Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 8053|Trả lời: 64
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Cô Đơn Trên Mạng | JannuszLeon Wisniewski

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả


Tên tác phẩm: Cô Đơn Trên Mạng
Tên tác giả: JannuszLeon Wisniewski
Tên dịch giả : Nguyễn Thị Thanh Thư
Thể loại: Tiểu thuyết
Tình trạng sáng tác :đã hoàn thành
Nguồn: vnthuquan


Giới thiệu về cuốn sách, ở bìa cuối có vài dòng thế này:

"Một tình yêu đẹp, bắt đầu từ trên mạng Internet. Một tình yêu dịu dàng, bất tận, một tình yêu dường như tất thảy đều mơ ước, để được "khóc và nghẹt thở"...
Một bài ca tôn vinh trí tuệ và tri thức: những câu chuyện thú vị về máy tính, e-mail và SMS, về ADN, giải mã gien và bộ não, vnhững phân tử của cảm xúc... được đan quyện tinh tế với nỗ lực tìm kiếm cảm xúc và nhu cầu lớn lao được gần gũi yêu thương chống lại sự lạnh lùng, cô độc của con người trong xã hội hiện đại."

Đôi lời muốn ngỏ:
Tôi chọn "Cô đơn trên mạng" không phải vì cái "tiếng tăm" bestseller của nó mà là vì chính cái tựa sách đã gây ấn tượng mạnh với tôi khi lần đầu tôi nhìn thấy. Cái tựa sách đã mang lại cho tôi cảm giác gần gũi, quen thuộc bởi "cô đơn" và bởi "mạng". "Cô đơn" là một trạng thái thường gặp của những con người hiện đại,  trong cái vòng quay hối hả ngày nay, trong đó có tôi ; và "mạng" gần như là 1 từ ngữ mang tính "thân thiết" đến không ngờ khi xã hội mỗi ngày một hiện đại hoá, mọi thứ vật dụng dần dần đều được "số hóa" thì từ "mạng" đã không còn là xa xôi, lạ lẫm nữa, với tôi ngày nào ko lên mạng là ngày đó trong tôi có một cảm giác "thiếu hụt" ,"tụt hậu" là "nhớ nhung khắc khoải" đến vậy!


Rate

Số người tham gia 1Sức gió +5 Thu lại Lý do
cotchip2611 + 5 Ủng hộ 1 cái!

Xem tất cả

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 11-12-2011 15:49:14 | Chỉ xem của tác giả
JannuszLeon Wisniewski

Cô Đơn Trên Mạng

Giới thiệu




   Một tình yêu đẹp, bắt đầu từ trên mạng Internet. Một tình yêu dịu dàng, bất tận, một tình yêu dường như tất thảy đều mơ ước, để được "khóc và nghẹt thở"...
Một tình yêu đẹp, bắt đầu từ trên mạng Internet. Một tình yêu dịu dàng, bất tận, một tình yêu dường như tất thảy đều mơ ước, để được "khóc và nghẹt thở"...
Một bài ca tôn vinh trí tuệ và tri thức: những câu chuyện thú vị về máy tính, e-mail và SMS, về ADN, giải mã gien và bộ não, về những phân tử của cảm xúc... được đan quyện tinh tế với nỗ lực tìm kiếm cảm xúc và nhu cầu lớn lao được gần gũi yêu thương chống lại sự lạnh lùng, cô độc của con người trong xã hội hiện đại.
Một tác phẩm đương đại lãng mạn và đang khuấy động bạn đọc trẻ Việt Nam qua bản chuyển ngữ tinh tế của Nguyễn Thanh Thư. Để rồi khi gấp trang sách lại, sự nuối tiếc khiến bạn muốn lật trang đầu để đọc lại. Tác phẩm viết về sự cô đơn, về những con người sống trong không gian ảo và cũng là nơi để tình yêu chấp cánh cho hai nhân vật chính, dù cái kết để lại trong lòng người đọc sự xót xa.
Một lối kể chuyện rất hấp dẫn, văn phong tinh tế, sang trọng và cho thấy kiến thức sâu rộng và uyên thâm của tác giả, một nhà khoa học, nhà văn, cử nhân vật lý, cử nhân kinh tế, tiến sĩ tin học, tiến sĩ khoa học về hoá học, Giáo sư đại học sư phạm, người viết chương trình máy tính cho viện Hoá của Mỹ trụ sở tại Đức. Tiểu thuyết được viết theo kiểu song tuyến, xen lẫn từ đầu đến cuối là những dòng tự sự, độc thoại, hồi ức của hai nhân vật chính…
“Cô đơn trên mạng” từng là tác phẩm best – seller tại Ba Lan, được dịch ra nhiều thứ tiếng và mới nhất, đến bạn đọc Việt Nam qua bản dịch của Nguyễn Thanh Thư, con gái nhà văn Nguyên Hồng và đã từng chuyển ngữ nhiều tác phẩm của văn học Ba Lan ra tiếng Việt.
Tiểu thuyết được Janusz Leon Wisniewski bắt đầu bằng một cuộc tự tử không thành, từ đó những diễn tiến cứ cuộn xoắn lại, với những tuyến nhân vật đan cài vào nhau. Nhân vật là những nhà khoa học trẻ tài năng, và những phụ nữ vô cùng đặc biệt. Jakub với ba mối tình, ba mảng đời như ba cõi nhân sinh lồng vào nhau trong một đời người. Những gặp gỡ, những bùng nổ, những khám phá dây chuyền khẳng định cuộc sống là cả một bí ẩn to lớn, không ai có thể tiên lượng những gì của tương lai, ngay những người thông minh tài giỏi nhất.
Natalia, cô gái câm. Tình yêu không cần đến tiếng nói lại dạy cho Jakub thứ ngôn ngữ giúp anh khám phá phần tốt đẹp nhất trong cuộc sống và nhìn thế giới người một cách cao cả hẳn lên. Jennifer, bằng thân xác đã ào ạt chiếm cứ mọi thứ, kể cả nghệ thuật, nhưng hoàn toàn không đủ mãnh lực để ôm giữ những gì muốn có, kể cả người đàn ông cô say mê. Christiane, người chỉ định nhờ một kẻ ẩn danh trong thế giới ảo giúp trút bỏ những gì không thể giải quyết trong đời thật: những điều bất như ý trong quan hệ vợ chồng mà bất cứ người đàn bà nào cũng nhận biết nhưng không đủ khả năng và quyết tâm để thay đổi. Rất từ từ, thế giới ảo trở thành phần quyết định trong cuộc đời cô, không dành cho cô khoảnh khắc nào nữa để sống trong thế giới thật.
Bởi vì dù họ chỉ nói với nhau "về Chúa, về tiền nong, về thời tiết ở Warszawa..., về internet, về gien và chromosom.., về âm nhạc, về sự suy tàn của triết học, về toán học...", thì cuối cùng, vẫn không thể tránh được con đường dẫn đến nhục thể, bởi họ đều nhận ra rằng: "Có thể quan trọng nhất không phải là muốn cùng ai lên giường, mà là muốn sáng mai cùng ai dậy và pha trà cho nhau". Và vì thế cô sợ: "Cô không muốn bất cứ một tình yêu nào. Tình yêu chứa trong nó sự đau khổ… Mà họ thì chia tay nhau hằng ngày... Em CHỈ LÀ ảo. Em không có gì chung với các thiên thần. Em là người đàn bà hư hỏng, tội lỗi...". Đó là sự dày vò về phía cô. Còn phía anh: "Anh muốn cô chỉ nghĩ đến anh khi trải qua niềm vui, khi đưa ra những quyết định, khi xúc động hay mơ mộng... Anh muốn cô nghĩ đến anh khi chọn đồ lót, son môi, nước hoa, hay màu nhuộm tóc... Anh muốn là ý nghĩ duy nhất của cô mỗi sáng khi thức dậy và mỗi tối khi chìm vào giấc ngủ...".
Thế giới nội tâm của các nhân vật cực kỳ phức tạp. Vây quanh Jakub và Christiane là cả một vũ trụ người thẳm sâu bí ẩn từ trong nguồn cội, hay trong từng hành động hằng ngày. Mối tình bị chà đạp giữa cha Andreiz và dì phước Anastazia; quan hệ đầy vẻ kỳ quặc giữa Jim - kẻ buôn ma túy và Kimberley - con gái nhà giải phẫu nổi tiếng; khát khao yêu đương và hạnh phúc của Alicja và Asia... Ngay Jakub cũng từng bị cocainei lôi cuốn không chỉ một lần, Jakub - nhà khoa học mà "sự khát khao được thán phục và sự khát khao đàn bà gây nên trong anh những phản ứng y như nhau", Jakub với cái nhìn về quan hệ giữa hai dân tộc Ba Lan - Đức, là "Thực ra thì toàn bộ lịch sử cũng chỉ là một bản thỏa thuận… Người ta thỏa thuận rằng sẽ dạy về chính sự dối trá này chứ không phải sự dối trá khác…". Cùng với Christiane, Jakub đã hiểu ra rằng "Thực tại ảo không thể nào cũng "đầy rẫy những cám dỗ" như ngoài đời thực được. Cái thực tại ảo ấy nhiều cám dỗ hơn nhiều".
Và vì thế, cuối cùng họ không thể cưỡng lại việc bước ra khỏi thế giới ảo để tìm đến nhau trong thế giới thật, bằng con người xương thịt của mình chứ không phải chỉ là những nickname trên đường truyền Internet. Đoạn kết của tiểu thuyết khá bất ngờ và hình như khá phi lý. Người đàn bà như Christiane lẽ đâu lại dễ dàng quay về ngôi nhà cũ với mối quan hệ nhàm chán, tiếp tục chịu đựng những thất bại hiển nhiên trong đời sống vợ chồng, cho dù đã có sự xuất hiện của đứa con. Những gì Janusz Leon Wisniewski đã mở ra ở phần đầu cho phép người ta hy vọng một hồi kết có ý nghĩa phủ định mạnh hơn, xứng đáng với cả tác giả lẫn nhân vật của ông.


Bình luận

@Aqua: đúng là cái kết k thõa mãn,n như thế mới hợp lý,như thế mới khiến ng đọc nhớ lâu. K tin đọc cưỡng cơn gió bấc sẽ thấy cái kết HE n lại hụt hẫng   Đăng lúc 11-12-2011 08:14 PM
Giống như chuyến tàu đi qua nhà ga ở Berlin đó, có lẽ 1 ngày đứng đó thì sẽ nhớ đôi chút, nhưng ko thích cái kết  Đăng lúc 11-12-2011 07:22 PM
@Aqua: giờ cảm xúc còn không nàng, ta đang *đắm chìm* đây :D  Đăng lúc 11-12-2011 06:54 PM
Cuốn này mình cũng đọc gùi nàng à, vs bao nhiu là xúc cảm trộn lẫn, cách đây khoảng 1 năm  Đăng lúc 11-12-2011 06:51 PM
@Kurt: nhớ nhé, thế là tớ lại có động lực để *đẩy nhanh tiến độ* lên một bậc rồi :))  Đăng lúc 11-12-2011 04:14 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 11-12-2011 15:52:05 | Chỉ xem của tác giả
Chương 1

Chín tháng trước...
Thềm ga cạnh đường tầu số bốn ở sân ga số mười một của ga Berlin Lichtengerg là nơi có nhiều vụ lao xuống đường tàu tự vẫn nhất. Đó là thống kê chính thức và chi tiết theo đúng kiểu Đức đối với tất cả các nhà ga của Berlin. Với lại có thể nhận thấy điều đó nếu ngồi trên ghế chờ trên đường số bốn ở sân ga mười một. Đường ray ở đấy bóng loáng hơn nhiều so với những chỗ khác. Những cú phanh khẩn cấp luôn luôn xảy ra để lại khá lâu những đường ray nhẵn bóng. Ngoài ra, cái nền bê tông xám xỉn và bẩn thỉu trên toàn bộ chiều dài của sân ga có nhiều chỗ sáng hơn hẳn - đôi chỗ gần như trắng. Ở những chỗ này nhân viên nhà ga đã phải dùng những chất tẩy mạnh để rửa những vệt máu từ những cơ thể bị thương hay bị tàu nghiến đứt của những kẻ tự vẫn.
Lichtenberg là một trong những ga xa nhất của ngoại vi Berlin, thêm vào đó, là ga ít được quan tâm nhất. Tước bỏ cuộc sống của mình ở ga Berlin Lichtenberg, người ta cảm thấy như bỏ lại phía sau cái thế giới bằng vữa đã bong tróc, xám xịt, bẩn thỉu và sặc mùi nước đái chen chúc những con người hối hả, buồn bã hay thậm chí thất vọng. Bỏ lại vĩnh viễn một thế giới như vậy dễ hơn nhiều.
Lối vào theo những bậc thang đá lên sân ga số mười một là lối vào cuối cùng trong đường ngầm giữa phòng vé và trạm biến thế. Đường tàu số bốn là đường tàu xa nhất của nhà ga. Nếu chợt nảy ra ý đồ tự vẫn ở phòng vé của nhà ga Berlin Lichtenberg bằng cách lao vào đoàn tàu, thì việc đi lên đường tàu số bốn ở sân số mười một sẽ kéo dài cuộc sống lâu hơn cả. Do đó mà hầu như bao giờ những người tự vẫn cũng chọn đường tàu số bốn ở sân ga số mười một.
Trên thềm ga cạnh đường tàu số bốn có hai cái ghế gỗ chi chít những chữ grafitô được khắc bằng dao được gắn xuống nền bê tông bằng những cái đinh vít cực to. Một người đàn ông gầy còm, hôi hám ngồi trên cái ghế gần cửa xuống đường ngầm. Ông ta sống trên đường phố đã nhiều năm nay. Người run rẩy vì rét và sợ. Ông ta ngồi, hai chân vặn vẹo một cách không bình thường, tay đút vào túi áo khoác vinilon sờn bẩn với nhiều chỗ dán bằng băng dính vàng có dòng chữ Just do it. Ông ta hút thuốc lá. Trên ghế, mấy vỏ lon bia và một cái vỏ chai rượu lăn lóc cạnh ông ta. Cạnh ghế là cái túi nilon quảng cáo của mạng Aldi mà màu vàng của nó đã bị bong từ lâu, trong đó chứa toàn bộ tài sản của ông. Một cái chăn len thủng lỗ chỗ, vài cái ống tiêm, một hộp đựng thuốc sợi, một gói nhỏ giấy cuốn thuốc lá, một cuốn album ảnh đám tang đứa con trai, một cái mở đồ hộp, một bao diêm, hai bọc nhỏ methadone (1), một cuốn sách của Remarque đầy vết cà phê và máu. Một cái ví da sờn cũ kỹ với những tấm ảnh của một phụ nữ trẻ đã ố vàng, sờn, bằng đại học và một giấy chứng nhận không có tiền án tiền sự. Buổi tối hôm ấy, người đàn ông đã ghim vào một trong số những tấm ảnh của người phụ nữ trẻ một bức thư và một tờ 100 mác.
Lúc này ông ta chờ chuyến tàu từ Berlin ZOO đi Angermuede. Mười hai phút sau nửa đêm. Chuyến tàu tốc hành với những chỗ dự phòng bắt buộc và toa Mitropa cạnh mấy toa hạng nhất. Chuyến tàu này không bao giờ dừng ở ga Lichtenberg. Nó chạy rất nhanh qua đường tàu số bốn và mất hút vào bóng đêm. Đoàn tàu có khoảng hai mươi toa. Về mùa hè thậm chí còn nhiều toa hơn. Người đàn ông biết điều này đã lâu. Ông ta đã nhiều lần đến đây chờ nó.
Người đàn ông sợ hãi. Song nỗi sợ hôm nay hoàn toàn khác. Nó tổng hợp, được biết đến rộng rãi, được đặt tên và được nghiên cứu kỹ. Ông biết rất rõ mình sợ cái gì. Tồi tệ nhất là sợ một cái gì đó không thể gọi tên. Với nỗi sợ không tên thì những ống tiêm cũng chẳng ích gì.
Hôm nay ông đến đây lần cuối cùng. Sau đó sẽ chẳng bao giờ còn phải cô đơn nữa. Không bao giờ. Cô đơn là điều tồi tệ nhất. Ông ngồi đợi chuyến tàu này một cách bình thản, hài lòng với bản thân. Có thể nói là vui sướng nữa.
Trên cái ghế thứ hai, ở đằng sau kiốt bán báo và đồ uống, một người đàn ông khác đang ngồi. Thật khó mà xác định tuổi của anh ta. Chừng ba bảy, bốn mươi tuổi. Da rám nắng, thơm mùi nước cạo râu đắt tiền, mặc một cái áo vét len đen, quần hiệu sáng màu, chiếc sơ mi màu ôliu không cài cúc và thắt cravát màu xanh lá cây. Một chiếc vali kim loại dán đầy nhãn của các hãng hàng không để cạnh ghế. Anh ta bật chiếc máy tính vừa lấy ra từ cái túi da màu đen, nhưng lại đặt ngay sang bên cạnh. Màn hình máy tính nhấp nháy trong bóng tối. Kim đồng hồ trên sân ga đã bỏ qua con số mười hai. Bắt đầu ngày chủ nhật, ba mươi tháng tư. Người đàn ông gục đầu vào lòng bàn tay. Nhắm mắt. Khóc.
Người đàn ông ở cái ghế cạnh lối lên xuống đứng dậy. Với cái túi quảng cáo nhựa, ông ta kiểm tra lại bức thư và tiền trong ví, cầm một lon bia đen và đi về phía cuối thềm ga, ngay cạnh xêmapho (2). Ông đã nhắm cho mình chỗ này từ lâu. Khi đi qua kiốt bán đồ uống, ông nhìn thấy anh. Ông không ngờ lại có ai đó trên sân ga số mười một vào sau nửa đêm này. Bao giờ ông cũng ở đây một mình. Một nỗi bất an khác với sự sợ hãi bao trùm lấy ông. Sự có mặt của người thứ hai này làm hỏng toàn bộ kế hoạch của ông. Ông không muốn gặp bất cứ ai trên đoạn đường đến hết thềm ga. Hết thềm ga... Đó thực sự là hết.
Ông bỗng cảm thấy muốn chia tay với người kia. Ông đi đến chỗ cái ghế. Dịch cái máy tính ra, và ngồi cạnh anh.
- Ông bạn, uống với tôi một ngụm bia chứ? Ngụm cuối cùng. Uống chứ? - Ông hỏi, chạm tay vào đùi anh ta và đưa lon bia về phía anh ta.
ANH: Đã quá nửa đêm. Anh cúi đầu và thấy không thể giữ nổi những giọt nước mắt. Đã lâu rồi anh không cảm thấy cô đơn như vậy. Chỉ tại cái sinh nhật này. Từ mấy năm nay, cô đơn như một cảm giác hiếm khi chạm phải anh trong cái nhịp sống thường nhật điên cuồng. Người ta chỉ cô đơn khi có thời gian cho nó. Anh không có thời gian. Anh cần mẫn tổ chức cuộc sống của mình sao cho không còn thời gian. Những dự án ở Munich, ở Mỹ, làm tiến sĩ khoa học, và những bài giảng ở Ba Lan, hội thảo khoa học, các bài công bố. Không, trong tiểu sử của anh thời gian gần đây không có những quãng nghỉ cho suy ngẫm về nỗi cô đơn, cho sự uỷ mỵ và yếu đuối như anh đang cảm thấy lúc này, ở đây. Ở đây, ở cái nhà ga trống trải xám xịt này, bị trừng phạt bằng cách không có gì để làm, anh không thể làm một cái gì khác để quên, và cô đơn ập đến như một cơn hen. Việc anh ở đây và có quãng nghỉ không hề kế hoạch trước này chỉ là một sự nhầm lẫn. Sự nhầm lẫn thông thường, phi lý, vô nghĩa. Giống như một lỗi in. Trước khi hạ cánh ở Berlin Hegel, anh đã kiểm tra giờ tàu trên Internet và không để ý là tàu từ Berlin Lichtenberg đi Warszawa chỉ chạy vào các ngày làm việc. Mà thứ bẩy thì vừa kết thúc trước đây một lúc. Thậm chí anh có quyền không để ý đến điều đó. Khi ấy là buổi sáng và trước mắt anh là hơn chục giờ bay từ Seattle, một chuyến bay khép lại một tuần làm việc không kịp thở.
Sinh nhật vào nửa đêm tại ga Berlin Lichtenberg. Một cái gì đó thật khó tin. Phải chăng anh có mặt ở đây vì một sứ mệnh nào đấy?! Chỗ này có thể là địa điểm cho một cảnh phim, nhất thiết phải là đen trắng, về sự vô nghĩa, ảm đạm và nỗi đau của cuộc đời. Anh dám chắc rằng trong khoảnh khắc như thế này, Wojaczek có thể viết nên bài thơ thê lương nhất của mình.
Sinh nhật. Anh đã ra đời như thế nào nhỉ? Việc ấy đã xảy ra như thế nào? Mẹ anh đã đau ra sao? Mẹ đã nghĩ gì trong cơn đau ấy? Chưa bao giờ anh hỏi mẹ về điều này. Mà tại sao anh lại chưa hề hỏi? Chỉ đơn giản: "Mẹ ơi, lúc sinh con, chắc mẹ đau lắm phải không?"
Giờ đây anh muốn biết điều đó, thế mà khi mẹ còn sống anh lại không nghĩ đến.
Bây giờ thì mẹ không còn nữa. Và những người khác cũng không. Tất cả những người quan trọng nhất, những người mà anh yêu thương, đều đã chết. Bố mẹ, Natalia... Anh không còn ai. Không còn ai quan trọng. Anh chỉ có những dự án, hội thảo, những thời hạn, tiền và đôi khi sự ghi nhận. Nói chung, ai là người nhớ rằng hôm nay là sinh nhật của anh? Điều này có ý nghĩa với ai? Ai quan tâm tới chuyện này? Liệu có ai đó nghĩ tới anh trong ngày hôm nay? Và khi đó nước mắt cứ trào ra, những giọt nước mắt mà anh không kịp ngăn lại.
Anh bỗng thấy bị huých một cái.
- Ông bạn, uống với tôi một ngụm bia chứ? Ngụm cuối cùng. Uống chứ? - Anh nghe thấy một giọng khàn khàn.
Anh ngẩng đầu. Cặp mắt đỏ ngầu, hốt hoảng trên cái trán to của một khuôn mặt gầy guộc, lởm chởm râu và đầy vết thương nhìn anh cầu khẩn. Bàn tay run rẩy của người đàn ông ngồi bên chìa ra lon bia. Người đàn ông để ý thấy những giọt nước mắt của anh, bèn ngồi dịch ra và nói:
- Nghe này ông bạn, tôi không muốn làm phiền ông. Không muốn, thật đấy. Tôi cũng không thích có ai đó xen vào khi mình đang khóc. Tôi đi ngay đây. Cần được khóc trong yên tĩnh. Chỉ khi đó người ta mới có được niềm vui.
Không muốn cho ông ta đi, anh liền túm lấy cái áo khoác. Cầm lon bia từ tay ông ta và nói:
- Bác có làm phiền gì đâu. Bác nghe này, thậm chí bác không biết là tôi rất muốn uống với bác. Sinh nhật tôi đã được mấy phút rồi. Bác đừng đi. Tôi tên là Jakub.
Và anh bỗng làm cái mà vào thời điểm ấy anh cho là hết sức tự nhiên, cái mà anh không thể cưỡng lại được. Anh kéo người đàn ông nọ lại gần và ôm ông. Tựa đầu lên bờ vai được che bằng cái áo khoác vinilon đã sờn. Họ cứ để nguyên như thế một lúc, lòng cảm thấy một cái gì đó trang nghiêm. Sự yên tĩnh bị phá vỡ bởi đoàn tàu ầm ầm lướt qua cái ghế mà hai người đang ngồi ôm nhau. Lúc ấy người đàn ông co người lại như một đứa trẻ hoảng sợ, nép sát vào anh và nói gì đó nhưng bị tiếng lọc cọc của bánh tàu át đi. Sau giây lát, anh cảm thấy xấu hổ. Người nọ chắc cũng cảm thấy thế nên đột ngột dịch ra, đứng dậy không nói một lời và đi về phía lối xuống đường ngầm. Ông ta dừng lại bên một cái sọt rác bằng kim loại, lôi tờ giấy trong cái túi nhựa ra, vò nát rồi ném vào sọt rác. Một lát sau, ông ta biến mất trong đường ngầm.
- Chúc mọi sự tốt lành nhân ngày sinh, Jakub - anh nói to và uống nốt lon bia mà người đàn ông nọ để bên cạnh chiếc máy tính đang nhấp nháy.
Đó là một phút yếu lòng. Một cơn loạn nhịp tim, nó đã qua đi. Anh ngồi thẳng người trên ghế. Với cái túi để lấy điện thoại di động. Rút tờ báo Berlin mua ban sáng để tìm phần quảng cáo của các hãng taxi. Anh bấm số. Rồi cất máy tính và kéo vali lọc cọc qua những ổ gà trên sân ga đi về phía đường ngầm ra phòng vé và ra phố.
Mọi cái đã diễn ra như thế nào nhỉ? Ông ta đã nói gì? "Cần được khóc trong yên tĩnh. Chỉ khi đó người ta mới có được niềm vui..."
CÔ: Đã lâu lắm rồi không có một người đàn ông nào cố gắng như vậy để cô có được tâm trạng như thế này, cô cảm thấy mình hấp dẫn và đang có thứ đồ uống tốt nhất trong cốc.
- Chẳng có ai phủ nhận là Cô bé quàng khăn đỏ đã có một tuổi thơ đặc biệt u buồn. Những cô em cùng cha khác mẹ xấu xa, công việc nặng nhọc quá sức và mụ dì ghẻ khủng khiếp. Ngoài việc em bị ngộ độc vì moi tàn thuốc ra khỏi cái gạt tàn, em thậm chí không có cả kênh MTV - người đàn ông ngồi đối diện cô trong quầy bar nói và bật cười.
Anh ta ít hơn cô mấy tuổi. Có lẽ chưa quá hai nhăm. Đẹp trai. Lịch sự một cách hoàn hảo. Đã lâu cô không nhìn thấy một người đàn ông ăn mặc hài hoà đến vậy. Chính thế. Hài hoà. Anh ta cũng tao nhã như bộ quần áo đặt may rất đẹp của mình. Tất cả nơi anh ta đều hoà hợp với nhau. Mùi nước cạo râu hợp với màu cravát, màu cravát hợp với màu đá của những chiếc gài măng-sét vàng của cái áo sơ mi xanh thẫm sạch bong. Những chiếc gài măng-sét vàng - bây giờ còn ai dùng những chiếc gài măng-sét ấy nữa nhỉ? - bằng kích thước và tông màu của mình hợp với cái đồng hồ vàng anh ta đeo nơi cổ tay phải. Còn đồng hồ thì hợp với từng thời điểm trong ngày. Lúc này, buổi tối, đến cuộc gặp với cô tại quán bar, anh ta đeo chiếc đồng hồ mặt chữ nhật lịch sự với cái quai da thanh mảnh đồng màu với quần áo. Buổi sáng, trong cuộc họp ở trụ sở của công ty tại Berlin anh ta mang một chiếc roleks nặng, trang nghiêm. Ngoài ra buổi sáng anh ta còn có mùi thơm khác. Cô biết rõ điều này vì cô đã chủ ý đứng dậy và nghiêng người ngay trên đầu anh ta để lấy chai nước khoáng, mặc dù cô có cả một khay với đủ các loại nước để ngay trước mặt.
Cô ngắm kỹ anh ta suốt buổi sáng. Anh tên Jean và là người Bỉ ở "vùng tuyệt đối Pháp của Bỉ", như anh ta nhấn mạnh. Cô không biết vùng Pháp của Bỉ thì khác vùng Flemish những gì, nhưng cô giả thiết rằng rõ ràng là người thuộc vùng Pháp thì có quyền tự hào hơn.
Như sau đó cho thấy, Jean không chỉ là sự hấp dẫn nhất của cái rạp xiếc Berlin này đối với cô. Người ta lôi kéo họ từ khắp Châu Âu đến trung tâm ở Berlin để nói rằng thực ra thì họ chẳng có gì để nói cả. Từ một năm nay, cô tham gia vào dự án cùng với một tương nhiệm Bỉ của họ, ở Ba Lan thì dự án này không thể thành công được. Những thiết bị mà họ muốn bán đơn giản là không phù hợp với thị trường Ba Lan. Thật khó mà bán được kém kéo dài tác dụng phơi nắng cho người Eskimo. Kể cả nếu đó là loại kem chất lượng tốt nhất.
Nói chung là cô không muốn đến đây và làm tất cả để đẩy chuyến đi này cho người khác của ban. Từ lâu hai vợ chồng cô đã lên kế hoạch đi Karkonosz, cô dừng lại ở Praha. Nhưng đã không thành. Theo yêu cầu rất rõ ràng của Berlin thì chính cô phải đi. Thêm vào đó, phải đi tàu hoả, bởi để chuyến đi Berlin của cô nhìn chung có ý nghĩa, thì trước hết cô phải qua chi nhánh của công ty ở Poznan một ngày.
Đi ở đây, từ Warwaszaw - thời gian gần đây cô căm thù việc đi lại bằng tàu hoả - cô có rất nhiều thời gian để chuẩn bị một chiến lược cho phép cô khuyên ngăn trung tâm đừng làm dự án này. Song Jean, cái anh chàng người Bỉ với những chiếc gài măng-sét tay áo có lẽ hợp với cả thời tiết ấy, đã thuyết phục tất cả mọi người rằng "thị trường Ba Lan tự họ chưa biết là họ cần những thiết bị ấy" và rằng anh ta "có một ý tưởng cực kỳ đơn giản khiến cho thị trường Ba Lan biết được điều đó". Sau đó suốt một giờ liền với phim đèn chiếu, anh ta nói về "ý tưởng cực kỳ đơn giản" của mình.
Suýt nữa thì cô đã nói về điều đó trong vòng mười lăm phút mà là nói bằng thứ tiếng Anh tốt hơn nhiều, thêm vào đó chẳng có cái gì - ngoại trừ tấm bản đồ Ba Lan - trên những tấm phim đèn chiếu của anh ta nói lên sự thật. Nhưng điều này chẳng tạo nên một ấn tượng nào đặc biệt cho bất kỳ ai ngoài cô. Có thể thấy rất rõ là bà giám đốc ở Berlin đã có quyết định trước cả phần trình bày. Cả cô cũng đã quyết định trước phần trình bày. Vấn đề là ở chỗ, những quyết định đó hoàn toàn khác nhau. Nhưng làm sao mà bà giám đốc lại có thể nhất trí với cô được? Liệu một người đẹp trai một cách quyến rũ như vậy, nói tiếng Anh với kiểu trọng âm Pháp mê hồn như vậy lại có thể nhầm lẫn? Bà giám đốc nhìn anh chàng người Bỉ đang thao thao những điều nhảm nhí qua những tưởng tượng màu mè như nhìn một gã kẻng trai đang sắp sửa cởi bỏ quần áo. Một trường hợp nặng của mãn kinh. Nhưng biết làm sao được, sự cám dỗ chắc chắn đáng, theo bà giám đốc, với đồng tiền bát gạo của các cổ đông. Ngoài ra, bao giờ cũng có thể thuyết phục những người Eskimo rằng có thể tắm nắng cả trong đêm dài bắc cực. Trong những tia bức xạ vũ trụ. Và chắc chắn mấy thứ kem kia sẽ có ích cho họ.
Sau Jean là đến lượt cô. Bà giám đốc thậm chí không chờ cho đến lúc phần trình bày của cô kết thúc. Bà ta đi ra, cô thư ký gọi bà ra nghe điện thoại. Bằng cách đó, tất cả mọi người hiểu rằng không cần phải nghe cô. Họ đồng loạt cúi đầu trên bàn phím của những chiếc máy tính xách tay và lo vào mạng. Thực ra thì cô có thể đọc thơ hoặc kể chuyện tiếu lâm bằng tiếng Ba Lan - đằng nào thì họ cũng chẳng để ý đến chuyện đó. Chỉ có anh chàng người Bỉ, khi cô kết thúc phần trình bày của mình, anh ta đứng trước mặt cô và nói với nụ cười xoa dịu:
- Chị là một kỹ sư đẹp nhất mà tôi từng biết. Thậm chí nếu chị không có lý thì tôi vẫn hồi hộp nghe chị nói với sự tập trung cao độ nhất.
Khi cô với cái túi để chỉ cho anh ta những tính toán của mình, anh ta nói thêm:
- Chị có thể khiến tôi tâm phục khẩu phục vào buổi tối nay tại quầy bar trong khách sạn của chúng ta được không? Vào khoảng mười giờ chẳng hạn?
Cô nhận lời không đắn đo. Thậm chí cô không thử gây khó dễ bằng bất cứ một lý do bịa đặt nào kiểu như tối nay cô rất bận. Tất cả những gì chính thức có thể làm vào buổi tối thì đã được làm. Tàu đi Warszawa sáng mai cô mới có, lúc gần trưa. Hơn nữa cô cũng muốn cho dù chỉ một lần gặp tay người Bỉ này mà không có bà giám đốc Berlin của họ.
Lúc này, ở đây, trong quầy bar của khách sạn, cô mừgn vì ban sáng đã không phản đối quá quyết liệt về vấn đề trong dự án này. Anh chàng người Bỉ quả rất hấp dẫn. Rõ là anh ta thường xuyên lui tới khách sạn này. Anh ta nói với người chạy bàn bằng tiếng Pháp - hệ thống khách sạn Mercure mà công ty theo thông lệ vẫn thường đặt chỗ cho họ, là của người Pháp nên nhân viên nói bằng tiếng Pháp - và thấy rõ là họ có vẻ thân thiết với nhau.
Bây giờ, khi dự án được hoãn đến năm tới thì cô sẽ có cơ hội để gặp anh ta thường xuyên hơn. Cô thích anh ta. Cô nghĩ đến điều này khi nhìn anh ta gọi thêm đồ uống. Khi người chạy bàn mang đến những cái cốc đầy bọt màu tùng lam mà cô chưa hề nhìn thấy và những cái tên Pháp kỳ cục, anh chàng người Bỉ ghé mặt sát vào mặt cô.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 11-12-2011 15:56:28 | Chỉ xem của tác giả
Lâu lắm rồi tôi không bắt đầu ngày chủ nhật với một người hấp dẫn như thế này. Đã quá nửa đêm. Chúng ta đang có ngày ba mươi tháng tư - anh ta nói rồi chạm nhẹ cái cốc vào tay cô và môi anh chạm nhẹ lên tóc cô.
Như có một luồng điện chạy qua. Đã từ lâu cố không có cái cảm giác tò mò muốn biết cái gì sẽ đến tiếp theo. Cô có nên để anh cho tóc cô vào miệng? Cô có quyền được tò mò như vậy không? Cô thực sự muốn điều gì xảy ra tiếp theo đây? Cô, vợ của một người đàn ông đẹp trai mà tất cả các cô bạn của cô phải ghen tị. Cô có thể đẩy xa hơn bao nhiêu, để cảm thấy một cái gì đó nhiều hơn sự run rẩy đã bị quên lãng từ lâu này, khi lại có một người đàn ông hôn lên tóc cô mà mắt thì khép lại? Chồng cô đã từ lâu rồi không hôn tóc cô và... có thể biết trước là sẽ thật kinh khủng.
Thời gian gần đây cô rất hay nghĩ đến điều này. Nói chung là không cảm thấy yên tâm lắm. Không, không phải mọi cái đã trở nên nhàm chán. Không đến mức như vậy. Nhưng đã không còn cái háo hức ấy nữa. Anh nhao nhác đâu đó trong cái thường nhật. Mọi cái đã nguội lạnh. Thỉnh thoảng lại được hâm nóng lên chốc lát. Vào đêm đầu tiên khi cô hoặc anh trở về sau một chuyến đi dài, sau những giọt nước mắt và cuộc cãi lộn mà họ quyết định chấm dứt ở trên giường, sau khi đã uống rượu hoặc sau những chiếc lá thơm được đốt trong các bữa tiệc, trong một đợt đi nghỉ trên những chiếc giường lạ, những sàn nhà lạ, cạnh những bức tường lạ hoặc những chiếc ô tô lạ.
Chuyện đó thường xảy ra. Cứ cho là vẫn có. Nhưng thiếu sự hoang dại ấy. Sự hờn dỗi của thuở ban đầu ấy. Sự không bão hoà ấy. Cái đói ấy, cái đói mà chỉ cần nghĩ tới nó là máu đã sục sôi chảy xuống phía dưới như điên và cái ướt xuất hiện như được triệu tập. Không! Điều này đã không có từ lâu rồi. Cả sau những ly vang, cả sau những chiếc lá thơm, thậm chí cả ở bãi đỗ xe bên đường cao tốc mà anh đến đó vào một đêm khi họ trở về từ một bữa tiệc nào đó và không để ý rằng họ đi quá nhanh, cô đã cúi đầu - do tác dụng như thế nào đó của âm nhạc phát ra từ chiếc radio - dưới tay anh đang cầm vôlăng và cởi thắt lưng quần anh.
Điều đó chắc chắn là do sự sở hữu ấy. Tất cả đều ở trong tầm tay. Chẳng cần phải vận động vì bất cứ cái gì. Biết từng sợi tóc của nhanh, từng mùi có thể có, từng vị có thể có của da thịt, khô hay ẩm. Biết mọi ngóc ngách của cơ thể nhau, nghe thấy từng hơi thở, đoán trước mọi phản ứng và đã từ lâu rồi tin vào mọi lời tỏ tình. Một số điều đôi khi lặp lại. Nhưng đã không còn gây ấn tượng. Đơn giản là chúng nằm trong kịch bản.
Gần đây cô thấy như đối với chồng cô, "chuyện ấy" cùng với cô mang trạng thái - làm sao mà ý nghĩ như vậy lại chui vào đầu cô được nhỉ?! - của một buổi đọc kinh. Đơn giản là anh lắp ráp, không phân vân trước bất cứ chuyện gì và thế là được yên thân suốt cả tuần.
Hay là ai cũng thế? Liệu có thể đòi hỏi một cái gì đó hoang dại khi đã biết nhau từ bao nhiêu năm nay và khi nhìn thấy anh quát tháo, nôn mửa, ngáy, đi tiểu và để lại cái bồn cầu dơ bẩn?
Hay điều đó không đến nỗi quan trọng như vậy? Có thể nó chỉ cần thiết cho thời gian đầu? Có thể quan trọng nhất không phải là muốn cùng ai lên giường, mà là muốn sáng mai cùng ai dậy và pha trà cho nhau?
- Tôi đã làm điều gì không phải chăng? - Jean bứt cô ra khỏi dòng suy nghĩ.
- Tôi chưa thể biết được - cô trả lời với nụ cười gượng gạo - Xin lỗi anh, tôi ra ngoài một lát sẽ quay lại ngay.
Trong phòng vệ sinh, cô lấy thỏi son từ ví xách tay ra. Nhìn vào gương và nói với chính mình:
- Ngày mai mày còn có cả một chặng đường dài trước mắt đấy.
Cô tô lại môi.
- Và mày còn có cả chồng nữa - cô nói thêm, tay dứ dứ vào hình ảnh trong gương.
Cô ra khỏi toilet. Đi qua lễ tân, cô nghe thấy một người đàn ông nào đó, đứng quay lưng lại phía cô, đang đánh vần tên cho người trực:
- J-a-k-u-b...
Cô không còn thấy tò mò điều gì "sẽ xảy ra tiếp theo" nữa. Cô nhớ chồng. Cô đi đến quầy bar, chỗ người đàn ông đang chờ mình. Cô kiễng chân và hôn lên má anh ta.
- Anh đã không làm điều gì không phải cả. Ngược lại là đằng khác.
Cô lấy từ trong ví xách tay ra tấm danh thiếp và ấn mạnh mặt trái không có chữ lên đôi môi bóng vì vừa được tô lại. Cô để tấm danh thiếp lên mặt quầy bar, cạnh cái cốc của mình còn đầy cái thứ nước màu tùng lam.
- Chúc ngủ ngon - cô khẽ nói.

ANH: Người lái chiếc xe taxi đến ga Berlin Lichtenberg vắng vẻ là một người Ba Lan. Phải đến 30% số lái xe taxi là người Ba Lan.
- Anh đưa tôi đến khách sạn nào có quầy bar, ở gần ga Berlin ZOO và kha khá một tí.
- Thế thì quá dễ ở cái thành phố này - người lái taxi cười vang.
Anh đăng ký ở khách sạn. Trước khi rời khỏi quầy lễ tân anh hỏi:
- Anh có thể gọi tôi dậy một tiếng rưỡi trước lúc chuyến tàu đầu tiên từ ga Berlin ZOO đi Warszawa khởi hành được không?
Người thanh niên trực ở lễ tân ngẩng đầu khỏi đống giấy tờ gì đó và nhìn anh, không hiểu.
- Sao cơ ạ... Một tiếng rưỡi? Tàu nào ạ? Nghĩa là lúc mấy giờ?
Anh điềm đạm trả lời:
- Anh thấy đấy, tự tôi cũng không biết chính xác. Nhưng các anh đã viết rất cảm động trong quảng cáo của khách sạn - anh chỉ vào tờ quảng cáo nằm cạnh hộ chiếu của anh - rằng Mercure không chỉ là mái nhà bình yên trên đầu bạn trong chuyến đi, nó còn là chuyến đi. Vậy anh hãy gọi điện ra ga, hỏi xem mấy giờ có tàu đi Warszawa và gọi tôi dậy chính xác chín mươi phút trước giờ tàu chạy. Tôi cũng rất cám ơn nếu anh đặt trước hộ taxi. Tôi muốn ra ga một tiếng trước giờ tàu chạy.
- Vâng, tất nhiên... - người trực lễ tân bối rối trả lời.
- Anh cho phép tôi chưa lên phòng mà gửi đồ ở đây chứ. Bây giờ tôi muốn tiêu thật nhiều tiền trong quầy bar của các anh. Anh sẽ trông coi để hành lý của tôi được an toàn trong thời gian đó, phải không?
Không đợi câu trả lời, anh đặt cái túi da đựng laptop lên vali rồi đi về phía cửa có tiếng nhạc phát ra từ đó.
Tiếng nhạc êm dịu phát ra từ những chiếc loa tròn gắn trên trần của gian phòng ồn ào. Natalie Cole hát về tình yêu. Anh nhìn quanh. Chỉ có một cái bàn nhỏ hình elip nhô cao cạnh quầy bar là còn trống. Lúc đến đó, nhìn thấy chiếc cốc đang uống dở, anh thất vọng. Anh định đi vì cho rằng chỗ đó đã có người ngồi. Đúng lúc đó người đàn ông ngồi bàn bên ngoảnh lại và nói bằng tiếng Anh:
- Chỗ đó rất tiếc là đã trống rồi. Anh có thể ngồi nếu muốn. - Và anh ta nhìn anh cười, nói thêm - Đó là một chỗ tốt đấy. Người chạy bàn rất hay đến đây.
Anh ngồi và cảm thấy ngay có mùi nước hoa tinh tế. Lancôme? Biagioti? Anh nhắm mắt lại. Có lẽ là Biagioti.
Từ lâu anh đã thích mùi nước hoa. Chúng như một bức thông điệp mà người ta muốn truyền đạt. Mà không cần đến bất cứ một ngôn ngữ nào. Có thể là người khiếm thính, có thể từ một nền văn hoá khác mà vẫn hiểu được thông điệp ấy. Trong nước hoa có một thành phần nào đó bí ẩn và phi lý. Chanel No5, L''Air du Temps hay Poeme giống như bài thơ khi người ta mang nó trên mình. Một số loại thì sexy một cách không chuẩn. Chúng buộc người ta phải ngắm, thậm chí thèm muốn người phụ nữ dùng chúng. Anh nhớ hồi anh đến thăm Prado hai năm trước đây. Có một phụ nữ đội mũ đen đi qua anh và đã phủ lên người anh một mùi huyền bí. Anh nhớ đến El Greco, Goi và những loại khác. Anh đi theo người phụ nữ đó. Lúc này anh nghĩ rằng anh cũng sẽ sẵn lòng đi theo người phụ nữ ngồi ở đây lúc nãy và đã để lại mùi của mình.
Anh nghiêng người, tỳ khuỷu tay lên bàn để người chạy bàn mà anh nghe nói là rất hay đến chỗ này chú ý. Lúc đó anh để ý thấy tấm danh thiếp để cạnh cái cốc. Hình đôi môi in rõ trên mặt giấy trắng. Môi dưới rõ ràng là dầy hơn, một hình cung quả quyết của môi trên. Một cái miệng tuyệt đẹp. Natalia có cái miệng đúng như thế này. Anh đưa tấm các lên mũi. Chắc chắn là Biagioti! Nó phải là của người phụ nữ đã ngồi đây vài phút trước. Anh quyết định xác minh xem nó là của ai. Anh lật mặt kia của tấm các lên vừa lúc nghe thấy:
- Xin lỗi anh, nhưng tấm các này là để cho tôi.
- Ồ, tất nhiên rồi. Tôi đang định hỏi anh - anh nói dối và đưa tấm các cho người đàn ông.
Anh đã chậm chân. Anh không biết được tấm các đó là của ai. Người đàn ông cầm tấm các, cất vào túi áo comple, để tiền boa cho người chạy bàn dưới cái ly cà phê rồi đi ra không nói một lời.
- Một chai proseco thật lạnh. Và xì gà. Loại đắt nhất mà anh có - anh nói với người chạy bàn vừa xuất hiện trước mặt.
Mẹ anh cũng có cái miệng như thế. Nhưng tất cả mọi cái của mẹ đều đẹp.
Cái ngày vừa trôi qua, và mấy giờ đồng hồ này theo một nghĩa nào đấy là thuộc về mẹ anh. Và hoàn toàn không phải vì trong ngày sinh của mình, anh đã nghĩ về việc mẹ đã sinh ra anh như thế nào.
Sáng qua anh bay từ Seatle đến Berlin chỉ cốt để cuối cùng được nhìn thấy nơi mà mẹ anh đã ra đời. Thời gian gần đây tiểu sử của bà hấp dẫn anh như một cuốn tiểu thuyết mà anh được tham dự vào một vài chương quan trọng nhất trong đó. Nhất thiết anh phải biết những chương đầu này.
Mẹ anh ra đời ở cách ga Berlin Lichtenberg không xa, trong một nhà thương làm phúc. Ông ngoại trong cơn sức cùng lực kiệt đã đưa vợ đến Berlin với hy vọng là ở đó sẽ tốt hơn cho họ. Bây giờ họ gọi thế nào nhỉ? Dân di tản kinh tế. Vâng. Chính thế. Một tuần sau khi đến Berlin thì bà ngoại đẻ mẹ anh. Trong nhà thương làm phúc. Họ chỉ đưa đến đó những người đẻ rơi ngoài đường. Những người không có tiền. Hôm qua anh đã đến khu nhà ấy. Bây giờ ở đó là một nhà hát thử nghiệm Thổ Nhĩ Kỳ nào đấy.
Sau ba tháng họ quay về Ba Lan. Họ không thể sống ở Đức được. Nhưng chẳng ảnh hưởng gì hết, vì chỉ có ba tháng. Trong giấy khai sinh, sẽ còn lại mãi mãi cái xác nhận lịch sử này: nơi sinh - Berlin. Theo cái cách đơn giản ấy, mẹ anh đã trở thành người Đức. Nhờ đó mà bây giờ anh có hộ chiếu Đức và có thể bay đến Seatle không cần visa. Nhưng dẫu thế anh vẫn bay với hai hộ chiếu. Có lần quên hộ chiếu Ba Lan, anh cảm thấy mình như kẻ không quốc gia.
Bởi anh chỉ có thể là người Ba Lan.
Người chạy bàn mang đến chai proseco xanh thẫm, một cái cốc bạc, xì gà Cu Ba và cái xén giấy nhỏ. Anh châm xì gà và mở chai rượu. Ly đầu tiên anh uống một hơi. Xì gà thật tuyệt. Đã lâu anh không được hút loại xì gà ngon như thế. Từ cái lần ở Dublin. Nhiều năm trước đây.
Anh không thể thôi nghĩ về cuộc đi dạo hôm qua vào quá khứ của mẹ. Bởi tính "Đức" ở bà không chỉ là nhà thương làm phúc ở Berlin thời trước chiến tranh và không chỉ là sự ghi chép ấy trong giấy khai sinh của bà. Nó phức tạp hơn nhiều. Giống như tiểu sử của bà.
Anh sinh vào một ngày ba mươi tháng tư nào đấy, là đứa con thứ ba của người chồng thứ ba của mẹ anh. Trùng vào ngày Jakub. Mọi người đều nghĩ rằng chính vì vậy mà anh có tên là Jakub. Nhưng lại không phải thế. Jakub là tên của người chồng thứ hai của mẹ anh. Một nghệ sĩ Ba Lan, mà năm 1944 trở thành người Đức chỉ vì ông được sinh ra quá về phía tây mất mười hai cây số, mà ở Stalingrad các phòng tuyến cần phải đủ quân. Hồi đó những người Đức đích thực biến tất cả thành ít "Đức" hơn. Ngay sau đó tất nhiên họ sẽ biến những người này thành lính Đức. Khi đó tất cả đều trở thành lính Đức. Những người tàn tật, những người bị tâm thần, bị lao. Thời kỳ đó, tất cả đều có thể và đều phải vào quân đội. Người chồng thứ hai của mẹ không biết điều đó. Ông không thể hình dung cuộc sống mà lại thiếu mẹ anh. Do đó mà trước đợt khám sức khoẻ, đầu tiên ông chủ ý làm cho mồ hôi vã ra rồi chạy chân không trên tuyết ngoài công viên vào ban đêm - ông hy vọng rằng mình sẽ bị lao. Ông lao thật. Nhưng kể cả như thế ông vẫn bị lấy ra mặt trận.
Sau chiến tranh họ không bao giờ tìm thấy nhau. Thậm chí cả tình yêu lớn cũng không giúp được họ. Khi đã thoát khỏi nỗi nhớ và tin rằng chiến tranh đã cướp đi của mình người chồng và rằng đơn giản phải như vậy, thì trong cuộc đời bà xuất hiện cha anh, cha của Jakub. Dong dỏng, đẹp đến mê hồn, một người Ba Lan một trăm phần trăm theo kiểu Stutthop. Bà mang quốc tịch Đức, ông sau ba năm ở trại. Ông bố không bao giờ để anh cảm thấy là ông căm thù người Đức. Cho dù ông rất căm thù. Kể cũng hay, không biết ông có tha thứ cho anh vì tội sống ở Đức không?
Cha mẹ anh là một dẫn chứng tốt nhất về vấn đề sự phân chia Ba Lan-Đức chỉ là một thoả thuận của những nhà sử học đã thành công trong việc thuyết phục cả dân tộc. Thực ra thì toàn bộ lịch sử cũng chỉ là một bản thoả thuận. Nhất là đối với sự dối trá chung. Người ta thoả thuận rằng sẽ dạy chính về sự dối trá này chứ không phải sự dối trá khác trong nhà trường.
Anh lại thấy buồn. Quá đủ buồn cho ngày hôm nay rồi. Mà lại là sinh nhật anh. Anh lôi chai rượu từ cái bình đá bằng bạc ra. Tự rót cho mình một ly nữa. Hôm nay anh sẽ về nhà.
CÔ: Tất cả các chỗ trong các toa hạng nhất đã được bán hết. Cô đã sai lầm khi không mua khứ hồi ngay ở Warszawa. Người bán vé ở ga Berlin ZOO nói:
- Tôi chỉ còn mấy chỗ trống ở toa hạng hai. Tất cả đều dành cho người hút thuốc lá. Chị có lấy không?
Cái cảnh hơn chục giờ ngồi trong khoang tàu ngập khói thuốc khiến cô hãi hùng. Nhưng biết làm sao được?
Cô ngồi cạnh cửa sổ. Cùng chiều tàu chạy. Chỉ có mình cô trong khoang. Nửa tiếng nữa mới đến giờ tàu chạy. Cô lấy trong vali ra cuốn sách và cái kẹp với những tài liệu của cuộc gặp ở Berlin. Máy nghe đĩa, đĩa, pin dự trữ. Cô tháo giầy và cởi hai cúc của chân váy. Trong khoang đông dần. Loa truyền thanh thông báo đã đến giờ tàu chạy, mà trong khoang vẫn còn một chỗ trống. Tàu chuyển bánh, cửa khoang bỗng xịch mở. Cô ngẩng đầu khỏi cuốn sách và mắt họ gặp nhau. Cô cầm cự được ánh mắt anh. Chính anh phải cúi xuống. Trông anh lúc ấy như một cậu bé đang xấu hổ. Anh cho vali vào hốc sát trần. Bỏ máy tính từ cái túi da ra. Anh ngồi vào chỗ trống cạnh cửa. Cô cảm thấy anh nhìn mình. Liền xỏ chân vào giày. Cô phân vân, không biết anh có nhìn thấy mấy cái cúc ở chân váy bị mở ra không.
Một lúc sau anh đứng dậy. Lấy trong túi ra lon coca-cola ăn kiêng và ba cuốn tạp chí màu: Spiegla, Playboy và Wprost. Anh để chúng lên đùi. Cô không biết tại sao, nhưng việc anh là người Ba Lan khiến cô vui vui.
Anh cởi áo comple. Xắn ống tay chiếc sơ mi màu xám sẫm. Da rám nắng. Tóc anh rối bù như thể anh vừa từ giường chạy thẳng đến đây. Anh không cạo râu. Sơ mi hở cúc. Anh không trẻ, nhưng còn thanh niên. Từ lúc anh vào, cô hy vọng bây giờ sẽ không có ai hút thuốc. Anh bước vào, làm đầy khoang bằng mùi nước cạo râu của mình. Cô muốn được cảm nhận cái mùi này thật lâu.
Cô nhìn trộm anh qua kính. Anh bắt đầu đọc. Cô cũng quay lại với cuốn sách của mình. Đến một lúc cô cảm thấy không yên tâm. Cô ngẩng đầu. Anh đang nhìn cô. Đôi mắt xanh, buồn và mệt mỏi. Tay phải chạm lên môi và nhìn cô như xuyên thấu. Cô thấy ấm áp lạ lùng. Cô cười với anh.
Anh bỏ báo và với lấy máy tính. Hành khách trong khoang nhìn anh tò mò. Anh lấy điện thoại di động từ túi áo comple, sau đó cúi về phía trước và cắm điện thoại vào một cái ổ đặc biệt ở phía sau máy tính. Có thể không phải tất cả mọi người trong khoang đều hiểu lúc này anh muốn làm gì, nhưng cô thì biết là anh nối mạng.
Lúc đầu cô nghĩ là cái mà anh làm, ở đây, trên tàu và ngay khi vừa rời khỏi Berlin là để khoe khoang và thể hiện, nhưng khi ngắm kỹ anh chăm chú nhìn lên màn hình thì cô nghĩ rằng đó... rằng anh không phải là người khoe khoang và muốn thể hiện.
Cô luồn tay dưới áo và thận trọng cài lại cúc váy. Cô vuốt lại tóc và ngồi thẳng người lại trên ghế.
Chú thích:
Methadone: một loại thuốc ngủ
Xêmapho: cột đèn tín hiệu xe lửa

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 11-12-2011 16:00:39 | Chỉ xem của tác giả
Chương 1 (B)


ANH: Nếu ở Đức anh có thể trông cậy vào một ai đó, thì đó là chị tạp vụ người Croatia.
Đương nhiên là chẳng có ai đánh thức anh dậy trước khi chuyến tàu đi Warszawa khởi hành chín mươi phút. Thậm chí chẳng có ai để mà nói rằng đây hoàn toàn là một xì-căng-đan trong cái khách sạn giá 300 đô một đêm này. Tay trực đêm đã không ngồi ở lễ tân từ đời nào, còn cô gái tóc vàng thay ca cho gã kia thì không có vẻ gì là biết Warszawa nằm ở chỗ nào trên bản đồ.
Chị tạp vụ đã làm anh thức giấc, vì cho rằng phòng trống nên định vào để dọn trong lúc anh vẫn đang ngủ. Anh không biết mấy giờ thì có tàu đi Warszawa, nhưng khi biết là đã mười một giờ kém năm thì anh cảm thấy mình không còn nhiều thời gian.
Anh không để ý là chị tạp vụ vẫn đang đứng đấy. Anh nhẩy ra khỏi giường trần như nhộng, vội kêu lên: "Ôi, mẹ kiếp!" và vội vàng mặc quần áo. Vì chị tạp vụ là người Croatia nên rất hiểu "ôi, mẹ kiếp" và khi anh nhét vào túi tất cả mọi thứ để trên giá trong phòng tắm thì chị cho vào vali tất cả những thứ trên bàn ngủ và cạnh TV. Sau vài phút anh chạy ra khỏi phòng. Động tác đầu tiên là anh chạy đến lễ tân nhưng may mắn là tay trực không có ở đấy. Khi hiểu được là cô gái tóc vàng chẳng hiểu mô tê gì, anh thậm chí không cả trả tiền. Họ có số thẻ tín dụng của anh. Hơn nữa có thể vào mạng và trả tiền ngay ở trên tàu. Thẻ của Amercan Express mà công ty làm cho anh cho phép làm điều đó.
Cả dãy taxi đứng chờ trước khách sạn. Người lái taxi thích ứng ngay với tình huống: trong vòng mười phút họ đã có mặt ở ga. Anh không mua vé. Anh chạy ra sân ga và lên luôn toa đứng ngay gần lối từ đường ngầm lên. Anh đã kịp. Tàu chuyển bánh. Anh mở cửa của khoang đầu tiên từ ngoài vào.
Cô ngồi cạnh cửa sổ. Với cuốn sách trên đùi. Cô có cái miệng giống như cái đã in hình lên tấm các trong quầy bar. Tóc buộc lại ở phía sau. Trán cao. Cô rất đẹp.
Anh lấy cái chỗ duy nhất còn trống. Tất nhiên là anh không có giấy đặt chỗ trước. Không quan trọng. Khi nào người soát vé đến, anh sẽ giải quyết việc này. Nhìn tờ giấy dán trên cửa khoang anh biết đằng nào thì những chỗ này cũng phải đến Frankfurt trên Odra mới có khách lên.
Anh lấy báo. Kiốt trong khách sạn bán cả tạp chí Ba Lan! Bên cạnh các tạp chí Pháp, Mỹ, Anh và Ý. Có được Wyborcza (1) hàng ngày như Paris Soir trong kiốt của khách sạn ở trung tâm Berlin còn quan trọng hơn gấp nghìn lần tất cả các quảng cáo về "sự sẵn sàng gia nhập châu Âu của Ba Lan".
Đến một lúc anh không thể giữ mình được nữa. Anh ngẩng lên và bắt đầu ngắm nhìn cô. Ngoài môi, cô không trang điểm thêm một chút nào nữa. Cô đọc, chốc chốc lại sờ vào tai. Bàn tay cô thật quyến rũ. Mỗi khi cô lật trang sách, có cảm giác như chỉ có những ngón tay dài của cô chạm khẽ vào chúng.
Cô ngẩng đầu và cười với anh. Lần này thì anh không xấu hổ nữa. Anh cười lại.
Anh không có hứng thú đọc tiếp nữa. Anh nối điện thoại với máy tính và khởi động chương trình thư điện tử. Anh lần lượt lướt qua toàn bộ quy trình định dạng. Modem ở điện thoại di động có lẽ là loại modem chậm nhất hiện có. Anh luôn tự hỏi, không hiểu tại sao. Bao giờ trở lại Munich, anh sẽ kiểm tra điều này.
Trong hộp thư của anh trong máy tính của Viện ở Munich chỉ có một e-mail. Địa chỉ đề tên miền một ngân hàng nào đấy ở Anh quốc.
Lại một quảng cáo nào đó - anh nghĩ bụng.
Anh muốn xoá ngay, nhưng phần đầu của địa chỉ lại khiến anh chú ý: Jennyfer@. Trong ký ức của anh, cái tên này vang lên như âm nhạc. Anh quyết định đọc.
Camberley, Surrey, England, 29 tháng tư
Anh là J.L, phải không???!!!
Từ trang web của Anh suy ra như vậy. Tôi đã lang thang trên đó suốt cả trưa nay ở nơi làm việc trong ngân hàng. Thay vì phải vào trang chứng khoán London và làm việc, vì việc đó mà ở đây người ta trả tôi không tồi, thì tôi lại đọc hết dòng này đến dòng khác trên trang của Anh. Sau đó tôi đi taxi đến hiệu sách ở trung tâm Camberley để mua từ điển Ba Lan-Anh. Tôi đã lấy cuốn dầy nhất mà họ có. Tôi muốn hiểu được cả những đoạn bằng tiếng Ba Lan được đăng trên trang này. Không hiểu được tất cả, nhưng tôi cảm nhận được không khí. Một không khí như vậy chỉ có J.L. mới có thể tạo ra được, vậy chắc chắn phải là Anh.
Hết giờ làm việc, tôi đến quán bar Club 54 yêu thích của mình ở gần ga và uống say. Tôi đang nhịn ăn ở ngày thứ tư, mỗi năm hai lần tôi tự "làm sạch" bằng cách nhịn đói một tuần. Anh có biết là khi đã trải qua ba ngày đầu tiên nhịn đói hoàn toàn, anh sẽ rơi vào trạng thái hôn mê kỳ lạ? Cơ thể anh không phải tiêu hóa bất cứ một thứ gì. Đến lúc ấy anh mới thấy rằng quá trình tiêu hoá cướp mất của anh cái gì. Anh bỗng có rất nhiều năng lượng. Anh sống như trong cơn say nhẹ. Anh trở nên sáng tạo, hưng phấn, tất cả các giác quan trở nên sắc nhạy hơn và mạnh mẽ hơn. Tri giác của anh như một miếng bọt biển khô, sẵn sàng thẩm thấu tất cả những gì ở gần. Khi ấy người ta viết nên những vần thơ đẹp, nghĩ ra những lý thuyết khoa học mang tính cách mạng, điêu khắc và vẽ theo cách khiêu khích và tiên phong, cả mua chứng khoán với xác suất thành công không thể tưởng tượng nổi. Điều cuối cùng này thì tôi có thể khẳng định chắc chắn. Ngoài ra Bach trong cơn "đói" là... từ, thế nào nhỉ... Là như được chính Mozart thể hiện.
Song trạng thái ấy chỉ đạt được khi người ta đã vật lộn trong hai hoặc ba ngày đầu "trong sự dầy vò". Hai hoặc ba ngày ấy, là cả một cuộc chiến đấu không ngừng với cái đói. Tôi thậm chí đã thức giấc vào ban đêm vì đói. Nhưng tôi đã vượt qua được tất cả những cái đó và sáng nay bắt đầu cảm nhận cái say say của sự "không tiêu hoá". Và trong trạng thái say say ấy tôi đã gặp trang web của Anh. Không thể có khoảnh khắc nào tốt hơn được nữa.
Và tất cả mọi cái khác trở nên ít quan trọng hơn.
Thực ra thì tôi chưa thực sự ngừng nhịn ăn. Bởi tôi không hề ăn gì trong quán bar ấy. Mà chỉ uống. Chủ yếu là vì những kỷ niệm. Anh hãy đừng bao giờ uống - thậm chí đó có là bloody mary ngon như họ mời trong Club 54, và anh có những kỷ niệm đẹp nhất - vào ngày thứ năm của đợt nhịn ăn. Anh hãy ăn một chút gì đó trước đấy.
Sau đó tôi về nhà và viết bức e-mail này. Như một trang nhật ký của một phụ nữ đói (ba ngày không ăn), say (hai bloody mary và bốn guinnessy) sau những biến chuyển (mười hai năm tiểu sử).
Vì vậy mà tôi mong Anh hãy ứng xử với nó một cách nghiêm túc.
Tái bút: "Đảo" trong thư này - nếu Anh quên - là Đảo Wigh của tôi. Một chấm nhỏ tí trên bản đồ giữa Pháp và Anh trên kênh La Manche. Nơi tôi ra đời.
--------------------
(1) Một trong những tờ báo có nhiều độc giả nhất ở Ba Lan

J.L. thân mến,
Anh có biết rằng tôi đã viết bức thư này ít nhất là 1000 lần rồi không?
Tôi viết nó trong ý nghĩ, tôi viết nó trên cát ngoài bãi biển, tôi viết nó trên loại giấy tốt nhất mà tôi có thể mua được ở Vương quốc Anh, tôi viết nó lên đùi mình bằng bút bi. Tôi viết nó lên vỏ những đĩa nhạc Chopin.
Tôi đã viết nó không biết bao nhiêu lần...
Chưa bao giờ tôi gửi nó đi. Suốt 12 năm gần đây - bởi gần như đúng 12 năm trước đây - tôi đã không gửi ít nhất một nghìn bức thư cho ANH ẤY.
Bởi đây hoàn toàn không phải là thư gửi cho Anh. Đây là thư gửi cho L.Jot. Bởi tôi đảo lại các chữ cái của tên anh ấy, nối chúng lại và gọi là Eljot.
Thực ra anh là J.L., nhưng Anh biết anh ấy. Biết như không một ai biết được như thế. Hãy hứa với tôi là anh sẽ kể lại với anh ấy những gì tôi viết. Anh sẽ kể phải không?
Bởi Eljot là quãng nghỉ giữa hồi thứ nhất và hồi thứ hai của một vở opera. Khi đó tôi uống loại champagne ngon nhất mà họ có ở quầy. Nếu tôi không thể làm được như thế thì tôi sẽ ngồi nhà và nghe đĩa. Anh ấy phải là thứ champagne ấy. Chỉ dành cho lúc giải lao. Phải dội vào đầu. Phải ngon và phải tạo được cái say say ấy cho hồi sau. Để âm nhạc đẹp hơn nữa.
Eljot là như vậy. Như loại champagne ngon nhất và đắt nhất trong quầy bar. Làm tôi ngây ngất. Sau đó cần phải có đợt giải lao thứ hai nữa. Còn sau đấy thì buổi hoà nhạc phải kết thúc. Và champagne cũng thế. Nhưng đã không như vậy. Lần đầu tiên trong đời, cái mà tôi nhớ nhất của cả buổi xem opera là đợt giải lao giữa hồi thứ nhất và hồi thứ hai. Cái quãng nghỉ ấy gần như không bao giờ kết thúc. Tôi nhận ra điều ấy sáng hôm nay, trong câu lạc bộ này. Chủ yếu là do các giác quan đã trở nên nhạy bén hơn vào ngày nhịn ăn thứ tư và sau cốc guiness thứ tư.
Tôi đã cùng với anh ấy trải qua 88 ngày và 16 giờ của đời tôi. Không một người đàn ông nào ít thời gian đến thế và cho tôi nhiều đến thế. Một người cùng với tôi được sáu tháng, mà không biết cách cho tôi cái mà tôi có được với Eljot chỉ sau sáu tiếng. Tôi đã cùng với người này vì tôi cho rằng "sáu giờ" của anh ấy rồi sẽ đến. Tôi đã chờ. Nhưng chúng không bao giờ đến. Vào một ngày nào đó, trong một cuộc đấu khẩu vô nghĩa, hắn bắt đầu gào lên:
- Cái thằng Ba Lan thổ tả ấy đã cho em cái gì nào, khi mà sau đấy em chẳng còn lại chút gì? Thậm chí chỉ một tấm ảnh còm - Còn khi hắn hân hoan nói thêm - Mà liệu gã ta có biết máy ảnh là cái gì không nhỉ?! - thì tôi đã lôi cái vali gần như rỗng tuếch mà hắn mang theo hồi đến chỗ tôi ra ngoài cửa.
Cái anh chàng "Ba Lan thổ tả" ấy đã cho tôi cái gì nhỉ? Đúng thế, cái gì?
Anh ấy cho tôi ví dụ như sự lạc quan này. Không bao giờ anh ấy nói về nỗi buồn, nhưng tôi biết anh ấy đang trải qua một nỗi buồn tột đỉnh. Sự lạc quan thấm đẫm vào anh. Với anh, mưa chỉ là một pha ngắn trước khi mặt trời mọc. Bất kỳ ai ở Dublin đều biết rằng ý nghĩ như vậy là ví dụ về một sự lạc quan tuyệt đối. Chính ở bên anh ấy tôi đã cho rằng có thể mang được những đồ không nhất thiết phải đen. Chính ở bên anh ấy tôi đã tin rằng cha tôi yêu mẹ tôi, chỉ có điều ông không biết thể hiện điều đó. Về điều này thì mẹ tôi thậm chí không bao giờ tin. Cả bác sĩ tâm lý của bà cũng không tin.
Anh ấy cho tôi ví dụ như cảm giác khi anh cho rằng chỉ một tí nữa thôi anh sẽ phát điên lên vì khao khát. Và anh lại biết rằng chắc chắn anh sẽ được toại nguyện. Anh ấy biết kể cho tôi nghe câu chuyện cổ tích về từng li trên cơ thể tôi. Có lẽ không có điểm nào mà anh ấy chưa chạm tới hoặc chưa nếm thử. Nếu có thời gian, có lẽ anh ấy sẽ hôn từng sợi tóc trên đầu tôi. Lần lượt từng cái một. Ở bên cạnh anh ấy, bao giờ tôi cũng muốn cởi thêm nữa. Tôi có cảm giác rằng có lẽ phải đến khi bác sĩ tháo vòng cho tôi thì tôi mới cảm thấy mình thực sự khoả thân.
Anh ấy chưa bao giờ tìm kiếm những điểm nhạy cảm trên cơ thể tôi. Anh ấy cho rằng phụ nữ là một điểm nhạy cảm như một thể thống nhất, còn từ cái thể thống nhất ấy thì não vẫn là điểm nhạy cảm nhất. Eljot đã nghe về cái điểm G nổi tiếng ở chỗ kín của chị em, nhưng anh ấy lại tìm nó trong não tôi. Và hầu như bao giờ cũng tìm thấy.
Tôi đã cùng anh ấy đi hết mỗi con đường. Anh ấy đã đưa tôi đến những điểm tội lỗi một cách tuyệt diệu biết bao. Với tôi, một số điểm giờ đây đã trở thành thiêng liêng. Đôi khi, chúng tôi yêu nhau trong tiếng nhạc Beethoven hoặc những vở opera, tôi tưởng như anh ấy không thể tình cảm hơn được nữa. Như thẻ anh ấy có hai trái tim thay vì hai lá phổi. Có thể thậm chí anh ấy có...
Anh đã cho tôi ví dụ như một cái túi chườm cao su nhỏ hình trái tim màu đỏ. Chỉ nhỉnh hơn bàn tay một chút. Ngọt. Chỉ anh ấy mới có thể tìm được một thứ như thế ở Dublin. Vì chỉ có anh ấy mới để ý đến những thứ như vậy. Anh biết rằng tôi có PMS (1) khủng khiếp, trước kỳ kinh còn tồi tệ hơn và rằng khi đó tôi là một mụ phù thuỷ tầm thường, ích kỷ, tàn nhẫn và bất công mà cái gì cũng làm phiền mụ ta. Thậm chí cả việc mặt trời mọc ở hướng đông và lặn ở hướng tây. Thế là vào một ngày nào đó, anh đi đến tận đầu kia của Dublin để mua nó. Đêm ấy, khi tôi bị đau quá, anh dậy đổ đầy nước nóng vào túi rồi đặt lên bụng tôi. Nhưng trước hết anh hôn vào chỗ ấy. Từng phân một. Chậm rãi, nhẹ nhàng và tình cảm đến không thể tin nổi. Sau đấy anh đặt cái túi lên bụng tôi và khi tôi sung sướng nhìn vào cái vật bé tí ấy, anh ấy bắt đầu hôn và mút những ngón chân tôi. Hết ngón này đến ngón khác. Hết bàn chân này sang bàn chân kia. Anh ấy cứ nhìn vào mắt tôi và hôn. Kể cả nếu anh không có PMS, anh vẫn có thể hình dung ra nó tuyệt vời như thế nào. Rất tiếc là tôi chỉ được cùng anh ấy có ba PMS và ba kỳ kinh.
Anh ấy đã cho tôi ví dụ cái tính tò mò trẻ con đối với thế giới. Anh ấy hỏi về tất cả. Đúng như một đứa trẻ có quyền hỏi. Anh ấy muốn biết. Anh ấy dạy tôi rằng "không biết" tức là "sống trong hiểm hoạ". Anh ấy quan tâm đến mọi thứ. Anh ấy lưu ý tới tất cả, anh ấy nghi ngờ tất cả và anh ấy có xu thế tin vào tất cả chỉ cần thuyết phục được anh ấy bằng các sự kiện. Tôi nhớ có lần anh ấy khiến tôi bị sốc khi hỏi:
- Em có nghĩ là Einstein thủ dâm không?
Anh ấy dạy tôi cần phải chịu khuất phục những mơ ước của mình khi chúng đến và đừng để bất kỳ cái gì đến ngày mai. Như cái lần trong một bữa tiệc tại ngôi nhà của một vị giáo sư đáng kính về gen học nọ, trong lúc đang diễn ra cuộc thảo luận rất quan trọng và buồn tẻ về "sự phụ thuộc về gen trong giao phối của động vật có vú" anh ấy bỗng đột ngột đứng dậy, đi đến chỗ tôi, cúi người - tất cả im lặng nhìn chúng tôi - và nói thầm:
- Ở tầng hai nhà này có một cái phòng tắm mà em chưa nhìn thấy bao giờ đâu. Nhìn em, anh không thể tập trung được trong cuộc hội thảo về tình dục học này. Bây giờ đi với anh lên đó đi.
Và nói thêm:
- Em có nghĩ đây là sự phụ thuộc vào gen không?
Tôi ngoan ngoãn đứng dậy, chúng tôi lên tầng trên. Không nói không rằng, anh áp tôi vào cái cánh cửa tủ có gương, cởi quần, tách hai chân tôi ra và... Và "sự phối giống phụ thuộc vào gen của động vật có vú" mang một ý nghĩa hoàn toàn khác, thật tuyệt vời. Mấy phút sau, khi chúng tôi quay xuống dưới và ngồi vào chỗ của mình, tất cả rơi vào im lặng một lúc. Chị em thì nhìn tôi như xuyên thấu, các ông thì châm thuốc hút.
Anh ấy cho tôi ví dụ như cảm giác rằng với anh ấy, tôi là người phụ nữ quan trọng nhất. Và rằng tất cả những gì tôi làm đều có ý nghĩa đối với anh ấy. Sáng nào cũng vậy, kể cả những hôm chúng tôi ngủ cùng nhau, anh ấy hôn tay tôi để chào buổi sáng. Anh mở mắt, kéo tay tôi từ chăn ra và hôn. Và nói: "Chúc em một ngày tốt lành". Bao giờ cũng bằng tiếng Ba Lan. Giống như anh ấy đã làm vào cái lần đầu tiên mà bọn tôi được giới thiệu với nhau.
Thỉnh thoảng, khi thức giấc vào ban đêm vì bị "tê liệt bởi một ý tưởng nào đấy" - anh ấy gọi thế - anh ấy khẽ ra khỏi giường và đi làm việc với các gen của mình. Đến sáng thì anh ấy về, rúc vào chăn để hôn tôi và nói "Chúc em một ngày tốt lành". Anh ấy ngây thơ nghĩ rằng tôi không biết điều đó. Tôi chú ý tới từng nanô giây không có anh ấy.
Anh ấy có thể chạy đến viện chỗ tôi làm việc để nói rằng anh ấy sẽ đến ăn tối chậm 10 phút. Để tôi khỏi lo. Anh hiểu chứ, cả 10 phút dài dằng dặc không tưởng tượng nổi ấy...




Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 11-12-2011 16:04:21 | Chỉ xem của tác giả
Anh ấy đã cho tôi ví dụ trong tám mươi tám ngày và mười sáu giờ ấy hơn năm mươi bông hồng nhung. Vì tôi thích nhất hồng nhung. Bông cuối cùng anh ấy cho tôi là vào cái giờ thứ mười sáu cuối cùng ấy. Ngay trước giờ bay, ở sân bay Dublin. Anh biết không, khi từ sân bay về, tôi cảm thấy bông hồng ấy là vật quan trọng nhất mà tôi nhận được từ bất kỳ ai cho tới lúc này của cuộc đời mình.
Anh ấy là người tình, nhưng cũng là người bạn thân thiết nhất của tôi. Những cái kiểu như thế này chỉ có thể xảy ra trong phim và chỉ trong những phim của California. Thế mà đã thực sự xảy ra với tôi ở Dublin đầy mưa này. Anh ấy cho tất cả những cái đó mà không hề muốn đòi lại chút gì. Tuyệt đối không. Không một lời hứa nào, không một điều hẹn ước nào, không một lời thề nào, rằng "chỉ anh ấy và không bao giờ một ai khác". Đơn giản là không gì cả. Đó là điểm yếu ghê gớm duy nhất của anh ấy. Với người đàn bà, không có nỗi đau nào lớn hơn là khi một người đàn ông vô cùng tốt, vô cùng yêu, không thể lặp lại nhưng lại không chờ đợi bất cứ một lời hứa hẹn nào. Đơn giản là anh ta ở đấy và làm cho bạn chắc chắn rằng đó là vĩnh cửu. Bạn chỉ sợ rằng sự vĩnh cửu ấy - không có tất cả những lời hứa chuẩn mẫu - sẽ ngắn.
Sự vĩnh cửu của tôi tồn tại tám mươi tám ngày và mười sáu giờ.
Từ giờ thứ mười bảy của ngày thứ tám mươi chín tôi bắt đầu chờ đợi anh ấy. Ngay từ lúc ở sân bay. Từ cửa ra máy bay anh ấy đi bằng xe buýt. Anh ấy thong thả bước lên cầu thang máy bay. Đến bậc cao nhất, ngay lối vào, anh ấy quay người về hướng sân dành cho người đưa tiễn nơi tôi đang đứng - anh ấy biết là tôi đứng ở đó - và đặt bàn tay phải lên ngực trái mình. Anh ấy đứng thế một lúc và nhìn về phía tôi. Sau đó anh ấy biến mất vào máy bay.
Tôi không nhìn thấy anh ấy thêm nữa.
Ba ngày đầu tiên của đợt nhịn ăn không là gì cả so với những gì mà tôi trải qua trong ba tháng đầu tiên sau khi anh ấy đi. Anh ấy không viết. Không gọi điện thoại. Tôi biết là máy bay đã đến Warszawa, vì sau một tuần bặt tin anh ấy, tôi đã gọi điện đến văn phòng LOT (hãng hàng không Ba Lan) ở London để hỏi.
Đơn giản là anh ấy đặt tay lên tim và biến khỏi cuộc đời tôi.
Tôi khổ sở như một đứa trẻ con bị người ta đưa đến trại trẻ và sau đó quên không đón. Tôi nhớ. Không thể tưởng tượng nổi. Vì yêu anh ấy, tôi không thể mong những điều tồi tệ đến với anh ấy nên tôi càng khổ sở hơn. Sau một thời gian nào đó, vì hận mà tôi thôi không nghe Chopin nữa. Sau đó, vì hận mà tôi vứt hết những đĩa opera mà chúng tôi đã cùng nghe. Sau đó, vì hận mà tôi căm thù tất cả những người Ba Lan. Trừ một người. Là anh ấy, đương nhiên. Bởi nói đúng ra là tôi không có khả năng trả thù.
Sau đó thì cha tôi bỏ mẹ tôi. Tôi buộc phải nghỉ học nửa năm để từ Dublin về Đảo giúp mẹ. Điều này đã giúp chính tôi nhiều hơn. Trên Đảo mọi cái đều đơn giản. Đảo đã đưa mọi cái về đúng chỗ của mình. Khi anh ra chỗ cái vách đá đã đứng ở đó từ tám ngàn năm nay, thì nhiều vấn đề mà người ta vẫn theo đuổi bởi với họ chúng là rất quan trọng, bỗng trở nên vô nghĩa.
Sáu tháng sau khi anh ấy đi, ngay trước lễ Giáng sinh, họ gửi đến Đảo cho tôi một gói thư gửi về địa chỉ của tôi ở Dublin. Trong số đó tôi tìm thấy một tờ giấy của Eljot. Tờ giấy duy nhất trong suốt mười hai năm. Trên một thứ giấy xoàng xĩnh của một khách sạn nào đó ở San Diego, anh ấy viết:
Điều duy nhất mà anh có thể làm để kéo dài sự chia ly này là biến mất hoàn toàn khỏi thế giới của em. Em không thể hạnh phúc khi ở đây với anh được. Còn anh sẽ không hạnh phúc nếu ở đó.
Chúng ta là từ một thế giới bị ngăn cách.
Thậm chí anh không xin em tha thứ. Cái mà anh làm không thể tha thứ được. Chỉ có thể quên đi mà thôi.
Mong em hãy quên.
Jakub.
TB: Bao giờ cũng vậy, nếu được ở Warszawa lâu lâu một chút, là anh lại đến Zelazowa Wola. Ở đó, anh ngồi trên ghế trong vườn và nghe nhạc. Đôi khi anh khóc.
Tôi không quên. Nhưng tờ giấy đó đã giúp tôi. Nếu thậm chí tôi có không đồng ý với điều đó, thì tôi cũng biết được anh ấy đã thoát khỏi cái đã có giữa chúng tôi như thế nào. Đó là một quyết định ích kỷ nhất mà tôi từng biết, nhưng ít ra tôi cũng biết rằng anh ấy đã quyết định một cái gì đó. Dẫu sao thì tôi cũng còn có được "đôi khi anh khóc" của anh ấy. Đàn bà sống bằng kỷ niệm. Còn đàn ông thì bằng những cái mà họ đã quên.
Tôi quay lại Dublin và tốt nghiệp đại học. Sau đó cha tôi quyết định là tôi sẽ điều hành công việc làm ăn của công ty gia đình trên Đảo. Tôi cầm cự được một năm. Tôi đảm bảo là cha tôi có chỉ số trí tuệ cảm xúc bằng không. Chỉ số IQ cao của ông chẳng thay đổi được gì ở đây. Để không đến mức hận ông đến xương tuỷ, tôi đã quyết định chạy khỏi Đảo.
Tôi đi London. Làm tiến sĩ về kinh tế tại Queens Mary College, học chơi piano, đi xem bale, tìm được việc ở một cơ quan chứng khoán, nghe opera. Đã không bao giờ có thêm cái đợt giải lao đã từng quan trọng hơn cả buổi biểu diễn ấy nữa. Và cả loại champagne như vậy cũng không.
Sau đó những người đàn ông đến một cách vô nghĩa. Với mỗi người tôi lại ít muốn gần gũi hơn với người tiếp theo. Đến mức, thỉnh thoảng khi tôi ở trên giường với họ và thậm chí cả khi họ hôn tôi "chỗ ấy, ở phía dưới" thì tôi "ở đây, ở phía trên" vẫn cứ thấy cô đơn. Bởi họ chỉ động chạm bề mặt biểu bì của môi tôi hoặc lưỡi tôi một cách cơ học. Còn Eljot... Eljot đơn giản là "ăn" tôi. Ăn ngon lành, cuống quýt như người ta ăn quả dâu tây đầu mùa. Đôi khi anh còn ngâm nó vào champagne nữa.
Tôi không thể yêu bất cứ ai trong số những người đàn ông chỉ có biểu bì ở trên môi.
Sau hai năm ở London tôi nhận thấy mình không có một người bạn gái thân nào và rằng phần lớn những cô bạn của tôi đều là đồng tình ái. Ngoài việc những thèm muốn của họ thật méo mó, họ còn có thể là đàn ông suốt đời. Tôi đã có may mắn gặp toàn người tốt. Nhạy cảm, tinh tế và biết lắng nghe khi bạn muốn được chia sẻ. Họ chẳng phải giả vờ cái gì hết. Nếu họ trả tiền cho bữa tối của bạn, thì không phải là để đảm bảo cho mình cái quyền được cởi đồ lót của bạn. Còn việc mà họ đeo khuyên tai? Đó chẳng phải là một sáng tạo sao - như một cô bạn cùng làm ở ngân hàng với tôi nói - chí ít thì bạn cũng được đảm bảo rằng hắn ta biết thế nào là đau, và hắn biết về đồ trang sức.
Sau đó mẹ tôi mất. Không ai biết chuyện đó đã xảy ra như thế nào. Khi đi phà từ Đảo đến Calais, bà đã bị ngã xuống nước. Xác của bà vẫn không tìm thấy. Nhưng lại tìm thấy trong một cái tráp nhỏ trong phòng ngủ của bà bản di chúc được viết đúng một tuần trước chuyến đi kia và chiếc nhẫn cưới bị cưa đôi bằng chiếc cưa kim loại.
Sau một khoảng thời gian nào đấy, nỗi buồn lớn đến mức tôi không thể chịu nổi vào sáng sớm, mỗi khi tỉnh dậy. Tôi mắc chứng trầm cảm. Thời gian đó tốt nhất đối với tôi là prozac (1). Một cái bảng nhỏ màu xanh-trắng với một cái gì đó rất huyền bí ở giữa. Tôi còn nhớ Eljot đã cố giải thích cho tôi về tác động huyền bí của prozac này. Anh giải thích nó như một nghệ thuật với những quân bài của một trò chơi. Quân bài là những rơ-le truyền dẫn thần kinh nào đấy trong khớp thần kinh. Tôi không hiểu hết. Nhưng tôi biết là nó có tác động. Bác sĩ tâm lý của tôi cũng biết điều đó.
Anh có biết là những người bị trầm cảm hay tự sát nhất là khi prozac bắt đầu hoạt động và họ là những người dễ điều trị nhất? Trong trạng thái trầm cảm thực sự, anh nhu nhược tới mức không cả muốn cắt mạch máu của mình nữa. Anh đi hoặc nằm như trong khối bê tông đang đông cứng. Khi prozac bắt đầu hoạt động, thì cuối cùng anh cũng có đủ sức để xoay xở được với cái lưỡi dao cạo và vào phòng tắm. Do đó mà những người đã rơi xuống đáy trong bệnh viện cần phải dùng prozac và tốt nhất là trói chặt họ vào giường. Để trong vài ngày, họ không thể một mình đi vào nhà tắm. Nhưng có thể đánh lừa sự cảnh giác của hộ lý và leo lên nóc bệnh viện.
Sau khi sử dụng prozac, bác sĩ tâm lý của tôi nói rằng tôi phải "tiến hành một chuyến đi thực tế để hồi tưởng" và đi Ba Lan. Đó là một thử nghiệm về tâm thần học phân tích cốt để rút ngắn thời gian nằm dài trên giường.
Đó là vào tháng năm. Tôi đến vào chủ nhật. Tôi đã có một chương trình "hồi tưởng bằng thực tế" cụ thể cho cả bẩy ngày: Warszawa, Zelazowa Wola (2), Krakow, Cswiecim. Song đó chỉ là chương trình. Ở Warszawa hầu như tôi chỉ ở một khách sạn gần một tượng đài lúc nào cũng có người đứng gác. Hàng sáng tôi gọi taxi đi Zelazowa Wola. Tôi ngồi ở cái ghế cạnh nhà, nghe Chopin.
Thỉnh thoảng tôi không khóc.
Ngày nào tôi cũng đến Zelazowa Wola. Trừ thứ năm. Hôm thứ năm, tôi đi taxi như mọi ngày, trong radio, ai đó nói đến tên anh ấy. Tôi bảo lái xe quay xe và đi Wroclaw.
Trong phòng hành chính của khoa, người ta phải mất cả giờ đồng hồ để tìm một người biết tiếng Anh. Và khi tìm thấy, thì một bà rất dễ thương nói với tôi là Eljot đã đi Đức và chắc chắn sẽ không về, vì "chẳng có ai dại gì mà quay lại."
Làm sao mà anh ấy có thể đi Đức được? Sau tất cả những gì người Đức đã làm với cha anh ấy ở trong trại?!
Cái bà dễ thương ở văn phòng khoa ấy không biết địa chỉ của anh ấy. Với lại tôi cũng không muốn có anh ấy. Chiều hôm đó tôi lại có mặt ở Warszawa. Bệnh trầm cảm của tôi đã ở lại phía sau. Bác sĩ tâm lý đã không có lý. Điều đó chẳng giúp gì được cho tôi.
Có thể anh biết, Eljot có quyền gì, có quyền thổ tả gì mà dám giả thiết rằng tôi sẽ không hạnh phúc ở đất nước này? Bởi sao? Bởi những ngôi nhà xám xịt, bởi trong các cửa hàng chỉ có mỗi dấm, bởi điện thoại không hoạt động, bởi không có giấy vệ sinh, bởi cốc uống soda được treo trên những sợi xích rỉ? Tại sao anh ấy không hỏi tôi thực sự cần gì trong cuộc đời? Bởi tôi nói chung là không gọi điện thoại, không uống soda, còn dấm thì tôi cho vào mọi đồ ăn, kể cả fish ''n'' chips.
Không! Anh ấy thậm chí không đến để hỏi tôi.
Anh ấy đặt tay lên một trong hai trái tim ấy rồi đi. Thế mà tôi thì có thể cùng với anh ấy đào giếng nếu chỗ mà anh ấy đưa tôi đến không có nước.
Sau đó, thậm chí cả cái thế giới tưởng như là chia cắt chúng tôi đã ngừng bị tách ra. Rồi đến cái thời, buổi tối đi ngủ, mà đêm đến một đất nước nào đó đã thay đổi hệ thống chính trị.
Đối với tôi áp suất ở London là quá lớn. Để có thể chịu nổi, cần phải được hàn kín. Không thế thì mọi thứ trong người anh sẽ bay đi sạch. Đó là vật lý đơn thuần. Tôi không biết cách làm mình kín được như vậy. Sẽ dễ hơn nếu có hai người để cùng "giữ cái nắp". Tôi không thể chỉ có một mình. Thậm chí cả khi để cho một ai đó ngủ cạnh mình, thì bao giờ cũng hoá ra là mình tôi phải giữ cả hai cái nắp. Ngoài ra, với tôi, khó hơn từ bản chất. Bởi tôi vốn dĩ là người nông thôn. Dublin không làm thay đổi điều đó. Đảo bao giờ cũng là một cái làng. Một cái làng trên vách đá. Một cái làng đẹp nhất mà tôi từng biết. Nhưng tôi không muốn quay về đó. Sau đó mới thấy rằng tôi tuyệt nhiên không phải quay về.
Có lần sau khi xem opera và sau bữa tối, cái bữa tối không là gì khác ngoài việc vừa ăn món trứng cá muối vừa chia nhau "phần lẻ" của một ngân hàng nhỏ giữa hai ngân hàng lớn, giám đốc của một trong hai ngân hàng lớn hỏi tôi có ở Notting Hill không - tôi nhận được giấy mời vì là một "người dự báo phân tích chứng khoán tin cậy của thế hệ trẻ", theo ngôn ngữ thông dụng của ngân hàng thì có nghĩa là tôi có bộ ngực to nhất của phòng ngân phiếu. Khi tôi vừa đùa vừa trả lời rằng tôi không đủ khả năng có nhà ở Notting Hill, thì ông ta cười, chỉ vào hàm răng trắng không thể tả được và nói rằng chắc chắn sẽ sớm thay đổi, còn bây giờ thì đằng nào cũng chẳng có ý nghĩa gì, vì "bất kể chị ở đâu, tôi cũng sẽ luôn ở bên cạnh". Tôi hiểu điều này rất chính xác. Thậm chí tôi còn thích câu trả lời ấy. Thực ra ông ta là người Pháp, nhưng lại nói - đây là một ngoại lệ đặc biệt - tiếng Anh với trọng âm Mỹ. Ở ông tôi còn thích điều này nữa, tuy là một nhân vật quan trọng nhất trong toàn bộ lĩnh vực ngân hàng này, nhưng khác với tất cả những người khác, ông im lặng suốt buổi tối. Ngoài ra ông còn hôn tay tôi lúc gặp. Sau bữa tối, chúng tôi cùng đi ra.
Ông ở Park Lane Hotel. Ông bị vô sinh. Sau Eljot, không một người đàn ông nào tình cảm đến thế như ông vào cái tối hôm ấy. Buổi sáng khi tôi thức dậy trên giường của ông thì không thấy ông đâu. Một tuần sau ông hỏi, liệu tôi có muốn điều hành một "chi nhánh quan trọng về mặt chiến lược của ngân hàng chúng ta ở Notting Hill" không. Tôi không muốn. Sau bữa trưa tôi gọi điện cho ông để hỏi, liệu ông có một "chi nhánh nào đó quan trọng về mặt chiến lược" ở Surrey không. Surrey cũng như Đảo, nhưng ở trên đất liền. Tối hôm đó ông từ Lyon bay đến để nói với tôi trong bữa tối rằng "tất nhiên là có một chi nhánh như vậy, bắt đầu từ hôm nay". Uống xong ở quầy bar, chúng tôi về phòng ông ở Park Lane, ở đó có một máy nghe đĩa compact tốt nhất có thể mua được trong vòng vài giờ ở London. Bên cạnh, khoảng vài trăm đĩa nhạc cổ điển được xếp trên bốn ngăn. Vài trăm cái.
Tôi nghĩ là ông ta yêu tôi. Ông ta thật tinh tế, nhạy cảm, hay nhìn vào mắt tôi với nỗi buồn đến thế. Ông không thích âm nhạc, nhưng mang về cho tôi tất cả những gì mà cô trợ lý rất có năng khiếu âm nhạc của phòng quảng cáo thuộc ngân hàng ông tìm được trong các công ty chuyên sản xuất đĩa nhạc cổ điển trên khắp thế giới. Thỉnh thoảng tôi có những đĩa chưa kịp có mặt trong các cửa hàng ở châu Âu. Ông có thể bay từ Lyon, gặp tôi ở sân bay và đưa tôi đi xem hoà nhạc ở Mediolan, Rome hay Viên. Đôi khi sau buổi hoà nhạc, thậm chí chúng tôi không đến bất cứ một khách sạn nào. Ông quay về Lyon, còn tôi ông đưa lên máy bay về London.
Lúc xem hoà nhạc, ông không ngừng xiết và hôn tay tôi. Tôi không thích điều này. Chương trình hoà nhạc của Karajan đâu phải là một bộ phim được chiếu trong rạp tối. Nhưng tôi để ông làm điều đó. Đó là một người đàn ông tốt.
Ông không muốn một điều gì đặc biệt ở tôi. Tôi chỉ phải nói tôi khát khao ông như thế nào. Không hơn. Thỉnh thoảng ông kể cho tôi nghe về vợ và những đứa con gái của ông. Ông lấy ví ra và cho tôi xem ảnh của họ. Ông rất chăm sóc tôi, ông là người tốt. Tuần nào tôi cũng nhận được từ ông một bó hoa. Đôi khi thậm chí người ta mang đến vào ban đêm.
Tôi không nói với ông ta là tôi thích hồng nhung. Điều này với tôi là quá riêng tư.
Tôi đã có thể điều hành cái ngân hàng ở Cambrey. Ngay từ sáng mai. Chỉ cần một cú điện thoại. Nhưng tôi không muốn. Tôi thích làm một người "dự báo phân tích chứng khoán tin cậy" và không phải chịu bất cứ một áp lực nào hơn.
Tôi chơi piano ngày một tốt hơn. Đi du lịch nhiều. Ở Cambrey tôi có một ngôi nhà cũ có vườn trồng đầy hoa hồng nhung. Khi không có cuộc thăm ở Lyon, tôi gặp gỡ những người bạn đeo khuyên tai của tôi ở London trong dịp cuối tuần và chúng tôi làm đủ trò rồ dại.
Mỗi năm một lần tôi đi Dublin đến cuộc gặp mặt của khoá chúng tôi. Bao giờ cũng vào ngày thứ bảy thứ hai của tháng năm. Ở Dublin tôi ngủ trong Trinity College. Hầu như ở đó chẳng có gì thay đổi kể từ khi Eljot rời xa nơi đây. Nhưng Trinity chẳng thay đổi gì từ thế kỷ thứ XIX. Đêm thứ bảy, tôi trốn khỏi cuộc gặp khoá và đi dọc hành lang chỗ văn phòng mà ngày xưa anh ấy làm. Bây giờ ở đó là kho. Nhưng cửa vẫn thế. Tôi đứng lại đó một lúc. Hồi ấy tôi cũng nhiều lần đứng đó. Nhưng chỉ có một lần tôi đủ can đảm để gõ cửa. Đó là một đêm hơi khác với đêm hôm nay. Đúng mười hai năm trước đây. Lúc ấy là kết thúc sinh nhật của anh ấy chứ không phải bắt đầu.
Sau đó tôi quay về và dừng lại ở giảng đường, nơi đèn cứ lách cách tắt rồi bật khi anh ấy tựa lưng vào cái công tắc, còn tôi quỳ trước anh. Bây giờ không thể vào trong ấy được. Nhưng có thể nhìn thấy tất cả qua lớp kính bị xước lung tung. Sau đó tôi quay lại cuộc gặp khoá và uống say.
Thời gian gần đây tôi thấy cô đơn quá. Tôi sẽ có em bé. Đã đến lúc phải có con. Tôi đã ba mươi nhăm tuổi rồi còn gì. Hơn nữa, tôi muốn có một cái gì đó của riêng mình. Một cái gì đó mà tôi sẽ yêu. Bởi tôi thực sự mong muốn được yêu ai đó trong cuộc đời này.
Mấy ngày trước đây tôi đã gửi một e-mail đến The Sperm Bank of New York, một ngân hàng tinh trùng tốt nhất ở Mỹ. Họ là những người kín đáo nhất, họ làm các thử nghiệm gen tốt nhất và họ có những catalog đầy đủ nhất. Một tháng nữa tôi sẽ bay đi gặp chuyên gia về gen của họ. Thực ra đó chỉ là thủ tục. Tôi muốn đây sẽ là một bé gái. Tôi đã gửi cho họ tiểu sử cá nhân của mình. Anh không thể tưởng tượng được có bao nhiêu người cho có chỉ số IQ trên 140 đâu! Ngoài ra người cho phải là từ "môi trường âm nhạc", là tiến sĩ và là người gốc châu Âu. Họ gửi cho tôi một danh sách trên 300 người cho. Tôi chỉ chọn những người mang họ Ba Lan.
Tôi phân vân không biết mắt Eljot thực sự có màu gì. Anh ấy bảo tôi là màu xám. Tôi thì lại luôn nhìn thấy màu xanh lục. Khi tôi chọn những người có mắt màu xanh lục và thêm vào đó là bằng tiến sĩ khoa học tự nhiên, thì chỉ còn lại bốn người. Cuối cùng tôi quyết định chọn một trong số đó sau khi nói chuyện với chuyên gia gen học ở New York.
Trời đã sáng. Hôm nay là chủ nhật. 30 tháng tư. Đây là một ngày thực sự đặc biệt. Tôi có hai cái ly riêng cho ngày hôm nay. Nhưng phải đến tối. Tối, tôi sẽ nghe Bohemians của Puccini, hút xì-gà mà tôi mang theo từ Dublin và tôi sẽ uống loại champagne ngon nhất. Trong quãng giải lao giữa hai hồi.
Tôi cũng sẽ uống cạn cả ly của Anh nữa. Chúc mọi sự tốt lành nhân ngày sinh của Anh, Eljot...
Jennifer
TB: Bao giờ sinh con gái, tôi sẽ đặt tên là Laura Jane.
CÔ: Tàu của họ đến Frankfurt trên Odra. Cô lấy chai nước khoáng. Nhìn anh. Cái máy tính của anh ở trên đùi, bật sẵn, còn anh ngồi với bàn tay phải đặt lên tim và nhìn ra cửa sổ. Thỉnh thoảng, những lúc đắm chìm trong suy nghĩ về một điều gì đấy cô cũng nhìn bằng ánh mắt vô hồn. Không chớp mắt, con ngươi mở to và hoàn toàn bất động. Tập trung vào một điểm. Với anh cũng y xì như vậy. Điều này thật không bình thường. Bàn tay đặt lên tim ấy và đôi mắt bất động ấy. Khuôn mặt anh biểu lộ một nỗi buồn. Gần như nỗi đau.
Có ai đó mở cửa. Một ông già thò đầu vào khoang và đọc to số chỗ ngồi. Xong ông ta nói với anh bằng tiếng Đức:
- Anh cũng có vé ở chỗ này à?
Anh không phản ứng gì cả. Người đàn ông hỏi lần nữa và khi anh vẫn không phản ứng lại, ông ta mạnh dạn đặt tay lên vai anh:
- Xin lỗi anh, nhưng tôi muốn hỏi là anh có vé ở chỗ này không?
Trông anh giống như bị đánh thức đang lúc ngủ say. Anh đứng phắt dậy để trả chỗ cho ông già.
- Không. Tôi không có vé. Đây chắc chắn là chỗ của bác.
Anh tắt máy tính và cất vào túi da. Từ tốn để không chạm phải ai, anh đặt vali lên sàn. Đẩy nó ra ngoài hành lang. Anh lấy cái áo khoác trên móc và quẳng xuống cái túi đựng máy tính. Anh quay mặt vào trong khoang và nhìn cô buồn bã. Anh tạm biệt mọi người bằng tiếng Ba Lan và tiếng Đức rồi đi ra. Cô không nhìn thấy anh thêm nữa.

Chú thích:
PMS: Những triệu chứng của thời kỳ tiền mãn kinh
(1) Prozac: một loại thuốc chống trầm cảm.
(2) Zelazowa Wola: quê hương của nhạc sĩ nổi tiếng người Ba Lan, Chopin. Tại đây có vườn Chopin. Du khách có thể được nghe các nghệ sĩ trình diễn các tác phẩm của Chopin ngay tại vườn này.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 11-12-2011 16:05:36 | Chỉ xem của tác giả
Chương 2


ANH: Cuộc đời cơ bản là buồn. Còn ngay sau đó là cái chết...
Đến Viện Gen thuộc Quỹ Max Planck dễ nhất là đi đường cao tốc với sáu làn đường chạy ngay cạnh toà nhà hiện đại mà cơ quan anh có trụ sở tại đó. Đây là con đường cao tốc tấp nập nhất ở Munich. Sau đấy nó chạy thẳng vào trung tâm thành phố, còn ở chỗ Viện anh, nó ngăn cách khu vực hội chợ với phần còn lại của thành phố bằng một hàng rào cao. Cách Viện khoảng 100m về phía thành phố là cầu vượt ngang qua đường cao tốc. Một trụ cầu ở ngay trên dải cây xanh ngăn cách các làn đường. Theo quy định của Đức thì chiếc xe máy của anh là quá chậm để được chạy trên đường cao tốc, do đó đầu tiên anh đi qua cầu vượt đến khu chợ rồi từ đó về nhà theo các đường phố bình thường.
Hôm qua anh rời Viện vào khoảng hai mươi ba giờ. Thực ra thì anh định không đi xe máy mà đi tàu điện ngầm. Tháng giêng ở Munick rất lạnh và có thể nhìn thấy băng lấp lánh dưới ánh đèn đường. Xe máy đi trên băng thì khó mà lường trước được. Anh biết điều đó vào mùa đông năm ngoái, anh đã phải nằm viện ba ngày với cái đầu gối bị bó bột vì bị tai nạn trên một vũng nước đóng băng. Nhưng khi nghĩ đến chuyện phải mất mười lăm phút đi bộ ra ga, sau đó chờ tàu, có khi phải đến nửa tiếng, thì anh lại quyết định sẽ đi xe máy "một lần cuối cùng này nữa".
Cạnh trụ cầu giữa, ở bên trái dải phân cách, đúng chỗ đối diện với lối lên cầu vượt, một chiếc ô tô bị cháy và bẹp dúm nằm lật ngược. Trên hè đường, phía bên kia đường cao tốc, một phụ nữ trẻ vận áo lông chạy quanh, tay đẩy một chiếc xe trẻ em. Chị ta kêu la gì đó đầy thất vọng bằng tiếng nước ngoài. Khi chị ta quay về phía anh, anh nhìn thấy chị ta hoàn toàn khoả thân dưới lớp áo lông. Một chiếc Mercedes màu nhũ, đèn báo sự cố nhấp nháy đứng cạnh lối rẽ. Một người đàn ông béo, hói đứng cạnh chiếc Mercedes đang gào vào điện thoại di động, chân thì tức tối đá vào ô tô.
Phía dưới cầu vượt nghi ngút khói, những lưỡi lửa nhỏ vẫn thoát ra từ cốp xe nát vụn. Phản xạ đầu tiên của anh là bỏ chạy. Nhưng chỉ mất một phần giây. Anh dừng lại. Đỗ xe máy lên vỉa hè, cạnh bức tường. Quan sát thấy không có xe nào đi tới, anh từ từ đi về phía trụ cầu. Anh vẫn chưa biết mình phải làm gì. Chỉ biết là mình phải đến đó. Anh sợ. Sợ kinh khủng. Khói làm anh chảy nước mắt.
Bỗng nhiên tất cả sáng như ban ngày. Một chiếc xe cảnh sát lao đến với tốc độ khủng khiếp từ hướng khu hội chợ. Ngoài đèn xanh được bật lên trong những trường hợp như thế này, trên nóc chiếc BMW cảnh sát còn bật một chiếc đèn pha cực mạnh, chùm sáng chiếu vào đống sắt dúm dó của chiếc xe con. Trước khi chiếc BMW dừng lại, bốn người đàn ông mang bình cứu hoả nhảy ra khỏi xe. Chỉ một lúc sau, một lớp bọt trắng đã phủ lên chiếc xe con. Vừa lúc đó, chiếc xe cứu hoả đỏ lao tới. Dòng nước mạnh từ thùng xe rửa sạch bọt. Khi nước từ dưới đống sắt vụn chảy ra, một người lính cứu hoả nằm xuống lòng đường cao tốc và trườn về phía chiếc xe. Trườn được một lúc, anh ta đứng dậy, đi về phía trụ cầu và nôn.
Đứng sau trụ cầu, cách đống vụn của chiếc ô tô chỉ vài mét, anh nhìn thấy tất cả. Bỗng nhiên người đàn ông mặc áo da đến túm vai anh, vừa chạy vừa đẩy anh sang bên kia đường rồi để anh ngay cạnh chiếc Mercedes màu nhũ.
Người phụ nữ vận áo lông vẫn không ngừng chạy quanh, miệng lẩm bẩm điều gì đó. Đứa bé trong xe khóc nấc lên. Cửa xe ô tô đóng. Người đàn ông béo cùng với cái điện thoại di động đã biến mất.
Trong khoảnh khắc, anh có cảm tưởng như đó không phải là sự thật. Rằng anh ngẫu nhiên có mặt trong một cảnh phim giật gân nào đó và một lát nữa anh sẽ được biết là mình được nghỉ giải lao và rằng họ sẽ phải làm lại cảnh này một lần nữa. Nhưng đây không phải là phim. Nó chỉ có thể xảy ra trong đời thực.
Cô gái trẻ là người Rumani - anh biết tất cả những điều này qua viên cảnh sát vận áo khoác da, người sau đó sẽ thẩm vấn anh trong chiếc BMW cảnh sát - là gái làm tiền. Mười tám tuổi. Để kiếm thêm, thỉnh thoảng cô ta lại trốn khỏi chỗ làm cố định ra đứng đường ở trung tâm Munich và đến đây, chỗ gầm cầu vượt. Đây là một chỗ cực kỳ thuận lợi. Ở một địa điểm tuyệt vời. Nhất là những khi ở Munich diễn ra hội chợ. Vào những dịp như vậy, bao giờ cũng có thể kiếm thêm được. Cô gái đứng ở rìa dường, khi có xe nào đến gần thì phanh áo lông ra, cô ta hoàn toàn khoả thân bên trong lần áo lông. Theo kiểu Pháp giá 40 mác, bằng tay giá 30 và theo kiểu thông thường giá 60. Không dùng bao cao su, giá đắt gấp ba về mùa đông và gấp đôi về mùa hè. Áo lông mà cứ bốn cô chung nhau một cái thì mượn ở nhà hát.
Cô gái người Rumani ở Đức không có visa và cô ta đến đây khi đang mang bầu. Thậm chí cả đang mang bầu cô ta vẫn đứng đường. Lúc này đứa con của cô ta đã được sáu tháng. Tối nay, do đang có hội chợ nên tất cả các bạn cô đã "được giới thiệu" và cô không biết gửi con cho ai. Cô quyết định mang theo cả nó đến gầm cầu. Cô đã từng làm như vậy hồi hè. Đứa bé ngủ khi cô ta đẩy xe vào chỗ dốc dưới gầm cầu và giấu sau những bụi cây bao quanh con đê nhỏ bằng đất dọc hai bên cầu vượt.
Một chiếc xe con đi đến. Cô gái chạy vội lên vỉa hè, phanh áo lông. Chiếc Mercedes màu nhũ dừng lại. Cô ta lại gần xe, thò đầu qua cửa kính định thoả thuận giá cả. Đúng lúc đó, xảy ra một cái gì đó thật kinh hoàng. Viên cảnh sát trong chiếc áo da hạ giọng và nhìn anh như thể muốn hỏi anh cứ thực sự muốn nghe chuyện này không.
Chẳng ai biết tại sao lại xảy ra như vậy. Có thể một chiếc xe tải cực lớn đi qua cầu vượt, khiến cho toàn bộ kết cấu của cầu rung lên. Có thể cô gái trong lúc vội vàng hoặc sơ ý đã không khoá cứng phanh của chiếc xe đẩy. Có thể đứa trẻ trong xe đã cựa quậy quá đột ngột. Nói tóm lại, khi cô gái thò đầu vào trong chiếc Mercedes màu nhũ để ngã giá với khách hàng thì chiếc xe đẩy lăn từ gầm dốc của cầu vượt qua hè và xuống lòng đường cao tốc. Chính xác vào khoảnh khắc đó, một sinh viên lái chiếc Mazda từ cầu vượt lao xuống. Chỗ đố tốc độ giới hạn là tám mươi cây số trên giờ, nhưng có ai cảnh báo cho cậu ta đâu. Nhất là lại vào ban đêm. Nhất định cậu ta đã nhìn thấy chiếc xe đẩy lăn ra từ phía sau chiếc Mercedes đang đỗ. Cậu ta đã phanh. Cố tránh. Nhưng mặt đường ẩm quá trơn. Người lính cứu hoả kể rằng trong đống lửa, xác cậu sinh viên chảy thành nước cùng với một mảnh thân xe còn lại sau khi toàn bộ phần nội thất của xe đã bị thiêu trụi. Bé gái trong chiếc xe đẩy không hề hấn gì. Cậu sinh viên chỉ còn lại những mảnh cháy thành than. Cậu này là con một. Được bố mẹ mua xe cho sau khi đỗ đại học. Chưa đầy hai mươi tuổi. Bố mẹ ở xa, ở Erlangen, nên chưa biết tin. Bao giờ lập xong biên bản, viên cảnh sát sẽ đến đó để thông báo cho họ tin này. Rằng con trai của họ đã chết và chỉ để lại vết trên mặt trong của mảnh thân xe và tro của những thứ cậu ta có trên người.
Anh đi tàu điện ngầm về nhà. Để xe máy lại chỗ chân cầu vượt. Anh không sao chợp mắt được. Cố đọc một cách vô vọng. Anh không thể nào tập trung được. Bèn lấy rượu vang ra và bật nhạc. Anh ngồi trên sàn nhà cạnh giường trong phòng ngủ và tu. Anh nghĩ về bố mẹ của cậu sinh viên ấy. Anh muốn nói với họ rằng có thể vượt qua được chuyện này. Anh muốn nói với họ như vậy trước khi viên cảnh sát kia xuất hiện ở chỗ họ. Cả về anh ta nữa, về viên cảnh sát mặc áo da ấy. Anh bỗng thấy anh ta thật anh hùng và cao thượng. Anh nghĩ cả về cô gái Rumani. Làm sao có thể sống được khi đã chứng kiến chuyện ấy mà không phát điên lên?
Sáng ra anh tỉnh dậy trên sàn nhà ngay cạnh giường. Anh đứng lên, vấp phải cái vỏ chai. Anh vừa cởi quần áo vừa vào phòng tắm. Vặn to hết cỡ cái đài treo cạnh cửa sổ. Anh vặn vòi hoa sen. Nghĩ về đêm qua. Radio nhắc rằng hôm nay là ngày ba mươi tháng giêng năm 1996, thứ ba. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Như thể không có gì xảy ra. Lại những số báo mới, lại tắc đường ở đúng những đoạn ấy trên đúng những đường cao tốc ấy. Hồi Natalia ra đi, cái mà anh không thể chấp nhận nhất là ngày mai, cuộc sống vẫn tiếp diễn. Như thể không có gì xảy ra. Khi đó thế giới chẳng hề dừng lại. Dù chỉ một khoảnh khắc ngắn ngủi nhất. Và Chúa lại thêm một lần không hề để ý đến điều gì...
Anh coi đây là một sự nhu nhược và vô tích sự đáng xấu hổ. Như thể ở một ông lão ốm yếu. Anh không biết cách để mình không bị rơi vào trạng thái trầm cảm sau một cái gì đó như đêm hôm qua. Với tất cả các triệu chứng: buồn, sợ hãi, lồng ngực bị co thắt, sự nặng nề từng lúc trở nên vô cảm, cảm giác vô nghĩa và tâm trạng của lễ cầu nguyện cho những người đã khuất. Điều đó mang tính bệnh lý và anh biết rằng đó là những đau đớn rơi rớt còn lại từ quá khứ của riêng anh. Chỉ có công việc mới giúp anh được.
Buổi sáng anh lấy hơn chục lon coca ở bếp ăn công ty và ngồi lỳ trong phòng làm việc, không để ai trông thấy. Anh viết chương trình. Anh muốn đến chiều là phải hoàn thành đoạn chương trình mà anh hứa là sẽ gửi cho Warszawa. Viện của anh hợp tác với Viện Warszawa. Đó là sáng kiến của anh, để kéo Warszawa vào một trong số các dự án của họ. Nhờ đó mà anh có thể chính thức gửi phần mềm mà họ mua ở Mỹ cả cho Warszawa, cùng họ công bố và cả thỉnh thoảng đến đó giảng bài - đây là điều đặc biệt quan trọng đối với anh. Kể từ khi làm tiến sĩ khoa học ở Ba Lan, anh rất cần có mặt, chí ít cũng về phương diện khoa học, ở trong nước, mặc dù anh sống và làm việc ở Munich đã hơn chục năm nay.
Chính cậu nghiên cứu sinh trẻ tuổi ở Warszawa đã đưa ra sáng kiến, là anh sẽ cài đặt trong máy tính của mình chương trình gần đây đã làm nên thành công lớn trên Internet. Chương trình do hai sinh viên Izrael viết và - như hầu hết tất cả những chương trình tốt nhất trên Internet - miễn phí, cho phép những người có kết nối mạng trong cùng một thời điểm có thể liên hệ trực tiếp, tất nhiên là tức thời, với nhau. Không phải ngẫu nhiên mà cậu nghiên cứu sinh này viết hoa từ Mạng. Internet đang dần trở thành một cái gì đó rất được sùng bái. Đặc biệt là đối với lớp trẻ. Việc gọi đơn giản là mạng máy tính, giống như một hệ thống cáp vô nghĩa nào đó trong ngân hàng hay nơi công sở, đã tước đi của Internet vẻ đẹp bí ẩn của một cái gì đó có khả năng kết nối tuyệt đối mọi ngăn cách.
Tốt thôi, Mạng cũng được - anh nghĩ. Anh đã để lại đằng sau toàn bộ cái giáo phái này từ lâu rồi. Anh sử dụng Mạng viết hoa từ cái thời Internet còn là một bí ẩn tuyệt đối, một Kamasutra trí tuệ, chứ đâu phải là những cái nhấn chuột vào những chữ hoặc hình ảnh màu mà phần lớn là màu xanh lam. Nhưng cái chương trình mà cậu nghiên cứu sinh giới thiệu thì quả là thú vị. Nó có tên là ICQ. Các tác giả phiên âm các chữ cái tiếng Anh I, C, Q giống hệt như câu tiếng Anh I seek you, có nghĩa là "tôi tìm bạn". Những người có trong máy tính của mình chương trình ICQ - và tất nhiên là phải đang nối Mạng - có thể tìm thấy nhau thông qua ICQ. Trong máy tính của mình, họ lên danh sách những người bạn mà họ muốn tìm, còn ICQ sẽ cho họ biết những người bạn này vào cùng thời điểm đó có đang ở trên mạng hay không. Điều này giống như là khi ta bước vào một phòng nào đó và nhìn quanh xem ai trong số bạn bè cũng có mặt ở đó. Chỉ có điều phòng ở đây là cả thế giới. Việc ai đó ở Sydney, người khác ở Dublin, còn người khác nữa lại ở một góc xa xôi - Krakow hay Gdansk - là hoàn toàn không có ý nghĩa. Có lẽ đây là điều đáng được sùng bát nhất trên Internet. Tất cả dường như ngay bên cạnh.
ICQ điểm danh bạn bè và cho phép trao đổi thông tin với họ. Không có độ trễ. Tức thời. Cuộc trò chuyện thông qua bàn phím là như vậy đấy. Gửi những bức e-mail ngắn, chúng sẽ đến địa chỉ người nhận ngay lập tức. Đây thực sự là sự mô phỏng một cuộc nói chuyện.
Nhưng ICQ không chỉ là sự trao đổi những thông tin ngắn. Nó làm được nhiều hơn thế nhiều. Ví dụ như chat. Một từ tiếng Anh mà thậm chí cả người Pháp, những người không gọi máy tính là máy tính, cũng phải chấp nhận. Nhưng lại chấp nhận chat, bởi chat chỉ có thể được gọi như vậy, để thể hiện cái mà nó thể hiện. Có nghĩa là "tán gẫu", nhưng trong Internet đây là cuộc nói chuyện thực. Không biên giới. Trong trường hợp ICQ, điều này được thể hiện như sau, màn hình máy tính được chia làm hai phần. Mỗi người đối thoại có một nửa màn hình và viết phần nội dung của mình. Mỗi người đều nhìn thấy quá trình viết của người kia. Sự vội vàng của anh ta, lỗi viết của anh ta, sự chờ đợi của anh ta. Có thể điều này không được như nghe thấy sự run rẩy của giọng nói, nhưng cũng rất cảm động. Thêm vào đó, ta không thể rút lại bất cứ điều gì. Không thể phủ nhận một cách thô thiển kiểu "tôi đâu có nói điều đó". Tất cả đều được ghi lại. Có thể quay lại đầu màn hình và đọc lại tất cả. Và cuối cùng, quá trình chat có thể được ghi lại trong ổ cứng máy tính, in ra hoặc thậm chí gửi như một e-mail đến bất cứ địa chỉ nào trên thế giới. Do đó mà với nhiều người, chat là cuộc trò chuyện không thể thay thế. Có giá trị về mặt nguyên tắc. Giống như bản ghi lời khai hay ghi âm phỏng vấn. Mỗi lời thổ lộ, mỗi điều dối trá, mỗi lời hứa hẹn đều có thể được gọi lại. Ngoài ra, để bắt đầu buổi trò chuyện, bạn có thể ở bất cứ đâu. Chỉ cần có máy tính, Internet và chương trình cho phép thực hiện chat. Một chương trình như vậy có thể là ví dụ như ICQ. Có cả những chương trình khác nữa. Rất nhiều. Khoảng cách không giữ vai trò quan trọng. Tín hiệu trên Mạng truyền đi với tốc độ ánh sáng.
Ý tưởng về ICQ thật thiên tài. Tất cả những ý tưởng thiên tài đều khởi nguồn từ những nhu cầu cơ bản đơn giản nhất. Ở đây nhu cầu cơ bản là sự liên hệ không giới hạn. Khi thấy rằng có thể chinh phục được khoảng cách nhờ vào Internet, thì một cái gì đó như ICQ chỉ còn là vấn đề thời gian. Bởi con người từ khởi thuỷ đã thích liên hệ với nhau.
Cậu nghiên cứu sinh ở Warszawa cũng muốn liên hệ với anh, nên mới nảy ra cái sáng kiến về ICQ này. Những khi họ muốn nói về hiện trạng của dự án, về những ý tưởng mới nhất, những lỗi chương trình, hay cả về thời tiết ở Warszawa, về giá bia ở Munich, đơn giản là họ mở chat trên ICQ và nói chuyện.




Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 11-12-2011 16:06:53 | Chỉ xem của tác giả
Sự liên hệ như vậy rất cần thiết, vì họ cùng viết một chương trình. Có nghĩa là mỗi người viết một đoạn của chương trình. Họ đã thoả thuận từ lúc đầu là sẽ ghép hai đoạn đó lại như thế nào để tất cả có thể chạy được. Bây giờ người ta viết những chương trình lớn là theo cách đó. Mỗi người làm một khúc rồi sau đó ghép chúng lại cùng nhau. Hoàn toàn không cần phải nhìn thấy hay thậm chí quen biết gì nhau, vẫn có thể làm được những khúc tốt và sau đó kết hợp lại thành công. Chỉ cần Internet. Anh nhớ mình đã tò mò như thế nào khi đọc về dự án kỹ thuật chung do hãng Mercedes-Benz chủ trì. Dự án được thực thi ở Nhật Bản, trên bờ biển miền tây của Mỹ và ở Đức. Một nhóm ở Nhật bắt đầu lập trình. Khi nhóm này hết giờ làm việc, người Đức sẽ đến nơi làm việc của họ sau bữa sáng, và khi những người này về nhà, tất cả sẽ được những nhà lập trình ở California tiếp nhận. Mỗi người gửi kết quả một ngày làm việc của mình qua Internet cho những người sau: người Nhật gửi cho người Đức, người Đức gửi cho người Mỹ, người Mỹ gửi cho người Nhật. Theo cách đó, công việc cho dự án ở Mercedes-Benz được triển khai suốt ngày đêm.
Anh thử phần của mình trong máy tính lớn của hãng. Vài trăm mét cáp nối máy tính trên bàn làm việc của anh với một máy lớn, tốc độ nhanh nằm trong một phòng có điều hoà nhiệt độ cách nhà ăn của Viện không xa. Nếu cậu nghiên cứu sinh ở Warszawa muốn khởi động "đoạn" của mình trên máy tính ở Munich của họ, sẽ chỉ cần một cáp thật dài. Nói đúng ra là không cần gì thêm. Một cáp như vậy thậm chí không cần phải kéo ra. Nó đã có sẵn. Internet.
Tức là cậu nghiên cứu sinh ở Warszawa thật ra chẳng phải khởi động gì ở Munich. Cậu ta thử đoạn của mình ở Warszawa rồi đơn giản là gửi đi qua một chức năng khác có sẵn của ICQ. Giống hệt như anh làm sau khi thử đoạn chương trình của mình. Nhưng chỉ đến mười bốn giờ. Sau đó bờ biển miền đông Mỹ thức dậy và Internet "giải phóng". Điều này có thể nhận thấy đặc biệt rõ khi so sánh thời gian tiếp cận với các trang Internet www. Ngay sau khi thức dậy, bên Mỹ bật modem của mình, tìm đọc những bức e-mail đến hồi đêm và báo điện tử buổi sáng và mở chat.
Nhờ có Internet và ICQ mà anh có cảm giác như người ở Warszawa đang ở ngay phòng bên cạnh và họ không sang thăm nhau chỉ vì không có thời gian hoặc do lười biếng. Ngày làm việc bắt đầu trên ICQ, họ thoả thuận với nhau kế hoạch liên hệ và có mặt non stop ở trên Mạng. Người ta gọi đó là online. Để đề phòng trường hợp khi có ai đó trong số họ bỗng nghĩ ra được một điều gì đó quan trọng và muốn thông báo ngay lập tức cho đối tác.
Song sáng hôm nay anh muốn ở trong phòng làm việc hoàn toàn một mình. Anh bỗng nhận ra rằng hoàn toàn một mình có nghĩa là không có cả những người bạn trong danh sách ICQ của anh. Những người thực ở các phòng bên đột ngột có mặt một cách không mong muốn giống hệt như những người bạn ảo. Việc họ ở Warszawa, San Diego, Bazylei, Dublin hay Hamburg không đóng vai trò quan trọng. Bất cứ lúc nào họ cũng có thể hỏi: "Jakub, hôm nay có khoẻ không?"
Thường thì họ hỏi thật. Hôm nay anh không muốn trả lời những câu hỏi như vậy. Cơ bản vì anh bắt buộc phải cân nhắc trước mỗi câu trả lời. Làm việc và không phải cân nhắc trước bất cứ điều gì khác ngoài những gì anh đang viết. Trước hết, anh không phải cân nhắc trước chính mình.

Nhưng anh không được phép lựa chọn. Anh không thể tắt ICQ. Họ đang ở trong giai đoạn quan trọng của dự án và anh đã hứa ở Warszawa là mình tuyệt đối sẵn sàng. Vậy là buổi sáng anh ghi danh vào ICQ - nhẩm tính rằng hôm nay sẽ không có ai dễ thương tới mức quan tâm tới tâm trạng của anh. Và anh gần như đã thành công. Cho đến 16.30 anh được yên tĩnh hoàn toàn. Mãi lúc đó một ký hiệu dưới dạng một tấm thẻ vàng nhỏ mới nhấp nháy phía góc phải phía dưới màn hình. Tín hiệu rằng có ai đó trên ICQ gửi thông tin cho anh và rất có thể đang chờ câu trả lời. Anh đưa lon coca lên miệng và nháy vào tấm thẻ vàng.
Tôi vẫn còn yêu đôi chút trong những mẩu rơi rớt còn lại của một tình yêu vô nghĩa và lúc này tôi buồn khủng khiếp nên muốn được chia sẻ cùng ai đó. Đây phải là một người hoàn toàn xa lạ, người không thể làm tôi bị tổn thương. Cuối cùng thì toàn bộ Internet này cũng có được chút ích lợi gì đấy. Tôi đã gặp anh. Tôi có thể nói với anh về chuyện này được không?
Trong chốc lát anh cảm thấy mình như một người vô tình đọc được bức thư gửi cho ai đó hoàn toàn khác. Anh buộc phải xem đây có chắc chắn là gửi cho mình không. Nếu đúng thì anh cũng muốn biết tại sao lại gửi cho chính anh. Anh viết:
Chị có chắc tôi đúng là người mà chị dành cho sự tin cậy như vậy? Nếu đúng, thì chuyện gì đã xảy ra khiến chị gặp đúng tôi?
Vào thời điểm này cô mở chat.
CÔ: Anh hãy nghe này, anh là Jakub, anh là người Ba Lan và đã sống hơn chục năm ở Munich, đúng không? Tôi chọn anh vì anh đủ ẩn danh, đủ xa và anh sống đủ lâu ở Đức. Điều này đảm bảo cho tôi rằng anh sẽ không làm bất cứ điều ngạc nhiên nào với tôi. Anh có muốn tôi cũng gọi anh là ông không? Sẽ bớt kịch và riêng tư hơn. Còn nếu như anh muốn...
ANH: Cô ta có thể biết điều đó! Đăng ký vào ICQ cần phải đưa ra một vài thông tin. Những gì cô ta đưa ra, phù hợp hoàn toàn với những gì anh viết vào mẫu đăng ký. ICQ cho phép tìm thấy ngân hàng thông tin về các thuê bao của mình theo đủ các tiêu chí. Cô ta đã tìm thấy anh theo cách đó.
Cô ta thẳng thắn và đầy khiêu khích. Chính thế. Anh cười. Lần đầu tiên trong ngày hôm nay. Anh viết lại:
Thực ra mà nói thì người Đức làm nên nhiều điều bất ngờ nhất cho thế giới, nhưng tôi không có ý định thanh minh cho họ. Tất nhiên là bạn có thể gọi tôi bằng bạn, kể cả nếu như bạn mới chỉ 13 tuổi.
CÔ: Hãy chỉ cần cho tôi biết, trình độ học vấn của anh thế nào. Đây không phải là sự ngạo mạn. Mà chỉ là sự tò mò. Tôi muốn có cùng tần số với anh.
ANH: Đây không còn là sự thẳng thắn đầy khiêu khích nữa rồi. Đã bắt đầu trơ trẽn. Thật khó để anh tin vào sự thẳng thắn của cô ta "đây không phải là ngạo mạn". Nếu cô ta định khiêu khích anh, thì cô ta đã thành công. Anh bắt đầu viết một cách nóng nẩy:
Trình độ học vấn? Bình thường. Như bất cứ ai. Cử nhân toán, cử nhân triết, tiến sĩ toán và tiến sĩ khoa học tin học.
CÔ: Chúa ơi! Tôi gặp ai thế này! Chắc anh đã ngót nghét bảy mươi? Nếu vậy thì thật tuyệt. Anh kinh nghiệm đầy mình. Anh sẽ lắng nghe và cho tôi những lời khuyên, đúng không?
ANH: Anh cười. Bây giờ gọi thế nào nhỉ - anh nghĩ - theo tiếng Anh là self-conscious, theo tiếng Đức là selbtbewusst, còn theo tiếng Ba Lan? Thuyết tự đề cao mình? Không. Từ đó quá xấu. Tự tin và tập trung vào những nhu cầu của bản thân? Điều này trong tiếng Ba Lan có lẽ rất khó thể hiện chỉ bằng một từ như trong tiếng Anh hay tiếng Đức.
Nếu đó là chuyện buồn thì tôi không nghe đâu. Tôi nghi đó là chuyện buồn. Tôi chưa đến bẩy mươi. Mặc dầu vậy xin đừng kể, ngày hôm nay xin đừng kể bất cứ điều gì buồn. Thậm chí xin đừng thử. Hãy viết e-mail cho địa chỉ [email protected]. Tôi tự xoay xở được với nỗi buồn trung bình trong 24 giờ. Hôm nay tôi sẽ chỉ tư vấn cho chị những lối thoát cuối cùng, hoá chất hoặc rượu. Còn ngày mai tôi sẽ đọc kỹ e-mail của chị và sẽ đưa ra những lời khuyên.
Vả lại chị đâu có cần những lời khuyên. Đơn giản là chị cần phải kể cho ai đó, phải chia đôi nó ra, còn bác sĩ tâm lý trị liệu của chị hôm nay lại bận hoặc đang nghỉ phép.
CÔ: Anh nghĩ là bác sĩ tâm lý trị liệu có thể có ích cho những người Slavo? Dù gì thì họ chẳng luôn là người biết hơn cả về mọi chuyện sao? Ngoài ra tôi còn có ấn tượng là tất cả các bác sĩ tâm lý trị liệu ở Ba Lan hoặc viết sách, hoặc thành lập các nhà xuất bản, hoặc làm hợp đồng cho truyền hình hay đài phát thanh. Phải chăng anh vẫn luôn là người Slavo?
ANH: Có lẽ tôi không còn là người Slavo nữa. Tôi không uống rượu, rất đúng giờ, giữ lời hứa và không tổ chức các cuộc khởi nghĩa. Nhưng bác sĩ tâm lý trị liệu thì hồi ở Ba Lan tôi đã có. Song chuyện đó đã lâu lắm rồi, từ hồi người ta còn gọi ông ta là bác sĩ tâm thần, còn việc thành lập nhà xuất bản thì bị phạt còn nặng hơn cả nấu rượu lậu.
CÔ: Và vị bác sĩ tâm thần ấy giúp được anh chứ?
ANH: Riêng bác sĩ tâm thần thì không. Nhưng những gì mà tôi nghe được trong phòng chờ của ông ta thì đã giúp tôi rất nhiều.
CÔ: Lý trí hay tâm hồn anh bị bệnh?
ANH: Khoan đã! Không thể như thế này được! Cô bé gõ vào màn hình máy tính của anh như một người lạ gõ cửa và bắt đầu nghe trộm tiểu sử của anh. Anh không kịp phản ứng vì lại một tin nữa của cô xuất hiện.
CÔ: Tôi biết mình đã đi quá xa. Là vì cái sự ảo này đấy. Tôi có cảm giác rằng chính sự quá ẩn danh của chúng ta đã cho phép tôi hỏi về những vấn đề mà tôi sẽ không bao giờ hỏi nếu gặp anh ở trên tàu hay trong quán cafe. Hãy thứ lỗi cho tôi.
ANH: Cô ta có lý. Internet là thế đấy. Anh hơi liên tưởng đến một phòng xưng tội, còn những cuộc nói chuyện - một kiểu xưng tội tập thể. Đôi khi ta là người xưng tội, đôi khi là người nghe xưng tội. Làm được điều đó chính là khoảng cách ấy và sự chắc chắn ấy, rằng lúc nào cũng có thể rút phích điện ra khỏi ổ.
Ở đây không bị cái gì chi phối. Cả mùi, cả hình thức, cả việc bộ ngực quá nhỏ. Trong Mạng, hình ảnh tự tạo nên bằng những con chữ. Những con chữ của riêng mình. Chẳng bao giờ biết được phích điện còn ở trong ổ bao lâu nữa, vậy nên người ta không uổng phí thời gian mà đi thẳng vào vấn đề và đưa ra những câu hỏi thực sự rõ ràng. Đưa ra những câu hỏi đó, có lẽ người ta không dám chờ đợi một sự trung thực hoàn toàn. Tuy nhiên điều cuối này thì anh không dám chắc. Bởi anh bao giờ cũng trả lời trung thực. "Nếu bạn không biết nói gì thì hãy nói thật" - anh không biết nhà triết học nào đã khuyên như vậy, nhưng chắc chắn là ông ta có lý. Hơn nữa anh chưa có nhiều kinh nghiệm. Ngoài những cuộc nói chuyện với cậu nghiên cứu sinh ở Warszawa, cho tới lúc này anh chưa hề có những cuộc nói chuyện ảo như thế này. Anh viết lại:
Bạn nghĩ là có thể phân biệt được một lý trí bệnh tật với một tâm hồn bệnh tật? Tôi hỏi vì tò mò thôi. Cái gì ở tôi cũng mắc bệnh. Từng phân tử đơn lẻ. Nhưng đã qua rồi. Có thể tôi chưa hoàn toàn khoẻ mạnh, nhưng chắc chắn là tôi đã được điều trị.
CÔ: Anh có biết là anh làm tôi hết sức xúc động không? Tôi chưa biết chính xác vì sao, nhưng anh làm tôi xúc động. Bây giờ tôi phải về nhà đây. Tôi rất vui vì được viết cho anh. Tôi sẽ viết. Hẹn ngày mai gặp lại.
ANH: Hãy bảo trọng. Chị có cái tên rất đẹp.
Cô kết thúc cuộc chat không một lời báo trước. Cô ra khỏi Internet. Cô đang offline. Cô biến mất cũng không hề báo trước như lúc cô xuất hiện. Cô đã không đọc được thông tin cuối cùng ấy. Nhìn vào màn hình máy tính, anh chợt thấy trống trải và im ắng như thế nào đấy khi không có cô. Tấm thẻ vàng lại nhấp nháy ở góc dưới bên phải. Anh nháy vào đó với hy vọng rằng cô quay lại. Theo một nghĩa nào đấy thì đúng như vậy. Mặc dù không phải là chính cô. Cô chỉ để lại trên server ICQ cho anh một đề nghị:
Anh sẽ ghi tên tôi vào danh sách bạn bè của anh chứ? Hiện thời chỉ là danh sách trên ICQ.
Anh trầm ngâm. Cảm thấy cô đột ngột rời bỏ cuộc chat này như thể một ai đó ngắt lời một ai đó. Trong phần lớn các cuộc nói chuyện - trong cuộc sống thực - thì anh là người quyết định sẽ nói về chuyện gì, vào lúc nào và bao giờ thì kết thúc. Ở đây anh có cảm giác rằng trong cuộc gây hấn trên Internet này thì cô ta làm chủ tất cả. Trong vòng mấy phút cô ta đã khai thác được từ anh cái mà anh sẽ không bao giờ nói cho ai biết nếu đó không phải là bạn thân. Vì vậy mà anh ngạc nhiên với chính mình. Mặt khác anh lại vui vui với ngày mai.
Anh quay lại với chương trình của mình. Cậu nghiên cứu sinh ở Warszawa cho biết là phiên bản mới phần của cậu ta đang chờ anh, sẵn sàng để chạy thử. Anh chạy thử và nhận xét cho đến khuya, vậy mà vẫn chưa xong. Anh mở ICQ lần cuối cùng và gửi đi Warszawa thông báo rằng họ sẽ nhận được báo cáo của anh chậm nhất là vào trưa mai. Buổi sáng khi cậu nghiên cứu sinh đến văn phòng và khởi động ICQ của mình, sẽ nhìn thấy ngay thông báo này.
Anh nhìn một lúc vào danh sách bạn bè của mình trên ICQ. Ở trên cùng, dòng đầu tiên là tên cô. Anh nghĩ về cô và có cảm giác rất lạ là buổi chiều nay đã có một sự thay đổi nào đấy trong cuộc đời anh.
Nước mắt ứa ra khi anh tắt máy tính trước khi về nhà. Anh khoác áo jaket và đi thang máy xuống. Anh muốn đến chỗ cầu vượt trên đường cao tốc một lần nữa để cho xe máy vào xưởng. Chiếc xe máy đứng dưới chân cầu vượt, lạnh băng. Vẫn còn mùi cháy khét. Trong ánh sáng của những ngọn đèn pha ô tô đang đi tới, anh nhận thấy phía bên kia, một cô gái đang chạy ra rìa hè, áo lông phanh ra. Bên trong áo lông, cô ta khoả thân. Chiếc ô tô đi qua không dừng lại.
Anh nhận ra cô ta. Cô gái Rumani ấy! Trong khoảnh khắc anh cảm thấy ghê tởm và căm thù. Anh rảo bước, bực bội đẩy chiếc xe máy. Anh gần như chạy.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 11-12-2011 16:08:11 | Chỉ xem của tác giả
Chương 2 (B)


CÔ: Cô hoàn toàn không phải về nhà vào lúc này. Cô hẹn với chồng tận 17.00. Nhưng nếu ở lại và nói chuyện với Jakub lâu hơn, cô sẽ không kịp làm được cái cứ ngẫu nhiên nẩy ra trong đầu cô. Cô bỗng thiết tha muốn biết về anh nhiều nhất.
Cô đã lập trong máy tính của mình một trang cho phép tìm kiếm trên Internet. Trong phần câu hỏi cô ghi họ tên của anh. Chính xác như anh ghi trên mục thông tin của ICQ. Công cụ tìm kiếm đưa ra hai mươi tám địa chỉ các trang Internet có chứa ít nhất một lần tên họ anh. Cô bắt đầu mở lần lượt từng trang một.
Phần lớn là những chỉ dẫn đến các bài công bố hoặc các bài thuyết trình của anh mà anh đã đọc trong các hội thảo khoa học ở đủ các địa điểm xa xôi nhất. Cô luôn phân vân - cả lúc này cũng thế - tại sao anh tranh luận về các vấn đề khoa học hay đến thế ở tận Honolulu, ở Riwier thuộc Pháp, ở New Orleans, ở Mader, Singapore hay Caim ở Austrailia bên những vỉa san hô lớn. Rõ ràng là ngay cả các nhà khoa học cũng phải có một cái gì đó hay ho ở miền nam. Mà cũng có thể vì các bà vợ của họ đã chán ngấy Paris buồn tẻ.
Ba bài công bố đầu tiên là bằng tiếng Ba Lan. Có từ hồi anh còn ở Ba Lan và làm việc ở Wroclaw, trong trường đại học tổng hợp. Những bài còn lại bằng tiếng Anh và được đăng chủ yếu ở Mỹ. Cô không biết chúng đề cập đến cái gì. Cô chỉ cần biết là anh viết chương trình cho các ứng dụng trong ngành gen học. Cô cố để hiểu một bài ngắn, nhưng rồi đành phải cho qua khi thấy rằng phần lớn những từ chuyên môn anh dùng trong các bài viết đều không có trong cuốn từ điển các từ nước ngoài mà cô có ở văn phòng.
Từ phần tiểu sử trích ngang thì thấy rõ là anh có đủ các danh hiệu "như mọi người" và có thể yên tâm phân phát chúng cho bốn người. Ngoài ra, trên cơ sở ngày tháng đăng tải ba bài bằng tiếng Ba Lan, có thể dễ dàng nhẩm ra anh chưa thể đến bốn mươi tuổi.
Trang với danh sách những bài đã được công bố của anh có dạng của một tiểu sử khoa học điện tử, chỉ chứa một điểm nhấn cá nhân duy nhất. Sau tiêu đề của công bố đầu tiên bằng tiếng Ba Lan có chỉ dẫn đến cuối trang. Phần nội dung được viết bằng phông chữ không rõ lắm mang thông tin:
Công bố này là kết quả những nghiên cứu trong khuôn khổ luận văn tốt nghiệp đại học của tôi. Không một công bố nào khác của tôi quan trọng đối với tôi như công bố này. Tôi dâng tặng tất cả cho Natalia.
Cô đọc mấy lần đoạn này. Người đàn ông mà cô đã gây sự nửa tiếng trước đây trên Internet bắt đầu làm cô ngạc nhiên. Chính thế. Ngạc nhiên. Ít ai dám thú nhận rằng mình đang chìm trong nỗi buồn. Hầu như không ai dám nói mình từng có vấn đề về tâm lý. Nhất là khi lại là người thông minh xuất chúng đến thế. Và sau đó lại còn thế này nữa. Đầu tiên là những "chuỗi gen" nào đấy, một "cách tối ưu hoá các thuật toán phi tuyến tính" nào đấy, một "đệ quy bậc hai" nào đấy, còn cuối cùng là "dâng tặng tất cả cho Natalia" thật lãng mạn. Cô biết anh mới ba mươi phút, thé mà đã bắt được quả tang mình đang ghen với một người phụ nữ nào đấy.
Cô lấy địa chỉ email mà anh đã cho. [email protected]. Và bắt đầu viết. Mấy phút sau chuông điện thoại reo. Chồng cô đang đợi trong ô tô đậu dưới nhà.
- Anh nghe này - cô nói - anh hãy vào quán cà phê bên kia đường khoảng mười lăm phút nhé. Em đang có việc rất quan trọng phải hoàn thành.
Cô có cảm giác rất lạ là email này gửi cho anh, chính vào lúc này, là rất quan trọng.
ANH: Hôm sau anh là người đầu tiên đến viện. Christiane, trợ lý phòng thư ký, gặp anh ở chỗ automat cà phê trong bếp ăn. Bao giờ cô ta cũng đến trước mọi người, nhưng cũng là người biến sớm nhất. Cô cười nói với anh:
- Em cứ tưởng là các câu lạc bộ đêm phải đến tám giờ sáng mới đóng cửa cơ đấy.
- Chrissie - cô rất thích khi được gọi thế - em làm thế nào để bẩy giờ sáng đã có tâm trạng như những lữ khách ở Seczele vào lúc chín giờ trước bữa ăn sáng thế?
Cô ta thôi cười. Nhìn thẳng vào mắt anh và nói:
- Anh cứ đi với em một đêm nào đấy, rồi sẽ biết.
Cô ta lấy ly cà phê từ automat và ra khỏi bếp. Không bao giờ anh biết lúc nào thì Christine nói thật, khi nào thì đùa.
Anh chọn một espresso đúp rồi về phòng. Trong thời gian đó, chương trình thư tín trong máy tính của anh lấy tất cả email từ máy chủ về. Ngoài những tập san khoa học hoặc tin tức được gửi đến hàng ngày, ngoài đám rác điện tử khiến anh phát khùng dưới dạng các quảng cáo rất dở hơi, như cái quảng cáo rao bán lẻ một lô đất xây dựng ở Bahamy, ngoài cả những liên hệ khoa học thông thường, hôm nay có cả email của cô.
Thậm chí điều này không làm anh đặc biệt ngạc nhiên. Có nghĩa là trong lúc đi tàu điện ngầm đến chỗ làm, đã có khoảnh khắc anh bắt buộc phải để tờ báo sang một bên để nghĩ về điều này, liệu anh có thất vọng và thất vọng ra sao nếu cô không bao giờ hồi âm và biến mất không lý do như cô đã xuất hiện.
Đã lâu rồi anh không phải dừng đọc báo để nghĩ về phụ nữ.
Anh còn nhận thấy là ý nghĩ đó khiến anh vui vui. Và nó hoàn toàn khác với việc nghĩ về biểu thị véc-tơ các nút ngang trong mạng Petry. Cô ta thật khêu gợi - anh nghĩ. Chính xác như vậy. Giống như người phụ nữ mà ta gặp ngoài đời thực, có thể qua hình thức bên ngoài, qua cái cách mà cô ta đi đứng mà nhận định rằng cô ta là quyến rũ, thì ở đây, trong Internet, theo một nghĩa nào đó thì vận hành một cơ chế tương tự. Hình thức khiêu khích, trang điểm quá mạnh và không phù hợp với thời điểm trong ngày, đánh mông rất kịch hoặc cổ áo được khoét quá sâu được thay thế trên mạng bằng những câu hỏi khiêu khích, bằng sự thẳng thắn thái quá hoặc bằng những câu hỏi quá riêng tư, quá đúng chỗ. Cách ứng xử như vậy rất hay che giấu sự thiếu tự tin, sự nhút nhát, nỗi sợ, sự mặc cảm hoặc đơn thuần là sự nhạy cảm. Trong tàu điện ngầm anh đã phân vân, không biết ở cô có vận hành cùng một cơ chế ấy? Anh đã phải bật cười khi nhớ lại câu hỏi của cô "Anh chỉ cần nói cho tôi biết, trình độ học vấn của anh như thế nào?"
Sau đó thì anh muốn cô là một phụ nữ đẹp. Và trong trường hợp này thì cái ảo tuyệt đối không thay đổi bất cứ điều gì. Đàn ông, trong sự trống rỗng của mình, kể cả trên Internet cũng muốn được chỉ những phụ nữ đẹp tấn công. Chẳng sao hết, rằng trong trường hợp này sắc đẹp không có vai trò gì. Bởi mọi cái đâu có thực, đâu có nhìn thấy. Đàn ông, kể cả những người bị tấn công hoàn toàn ngẫu nhiên, muốn tin và phần lớn tin một cách ngây thơ rằng họ là quá đặc biệt đến mức chỉ những cô gái đẹp mới dám quan tâm đến họ. Anh hình dung ra biết bao những người đàn ông như thế óp bụng lại hoặc che cái trán quá cao của mình bằng những sợi tóc lơ thơ còn lại khi ngồi trước máy tính. Phản ứng trực giác ấy ở giống đực thực thụ được biết đến trên các bãi biển, nay được đưa vào Internet. Phải chăng sự tiến hoá dừng lại và chỉ thay đổi cách trang trí? Và có thể cái đang xảy ra, thực ra phải được gọi là eTiến hoá?
Anh không biết trong trường hợp này cái gì có nghĩa là "đẹp". Anh lại nghĩ đến Natalia. Phải chăng chỉ có Natalia là đẹp? Phải chăng sẽ mãi mãi như vậy?
Anh sẽ rất thất vọng nếu cô không viết cho anh nữa. Rất thất vọng. Anh biết chắc thế khi lên khỏi tàu điện ngầm. Vậy nên lúc này, khi nhìn thấy email này, anh cảm thấy... không biết phải nói như thế nào... anh cảm thấy cô đã không làm anh phải thất vọng. Và anh bắt đầu đọc.
Warszawa ngày 30 tháng 1
Tôi biết có một người là anh trên đời lúc 16.30. Bây giờ mới là 17.15 ở Warszawa, vậy mà anh đã kịp khơi dậy trong tôi sự ngạc nhiên, sửng sốt, tò mò, ghen tị, xúc động, nỗi buồn và niềm vui. Thời gian gần đây tôi ít có những sự kiện nên tôi càng cảm nhận mãnh liệt hơn những cảm xúc như thế này.
Anh đã có lý khi nói rằng tôi không cần đến bất cứ lời khuyên nào. Tôi chỉ cần được giải toả và đơn giản là chia sẻ với ai đó. Giờ đây tôi thậm chí biết rằng anh chính là người mà tôi ít muốn chia sẻ nhất. Ngoài ra tôi chợt nhận thấy sẽ thật tầm thường nếu để mất thời gian của anh.
Tôi đã có được ngần ấy thông tin về anh, nên tôi muốn anh biết chút ít về tôi. Tôi 29 tuổi, sống ở Warszawa, từ 5 năm nay với người đàn ông là chồng tôi, tôi có mái tóc đen dài và màu mắt thay đổi theo tâm trạng.
Thậm chí anh không biết được là tôi vui như thế nào khi có ICQ ở đây, trong máy tính của tôi. Và rằng anh có.
Tôi vui như vậy từ 16 giờ 30 phút hôm nay.
Hẹn ngày mai gặp lại.
Nếu anh cho phép.
Anh đọc đi đọc lại email này mấy lần. Lần nào cũng thế, cứ đến đoạn về ông chồng là anh lại nhảy cóc mấy từ. Lần cuối cùng thì đơn giản là anh không đọc đoạn ấy.
Anh nhìn đồng hồ và khởi động ICQ của mình. Có thể cô đã ở đấy - anh nghĩ.
CÔ: Cô đến văn phòng sớm hơn hẳn mọi khi. Chồng cô đáp chuyến tàu sớm đi Lodz nên cô bảo anh chở cô đến văn phòng trên đường ra ga. Chồng cô ngạc nhiên vì biết cô vốn thích dậy muộn như thế nào. Nếu không có hai cái đồng hồ báo thức liên tục đổ chuông thì không bao giờ cô có thể dậy đúng giờ.
Cô đam mê ngủ. Đặc biệt là thời gian gần đây. Cô có những giấc mơ không bình thường. Buổi tối, khi ở phòng tắm ra, cô vào bếp uống một cốc sữa nóng và vui với những giấc mơ sẽ đến. Thỉnh thoảng cô thức giấc vào ban đêm, vẫn nhớ giấc mơ cuối cùng, cô uống sữa và quay lại với giấc mơ. Ở đúng chỗ đó, ở đúng đoạn đó, khi cô thức giấc.
Những giấc mơ như một cuộc trốn chạy. Cô đã có một giai đoạn cực kỳ khó khăn của hôn nhân. Tất cả trở nên hời hợt như thế nào ấy. Ông chồng ngộp thở vì sự giàu có mà những dự án ngoài giờ đem lại cho anh. Anh mắc chứng nghiện tiền và công việc. Trước đây anh chưa bao giờ có tiền và giờ đây anh không biết phải làm gì với chúng. Tất cả mọi thứ có thể mua bỗng nằm ngay trong tầm tay. Khoảng cách giữa hai dự án chỉ là vài dự án ngoài giờ. Ô tô đỗ dưới nhà. Căn hộ mới ở một khu thuận tiện, nơi mà chiếc ô tô đó không còn là một nốt nghịch âm. Những thiết bị mà chỉ sau nửa năm đã trở thành đồ cũ.
Chồng cô làm việc từ sáng hoặc đến rạng sáng, chủ nhật thì nhầm với thứ năm. Anh sắm đồ đạc mới, nhận những dự án mới. Chỉ còn năm nay nữa thôi. Chỉ còn phải mua ô tô cho em và lô đất ven rừng ấy - anh nói, khi thỉnh thoảng cô hỏi liệu có thể kéo dài đợt nghỉ một ngày để đi Zakopane.
Và lại nói chuyện với nhau bình thường như trước kia - cô nói.
Họ đã không "nói chuyện với nhau như trước kia" rất rất lâu rồi. Họ có ngày càng nhiều đồ đạc mới và ngày càng ít quan hệ. Có lần do vô tình cô đã than thở với mẹ. Thì cô được dạy rằng cô là một người vợ buông thả, không có khái niệm gì về việc mình đã vớ được anh chồng vừa tốt nết vừa chăm chỉ như thế nào. Bố mẹ cô vui với mỗi món đồ mới trong nhà cô, cứ như thể là chính họ mua về vậy. Cô có cảm tưởng là nếu có thể, thì bố cô sẽ đến nhà cô vào ban đêm để giúp chồng cô làm tất cả những dự án ngoài giờ ấy. Họ hãnh diện về sự giàu có của cô và hãnh diện kể về điều đó với tất cả những người muốn, và thường là cả những người không muốn nghe.
Họ tự hào về một chàng rể như vậy, còn cô thì lại đầu mày cuối mắt ở Belg. Chưa đầy hai tháng sau cuộc họp ở Berlin họ lại gặp nhau. Tại Warszawa. Khi anh bước vào văn phòng cô với hoa, với nước da rám nắng, với một mùi thơm lịch lãm tinh khiết như thường lệ và nói với cô thư ký rằng sẽ đón mademoiselle (1) - mặc dù anh thừa biết là cô đã có chồng - đến "Bristol dùng bữa trưa công chuyện", thì cô cảm thấy mình trội hơn hẳn.
Anh có thời gian. Lại một người đàn ông nào đó có thời gian dành cho cô! Anh lắng nghe, hóm hỉnh, tinh tế, ân cần và thu hút được sự chú ý của tất cả các cô gái trong nhà hàng. Sau đó anh gửi những bức email và những giấy mời dầy dặn, nhiều màu sắc và thơm nức mùi nước cạo râu mời cô cùng đi Paris, Budapest hay Berlin. Đôi khi cô phân vân, không biết điều gì sẽ thực sự xảy ra nếu cô có đủ can đảm để một lần nào đấy nhận một lời mời như vậy.
Anh gọi điện thoại. Giọng điềm đạm. Anh lắng nghe. Anh thì thầm. Đôi khi anh thầm thì bằng tiếng Pháp. Cô thích nhất thế. Trong cuộc sống ảm đạm và buồn tẻ nơi văn phòng, anh như tấm thiếp được gửi tới từ những đợt nghỉ hè, làm thức tỉnh những mơ ước về một sự thay đổi và một cái gì đó thật lãng mạn. Cô bắt đầu nhận thấy mình là một ai đó thật đặc biệt đối với anh.
Gần một tháng trước đây, ngay sau dịp năm mới, công ty cô tổ chức một cuộc gặp mặt những khách hàng lớn nhất ở Szczyrk. Anh cũng phải có mặt ở đó! Cô biết là anh đã đến đó trước và rằng anh sẽ đón giao thừa ở Szczyrk. Cô vui vì chuyến đi này. Hơi sợ những kịch bản có thể xảy ra hiện lên trong đầu cô có liên quan đến anh, nhưng mặc dầu vậy, mà cũng có thể là nhờ vậy mà cô thấy hạnh phúc và hưng phấn.
Cô đã sắp xếp mọi việc sao cho sẽ có mặt ở Szczyrk trước một ngày. Cô muốn làm anh bất ngờ. Từ ga, cô đi taxi về nhà khách. Mệt mỏi sau cả một ngày ngồi tàu. Người đầu tiên cô nhìn thấy khi bước vào gian sảnh sáng đèn, nơi có quầy lễ tân, là anh chàng người Bỉ "của cô" đang hôn cổ một cô gái tóc vàng đang nôn nóng nghiêng người về phía môi anh. Họ nắm tay nhau. Anh không để ý thấy cô, anh ngồi quay lưng ra cửa. Ngoài những lời chào hỏi xã giao, cô không trao đổi với anh một câu nào trong suốt ba ngày ở Szczyrk. Thực ra cô chẳng có quyền gì đối với bất cứ một sự trung thành nào hay bất cứ cái gì còn ít cơ bản hơn nhiều theo kiểu này. Ngoài sự quý mến, quan tâm từ phía anh và sự si mê của cô thì chẳng có gì gắn bó hai người. Hơn nữa, anh chàng người Bỉ thậm chí có quyền không biết đến sự si mê và anh ta có thể hôn tất cả các cô gái tóc vàng trong cái nhà khách này.
Mặc dầu vậy cô vẫn cảm thấy bị xúc phạm và bị phản bội. Cô lén quan sát anh trong thời gian ở Szczyrk. Cô không còn coi anh là một người không chê vào đâu được nữa. Bây giờ anh thậm chí còn là một gã lùn tì và mắc những lỗi khủng khiếp trong tiếng Anh. Lại còn một tối nào đấy, anh vào quán bar với mái tóc xịt gôm. Cô thấy anh thật buồn cười và hợm hĩnh đầy lúng túng.
Dẫu sao cô vẫn cần có thời gian để quên cái anh chàng người Bỉ ấy. Cô cố gần gũi chồng và tìm lại nơi anh một chút tình cảm mà cô đang cần. Cô thèm một câu chuyện bình thường. Về sách vở, về phim ảnh, về những dự định. Về một cái gì đó không liên quan đến sự thường nhật, đến mua sắm, tiền bạc và những bữa ăn vào chủ nhật ở nhà ngoại. Nhưng anh không có thời gian dành cho cô trong những lúc tạm nghỉ giữa các bản thiết kế ngoài giờ. Thực ra mà nói thì ngay cả những lúc tạm nghỉ ấy anh cũng chẳng có.
Và khi ấy cô bắt đầu mơ. Cô uống sữa, lên giường và mơ. Sáng ra, cô thức dậy như vừa được gột rửa. Như thể tất cả những gì dằn vặt hay khiến cô bất an lúc ban ngày đã đi qua một phin lọc của tiềm thức, nó gột rửa tất cả trong những giấc mơ. Có lần, về sau này, cô đã đề cập đến đề tài này trong những câu chuyện với Jakub. Anh đã viết gì đó và cô hoàn toàn nhất trí:
Giấc mơ, mỗi một giấc mơ giống như cơn rối loạn tâm thần. Cùng với tất cả những gì thuộc về nó: rối loạn cảm giác, điên rồ, sự phi lý. Cơn rối loạn tâm thần thoảng qua. Vô hai, được chấp nhận và kết thúc có chủ ý bằng cách tỉnh giấc. Gột rửa. Chí ít thì Freud đã nhận định như vậy. Có lẽ về vấn đề này thì ông ta biết.
Ngoài ra, từ hôm qua mọi cái đã khác đi. Chàng trai người Bỉ bỗng trở nên không quan trọng. Như một bạn trai từ thời mẫu giáo mà tên của hắn chỉ được nhớ như qua một màn sương. Hôm nay cô cũng mơ, nhưng sáng ra cô đã cắt ngang giấc mơ ấy mà không hề nghi hoặc như lẽ thường, rằng đây thực sự là kết thúc và cần phải bắt đầu suy ngẫm. Hôm nay cô muốn đến văn phòng thật nhanh. Hôm qua cô mới mở hơn chục trong số hai mươi tám trang Internet có họ tên anh. Hôm nay trước khi vào ICQ, cô muốn mở nốt những trang còn lại. Nên cô dậy sớm và nhờ chồng chở đến văn phòng. Để có thời gian trước khi mọi người đến.
Cô lần lượt mở hết trang này đến trang khác. Cô đã mất hết hy vọng. Chỗ nào cũng tin học, gen học, những báo cáo về các cuộc hội nghị, các bài viết mà có đọc cô cũng chẳng hiểu gì. Có lẽ đây là trang áp chót trên danh sách hai mươi tám địa chỉ. Cô nhấn chuột và xuất hiện dòng chữ: Lạy Chúa, hãy giúp con được là người giống như trong mắt con chó của con. Cô cười, nghĩ rằng đây là một lời đề nghị thông minh. Sau đấy hình như cô cười liên tục. Đó là trang Internet của cá nhân anh! Cũng gen học. Nhưng lần này là gen của chính anh.
Anh nói về bản thân. Cô biết là không dễ gì chọn được những thông tin thú vị về bản thân và đưa chúng ra trước bàn dân thiên hạ trên trang web. Đã có lần cô nghĩ tới việc chuẩn bị để lập một trang riêng trên Mạng, nhưng rồi đành từ bỏ - cái chính là vì cô không biết phải viết về mình cái gì và viết như thế nào để không quá tầm thường và nhạt nhẽo.
Anh đã làm điều này rất khôn ngoan: tập trung vào những người khác và thông qua họ nói về mình. Anh kể Mozart, Chopin, Morison đối với anh quan trọng như thế nào, anh thuộc lòng những bài thơ nào của Rilky, còn những bài nào trong thời gian tới anh mới học (đây là nói ngoài lề: có ai còn học thơ ở tuổi này? - cô buồn cười nghĩ). Anh kể đã đọc những cuốn sách nào và anh nghĩ như thế nào về chúng, về cả những cuốn mà anh sẽ không bao giờ động tới nữa. Anh trình bày kết cấu hoá học của một số hợp chất và kể một cách rất hấp dẫn rằng anh cảm thấy như thế nào khi thiếu chúng và như thế nào khi có chúng quá nhiều. Cô ngạc nhiên khi đọc đoạn anh viết dopamine có thể làm gì với con người và cần phải chú ý tới những gì để có thể tự mình xoay xở được khi thiếu hoặc thừa testosterol.
Anh đưa lên những bức ảnh đẹp không thể tưởng được từ New Orleans và thuyết phục tất cả mọi người rằng đây là một trong những nơi quan trọng nhất trên Trái Đất này. Ngoài New Orleans anh còn kể ra Dublin, Boston, Wroclaw, Princeton, đảo Wight (cô mù tịt không biết cái hòn đảo này có thể nằm ở đâu), San Diego, Kuala Lumpur và Krakow - giống như những ga trên cùng một tuyến tàu chạy điện nội tỉnh. Thế giới của anh không có biên giới. Anh nói về khoa học, về vũ trụ, về trí thông minh và não. Não là niềm đam mê của anh.
Khi quyết định xem kỹ hơn trang này, cô đi đến kết luận rằng có lẽ anh là một người nhút nhát. Thực ra mà nói thì anh không biết cách viết thẳng về bản thân mình. Anh lấy thơ, lấy các chân dung và khoa học để kể về những gì mình nghĩ, cảm nhận, ngạc nhiên hay thậm chí khao khát.
Cô không biết thêm được bất cứ điều gì có thể làm cô bất an từ trang này. Bởi cô không biết thêm bất cứ điều gì về bất cứ một người phụ nữ nào - bỏ qua người phụ nữ trong thơ của Rilky - hiện tại có hoặc có thể có ý nghĩa đối với anh. Đây quả là thông tin giá trị và khiến cô xúc động!
Nếu phải nhận định về anh thông qua trang Internet cá nhân này chỉ trong một từ, thì cô sẽ dùng chỉ một từ: nhạy cảm. Từ thứ hai, đến ngay sau nhạy cảm, đó là "buồn". Trang này của anh đầy ắp nỗi buồn. Buồn và nhớ. Cô không biết nhớ gì, nhưng cô nhìn thấy nó ở mọi nơi: anh nhớ một cái gì đó và nhớ ai đó.
Ngoài ra trang này còn là sự tôn vinh trí thông minh. Cô đã rất suy tư khi đọc câu cuối cùng: hãy thông minh hơn những người khác và đừng để họ biết điều đó... Đúng lúc này thì cô thư ký xuất hiện. Cô ta không giấu nổi sự ngạc nhiên khi thấy cô ngồi trước máy tính. Một việc chưa từng xảy ra cho đến lúc này - mà họ đã cùng ở văn phòng này đã năm năm - là cô lại có mặt ở văn phòng trước cô thư ký. Cô ta không bình luận một lời nào. Chỉ cố tìm lấy một lý do có thể nào đó để đi đến chỗ cái máy in hay tủ tài liệu gần cửa sổ, như thế có thể đi qua và liếc vào màn hình máy tính của cô.
Cô thư ký này là một cơ thể lăng xăng nhất mà cô từng biết. Kể từ khi cô nhận ra rằng mỗi phụ nữ eo thon do nhịn ăn - mà cô thư ký thuộc về loại này - đều bắt đầu tự động gắn mình với sự lăng xăng vô hạn độ. Và cái eo thon ấy của cô ta! Một cái eo thon chẳng tao nhã chút nào, khiêu khích, mời mọc và không với tới! Họ sợ uống cả nước khoáng vì sợ có quá nhiều calo. Đôi khi cô có cảm giác như người đàn bà ấy gầy đền nỗi có thể gửi cô ta qua fax.
Chỉ đến khi truyền hình Ba Lan chiếu bộ phim dài kỳ Ally Mc Beal cô mới bắt đầu dần nhưng không cưỡng lại được, thay đổi nhận xét của mình về những phụ nữ gầy do nhịn ăn. Khi tìm thấy một phần của mình trong những chuyến lang thang do tâm thần hoặc những cách ứng xử quá nhạy cảm của nữ nhân vật chính, cũng gầy như cô thư ký của họ, thì cô bắt đầu rũ bỏ những định kiến của mình.
Cô không đọc trang Internet của anh nữa và cảm thấy không yên tâm.




Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 11-12-2011 16:09:39 | Chỉ xem của tác giả
Ước gì anh hiện hữu, ước gì anh muốn hiện hữu, ước gì anh đừng biến mất - cô sợ hãi nghĩ.
Cô mở ICQ của mình. Anh đang online.
Cô viết: Jakub, tôi nhớ anh quá.
ANH: Anh làm việc. Chạy thử xong chương trinh cho Warszawa. Tức là anh làm việc và đợi. Cuối cùng thì đã đợi được! ICQ phát tín hiệu rằng cô đang online. Anh kích chuột vào tấm thẻ vàng phía dưới bên phải màn hình.
Chẳng có một "xin chào" nào, chẳng có một "anh có khỏe không" nào. Ngay lập tức là "Jakub, tôi nhớ anh quá". Anh cắn răng. Như thường lệ, mỗi khi gặp phải vấn đề gì đó mà anh không biết phải làm thế nào hoặc không biết phải phản ứng thế nào. Cha anh cũng làm như ậy.
Từ lâu rồi anh đã tin rằng chẳng có ai nhớ mình, và đã như thế từ nhiều năm nay. Anh đã chọn vậy. Không có gì bất công hơn là nỗi nhớ đơn phương.Thậm chí còn tồi tê hợn cả tình yêu đơn phương. Sau Natalia, anh không còn khả năng nhớ bất cứ ai và bất cứ cái gì. Như thể tất cả trong anh đã cháy trụi. Có thể thi thoảng nhớ về bố mẹ anh. Vào ngày sinh của họ, vào ngày giỗ của họ, hoặc ở Zaduszki.
Anh cho rằng, bởi vì tự anh thì không có khả năng để nhớ, hợp lẽ nhất là sống sao cho không ai phải nhớ đến ai. Nhưng cả điều này cũng đã không được kiểm chứng. Từ khi nhận được email của Jennifer thì anh biết rằng không phải bao giờ cũng sống được như vậy. Đó là vào tháng tư hoặc tháng năm năm ngoái. Anh không quên cái cảm giác tội lỗi tê dại khi đọc thư cô trên tàu từ Berlin đi Warszawa. Cho tới lúc đó anh chưa từng đọc một lời mô tả nào về nỗi nhớ gây xúc động đến thế. Anh viết trả lời:
Xin chào. Tôi rất mừng được thấy chị. Tôi đã đợi chị.
Đợi. Nó có đồng nghĩa với nhớ không?
Cô mở chat.
CÔ: Không. Với em thì không. Để đợi, em không thức dậy vào lúc 5 giờ sáng, từ bỏ những giấc mơ đẹp nhất. Cũng không vì lý do đó mà em đến công sở từ trước 7 giờ. Khi đợi, sữa không mất đi mùi vị của nó. Còn khi nhớ thì có.
ANH: Anh sẽ nhớ. Đặc biệt là về sữa. Anh hỏi thế vì cho rằng chẳng có ai nhớ mình, từ nhiều năm nay rồi. Và khi một ai đó viết một cái gì đó như vậy thay cho "xin chào", thì... thì thoạt tiên anh muốn quay đầu lại và kiểm tra xem liệu đó có phải là gửi cho ai đó đang ngồi đằng sau không. Nhưng chẳng có ai ngồi sau anh cả.
CÔ: Đó là gửi cho anh đấy. Chỉ cho anh thôi. Em biết là anh sẽ quen. Rồi anh sẽ thấy.
ANH: Em sẽ kể chút gì đó về mình chứ? Anh đã biết là em hay mơ, em thích sữa và em nhớ anh. Liệu anh có thể biết nhiều hơn được không?
Em có đôi mắt to phải không? Trán em có cao không? Đôi bàn chân nhỏ nhắn? Khi ngủ em thường nằm nghiêng? Tóc em có mượt không? Em có làn da rám nắng không? Em có nói tiếng Anh không? Em có thích đi dưới mưa không? Em có thích opera không? Em có hay liếm môi không? Em có tin vào Chúa không? Em có thích phúc bồn tử không? Em có...
CÔ: Những câu hỏi cứ lần lượt hiện lên màn hình. Như thể anh chuẩn bị sẵn chúng trên một danh sách nào đấy chưa được sắp xếp lại và anh chỉ đơn thuần là chép lại chúng. Cô chắc rằng anh chẳng có một danh sách nào hết. Một số các câu hỏi trong đó trước anh chưa hề được ai đặt ra cho cô bao giờ. Chưa bao giờ. Kể cả chồng cô. Mà cô sống với anh đã năm năm nay. Cô viết lại:
Chỉ cần cho em biết điều này: Tại sao anh lại muốn biết tất cả những điều đó?
ANH: Vì... anh cũng nhớ em.
CÔ: Em sẽ kể cho anh tất cả. Anh có nhiều thời gian phải không?
Ngay từ ngày đầu tiên, những câu chuyện với anh đã giống như những trải nghiệm mà người ta sẽ nhớ. Cô không thể giải thích được điều này, nhưng cô không cho rằng những gì xảy ra giữa họ là quá nhanh. Bằng giờ này hôm qua cô vẫn chưa biết anh. Thế mà hôm nay, chỉ chốc nữa thôi cô sẽ nói với anh khi ngủ cô nằm nghiêng về bên nào. Nếu anh có hỏi cô có nằm khoả thân khi nghiêng về phía ấy, thì cô cũng sẽ trả lời không đắn đo, rằng cô nằm khoả thân. Phải chăng chính Internet, phải chăng sự thiếu những trải nghiệm nơi cô, phải chăng đơn thuần là anh cảm ứng sang cô sự thành thật ấy? Mà biết đâu chính cô cuối cùng cũng muốn nói về mình cho một ai đó và biết rằng người ấy có thời gian để nghe cô?
ANH: Bỗng dưng anh muốn biết tất cả về cô. Bởi việc không nhìn thấy cô đâu có quan trọng. Cô sẽ tự nói cho anh những gì anh có thể nhìn thấy. Nói bằng những con chữ của riêng mình. Và chúng sẽ chính xác như cô muốn anh nhìn thấy. Và anh tin vào điều đó và sẽ đưa cô đúng như thế - trong ý nghĩ - về nhà và trong trí tưởng tượng của mình. Bởi trên Internet thì quan trọng nhất là những con chữ và trí tưởng tượng.
Mỗi cuộc nói chuyện và gặp gỡ với cô trên Internet đều có không khí và tâm trạng của một cuộc hò hẹn. Chúng trang trọng, chờ đợi và không bao giờ biết trước được sẽ kết thúc ra sao, theo cách của mình. Ngoài ra thì "Jakub, tôi nhớ anh quá" thay cho câu chào của cô mỗi buổi sáng luôn làm anh xúc động.
Hầu như sáng nào cô cũng chào anh. Chỉ có thứ bảy và chủ nhật là không. Và do vậy mà vào thứ hai thì "Jakub, tôi nhớ anh quá" như một khẳng định rằng mọi cái vẫn đang tiếp diễn. Nên từ hôm ba mươi tháng giêng, thứ hai đã trở thành ngày yêu thích trong tuần của anh.
Giữa thứ hai và thứ sáu họ nói về mọi chuyện. Về Chúa, về tiền nong, về thời tiết ở Warszawa, về loại kem dưỡng tốt nhất cho loại da hỗn hợp, về Internet, về gen và chromosom, về màu tóc của cô, giọng nói của cô, về những phương pháp tránh thai phổ thông nhất, về âm nhạc, về sự suy tàn của triết học, về toán học, về mùi nước hoa cô dùng vào buổi sáng và tối. Về tất cả. Thực ra thì khi nói chuyện với cô, đề tài nào cũng trở nên hấp dẫn. Đề tài nào cũng tiết lộ một chút gì đó về cô.
Cô đã bị sốc khi anh nói anh không có ô tô, và ngay khi mùa đông chấm dứt, anh sẽ sung sướng quay lại với cái xe máy của mình. Anh không thể quên câu bình luận hài hước của cô.
Anh không có ô tô?!! Ở nước Đức?! - cô viết với sự ngạc nhiên.
Thế thì anh làm gì vào những ngày cuối tuần? Chẳng phải là người Đức dành những ngày cuối tuần chủ yếu cho việc rửa ô tô sao? Tôi nghe nói là ở Đức, chỉ có những người bị bệnh tâm thần, sinh viên và những người cộng sản mới không rửa ô tô vào thứ bảy.
Tiếp theo cô viết rằng song nếu anh có mua một cái gì đó để có cái mà rửa vào thứ bảy thì nhất định phải mua loại xe địa hình off-road, loại tốt nhất của Mitsubishi, có hộp truyền động low-range và động cơ có khả năng chuyển sang kiểu phối hợp.
Nhưng anh thì chắc là biết rõ về tất cả những điều đó - cuối cùng cô viết thêm.
Đương nhiên là anh không biết! Với lại anh chưa bao giờ muốn biết. Những cái đó đã có nhân viên bán hàng của Mitsubishi biết. Nhưng việc cô biết về những vấn đề như thế này, anh thấy có một cái gì đó... sexy. Lúc đó là chiều, khi cô tư vấn cho anh về cái hộp truyền động low-range. Sau bữa chính, anh không tài nào nuốt nổi cái thứ nước merlot mới, rất tuyệt của Chile mà mãi gần đây anh mới phát hiện ra ấy. Anh hình dung ra họ đang có mặt trên một vùng địa hình, rất off-road và có đầy đủ điều kiện để chuyển sang kiểu phối hợp.
Đương nhiên là anh không biết -anh trả lời - nhưng anh sẽ ghi nhớ: kiểu phối hợp.
Và viết thêm, nhưng rồi ngay lập tức thấy hối hận:
Hôm nay em mặc đồ lót màu gì?
Điều này có lẽ quá sỗ sàng. Họ biết nhau mới chỉ có hai tháng. Cô không trả lời. Chỉ hỏi:
Vậy anh thích cởi đồ lót màu gì nhất?
Nếu cô hỏi ví dụ như "Vậy anh thích màu gì nhất" thì đã không tác động như vậy
Màu xanh lá cây. Ở mọi tông màu - lúc ấy anh trả lời.
Màu xanh cây. Em nhớ rồi. Còn bây giờ em phải đi đây. Anh đừng có làm việc quá nhiều trong những ngày nghỉ cuối tuần đấy.
Cô mất hút, không đợi câu trả lời, chỉ để lại sau mình thông báo của hệ thống ICQ:
User went offline.
Sao anh căm thù dòng thông báo ấy thế không biết! Nhất là vào buổi chiều muộn của thứ sáu. Phòng làm việc bỗng trở nên trống trải. Anh cảm thấy một cái gì đó như là sự pha trộn giữa cay đắng, hờn trách cô, thất vọng và cô đơn. Tất cả cùng một lúc.
Anh biết rõ rằng cần phải đơn giản là chờ đợi. Hơn nữa anh cũng không còn sự lựa chọn nào khác. Cô không thuộc về anh. Cho nên bao giờ anh cũng trữ nhiều rượu vang hơn ở phòng làm việc hay trong tủ lạnh vào thứ sáu. Khi cô rời ICQ và quay về với thế giới thực của mình ở đó, ở Warszawa, thì anh uống một hơi cạn ly vang và rót tiếp ngay ly thứ hai.
Anh bắt đầu làm vậy từ hồi đầu tháng ba. Vào giữa tháng tư thì anh nhận thấy rằng kỳ nghỉ cuối tuần đó là những ngày không được đi làm. Từ cuối tháng tư thì anh nhớ cô thực sự. Đã từng có lần vào tối thứ bảy, anh ngồi lên xe máy và đi qua cả Munich để đến văn phòng, chỉ để kiểm tra xem cô có viết gì không. Có thể cô để quên một thứ gì đấy và cô buộc phải đến văn phòng để lấy, mà máy tính thì nằm đó, và đơn giản là cô viết - anh nghĩ bụng.
Nhưng đã không xảy ra như vậy. Không. Cô chẳng quên thứ gì cả. Trong hộp thư của anh chẳng có lấy một email nào của cô vào tối thứ bảy. Cứ mỗi lần như vậy anh lại hơi thất vọng, nhưng không bao giờ nói với cô điều đó. Với lại sau đó thứ hai cũng sẽ đến. Cà phê sao mà ngon thế. Anh mở máy tính. Tấm thẻ nhỏ màu vàng hứa hẹn kết thúc đợt chờ đợi. Anh kích chuột và đọc "Jakub à, em nhớ anh quá" của cô và lời hứa đã được thực hiện. Cho cả năm ngày dài. Đến thứ sáu.
Chỉ miễn sao anh đừng có quên mua thêm vang vào sáng thứ sáu, khi chuẩn bị đi làm.
CÔ: Kể từ khi gặp anh trên ICQ, phòng làm việc của cô như một địa điểm của những cuộc hẹn hò bí mật. Cô bỗng thích tất cả mọi thứ ở đây. Cái máy tính vốn xám xịt, quá to và quá ồn, những chậu hoa trên cửa sổ mà cô quên tưới, cái bàn làm việc cũ kỹ của cô, mà thậm chí cả mùi nước hoa của cô thư ký mà giờ đây sự gày gò của cô ta không còn là sự dằn vặt của lương tâm những khi cô ngồi ăn sữa chua bên cạnh cô ta nữa. Bỗng nhiên với cô, cô ta không còn là người phụ nữ trong bức ảnh minh hoạ cho bài phóng sự về nạn đói ở Ethiopia nữa. Giờ đây cô có thể ngồi ăn với cô ta cả túi kẹo mà không hề nghĩ tới bất cứ một calo nào!
Cả điều này nữa, cũng bỗng nhiên trở nên dửng dưng đối với cô, rằng chồng cô lại tha về cả chục bản thiết kế cho mấy tháng tiếp theo và chắc chắn là họ sẽ không đi cả Zakopane, cả bất cứ nơi nào khác trước cuối tháng chín. Đại loại là từ cuối tháng ba, quan trọng nhất đối với cô là đọc email của anh vào mỗi sáng, làm nhiều nhất trong số ít ỏi những thứ mà người ta yêu cầu cô cho đến giờ nghỉ trưa và ngay sau đó là gặp anh trên ICQ. Lý tưởng nhất là được nói chuyện với anh cho đến lúc về. Hiếm khi họ được như vậy bởi cả hai đều phải làm việc. Nhưng thỉnh thoảng cũng được. Tuy nhiên bao giờ cũng thế, trước khi cô rời văn phòng - nếu anh đang ở Munich và không đang đi đâu đó thì không bao giờ anh ra khỏi mạng trước cô - họ gặp nhau trên Mạng để tạm biệt.
Họ nói với nhau hầu như về mọi chuyện. Hàng ngày, về tất cả những điều không thường nhật. Với mỗi chữ, với mỗi câu anh lại trở nên gần gũi với cô hơn. Cô không thể nhớ được mình đã làm những gì trong cái văn phòng này trước ngày gặp anh.
Họ chỉ không nói về chồng cô và về những người phụ nữ của anh. Hai đề tài này không cách gì bước vào những câu chuyện của họ được. Việc không xuất hiện một mẩu nào về chồng cô giống như một luật bất thành văn giữa họ. Kể từ khi cô nhận thấy anh hoàn toàn bỏ qua những thông tin về cuộc sống của mình mà trong đó cô dùng số nhiều thì cô chuyển sang dùng số ít. Thoạt đầu cô không hiểu thái độ của anh. Về sau, khi họ đã trở nên cần thiết đối với nhau và tình bạn không được gọi tên ấy đã dần chuyển sang một cái gì đó tình cảm và riêng tư, thì cô hiểu rằng như vậy tốt hơn nhiều. Cả đối với cô cũng vậy.
Cô đề cập đến đề tài những người phụ nữ của anh hoặc trực tiếp, hoặc xen vào các câu hỏi hoặc những câu khiêu khích để anh bình luận. Nhưng anh rất hay bỏ qua những câu hỏi kiểu đó. Tuy nhiên thi thoảng anh cũng phản ứng lại, anh trả lời:
Sẽ có một lúc nào đó anh kể cho em nghe tất cả. Chính xác. Bây giờ thì chưa. Hãy thứ lỗi cho anh.
Cô chỉ biết rằng anh đang độc thân và người phụ nữ duy nhất để anh trao đổi về tình yêu và về giao hưởng Anh hùng của Beethoven là cô. Điều này khiến cô yên tâm, nhưng chẳng được bao lâu. Sự tò mò bất an về quá khứ của anh không lúc nào ngưng trong cô.
Anh mới tinh tế làm sao. Bằng một cách bí ẩn, anh cảm nhận, hầu như không nhầm, tâm trạng của cô. Không bao giờ anh không cố hài hước để cô cười, khi nghĩ rằng nỗi buồn của cô chưa đến nỗi đối lập với nụ cười. Có lần chẳng duyên cớ gì anh hỏi:
Có phải kỳ kinh nào em cũng bị đau không?
Làm sao mà anh biết là cô bị đau và rằng cô đau kinh khủng?! Vào những ngày này anh không đưa ra bất cứ vấn đề gì để tranh luận với cô, vì anh biết rõ rằng những khi đó phụ nữ có thể trở nên khó lường trước được. Anh thường kể cho cô nghe chuyện gì đó mà không hề hỏi về nhận xét của cô. Một cái gì đó kiểu như là: “còn bây giờ em hãy ngồi thật thoải mái nhé, hãy thư giãn, hãy nghe và đừng nói gì cả”. Chính vào một trong những ngày như vậy cô đã hỏi anh:
Jakub, ở đây người ta nói, viết rất nhiều, thậm chí gần đây người ta còn hát về gen. Ai cũng cảm thấy mình có nghĩa vụ phải có một ý kiến nào đó về đề tài này. Em biết là ở Mỹ người ta đã giải mã được toàn bộ bản đồ gen. Đây không chỉ là một đề tài bắt buộc trong các câu chuyện, mà còn là sự mê hoặc. Đúng thế, thậm chí cả cool(*), hiện tại cũng bị mê hoặc bởi bản đồ gen và không chỉ của riêng mình. Anh hãy nói cho em biết đi, người ta giải mã gen như thế nào. Nói làm sao để em hiểu được ấy. Nhưng anh phải nhớ rằng ngoài việc em cũng có gen và em biết anh, thì em tuyệt đối không có gì liên quan đến gen học đâu đấy.
Đoán là sẽ có một cuộc nói chuyện dài, cô mở chat.
ANH: Tại sao em lại muốn biết đúng vào ngày hôm nay?
CÔ: Cơ bản vì đã lâu rồi anh không kể cho em nghe chuyện gì hay ho một tí, mà anh thì biết là em rất thích đọc anh khi anh kể. Ngoài ra, cuối tuần này em mời mấy người đến nhà chơi. Trong đó có một tay mà em không thể chịu nổi, nhưng em tha thứ cho hắn chỉ vì hắn là chồng của cô bạn gái thân của em, - như một sai lầm lớn nhất trong cuộc đời nó. Tay này đọc được gì đó trong bách khoa toàn thư và tỏ ra thông minh suốt cả buổi tối. Từ lâu rồi em đã muốn cho hắn một bài học. Khi tất cả cùng ngồi bên bàn, em sẽ hỏi hắn thật to rằng trong thực tế người ta giải mã gen như thế nào. Em chắc rằng điều này thì hắn chưa kịp đọc trong bách khoa toàn thư, và khi đó, trước mặt tất cả mọi người em sẽ “bóc mẽ” hắn bằng sự thông minh. Đúng hơn là của anh. Em hy vọng rằng sau tối hôm đó hắn sẽ chỉ dám để vợ đến chỗ em, còn bản thân hắn thì không dám ló mặt thêm một lần nào nữa.
ANH: Một lý do tuyệt vời. Em làm anh ngạc nhiên vì những ý tưởng của mình đấy. Với những gien này, đó là chuyện nhỏ.
CÔ: Khoan đã. Bây giờ thì em ngồi thoải mái rồi đây. Đặt tay lên bụng em thầy đỡ đau hơn. Còn bây giờ thì anh kể đi, Jakub!
ANH: Một tẹo nữa, được không? Nói cho anh biết điều gì đó về bụng em đã. Nó như thế nào? Phẳng, to, rám nắng hay trắng ngần?
CÔ: Có lẽ từ ngày đó, bao giờ cũng có nhục thể xen giữa các câu hỏi trong các câu chuyện của họ. Những câu hỏi ấy như là – cô nghĩ thế – phép thử xem có thể tiến xa tới đâu khi hỏi về thân thể cô.
Anh có thể tiến xa hơn thế nhiều từ lâu rồi – cô nghĩ, chạnh lòng khi đọc những câu hỏi như vậy.
Sau đó thì thân thể cô là một đề tài thường xuyên trong các câu chuyện của họ. Anh hỏi rất tinh tế, nhưng có hệ thống về tất cả. Mắt, miệng, bàn tay và cánh tay cô hấp dẫn anh hơn cả. Vào một ngày nào đó anh viết:
Hôm qua anh vào một cửa hàng bán nước hoa và đã thấy các bà thích thú xịt vào chỗ cổ tay để thử những loại nước hoa mới như thế nào. Ngắm nhìn họ, anh cảm thấy muốn được hôn vào cổ tay em quá.
Và ngay sau đó anh đưa ra câu hỏi này. Lần đầu tiên anh đủ can đảm cho một cái gì đó như vậy. Còn như từ trước tới giờ, anh vẫn thận trọng lặng thinh trước bất cứ đề tài nào có thể khiến cô bắt buộc phải nói điều gì đấy về một người đàn ông khác trong cuộc đời mình. Cho dù đó là trong quá khứ hay trong hiện tại. Song lúc ấy anh đã hỏi:
Có ai đó hôn cổ tay em không?
Điều này đã làm cô buồn. Cô chạm tay vào màn hình. Cô cảm thấy cần phải làm thế.
Chưa hề có ai hôn cổ tay em, trước đây hay bây giờ. Cả mặt trong lẫn mặt ngoài. Không có ai ngoài anh cho tới lúc này lại quan tâm đến cổ tay em thậm chí chỉ trong một tích tắc – cô trả lời và viết thêm – Bao giờ chúng mình gặp nhau, anh sẽ hôn cổ tay em, phải không?
Lần ấy anh đã không trả lời cô.
ANH: Có lẽ anh không thể đợi được câu trả lời của em. Vậy em sẽ kể về bụng của em vào lần khác nhé.
Còn bây giờ quay về đám gen của em. Kể từ khi có máy tính, thì việc sắp xếp chuỗi AND của người nằm trọn trong nhân mỗi tế bào đã trở thành nhiệm vụ của các chuyên gia tin học hơn là gen học. Anh bắt đầu từ họ, vì thật ra chính họ thực hiện toàn bộ công trình. Các chuyên gia gen học và sinh học nảy ra một ý tưởng, là làm thể nào để cung cấp cho họ dữ liệu để xử lý. Mà dữ liệu thì rất rất nhiều. Anh sẽ cho em biết ngay là nhiều như thế nào.
Như em biết đấy, gen chẳng là cái gì khác ngoài một chuỗi hoàn chỉnh gồm khoảng 3,5 tỷ hợp chất kiềm hữu cơ đơn giản, những hợp chất này căng ra như những bậc thang giữa hai sợi chỉ bằng phốt-pho và đường. Những sợi chỉ cỡ nanomét này quấn vào nhau thành một chuỗi xoắn kép nổi tiếng, mà gần đây ai cũng phải phát biểu dăm ba câu về chúng.
Bằng các mối liên kết hóa học, các hợp chất tạo nên những cặp và tất cả các cặp này làm thành những bậc thang nối hai sợi với nhau. Mỗi hợp chất đều có tên của mình: guanin, cytozyne, adenine và tymine. Nhưng người ta thường biết đến tên viết tắt của chúng nhiều hơn G, C, A, T. Giải mã gen không là gì khác ngoài việc xác định thứ tự các cặp AT và CG trong cái thang ấy. Không là gì khác. Tìm thứ tự của khoảng 3,5 tỷ cặp chữ cái AT hoặc CG. Như vậy có nhiều không? Nếu mỗi chữ cái A, T, G hoặc C có độ dài chỉ một milimét, thì sau khi sắp xếp toàn bộ mã gien người thành một câu, câu này sẽ dài hơn cả dòng Danube xanh. Mà Danube là dòng sông dài nhất châu Âu. Để đọc hết câu này, cần hơn một trăm năm. Như vậy có lẽ là nhiều, phải không?
Để tái tạo lại ngần ấy dữ kiện, cần phải có nhiều máy tính và những phần mềm tốt. Từ lâu, một trong số các hãng chính giải mã gen đã có trong phòng thí nghiệm của mình ở Rockville công suất tính toán lớn hơn toàn bộ Pentagon. Rất may là điều này chẳng gây phiền toái cho ai. Thiếu cái này thì ngay cả nghĩ đến việc giải mã AND cũng không dám. Lượng thông tin sinh ra từ một phòng thí nghiệm gen cỡ trung bình cũng lớn gấp 20 ngàn lần số tác phẩm mà thiên tài Bach, người được coi là đặc biệt “mắn” trong sáng tác, viết ra trong suốt cuộc đời mình.
Đương nhiên là các nhà sinh học cùng với các nhà gen học đã nghĩ cách cung cấp dữ liệu về chuỗi các hợp chất trong AND. Mười lăm người tình nguyện ở Mỹ, được đảm bảo ẩn danh, đồng ý cung cấp các sợi AND lấy từ nhân tế bào máu và tinh trùng của họ. Những sợi này được đưa vào các tế bào của vi khuẩn E.coli vốn được các nhà sinh học thí nghiệm nhân tế bào yêu quý, vi khuẩn này tự nhân lên với AND của người trong nó, với một tốc độ không thể tưởng tượng nổi. Những tập đoàn E.coili bơm AND như những nhà máy tí hon. Trên các tập đoàn này là những robot đi đi lại lại, chúng kiểm tra những AND được nhân lên thông qua E.coli và tìm ra những phiên bản tốt nhất và dệt sợi chỉ thành sáu mươi triệu đoạn ngắn. Mỗi đoạn như vậy có không nhiều hơn mười ngàn cặp AT hoặc GC. Những đoạn này được gửi đến các ống mao dẫn là một phần của các thiết bị công nghệ tinh vi để sắp xếp chuỗi gien. Tất nhiên là anh có thể liệt kê cho em tên chi tiết và những thông số của các robot và các thiết bị này, để em có thể tống khứ vĩnh viễn cái gã thông thái rởm chỉ biết có mỗi cuốn bách khoa toàn thư kia đi. Chỉ cần em cho anh biết, em có muốn hay không?
Cái ống mao dẫn hút các sợi AND nằm trong các mảnh. Các sợi này di chuyển theo thành ống dẫn lên trên và thoát ra ngoài, hết nấc này đến nấc khác. ATCGCGAT… và vân vân. Mỗi nấc thang như vậy hoặc mỗi cặp hợp chất thoát được lên trên cạnh của ống dẫn lập tức bị lóa mắt bởi một tia laser mạnh. Vì nấc thang, đó là hợp chất, một hợp chất hóa học, nên nó phát sáng trong một phổ xác định. Phổ huỳnh quang của cặp hợp chất đã thoát được ra ngoài ngay lập tức được chuyển đổi thành các dữ liệu số và gửi đến các máy tính để phân tích.
Ánh sáng laser chiếu lên các ống mao dẫn nằm trong dải tần ứng với màu xanh, cho nên những phòng thí ngiệm sắp xếp chuỗi gien vốn luôn hơi tôi tối, khi nhìn qua cửa kính thì giống như những phòng màu xanh bí ẩn đang chiếu phim khoa học viễn tưởng. Anh đã từng có mặt mấy ngày trong một phòng thí nghiệm kiểu như thế ở Boxton. Đôi lần vào buổi tối, anh đến gần những tấm cửa kính, mà bên trong chúng, trong ánh sáng xanh mang sắc thái của bầu trời, những robot, những thiết bị sắp xếp đang nỗ lực giải mã cái mà có thể đã được mã hóa bởi Đấng tạo hóa. Khi quên đi tất cả những máy tính, laser và những ống mao dẫn ấy, thì có thể nghĩ rằng mình đang là nhân chứng của một công trình vĩ đại của con người. vào những lúc đó, bao giờ anh cũng nghĩ đến sự thông minh, đến Chúa và rằng anh đã vô cùng may mắn được tham gia vào công trình đó.
Em có biết là cái màu xanh trong phòng thì nghiệm ấy có thể đẹp như màu xanh của biển?
Cứ phải ngồi lì trên ghế và đọc những dòng này, liệu em có chán quá mà ngủ thiếp đi không? Có đỡ đau bụng chút nào không?
CÔ: Khi anh thôi không viết nữa, cô vẫn ngồi im trên ghế và nghĩ rằng mình đã gặp, hoàn toàn ngẫu nhiên, một người không bình thường, rằng cô muốn có anh mãi mãi. Vĩnh viễn. Ở bên anh sao mà cô cảm thấy mình đặc biệt đến thế, duy nhất đến thế, điều mà cô không thể cảm thấy khi ở cạnh bất cứ ai trên thế gian này.
Lần đầu tiên, ngồi thu mình trên ghế, cô bắt đầu sợ rằng có thể anh sẽ không còn là một phần của đời mình nữa. Cô không thể hình dung ra điều đó. Cô phân vân, tại sao mình lại cảm thấy thế vào chính lúc này, khi đọc về màu xanh của căn phòng mà ở đó máy móc đang sắp xếp chuỗi gien…
ANH: Mải nói với em những chuyện này, anh quên biến đi mất cuộc họp mà người ta đã thông báo cho bọn anh từ tuần trước. Dạo này, khi ở bên em anh đâm quên mất nhiều chuyện. Người ta vừa mới gọi điện nói rằng mọi người chỉ còn chờ mỗi mình anh nữa thôi, anh phải đi đây. Bây giờ. Ngay lập tức. Tha lỗi cho anh nhé.
Hẹn gặp lại sau. Hãy bảo trọng.
CÔ: Anh đi khỏi và cô bỗng cảm thấy trống trái và im ắng khủng khiếp. Cô viết:
Thế giới của em vắng anh bỗng trở nên im ắng quá…

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách