|
Chương 2
Trong tửu quán
Tôi thường lân la đến quán dì Tư Béo, bởi lý do mong gặp người quen. Nhưng còn một lẽ khác nữa, là Ơû đó, tôi có thể nghe đủ mọi thứ chuyện trên đời. Việc gì vừa xảy ra Ơû bất cứ xó hẻm nào quanh chợ, lập tức trong quán dì Tư Béo mọi ngươi đã biết ngay. Từ những tin nóng hổi Ơû mặt trận Vàm Xáng như '... một chiến sĩ ta bị thương, khúc ruột lòi ra, anh lấy tay nhét vào, không rên một tiếng" , cho đến chuyện "ông Tổ sư Bồ đề truyền dạy phép màu cho Tề Thiên Đại Thánh như thế nào. . . " tôi đều có thể nghe được Ơû đây.
ĐÓ là một ngôi quán nhỏ xệch xạc, trống trước trống sau, cất dựa bên bờ kênh dưới bóng một cây gáo cổ thụ.
Mái lá rách thủng lô chỗ, ban ngày nắng soi xuống mặt chiếc bàn dài, thả những bóng trứng vịt xuống bên mâm người ngồi nhậu, và ban đêm, người ta có thể uống cả một vì sao xanh rơi trong lòng cốc.
Quán rượu dì Tư Béo nối tiếng về thứ rượu tăm ngọt giọng, phảng phất mùi cháy khê nồi mà không nhà nào cất được, về tài xào nấu các món thịt rừng mà các lão già cũng hay bông phèng đã nức nở khen rằng "nhắm xong một miếng, thấy người phấn hứng, trẻ tráng ra ngay" .
Nhiều người tin như vậy. Chứ như tôi, tôi nghĩ rằng những người lui tới nơi đây là bởi tự thói quen cố hữu của họ. Mà bà chủ quán vốn là một người đãi bôi xởi lởi, không bao giờ để phật lòng bất cứ một ông khách nào dù khó tính đến đâu. Duy chỉ có một điều mà ai cũng biết nhưng cũng chẳng ai nói ra, là trong sự dễ dãi hào phóng của bà ta , dù thế nào thì thế, một đồng xu cũng không lọt được qua cánh tay nhờn nhầy bóng mỡ của bà, vì bà không để mình chịu thiệt với ai bao giờ. Chẳng vậy mà một hôm, bà ta đã bảo tôi: "Tao thấy mày sống hổm rày ở chợ này như con chó hoang. Tội quá! về đây mà ở, tiếp giúp tao việc vặt trong quán. Mày sẽ tha hồ ăn, tha hồ uống. Còn như công xá. Bà ta im lặng một lúc, sụt sịt mũi ; "Nói chuyện công xá, hóa ra cháu ở đợ cho dì sao? Dì có một thân một mình. Dì coi cháu như con thôi. Mẹ con mà tính chuyện tiền bạc thì còn ra cái nghĩa gì
Tôi đứng lặng đi một lúc lâu, bàng hoàng không biết đáp ra sao. Trước mắt tôi, dòng kênh xanh ngắt lặng lẽ chạy hút vào chân trời . Một cánh buồm nhỏ xíu bồng bềnh trên khói nước, ở một nơi nào xa lắm, đôi khi không trông rõ, dường nửa thực nửa hư. Quay nhìn về hướng quê nhà, chỉ thấy mây trời đùn cao như núi. Ngày mai tôi sẽ đi về đâu sống ra sao, tôi chưa biết. Tôi chẳng ở đây thì còn đi đâu nữa? Tôi gật đầu, chẳng nghĩ ngợi gì.
- Vâng. Cháu sẽ ở đây với dì!
Tôi trở thành thằng nhỏ hầu rượu trong quán dì Tư Béo bắt đầu từ hôm đó.
- Cầm hào bạc đây, ra chợ mà cắt tóc ngay đi - bà ta vừa truyền lệnh cho tôi, vừa tháo mấy cây kim băng cài miệng túi áo chích đưa lên ngậm ngang mồm, và móc từ trong miệng túi thâm đen vì bẩn mỡ ra một nắm giấy bạc, nhặt một tờ hào dúi vào tay tôi.
Khi tôi cắt tóc xong, trở về quán thì thấy bà ta lúi húi ngồi khâu bên rổ may.
Lại ướm thử cái quần đùi coi nào. Dì khâu cho mày đấy
Bà ta đứng dậy, cầm mảnh lụa đen vừa cắt từ ống quần dài cũ của bà chỉ cần khâu một đường lưng và một đường khoét đáy là thành một chiếc quần đùi. Tôi mặc thử, thấy hãy còn quá rộng.
Cầm bánh xà phòng thơm của dì, xuống bến tắm đi.
Rồi lên mà mặc quần mới, con? - bà ta ngọt ngào bảo tôi.
Bà ta nói với tôi rất ít, ?lời lẽ dịu dàng, nhưng mỗi câu là một mệnh lệnh. Sau khi tắm rửa xong, tôi vội mặc chiếc quần lụa đen ngắn vào. Bà ta ngồi nheo mắt, cười làm rung rung hai tảng mỡ của đôi gò má bóng nhẫy, ngắm tôi hồi lâu.
- Tươm da! Sạch sẽ thơm tho nhưvậy mới có thể hầu khách được. Chứ đứng gần người ta mà hôi như cú thì họ gõ chai lên đầu biết không" Mà trông mày mặt mũi cũng sáng láng đấy. CÓ chữ nghĩa gì bỏ túi không?
Dạ, cháu đã đỗ xép-phi-ca(Tiểu học) tháng sáu năm ngoái.
- Thiệt chứ? Trời, thằng này giỏi đa? Mới mười bốn mười lăm tuổi mà đã dỗ phi-ca thì giỏi lắm. ờ, hồi tao còn con gái, có một ông giáo phica chú ý đến tao, nhưng duyên trời không định: Chà, ngày xưa đỗ phi-ca là đã nên ông nọ ông kia rồi . Khổ cho mày, gặp thời buổi loạn ly! . . .
Thế ba má cháu đâu?
- Dạ, ở xa lắm! - tôi đáp một cách miễn cưỡng. .
Thấy tôi không muốn nói, bà ta cũng thôi không hỏi. Bà ta vốn là người khôn ngoan, lịch thiệp và từng trải, luôn luôn đoán trước ý mọi người, biết lúc nào nên nói, lúc nào nên không và nên chấm dút câu chuyện ở chỗ nào. Điều này, tôi nhận ra trong những đặc tính của bà ta chỉ qua vài ngày sau thôi.
Kể ra thì khách rượu của quán rượn dì Tư Béo không thiếu hạng nào. Những tay vô công rồi nghề, la cà ngồi tán dóc suốt ngày cũng có. Những người tản cư, cắm thuyền tạt lên uống chén rượu rồi quảy qua đi ngay cũng có. Bọn con buôn vào ngồi chỉ cốt lấy chỗ gặp gỡ, trao đổi luồng hàng đương khan hiếm và để kiếm món xào nướng khoái khẩu hơn là vì cần nên đôi khi, một vài người lính Cộng hòa vệ binh có tuổi lén rời chỗ trú quân vào làm một cốc rượu khan, trước khi ra khỏi quán cứ đưa ống tay áo chùi ria mép và dặn đi dặn lại tôi: "Này, chú em, hễ có ban chỉ huy đến hỏi thì nói không có ai tới uống rượn đây cả nhé ! Nhớ nhé " .
Chỉ trong vài hôm, tôi đã quen mặt hầu hết những đệ tử Lưu Linh của xóm chợ này . Nhưng trong đám người thường lui tới đây, tôi chỉ đặc biệt chú ý có hai người.
Một là lão Ba Ngù. Dường như lúc nào cũng có lão túc trực trong quán. Nói cho đúng thì lão ta cũng không phải là tay mạnh rượu. Nhưng lão có thể lai rai uống được suốt ngày. Những chuyện tiếu lâm, những chuyện giang hồ mã thượng lão kể đi kể lại với mọi người, tôi nghe đến thuộc làu những vẫn thích nghe. Bởi mỗi lần kể, lão thường hay thắt thêm vào những chi tiết bất ngờ khiến tôi phải cười bò ra; hoặc cũng có một đôi chỗ mà lần trước kể dài dòng, lão đã biết khéo léo thu vén bỏ đi cho câu chuyện thêm tròn trĩnh, dễ nghe hơn. Những lúc đông khách, lão đứng dậy nhường chỗ cho người mới tới. Đôi khi lão còn bưng hộ bát thừa giúp bà chủ quán. Dì Tư béo mến lão vì cái tài đưa chuyện và giữ khách không công của lão, nên thỉnh thoảng bà ta cũng đãi lão cút rượu kèm theo một con khô cá lạt nướng. Ai mời rượu. lão đều uống, không từ chối. Nhưng chỉ uống một chén con cho vui bụng ngươi ta thôi. Không bao giờ lão uống đến chén thứ hai. "Mình là người biết tự trọng. Mình có phải là thằng già nát rượn đâu? " Lão thường lè nhè nói một mình như vậy Cứ mỗi người một chén rượu mời, mỗi ngày đêm lão Ba Ngù có thể uống tính ra đến một, hai lít? Lão luôn luôn cởi trần, áo chỉ dể vắt hờ bên vai, bảo: "Để vầy cho nó mát". Lão chỉ mặc độc chiếc quần đùi: da mặt, da lưng đỏ như cua luộc. Dường như bấm vào bất cứ chỗ nào trong thân hình lão cũng có thể chảy rượu ra ngay được . . .
Đó là người thứ nhất.
Người thứ hai là Tư Mắm. Không biết y ở đâu, tên thật là gì . Chỉ biết rằng y thường chở mắm lóc, mắm trê đôi khi chở cả dừa khô và bí rợ trong một chiếc ghe lườn bán dọc theo các xóm bờ kênh, nên đồng bào gọi y là Tư Mắm. Còn người đàn bà chạc ba mươi tuổi mà Tư Mắm bảo là vợ y không mấy khi bước lên bờ. có lần, tôi nghe thấy lão Ba Ngù che tay lên miệng bảo với dì Tư Béo: "Chà, bộ thằng Tư Mắm có ngải hay sao mà nó chài được con nỡm đẹp quá. Không phải vợ hắn đâu. Dứt khoát là không phải bà chị ạ "Tư Mắm ngươi dong dỏng cao nước xanh mét, tóc cắt bom-bê, mái tóc trước trán rủ xuống tận gò má bên phải . Đôi mắt y rất bé và sắc lạ lùng, tròng mắt đảo đi đảo lại rất nhanh và không hề nhìn thẳng vào ai bao giờ.
Một buổi sáng, lúc tôi đang bưng rổ tôm càng xanh từ chợ về thì nghe tiếng tàu bay vè vè từ hướng Sóc Trăng lượn đến. Người trong chợ xô nhau nhạy toán loạn.
Chiếc tàu bay đảo hai vòng trên xóm Ngã Ba Kênh, bay rất chậm nhưng thật cao, nghiêng qua nghiêng lại quan sát rồi thả xuống một đống truyền đơn . Những tờ truyền đơn tủa ra, bị gió cuốn đi bay về mạn rừng tràm cách chợ có đến vài ngàn thước. Không biết bọn giặc nói gì trong ấy Nhưng khi tôi về đến quán thì gặp ngay lão Ba Ngù đứng chửi oang oang: .
- Tổ cha thằng Tây. Mày đánh thì xuống đây Chứ bay trên trời thả giấy xuống thì cũng chưa gọi là bảnh
Lão níu rổ tôm của tôi lại, hỏi:
- Mày có nhặt được tờ nào đút trong này không?
- Không - tôi dáp.
- Truyền đơn nó kêu gọi Việt Minh đầu hàng đấy!
- Sao bác biết? Bác nhặt được à?
- Nhặt đâu mà nhặt. Thằng Tư Mắm nó vừa bảo đấy . Cái thằng coi vậy mà nhát. NÓ mới nghe hơi tàu bay một chút, đã xuống ghe chèo đi tuốt rồi!
Từ đó đến chiều, gặp ai lão Ba Ngù cũng nói đi nói lại có bao nhiêu chuyện đó Và chuyện giữa người trong quán cứ xoay quanh vấn đề : "Tây sắp tiến công vào đây? Liệu chúng ta có chặn nổi không?”
Vào lúc chạng vạng, trời bỗng nổi gió to. Tiếng sấm nổ chát chúa trên những vầng mây đen sì mỗi lúc như muốn xà thấp xuống ngọn cây. Mưa bắt đầu rơi lộp độp những hạt to và nặng trên mái lá. Nhưng chỉ ào qua một loạt rồi tạnh ngay. Lão Ba Ngù đứng trước quán, nhìn theo những làn chớp kêu:
- Mưa đi ông! Muốn mưa thì cứ mưa đi. Sao cứ làm khó khăn cho người ta vậy?
- Nếu mưa to thì Tây còn chưa dám vào đâu, phải không anh Ba?
Dì Tư Béo lạch bà- lạch bạch như con vịt mái xiêm, ra đứng bên cạnh lão, vừa thở dài vừa hỏi phụ họa:
- Dút khoát là mưa thì nó không dám tiến công. NÓ toàn đi giầy, gặp đất trơn trượt ngã bỏ mẹ đi. Hồi đằng cựu(thời cần vương, văn thân khởi nghĩa) các ông rải quả mù trên lộ, Tây đi ngã lạch bạch . Thế là dao, mác, mã tấu mình cứ xông ra chém nó như chém chuối! |
|