tiên của năm mới về trên muôn hoa. Tiếng chim rừng đua hót líu lo đánh thức Đông Bích dậy.
Khi tỉnh cơn mê nó kinh ngạc khi thấy mình đang nằm phía dưới xác một con vật đầy mình lông lá mịn màng. Nó cố gắng chui ra rồi nhìn lại con vật không khỏi rùng mình, nó ngạc nhiên kêu lên:
- Trời ơi! Một con nhện lửa khổng lồ, những cái chân nó như khúc cây, hèn nào lúc ta chụp phải chân nó, nó mới hoảng hồn nhảy tưng lên.
Đông Bích đến bên xác con nhện quan sát một lúc rồi lẩm bẩm một mình:
- Thì ra nó nhảy mạnh và cao quá nên chạm phải mấy cây thạch nhũ ghim vào đầu nó nên nó chết đè trên người ta.
Nó cười lên một tiếng rồi im ngay vì thấy vũng máu nhện còn đọng nơi chỗ nó đã nằm suốt một đêm mê man, nó suy nghĩ rồi tự nhủ:
- Ta hoảng quá cắn nhằm thân nó nên máu nó chảy tuôn ra khiến ta bị kẹt phải uống ừng ực và có lẽ cái miếng trăng trắng là trứng của nó rồi.
Đông Bích vừa lẩm bẩm vừa đi lại nhặt cái vỏ trắng xem xét thì đúng là vỏ trứng nhện lửa trong hang thạch nhũ này. Tại vì Đông Bích ăn trứng của nó trong khi nó đi tìm mồi nơi đáy hang và khi nó đánh hơi phát hiện định phóng nhanh ra tấn công Đông Bích nhưng vô tình bị thạch nhũ đâm chết nên Đông Bích mới thoát khỏi bị cắn chết.
Đông Bích đưa tay chùi miệng còn dính máu nhện đông đặc. Nó bước ra miệng hang chui ra ngoài. Núi rừng vào ngày xuân cũng vẫn còn sương mù như một màn mỏng khói sương, che mờ phía sau cây lá im lìm chợt lung lay khi những cánh chim nhảy nhót líu lo.
Như những hôm khác, khí lạnh thế này, ắt hẳn Đông Bích bị cơn đau do độc trùng hành hạ.
Nó tư lự ngạc nhiên rồi nhờ nhớ đến một đoạn trong sách nói về các đặc tính độc chất của những con vật hiếm thấy có đề cập đến con nhện lửa. Loại nhện này rất hiếm thấy. Mình đỏ như máu, là một loài độc vật vào bậc nhất trong tứ trùng dị chủng là: Nhện lửa bách niên, bọ cạp chín càng, cóc tía ba chân và con rắn vàng sống trong tuyết. Và như vậy sao nó lại không bị độc hại hơn nữa, trong sách có đoạn viết rõ rằng: Trứng nhện lửa có tính chất hấp thụ độc trùng để tự tiêu hóa và gây ra trạng thái miễn nhiễm vĩnh viễn và máu của nó có tính chất cực hỏa, kẻ uống vào sẽ bị thiêu đốt phải nứt thịt ra mà chết, nhưng máu này cũng hữu ích là tăng thêm cho đôi mắt và hai tai có sức nhìn thật rõ ràng trong vòng ba trượng lúc ở trong bóng tối mịt mù và có thể nghe rõ tiếng lá rơi cách một bức tường, nhưng kết quả này sẽ phát hiện sau một trăm ngày. Tuy nhiên, vì tính chất cực hỏa của nó nên chưa ai dám có ý định sử dụng.
Đông Bích nhớ đến những đoạn ghi chú này rồi tự kết luận:
- Ta đã uống máu con nhện lửa quá nhiều mà chẳng thấy phản ứng cực hỏa gì cả, như vậy chắc rằng chất lạnh hàn băng của lão quái Ma tôn tích tụ trong người ta gặp máu con nhện nên tự hóa giải rồi mà chất độc trong trứng nhện đã cùng độc trùng tiêu hóa luôn nên ta cũng chẳng hề bị hai loại đó hành độc và có lẽ đúng hơn là đã qua cơn hành độc khi ta mê man.
Đông Bích thấy khỏe khoắng sung mãn hơn lúc trước mà dù khí trời có lạnh cũng không còn cơn đau nữa. Nó quay nhìn cái hang đã vô tình giúp nó chữa cơn độc hàn kinh khủng này.
Nó thấy vui vẻ hơn mà hình như mùa xuân đã mang lại tặng cho nó.
Nó bình tĩnh trở lại và tìm phương hướng để thoát qua vùng núi rừng này.
o O o
Sau mấy ngày kiên tâm cố chí vượt mọi trở ngại, cậu bé Đông Bích cũng tìm đến được nơi mà trước đây nó đã thọ nạn cùng với Ngự Thanh Y Lang bởi tay Hàn Độc Ma Tôn.
Nó tìm quanh nơi mà ngoại nó bị độc chưởng giết hại thì thấy ngay một ngôi mộ mới xây trên một vùng đất bằng phẳng. Nó chạy nhanh lại lòng tiểu tái nhìn tấm mộ bia ghi rõ:
Ngự Thanh Y Lang La Hồng Chấn chi mộ.
Đông Bích phục xuống mộ bia, mắt mờ lệ thảm. Mỗi lúc lâu nó đứng dậy đi vòng quanh ngôi mộ rồi tới trước đầu mộ nghiêm trang chắp tay van vái, nó thầm khấn:
- Người thân yêu duy nhất trên thế gian này của cháu là ngoại. Vậy mà ngoại cũng bị hại. Suốt một đời ngoại chỉ làm điều thiện vậy mà phải oan ức chết thảm. Thì ra cõi đời này chỉ có kẻ mạnh mới có quyền sanh cầm, giết chết kẻ khác. Xin ngoại linh thiên phù hộ cháu trả cho được mối thù này.
Khấn vái xong, nó cúi lạy rồi quay đi như không dám nhìn lại ngôi mộ để phải thêm lưu huyết đứt lòng.
Nó đi, đi mãi, không có chủ định cho đến gần chiều nắng gắt mệt mỏi nó mới tìm chỗ nghỉ chân, nhân thấy ngôi cỗ miếu khá lớn, nó liền đi ngay vào.
Trong cỗ miếu có mấy chiếc bệ thờ nay đã đổ nát, vắng lạnh khói hương, rong rêu mọc đầy quanh tường. Nó nhủ thầm trong dạ:
- Thần miếu ở nơi này chắc cũng phải dời đô vì ngay cả trong mấy ngày xuân mà không có khói hương.
Rồi nó quan sát thấy mọi vật đều đã không có ai đụng đến từ quá lâu rồi nên nó lại nghĩ tiếp:
- Vị thần miếu này, nếu còn ở đây chắc cũng như ta, phải quạnh hiu trong mấy ngày xuân này.
Nó vừa suy nghĩ vừa lấy mấy cành lá quét một góc tường, đặt lưng cố tìm giấc ngủ sau khi ăn một ít lương khô mới mua thêm mấy ngày gần đây.
Vì quá mệt nhọc và bi thương nên nó ngủ một giấc thật ngon lành.
Nó đang ngon giấc bỗng giật mình lắng nghe vì có tiếng ngáy của người ngủ đâu đây. Nó hơi hoảng liền nhổm dậy nhưng không còn nghe thấy tiếng gì cả. Bên ngoài miếu, nắng chiều đã nhẹ bớt, nghiêng nghiêng đổ dài bóng cây, lay động theo chiều gió thổi. Nó lại nhìn trong miếu vẫn không thấy gì nên nó định bụng:
- Có lẽ tại ta mê mệt giấc ngủ trưa chập chờn nên mới sinh ra điều lầm lẫn này.
Đông Bích lại đặt lưng xuống một chập sau nó đang mơ màng thì nghe tiếng ngáy như sấm vang bên tai làm nó chồm dậy ngay.
Lần này thật sự nó sợ sệt. Nó nghĩ là vì đây là cỗ miếu chắc có ma, thần gì khuấy phá. Tuy sợ nhưng nó lấy lại định tâm, hơn nữa ban ngày nên nó còn đủ can đảm và quyết ý tìm kiếm cho ra nguyên do. Nó bắt đầu lục lạo, tìm hết mấy góc miếu rồi chui vào từng kệ miếu đổ để tìm cho rõ ràng. Nó tìm hết các nơi và còn một cái kệ chót to lớn nằm sát phía trong cùng của ngôi miếu. Phía trước kệ có mấy cái ghế đã xiêu vẹo, mục đổ gần hết. Nó nhẹ nhàng nhắc nhẹ để sang bên rồi quì gối, chui đầu vào xem thì nó cảm thấy có đôi bàn tay nắm chân nó kéo ra. Nó hoảng quá la lớn:
- Ồ! Trời ơi, ma
Nó vừa la vừa chun tuột vào luôn trong kệ hương, quay nhanh ngươi nhìn ra với dáng điệu run rẫy sợ sệt.
Nhưng nó vẫn không thấy gì. Trong ngôi miếu vẫn yên lặng. Nó ngồi trong kệ một chốc, lấy lại bình tĩnh rồi chui người ra. Vì cái kệ quá thấp, nên nó ra lưng hơi cao, chạm vào thành trên của kệ, thì liền lúc đó, ba bốn khúc cây đập vào lưng nó. Nó kinh hoảng quá bò luôn một hơi khỏi kệ miếu thật xa mà chưa đứng dậy, cứ thế mà bò.
Liền lúc đó có tiếng cười ngặt nghẽo từ phía trên sà nhà và có tiếng người nói xuống giọng chế giễu:
- Ô! Trời ơi, con ma chết nhát này nó bò trông buồn cười quá.
Đông Bích chưa ngồi dậy đã nghe tiếng người nói thế đâm ra ngượng ngùng, bất giác nó vụt đứng phắt dậy, ngước mặt nhìn lên sà nhà đã thấy một lão già mặc áo rách rưới, nét mặt vui vẻ tay còn cầm chiếc bánh bao đang ăn dở, tay kia ôm bụng cười ngặt nghẽo.
Đông Bích sượng sùng suy nghĩ, những ý nghĩ chạy thật nhanh trong đầu nó. Nó nhìn lại cái kệ lúc nãy đã chui vào thấy mấy chiếc ghế mục nát ngã đổ lung tung.
Nó than thầm:
- Rõ thật ta ngốc quá, mà cũng tại lão già này nhát ta đây.
Nó ngẫm nghĩ tiếp:
- Lúc đang chú ý chui vào kệ hương miếu, thì ở ngoài lão nắm chân ta lôi ra, làm ta hoảng vía chui luôn vào trong hóc kệ. Rồi lúc ta chui ra lại đụng nhằm cái kệ mạnh quá nên mấy chiếc ghế mục nát vô tình ngã dập trên lưng ta.
Nó liếc mắt nhìn lão già cứ ngồi trên sà nhà cười ngặt nghẽo. Nó vừa thẹn vừa giận nên đứng im chưa có phản ứng nào thì lão già lại liếng thoắng:
- Ê! Tiểu bằng hữu kia, bây giờ còn sợ ma sao mà đứng thừ người ra như vậy?
Đông Bích nghe giọng nói của lão già nhận thấy lão không có ác ý chắc vì nghịch ngợm nên nhát nó. Nghĩ vậy nên nó ngước nhìn lão ta nói:
- Lão trượng hãy xuống đây rồi nói chuyện.
Nói xong vẫn không thấy lão già nhảy xuống, mà lão cứ ngồi trên sà nhà, vừa cười vừa ăn bánh bao một cách ngon lành.
Nó ức quá, nhưng biết làm sao hơn, nên nó cứ làm thinh thu dọn đồ đạc và bước ra khỏi miếu.
Lúc này lão già không còn ngồi trên sà nhà nữa, mà vội vàng nhảy xuống, nhưng lão lính quýnh quên cái bầu rượu treo trên sà nhà, lại vội nhảy vút lên, miệng gọi ơi ới:
- Ê ê, tiểu bằng hữu ơi! đứng lại cho Vương bất lão nói chuyện tí đã nào?
Đông Bích không trả lời, cứ một mực đi thẳng. Sau khi nhặt cái bầu rượu, lão già thênh thếch chạy theo sau. Lão ném đi miếng bánh ăn dở, quệt tay vào áo, chạy nhanh hơn, bắt kịp Đông Bích, liền níu áo nó lại van nài:
- Tiểu bằng hữu ơi! Hãy đứng lại để
Thấy lão ấp úng mãi, hơn nữa lão cứ níu áo nên Đông Bích cũng nguôi giận nhìn lão cười xòa.
Lão mừng rỡ ra mặt rồi cúi đầu xuống vân việc chéo áo như đứa trẻ phải tội, lão nói một hơi như sợ ai dành nói với lão vậy:
- Tiểu bằng hữu à, Vương bất lão này đành xin lỗi tiểu bằng hữu vậy!
Nhận thấy nơi lão già có nhiều điệu bộ như đứa trẻ thật thích hợp với nó, nên Đông Bích quên giận lúc nãy, nhìn nụ cười tươi trẻ của lão, cũng vui lây trở lại, thân mật nói:
- Lão trượng nào có cái gì lỗi đâu, chỉ tại cháu nhát nên mới làm trò cười cho lão trượng đó chứ.
Lão già xua tay lia lịa rồi kéo tay Đông Bích lôi về phía miếu vừa đi vừa nói:
- Tiểu bằng hữu vào đây rồi chúng ta sẽ đàm luận và nhiều trò vui vẻ lắm.
Đông Bích đành quay lại miếu cùng với lão già. Sau khi Đông Bích để đồ đạc vào một góc miếu rồi lúc bấy giờ lão già lại cười khề khà, nheo mắt nói:
- Chuyện lúc nãy chúng ta bỏ qua nhé! Còn bây giờ lão muốn hỏi tiểu bằng hữu rằng tiểu bằng hữu đi đâu vào những ngày xuân lạc loài vào cỗ miếu này.
Đông Bích ủ dột đáp:
- Cháu vì không nhà cửa, không người thân thích, họ hàng nên cháu phải lang thang.
Lão già thấy Đông Bích ủ dột buồn bã nên lão ta không còn cười nữa, mặt méo xẹo cảm thông.
- Hoàn cảnh của Vương bất lão này cũng giống như tiểu bằng hữu, vì cũng chẳng có ai thân thích họ hàng, đình miếu là nhà cửa qua ngày.
Rồi lão dấp dáng trang trọng đề nghị:
- Nếu vậy Vương bất lão này xin đề nghị với tên tiểu bằng hữu là chúng ta nên kết bạn với nhau vậy.
Đông Bích trước đề nghị đột ngột đó, nó ngạc nhiên:
- Lão trượng sao đề nghị như vậy, cháu là đứa trẻ sao dám kết bạn với lão trượng, nếu vậy cháu hóa ra là kẻ bất kính sao?
Lão già giải thích:
- Tiểu bằng hữu nói vậy thì chưa hiểu được bất lão này. Tiểu bằng hữu cho rằng Vương bất lão này thành Vương lão sao mà không chịu kết bạn?
Đông Bích là kẻ thông minh, nó hiểu ngay lão muốn nói nên phì cười:
- Ồ! Nếu vậy lão trượng tuy là nhiều tuổi nhưng tính tình rất trẻ.
Rồi nó như sực nhớ la lên:
- Phải rồi, phải rồi, hèn gì lúc nãy lão trượng nghịch ngợm nhát ma cháu phải không?
Hai người lại nhìn nhau cười thích thú.
Đông Bích chợt ngưng cười hỏi:
- Khi muốn kết bạn với nhau, lão trượng đã nghĩ suy rồi chứ?
- Dĩ nhiên!
Rồi lão ta hỏi lại:
- Còn tiểu bằng hữu thế nào?
- Cháu rất hân hạnh.
Thế là hai người một già một trẻ lại lập bàn thờ kết bạn.
Lão già cùng Đông Bích khiêng một cái kệ ra giữa trời, bẻ mấy cành hoa rừng trái rừng làm lễ với nước suối trong lành.
Lão già bẻ ba cây khô đốt lên nói với Đông Bích:
- Chúng ta dùng cây khô cháy khói này thay thế hương cũng được vậy mà, miễn chúng ta có lòng thành thật là được.
Hai người quỳ trước bàn sửa soạn làm lễ.
Lúc này lão già quay sang hỏi Đông Bích:
- À! Danh hiệu của tiểu bằng hữu là gì?
Đông Bích đáp ngay:
- Cháu chỉ có cái tên là Đông Bích thôi, còn lão trượng quí danh đại hiệu là gì?
Lão xua tay:
- Không quí không đại gì cả, ta tên cha mẹ đặt là Vương Thạch Công, tính ta con nít lại không thích ai gọi lão là lão già nên bạn giang hồ gán là Vương bất lão mà ta đã chạy là biến ngay nên lại bị gán thêm cho là Thần Ảnh.
Đông Bích cười như khám phá được một việc gì nên nói:
- Hèn gì, lúc nãy lão trượng mới nhát ma cháu được, chắc cũng nhờ Thần Ảnh phải không?
Lão ta không nói gì, chỉ cười hề hề rồi nói:
- Bây giờ ta khấn đi vậy, ta lớn tuổi hơn thì làm đại ca, tiểu bằng hữu nhỏ hơn làm tiểu đệ.
Đông Bích cười nói:
- Ơ, sao thế được, ai lại gọi lão trượng bằng đại ca kia chứ mà lão trượng cứ gọi cháu bằng cháu chứ sao là tiểu đệ.
Lão ta lắc đầu rồi cầm cây khô thế nhang lạy trời đất rồi cất tiếng nói lớn:
- Hôm nay, Vương Thạch Công tức là Thần Ảnh Vương bất lão thành tâm kết bạn bằng hữu với tiểu đệ Đông Bích, đồng sanh đồng tử, ai sanh lòng phản bạn sẽ bị muôn kiếm phanh thây.
Khấn xong, lão quay sang Đông Bích nói:
- Bây giờ đến tiểu đệ khấn đi.
Đông Bích không còn biết nói gì hơn nên đành cầm cây khô đốt khấn giữa trời rồi quay sang lạy lão già ba lạy nói:
- Tiểu đệ xin làm lễ ra mắt đại ca.
Lão sung sướng, cười híp mắt, kéo Đông Bích đứng dậy và giờ đây họ thấy gần nhau hơn, khắn khít hơn, thân mật hơn.
Qua những ngày sống bên nhau, Thần Ảnh Vương bất lão và Đông Bích hiểu ý nhau hơn. Một già một trẻ tỏ ra đắc ý tương đồng.
Rồi một đêm nọ
Trong chòi lá bỏ hoang, Thần Ảnh Vương bất lão và Đông Bích làm nơi trú ngụ. Hai người đang thiếu lương khô vì mải vui chơi trò chuyện nên quên bẵng việc lo liệu cho bữa ăn.
Thấy vậy, Thần Ảnh Vương bất lão đề nghị:
- Này tiểu đệ, bây giờ mới vừa canh một, đại ca đưa tiểu đệ lấy thức ăn thức nhắm về chúng ta làm một tiệc.
Đông Bích nghi ngờ hỏi lại:
- Ở đâu mà đại ca bảo đi lấy.
- Thì cứ đi rồi sẽ rõ.
Nói xong lão cặp tay Đông Bích nhún mình bay biến vào đêm tối như bóng ma.
Được gần một khắc, lão nói nhỏ bên tai Đông Bích:
- Nhà phú hộ này, lúc nào cũng lắm khách đông người nên món ăn có thường xuyên mà toàn là sơn hào hải vị, bát trân cung phụng mà vẫn giàu sụ vì lão ta thuộc loại trọc phú mà. Nên chúng ta vào mượn đỡ một ít đồng thôi, đại ca cũng chọn Hồng Đào mỹ tửu lão cất kỹ trong kho đem về say sưa một bữa.
Đông Bích vốn là đứa bé đang trong hạn tuổi thơ, nên tính nghịch ngợm làm nó thấy cũng thích hành động.
Nó chưa nói gì thì Thần Ảnh Vương bất lão đã phân công:
- Bây giờ tiểu đệ tiến vào nhà bếp bưng một ít món ăn cho vừa ý trong khi đó ta sẽ tìm xuống kho rượu lấy ít mỹ tửu.
Lão ta tiếp luôn:
- Nơi này, ta đã nhiều lần viếng thăm rồi nên biết rõ rằng là giờ này các món ăn vừa nấu xong, những tên đầu bếp và phụ dọn đều lên phòng ăn sửa soạn thỉnh chủ nhân. Vậy đệ cứ yên tâm mà chọn thực đơn nhé.
Nói xong, lão lại cặp Đông Bích nhún người bay vèo tới chỗ nhà bếp bỏ Đông Bích xuống và lão lại biến vào phía trong nhà kho.
Đông Bích, lần đầu tiên tham dự vào trò này nên nó hơi sợ sệt nhưng đã lỡ rồi, nó liền mở cửa bước vào căn bếp. May mắn là không có người ở đây. Nó hồi hộp quan sát một dãy nồi niêu, son chảo đầy những món ăn quý lạ. Bấy giờ nó quên sợ hãi, bình tĩnh lấy đũa nếm từng món để chọn lựa.
Nó đang vừa đắc ý với món yến sào thì có tiếng chân người đi đến gần cửa. Nó vội vàng đứng vào phía bên cánh cửa cái. Một mụ mập ú làm công nặng nề đẩy cửa bước vào. Khi cánh cửa mở là Đông Bích đã đứng phía sau. Tim nó đập liên hồi. Cũng may mụ mập chỉ vào lấy mấy cái đĩa to mang đi và cánh cửa phòng được đóng lại.
Đông Bích vội vã đến lấy luôn ba nồi ngon nhất mà nó đã chọn, chồng lên nhau khệ nệ bưng ra.
Khi vừa đến cửa thì oan nghiệt thay, cánh cửa lại mở ra. Nó lại y như lần trước nép vào sau cửa và cũng thấy mụ mập lệch bệt đi vào lấy thêm mấy cái tô lớn nữa. Mụ mập cũng đi ra nhưng khi mụ với tay đóng cửa, chẳng may mụ đưa tay ra phía sau nhiều quá nên đút luôn vào nồi canh đang còn nóng. Mụ vụt nhanh tay lại, ù té bò càng, vừa la bai bải:
- Trời! Ma ma ma
Đông Bích vừa muốn cười, vừa sợ hãi, nó chạy bừa ra nhưng cái nồi canh phía trên bị chao mạnh, nhào rơi đổ bừa lên mình mụ mập khiến mụ càng la to hơn:
- Ôi! Cứu cứu, cứu
Đông Bích nghe mụ la hoảng quá cứ ôm hai nồi thức ăn còn lại chạy bừa ra cổng.
Lúc này nó đã nghe tiếng người tri hô:
- Bắt, bắt ăn trộm.
Trước mặt, cái cổng thì cao, tường chỗ nào cũng vậy. Nó ngỡ phen này chắc hết thoát thì bỗng nhiên thân hình nó được nhấc bổng lên, rồi là thoát ra phía ngoài và bên tai cũng nghe:
- Tiểu đệ chớ sợ, giữ chặt lấy mấy món ăn quý đây nhé!
Bây giờ nó mới thở phào cười thầm và giữ chặt hai nồi thức ăn mặc cho đại ca ôm nó vun vút lao đi.
Sau cái đêm hãi hùng đó, nhưng cũng được mỗi bữa ăn đế vương, nó suy nghĩ rất nhiều và cuối cùng, nó phải nói với Thần Ảnh Vương bất lão:
- Đại ca, nếu mà tiểu đệ cũng biến hiện được như đại ca thì chúng ta mới có lắm trò vui chứ như cái đêm đi mượn đồ nhắm thật làm tiểu đệ khiếp quá.
Rồi nó nủng nịu:
- Và như khi sáng nữa, khi chơi cút bắt đại ca thoáng cái là biến mất và chạy nhảy, né tránh thế nào mà tiểu đệ không cách gì chạm được đại ca cả. Như vậy là đại ca ỷ vào võ công mà ăn gian tiểu đệ, tiểu đệ đâu có phục.
Thần Ảnh Vương bất lão phân bua:
- Đúng, đúng, như vậy ta sẽ chỉ cho tiểu đệ đến lúc nào tiểu đệ cũng biến hiện như ta thì lúc đó chúng ta sẽ lập cuộc chơi lại.
Đông Bích tán đồng:
- Như vậy mới công bằng. Và bây giờ, đại ca có thể chỉ dẫn cho tiểu đệ được rồi.
Thế là Thần Ảnh Vương bất lão lại truyền dạy cho Đông Bích hai tuyệt học võ lâm vô địch thiên hạ về khinh công, đó là: Thần Ảnh Phi Thiên và Thần Ảnh cửu thức bộ hình.
Với sự thông minh và sự chăm chú, cố gắng nên trong một thời gian không lâu, Đông Bích đã đạt được nhiều kết quả rõ rệt. Nhưng võ học chuyên luyện, gắng công cũng phải có thời gian cần thiết mới thành tựu được, trừ khi gặp được thiên duyên. Ở đây, dù Đông Bích có uống được máu nhền nhện bách niên, nhưng chưa được một trăm ngày nên chưa có phát hiện. Song, với cốt thể hiếm có nên sự thành đạt về võ công thật mau chóng.
Nên sau mười ngày chuyên luyện, tuy nó không bì kịp Thần Ảnh Vương bất lão nhưng khẩu quyết và bộ hình nó đã hoàn toàn thu thập được cả. Những cuộc chơi đuổi bắt càng thêm hứng thú giữa một già một trẻ khiến họ quên cả ngày tháng trôi qua.
Vui trong tuổi thơ như Đông Bích, và ngay lão già Thần Ảnh Vương bất lão cũng đã gặp được tri kỷ với cái tính trẻ con của lão, cả hai đã tìm được những thời gian hồn nhiên nhất của kiếp người.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 23:09:16 | Chỉ xem của tác giả
HAI VIÊN BÍCH NGỌC HÌNH BÁT GIÁC
Cuộc sống êm đềm giữa Đông Bích và Thần Ảnh Vương bất lão lặng lờ trôi đi theo thời gian.
Cho đến một buổi chiều nọ, Thần Ảnh đi đâu từ sáng đến giờ, mới chạy về chỗ ở gọi Đông Bích:
- Tiểu đệ ơi! Chúng ta ra ngoài này đánh bi chơi nào, rồi ta kể chuyện này cho nghe.
Đông Bích nhìn thấy Vương bất lão hơi có phần giận dữ nên nó hằn học:
- Từ sáng đến giờ đại ca đi đâu để tiểu đệ một mình ở đây buồn quá vậy.
Thần Ảnh khì khà nhỏ giọng:
- Thì ta ra ngoài thị trấn để tìm mua một vài bộ đồ cho tiểu đệ và
Đông Bích chận lời:
- Mà đại ca có mua sắm cho đại ca không hay cứ mặc mãi mấy bộ rách nát đó.
Thần Ảnh hớn hở:
- Có, có chứ, một bộ coi được lắm.
Vừa nói, Vương bất lão vội vàng lấy trong người ra một gói đồ rồi mở tung ra.
Lão đưa một bộ cho Đông Bích còn lão cũng lấy một bộ khác ướm lên người. Lão hỏi Đông Bích:
- Tiểu đệ bằng lòng không?
- Đại ca chọn là tiểu đệ chịu liền.
Nhưng nó để ngay bộ đồ xuống nhìn chằm chặp Vương bất lão hỏi:
- Mà tiền đào đâu ra để đại ca mua sắm?
Vương bất lão cười xòa:
- Để ta kể cho tiểu đệ nghe
Rồi lão ta tằng hắng lấy giọng nói tiếp:
- Lúc sáng, vừa rời khỏi nơi này, ta đang đi thì thấy phía trước có một đoàn tiêu cục, có lẽ họ đang chuyển vận cái gì quan trọng lắm. Ta liền tìm chỗ nấp thì vừa lúc đó, một toán người bịt mặt, mặc toàn đen cỡi ngựa từ phía sau phi nhanh đến, rồi bất thần tấn công chớp nhoáng đoàn tiêu cục. Những người bịt mặt tuy ít nhưng toàn cao thủ nên chỉ trong một lát, phe tiêu cục bị thiệt hại gần hết nhân mạng. Thấy nguy, một người trong tiêu cục liền ôm một chiếc rương đen, nhỏ phóng chạy nhưng không thoát được những mũi ám khí, phi trâm của một người đàn bà bên phe bịt mặt nên gã nhào xuống, chiếc rương rời khỏi người rơi bật nắp, tung tóe khắp mặt đất toàn là trân châu, ngọc quí.
Đông Bích chận lại:
- Chắc đại ca lúc đó thấy cần một ít để tiêu đỡ phải không?
Lão chỉ cười rồi nói tiếp:
- Khi chiếc rương bị tung ra, hai phe đều lo ngại, nên cuộc chiến trở nên khốc liệt hơn, và chỉ trong chớp nhoáng, mấy tiếng thét la cuối cùng của người trước khi chết bên phe tiêu cục đều im bặt.
Lão nhìn Đông Bích rồi nhìn vào bộ đồ mới nói:
- Như vậy, tiểu đệ cũng biết ngay bọn bịt mặt tha hồ mà lượm của quí.
- Lúc này, ta liền nghĩ một trò đùa cho vui nên ta mới cất tiếng hú lên một hơi như ám hiệu gọi nhau. Xong ta thi triển Thần Ảnh Phi Thiên bay qua mé khác bên cạnh hú lên nữa và cứ như vậy liên tục mấy vòng.
Bọn bịt mặt lúc đầu chỉ mới chủ ý, nhưng sau đó, tên đầu bọn nói với bộ hạ:
- Chúng ta chuồn ngay, bọn tiếp ứng đến rồi kìa.
Vương bất lão quay sang hỏi Đông Bích:
- Rồi hậu quả thế nào tiểu đệ biết không?
Đông Bích nheo mắt cười vỗ tay đốp một tiếng trả lời:
- Có gì mà không biết, bọn bịt mặt đã nghi sợ người tiếp ứng thì chúng lè lẹ hốt vội, hốt vàng trân châu ngọc quí rồi ba chân bốn cẳng chuồn êm chí gì?
Vương bất lão gật gù:
- Tiểu đệ hay lắm, nhưng tiểu đệ có biết đâu bọn bịt mặt thấy ta cần ít vật báu để mua vật dụng nên chúng để lại cho ta dư dùng cơ mà.
Nói xong, lão cho tay vào chiếc bọc trong áo lôi ra mấy miếng ngọc bích và vàng lẽ, lão ta nói với Đông Bích:
- Ta đem bán một ít rồi về nhà cũng dư sắm áo quần và đồ cần dùng. Chẳng những vậy mà còn lại mấy miếng bích ngọc và tiền vàng họ thối lại đó.
Khi Vương bất lão đưa mấy miếng ngọc bích ra thì Đông Bích mở to đôi mắt kinh ngạc kêu lên:
- Trời ơi! Sao giống của tiểu đệ thế.
Vương bất lão thấy vậy hỏi dồn:
- Cái gì? Giống cái gì chứ?
Không trả lời câu Vương bất lão, Đông Bích vội vàng đưa tay vào áo trong bứt mạnh đứt sợi dây mang nơi cổ lấy ra một miếng bích ngọc hình bát giác.
Lúc thấy miếng bích ngọc của Đông Bích, Vương bất lão cũng la lên:
- Ủa, sao giống của ta thế?
Rồi lão đưa miếng bích ngọc cũng có tám cạnh cho Đông Bích.
Đông Bích cầm hai miếng hình ngọc bát giác giống nhau chạy ra chỗ ánh sáng nhiều xem cho rõ trong lúc Vương bất lão lại mang mấy bộ đồ và vật dụng đem vào cất trong căn nhà hoang mà hai người mới tạm trú vài hôm nay.
Trong khi Vương bất lão vào trong căn nhà hoang thì bỗng nghe tiếng kêu thất thanh của Đông Bích bên ngoài và tiếng chưởng ầm lên một tiếng rên hự của người trúng thương.
Vương bất lão hoảng quá, ném bừa đồ đạc quần áo, rồi liền tung ngươi bay vèo ra phía ngoài thì thấy Đông Bích đang lồm cồm ngồi dậy, miệng rỉ máu.
Vương bất lão chạy đến thăm hỏi:
- Tiểu đệ có sao không? Mà ai đánh tiểu đệ vậy?
Đông Bích lấy tay quệt máu trên khóe miệng, chỉ về phía núi cao tít trước mặt nói:
- Không sao cả. Đại ca đuổi theo tên bịt mặt chạy lên ngọn núi kia lấy lại hai miếng ngọc bích cho tiểu đệ nhanh lên.
Vương bất lão lúc nào đến giờ vẫn một mực chìu chuộng Đông Bích, nên thấy nét dáng khẩn trương của nó, lão liền thi triển Thần Ảnh, môn khinh công vô địch giang hồ rượt tìm kẻ địch.
Trong lúc đó, Đông Bích sau khi bị một chưởng đột công của tên bịt mặt khi nó đang chăm chú vào hai miếng ngọc bích, nên phải lãnh trọn một chưởng, và tên bịt mặt cướp lấy hai miếng ngọc bích chạy đi. Nó thấy thương tích không có gì nguy hiểm, nên nó cũng sử dụng Thần Ảnh Phi Thiên đã học được của Vương bất lão đuổi theo về phía tên bịt mặt trốn thoát.
Nó mệt nhọc lắm mới tìm cách lên đến đỉnh núi cao chót vót gần đụng trời xanh. Thỉnh thoảng vài đám mây trắng mỏng manh bay qua chạm vào cây cối nơi này.
Đông Bích lên đến nơi đã thấy có hơn mười hai người bịt mặt vậy đánh Vương bất lão, chúng vừa đánh vừa hét:
- Ngươi trả hai miếng ngọc bích đây và thường mạng cho Thập Tam sứ giả của Hắc Thạch ma động.
Đông Bích vừa thấy bọn bịt mặt vậy chặt Vương bất lão nên thầm kinh hoảng định nhào vô trợ giúp lão ta, nhưng chưa hành động đã bị bọn bịt mặt phát giác. Một tên bỏ vòng vậy Vương bất lão, nhào đến công một chưởng vào người Đông Bích. Đông Bích từ lúc nào đến giờ chưa học qua một thế đánh nào cả nên lúc này thấy có người đánh, nó chỉ biết ứng dụng Thần Ảnh bộ hình né tránh.
Bỗng nghe Vương bất lão la lớn:
- Tiểu đệ à, ta lấy lại được hai miếng bích ngọc rồi, đừng sợ, ta thanh toán bọn này ngay bây giờ.
Nhưng trong lúc đó, một tên trong bọn bịt mặt ra lệnh:
- Tam sư muội, thập sư đệ qua giúp thập nhị sư đệ bắt sống thằng nhãi con đó lại mới trị được lão già này.
Hai người được lệnh nhảy qua vậy chặt lấy Đông Bích tấn công nó tới tấp.
Cũng lúc đó, thấy nguy nên Vương bất lão dùng tuyệt kỹ Thần Ảnh thoát ra khỏi vòng vậy lao đến chỗ Đông Bích, nhưng khi lão còn ở trên không thì đã nghe Đông Bích la vang:
- Á á á
Tiếng la nhỏ dần và im bặt.
Vương bất lão còn đang lơ lững trên không vừa nhìn thấy Đông Bích bị chưởng lực của ba tên bịt mặt cùng công vào ba phía mà sau lưng của Đông Bích là vực thẳm nên khi nó không còn chỗ tránh né nữa thì bị hợp chưởng công luôn xuống vực thẳm, chỉ kịp kêu la những tiếng la tuyệt vọng chìm chết trong lòng địa huyệt đó.
Sở dĩ Vương bất lão không cách gì cứu được, vì trong khi lão vừa nhìn thấy Đông Bích bị nguy khốn, thì cũng là chính tên bịt mặt tung hàng loạt ám khí đến người lão, bao phủ một vùng rộng, nên lão phải đành đau lòng phản ứng tự nhiên là tránh né, và đó cũng chính là giây phút mà Đông Bích rơi tòm xuống địa huyệt.
Sau khi thoát khỏi vùng ám khí, trước cảnh Đông Bích thiệt mạng, Thần Ảnh Vương bất lão nổi giận điên cuồng chưa bao giờ có trong đời lão và lão đổ dồn lên bọn Thập Tam sứ giả Hắc Thạch ma động với những tuyệt chiêu sở học của trọn đời, lão thu thập với bao kinh nghiệm có được, quyết lấy mạng trả mạng.
Lão ta thét lên vang rền:
- Tất cả phải chết để đền mạng cho tiểu đệ ta.
Cuộc huyết chiến đi vào khốc liệt.
Nói về Đông Bích, sau khi bị chưởng lực hợp công của bọn Thập Tam sứ giả Hắc Thạch ma động đánh văng khỏi đỉnh núi cao, rơi xuống địa huyệt. Cậu ta chỉ kịp la một tiếng, rồi lịm dần, phó mặc thân mình rơi vào lòng đất chết.
Không biết thời gian qua bao lâu. Cậu ta từ từ tỉnh dậy
Sự ngạc nhiên lại đến với Đông Bích, cậu ta ngỡ là đang trong giấc chiêm bao vì khi nhìn lại chỗ nằm thấy được nằm trên giường bằng hồng thạch với những nét chạm trổ tinh vi trên những thành giường.
Đông Bích đưa tay bấu vào thân người thì cảm thấy mình thật còn sống.
Cậu ta tự hỏi thầm:
- Đây là đâu?
Như nghe hiểu thấu tâm trạng của Đông Bích, bỗng có một giọng nói nhẹ nhàng:
- Cậu bé đừng ngạc nhiên. Nơi đây là biệt điện tĩnh thương dành riêng cho cậu bé trong những lúc còn mang thương tích trong người.
Đồng thời với tiếng nói là một bóng người nhẹ nhàng, từ một ánh sáng của nơi phía sau của gian phòng thật rộng, yểu điệu đi đến bên giường của Đông Bích.
Cậu bé càng ngạc nhiên hơn nữa khi đối diện với bóng người mới đến vì sắc đẹp bá mị của người này.
Cậu ta còn đang bàng hoàng với nhiều câu hỏi, nhiều thắc mắc đảo lộn nhanh trong ý nghĩ.
Đông Bích giương đôi mắt nhìn người trước mặt. Đó là một người đàn bà ước độ tứ tuần nhưng nét đẹp thật hãn hữu thế gian. Mức độ hấp dẫn, quyến rũ làm cho người nhìn phải say đắm. Chẳng những vậy mà giọng nói thanh tao nghe như rạo rực cả lòng.
Bà ta mặc một bộ quần áo hoa gấm sặc sở, để lộ nước da trắng tuyết nhưng hai gò má hồng tươi mặc dù không son phấn trang điểm.
Đôi mắt long lanh dài xênh xếch như lúc nào cũng ướm lệ buồn tênh làm cho người nhìn phải biết lụy.
Hàm răng đều như ngọc dũa khi bà ta nhếch đôi môi hơi dày mọng hỏi Đông Bích:
- Tại sao cậu nhìn sững ta vậy?
Đông Bích lúng túng, không phải vì ý nghĩ không trong sạch mà vì sự ngạc nhiên trong nhất thời chưa biết lý lẽ trả lời nên sửng sốt như vậy.
Giờ đây nghe hỏi, cậu ta trở lại thực tại trả lời:
- Cháu ngạc nhiên vì bị rơi vào lòng vực thẳm, với thân bị chưởng lực nội thương mà giờ đây lại được an nhàn nơi biệt điện.
Tiếng cười dòn lẳng lơ, bà ta đưa bàn tay nỏn nà không phải ở lứa tuổi bà, vuốt mấy sợi tóc mây lòa xòa trước mặt rồi nói:
- Thật ra cậu đã ở tại đây gần hai hôm rồi, nhưng thương thế tuy có nặng đối với kẻ khác chứ đối với ta thì không đáng kể.
Đông Bích thốt lên kinh ngạc:
- Đã hai hôm rồi à?
Mỹ phụ mỉm cười thật đẹp gật đầu:
- Đúng vậy!
Đông Bích thấy được người cứu, lại đối đãi tử tiếng nên vòng tay cung kính hỏi:
- Xin phu nhân cho cháu biết quí danh để nhớ ngàn đời lần cứu mạng này.
- Cậu đừng để ý làm gì chuyện nhỏ mọn này, còn như tên hiệu ra, giang hồ đã gán cho cách đây hơn năm mươi năm về trước là Lạc Hồn phu nhân cùng với phu quân ta là Thiên Thủ Bách Độc.
Đông Bích nghe mỹ phụ này ở nơi đây với phu quân của bà nên lật đật nói:
- Nếu có dịp, phu nhân cho cháu chào mừng.
Nói đến đây rồi như nhớ đến việc gì, lại ngừng ngay câu nói, lộ nét ngạc nhiên hỏi lại mỹ phụ:
- Ủa! Như vậy phu nhân năm nay cũng đã gần trăm tuổi rồi sao?
Mỹ phụ cười dòn, xác nhận:
- Cậu bé nói đúng đấy, vợ chồng ta năm nay gần trăm tuổi rồi.
- Nhưng nhìn phu nhân cháu không nhận ra được là phu nhân gần trăm tuổi.
Mỹ phụ cười lớn vui vẻ:
- Như vậy là ta vẫn trẻ phải không? Cậu bé này ăn nói có duyên lắm. Ta thích cậu bé lắm.
Bà ta càng cười dòn thích thú, bỗng có tiếng hỏi:
- Cái gì mà phu nhân cười vui thú thế?
Đông Bích mới nghe tiếng nói là đã thấy một người đàn ông trạc ngũ tuần, mặt đẹp, da hồng hào tráng kiện đứng cạnh mỹ phụ rồi.
Mỹ phụ tức là Lạc Hồn phu nhân quay sang nũng nịu:
- À, phu quân đó à.
Rồi quay sang Đông Bích, Lạc Hồn phu nhân giới thiệu:
- Đây là phu quân của ta, mà lúc nãy ta đã nói với cậu bé đó.
Đông Bích cung kính chào:
- Cháu Đông Bích xin kính chào lão bá.
Người này tức là Thiên Thủ Bách Độc nhếch môi gật đầu, rồi như không để ý đến Đông Bích, lão ta quay lại nói với Lạc Hồn phu nhân:
- Sao hôm nay phu nhân vui vẻ vậy?
Lạc Hồn phu nhân đưa mắt tình tứ:
- Có gì đâu, vì thấy cậu bé này nói chuyện hợp ý nên thiếp có ý định
Thiên Thủ Bách Độc chận hỏi:
- Phu nhân có ý định gì?
- Thiếp muốn dùng thằng bé này vào chức tiểu đồng cho vợ chồng ta vậy mà.
Lúc này Thiên Thủ Bách Độc mới nhìn Đông Bích kỷ càng hơn rồi cười đáp:
- Được, được lắm, thằng bé này trông cũng lanh lợi đấy.
Đông Bích thấy hai người đang mặc cả với nhau để dùng nó vào việc của một tên tiểu đồng nên lòng đã bất bình song nó nghĩ, dù sao họ cũng là ân nhân của nó, đã cứu nó thoát khỏi bàn tay tử thần, nên bây giờ có làm tên tiểu đồng để đền ơn cứu tử cũng không có gì quá đáng, nên hắn dịu mặt lại, im lặng chờ đợi.
Rồi như ra lệnh, Thiên Thủ Bách Độc nói:
- Cậu bé có thể theo chúng ta để cho biết mọi việc phải làm trong cung điện này.
Đông Bích ngạc nhiên hỏi:
- Nơi này là cung điện à?
Lạc Hồn phu nhân đáp ngay:
- Đúng đấy cậu bé, để ta dẫn cậu bé đi xem qua cung điện này nhé!
Nói rồi, bà ta cùng Thiên Thủ Bách Độc bước đến một cánh cửa cũng chạm trổ tỉ mỉ như một cung điện vua chúa.
Bước ra khỏi phòng, Đông Bích đi từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác. Vì cả một vùng rộng lớn đều xây cất cực kỳ tinh mỹ, như một cung điện mà nó đã được đọc qua sách sử.
Tuy nhiên, có một số phòng ốc bị đổ sập hay hoang phế lâu đời. Thấy thế Đông Bích liền hỏi:
- Thưa phu nhân, nơi đây là cung điện gì vậy?
Bà ta lắc đầu:
- Thật ra vợ chồng ta cũng không được biết là cung điện hay công trình xây cất gì và có từ thời nào, nhưng cách đây hai mươi năm, ta và phu quân ta vô tình khám phá được nơi đây nên gọi nó là cung điện vì kỹ thuật xây cất này không kém một cung điện.
Bà ta chỉ những khu vực bị chôn vùi trong lòng đất hay đổ nát hoang phế, giải thích tiếp:
- Có lẽ cung điện này ở trên mặt đất và bị động đất nên bị chôn vùi xuống địa huyệt ngàn trượng và còn sót lại những dãy nhà này.
Rồi bà tiếp:
- Có một điều là cung điện này không ghi một dấu hiệu hay đời nào và cũng không có một bộ xương nào còn sót lại trong phần cung điện này cả.
Đông Bích suy nghĩ rồi góp ý:
- Cũng có thể là cung điện này xây cất chưa xong rồi bị vùi trong lòng đất.
Lạc Hồn phu nhân gật đầu:
- Cậu bé nói cũng có lý lắm đấy.
Rồi tiếng cười dòn của bà vang vọng đi qua các gian phòng khác.
Tới đây, Đông Bích đã đi qua nhiều gian nhà lộng lẫy song cũng chưa đi hết một dãy nhà, mà nơi này có đến ba dãy chia làm nhiều gian nhà, song cái nào cũng nguy nga lộng lẫy.
Đông Bích chợt nhớ ra lúc rơi xuống địa huyệt này nên hỏi:
- Thưa nhị vị, chẳng hay nhị vị làm cách nào mà cứu sống cháu lúc rơi xuống địa huyệt được?
Thiên Thủ Bách Độc cười mũi đáp ngay:
- Có khó gì đâu, vì chúng ta đã giăng sẵn một tấm lưới nơi gần mặt đất của lòng địa huyệt này và hai bên bờ là đá dựng trơn ướt như mỡ nên không sợ vướng mắc đá vong thân.
Rồi lão ta cười đắc ý:
- Có như vậy đến nay ta đã gặp gần hai mươi ta cao thủ để nghiên cứu võ học hầu tìm thêm kinh nghiệm cho bản thân.
Đông Bích hỏi lại:
- Như vậy, hiện nơi đây còn có gần hai mươi tay cao thủ?
- Đúng vậy.
- Chứ những người đó không muốn trở lên khỏi địa huyệt này à?
Tiếng cười the thé của lão như chuông rền buốt tai:
- Xuống thì được, sống nơi đây cũng được, song lên thì khó. Khó đến nỗi như vợ chồng lão đây đã năm mươi năm mà chưa rời khỏi địa huyệt trở về với võ lâm giang hồ được.
- Như thế thì nhị vị nghiên cứu võ học làm gì nếu không hy vọng rời khỏi địa huyệt?
- Có, có hy vọng chứ. Vì biết đâu trong gần hai mươi bộ óc rồi có ngày sẽ có người tìm cách lên bằng vào mưu lược trí não hay bằng võ công cái thế, chế ngự được địa thế này mà vượt lên vùng đất trên đó.
Đông Bích như hiểu ra liền tiếp theo:
- Cũng vì vậy mà nhị vị cố công nghiên cứu võ học hầu tìm phương pháp để vượt địa huyệt phải không?
- Cậu bé nói không sai.
- Vậy đến nay nhị vị đã tìm được sở nguyện chưa?
Lão ta lắc đầu khi Lạc Hồn phu nhân tiếp lời:
- Theo ta nghĩ rồi sẽ có cách.
Rồi quay sang Thiên Thủ Bách Độc, bà ta nói:
- Hình như ngày nay chúng ta lại tiếp tục bàn về võ học của phái Võ Đang phải không hả phu quân?
Thiên Thủ Bách Độc cười hăng hắc:
- Phu nhân nhắc ta, Thành Khất chân nhân mất công đợi chờ.
Rồi lão ta nói tiếp:
- Thôi bây giờ ta đến đó trước, phu nhân bày vẽ thằng bé này cách thức pha trà rồi đưa sang nhé!
Câu nói vừa dứt là nhoáng một cái, người lão lao vụt biến ngay vào dãy nhà tận phía xa.
Đông Bích còn đang kinh sợ thân pháp chớp nhoáng của lão thì nghe tiếng Lạc Hồn phu nhân:
- Bây giờ cậu bé theo ta.
Nói xong bà ta đưa tay nắm lấy tay Đông Bích thì nó thấy thân hình nó nhẹ như bông, lao vút về phía trước, chân nó như không chấm đất.
Trông đâu đâu cũng chạm trổ tráng lệ như một cung vua. Bà ta đứng lại chỉ cho Đông Bích hiểu hơn:
- Nơi đây là tư thất của vợ chồng ta, cậu bé chớ nên bén mãng đến làm gì trong thời gian ở nơi đây.
Bà ta chỉ một gian nhà phía sau và nói với Đông Bích:
- Căn nhà đấy là của cậu bé đấy. Bây giờ cậu vào đó đi, là có đủ phương tiện cho cậu. Lát nữa ta sẽ bày cậu cách pha trà đãi khách vì nơi đây cũng lắm khách.
Đông Bích muốn hỏi thêm vài điều nữa song nghĩ thế nào, cậu ta bèn im lặng bước về phía căn nhà mà Lạc Hồn phu nhân vừa chỉ.
Cậu bé vừa đi vừa suy nghĩ:
- Hôm nay người khách là Thành Khiết chân nhân phái Võ Đang và như vậy, nơi địa huyệt này đã có biết bao nhân vật võ lâm rơi xuống đây và đều được Thiên Thủ Bách Độc và Lạc Hồn phu nhân cứu sống. Rồi sau đó sẽ phải khai báo tất cả bí truyền của phái mình để hai vợ chồng chủ nhân đây suy nghiệm với danh từ nghiên cứu võ học.
Một sự nghi ngờ lòng tốt của hai vợ chồng chủ nhân nơi đây khiến nó rất vui lòng làm tên tiểu đồng, đó cũng là dịp nó được gần gủi Thiên Thủ Bách Độc và Lạc Hồn phu nhân để tìm hiểu thêm về họ.
Chú tiểu đồng Đông Bích với nhiệm vụ mới kể từ hôm nay nơi địa huyệt với cung điện nguy nga, không rõ xuất xứ, chôn vùi trong lòng đất, đang bao phủ đầy rẫy những âm mưu, những bí mật chưa ai khám phá được, cũng như chưa ai biết về mục đích của hai con người mang danh hiệu Thiên Thủ Bách Độc và Lạc Hồn phu nhân.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 23:10:28 | Chỉ xem của tác giả
TÌM NGƯỜI PHÓ HỘI HAI MƯƠI NĂM SAU
Trong một đại tửu lầu, thực khách thật đông đảo nhưng đây là khách giàu sang, tiền nhiều, bạc dư, muốn tìm cao lương mỹ vị hay muốn uống rượu quí trà ngon thì họ mới đến.
Vì vậy, cách ăn mặc của thực khách nơi đây quả thật là sang trọng của những tay phú hộ hoặc là những công tử, công tôn danh gia thế phiệt.
Đại tửu lầu này nhằm vào hạng hái ra tiền đó vì thế cho nên bàn ghế phương tiện nơi đại tửu quán cũng đã tốn lắm bạc tiền và bao công phu chọn lựa mới trang hoàng cho khắp các phòng được diễm lệ.
Khách giang hồ võ lâm cũng thường hay lui tới ghé trọ nhưng họ đều là khách trang nhã, phong lưu hay bệ vệ hầu hạ rộn rịp như vua chúa tuần du.
Bởi vậy quản lý lấy làm ngạc nhiên khi thấy hai lão ăn mày áo quần rách bẩn chân kéo dép lẹp xẹp bước vào.
Hắn ta giơ tay ra chận, miệng nói:
- Nơi này dành cho thực khách chứ không phải chỗ để xin tiền.
Một ão ăn mày nghe tên quản lý hỏi liền cười:
- Nhưng chúng ta là thực khách mà.
Tên quản lý ngắm lại hai lão ăn mày, miệng vẫn ấp úng:
- Nhưng
Lão ăn mày xua tay:
- Không nhưng gì hết, ta có tiền ta vào ăn, trả tiền đàng hoàng, làm gì ngươi cấm đoán.
Nói xong lão đưa cái bầu rượu đã cạn nơi tay, dúi vào tay tên quản lý miệng bảo:
- Lấy cho ta một bầu hồng tửu bách niên.
Đồng thời tay kia lão ăn mày lấy một thoi bạc đưa ra trước mặt cho tên quản lý nhưng tay hắn chưa chạm vào thoi bạc vòng tay kia đã ôm chiếc bầu đứng im như pho tượng, một tay chìa ra một tay ôm cứng chiếc bầu.
Thấy thế, lão ăn mày tự nãy giờ im lặng bỗng vỗ tay cười:
- Giang huynh có ngón cách vật truyền lực, xuyên không điểm huyệt hay quá.
Tên quản lý vẫn trong bộ thế thật buồn cười, đứng im lìm trong gian phòng phía trước đại tửu lâu, trước khi vào những phòng có thực khách, nên tiếng cười của lão ăn mày kia và cảnh tượng này thực khách nơi phòng phía trong và hai bên không biết đến. Vì thế, chỉ có nơi này huyên náo, bởi những người của đại tửu lầu này biết nên hoảng sợ kêu xin thế thôi.
Độ một khắc sau, từ trên tầng lầu trên, một lão dáng dấp bệ vệ miệng luôn nở một nụ cười chạy xuống cùng với mấy người làm.
Hắn ta đến trước hai lão ăn mày nói:
- Tôi là chủ quán, xin thành thật tạ lỗi cùng nhị vị đại hiệp về sự sơ sót của tên quản lý chúng tôi. Mong nhị vị hãy hỉ xả cho.
Giọng nói của tên chủ quán thật là ngọt nên một lão ăn mày liền xá nói:
- Ồ! Không có gì, vì tên quản lý làm khó dễ nên đùa tí vậy mà, nếu có lời ông chủ thì chúng tôi khỏi nhờ tên quản lý lấy rượu.
Miệng nói, tay lão lấy lại chiếc hồ lô và tên quản lý cũng đã cử động lại bình thường.
Tên chủ quán nói trong giọng cười:
- Bây giờ kính mời nhị vị đại hiệp vào trên lầu nhắm rượu. Còn tên quản lý này để chúng tôi sửa trị.
Thế là hai lão ăn mày ung dung đi lên nơi mà từ trước đến nay chưa có một bóng dáng của kẻ quần áo rách rưới đặt chân lên tới.
Vừa đi lão ăn mày họ Giang vừa nói:
- Vương huynh à.
Lão ăn mày kia xua tay lia lịa, nói chận:
- Túy Hồ lão tử, huynh cứ gọi đệ là Vương bất lão hay Vương Thạch Công thì đệ thấy vui hơn chứ còn gọi Vương huynh nghe nó già quá.
Lão ăn mày kia tức là Túy Hồ lão tử Giang Thượng Khả cười dài rồi tu một hơi rượu:
- Được, được Vương bất lão, hôm nay chúng ta lại chén cho đến túy lúy càn khôn nhé!
Vương bất lão lắc đầu lia lịa:
- Không được, không được, huynh thành danh với cái bầu rượu mà đệ đi so với cái sở trường của huynh thì đệ không dại đâu.
Nói xong, Vương bất lão chỉ tầng lầu trên cùng:
- Nếu tìm được chỗ tốt thì đệ chịu ngay.
Vừa dứt câu, Vương bất lão đập vai Túy Hồ lão tử:
- Lên huynh.
Thế là chỉ trong chớp nhoáng, hai lão ăn mày thần ảnh nhoáng lên mất nơi chỗ quẹo thang lầu cao lêu nghêu.
Tiếng cười từ một góc bàn trong phòng nơi lầu trên cũng vang lên:
- Vương bất lão xứng danh với Thần Ảnh độc nhất thiên hạ.
Hai người cười vui vẻ và dĩ nhiên được một sự tiếp đãi nồng hậu trước cặp mắt khó chịu của những thực khách toàn là vương tôn, công tử phú thương phú hộ lắm tiên nhiều bạc.
Túy Hồ lão tử nhìn khắp thực khách trong phòng rồi nói nhỏ với Vương bất lão:
- Toàn là khách hái ra tiền của lão chủ quán.
- Vậy càng hay, vì mình nhỏ to tiếng, họ cũng chẳng hiểu gì về võ lâm.
- Thế mà họ lại khỏi lận đận vào sanh ra tử như chúng ta.
- Có kẻ này có người khác chứ, có người sang có kẻ ăn mày chứ.
Hai người lại tương đắc với chén rượu hương nồng.
Qua mấy tuần rượu, Vương bất lão liền hỏi:
- Giang huynh, hôm nay tình cờ lại tái ngộ với Giang huynh, không biết có tin tức gì lạ trên giang hồ không?
Túy Hồ lão tử trầm ngâm đôi chút rồi nói:
- Những điều mà đệ nghe được đệ định hỏi Vương bất lão đây.
- Ủa, chuyện gì vậy?
- Có chuyện mới định hỏi chứ.
Rồi lão tu một hơi rượu mới tiếp:
- Cách đây hơn một năm có phải Vương bất lão huynh đài có choảng nhau với bọn Hắc Thạch ma động?
Vương bất lão gật đầu lia lịa:
- Đúng, lúc đó đệ đấu với bọn Thập Tam sứ giả của Hắc Thạch ma động và phải thật khó khăn mới câu hồn bọn chúng nơi Diêm vương được.
- Nghe nói bây giờ Hắc Thạch ma động củng cố lực lượng hùng hậu hơn và Thập Tam sứ giả bây giờ võ công cao siêu hơn lần trước gấp bội.
Túy Hồ lão tử hỏi lại:
- Huynh đài xích mích cũng vì một người bạn nhỏ của huynh đài phải không?
- Sao mà huynh biết nhiều quá vậy.
Tiếng cười cả hai lại nổi lên.
Vương bất lão tiếp:
- Người bạn nhỏ của đệ tên là Đông Bích, vì hiểu lầm mà bị bọn Hắc Thạch ma động hợp chưởng tấn công nên phải bỏ mình nơi địa huyệt, để cho đệ một nỗi thương tâm bất tận.
Túy Hồ lão tử giọng buồn buồn:
- Người bạn nhỏ của đệ cũng chính là con nuôi của Ngự Thanh Y Lang mà sau này đệ truy tìm mới biết manh mối nên định tìm huynh đài để xác nhận cho biết thực hư.
Rồi lão ta lại nói tiếp:
- Những ngày gần đây, đệ còn nghe tên là Võ Lâm tam tuyệt có cuộc tranh vị cho kẻ kế truyền.
Vương bất lão lắc đầu:
- Mấy lão đó chỉ còn có Tà Cuồng Sĩ Chiêu Vĩnh Hạ là chỉ độ gần thất tuần, còn Chánh Nhất Đạo Cao Lâm Hồng và Độc Bách Trùng Cát Ô Man thì xấp xỉ trăm tuổi rồi sao còn ham danh vị quá vậy?
- Mà đệ nghe nói là sở dĩ có việc đó là vì có hai chữ Chánh và Độc của hai người hầu như đại diện cho hai phe hắc bạch, muốn chứng minh sức mạnh của đôi bên. Còn Tà Cuồng Sĩ Chiêu Vĩnh Hạ tuy mang tiếng tà song chưa ai hiểu được con người của lão ta.
- Vậy huynh có biết về lão Tà đó không?
Túy Hồ lão tử gật gù:
- Nói rằng biết thì không dám nói rành, song đệ có tìm hiểu về Tà Cuồng Sĩ. Lão ta, thành danh năm ngũ tuần, rồi cùng với Nhất Đạo Cao Lâm Hồng và Bách Trùng Cát Ô Man được võ lâm suy tôn là Võ Lâm tam tuyệt. Sau đó Nhất Đạo lại cứ phiêu du như rồng ẩn hiện khó có người được hội diện. Bách Trùng Cát Ô Man thì hùng cứ nơi miền quan ngoại, chuyên luyện trùng độc và nghe nói là lão ta sau này đưa trùng độc vào nhưng cũng chưa ai phát giác được. Mới gần đây sư đệ của lão là Hàn Độc Ma Tôn xuất hiện giang hồ với Hàn Băng Độc Trùng Phân Cốt chưởng nên giang hồ mới nói đến tài dụng bách trùng của lão độc ấy.
Túy Hồ lão tử ngừng lại đưa cạn chén rượu rồi nói tiếp:
- Riêng có Cuồng Sĩ Chiêu Vĩnh Hạ, thì sau trận tranh phân nơi hoang đảo giữa biển Đông, với Nhất Đạo và Bách Trùng, thì tài lực của mỗi người mỗi ngón sở trường nên chưa phân cao hạ sau bảy ngày giao chiến. Từ đó, Cuồng Sĩ lại gặp vận xui nên vợ lão qua đời để lại một đứa con gái lên một.
Túy Hồ lão tử gật gù nhấn mạnh:
- Cũng bắt nguồn từ đây mà lão ta được gán thêm chữ Tà ở trước danh hiệu với chữ Chánh cho Nhất Đạo và chữ Độc cho Bách Trùng.
Vương bất lão chận hỏi:
- Căn cứ vào đâu mà đặt để như vậy?
- Thì giang hồ vốn đa sự, họ chỉ nhìn cái vẻ bên ngoài là phong gán ngay.
- Nhưng ý huynh là thế nào?
- Nếu gán cho Nhất Đạo là Chánh có lẽ giang hồ nhìn nhận Thiếu Lâm phái là chánh vì Nhất Đạo xuất thân từ phái này. Còn về Bách Trùng thì quả là có độc thật. Danh từ này thật chẳng ngoa. Còn phần về Cuồng Sĩ đã nhiều lần ra tay hạ sát lắm nhân tài võ lâm cả hai phe hắc bạch, cũng vì thế mà lão ta thêm tiếng tà là vậy đó.
Vương bất lão gặm cái đùi gà xong hỏi ngay:
- Hồi nãy đến giờ nghe Giang huynh cho biết nguồn gốc về Võ Lâm tam tuyệt mà giang hồ ai cũng nghe tên nhưng mỗi người biết một khía cạnh về họ có vẻ huyền thoại lắm.
- Có lẽ họ là thời trước chúng ta nên tam sao thất bổn mà ra vậy đó.
- Thế lúc nãy huynh nói về vụ truyền nhân của Tam tuyệt tranh danh như thế nào?
- À! Chỉ nghe nói là lúc gần đây có nhiều tay ma đầu tìm các tài năng huấn luyện để đại diện cho phe Độc Bách Trùng Cát Ô Man.
- Còn phe Chánh Nhất Đạo thì sao?
- Không nghe nói gì mới lạ chứ!
- Nghe huynh nói đệ nhớ đến Đông tiểu đệ.
- Mà đệ cũng nghĩ đến nó nữa.
- Sao vậy?
- Cái căn cốt hiếm thấy của nó thật đáng tiếc vô ngần.
- Đệ không bao giờ quên hắn được, không biết hắn có cơ duyên gì thoát khỏi thì thật là huyền thoại.
- Biết đâu đấy. Vì đệ thấy cốt tướng của hắn, đâu có yểu mệnh.
Đến đây Vương bất lão đưa hai miếng ngọc bích hình bát giác cho Túy Hồ lão tử xem rồi nói:
- Hai miếng ngọc này sao giống nhau quá xá, mà một miếng của Đông Bích tiểu đệ, còn một miếng là của đệ rồi cũng vì hai miếng ngọc này mà Đông tiểu đệ phải mạng nguy.
Thế rồi hai lão lại kể lể cho nghe những biến chuyển của giang hồ hơn một năm qua, từ ngày Đông Bích rơi vào địa huyệt qua chén thù chén tạc tương đắc.
Trên giang hồ, với không khí im lìm như ngầm chuẩn bị cho những biến động kinh hồn của giới võ lâm. Những sự im lặng đối với kẻ ngoại cuộc thì thấy như bình an vui cuộc, nhưng đối với người có ý huyết lo lắng cho võ lâm thì hoang mang tìm hiểu để hầu ngăn chặn những ý đồ tham vọng của những kẻ muốn độc chiếm võ lâm, gây nên nhiều máu hận bởi quyền lợi điên rồ.
Trong khi đó, mọi cơ cấu, mọi tổ chức, đều như thầm chuẩn bị cho dự tính riêng tư.
Những nạn nhân mà ít ai biết được là những trang hiệp khách đã phải lầm mưu, sa cơ, biệt tích trên giang hồ, tửu lâu làm cho phái bang của họ chỉ còn biết thương tiếc chứ có nào ngờ họ đang bị lợi dụng trí óc, võ học của từng môn phái ở những nơi bí mật trên giang hồ.
Cũng nằm trong âm mưu lũng đoạn, khủng bố võ lâm mà những người thân yêu của cậu bé Đông Bích lần lượt phải mạng vong, giờ đây, chính bản thân nó cũng đã phải làm thân tiểu đồng cho những con người thật xa lạ với nó. Song nó vẫn hân hoan thi hành bởi vì trí óc nghĩ suy của nó thúc dục.
Từ khi được đôi vợ chồng chủ nhân cung điện nơi lòng địa huyệt cứu sống và bắt Đông Bích làm tên tiểu đồng phục dịch công việc lặt vặt, nó vẫn ngoan ngoãn thi hành với mục đích là để tìm hiểu hành động của đôi vợ chồng kỳ lạ này.
Ngay hôm đầu tiên, nó thật ngỡ ngàng với công việc này, vì vừa mới giao cho việc, lại phải thực hành liền, khi mà Thiên Thủ Bách Độc tiếp Thành Khiết chân nhân thuộc phái Võ Đang biệt phòng luận võ.
Đông Bích sau khi được Lạc Hồn phu nhân chỉ vẽ cách thức châm pha các loại trà và cũng nhờ lúc còn ở với Ngự Thanh Y Lang nó đã quen pha trà ông uống, nên không có gì làm trở ngại, mà trái lại được lời khen tặng của Lạc Hồn phu nhân nữa. Công việc ấy mọi lúc đều do Lạc Hồn phu nhân lo liệu vì vậy nên khi thấy Đông Bích làm được thì Lạc Hồn phu nhân rất vui lòng.
Lạc Hồn phu nhân vỗ đầu nó bảo:
- Cậu bé ngoan lắm, bây giờ hãy bưng trà theo ta qua phòng bên kia để cho khách dùng.
Đông Bích cẩn thận làm theo lệnh của Lạc Hồn phu nhân. Nó rất lấy làm kinh ngạc khi vừa đặt chân vào gian phòng gọi là biệt phòng luận võ. Vì nơi đây có cái sự trang trọng gấp mấy lần các phòng khác, từ chiếc ghế cái bàn, tranh cảnh đều khắc tuyệt mỹ trên hồng thạch. Trong phòng không có đèn song ánh sáng êm dịu từ mấy viên dạ quang tỏa sáng nhẹ nhàng.
Sau khi nó đặt khay trà vào nơi chủ khách thì nó được đứng hầu ở sau lưng Lạc Hồn phu nhân.
Nó không thể quên được lần này và nhiều lần khác khi đợi vợ chồng chủ nhân cung điện luận bàn võ học với nhiều môn phái khác nhau, đủ loại chính tà đã bị rơi xuống lòng vực trong những trận giao tranh với địch nhân đông đảo và sa cơ rơi xuống địa huyệt. Vợ chồng chủ nhân tiếp cứu và săn sóc kỹ lưỡng. Cũng bởi cái ơn ấy mà những trang hiệp khách đành phải tỏ lộ mọi sở trường của những môn phái trên giang hồ và như thế cặp vợ chồng chủ nhân đã hiển nhiên như bắt gặp được những kỳ thư bí kíp để am hiểu về võ công các môn phái trong giang hồ.
Đối với những tên thuộc về phái tà gian thì bị những ràng buộc, gia khuyến số nên cũng khó từ chối việc tiết lộ võ học.
Từ lúc gặp gỡ đầu tiên với Thành Khiết chân nhân mà Đông Bích đã nghĩ suy rất nhiều, nó còn nhớ câu chuyện được mang danh là luận võ giữa các môn phái nơi cung điện này.
Đối với phái Võ Đang thì vợ chồng chủ nhân đặc biệt chú trọng đến các kiếm trận.
Hôm đó, sau khi khách sáo, chủ nhân là Thiên Thủ Bách Độc vào đề ngay:
- Thật tại hạ hết sức ngưỡng mộ đại danh của Thành Khiết chân nhân nên hôm nay may mắn cho tại hạ đã giúp ích được cỏn con để chân nhân được bình yên sau hai ngày tịnh dưỡng. Vì vậy tại hạ nghĩ rằng, chúng ta đều thuộc giới võ lâm thì trong lúc nhàn rổi này, chúng ta có thể hàn huyên, luận bàn về võ học, như vậy có vẻ thanh cao hơn không? Và với cái ngụ ý đó mà hôm nay, tại hạ sẽ đề cập với chân nhân những điều thắc mắc của tại hạ.
Nghe những lời tuy không được thực thà song trong đó đầy ý cương quyết nên Đông Bích nhìn sang Thành Khiết chân nhân trong bộ đồ đơn giản, mặt như không được lành mạnh lắm, đôi mắt có vẻ thiếu tinh anh dưới hàng mi bạc. Đông Bích thầm lo lắng cho sức khỏe của chân nhân nhưng nó nghĩ kỹ lại thì càng phải hành sự như kẻ không mảy may hiểu biết về y lý. Nó chăm chú theo dõi sự diễn biến tiếp theo.
Khi Thành Khiết chân nhân nghe Thiên Thủ Bách Độc nói xong, ông liền mỉm cười dễ dãi.
- Chuyện đó theo bần đạo thì không có gì là khó khăn cả, nếu bần đạo biết những điều gì về các kiếm trận mà các hạ muốn vấn tường thì bần đạo xin nguyện đáp ứng theo sở học để đền bù vào công lao cứu sống của ân nhân vậy.
Thiên Thủ Bách Độc cười khiêm tốn:
- Ồ! Có đáng gì việc nhỏ mọn ấy mà chân nhân phải bận tâm, nơi đây chúng ta đề cập đến võ học, trước hết là giết thời giờ nhàn rổi nơi cung điện này, sau nữa là có dịp so sánh những sở trường, sở đoản của mỗi phái bang trên giang hồ vậy.
Thành Khiết chân nhân đưa tay vuốt hàm râu dài bạc phếu:
- Các hạ nói thế thật hùng tâm về võ học quả đã chí tuyệt. Vậy bần đạo xin sẵn sàng góp ý cho các hạ.
Thiên Thủ Bách Độc nghe vậy mừng thầm, liền nói:
- Vậy bây giờ tại hạ xin chân nhân cho biết về kiếm quyết của các môn phái một cách tổng quát và riêng về Võ Đang với các kiếm trận lừng danh trong chốn võ lâm.
Thành Khiết chân nhân khiêm nhượng:
- Một kẻ thành danh của mỗi môn phái lẽ đương nhiên họ phải sở trường về bản phái song cũng hiểu biết về những cái hay của những môn phái khác, dầu nhiều dầu ít, đó cũng là điều cần thiết khi bước ra giang hồ để giúp ích cho bản thân lúc đối đầu với địch.
Thiên Thủ Bách Độc tỏ vẻ tán đồng:
- Chân nhân luận thế thật chí lý, tại hạ xin trân trọng chờ nghe những điều hữu ích.
Thành Khiết chân nhân nghiêm trang:
- Khi nói về giới giang hồ võ lâm, thì phe phái đứng đầu hắc bạch cũng phải nói đến trước tiên là Thiếu Lâm. Vì Thiếu Lâm phái đã đào tạo ra nhiều anh tài ổn định, cầm lái con thuyền võ lâm qua những cơn khủng hoảng trầm trọng. Song nói thế không phải là chỉ có Thiếu Lâm mới đào tạo được nhân tài, mà trên thực tế, từ trước đến nay, Thiếu Lâm phái đã có nhiều nhân tài xuất chúng hơn những môn phái khác.
Thiên Thủ Bách Độc len tiếng ngắt lời:
- Nhưng theo thiển ý của tại hạ thì Võ Đang và Thiếu Lâm hình như cùng một gốc mà ra.
Thành Khiết chân nhân gục gặt đầu:
- Các hạ quả thật hiểu biết sâu xa về nguồn gốc của các môn phái.
- Không, đó chẳng qua vì tại hạ quá ư ngưỡng mộ hai danh phái Võ Đang và Thiếu Lâm nên nghiên cứu để hiểu biết hai danh phái này vậy mà. Và cũng vì vậy, tiện đây xin chân nhân cho tại hạ hiểu chút ít về lai lịch Thiếu Lâm và Võ Đang xem có giống như những điều tại hạ đã thu thập từ trước đến nay.
Thành Khiết chân nhân mỉm cười rồi uống một hớp trà, xong nói tiếp:
- Tiếng tăm của Thiên Thủ Bách Độc thật vang dội song chắc không ai ngờ rằng Thiên Thủ Bách Độc có độ lượng như hiện tại. Điều này nói ra sợ mích lòng các hạ, song đó cũng là điều cởi mở vậy.
Thiên Thủ Bách Độc cười vang:
- Chân nhân là người ngay thẳng, tại hạ vạn phục vạn phục
- Cái đó xin cảm ơn dũng khí của các hạ. Bây giờ bần đạo xin đi vào nguồn gốc Thiếu Lâm và Võ Đang phái.
Thành Khiết chân nhân lại hớp một ngụm trà nóng khi Đông Bích vừa mới thay trà rồi ngồi dựa lưng vào chiếc ghế khắc, trầm tỉnh kể:
"Nói đến quyền thuật thì phải nói đến vị thủy tổ là Hoa Đà, người đã truyền lại cho đời ngũ cầm đồ gồm Hổ, Lộc, Bi, Viên, Diễn. Rồi sau đó phân ra làm nhị gia gồm Ngoại gia và Nội gia, để dựa nhau mà phát triển cho tinh thuật mỗi bên.
Về phía Ngoại gia thì Đạt Ma thần sư là vị sư tổ lập ra Đạt Ma phái với ngũ quyền gồm có Long, Hổ, Báo, Kê, Xà.
Về Nội gia thì Trương Tam Phong là vị sư tổ. Võ phái này có ngũ tư gồm Kình, Khẩn, Cận, Cấp, Thiết.
Hai phái này phát huy một cách mạnh mẽ và có nhiều nhân tài nên đời sau đó mới chánh thức gọi Ngoại gia là Thiếu Lâm phái và Nội gia là Võ Đang phái.
Thiếu Lâm thì chú trọng đến việc luyện tập để được điều hòa hô hấp, cũng như luyện bách hài, tiến thoái mau lẹ, cương và nhu giúp đỡ lẫn nhau.
Còn Võ Đang thì lại chú trọng vào tập luyện gân cốt, vận khí công, lấy tĩnh chế động.
Cũng vì điểm liên quan trên mà Võ Đang nhiều chỗ ảnh hưởng bởi Thiếu Lâm vì sự bành trướng của Võ Đang phái lúc đầu kém thua Thiếu Lâm. Hơn nữa Thiếu Lâm phái còn có được bộ Cầm kinh là bí quyết thuộc loại thượng đẳng để đi đến kết quả thượng thừa.
Mà từ lúc Đạt Ma thần sư và Trương Tam Phong, mỗi người phát huy mỗi môn phái của mình, thì Đạt Ma thần sư dời về phía Bắc Thiếu Thất sơn để xây chùa Thiếu Lâm và từ nơi đó đã đào tạo bao đệ tử giúp đời.
Trong khi đó, Trương Tam Phong lại về tọa lạc nơi núi Võ Đang, lập Võ Đang phái, truyền dạy cho những đệ tử hành hiệp giang hồ."
Thiên Thủ Bách Độc tỏ vẻ bằng lòng:
- Nghiên cứu nhiều năm, không bằng nghe chân nhân nói cho một chốc. Thật may mắn, song cái thắc mắc của tại hạ là Trương Tam Phong có những truyền nhân để phát huy võ thuật của phái này bằng quyền thuật hay kiếm thuật?
Thành Khiết đáp ngay:
- Nói đến võ thuật, tất nhiên không thể không chú trọng đến quyền thuật, vì quyền thuật có phát huy được linh mẫn, thì mới nói đến các môn khác trong võ thuật, và quyền lực phát sinh do bản năng tự tồn để cạnh tranh, tìm ra sự sống đối với mọi trở ngại ngăn cản bước tiến của con người. Con người lúc mới sinh ra, đâu phải đã biết được quyền thuật, sức mạnh cũng phải trui rèn mới thành đạt. Như muốn phát huy toàn diện võ công phải có thời gian tập luyện. Nhưng
Thành Khiết lại nhắp một ngụm trà rồi nói tiếp:
- Nhưng trên thực tế hẳn chúng ta cũng đã thấy, những trang thanh niên đã thành công viên mãn và võ công đạt được cái thế vô song. Đó chẳng qua là ngàn năm, trăm năm chúng ta mới thấy một lần vì những trang anh tài đó, tất nhiên không thể luyện tập một cách thông thường mà đại thành, mà phải có một căn cốt đặc biệt, đồng thời phải gặp những thiên duyên kỳ ngộ thì mới vượt hẳn người thường được. Hơn nữa, trong võ thuật, phải nói đến cái linh mẫn của cái tâm mỗi người mà thụ đạt. Vì môn phái tuy có khác nhau song tất cả đều phải từ những điểm trọng yếu là: thù, nhãn, thân, yêu, hộ, thức, đảm, khí, kình và thần, đó là những cái hữu hình để tập luyện, trau dồi, nhưng cái điểm thành tựu xuất chúng là ở chỗ chú trọng vào sự hội ý, lấy tâm mà hiểu, không hề truyền dạy bằng lời, chỉ lấy ý mà điều khiển tứ chi. Như vậy, thì không có quan trọng ở công phu truyền dạy, mà quan trọng ở sự lãnh hội bằng ý thức.
Thiên Thủ Bách Độc cười thỏa mãn, ngắt lời:
- Như vậy là từ quyền Võ Đang mới đến kiếm và ngày nay các kiếm trận lừng danh như Đại Cửu Cung kiếm trận phải có sự biến hóa dị biệt thế nào, thưa chân nhân?
- Thật ra, tài cán của bần đạo chưa dám nói là thấu triệt mọi tinh anh tột cùng của Võ Đang, song kiếm trận là căn cứ vào các phương pháp lập trận để đưa địch vào vòng rồi do sự động tĩnh của địch mà tương sanh, tương diệt nhưng cũng căn bản vào các cửa sanh, tử của trận pháp. Những biến ảo của các kiếm trận này thật như một cơn thác lũ, nước đổ không ngừng sẽ sinh ra hư, thực khó lường để nhằm hai mục đích là làm cho địch phải phân tâm, trong khi đó sức mạnh của kiếm trận càng mảnh liệt vì có sự liên hợp, tương trợ lẫn nhau.
Thiên Thủ Bách Độc cười khoan khoái:
- À! Như vậy nếu không có sự đồng đều tài lực thì kiếm trận không được vững chắc.
- Đúng lắm, vì chỗ thiếu khuyết dễ bị phát giác song phải nói đến những kẻ thật tài giỏi mới tìm ra khiếm khuyết ấy. Cũng vì thế mà kiếm trận Võ Đang đã lừng danh cho đến ngày nay, ít có ai phá được dễ dàng.
Thiên Thủ Bách Độc xoa tay nói:
- Có một lần nọ, tại hạ cũng có một lần diện kiến một cao tăng của Thiếu Lâm, và ông ta có đề cập đến những môn nội công, nghĩa là chú trọng về hô hấp là căn bản của võ thuật Thiếu Lâm, như vậy có đúng không, thưa chân nhân?
Thành Khiết cười tự nhiên:
- Đó là dĩ nhiên, vì như đã nói lúc nãy là Thiếu Lâm từ Đạt Ma thiền sư thì đã chú trọng về điều này rồi. Nhưng nội công thượng thừa của Thiếu Lâm phải nói đến nội công tâm pháp chi nguyên, đó là môn nội công thượng thừa hầu như không còn thấy ai học được, vì điều kiện để luyện tập môn nội công đó phải có được một căn cốt đặc biệt và phải có được nội công tâm pháp chi nguyên kinh phổ mới học được.
Thiên Thủ Bách Độc đắc ý:
- Chân nhân quán triệt thật rộng và đã chỉ dạy cho tại hạ nhiều điều hay lạ cũng như ngày trước tại hạ có được một vị cao tăng Thiếu Lâm khác phát họa qua những môn như Thiết Sa chưởng, Thiết Sa thủ, Mai Hoa thung, Sa đại, Mộc nhân, Thất Linh thung cũng như các môn quyền mà chân nhân đã đề cập bởi ngũ quyền của Đạt Ma thiền sư với Long, Hổ, Báo, Kê, Xà và từ đó mới phát huy thật là tinh diệu. Song theo tại hạ thì về Sa thủ phải kể đến các tay ở Xuyên Tương và quan ngoại, vì ở những nơi này chẳng những luyện tập một cách không thường mà còn dụng độc vào chưởng và sa thủ thì thật là nguy hiểm vô cùng, mà theo chỗ tại hạ biết là hiện nay có Hàn Độc Ma Tôn với Hàn Băng Độc Trùng Phân Cốt chưởng thật kinh hồn nhất hiện nay. Như vậy thì những tinh hoa võ học nào chăng nữa cứ đi mãi về sau thì sẽ có những bộ óc thêm tốt thì sẽ được tốt mà thêm xấu sẽ rất nguy hiểm.
Thành Khiết cười tán đồng:
- Chí lý lắm, các hạ luận rất phải và bần đạo mong rằng các hạ phát huy võ học giang hồ đừng đụng vào Bách Độc như danh hiệu của các hạ là bần đạo mừng lắm.
Vừa nói dứt, thì bỗng nhiên Thành Khiết chân nhân cảm thấy khó chịu trong người, nghiêng nghiêng nên Thiên Thủ Bách Độc nhún người đã đứng cạnh chân nhân và bảo:
- Phu nhân ngồi đợi ta ở đây nhé, để ta đưa Thành Khiết vào phòng nghĩ mệt.
Nói xong Thiên Thủ Bách Độc dìu Thành Khiết chân nhân vào một gian phòng ở dãy nhà bên cạnh. Trong khi Đông Bích còn đang suy tư về những điều mà Thành Khiết đã trình bày về võ học làm cho nó nhớ đến ngoại nó, nhớ tới Hàn Độc Ma Tôn rồi đến Huyền Không đại sư. Nó suy nghĩ về hai chữ hô hấp và thấy phương pháp của Huyền Không đại sư truyền dạy cho nó cũng chỉ nói là tập hô hấp để thuyên giảm cái đau. Nhưng nó lại giật mình vì những điều mà Thiên Thủ Bách Độc đã han hỏi đối với Thành Khiết chân nhân cũng như tình trạng sức khỏe ông ta hiện tại làm cho nó hết sức nghi ngờ và từ đó nó luôn luôn cố tâm theo dõi.
Nhưng rồi những cảnh tượng tương tự như nó đã thấy được trong buổi luận đàm giữa Thiên Thủ Bách Độc và Thành Khiết chân nhân được tiếp tục xảy ra với các danh tài của các môn phái và nó được dịp nghe hiểu tất cả các bí truyền của các môn phái giang hồ.
Đến những người gặp gỡ sau này, Thiên Thủ Bách Độc đã khai thác đến những bí quyết và hắn bắt các người đó phải để lại các khẩu quyết mà hắn đã ghi chép đầy đủ vào một quyển sách.
Với trí óc thông minh của Đông Bích, nó không bỏ cơ hội để được dự vào những lần hội thoại đó và những gì nó nghe, nó đều suy nghĩ và ghi nhớ.
Nó hành động thật hợp ý của Lạc Hồn phu nhân nên không có điều gì di hại cho nó.
Suốt một thời gian lưu lại cung điện này, nó đã chú tâm vào những nhân vật ở nơi này, nghĩa là những cao thủ võ lâm vô tình bị rơi xuống địa huyệt là sẽ được tiếp diễn những cách thức đón tiếp và luận bàn võ công với trạng thái không được minh mẫn cho lắm. Nó hiểu điều ấy, song nghĩ rằng võ công của nó thì chưa học mà cung điện này quá huyền bí nên chưa thể hành động được.
Một sự phát giác làm nó rúng động là trong bình trà ở cung điện này đều có độc mà nó cũng đã uống bởi lúc Lạc Hồn phu nhân đưa cho nó.
Nó không quên được ngày hôm đó.
Sau khi nó uống tách trà rồi thì Lạc Hồn phu nhân đã nói với nó một câu:
- Cậu bé từ nay hãy ngoan ngoãn nhé!
Bà ta nói xong, cười vang đắc ý.
Nhưng vì cũng đã biết về y lý và y dược nên Đông Bích không mấy khó khăn để tìm biết trong trà có độc. Nhưng nó vẫn ngạc nhiên là nó không hề ảnh hưởng, nhưng sau đó nó chợt hiểu là người nó đã miễn nhiễm vĩnh viễn đối với bất kỳ độc chất nào do sự ăn phải trứng nhện lửa của nó lúc trước.
Nó lợi dụng tình trạng này mà tùy thời hành động nên vợ chồng chủ nhân cung điện không cần phải quan tâm.
Những ngày trôi qua nơi cung điện với bao sự lạ lùng và những ý thức võ công đã đi sâu dần vào tâm não của cậu bé Đông Bích, với những tinh hoa của hầu hết các môn phái chính tà, cũng như những mưu mô thâm độc của các tay tà độc đều làm nó suy nghĩ miên man.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 23:11:37 | Chỉ xem của tác giả
HEO GÓT ĐỊCH RỜI NƠI CUNG ĐIỆN
Sau mỗi lần hầu hạ các bậc tiền bối võ lâm, đương nhiên trong sự bị bắt buộc tiết lộ các chiêu thức bí truyền của họ bởi cặp vợ chồng Thiên Thủ Bách Độc và Lạc Hồn phu nhân, cũng như qua những lần ấn chứng võ công, cậu bé Đông Bích đều được nghe tận tai, thấy tận mắt, song nó có ý định làm như kẻ tuân hành lệnh chủ nhân, để âm thầm tìm hiểu cái cung điện huyền hoặc này. Cứ mỗi lần như thế thì nó trở về nơi phòng dành riêng của mình mà suy ngẫm cũng như bắt chước các tuyệt chiêu kỳ bí của mỗi danh gia để múa luyện cho bớt sự lo nghĩ.
Với những chiêu nào khó khăn, nó lại vận dụng bộ óc thông minh để tìm cách thấu hiểu mà tự luyện tập. Đông Bích bất kể chiêu thức của tà phái hay chánh phái, chỉ luyện tập hết chiêu này đến chiêu khác, ngày này qua ngày nọ.
Cho đến mỗi hôm, nó đang bưng khay trà đưa vào phòng khách thì bỗng nhiên nó thấy đầu nặng mắt hoa lên, mặt đất nghiên ngửa, lắc lư và nó ngã nhoài với khay trà đổ vỡ và nó không còn biết gì nữa.
Cho đến lúc nó tỉnh dậy bỗng thấy đang nằm trên chiếc giường trong phòng đó. Tuy nhiên trong phòng không có một ai. Nó đang thắc mắc bỗng nghe:
- Phu nhân à, cái thằng bé nó ngã thế nào mà bất tỉnh như vậy?
- Ồ! Có lẽ nó vấp ngã hay bị trúng gió độc vậy mà... à, lúc nãy em đã cho nó uống thuốc trừ độc rồi.
- Mà thuốc trừ độc có ảnh hưởng gì đến thuốc hôm nọ cho nó uống không?
- Phu quân cứ yên tâm, nó uống hơn ba lần thuốc là trí óc nó phải làm theo lệnh của chúng ta cũng như những tay cao thủ rơi xuống địa huyệt này, họ đành phải tiêu tan công lực và tự khai các tuyệt chiêu của mình để cho phu quân tìm hiểu cái võ học bao la của các môn phái chứ.
Và tiếng cười quen thuộc của hai vợ chồng chủ nhân làm Đông Bích ngồi nhỏm dậy. Nó nhìn dáo giác chung quanh vẫn không thấy bóng ai cả. Nó hoang mang nhẹ bước đi lần qua phòng bên thì thấy vợ chồng chủ nhân cung điện đang ngồi chuyện trò.
Vừa thấy nó vào, Lạc Hồn phu nhân lên tiếng hỏi:
- Ủa, cháu tỉnh rồi à. Lúc nãy tại sao ngã xuống vậy?
Đông Bích vừa nghe câu chuyện giữa hai người nên theo đó mà trả lời:
- Dạ, thưa phu nhân, cháu đang bưng khay trà vào không hiểu tại sao, chỉ thấy choáng váng rồi cháu ngã xuất hiện không biết gì. Có lẽ bị gió độc cũng nên.
- Ừ, chắc vậy rồi. Song ta đã đổ thuốc cho cháu rồi, cháu khỏe hẳn rồi đấy.
- Xin cảm ơn phu nhân, cháu làm đổ bể khay trà, cháu xin phu nhân...
Lạc Hồn phu nhân cười chận lời:
- Không có chi ngại, bể rồi thôi, cháu đừng để tâm làm gì, giờ cháu về phòng nghỉ đi. Hôm nay cho cháu nghỉ suốt ngày, ngày mai sẽ làm công việc.
Đông Bích cúi đầu tại hạ từ:
- Xin cảm ơn phu nhân.
Đông Bích lui ra đi trở về phòng nó. Song phòng nó cách phòng khách một bức vách dầy, tuy nhiên khi nó về phòng vẫn nghe Thiên Thủ Bách Độc và Lạc Hồn phu nhân chuyện trò.
Nó quá sức kinh ngạc và suy nghĩ về khả năng vượt bực về thính giác của nó nhưng chợt nhớ ra, mặt nó vui mừng ngay vì nó chợt hiểu:
- Có lẽ máu nhện lửa sau một trăm ngày đã làm cho đôi tai nghe rõ ràng dẫu cho tiếng lá rơi cách một bức tường cũng như mắt có thể thấy rõ đêm tối trong vòng ba trượng.
Hơn nữa, những thứ thuốc độc của Lạc Hồn phu nhân cho nó uống vẫn không ảnh hưởng gì, vì chất độc nào vào trong người Đông Bích cũng đương nhiên bị hóa giải bởi chất máu nhện lửa mà nó đã uống cách đây một trăm ngày.
Rồi ngày ngày, nó mừng thầm trong bụng và lại tiếp tục âm thầm tập luyện những kỳ chiêu, song nó nhận thấy tuy nó thực hành được nhưng sức lực rất tầm thường, nên không sao đạt được kỳ chiêu như mắt nó đã thấy các tay cao thủ đó biểu diễn.
Cho đến một hôm, nó lại được nghe câu chuyện giữa Thiên Thủ Bách Độc và Lạc Hồn phu nhân.
- Chúng ta đã vắng bóng trên giang hồ hơn năm mươi năm rồi và chúng ta ở nơi cung điện cũng hơn hai mươi năm rồi. Hai mươi năm lưu lại đây thật là hữu ích. Giờ đây chúng ta trở lại giang hồ thì chúng ta sẽ không sợ các bí truyền của những môn phái. Chúng ta cũng phải cảm ơn những tay cao thủ rơi xuống đáy huyệt này và giờ đây họ đã yên nghỉ vĩnh viễn rồi.
Đông Bích nghe đến đây thì nó giận dữ, bàng hoàng nhưng tính nhẫn nhục đã quen, nên nó không có phản ứng gì thì đã nghe giọng của Lạc Hồn phu nhân tiếp lời Thiên Thủ Bách Độc:
- Phu quân thật xứng danh là Thiên Thủ Bách Độc. Ngày trở lại giang hồ, chúng ta sẽ làm bá chủ võ lâm.
Tiếng cười thỏa mãn của đôi vợ chồng này vang lên triền miên.
Giọng nói tà mị dứt tiếng cười:
- Chỉ tội cho thằng bé đã hầu hạ chúng ta hơn một năm qua, rồi sẽ phải vĩnh viễn nằm im trong lòng đất với cung điện này.
Một giọng nói đàn ông tiếp:
- Ồ! Nếu cứ bịn rịn vậy thì làm gì nên sự nghiệp, thôi chúng ta hãy đi đi.
Đông Bích vừa nghe như vậy cũng cuống quít. Nó chạy theo tiếng động của đôi vợ chồng Thiên Thủ Bách Độc và Lạc Hồn phu nhân.
Vì nhờ đôi tai thính nên Đông Bích cứ đi theo hướng của đôi vợ chồng này. Qua hết những gian nhà lộng lẫy mà ánh sáng có được là nhờ những hạt minh châu tỏa sáng. Nhưng rồi đến một con đường hầm hoàn toàn đen kịt.
Thiên Thủ Bách Độc nói với Lạc Hồn phu nhân:
- Phu nhân này, nơi đây là ngã ba của đường hầm. Hai đường này đều ra khỏi nơi này được, song hết chỗ này mỗi đoạn nữa là đường hầm bên tả sẽ có ánh sáng để đi khỏi sợ nguy hiểm, song nó xa gấp đôi nơi đường hầm bên hữu, hoàn toàn đen kịt. Vậy phu nhân muốn đi đường nào?
- Vậy mà phu quân hỏi à, ta cứ bên trái thong dong đi và kịp thời đặt chất nổ để phá hủy nơi này cũng được dễ dàng chứ tội gì mà đi phía hữu như đi vào trong đêm tối cho hiểm nghèo.
- À! Phu nhân nói hợp ý ta lắm. Vậy ta cứ đi mé tả nhé. Tuy bước vào đường hầm này là tối đen song đi một đoạn là có ánh sáng ngay. Ta đi nhé phu nhân.
Thế là Thiên Thủ Bách Độc và Lạc Hồn phu nhân đi vào đường hầm bên tả.
Đông Bích cũng lò mò đến sau hai người đó, song nó đã nghe những điều hai người đó nói.
Nó nói thầm:
- Con đường đến đây thật là bí mật, may nhờ các người dẫn đường và giờ đây lại đi về phía con đường dài, ta đi vào con đường ngắn vậy. Bóng tối đối với ta cũng không có gì trở ngại. Ta sẽ ra trước để ho bị chôn vùi nơi đây với những chất nổ của các người.
Thế là Đông Bích cứ mải miết nhắm hướng đường hầm bên phải chạy nhanh trong bóng tối mịt mù nhưng đôi mắt của nó vẫn thấy được rõ ràng.
Con đường hầm ngoằn ngoèo quanh co, trơn ướt nhưng với ý chí cương quyết, Đông Bích thoát ra không mấy khó.
Khi nó vừa chui ra khỏi đường hầm thì đã có ánh sáng mặt trời nhưng trước cửa hầm là một màn nước chắn ngang.
Đông Bích nhìn kỹ thì đó là một màn nước từ thác nước phía trên đổ xuống ngay trước miệng hầm.
Nó thầm nghĩ:
- Thác nước này là tấm màn chắn ngụy trang thật tốt. Ta cứ nép sát vào mé triền núi là xong.
Nhưng nó đi chưa hơn mười bước bỗng phiến đá dưới chân trượt trơn như mỡ làm nó chao người dẫm lên phiến đá khác song tất cả những phiến đá này đều trơn như mỡ không sao đặt chân lên được. Trong phút giây nguy nan đó, nó tự nhiên dùng Thần Ảnh Phi Thiên, mà trước đây Vương bất lão đã dạy cho nó để búng người lên cao và dùng Cửu thức bộ hình thoăn thoắt thoát ra vùng đá mỡ, nhưng lại gặp một cái hồ nước đen sì mà mặt nước cuồn cuộn rút xuống phía đáy nên nó không kịp suy nghĩ dùng Thần Ảnh Phi Thiên tung người lên cao rồi dùng luôn thế Độc Long Xuất Hải của phái Thiếu Lâm để đưa người ngang vào bờ. Nhưng bờ hồ còn xa nên nó hoảng quá liền xoay ra thế Bạch Hạc Lượng Kiền mà sử dụng ở trên không cố sức tung tả hữu chưởng xuống mặt nước để đưa toàn thân hướng về phía trước. Nhưng sức chưởng của nó còn quá yếu ớt nên không đẩy được toàn thân vượt lên bờ mà chỉ đến mé bờ trong khi đầu nó lại chúi xuống thật là nguy hiểm. Trong cơn nguy biến nó liền sử dụng luôn thế Triều Ngô Bảo Giáp của một tay ma đầu mà nó đã học được nơi cung điện liền cuốn người lại, hai tay chộp cành cây sát mặt nước nhấn mạnh mượn đà đưa hai chân vút lên bờ và bật người đứng dậy cách bờ hồ hơn hai thước.
Nó thở phào cười thầm:
- Mấy món tạp nhạp mà cũng có lợi song sức lực của ta yếu quá, muốn tranh thắng với giang hồ võ lâm phải tập luyện biết đến bao giờ.
Rồi nó sực nghĩ đến hiện tại:
- Thôi nguy mất, phải chạy cho xa chứ cái cung điện kia mà nổ tung thì hết sống, chớ nên lảng vảng gần đây.
Nghĩ thế nên nó cắm cổ chạy như bay, vượt khỏi triền núi thì bỗng nghe tiếng nổ long trời lở đất.
Một vùng núi phía xa như sụp hẳn xuống.
Nó đứng lại lắc đầu:
- Một công trình nghệ thuật kiến trúc vĩnh viễn chôn vùi trong những tay gian hùng, thật là đáng tiếc.
Từ hôm ra khỏi cung điện nơi địa huyệt sau gần hai năm làm tên tiểu đồng phục dịch cho hai vợ chồng lão gian hùng, Đông Bích cảm thấy thư thới với hoàn cảnh hiện tại. Điều mà nó nghĩ trước nhất là người anh kết nghĩa vui tính là Vương bất lão. Nó mải miết đi mà nghĩ đến những lần nghe lý luận cũng như mưu lược của những ma đầu nơi địa huyệt. Lúc đầu nó ngao ngán cho lòng dạ con người nhưng rồi nó lại nghĩ rằng con người muốn thành công phải biết tùy nghi dụng trí, dụng lực, chứ cứ cương cường không phải chỗ ắt khó đạt thành ý nguyện.
Những ngày dài nơi cung điện tuyệt mỹ trong lòng đất nung đúc cho Đông Bích biết bao triết lý sống, biết bao kinh nghiệm của những tay lão luyện kể lại, thật sự đã giúp ích cho nó về phương tiện võ học cũng như phương diện trí dụng phong phú biết bao.
Hai năm nơi lòng đất của cung điện nó đã lớn về tinh thần lẫn thể xác, giờ đây nó cứ rảo bước tìm tung tích đại ca Vương bất lão của nó.
Một hôm Đông Bích đang đi về hướng thị trấn để tìm mua lương khô dùng cho hành trình tìm Vương bất lão.
Nó đang lầm lủi bước đi bỗng nghe phía trước xa ở bên kia đồi có tiếng la hét của một trận chiến.
Nó chạy nhanh về phía đó thì phát hiện nơi thung lũng có hơn hai mươi người đang vây một lão già tóc dài phủ trắng, chỉ thấy loang loáng ánh mắt sáng ngời, cạnh đó còn hai xác thiếu niên đã chết.
Một người trong bọn áo vàng vây cụ già hỏi lớn:
- Tại sao nhà ngươi lại giết hai thiếu niên của chúng ta.
Cụ già bật cười khô khan:
- Người của tụi bây à, láo khoét, hai thiếu niên này chúng đã được chọn trong giới võ lâm, để bắt về làm đệ tử cho tên Độc Vật Bách Trùng Cát Ô Man, nhưng ta thấy nó còn khuyết điểm nhiều lắm nên để cho chúng chết thì ta thích lắm rồi.
- Ngươi là ai mà lại dám khoác lác như vậy, chúng ta sẽ cho ngươi một bài học.
- Cứ làm, cứ làm, khỏi nói nhiều nhưng chúng bay chết đừng oán ta đấy nhé! Nếu đứa nào còn sống nơi chiến địa ta sẽ cho làm đệ tử...
- A, lão già này phách lối lắm. Anh em tử chiến.
Thế là trận đấu lại sắp diễn ra khốc liệt, kiếm, chưởng tung trời nhưng chỉ trong chốc lát, hai mươi tên áo vàng đành bỏ xác tại vòng thung lũng quạnh hiu, bởi những chiêu thức kỳ ảo của lão già.
Đông Bích từ nãy giờ chú mục theo dõi trận chiến đến lúc này nó mới bước ra khỏi lùm cây lên tiếng:
- Cụ tóc đã bạc rồi sao lại hành động quá tàn ác vậy. Họ là những kẻ tài không bằng cụ mà cụ lại nỡ dùng những kỳ chiêu ma đạo mà sát hại họ, hơn thế nữa cụ lại giết hai thiếu niên vô tội kia làm gì mà đáng lý ra cụ nên giải thoát dùm họ mới phải.
Cụ già nhìn Đông Bích từ đầu đến chân rồi cười ha hả và đột nhiên thân người cao vút về phía nó với đôi tay như dài ra, chộp lấy Đông Bích. Nó hoảng vía nhún mình vọt lên không theo thuật Thần Ảnh Phi Thiên tránh khỏi bàn tay của lão già.
Lão ta cất tiếng cười càng vang to hơn rồi thình lình lão vung một nắm que tre chung quanh thân hình Đông Bích lúc nó vừa từ trên cao hạ người xuống.
Giọng nói của lão ngắt đứt tiếng cười:
- Bây giờ cậu bé hết lên trời hay xuống đất được nữa rồi, vì đã sa vào trận đồ của ta là hết đường tẩu thoát.
Đông Bích khi vừa từ trên hạ người xuống định bước thêm một bước nhưng vừa xoay người là thật như bị giam vào trong rừng tre mịt mù không làm sao tìm được lối ra mặc dù đã chạy tới chạy lui mà vẫn thế. Nó bực tức thét lên:
- Lão già kia, muốn làm gì ta cứ nói, có gì phải giỡ trò ma quỷ hạ tiện thế này.
Lão già vẫn cười chế nhạo:
- Cậu bé đừng hỗn xược, ta muốn cậu bé từ đây sẽ ở bên ta mãi mãi và ta sẽ truyền hết tất cả sở học của ta cho cậu để sau này làm rạng danh cho ta.
Đông Bích hằn học:
- Chẳng bao giờ, chẳng bao giờ đâu, lão đừng hòng ép ta làm đệ tử cho lão.
Lão già tức bực hét:
- Thằng bé này lớn gan thật, mày chưa biết đại danh của ta mà dám hỗn láo.
Đông Bích nói lớn chận lời:
- Không cần biết, ta chỉ thấy lão quá tàn ác và không quang minh chính đại là ta bất phục, và như vậy thì chẳng bao giờ ta chịu nhận lão là sư phụ được.
Nghe Đông Bích nói thế, lão hơi do dự hỏi:
- Này bé, nếu ta hành động quang minh chính đại thì ngươi nhận ta là sư phụ chứ?
Đông Bích thấy tình thế như vậy liền hòa hoãn:
- Cũng có thể như vậy.
- Tại sao cũng có thể?
- Tại vì, nếu lão bắt ta làm đệ tử, tuy ngoài miệng gọi thế song trong lòng ta bất phục thì thử hỏi như vậy có vinh dự gì cho lão không nào?
- À, nếu thế lão sẽ làm cho ngươi khâm phục rồi ngươi sẽ bái ta làm sư phụ nhé!
Đông Bích vì bị vây trong trận trúc nên chỉ nói chuyện mà không thấy được lão già nên nó dụng mưu:
- Lão vây ta trong trận này rồi bắt ép ta làm đệ tử thì xem có được không? Có xứng là sư phụ ta không?
- Ừ, vậy ta sẽ thâu trận đồ lại, ngươi đừng có trốn đấy nhé.
- Được rồi, ta giữ lời.
Thế là chỉ trong thoáng chốc, Đông Bích thấy thoang thoáng bóng lão già vì trận đồ đã được thu lại.
Đông Bích đang đứng trước mặt lão, nó lên tiếng:
- Lão quả thật chắc hẳn thông suốt những trận đồ trên giang hồ này phải không? Và lão cũng muốn ta học những điều ấy để làm vang danh lão chứ gì?
- Đúng lắm, lão là người chưa tìm được kẻ phá những trận đồ do chính lão dựng nên.
Suy nghĩ giây lát Đông Bích hỏi tiếp:
- Vậy sở học của lão thành danh hôm nay do bao nhiêu năm học mới thành?
- Cái sở học của lão về trận pháp, độ ba mươi năm và võ công hai mươi năm.
- Lão học theo kinh thư hay khẩu truyền?
- Ta học theo kinh phổ đàng hoàng, song những cái mà thế gian này thua ta là những trận pháp, trận đồ do ta chế đặt ra, không nằm trong kinh phổ.
Đông Bích mỉm cười hỏi tiếp:
- Lão có dám chịu một điều kiện với ta là lão đưa tất cả kinh phổ của lão đã học từ trước đến nay cho ta nghiên cứu và sẽ phá mọi trận đồ của lão cho xem.
Lão già cười ha hả vang cả thung lũng:
- Thằng bé này chí khí lắm, song không thành được đâu. Ta là kẻ tự cho mình thông minh xuất chúng nhưng cũng phải mất ba mươi năm học hỏi mới thành tài. Tuy ngươi đây, theo ta thấy cũng là bậc đại tài đấy, căn cơ thật là hiếm có, song nếu thời gian học tập ít hơn ta là ngươi không thể phá trận đồ của ta được.
- Vậy ta hứa một lời là chỉ cần thời gian ba năm thôi ta sẽ phá trận cho ngươi xem.
Lão già cười ngặt ngoẽo như điên rồi nói:
- Được, ta sẽ y lời, nếu trong ba năm mà ngươi không thoát ra trận được là ngươi phải quỳ lạy ta làm sư phụ đấy.
- Ta sẽ lạy ngươi nếu sau ba năm bất tài.
Lão già nhìn trước sau rồi nói:
- Bây giờ ngươi hãy theo ta lên núi xa tít kia mà tu luyện. Ta sẽ bỏ ngươi vào một cái hang động thơ mộng lắm, đó là nhà của ngươi, trước cửa động ta lập trận và cứ vào đêm trăng tròn là ta tiếp tiếng lương thực cho ngươi đủ dùng một trăng và liên tiếp trong ba năm, để xem tài ngươi. Ta sẽ đưa ba quyển Kinh phổ trận đồ toàn tuyệt cho ngươi nghiên cứu.
Đông Bích chợt hỏi:
- Nếu ta thoát khỏi trận của lão được thì ta không gọi lão là sư phụ đâu đấy nhé!
- Được, nếu ngươi làm được như lời của ngươi, ta không oán trách ngươi đâu. Và lúc đó ngươi sẽ biết danh tánh của ta.
- Đồng ý, bây giờ đi ngay là vừa.
Thế là Đông Bích ngoan ngoãn đi theo lão già tóc bạc phơ mà nó chưa hề biết qua danh tánh để thực hiện ý chí cương quyết của nó vậy.
Lên đến đỉnh núi cao, trước dãy núi dựng đứng như dãy trường thành sừng sững, là một bãi cỏ xanh rộng mênh mông, thỉnh thoảng có vài ba tảng đá nhẵn thín, như những chiếc ghế thiên nhiên.
Lão già chỉ vào cái động nói:
- Đó là nơi tu luyện của ngươi, hãy vào đi.
Đông Bích lẳng lặng bước vào không lời phản đối.
Trong khi đó, lão già chạy đi về nơi cuối bãi cỏ trong một động nhỏ lấy lương khô và vài bộ áo quần mang đến, đưa vào cho Đông Bích.
Lão cũng đưa luôn ba quyển Kinh phổ trận đồ toàn tuyệt cho Đông Bích rồi lui ra nói:
- Ta chờ xem trí thông minh của ngươi có hơn ta không hay ta sẽ có một đồ đệ mà ta ưng ý. Ta đi đây.
Đông Bích cũng không buồn bước ra cửa động vì nó cũng biết rằng cửa động là cả một trận đồ án ngữ nó nơi này.
Đông Bích thở dài nhìn quanh động, bốn bề bằng đá thiên nhiên vây kín chạy dài và nhỏ dần ở phía trong.
Nó nghĩ thầm:
- Không biết ban đêm làm sao nhìn thấy chữ đây.
Nó đi tìm trong động từ ngoài vào trong, chợt nó thấy có mấy chỗ sáng mờ liền đào lấy mấy tảng đá lên thì thấy sáng hơn và nó hiểu rằng những hạt minh châu lóe sáng như nó đã từng thấy ở nơi cung điện trong lòng đất khi trước.
Nó mừng rỡ vì đã tìm ra được ánh sáng. Nó thấy phía hữu gần hạt minh châu tỏa sáng có một phiến đá dài đầy đất cát. Nó cào hết bụi đất đi, thì mới hay phiến đá màu trắng trong lạnh mát, phẳng lì nên nó lấy nơi này làm chỗ nằm. Nó khuân lương thực vào, trong khi ở phía gần ngoài động có một cái hồ đá đầy nước trong nên yên tâm không sợ chết khát được trong một tháng rồi.
Xong đâu đó thì trời cũng vừa tối, nó không lo nghĩ gì nữa liền đặt lưng xuống tìm giấc ngủ say sưa, không buồn toan tính, nghiên cứu trận đồ, cứ mặc cho giấc ngủ kéo dài cho đến gần trưa ngày hôm sau mới thức giấc trở dậy.
Thế rồi thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, hơn hai mùa xuân thoáng qua trước động, Đông Bích không sao bước ra ngoài động được. Bộ Kinh phổ trận đồ toàn tuyệt gồm có ba tập là thượng, trung và hạ, đều được Đông Bích thuộc lòng và cũng đã thử phá trận nơi trước cử động nhưng đều vô dụng. Tuy đã thông suốt các trận đồ lượt giải trong kinh phổ song nó chưa biết cách phối hợp vì quá phức tạp bởi những biến ứng của mỗi thứ. Quyển thượng gồm những lược dẫn nguồn gốc và căn bản sử dụng trận đồ. Quyển trung là những chất liệu để lập thành trận đồ. Quyển hạ là sự phối hợp và các chuyển biến cũng như mưu dụng cho mỗi trận pháp.
Hơn hai năm qua mà Đông Bích chưa phá được trận đồ, lòng nó đã thấy nôn nao. Nó dốc tâm để ý nghiên cứu thật kỹ từ quyển thượng đến quyển hạ và phân tích kỹ càng từng biến chuyển của mỗi trận thế.
Thời gian cứ im lặng trôi qua, Đông Bích vẫn còn ngồi trong động, nó nhớ đến mười hai lần trăng tròn đều có lão già đến đây tiếp tiếng lương thực cho nó với những săn sóc thật chu đáo đã lần lần xóa mờ mối ác cảm buổi gặp gỡ ban đầu.
Nó thầm nghĩ:
- Tuy còn hai mươi bốn lần trăng tròn nữa là ta mới thua cuộc. Nhưng ta phải cố gắng, phải đem toàn lực để tranh đấu trong những thời gian còn lại. Nó tự nhủ thế và đêm ngày nó suy nghĩ mãi.
Rồi một hôm, Đông Bích đang ngồi suy tư trong hang động thì bỗng nhiên trời vần vũ, mây mù kéo đến ùn ùn. Và cơn mưa như thác lũ trút nước làm cho động đá của Đông Bích đang ở cũng phải có nhiều chỗ rỉ nước rồi chảy thành từng dòng nhỏ từ trên cao xuống.
Đột nhiên một phiến đá từ trong góc xa của gian động ở phía trên rơi ầm xuống.
Đông Bích mon men lại thì thấy tảng đá rơi xuống hình vuông vức. Nó đưa tay chùi tàng đá thì thấy giống hệt như khối đá nó đang nằm.
Động tính tò mò, Đông Bích tìm cách trèo lên lỗ trống do tảng đá rơi xuống.
Đông Bích cố chui vào thì thấy có một đường hầm nhỏ chỉ có thể bò theo đó mà đi hơn mười thước.
Đường hầm này tối đen và trơn ướt. Nhưng Đông Bích không bỏ qua, nó cứ đi vào mãi, cho đến lúc phía trước tự nhiên mở rộng như một gian phòng và tiếng động bên ngoài hoàn toàn không còn nữa.
Gian động này cũng tối om nhưng Đông Bích vẫn thấy được rõ ràng. Nó tìm kiếm mọi nơi, bỗng tay nó chạm vào một hốc đá thì nghe một tiếng kẻo kẹt và phía trong một cánh cửa được từ từ mở ra theo chuyển động của một khối đá.
Đông Bích không ngần ngại bước ngay vào thì cánh cửa đóng sầm trở lại thật nhanh, không chậm chạp giống như lúc cửa mở ra.
Nó hoảng hốt, quay người bước lại đẩy cánh cửa ra nhưng không sao lung lay được. Cánh cửa là một tảng đá quá lớn lại đóng khít chặt với vách đá chung quanh. Cũng trong lúc cánh cửa đóng sập lại thì ánh sáng đột nhiên tỏa sáng dìu dịu.
Ánh sáng phát ra từ hai hàng dạ minh châu dư gắn vào trong nhiều vòng đá hình bán cầu mà lúc cửa chưa đóng, che kín tất cả nên không thấy ánh sáng. Và lúc cửa đóng lại thì vòng đá bán cầu mới quay ngược ra để hai hàng dạ minh châu tỏa sáng khắp cả gian phòng.
Đưa mắt nhìn khắp nơi trong căn phòng rộng mênh mông bỗng nhiên Đông Bích bắt gặp mỗi lão đạo sĩ đang ngồi ở giữa gian phòng trên một phiến đá tròn trắng trong, lạnh ngắt.
Đông Bích liền bước đến trước vị đạo sĩ quỳ xuống làm lễ:
- Đệ tử Đông Bích kính lễ lão tiền bối.
Nó thi lễ xong rồi đứng dậy song vẫn không nghe đạo sĩ mở lời. Lúc đó nó mới ngẩng đầu lên quan sát thật kỹ lưỡng, miệng thì thầm:
- Hóa ra lão tiền bối đã chết từ lâu rồi, song thi thể vẫn còn nguyên vẹn.
Đông Bích đi vòng quanh chỗ ngồi của đạo sĩ, quan sát thật kỹ càng, nhưng nó chú ý về cái thế ngồi của đạo sĩ với tay trái co lại đặt vào ngực và tay phải đưa ra như chỉ về hướng cánh tay.
Trí óc hay suy luận và nhơn hậu của nó không thể không để tâm suy nghĩ về điệu bộ của thi thể lão đạo sĩ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 23:12:58 | Chỉ xem của tác giả
Nó theo hướng tay chỉ thì thấy nơi phía góc phòng là một cái bục bằng hồng thạch, trên đấy đặt một cái hòm của người chết được làm bằng bạch hàn thạch và cái nắp hòm để nghiêng nghiêng như sắp mở ra.
Đông Bích quan sát qua cái hòm bằng đá lạnh và trắng này không thấy có gì lạ. Rồi những câu hỏi được đặt ra trong trí óc của nó. Cuối cùng nó cho rằng lão đạo sĩ ngụ ý muốn được vào nằm trong chiếc hòm kia. Nó nghĩ ra điều ấy và rất đắc ý khi nghĩ rằng nên để lão đạo sĩ vào chiếc hòm để được an nghĩ thanh thản hơn.
Đã quyết định nên Đông Bích thực hành ngay. Nó vái lão đạo sĩ:
- Đệ tử xin đặt lão tiền bối vào nơi an nghĩ tôn nghiêm cho giấc ngủ ngàn đời được thanh thản.
Vái xong, Đông Bích cẩn thận bế xốc thi thể lão đạo sĩ bước đi.
Cũng trong lúc đó, khi Đông Bích vừa bước xuống khỏi bục đá thì bỗng nhiên phiến đá tròn nơi lão đạo sĩ ngồi bỗng xê dịch và mở ra để chừa một lỗ hổng thật lớn với hương thơm ngào ngạt tỏa lên từ nơi ấy.
Đông Bích tay bế lão đạo sĩ đi được vài bước bỗng thấy vậy song nó nghĩ là phải đưa lão đạo sĩ đặt vào chiếc hòm cho đàng hoàng, không được kinh sợ và hấp tấp làm lão đạo sĩ ngã xuống thì thật là thất kính.
Với ý định ấy, nó mặc mọi việc chung quanh, cứ nhẹ nhàng, từ tốn bế lão đạo sĩ đi về phía quan tài.
Cũng trong lúc này, đột nhiên từ dưới chỗ lỗ hổng nơi phiến đá tròn của lão đạo sĩ mở ra lúc nãy, hàng loạt mũi kim trâm màu đen tuyền tua tủa bắn lên như mưa. Những mũi kim trâm này bắn vút lên và dính chặt trên đỉnh phòng.
Đông Bích trông cảnh tượng chợt bàng hoàng. Nếu vội vàng hay bất kính đối với thi thể lão đạo sĩ hoặc đặt thi thể sang bên hay vứt ngã nơi đấy để cúi nhìn cái lỗ hổng thì chắc chắn đã lãnh trọn hiểm nguy của đám mưa hắc kim trâm rồi.
Nó thở phào rồi trân trọng đặt thi thể của đạo sĩ vào chỗ hòm đá trắng, một loại đá thật lạnh.
Khi nó đặt thi thể vào xong thì sự kinh ngạc tột độ lại đến với nó, và lão đạo sĩ từ từ rời rã, tan dần thành đất. Nhưng từ trong nắm tay của lão đạo sĩ hiện ra một khối đá đỏ như máu. Đông Bích đưa mắt nhìn vào thấy có khắc chữ li ti nên cầm lên xem.
Thỏi đá này xem kỹ thì không phải là đá mà là một thứ ngọc, được mài nhẵn thành hình chữ nhật, không dài lắm. Trên có khắc hình một chiếc quạt và một chiếc sáo. Phía góc trái là cái quạt hơi mở ra với dây quạt tua xuống và phía dưới là chiếc sáo với tua sáo giống như tơ trông rất sắc sảo.
Đông Bích dỡ qua mặt bên thì có đề mấy chữ sau:
Huyết Ngọc Lân di lệnh.
Và phía dưới đề:
Bá Nhược Du Kiến Anh.
Xem xong, Đông Bích do dự rồi cầm lấy Huyết Ngọc Lân di lệnh bỏ vào túi áo xong mới đậy nắp hòm lại. Nó im lặng, trầm ngâm bên hòm đá hơn một khắc thời gian rồi mới đến bên cái chỗ phiến đá tròn mở ra lúc nãy để quan sát. Song nó vẫn sợ những ám khí dưới lỗ bắn lên nên nó không dám lại gần. Nhưng mùi hương thơm ngát từ dưới hầm xông lên thật quyến rũ. Đông Bích nằm sát ngươi bò lần tới. Bởi vì phiến đá tròn mà lão đạo sĩ tức Bá Nhược Du Kiến Anh ngồi lúc trước, chỉ nhích qua một khoảng nhỏ và còn trên mặt đất khá cao nên khi Đông Bích bò sát người phía dưới quan sát thì thấy mặt dưới phiến đá có chú:
"Hết loạn huyền châm tuyến là hết cạm bẫy. Hãy lấy Huyết Ngọc Lân di lệnh cho vào trung tâm phiến đá này lả sẽ gặp kỳ duyên."
Đông Bích y như lời ghi, lấy Huyết Ngọc Lân di lệnh ra và thấy tại chính giữa phiến đá tròn có một cái khe nhỏ. Nó đưa Huyết Ngọc Lân di lệnh vào khe và ấn mạnh thì đột nhiên cả bục đá đều di chuyển hẳn qua một bên để chừa một cái bực đá đi xuống phía dưới.
Nó rút Huyết Ngọc Lân di lệnh bỏ vào túi áo rồi theo bực đá đi xuống dưới. Đi được chín bực thì mùi hương thơm thật kỳ dị xông lên nhiều hơn và trước mặt Đông Bích là một chỗ đá khuyết vào sâu ba thước và rộng cũng chừng ba thước. Nghĩa là nó đang bước vào một gian thạch thất mỗi bề dài chừng ba thước. Trong gian thạch thất này có một cái bàn dài bằng đá, trên có một quyển sách, một chiếc sáo ngọc vân xanh và đỏ quyện vào nhau, một cái quạt và đặc biệt nhất là một cái chậu nhỏ như cái bát bằng một loại ngọc trắng trong. Trong chậu có một ít nước đỏ như máu và trong ấy có một cây rong thật xanh, lá như những mũi kim kết chùm với nhau và độc nhất một cái hoa có bảy cánh với bảy màu khác nhau trông thật kỳ dị. Mùi hương của hoa tỏa ngát mà Đông Bích đã ngửi từ lúc nãy và càng ngửi càng thấy người khoan khoái, nhẹ nhàng.
Quan sát qua những vật để tại đây xong, Đông Bích cầm quyển sách lên xem và rất ngạc nhiên vì tuyệt nhiên trên quyển sách không có một hạt bụi nào bám vào. Nó lật trang trong thì thấy có một phong thư kèm vào.
Đông Bích để quyển sách xuống, bóc phong thư ra xem khi đã đọc bốn chữ ở ngoài là gửi người hữu duyên. Lá thư được viết bởi những nét chữ thật mạnh mẽ và uyển chuyển, thật sắc sảo nhưng cũng dịu dàng, Đông Bích lẩm nhẩm đọc:
"Gửi người hữu duyên.
Ta nghĩ rằng người nào đang đọc bức thư của ta ắt hẳn phải là người đầy đủ đức tính nhân độ, trung kính, can đảm và tâm thành. Có như vậy mới khỏi gặp hiểm nguy do những cạm bẫy ta đã đặt.
Hiệu danh của ta, đã ghi vào Huyết Ngọc Lân di lệnh, nhưng hai chữ Bá Nhược là do giang hồ võ lâm đã gán cho ta vì họ cho rằng ta là kẻ đã tìm được mọi sơ sót về võ công của các môn phái để tấn công, thủ thắng dễ dàng.
Nhân đây, ta có để tặng cho người hữu duyên đã có lòng đưa ta vào nơi an nghỉ ngàn đời và đã nhận được tặng vật thứ nhất của ta là Huyết Ngọc Lân di lệnh. Miếng ngọc này lấy được là do ta có một lần khi phải đấu nhau với con kỳ lân sống trăm năm nơi rừng quế miền quan ngoại. Sau suốt bảy ngày đêm mới hạ được và lấy từ trong đầu nó viên ngọc này để mài dũa mà tạo thành di lệnh. Ngọc này có thể trừ được bách độc nếu ngậm vào miệng khoảng một khắc thời gian.
Tặng vật thứ hai của ta là quyển Âm phổ, trong đó gồm ba bản khúc là Cường âm chân mạch phối dụng, là một bản khúc sáo lục hợp thành mà ta đã soạn thật kỹ lưỡng. Bản khúc thứ hai là Tương âm diệt ma, có thể khống chế kẻ địch bằng cách nương vào âm giai kẻ địch để diệt địch. Bản khúc thứ ba là Diễn tâm âm, bản khúc này sẽ nói lên được tâm tư mình cho vơi nỗi khúc uẩn trong lòng. Nó sẽ vui hay buồn tùy nỗi lòng người sử dụng.
Tặng vật thứ ba của ta là chiếc sáo ngọc để diễn đạt các bản khúc trong Âm phổ. Sáo ngọc này làm bằng ngọc Thiên Vân thật quí hiếm đã ngâm trong lòng tuyết lạnh suốt mười năm trời.
Tặng vật thứ tư là chiếc quạt thật đặc biệt. Phiến quạt làm bằng nhuyễn tơ mà các loại vũ khí thường hay ám khí không thể xuyên thủng được. Nan quạt gồm ba mươi hai lưỡi liễu diệp phi đao, đó cũng là ám khí để sử dụng rất kiến hiệu. Riêng hai nan quạt ngoài cùng là hai đoản kiếm, một âm một dương. Khi sử dụng chỉ cần bấm ở gốc quạt là lưỡi kiếm vọt ra, tùy ý mà sử dụng âm kiếm hay dương kiếm. Âm kiếm tỏa ra một chất hàn lạnh có thể dung hòa hay xuyên phá sức hàn lạnh từ vũ khí hoặc chưởng pháp của đối phương. Ngược lại, dương kiếm tỏa ra sức nóng để dung hòa, điều tiết những vũ khí và chưởng lực chí dương.
Nếu sử dụng âm và dương kiếm một lượt sẽ tăng hiệu lực cho kiếm thuật do sự kết hợp được của âm và dương kiếm với nhau. Lúc này thì có thể trở thành Âm dương hợp kiếm mà chính ta đã biến chế thành hai thanh bảo kiếm quí báu, được liệt vào ngũ bảo di vật của võ lâm và nằm trong hai nan quạt cho được tiện dụng.
Tặng vật thứ năm là cái chậu trồng cây rêu.
Đây mới là một báu vật hi hữu trên thế gian.
Nước trong chiếc chậu ngọc này là Huyết long thủy mà trăm năm mới có một giờ chảy ra mà tìm được cũng chỉ là sự may mắn mà thôi. Nhưng ta đã tìm và hứng được một chậu ngọc này, đồng thời ta cũng tìm cho được cây Lục thiên thảo ty mọc trên đỉnh tuyết vời vợi mà đem về nuôi bằng Huyết long thủy đã lấy được từ địa long linh huyệt. Đúng một trăm năm thì cây lục thiên thảo ty sẽ nở một bông hoa bảy cánh với bảy màu khác nhau. Nếu ai hữu duyên sẽ ăn được đóa hoa đó thì công lực tăng vượt mà người ta luyện trăm năm cũng không bằng. Nhưng điều quan trọng là phải sử dụng, nghĩa là phải hiểu cách thức tiêu dụng đóa hoa đặc biệt này. Trước hết là hoa sẽ nở trong ba ngày và khi hết ngày thứ ba, mùi thơm ngào ngạt sẽ dứt đi và đóa hoa này sẽ đổi màu hoàn toàn trắng bạch và chỉ trong một khắc thời gian, đóa hoa sẽ biến thành đen như than và trở nên vô dụng. Như vậy phải chờ đến lúc hoa ngã màu trắng thì hãy hái lấy đóa hoa mà nhai nuốt hết, chứ nếu hoa chưa ngã ra màu trắng mà hái thì lập tức bảy cánh hoa rời rã, tan thành nước và không có một hiệu lực nào cho sự lợi ích của nó. Và thế thật là hạnh ngộ, dun rũi, may mắn lắm mới gặp được đúng thời kỳ của nó.
Sau khi đóa hoa bị hái thì ba ngày sau, tất cả những lá xanh sẽ hút cho bằng hết những huyết long thủy để biến thành màu hồng. Những chiếc lá này có công dụng dẫn lực cho chất hoa đi đến các lãnh mạch của người thụ hưởng. Bởi vì sau khi ăn đóa hoa, người ăn nó sẽ phải mê đi trong nửa ngày và khi tỉnh lại phải ăn cho hết những chiếc lá lí tí này mới được kết quả như ý. Song nếu người được thụ hưởng mà huyền quan yếu huyệt chưa được đã thông thì không phát huy được toàn bộ kình lực của nó.
Ta cũng có ghi trong phần thứ hai của quyển Âm phổ là những nhược điểm trong võ công của chín đại môn phái và hơn hai mươi loại tà công cũng như các loại trận đồ của những cao thủ mà ta đã suốt đời từng gặp.
Giang hồ gán cho ta là Bá Nhược cũng vì thế và chính thật ra ta chưa có một phương pháp hay cách thức nào để khống chế các loại võ công trên thì ta đã thấy ngày từ giã cõi đời rồi. Ta hy vọng người tiếp nhận Huyết Ngọc Lân di lệnh của ta sẽ thực hiện ý chí của ta và phát huy nền võ học đến chỗ hoàn mỹ hơn.
Bá Nhược Du Kiến Anh."
Đọc xong lá thư, Đông Bích có cảm giác bàng hoàng, rồi đột nhiên nó không còn nghe mùi hương thơm của đóa hoa nữa nên nó lưu ý đến đóa hoa và cùng lúc ấy, đóa hoa đã ngã sang màu trắng trong. Đông Bích chưa kịp suy nghĩ vì chợt thấy vậy, nó lưỡng lự rồi như cái máy, nó run run đưa tay hái cánh hoa, mà giờ đây đã trắng như tuyết, bỏ vào miệng. Một hương vị ngọt ngào và bảy cánh hoa tan dần vào miệng nó. Đông Bích liền nuốt vội và nhai luôn cái nhụy. Vừa nuốt xong Đông Bích bỗng thấy trời đất quay cuồn, đảo lộn và có những luồng khí thật nóng và thật lạnh chạy khắp thân người rồi ngã xuống sàn gian thạch thất mê man ngay.
Qua nửa ngày, Đông Bích tỉnh lại, nó lom khom đứng dậy thì cảm thấy thân người như còn đang trong cơn say. Nó vội làm theo lời trong thư nên nhìn đến những lá cây rong xanh giờ đây đã ngã sang màu hồng. Đông Bích liền với tay sang nhổ cả cây rong cho vào miệng nhai ngồm ngoàm rồi nuốt ực thì cảm thấy toàn thân nóng lên. Đông Bích liền ngồi xuống và nó nhớ đến phương pháp hô hấp của Huyền Không đại sư đã truyền dạy để làm giảm bớt sức nóng. Đông Bích vừa vận dụng lối hô hấp này thì cảm thấy tâm thần trở lại bình thường và minh mẫn hơn hết. Nó cảm thấy sức lực như tăng dần trong kinh mạch nên Đông Bích dụng công hô hấp hơn mấy khắc đồng hồ thì toàn thân đã trở lại bình thường.
Nó mừng thầm trong bụng liền đứng dậy, cầm cây sáo ngọc ngắm nghía thật lâu rồi lại quan sát qua cây quạt thật kỹ.
Sau đó Đông Bích lại lật qua những bản khúc dành cho sáo và phần thứ hai là nhược điểm của các loại võ công mà đoạn đầu Du Kiến Anh đã viết:
Theo quan niệm của ta, đã nói đến võ công tất nhiên phải nói đến công lao tu luyện nhưng hơn nhau ở chỗ giác ngộ về những chiêu thức. Có được như vậy thì khi sử dụng không còn gò ép theo hình thức của chiêu thức mà sử dụng theo tâm thức thì sẽ biến hóa khôn lường như vậy sẽ không còn những chỗ nhược, chỗ sơ hở để đối phương áp chế.
Chẳng những thế mà trong những trận đồ, các tay tiếng tăm lừng lẫy cũng nhờ ở chỗ ý thức về sự giác ngộ trên mà lập trận biến ảo khôn lường đã là trở ngại lớn lao cho các tay cao thủ. Nhưng nếu hiểu tường tận yếu điểm quan trọng của những cửa sanh tử mà cứ từ đó sẽ tìm đường lối ra một cách dễ dàng. Song vì trận đồ là lãnh vực phức tạp nên sẵn ta ghi lại những trận đồ khó khăn nhất trong đời mà ta đã tìm tòi sao lục được những chỗ nhược của các trận đồ để kẻ kế tiếp ta dựa vào đây trên đường đi hành hiệp khi gặp phải những trận đồ khó khăn.
Một điểm cuối cùng ta muốn viết lại cho người hữu duyên khi sử dụng đến hai món vũ khí của ta.
Vì ta quan niệm rằng ngươi quân tử không sợ mà chỉ sợ kẻ tiểu nhân vì vũ khí chỉ dùng để ứng phó với bọn tà ma, gian quyệt, và nhớ rằng kẻ sử dụng phải dùng trong việc bảo vệ chính đạo thì thật hữu ích lắm vậy. Thế nên, nếu cùng quan niệm với ta, để đánh tan những kẻ tự xưng là chánh phái rồi cũng khuất phục bởi tiểu xảo của tà phái, và như vậy, chưa phải là một kẻ tài và trí hoàn toàn, thì hãy sử dụng hai món vũ khí này, còn nếu không cứ tự động bỏ nó lại nơi này. Ta rất đội ơn.
Đông Bích cứ say sưa đọc hết quyển sách rồi lại bắt đầu nghiên cứu tỉ mỉ cùng học và thực hành những bản khúc đến những chiêu thức đặc biệt của các loại võ công, nhưng đều thấy không loại nào giống loại nào, làm nó suy nghĩ thật mông lung rồi những đến trận đồ thì làm nó càng ngạc nhiên hơn vì đã có chỗ chỉ dẫn những nhược điểm của các trận đồ.
Đông Bích vụt chạy ra nhưng nó vừa nhõm chân thì thấy công lực quá nhanh nên cả người nó lao vào vách và dội ngược trở lại làm nó bàng hoàng quên cả đau đớn. Nó sửng sốt rồi thầm nghĩ:
- Ta còn gần hai mươi bốn lần trăng nữa vậy ta hãy xem luyện nốt những gì mà Du lão tiền bối để lại.
Thế rồi Đông Bích nhảy vút lên thạch động phía trên, đến trước chiếc hòm của Du Kiến Anh vừa lạy vừa khấn:
- Đệ tử Đông Bích từ đây đã có được một sư phụ và đệ tử nguyện sẽ đem hết tất cả tài lực để nối tiếp ý chí của sư phụ.
Lễ xong, Đông Bích nhún người nhảy xuống thạch động phía dưới và miệt mài với võ công, quên đi thời gian lặng lẽ trôi qua.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 23:14:28 | Chỉ xem của tác giả
BÍ QUYẾT TRẬN ĐỒ
Thời gian nhanh chóng trôi qua...
Mặc cho thế sự đổi thay, mặc cho giòng đời trôi nổi, mặc cây cỏ mấy lần đổi lá thay hoa...
Thế mà đã ba năm hạn định của Đông Bích đã sắp trôi qua. Giờ đây, cậu bé mười bốn mười lăm ngày nào, nay đã mười tám mùa xuân ghi số tuổi đời, Đông Bích chợt thấy ngỡ ngàng khi nhìn chính mình đang trong hình dưới đáy hồ phẳng lặng.
Cái vẻ thơ dại đã trút bỏ cùng thời gian để đổi vào cái hào hùng, đỉnh ngộ, tuấn thiếu của một chàng trai mười tám.
Đông Bích vừa ngắm mình vừa cười thầm vì mấy bộ quần áo rách nhiều chỗ và quá ngắn đối với chàng.
Đang suy tư thì bỗng hai con tuấn mã do hai nàng thiếu nữ cầm cương phi nhanh đến, Đông Bích chỉ còn cách ngượng ngùng nhìn ra theo hai thớt ngựa đã đến sát bên chàng.
Một nàng áo trắng cưỡi con bạch mã đi trước ghìm cương thì cô áo hồng đi sau cũng cho ngựa dừng theo.
Cô gái áo trắng nhoẻn miệng cười duyên hỏi Đông Bích:
- Thưa... thưa các hạ, con đường này có đến được Hán Dương không ạ?
Đông Bích lúng túng vì không hiểu con đường này về đâu, mà đội mắt đen tuyền long lanh ẩn buồn đang chăm chú chờ đợi câu trả lời của chàng ta.
Đã lúng túng Đông Bích càng lúng túng hơn, nên chàng ấp úng nói:
- Dạ... thưa cô nương, tôi cũng không được biết rành vị thế nơi này ạ!
Cô gái áo hồng cho ngựa bước lên mấy bước, cười lớn vui vẻ:
- Trông các hạ rõ lẩn thẩn, chúng tôi ngờ đi lộn đường cả ngày nay mà vùng này, chưa hề gặp một ai, mà nơi đây chỉ gặp mỗi mình các hạ mà các hạ lại trả lời như vậy, hay là các hạ muốn làm khó chúng tôi?
- Không, không, xin cô nương chớ nghĩ thế, tại hạ quả thật là kẻ lạ cũng lạc tới nơi này vậy.
Cô gái áo hồng cũng châm biếm:
- Ai lại có những kẻ lạc cùng gặp nhau nơi này.
- Đó là sự thật, tôi nói dối làm gì.
Cô gái áo hồng cười vang rồi nói:
- Các hạ có nói thì chúng tôi cảm ơn mà cố tình làm khó không chỉ hộ, chúng tôi cũng không cần thiết nữa.
Cô gái áo hồng quay sang cô gái áo trắng nói nhanh:
- Thôi, chúng ta cứ tiếp tục, Bi tiểu thư cần gì phải nhờ vã anh chàng quê mùa này chỉ dẫn.
Cô gái áo trắng gạt nhanh:
- Hồng Yến, em đừng vô lễ với người ta. Người ta không muốn chỉ thì thôi vậy, chúng ta đâu có quyền ép họ được.
Rồi quay sang Đông Bích, cô gái áo trắng nói:
- Tôi xin lỗi các hạ đã quấy rầy các hạ. Đường còn dài, quả đất tròn, các hạ cũng đừng nên làm khó dễ kẻ lạc loài. Bây giờ xin kiếu từ các hạ...
Nói xong, hai nàng phóng ngựa đi để mặc cho Đông Bích ngượng ngùng ấp úng:
- Cô... cô nương...
Những tia nắng cuối cùng cũng đã tắt dần nơi phía Tây. Hoàng hôn lại trở về ôm lấy vạn vật.
Đông Bích nhủ thầm:
- Chị hằng lại sắp lên trên kia rồi, ta quay lại nơi thạch động để gặp lão đạo sĩ này một lần cuối và chắc là lão đành để ta đi tự do, không buộc ta làm đệ tử của lão vì lão đã thua ta rồi.
Vừa nghĩ Đông Bích vừa thoăn thoắt vút về phía thạch động dưới ánh trăng tròn trịa đang lơ lửng trên đầu đỉnh núi ở phía Đông.
Vừa đi, Đông Bích vừa nghĩ đến lúc chiều đã rời khỏi thạch động, phá trận đồ rồi đi lang thang đến bên bờ hồ.
Chàng nhớ đến lúc tìm được phương pháp phá trận thì mừng khôn tả...
Từ ngày vào thạch thất, đã luôn một năm trời nghiên cứu kỹ lưỡng ba quyển sách của bộ Kinh phổ trận đồ toàn tuyệt và luôn luôn tập luyện những tuyệt chiêu của nhiều môn phái chánh tà mà chàng đã hiểu biết qua gần hai năm ở nơi cung điện trong lòng đất. Hai năm liền Đông Bích lại nghiên cứu bộ Âm phổ và tập luyện không ngừng, nhờ trí tuệ thông minh và được kỳ duyên ăn hoa lục thiên thảo thấy khiến công lực dồi dào khôn cùng. Hơn nữa trong thạch động vị tiền bối Du Kiến Anh đã sắp sẵn các phương tiện để tập luyện cũng như dưỡng sinh được đầy đủ nên Đông Bích chăm luyện được dễ dàng. Ngay sau khi cánh cửa đá trong động khép lại, thì Đông Bích không tài nào mở được nên dù có muốn ra nhưng vẫn đành chịu.
Thế rồi sau hai năm tập luyện tất cả những gì mà Du Kiến Anh tiền bối để lại thì cũng là lúc Đông Bích chợt nghĩ ra phương pháp phá cửa động một cách dễ dàng.
Chàng liền dùng đôi chưởng làm chấn động liên tục tảng đá khổng lồ chắn cửa rồi thình lình gia tăng công lực thành cương chưởng đánh mạnh vào tảng đá còn bị chấn động.
Liền lúc đó, một tiếng nổ chát chúa vang lên, tảng đá chắn cửa khổng lồ nát thành đá vụn rơi lả tả, bụi bay mù mịt.
Đông Bích thở phào, lao người ra động ngoài sau khi vái lạy quan tài Du Kiến Anh.
Đến cử động ngoài nhìn vào trận đồ, Đông Bích bước ra cười nói:
- Đây là sanh môn của Ngũ Hành Bát QWuái trận đồ và chỉ dịch qua một chút là tử môn của Âm Dương Nghịch trận đồ. Lão tiền bối này quả thật phi thường, đã lập thành Khổn Tiên trận đồ, dùng được như vậy là phải phối hợp năm trận pháp.
Rồi chàng reo lên:
- Ha ha... lão tiền bối quả thật xuất chúng, phải mất ba năm và nhờ Bá Nhược sư phụ lưu dạy nên mới ý thức được. Đáng phục lắm, đáng phục lắm.
Thế là trận đồ bỗng nhiên tan rã, cửa động bây giờ không còn phong bế nữa nên Đông Bích đi, nhảy quên mình đã rời xa thạch động, cho đến khi nhìn thấy hồ nước trong xanh nên dừng lại soi mình dưới đáy hồ ngẩn ngơ...
Đông Bích vừa trở lại thạch động vừa nghĩ lại một buổi chiều vừa qua như một bước chân vào đời gió bụi của chàng.
Vừa đi dưới ánh trăng của ngày mười lăm, vừa nghĩ mông lung cho đến lúc thạch động trước mặt mới chợt nhận ra.
Nhân lại cửa động đã được chính tay mình bít kín để Bá Nhược Du Kiến Anh sư phụ nghìn đời an nghỉ bình yên mà lòng thấy nao nao.
Đang sửng sốt nhìn trời đất bao la, bỗng có tiếng người đuổi chạy về hướng thạch động.
Đông Bích nhún mình nhảy lên tàng cây cao ẩn mình và quan sát thì lúc đó một lão đạo sĩ tóc dài trắng toát mình đây thương tích đang xiêu vẹo mà trên vai mang một cái xắc nhỏ.
Nhận ngay ra được lão đạo sĩ quen thuộc đáng mến này, Đông Bích nhảy xuống ngay làm lão đạo sĩ giật mình quay phắt lại tung chưởng xuất thủ. Đông Bích vừa né vừa kêu:
- Lão tiền bối, cháu đây.
Đạo sĩ bàng hoàng, người mệt nhoài, máu và mồ hôi chảy thấm qua lớp áo và nửa bên má trông thật ghê rợn dưới ánh trăng.
Lão đạo sĩ ngừng tay nhìn chằm chặp vào Đông Bích rồi nhìn cửa động cố tạo một nét cười thỏa mãn:
- Ồ! Ngươi đó hả? Ngươi đã phá được trận đồ của ta...
Lão nói đến đây rồi cất tiếng cười vang lên giữa rừng đêm.
Bỗng có năm bóng người mặc đồ vàng lao vút tới đứng vây quanh lão đạo sĩ, một tên trong bọn cất tiếng thét:
- Tới đây là đường cùng của ngươi rồi, nếu ngươi cứ bo bo giữ lấy Kinh phổ trận đồ toàn tuyệt, không chịu giao ra cho ta thì mạng của ngươi phải tận rồi.
Nói xong là chúng nó năm tên liền xông vào định bắt sống lão đạo sĩ đang kiệt sức vịn gốc cây thở hổn hển.
Thấy vậy Đông Bích lắc mình đã đứng chắn ngang trước lão đạo sĩ và nói:
- Các ngươi ỷ đông vây đánh như vậy mà cũng thuộc giới giang hồ thì thật xấu hổ.
Một tên áo vàng cười huênh hoang:
- Thằng nhỏ này chưa nghe danh Ngũ Đại Kim Cương nên mới dám khua môi thật cũng đủ để chúng ta trị tội rồi, thế mà còn dám bênh vực cho lão Ngụy Toán Lương Phi Đạt thì không còn xin xỏ vào đâu được nữa cả.
Nói rồi tung hai chưởng sát thủ vào người Đông Bích với bảy thành công lực.
Đông Bích không nói gì, chỉ nhíu mày dùng thế Bát Thân Tầm Xà tràn người sang bên hữu đồng thời tay tả tung chưởng đẩy dạt chưởng đối phương sang một bên trước sự kinh ngạc của bọn áo vàng:
- Các ngươi quá hung tàn, nếu chúng bay có chết đi chắc không oán hận ta chứ vì ta đòi nợ hộ cho lão tiền bối đây.
Nói xong, Đông Bích liền thoăn thoắt bước theo Cửu thức bộ hình nhoáng lên thì năm bóng áo vàng liền vây tròn và đồng thời năm chưởng hợp công dồn vào trung tâm. Đông Bích không dám chậm trễ liền dùng Thần Ảnh Phi Thiên nhảy vút lên trên cao hai trượng thì năm chưởng của năm tên áo vàng chạm nhau, chúng bị chấn động mạnh, đang kinh hoàng trước thân pháp kỳ dị thì từ trên cao Đông Bích liền tung hai chưởng nhắm ngay óc của hai tên áo vàng và đôi chân sử dụng Vô Ảnh cước đá thốc vào huyệt Tinh Tuyền dưới cằm của hai tên nữa làm hai bể sọ chúi sấp người chết lịm và hai tên kia bị hai ngọn cước văng ra xa bứt quai hàm máu phun tung tóe lịm luôn.
Còn lại tên áo vàng thấy khủng khiếp trước thần công liền nhún người nhảy vút đi.
Đông Bích định nhún mình đuổi theo nhưng vừa lúc đó lão đạo sĩ ho lên một tiếng và thân người không còn bám vịn vào thân cây nữa phải ngã xuống đất, vì thế Đông Bích vội vã dừng chân chạy lại đỡ lão đạo sĩ.
Chàng cầm tay bắt lấy mạch của lão đạo sĩ rồi như nhận ra dấu hiệu thất thường nên hỏi:
- Để cháu tiếp lực cho lão tiền bối.
Lão đạo sĩ lắc đầu thều thào:
- Ta không còn sống được nữa đâu. Ta đã hài lòng vì cháu đã thành công. Trận đồ Khổn Tiên mà cháu đã phá được tất nhiên cháu đã hơn ta rồi. Ta chỉ muốn cháu thay ta phát huy về phương diện này, riêng hôm nay ta có chết về tay Ngũ Đại Kim Cương của Hoàng Giáp động phủ ta cũng đã được báo thù rồi.
Lão đạo sĩ cố gắng cười chỉ chiếc bao bên cạnh:
- Ta có mang theo hành lý để tặng cháu đây. Ta tưởng sẽ được tiễn đưa cháu bằng một đêm rượu dưới trăng nào ngờ...
Giọng nói của lão yếu dần:
- Nào ngờ... ta... ta phải xa cháu... đêm nay... thôi... vĩnh... vĩnh biệt cháu...
Nói đến chữ cuối cùng, lão đạo sĩ thở hắc ra và nghìn đời không còn nghe tiếng thở của lão đạo sĩ nữa.
Đông Bích ôm lấy lão đạo sĩ hét lên:
- Lão tiền bối... lão tiền bối...
Cây lá hoa rừng vừa trở mình thức giấc sau một đêm dài say ngủ.
Ánh sáng lờ mờ của buổi bình minh từ phương Đông đưa lại in hình một chàng trai uy dũng trong bộ đồ toàn trắng với khuôn mặt trầm lặng đang đứng trầm ngâm trước ngôi mộ như mới đắp đêm qua mà trên bia đá xanh ghi hằn bằng chỉ phong với bảy chữ:
Ngụy Toán Lương Phi Đạt chi mộ.
Chàng trai đó không ai ngoài Đông Bích.
Những tia nắng đầu tiên của buổi ban mai đang len lỏi qua cành lá núi rừng. Đông Bích thở dài rồi quay người bước đi...
Mang một tâm trạng đau buồn, chàng trai anh tuấn cảm thấy như cuộc đời quá khắc khe tàn ác.
Đông Bích nhìn lại ống sáo ngọc cùng chiếc quạt giờ đây là hai vật báu thiêng liêng.
Chàng thầm nghĩ:
- Bây giờ ta phải đi tìm đại ca Vương bất lão. Nhưng biết ở đâu mà tìm đây, hay ta cứ đi rồi hỏi thăm thiên hạ ắt có ngày ta phải gặp.
Chàng vừa phóng mình chạy đi thì đã có hai tên áo vàng cách Đông Bích năm trượng rồi tiếp theo có hơn mười người nữa cũng mặc áo vàng vây thành một vòng rộng quanh Đông Bích.
Chàng thoáng kinh ngạc nhưng có một tên áo vàng lên tiếng:
- Đích thị tên thư sinh này rồi chắc không sai chạy được.
Một trong hai người áo vàng vừa đến trước cất giọng hỏi:
- Chứ tên nào đã hai chiêu giết chết bốn trong Ngũ Đại Kim Cương của Hoàng Giáp động phủ.
- Đúng là tên này rồi, song lúc đêm qua trông nó có vẻ quê lắm mà bây giờ nó mặc quần áo trông cũng ra vẻ lắm. Nhưng tựu trung vẫn chính là nó, là kẻ dám chọc vào Hoàng Giáp động của chúng ta vậy.
Đông Bích nghe hai tên đối đáp nên nhìn kỹ rồi phì cười, chàng cầm cây quạt phe phẩy ra vẻ ung dung trong bộ đồ trắng tinh anh thật đã làm cho bọn áo vàng kinh ngác, chàng cười nói:
- Tên áo vàng xưng là Đại Kim Cương gì đó, tối hôm qua đáng ra ta giết chết ngươi cho rồi, song ta tha cho. Vậy mà vẫn không biết thân phận mà giờ đây chúng mày lại kéo bè, kéo đảng đến tìm cái chết phải không?
Tên áo vàng đầu tiên hét vang:
- Thằng thư sinh đừng khoác lác, tên họ là gì hãy nói đi để ta đưa xuống Diêm vương mà không còn thắc mắc gì nữa. Mà trước khi chết ta cũng cho ngươi biết chúng ta là Nhị Ma Sưu Hồn trấn biên cương đây.
- Ồ, chỉ có Nhị ma chứ có thiên vạn ma đi nữa tại hạ cũng không cần biết. Còn nếu hai lão già muốn biết tên họ ta à? Cũng dễ, nếu khuất phục bởi tay ngươi ta sẽ khai báo liền.
Vừa nói xong là hai lão Nhị Ma Sưu Hồn đùng đùng tím mặt vì chúng là những tay ma đầu xếp vào hạng nhất trong giang hồ nên nhìn chàng thư sinh áo trắng khinh miệt giận dữ ra lệnh:
- Hãy bắt nó cho ta.
Một tiếng la cùng rập lên:
- Tuân lệnh!
Thế là hai mươi người áo vàng tay đao sáng người lập tức xuất thủ. Bốn tên vào đầu do từ bốn mặt ánh đao chớp nhoáng, lóe lên nhắm vào Đông Bích mà tấn công. Chàng hơi tấn xuống, cây quạt trong tay xếp lại và khi bốn người tấn công vào, chàng liền bước ngay qua phải một bước dài, chiếc quạt mở ra đút ngay vào tên áo vàng bên phải thì một tiếng la kinh hoàng phát ra.
- Á...
Tên này bị phiến quạt chém từ bụng chếch sang đứt tay phải cầm đao. Trong khi tiếng la chưa dứt thì Đông Bích đã xoay người thật nhanh đỡ sau lưng xác tên áo vàng chưa kịp ngã, đẩy mạnh tới trước ập vào mũi đao tên bên trái của chàng lúc nãy đồng thời chiếc quạt lại xòe ra, tên trước mặt chàng lúc đầu giờ thành bên phải cũng giống như đồng bạn, đứt bụng và một cánh tay, trong khi đó chân trái Đông Bích tung ngọn cước nặng nề vào giữa mi tâm tên còn lại trong khi tay đao của hắn đang từ trên chém xuống. Hắn chỉ hự được một tiếng văng ngược trở lại, máu trào ra miệng nằm im.
Chỉ trong chớp mắt, bốn tên áo vàng bị loại một cách kinh khủng làm bọn còn lại phải e dè.
Một trong Nhị ma cũng sửng sốt trước những chiêu số kỳ dị của chàng thư sinh nhưng cũng hô lên:
- Hãy thanh toán hắn mau lên.
Thế là mười sáu tên còn lại vùng lên giở các chiêu sát thủ ào ào tấn công hoặc bằng đao hoặc bằng chưởng...
Nhưng rồi những tiếng la hãi hùng, tiếng mệt nhọc, ánh binh khí văng tứ tung, rồi máu chảy nhuộm đỏ cả một vùng cỏ cây rồi mười sáu xác áo vàng nằm chết khủng khiếp ngổn ngang trên mặt đất.
Lúc này Nhị Ma Sưu Hồn cùng rú lên hai tiếng man rợ và đột nhiên như hai vệt vàng nhoáng lên và chưởng phong cuốn lá rợp cây ào ào.
Chỉ nghe những tiếng chưởng chạm nhau ì ầm rồi Nhị ma loạng choạng bước lui năm bước, khóe miệng rỉ máu. Trong lúc đó Đông Bích đứng yên lặng sừng sững nhìn họ lên tiếng:
- Mang danh Nhị ma chỉ có thế sao?
Trong lúc chàng đang nói thì từ phía sau lưng chàng, tên áo vàng còn sống sót trong Ngũ Đại Kim Cương như một bóng chớp, nhoáng lên tấn công vào sau lưng Đông Bích. Nhưng đôi tai của Đông Bích đã nghe thấy nên chàng xoay người và chiếc quạt mở ra là thân tên áo vàng cuối cùng trong Ngũ Đại Kim Cương đã bị chém đứt từ dưới bụng và đứt luôn cánh tay mặt.
Tiếng la của tên này vừa dứt là thân xác hắn cũng nằm yên dưới đất cùng với hai mươi tên áo vàng đi trước.
Đông Bích sau khi thanh toán tên áo vàng tấn công lén này, xoay người lại thì Nhị ma đã rời trận địa và bóng vàng vừa khuất sau một ngọn đồi nơi phía xa.
Đông Bích không buồn đuổi theo. Chỉ thở dài thì thầm:
- Ta không muốn giết người, nhưng người muốn giết ta, ta phải giết người để tự vệ vậy.
Chàng nhìn lại bộ đồ trắng đã vấy máu nên liền nhún người lao vút về phía đường ra thị trấn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 23:17:23 | Chỉ xem của tác giả
THẤT TINH BẮC ĐẨU TRẬN
Trong thành Hán Dương, người đi đông đúc, trai thanh gái lịch đủ các hạng người, những kẻ giang hồ cũng tới lui không ít.
Các tửu quán, đại lầu, lúc nào cũng đông thực khách vì Hán Dương thành là thị trấn sung túc, trù phú, đường giao thương nên quanh năm lúc nào cũng nhộn nhịp.
Vào buổi xế chiều, mọi thực khách đều bàn tán nhỏ to với nhau về chàng thư sinh áo trắng đang ngồi một mình nơi chiếc bàn cạnh cửa sổ.
Tuy họ nói vừa đủ để họ nghe, nhưng chàng thư sinh cũng nghe thật rõ ràng. Những lời từ nhiều người đều ngắm vào chiếc sáo ngọc có vân xanh lục và đỏ thật hi hữu thế gian.
Riêng chàng thư sinh áo trắng vẫn thản nhiên như không nghe thấy điều chi. Chàng gọi thức ăn và nhàn nhã thưởng thức.
Bỗng chàng chú ý đến hai cô gái vừa bước vào quán.
Chàng thầm nói:
- Nàng tiểu thư và cô gái mang tên Hồng Yến hôm nọ đây. Không biết họ còn nhận ra ta không?
Chỉ nghĩ như vậy chàng vẫn tiếp tục ăn uống.
Trong khi đó, hai cô gái mới vào lại chọn cái bàn cạnh nơi chàng thư sinh. Chàng ta thầm lo:
- Họ ngồi gần nhìn mãi rồi thế nào cũng nhận ra Đông Bích này thôi.
Vì vậy, Đông Bích định gọi hầu bàn ra tính tiền nhưng chàng chợt thấy một bọn hai tên áo đen mà năm năm trước đây cũng những tên áo đen như thế này, đã đánh chàng rơi xuống địa huyệt, đang tiến vào trong quán.
Máu giận nổi lên, chàng định ra tay nhưng nhìn lại thực khách đông đảo lỡ gây hại cho người tội nghiệp, nên nén giận ngồi lại.
Trong khi đó, hai tên áo đen vào tìm một cái bàn gọi rượu thịt ầm ỉ. Chúng tán kháo với nhau rồi thì thầm nhìn qua hai cô gái. Đông Bích cố lắng tai thì nghe được rõ ràng.
Một đứa nói:
- Đại ca, con mồi của chúng ta đã có rồi.
- Biết rồi. Ả mặt đồ trắng là nàng tiểu thư Tô Tiểu Bình con của Tô Mặc Dung trang chủ phải không?
- Đúng đó đại ca.
- Còn cô gái áo hồng là ả hầu cho tiểu thơ chứ gì?
- Đúng đó đại ca. Nhưng chỉ một mình nó đi với Tô Tiểu Bình thì ắt hẳn võ công của nó cũng có hạng lắm.
- Nghe nói mẹ nàng vừa thất lộc nên nàng buồn rầu rời gia trang cùng với con hầu để sang thăm bà con nơi Hán Dương thành này hay nơi Thiểm Tây gì đó.
- Như vậy phải báo cáo gấp cho thất lão gia hay chứ.
- Ừ! Thất lão gia bảo đón ngoài thành Hán Dương từ ba ngày nay để tìm một nàng áo trắng và nàng áo hồng. Nhưng may mắn là lúc đi đường họ gọi tên nhau nên mình mới biết đích xác được. Tin này mà báo về ắt chúng mình có thưởng.
Hai tên áo đen nói tới đây rồi cặm cụi ăn uống và gấp trả tiên đi ngay.
Đông Bích định đi theo nên gọi hầu bàn lại trả tiền thì hai nàng nghe gọi liền nhìn qua.
Nàng áo trắng tức Tô Tiểu Bình chăm chú vào chàng rồi quay ra thì thầm với cô áo hồng tức Hồng Yến. Hồng Yến vừa nghe vừa nhìn qua Đông Bích nói nhỏ:
- Trông khuôn mặt thật đẹp nhưng cũng giống ngốc hôm nọ, song chàng thư sinh này nho nhỏ quá mà, chắc chắn không phải anh chàng ngốc nghếch hôm nọ đâu.
- Chị thì chị thấy giống anh chàng hôm nọ quá.
- Thôi, chị đừng có "mếch" người ta ẩu đó nghe.
- Ơ cái cô này...
Vừa lúc đó Đông Bích đi tới, ngang qua bàn của hai cô, nên Hồng Yến giả vờ quơ tay lấy bọc hành lý đẩy luôn khay trà trên có hai cái chén đầy nước và cái bình trà bắn vào lối đi của Đông Bích.
Chàng đang khoan thai bước đi để ra ngoài nên thoáng thấy khay trà trút ngay vào lối đi của mình nên chàng tự nhiên phản ứng liền, chìa tay ra nhẹ nhàng đỡ khay trà không chao một giọt nước.
Hồng Yến vội nói:
- Ồ, tôi thật vô ý quá, may nhờ có các hạ đỡ hộ chớ không thì phiền cho chủ quán rồi.
Đông Bích mỉm cười:
- Cái khay trà này có hai tách nước và một cái bình mà sao lại đổ trút xuống đất vậy, cũng may mắn tôi vớ được...
Tô Tiểu Bình vội đứng dậy đỡ lời Hồng Yến đang lúng túng:
- Xin cảm ơn các hạ và xin các hạ vui lòng dùng với chúng tôi một tách trà để gọi là hạnh ngộ.
- Dạ xin cô nương miễn chấp cho. Nếu gọi là hạnh ngộ thì chúng ta đã hạnh ngộ rồi.
Tô Tiểu Bình kêu lên kinh ngạc:
- Ủa, các hạ đã gặp chúng tôi rồi?
- Không phải vậy, mà quý cô nương đã gặp tôi đấy ạ!
Vừa lúc đó từ bên ngoài cửa sổ bỗng có một vật lấp lánh lao vút vào giữa mặt Đông Bích, chàng ta liền vung tay chộp lấy, thì bên ngoài có một bóng người áo vàng chớp lên mất dạng.
Đông Bích mở tay ra thì thấy một mũi phi đao màu vàng từ mũi đến cán và dưới chui có ghi:
"Canh tư đêm nay mời Bạch y thư sinh đến miếu thổ địa ngoài thành nơi phía Tây.
Tổng quản Thủ Đường, Hoàng Giáp động phủ."
Hồng Yến gằn giọng:
- Trời chưa tối mà ám hại người.
Tô Tiểu Bình thì hốt hoảng hơn:
- Cái gì vậy công tử.
Nghe Tô Tiểu Bình gọi mình bằng công tử, Đông Bích mỉm cười trả lời:
- Cái hẹn giang hồ thì lạ lùng vậy đó, xin tiểu thư chớ bận tâm.
Rồi chàng nghiêng mình chào:
- Và bây giờ xin kiếu nhị vị, hẹn một lần khác vậy.
Vừa nói xong, chàng biết đi ngay, để lại cho Tiểu Bình kinh ngạc, sửng sốt, ấp úng:
- A... công tử...
Hồng Yến cũng nhìn theo cho đến khi Đông Bích ra khỏi quán mới quay hỏi Tiểu Bình:
- Cái anh chàng thư sinh này mình gặp ở đâu nhỉ? Mà sao tiểu thư không hỏi danh tánh người ta xem.
- Ờ nhỉ? Chị lẩn thẩn quá...
- Mới gặp mà chị đã như kẻ mất hồn.
- Ơ... cái cô này...
- Thôi mà tiểu thư, hãy trả tiền cho chủ quán rồi chúng ta đi tìm khách sạn để ngủ đêm nay chứ.
- Vâng, em gọi hầu bàn đi.
Rồi hai cô gái rời quán ăn, tìm khách sạn vì hoàng hôn cũng đã dồn mọi nẻo đường.
Vừa đi hai cô gái vừa chuyện trò quên rằng họ đang bị mấy bóng đen theo dõi.
Khi thấy một khách sạn ở phía trước, Hồng Yến đề nghị:
- Chúng ta hãy vào đây đi.
- Ở khách sạn này xem tốt lắm.
Khi hai nàng được đưa len phòng trên lầu thì Đông Bích cũng vừa vào khách sạn. Chàng hỏi người quản lý:
- Hai cô gái ở lầu trên phải không?
- Vâng, hai cô ấy mới vào chọn phòng.
- Ông cho tôi một phòng trên lầu.
- Dạ được, xin công tử theo tên tiểu nhị này dẫn lên phòng.
Đông Bích mỉm cười, đi theo người dẫn lên trên lầu trên.
Khi vừa khuất sau cánh cửa, chàng nhìn ra phía ngoài nhủ thầm:
- Cũng mấy tên Hắc Thạch ma động dự định âm mưu gì đây. Hai cô gái này cứ như thế này ắt phải vào cạm bẩy chúng.
Đông Bích vừa lên thì thấy tên tiểu nhị vừa dẫn hai cô gái xuống. Chàng chận lại hỏi:
- Hai cô gái ở phòng nào vậy?
- Dạ ở phòng cuối kia ạ.
Rồi chàng quay sang hỏi tên tiểu nhị đang hướng dẫn chàng:
- Thế phòng ta ở đâu?
- Dạ, thưa phòng của công tử ở gian gần kế đầu này ạ.
- Vậy chúng ta vào đó đi.
Sau khi vào phòng rồi, Đông Bích quan sát thấy vừa ý nên bảo tiểu nhị:
- Tốt lắm, chốc nữa ngươi mang lên cho ta một bình trà ngon nhé.
- Dạ vâng, sẽ có ngay ạ!
- Vậy được rồi, ngươi đi xuống đi!
Sau khi tên tiểu nhị đi rồi, Đông Bích ngồi trầm ngâm một mình, ý nghĩ mông lung, chàng nghĩ thầm:
- Trước đây năm năm, cũng một đêm vào khách điếm chàng chợt biết rằng Ngự Thanh Y Lang mà chàng gọi là ngoại chỉ là người nuôi nấng chàng từ tấm bé chứ cha mẹ giòng họ chàng tuyệt nhiên chính Ngự Thanh Y Lang cũng không rõ. Như vậy giờ đây thân thế chàng mịt mù phức tạp. Biết đến bao giờ thì mới rõ thân danh.
Càng nghĩ càng ngao ngán, nhưng càng thấy phải cương quyết phấn đấu với mọi hoàn cảnh nguy nan mới xứng đáng là người trai ngang dọc vẫy vùng.
Bỗng tiếng gõ cửa đưa chàng về thực tại.
Tên tiểu nhị đã bưng trà lên liến thoắng:
- Trà này công tử dùng chắc là thích lắm.
- Cảm ơn, nếu cần gì ta sẽ gọi...
Tên tiểu nhị cúi đầu rồi lui ra.
Đông Bích nhìn qua cửa sổ thấy bầu trời đầy sao sáng, với nền trời không gợn một tí mây bay.
Chàng nhớ đến những người thân yêu đã qua đời, nhớ đến những người ân, người quen mà chàng đã gặp, nào Vương bất lão, Huyền Không đại sư, Túy Hồ lão tử...
Những hình ảnh này lần lượt đến với chàng. Đông Bích vội rót chén trà uống vào với mùi hương đậm đà cho quên đi nỗi buồn.
Rồi chàng tắt hết đèn trong phòng và lên giường ngồi tĩnh tọa theo cách hô hấp của Huyền Không đại sư truyền dạy.
Đông Bích cảm thấy tinh thần minh mẫn trở lại. Rồi chàng nghĩ thầm:
- Có lẽ đây là nội công tâm pháp chi nguyên, một lối nội công của Thiếu Lâm đây. Khi nào thuận đường, ta sẽ ghé vào Thiếu Lâm tự để báo với Phương Trí chưởng môn về sự mất tích của Huyền Thanh đại sư nơi cung điện ở lòng đất.
Cho đến canh ba, khi cảnh vật cũng đã chìm đắm vào trong đêm. Khách sạn đã ngủ vùi trong im lặng, Đông Bích đang nằm bỗng nghe tiếng động bên ngoài.
Vì tai chàng, từ một trăm ngày sau khi ăn trứng nhện lửa nên thính một cách lạ lùng, dù chỉ một tiếng động nhỏ Đông Bích cũng nghe được.
Tiếng động càng rõ hơn, Đông Bích dớm người bước về phía cửa sổ thì lúc đó, một bóng người vút qua thật nhanh, chàng tung người qua cửa sổ vọt lên mái nhà thì một bóng người ở phía Tây đang sắp mất dạng nên Đông Bích không toan tính gì nữa, liền nhắm về phía người đó giở Thần Ảnh Phi Thiên nhảy vọt theo từ nóc nhà này qua nóc nhà khác.
Dưới ánh sao lờ mờ, Đông Bích cố thu dần sự cách biệt giữa hai người nhưng khi ra khỏi thành thì đã gặp đường đầy cây cối nên Đông Bích giảm bớt tốc độ, hơn nữa thoang thoáng thấy nơi xa cái miếu thổ địa nên chàng liền nghĩ đến tờ giấy lúc chiều với cái hẹn tại nơi này.
Đông Bích cố tránh tầm mắt đối phương nếu có nên đã len lõi đến gần miếu thổ địa một cách thận trọng.
Chàng nhún người vút lên trên cây cổ thụ trước miếu một cách yên lặng rồi nhìn vào miếu.
Vừa lúc đó, có một tên vác cái bao chạy đến, thì có bảy lão áo đen từ trong miếu đi ra hỏi:
- Xong rồi chứ Truy Phong Bộ Mã Tắc?
Người áo đen vừa đến đặt chiếc bao xuống đáp:
- Hoàn tất.
- Có ai theo dõi không?
- Tôi thay đổi nhiều lộ trình nên khách có ai theo kịp tôi đâu.
- Được lắm, Mã Tắc với hiệu danh Truy Phong Bộ thì trên đời có ai hơn được lối khinh công đệ nhất ấy đâu.
Người áo đen sửa soạn chiếc bao, nhưng ngừng lại nói:
- Đại lão Đẩu Tinh quá khen, chứ bảy vị đây ai mà nghe bốn tiếng Thất Lão Đẩu Tinh mà không khiếp đảm với võ công kinh hồn, thì sá gì Truy Phong Bộ Mã Tắc này chớ.
Một lão áo đen khác tiếp lời:
- Công này Động chủ chắc không quên đâu.
- Xin cảm ơn Nhị lão Đẩu Tinh.
- Nàng này đúng là con gái của Tô Mặc Dung phải không?
- Vâng, bọn bộ hạ theo dõi quả chắc như vậy nhưng thất lão dụng tới nàng làm gì?
Lão già áo đen lớn nhất cười đáp:
- Không có gì lạ, hình như nàng con gái này có mang một miếng bích ngọc hình bát giác mà năm năm trước Thập Tam sứ giả đã phải bỏ mạng vì tranh giành miếng ngọc ấy với tên Thần Ảnh Vương bất lão. Vậy Truy Phong Bộ hãy mở bao ra tìm xem có miếng ngọc ấy không?
Mã Tắc liền mở cái bao thì Đông Bích đã thấy nàng Tô Tiểu Bình đang nằm mê man. Mã Tắc nhìn vào cổ nàng quả thấy có sợi dây chuyền vàng có đeo theo một miếng ngọc bích hình bát giác giống như miếng ngọc mà Đông Bích đeo dạo nào.
Chàng đang ngồi trên cây dõi mắt quan sát cũng phải kinh ngạc.
Vừa lúc đó, bỗng có gần mười bóng người áo vàng vút hiện vào trước miếu.
Đại lão Đẩu Tinh cất tiếng:
- Ồ! Tưởng ai té ra Tổng quản Thủ đường Dự Cương.
Người mang tên là Dự Cương cười hô hố đáp:
- Chúng ta lại đi cùng trên một con đường rồi đó.
- Thế nghĩa là sao?
- Vì ta đã chọn nơi này canh tư để gặp Bạch y thư sinh.
Đại lão Đẩu Tinh kinh ngạc:
- Có phải thư sinh áo trắng với cái quạt kỳ dị bởi những chiêu thức lạ lùng đã làm võ lâm đồn đãi khắp nơi không?
- Đúng đấy, thằng oắt con đó đã làm Hoàng Giáp đường chủ phải thiệt mất Ngũ Đại Kim Cương và ngay cả Nhị Ma Sưu Hồn cũng phải xính vính về tay hắn đó.
Đại lão Đẩu Tinh chận lời:
- Vì vậy mà đêm nay phải đích thân Tổng quản Thủ Đường ra tay chứ gì.
Đông Bích ngồi trên cây cổ thụ hơi xa nhưng vẫn thấy và nghe được nên chàng lao vút vào trước miếu nơi có tiếng nói.
- Cũng chỉ là bọn ma đầu bại hoại võ lâm.
Câu nói chưa dứt là chàng đã hiện diện trước mặt bọn người nơi đây.
Tổng quản Thủ đường cười gượng:
- Không ngờ ngươi đến sớm vậy.
- Đó chẳng qua ta muốn biết bọn Hắc Thạch ma động bắt người làm gì nên theo dõi đến đây vậy thôi.
Truy Phong Bộ Mã Tắc hầm hừ:
- Hừ! Ngươi làm được gì nào?
- Ta muốn ngươi trả miếng ngọc cho nàng và thả nàng ra.
Mã Tắc trở giọng cười khinh miệt:
- Có giỏi hãy làm xem nào.
Đông Bích nhìn hết mọi người hiện diện rồi nói:
- Hoàng Giáp động phủ muốn gặp ta và như vậy có liên quan đến việc cô gái này không?
Tổng quản Thủ đường Dự Cương ởm ờ:
- Thật ra không liên quan vụ này, nhưng...
Đông Bích chận lời:
- Nhưng cùng một phường ma đầu với nhau phải không?
Rồi chàng quay sang bọn áo đen giọng cứng rắn:
- Thất Lão Đẩu Tinh, bảy lão già này chắc cũng danh vang như lời ca ngợi của tên Mã Tắc lúc nãy, vậy mà lại chủ trương bắt cóc con gái thật không nên ở trên giang hồ nữa.
Đại lão Đẩu Tinh tức giận hét:
- Đêm nay ta cho ngươi thấy trời cao đất rộng là gì!
- Ta sẵn sàng.
- Mã Tắc đưa miếng ngọc cho ta.
Nghe gọi, Mã Tắc liền tung miếng ngọc đến cho Đại lão Đẩu Tinh nhưng vừa lúc đó Đông Bích như mũi tên xẹt, dùng Thần Ảnh Phi Thiên vút tới với tay chụp đúng vào miếng ngọc giữa không gian trước cặp mắt kinh ngạc của mọi người bởi lối phi thân tuyệt diệu của chàng.
Đại lão Đẩu Tinh càng tức giận hơn nên liền khi thấy Đông Bích chụp miếng ngọc thì lão ta nhanh nhẩu đưa luôn song chưởng đẩy ra với toàn bộ công lực của lão vào Đông Bích.
Nghe chưởng phong ào ạt từ một bên đẩy tới, Đông Bích liền nhún người lên mượn sức chưởng phong đưa người xa thêm nữa.
Khi chàng hạ xuống đất liền quay lại cười:
- Chưởng phong của lão già còn thật hùng mạnh.
Riêng Đại lão Đẩu Tinh từ ngày thành danh Thất Lão Đẩu Tinh, chưa thấy ai nương vào chưởng phong như đạo sóng nương người tránh né tài tình như vậy nên trong lòng đã lo sợ nhưng chỉ thoáng qua lão thét:
- Thất Tinh Bắc Đẩu trận.
Thế là bảy lão già giáp trận vây Đông Bích theo hình sao bắc đẩu.
Nhìn qua trận thế bất giác Đông Bích buột miệng hỏi:
- Các ngươi lại biết Thất Tinh Bắc Đẩu trận của phái Không Động à?
- Đừng nói nhiều, ngươi thử thoát ra có được không?
- Hãy xem đây!
Chàng nói xong là bước theo thần ảnh Cửu thức bộ hình thì bảy lão già cũng tuốt binh khí ra, nhưng mỗi lão mỗi loại binh khí thật kỳ bí.
Đông Bích bước giáp một vòng thì tay cũng đã cầm chiếc quạt.
Chàng đi một vòng nữa thì trận thế phát động hoàn toàn, chàng thầm nghĩ:
- Bảy lão già này thật khó chơi lắm.
Chàng vẫn không nói gì, lại tiếp tục đi vòng nữa nhưng cũng chưa tìm ra chỗ yếu của trận thế.
Trong khi đó lão già chỉ huy trận thế cười nói:
- Hôm nay ngươi phải gục ngã bởi Thất Lão Đẩu Tinh.
Nhưng lão chưa nói dứt thì Đông Bích cầm cây quạt tung chiêu tấn công vào lão.
Thật bất ngờ, lão liền đưa cây trường kiếm lên đón lấy nhưng cũng trong lúc đó sáu lão già kia hợp công bằng sáu chưởng, nên chàng liền rút quạt về và như mũi tên chàng vọt lên thì Đại lão Đẩu Tinh cũng vút lên theo với thế kiếm rít gió. Nhưng chỉ đợi có vậy, khi Đại lão Đẩu Tinh tung người lên theo thì sáu lão còn lại vẫn xê dịch theo vị trí, bộ trận nên Đông Bích tung người lên chỉ là để cốt dụ cho Đại lão Đẩu Tinh lên theo. Khi lão còn ở trên không thì chàng đã rớt xuống trước ở vị trí của lão nơi thất tinh. Thất Tinh Bắc Đẩu trận và chàng lại là người điều khiển trận pháp nên lập tức vung một chưởng vào người Đại lão Đẩu Tinh làm lão ta ở trên cao phải lạng người tránh né, vì vậy lọt vào vòng vây của Thất Lão Đẩu Tinh trận.
Đông Bích không chần chờ liền cầm cây quạt đâm tới theo thế Mạc Thân Lan Yêu trảm vào Khí Môn huyệt của Đại lão Đẩu Tinh.
Lão già vừa thấy cây quạt đâm tới định lách mình sang một bên nhưng cái quạt đột nhiên như dài thêm bởi Đông Bích đã sử dụng Âm Dương kiếm hợp nhất nên dầu lão có né tránh cũng không sao tránh thoát mà thay vì mũi kiếm đâm vào Khí Môn huyệt thì lại lệch sang Huyết Môn huyệt.
Đại lão Đẩu Tinh trúng mũi kiếm hự lên một tiếng, trường kiếm của lão rơi theo thân hình đang nghiêng ngã giữa trận pháp.
Lúc đó, lập tức sáu lão già kia phải ngưng trận nhưng vì khi trận pháp chuyển biến thì ngưng lại cũng phải từ từ chứ không thể ngay lập tức. Nhưng trận đó là một nhược điểm của Thất Tinh Bắc Đẩu trận mà Đông Bích đã biết do Bá Nhược Du Kiến Anh để lại. Cũng vì thế mà chàng lợi dụng thời gian đó để tiêu diệt người chủ trận mà không sợ những người đồng trận phản kích.
Chỉ trong chớp nhoáng mà Đại lão Đẩu Tinh phải vong mạng thì lúc đó trận pháp mới ngừng được.
Sáu người còn lại cũng phải kinh hồn vây quanh Đông Bích vào giữa, bao nhiêu oán hận đều dồn lên binh khí, chưởng lực ào ạt hợp công chàng.
Thấy những lão già này bày trận Thất Tinh Bắc Đẩu trận của Không Động nên chàng không nỡ ra tay tàn sát nhưng vì muốn thoát trận, không làm gì hơn là phải hành động như chàng vừa hạ Đại lão Đẩu Tinh để bảo tồn sinh mạng.
Đông Bích nhìn họ nghiêm khắc:
- Các ngươi hãy tự lượng sức mình, nếu không đừng trách ta ác độc nhé!
- Ngươi phải đền mạng.
Thế là sáu lão già cùng một lúc cử chưởng tấn công.
Không thể lui được nữa nên chàng muốn thí nghiệm xem công lực của mình đạt được đến đâu nên vội cất quạt, đưa song chưởng đẩy ra với mười thành công lực. Chưởng phong hai bên chạm nhau phát ra một tiếng nổ vang rền, cuồn cuộn cuốn đá bụi, cây lá lông lốc bay mù mịt cả chiến địa.
Sáu lão già đều lui lại năm bước, mép rỉ máu. Còn Đông Bích bị chấn động lui lại ba bước, đứng trân trối vì máu huyết trong người chàng đang đảo lộn kỳ lạ.
Thấy tình trạng hiện tại đã tới hồi gay go và không thể bỏ lỡ cơ hội này, tên Tổng quản Thủ đường Dự Cương đã nhận thấy Đông Bích là một đối thủ thật nguy hiểm chứ không phải thư sinh yếu ớt, nên vội ra lệnh:
- Hãy vùng lên tiêu diệt nó.
Thế là những tên áo vàng cùng nhập trận, ra trước hơn hiểu là Truy Phong Bộ Mã Tắc nhờ khinh công hơn người nên chỉ chớp nhoáng, tiến sát vào Đông Bích, dùng quái trảo theo thế Hận Địa Vô Hoàn, bấu vào Quái Lữ huyệt nơi vai và Yêu Nhãn huyệt phía hông sau của Đông Bích nhanh một cách lạ lùng.
Đang bị máu huyết đảo lộn nhưng Đông Bích không vì thế mà chậm chạp. Chàng bước luôn tới trước theo Cửu thức bộ hình nên Mã Tắc đành chộp vào khoảng không, cùng lúc đó chàng mới xoay người và phiến quạt tung ra nhưng nhờ khinh công lanh lẹ nên Mã Tắc đảo lộn tránh được nhưng tiếng hét của Mã Tắc vẫn vang lên:
- Á... á...
Thì ra một cánh tay trái của Mã Tắc đã bị phiến quạt chém đứt.
Truy Phong Bộ Mã Tắc không ở lại trận chiến mà liền dùng khinh công thượng đẳng lao vút đi với tiếng theo gió vọng lại:
- Sẽ có ngày trả được thù này...
Lúc này tại trận địa, lớp người áo vàng gần mười tên có lẽ là bộ hạ của Tổng quản Thủ đường Dự Cương đang ào ạt tấn công Đông Bích. Đồng thời sáu lão già đã trở lại trận chiến nên Đông Bích thật đã gặp khó khăn vô cùng. Chàng lấy Cửu thức bộ hình để thoát ra ngoài thì lúc đó Dự Cương đã chờ sẵn, hắn liền đẩy ra một chưởng phong nóng bức. Đông Bích biết nguy, liền cử chưởng với mười thành công lực ứng phó. Hai chưởng gặp nhau, tiếng nổ chấn động liên hồi và những tên áo vàng công lực kém cũng bị chưởng phong dội ngược ra ngoài.
Sau một chưởng khủng khiếp, Dự Cương phải lùi luôn mười bước và miệng phun ra một búng máu. Còn Đông Bích thân hình lảo đảo lui lại một bước đứng im lặng.
Sáu lão già mừng thầm trong bụng và liên thủ tung chưởng tiếp vào Đông Bích. Chàng ta không còn nương tay được nữa nên cử song chưởng với toàn lực tuông ra như thác lũ.
Một tiếng nổ vang rền và sáu bóng đen văng tuốt ra xa một trượng, kinh mạch bị chấn đứt, nằm im lìm. Chưa hả cơn tức giận, Đông Bích liền tung phiến quạt vào những tên áo vàng còn sót lại. Mỗi phiến quạt tung ra là một tên áo vàng đứt bụng và mất một cánh tay.
Trong khi Đông Bích hăng máu thì Dự Cương thấy nguy hiểm sắp đến nên không màng đến đồng bọn mà liền lặng lẽ lao vút vào trong rừng mất dạng.
Đến khi tên áo vàng cuối cùng ngã gục thì áo quần của Đông Bích đầy máu. Chàng nhìn về phía Dự Cương thì không còn thấy hắn đâu cả.
Tiếng gà rừng gáy lên rời rạc...
Tiếng côn trùng ảo não thê lương rồi điểm vào một vài tiếng của chim lạc đàn thoáng cánh bay qua.
Đông Bích nhìn xác sáu lão già bị chưởng phong của chàng đánh chết mà lòng ngỡ ngàng tự hỏi:
- Tại sao cứ gặp một chưởng thật hùng mạnh của đối phương là công lực của ta tăng lên.
Rồi chàng gật gù:
- Có lẽ cũng tại cái hoa Lục thiên thảo ty...
Nhìn lại toàn diện cái thê thảm của đấu trường, Đông Bích vội chạy lại phía cô gái Tô Tiểu Bình.
Chàng đỡ nàng dậy, tuy nàng không cử động được, cũng như không nói được, song đôi mắt vẫn mở nhìn chàng.
Đông Bích vội giải khai huyệt đạo cho Tô Tiểu Bình. Nàng tiểu thơ này tuy bị bắt và điểm huyệt đạo song vẫn nhận thấy và quan sát được trận địa ngay từ phút đầu. Tuy ở trong gia đình con nhà võ song chưa bao giờ nàng gặp cảnh khủng khiếp như hôm nay. Phần thì bị bắt cóc, phần thì chứng kiến cảnh đánh nhau, chết chóc thật khủng khiếp mà cũng thầm kính phục chàng trai tuấn tú, dũng mãnh phi thường này, nên khi được giải khai huyệt đạo, Tô Tiểu Bình sững sờ nhìn Đông Bích rồi không cầm được sự cảm động, nàng ngã vào vòng tay Đông Bích, thốt lên:
- Ân nhân...
Chỉ gọi được một tiếng rồi Tô Tiểu Bình ngất xỉu luôn.
Đông Bích vội đỡ Tô Tiểu Bình nhưng thật là lúng túng, chàng gọi gấp:
- Cô nương, cô nương hãy tỉnh dậy ngay...
Đông Bích không biết phải làm sao, dầu chàng biết rằng nàng quá xúc động nên ngất đi trong giât lát nhưng nàng ngã vào lòng chàng thế này thật chàng thấy khó khăn, lúng túng quá đỗi.
Nhưng cũng may, chỉ ngất đi trong một chốc lát, rồi nàng tỉnh ngay. Nàng e thẹn cúi đầu ấp úng:
- Xin đội ơn ân nhân đã cứu mạng, và xin ân nhân cho biết quý danh để ngàn đời nhớ mãi...
Đông Bích nghe vậy vội nói:
- Cô nương chớ nói vậy, chỉ tình cờ gặp may mà cô nương khỏi nguy hại thôi. Còn tôi tên là Đông Bích. Và cô nương có phải là Tô Tiểu Bình, ái nữ của Tô Mặc Dung tiền bối không ạ?
Tô Tiểu Bình gật đầu:
- Dạ, đúng vậy, tại sao ân nhân lại bắt rõ như vậy?
- Bởi vì lúc nãy khi cô còn mê man, bọn ma đầu có đề cập đến quý danh của cô và tiền bối nên tôi mới biết được.
- Thưa ân nhân...
Đông Bích vội chận lời:
- Cô nương chớ gọi tôi như thế...
Tô Tiểu Bình liếc mắt nhìn chàng rồi mỉm cười:
- Nếu ân nhân cho phép, thiếp xin gọi ân nhân là tiểu ca vậy.
- Cũng được, vậy tiểu muội hãy cứ ngồi đây nghỉ giây lát, để tôi đi tìm chút nước rửa những vết máu nơi áo quần đã nhé.
- Vâng, tiểu ca cứ đi. Nhanh lên đó chứ kẻo muội ở đây sợ lắm nghe.
- Vâng, chỉ trong chốc lát thôi.
Thế là chỉ trong nhoáng lên một cái là Đông Bích đã rời nơi đây.
Còn lại một mình, Tô Tiểu Bình thấy lòng lâng lâng khó tả, nửa sợ nửa mừng, và lòng hồi hộp cho cuộc kỳ ngộ này. Dẫu rơi vào hiểm nguy, nhưng cũng đã tìm được cái gì mới lạ đang làm cho nàng con gái khuê các cảm thấy bâng khuâng. Nàng nhỏ nhẹ thốt lên:
- Đông ca... Đông ca...
Nàng đang thân thiết gọi khẽ nhưng chợt có tiếng sau lưng:
- Gì đó hả Tô muội.
Nàng giật mình quay lại, thì thấy Đông Bích đang oai dũng đứng ngay sau lưng nàng.
Nàng bẻn lẻn:
- Ơ... tiểu ca làm tiểu muội hết hồn hà.
- Ủa! Và tôi cũng nghe tiểu muội gọi tên nên lên tiếng đấy chứ.
Tô Tiểu Bình càng thẹn thùng:
- Không biết đâu. Tiểu ca trêu tiểu muội phải không?
Nói rồi nàng vụt chạy xuống ngọn đồi trước mặt Đông Bích liền đuổi theo sau gọi:
- Tô muội! Tô muội chờ ta đi với... có miếng ngọc... của tiểu muội đây này
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách