|
CHƯƠNG 1
"Tôi là bác sĩ David Tennant. Tôi là giáo sư y đức tại trường y, Đại học Virginia, và nếu bạn đang xem cuốn băng này, có nghĩa là tôi đã chết.”
Tôi lấy hơi và tự chủ lại. Tôi không muốn cường điệu. Tôi lắp máy ghi hình Sony trên giá ba chân và xoay màn hình tinh thể lỏng để có thể nhìn thấy mình trong khi nói. Mấy tuần qua tôi đã sút cân. Mắt tôi đỏ ngầu vì mệt mỏi, viền mắt thâm quầng và bóng lên. Trông tôi giống một tên tội phạm bị săn lùng hơn là một người bạn đau buồn.
“Tôi thật không biết bắt đầu từ đâu. Tôi cứ hình dung ra thi thể Andrew nằm dưới nền nhà. Và tôi biết ông đã bị giết. Nhưng... tôi hấp tấp rồi. Các vị cần các dữ kiện. Tôi sinh năm 1961 ở Los Alamos, bang New Mexico. Cha tôi là James Howard Tennant, nhà vật lý hạt nhân. Mẹ tôi là Ann Tennant, bác sĩ nhi khoa. Tôi ghi hình cuốn băng này trong trạng thái tinh thần hoàn toàn tỉnh táo. Và ngay khi làm xong, tôi sẽ gửi cho luật sư của mình, với điều kiện nó phải được mở ra nếu tôi chết vì bất kỳ nguyên nhân nào.”
“Cách đây sáu giờ, người ta phát hiện một đồng nghiệp của tôi - tiến sĩ Andrew Fielding - chết bên bàn làm việc của ông vì một cơn đột quỵ triệu chứng rõ ràng. Tuy không chứng minh được, nhưng tôi tin là Fielding bị giết. Trong hai năm qua, ông và tôi tham gia một nhóm khoa học được NSA(1) và DARPA(2) tài trợ. Dưới cấp bảo mật cao nhất, đội ngũ khoa học và công trình của họ được gọi là Dự án Trinity(3)”.
Tôi liếc xuống khẩu Smith & Wesson 38 ly nòng ngắn đặt trên đùi. Tôi đã cố không để khẩu súng lộ ra trước camera, nhưng có nó trong tầm tay khiến tôi thấy yên tâm. Trấn tĩnh lại, tôi lại căng mắt nhìn vào ánh sáng đỏ rực.
“Cách nay hai năm, Peter Godin, người sáng lập tập đoàn Siêu máy tính Godin, đột nhiên nảy ra một ý tưởng, khá giống thời khắc huyền thoại khi quả táo rơi trúng đầu Isaac Newton. Nó diễn ra trong một giấc mơ. Người đàn ông bảy mươi tuổi ấy dường như không dựa trên một cơ sở nào, đã hình dung ra một khả năng đột phá trong lịch sử khoa học. Khi thức dậy, Godin gọi điện cho John Skow, phó giám đốc của NSA ở căn cứ quân sự Meade, Maryland. Sáu giờ sáng, hai người đã soạn thảo và gửi một bức thư cho tổng thống Hoa Kỳ. Bức thư làm chấn động Nhà Trắng đến tận nền móng. Tôi biết điều này vì tổng thống vốn là bạn thân của anh tôi từ ngày còn ngồi trên ghế trường đại học. Anh tôi chết cánh đây ba năm, nhưng nhờ có anh mà tổng thống biết đến công việc của tôi, chính công việc ấy đã đặt tôi vào trung tâm những sự kiện sẽ tiếp nối sau này."
Tôi xoa xoa nòng thép mát lạnh của khẩu 38 ly, tự hỏi không biết nên nói ra những gì và bỏ qua điều gì. Trong đầu tôi vang lên một giọng nói: Không bỏ qua gì cả. Giọng nói của ba tôi. Cách đây năm mươi năm, ông đóng một vai trò riêng trong lịch sử bí mật của nước Mỹ, và gánh nặng đó đã rút ngắn cuộc đời ông. Ba tôi mất năm 1988, một con người bị ám ảnh, tin chắc rằng cuộc Chiến tranh Lạnh mà ông đã tiêu phí cả sức lực tuổi trẻ để duy trì sẽ kết thúc với một nền văn minh bị hủy hoại, vì việc này quá dễ dàng. Không bỏ qua gì cả...
“Thông điệp của Godin” - tôi tiếp tục, - “có tác động như bức thư của Albert Einstein gửi tổng thống Roosevelt vào đầu Thế chiến II, phác họa về tiềm lực chế tạo bom nguyên tử và khả năng Đức Quốc xã có thể đã chế tạo một quả. Bức thư của Einstein đã kích hoạt Dự án Manhattan, cuộc nghiên cứu bí mật nhằm đảm bảo rằng Mỹ phải là nước đầu tiên có vũ khí hạt nhân. Bức thư của Godin làm xuất hiện một dự án có quy mô tương tự nhưng tham vọng là vô bờ bến. Dự án Trinity khởi động sau những bức tường của một cơ quan bình phong cho NSA trong Công viên Tam giác Nghiên cứu Bắc Carolina. Chỉ có sáu người trên hành tinh được biết đầy đủ về Trinity, và bây giờ khi Andrew Fielding đã chết, chỉ còn lại năm. Tôi là một. Bốn người kia là Peter Godin, John Skow, Ravi Nara...”
Tôi ngồi chôn chân với khẩu súng 38 ly trong tay. Có tiếng gõ cửa. Qua tấm rèm thưa, tôi thấy một chiếc xe tải nhẹ của Federal Express đậu sát vỉa hè. Khoảng trống ngay trước cửa ra vào thì tôi không nhìn thấy được.
- Ai đấy? - tôi hỏi.
- FedEx, - một giọng đàn ông nghèn nghẹt: - Tôi cần ông ký vào đây.
Tôi không chờ đợi thư từ nào cả.
- Là thư hay bưu phẩm?
- Thư.
- Ai gửi?
- Ờ... Lewis Carroll.
Tôi rùng mình. Một bưu phẩm từ một người đã chết? Chỉ có một người duy nhất có thể gửi cho tôi bưu phẩm dưới tên tác giả “Alice ở xứ thần tiên”. Andrew Fielding. Ông gửi cho tôi thứ gì vào cái ngày trước khi chết? Mấy tuần nay Fielding luôn lục lọi như bị ma ám trong các phòng thí nghiệm của Trinity, máy tính cũng như những chỗ khác. Cõ lẽ ông đã phát hiện được điều gì. Mà có lẽ dù là gì đi nữa thì nó cũng đã dẫn đến cái chết của ông. Tôi cảm thấy có nét là lạ trong cung cách của Fielding ngày hôm qua - không dễ gì nhận ra điều đó ở một người nổi tiếng lập dị như ông - nhưng đến sáng nay dường như ông đã trở lại bình thường.
- Ông có muốn nhận hay không? - người đưa thư hỏi.
Tôi lên đạn khẩu súng và nhích dần ra phía cửa. Tôi thường khóa xích cửa sau khi về nhà. Tôi mở cửa bằng tay trái và kéo ra hết khoảng căng của xích. Qua khe mở, tôi thấy khuôn mặt của một thanh niên cỡ ngoài hai mươi tuổi, mặc đồng phục, tóc buộc kiểu đuôi ngựa ngắn.
- Đưa bảng giấy qua đây cùng với gói hàng. Tôi sẽ ký rồi trả lại anh.
- Không được, vì đây là bảng kỹ thuật số.
- Thế thì lấy tay mà giữ.
- Hoang tưởng, - hắn làu bàu, nhưng vẫn đưa một tấm bảng dày màu vàng cam qua khe cửa.
Tôi cầm lấy bút từ treo ở đầu sợi dây, ký tháu tên mình lên màn hình cảm ứng.
- Ok!
Tấm bảng điện tử biến mất và một phong bì FedEx được tuồn qua. Tôi cầm lấy nó quăng lên sofa, rồi đóng cửa lại đợi đến khi tiếng xe mất hẳn.
Tôi nhặt phong bì lên và liếc qua nhãn. Chữ “Lewis Caroll” được ký bằng bàn tay nghều ngoào của Fielding. Khi tôi rút tờ giấy ra khỏi phong bì, một chất bột màu trắng trơn bóng tràn lên ngón tay tôi. Khoảnh khắc mắt tôi nhận ra màu trắng, một phần não tôi lóe lên ý nghĩ, bệnh than. Khả năng này tuy thấp nhưng người bạn thân nhất của tôi vừa mới chết trong hoàn cảnh mờ ám. Có hoang tưởng đôi chút thì cũng hợp lý thôi.
Tôi chạy vội vào bếp cọ rửa ngón tay bằng nước rửa chén và nước. Rồi tôi lấy từ tủ ra một túi cứu thương màu đen. Trong đó có đủ các thứ thuốc quen thuộc trong nhà một bác sĩ y khoa: thuốc giảm đau, thuốc kháng sinh, thuốc gây nôn, kem steroid. Tôi tìm thấy thứ mình cần trong một ngăn có khóa bấm: một vỉ Cipro, loại kháng sinh mạnh đa năng.
Tôi nuốt một viên với nước ở vòi, rồi lấy đôi găng tay mổ trong túi đeo vào. Một động tác phòng ngừa cuối cùng: tôi lấy một chiếc áo thun bẩn từ giỏ mây ra buộc quanh mũi và mồm. Tôi nhét chiếc phong bì FedEx và bức thư vào một túi Ziploc riêng, niêm kín lại rồi ném lên quầy.
Dù rất nóng lòng muốn đọc bức thư, một phần trong tôi vẫn cố cưỡng lại. Fielding có thể đã bị giết vì những gì được viết trong đó. Và dù nếu không phải như thế thì việc đọc nó cũng chẳng mang lại điều gì tốt lành.
Tôi cẩn thận dùng máy hút bụi hút hết chất bột trắng dây ra thảm ở phòng ngoài, tự hỏi liệu tôi có lầm khi cho là Fielding bị giết không? Tôi với ông đã lâm vào trạng thái hoài nghi suốt mấy tuần qua, nhưng khi đó chúng tôi có lý do để nghi ngờ. Mà thời gian thì quá kẹt. Đáng lẽ cất máy hút bụi vào tủ chứa đồ, tôi lại ra cửa sau và quẳng nó ra xa tận ngoài sân. Mua cái mới lúc nào chẳng được.
Tôi vẫn còn bị ám ảnh lạ lùng về bức thư nằm trên quầy bếp. Tôi thấy mình giống như vợ người lính không dám mở một bức điện. Nhưng tôi biết rõ bạn tôi đã chết. Vậy tôi còn sợ gì?
Sợ cái lý do, một tiếng nói trong đầu tôi trả lời. Fielding nói. Anh muốn rúc đầu vào cát. Trò chơi dân tộc của Mỹ đấy!
Cáu kỉnh vì phát hiện ra rằng chết cũng phiền hà như sống, tôi nhặt cái túi Ziploc chứa thư lên, mang ra phòng ngoài. Thư ngắn và viết tay.
"David,
Chúng ta cần phải gặp lại nhau. Cuối cùng tôi đã đem những nghi ngờ của mình đến đối chất với Godin. Phản ứng của hắn làm tôi kinh hoàng. Tôi không muốn viết cụ thể ra giấy, nhưng tôi biết mình đúng. Đêm thứ Bảy, tôi với Lu Li sẽ chạy xe ra chỗ nhà xanh. Hãy đến đấy với chúng tôi. Chỗ ấy gần, nhưng kín đáo. Có thể sẽ có thời gian cho anh tiếp xúc với người bạn cũ của anh trai anh, tuy rằng tôi tự hỏi ngay cả ông ta liệu làm được gì vào lúc này. Những sự việc như thế này có sức mạnh vượt mọi cá nhân. Thậm chí vượt cả loài người, tôi e vậy! Nếu có chuyện gì xảy ra với tôi, đừng quên cái vật nhỏ bằng vàng hồi trước tôi nhờ anh giữ giùm. Thời gian gấp lắm, bạn ạ. Hẹn gặp tối thứ Bảy."
Không có chữ ký, nhưng dưới các dòng chữ là bức tranh vui vẽ tay hình đầu một con thỏ và một mặt đồng hồ. Thỏ Trắng, cái biệt danh dễ thương ấy là của các sinh viên vật lý ở trường Cambridge dành tặng cho Fielding. Fielding luôn mang theo một chiếc đồng hồ vàng bỏ túi, đó chính là “cái vật nhỏ bằng vàng” hồi trước ông nhờ tôi giữ hộ.
Hôm ấy, lúc đi ngang qua tôi trong hành lang, ông dúi chiếc đồng hồ treo trên sợi dây chuyền vào tay tôi. “Giữ hộ một giờ, được không anh bạn?” ông thì thầm. ”Được thôi!” Rồi ông đi. Một giờ sau, ông dừng trước phòng tôi để nhận lại đồ, bảo rằng ông không muốn mang nó vào phòng thí nghiệm MRI(4), ở đó nó có thể bị văng vỡ tung tóe vào máy MRI vì từ trường cực mạnh của máy móc. Nhưng trước đó, Fielding luôn đến phòng thí nghiệm MRI mà chưa bao giờ gửi tôi chiếc đồng hồ bỏ túi ấy. Và cũng không bao giờ gửi lại lần nữa. Chắc nó phải ở trong túi ông khi ông chết. Vậy thì ngày hôm ấy ông gặp chuyện gì?
Tôi đọc lại bức thư. Đêm thứ bảy, tôi với Lu Li sẽ chạy xe ra chỗ nhà xanh. Lu Li là bà vợ mới người Trung Quốc của Fielding. “Nhà xanh” chắc là mật danh của một căn nhà nhỏ ven biển ở Nags Head, Bãi Ngoài, Bắc Carolina. Cách đây ba tháng, khi ông nhờ tôi gợi ý địa điểm cho tuần trăng mật, tôi gợi ý căn nhà nhỏ Nags Head, chỉ mất độ vài tiếng lái xe. Vợ chồng Fielding rất thích chỗ đó, và ông bạn người Anh này rõ ràng đã chọn nó làm địa điểm an toàn để bàn về nỗi lo sợ của mình.
Bàn tay tôi run lên. Người viết những dòng này giờ đây đang lạnh như cái bàn đặt tử thi của ông, tất nhiên nếu ông nằm trong nhà xác. Không ai có thể - hoặc muốn - nói cho tôi biết chính xác bạn tôi được đưa đi đâu. Và bây giờ đến thứ bột trắng! Chẳng lẽ Fielding đã bỏ bột trắng vào phong bì mà không đả động gì đến nó trong thư? Nếu không phải ông thì ai làm? Ai, nếu không phải chính kẻ đã giết ông?
Chú Thích:
1. Cơ quan An ninh Quốc gia (National Security Agency).
2. Cơ quan Dự án Nghiên cứu Tiên tiến của Bộ Quốc phòng (Defense Advanced Research Projects Agency).
3. Chúa ba ngôi.
4. Máy tạo hình ảnh bằng cộng hưởng từ (Magnetic resonance imaging). |
|