Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Sein
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót | Haruki Murakami

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2012 20:08:53 | Xem tất


Chương 11
Cái Xẻng Này Có Thực Không?
(Chuyện Xảy Ra Trong Đêm - Phần 2)



Chú bé chìm sâu vào giấc ngủ và mơ một giấc mơ sống động như thật. Tuy nhiên, chú biết đây là mơ, điều đó khiến chú phần nào yên lòng. Mình biết đây là mơ, cho nên những gì xảy ra trước đó là thật. Những chuyện đó đã xảy ra, thật sự xảy ra. Mình có thể nói ngay cái này khác cái kia ở chỗ nào.

Trong giấc mơ, chú bé đi ra ngoài vườn. Lúc đó vẫn đang giữa đêm thâu, xung quanh không một bóng người. Chú bé nhặt xẻng và bắt đầu đào cái lỗ mà người đàn ông cao lớn vừa lấp lại. Y đã kê chiếc xẻng vào gốc cây. Đất vừa mới lấp nên đào lên lại không khó, nhưng với chú bé năm tuổi thì chỉ mới nhấc xẻng lên thôi cũng đã hụt hơi rồi. Đã vậy chú không đi giày. Hai gót chân chú sẽ tê cóng vì lạnh. Dù vậy, chú vẫn vừa thở hổn hển vừa đào, cho tới khi tìm thấy cái túi vải mà nguời đàn ông chôn mới thôi.

Con chim vặn dây cót không kêu nữa. Người đàn ông đã trèo lên cây không hề trở xuống. Đêm lặng ngắt đến nỗi nghe ong ong trong tai. Dường như người đàn ông chỉ vừa biến mất thôi. Nhưng nói gì thì nói, đây là mơ kia mà, chú bé nghĩ. Con chim vặn dây cót kêu và người đàn ông trông giống cha của chú trèo lên cây, mấy chuyện đó đâu phải mơ. Những chuyện ấy đã thực sự xảy ra. Vậy là không thể có mối liên kết nào giữa đằng này với đằng kia. Nhưng thật lạ: chú ở đây, trong giấc mơ, đang đào một cái lỗ thật trong thực tại. Vậy làm sao chú phân biệt cái gì là mơ cái gì không phải là mơ? Cái xẻng này có thực không? Hay là cái xẻng ở trong mơ?

Càng nghĩ, chú bé càng không hiểu ra sao. Thế là chú thôi không vắt óc nghĩ nữa mà hoàn toàn tập trung vào việc đào cái lỗ. Cuối cùng, xẻng bập vào túi vải.

Chú hết sức cẩn thận xới nốt chỗ đất bao quanh sao cho không động tới cái túi vải. Đoạn chú quỳ xuống nhấc cái túi ra khỏi hố. Trời không một gợn mây, không có chướng ngại vật nào ngăn làn ánh sáng ẩm ướt của vầng trăng tròn đổ lên mặt đất. Trong mơ, chú hoàn toàn không thấy sợ. Nỗi tò mò ghê gớm là cảm xúc duy nhất ngự trị trong tâm trí chú. Chú mở túi ra thì thấy trong đó một trái tim người. Chú nhận ra trái tim qua hình dáng và màu sắc đúng như bức tranh chú từng thấy trong cuốn bách khoa thư. Trái tim còn tươi rói, còn sống nguyên và cử động, như một đứa bé vừa bị cha mẹ bỏ rơi. Nó vẫn phập phồng đập mạnh dẫu không có dòng máu nào phụt ra từ những lỗ mạch máu bị cắt. Chú bé nghe tiếng đập thùm thụp inh cả tai, nhưng đó là tiếng đập của chính tim chú. Trái tim bị chôn và trái tim chú đập cùng một nhịp, như đang nói chuyện với nhau.

Chú bé cố thở đều mà tự nhủ một cách dứt khoát: "Chẳng có gì phải sợ! Chỉ là trái tim người thôi mà. Y như trong cuốn bách khoa. Ai cũng có một trái như vậy. Mình cũng có". Tự trấn an mình rồi, chú lại gói trái tim vào tấm vải, cho xuống hố rồi lấp đất lại. Chú dùng đôi chân trần san đất cho phẳng để không ai biết là có người đã đào một cái hố ở đó, rồi chú tựa xẻng vào thân cây như trước. Trong đêm, đất lạnh như băng. Xong xuôi đâu đó, chú bé trèo qua bậu cửa sổ, trở về căn phòng ấm áp, quen thuộc của mình. Chú chải bùn đất dính ở chân vào sọt rác để khỏi làm bẩn chăn đệm rồi chui vào giường. Nhưng rồi cậu nhận ra rằng đã có người nằm đó rồi. Ai đó đang ngủ trên giường chú, vùi mình dưới chăn, ngay ở chỗ chú nằm.

Đùng đùng nổi giận, chú bé liền giật mạnh chăn. "Này, cút khỏi đây ngay! Đây là giường của tao!" - chú muốn hét lên như vậy, nhưng không thốt được thành lời, bởi kẻ đang ngủ trên giường kia là chính chú. Chú đang ngủ ngon lành, hít thở đều đặn ở trên giuờng. Chú bé ngây ra như hoá đá, không cất nổi một tiếng nào. Nếu mình đã ngủ ở đây rồi thì cái mình đây sẽ ngủ ở đâu? Lần đầu tiên chú thấy sợ, một nỗi sợ dường như thấu vào tận xương tuỷ chú. Chú bé muốn thét lên. Chú muốn thét càng to càng tốt để đánh thức cái tôi đang ngủ kia dậy, đánh thức tất cả mọi người trong nhà dậy. Nhưng giọng chú đã biến đâu mất. Chú vận hết sức bình sinh, nhưng không bật ra nổi một âm thanh nào. Thế là chú túm vai cái tôi đang ngủ kia mà lay thật lực. Nhưng chú bé đang ngủ kia không thức dậy.

Chú chẳng biết làm gì nữa. Chú cởi áo len ra ném giữa sàn. Đoạn chú ra sức đẩy cái người đang ngủ kia - mà cũng là chú - ra khỏi giường. Chú phải giữ lấy cho mình một chỗ ở đây. Bằng không, có thể chú sẽ bị đẩy bật ra khỏi cái thế giới quen thuộc bấy nay của chú. Nằm co quắp, thậm chí gối cũng chẳng có, nhưng vừa đặt lưng xuống là lập tức chú cảm thấy buồn ngủ lạ lùng. Chú không nghĩ gì được nữa. Chỉ một khoảnh khắc sau chú đã ngủ say như chết.

Sáng hôm sau thức dậy, chú bé đang nằm chính giữa giường, không có ai bên cạnh. Gối đang kê dưới đầu chú. Chú chậm rãi nhỏm dậy, nhìn quanh phòng. Thoạt trông, có vẻ chẳng có gì thay đổi. Vẫn cái bàn đó, cái tủ đó, vẫn cái đèn chân đế kia. Kim đồng hồ chỉ 6 giờ 20 sáng. Nhưng chú bé biết có một cái gì đó đã đổi khác. Mặc dù thoạt trông chẳng có gì thay đổi, nhưng chú bé biết đây không phải là căn phòng nơi chú đi ngủ đêm qua. Không khí, ánh sáng, âm thanh, mùi, tất cả đều khác trước một chút. Người khác có thể không nhận ra, song chú bé thì biết. Chú tung chăn rồi kiểm tra toàn thân mình. Chú giơ hai bàn tay lên rồi lần lượt động đậy từng ngón tay. Tay chú bình thường. Chân cũng ổn. Chú không đau, không ngứa gì. Chú ra khỏi giường rồi xuống phòng vệ sinh. Đi tiểu xong, chú đứng ở bồn rửa nhìn khuôn mặt mình trong gương. Chú cởi áo pijama, đứng lên một chiếc ghế, nhìn hình ảnh phản chiếu cái thân hình bé nhỏ trắng xanh của chú. Không thấy có gì bất thường.

Thế nhưng vẫn có cái gì đó khác. Chú cảm thấy như chính mình đã bị trút vào một cái vỏ chứa khác. Chú biết, chú vẫn chưa hoàn toàn quen với cái cơ thể mới này. Cái cơ thể mới này có gì đó không khớp với cái tôi nguyên thủy của chú. Đột nhiên chú cảm thấy mình thật bơ vơ, không ai giúp đỡ, chú cố gọi mẹ, nhưng cái từ ấy không bật ra khỏi cổ họng chú. Thanh đới của chú không làm rung động nổi không khí, như thể bản thân từ "mẹ" cũng đã biến mất khỏi thế gian. Nhưng chẳng mấy chốc chú nhận ra rằng cái đã biến mất không phải là từ "mẹ".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2012 20:12:34 | Xem tất


Chương 12
Liệu Pháp Bí Mật Của M



TRÒ HUYỀN BÍ LAN TRÀN TRONG GIỚI

KINH DOANH GIẲI TRÍ

(Trính Nguyệt san _____, tháng Mười Một)

... Các liệu pháp huyền bí này, vốn đã trở thành một thứ cơn sốt trong giới kinh doanh giải trí, chủ yếu được lưu truyền bằng cách rỉ tai nhau, nhưng trong một số trường hợp lại mang dấu ấn của vài hội kín nào đó.

Chẳng hạn như trường hợp "M": 33 tuổi, mười năm trước chỉ đóng vai phụ trong các series kịch truyền hình, được công chúng đón nhận và từ đó chuyên đóng vai chính trong phim truyền hình và phim màn ảnh rộng, sáu năm trước đã cưới một "đấng nam nhi thành đạt" làm nghề kinh doanh bất động sản, hai năm đầu vợ chồng sống với nhau hạnh phúc. Chàng làm ăn phát đạt, nàng cũng có một số vai diễn thành công trong điện ảnh. Nhưng rồi nhà hàng ăn uống và shop thời trang mà chàng thành lập mang tên nàng bị thua lỗ, chàng bắt đầu nợ nần chồng chất nhưng về danh nghĩa người mang nợ là nàng. Vốn dĩ M chẳng bao giờ thích thú chuyện kinh doanh, nhưng do chàng muốn khuếch trương việc làm ăn nên nàng đã ít nhiều để chồng cầm tay bảo gì làm nấy. Có người cho rằng bởi chồng nàng bị dính vào một âm mưu lừa đảo. Ngoài ra, ngay từ đầu giữa M với bố mẹ chồng đã chẳng xuôi chèo mát mái rồi.

Rồi lại có lời đồn rằng giữa M với chồng cũng cơm không ngọt, và chẳng bao lâu hai người sống ly thân. Cách đây hai năm hai vợ chồng đã hoàn tất thủ tục ly hôn chính thức sau khi tòa giúp họ thu xếp trả nợ nần, nhưng sau đó M bắt đầu có dấu hiệu trầm uất; vì phải điều trị nên nàng gần như thôi hẳn đóng phim. Theo một nguồn tin ở hãng phim nơi nàng từng làm việc thì từ sau khi ly hôn, M thường xuyên bị hành hạ vì những cơn ảo giác trầm trọng. Nàng tự hủy hoại sức khỏe do dùng quá nhiều thuốc chống trầm cảm, đến độ người ta bắt đầu nói về nàng rằng "Xưa kia cô ấy từng là diễn viên". Theo chúng tôi quan sát, "Nàng đã mất khả năng tập trung vốn rất cần thiết để có thể đóng phim, còn ngoại hình nàng cũng xuống cấp đến đáng kinh ngạc. Đã vậy nàng vốn là người bản chất nghiêm túc nên luôn luôn ưu tư về mọi việc đến nỗi ảnh hưởng xấu đến cả tâm thần nàng. Cũng may, tình hình tài chính của nàng vẫn ổn nên dù không làm gì nàng vẫn có thể sống một thời gian".

Một người họ hàng xa của M là vợ của một chính khách nổi tiếng, cựu bộ trưởng trong Nội các. M gần như là con gái của người này, nên ông ta mới giới thiệu nàng đến gặp một người đàn bà có liệu pháp chữa trị bằng tâm linh cho một nhóm khách hàng rất hạn chế thuộc tầng lớp thượng lưu. M đều đặn đến gặp bà này trong suốt một năm trời để trị chứng trầm uất, nhưng chính xác liệu pháp này bao gồm cái gì thì không ai biết. Bản thân M giữ bí mật hoàn toàn. Dù liệu pháp đó là gì đi nữa thì nó cũng có tác dụng. Chẳng bao lâu M thôi dùng thuốc chống trầm uất, kết quả là nàng không còn bị chứng phù kỳ lạ thường phát sinh do tác dụng của thuốc, tóc nàng lại mọc dày, sắc đẹp của nàng trở lại như xưa. Nàng cũng hồi phục về mặt tâm thần và dần dần đóng phim trở lại. Đến lúc đó thì nàng thôi không điều trị nữa.

Tuy nhiên, vào tháng Mười năm nay, ngay khi ký ức về cơn ác mộng của nàng đã bắt đầu phai nhạt, M lại gặp một sự cố mà trong đó những triệu chứng cũ lại tái phát chẳng vì lý do gì. Thật không đúng lúc chút nào, bởi chỉ vài hôm nữa nàng sẽ phải thủ một vai quan trọng, nhưng trong tình trạng thế này thì nàng không thể đảm đương. M liền liên lạc với người đàn bà nọ yêu cầu được điều trị như mọi lần, nhưng người đàn bà bảo bà ta không còn điều trị nữa. "Tôi rất tiếc, - bà ta nói, - tôi không thể làm gì cho cô. Tôi không còn đủ sức nữa. Tôi đã mất năng lực. Tuy nhiên có một người mà tôi có thể giới thiệu với cô, nhưng cô phải thể giữ bí mật tuyệt đối. Nếu cô hở ra dù chỉ một lời về chuyện này với bất cứ ai thì cô sẽ phải hối tiếc. Thế đã rõ chưa?"

M được chỉ dẫn tới một nơi, tại đó người ta đưa nàng đến gặp một người đàn ông có vết bầm màu xanh trên mặt. Người này trạc ba mươi tuổi, không hề nói với nàng một câu trong suốt thời gian nàng ở đó, nhưng liệu pháp của anh ta "có hiệu lực lạ lùng". M từ chối tiết lột nàng đã phải trả bao nhiêu cho buổi chữa trị, nhưng ta có thể đoán rằng "phí tư vấn" là một khoản tiền khá lớn.

Về liệu pháp bí ẩn mà M đã kể với một người bạn "rất thân", chúng tôi chỉ được biết như sau. Đầu tiên nàng phải đến "một khách sạn nào đó" ở đó nàng gặp một chàng thanh niên có nhiệm vụ đưa nàng đến gặp "người chữa trị". Họ lên "một chiếc xe lớn màu đen" trong một lô đỗ xe đặc biệt dưới lòng đất dành cho VIP rồi đi đến nơi liệu pháp được thực hiện. Tuy nhiên, về bản thân liệu pháp kia thì chúng tôi chẳng biết được gì. Người ta nói M đã bảo bạn nàng, "Những người này có sức mạnh đáng sợ. Nếu mình nuốt lời hứa thì sẽ có những chuyện kinh khủng xảy ra cho mình."

M chỉ đến chỗ đó một lần duy nhất, từ đó trở đi các triệu chứng không trở lại nữa. Chúng tôi đã cố tiếp cận M để tìm thêm thông tin về liệu pháp kia cũng như người đàn bà bí ẩn, song, đúng như chúng tôi đã biết trước, M "cự tuyệt". Theo một nguồn đáng tin cậy, cái "tổ chức" này thường tránh tiếp xúc với giới kinh doanh giải trí mà tập trung vào những giới chính trị và tài chính vốn dĩ kín đáo hơn. Những tiếp xúc của chúng tôi với giới nghệ sĩ cho đến nay không mang lại thêm thông tin gì...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2012 20:14:25 | Xem tất


Chương 13
Kẻ Chờ Đợi

Không Dễ Gạt Bỏ Tôi Như Vậy Đâu

Không Ai Là Một Hòn Đảo Cả



Đã quá 8 giờ, chung quanh tối đen như mực khi tôi mở cánh cổng sau rồi bước ra con ngõ. Cổng rất hẹp, tôi phải lách mình mới len qua được. Cổng cao không đầy một mét, được ngụy trang khôn khéo ở một góc rào để đứng từ bên ngoài thì không thể nhìn thấy cũng chẳng thể sờ ra. Con ngõ bao giờ cũng vậy trồi lên từ trong bóng tối, dưới ánh sáng trắng lạnh của ngọn đèn thủy ngân trong vườn nhà Kasahara May.

Tôi đóng chặt cổng rồi rảo bước theo con ngõ. Qua từng hàng rào tôi thấy loáng thoáng bóng những người đang ăn tối trong phòng ăn hay xem ti vi trong phòng khách. Mùi thức ăn tỏa ra ngoài ngõ qua các cửa sổ nhà bếp và quạt thông gió. Một cậu thiếu niên đang tập một đoạn nhanh trên cây đàn ghita điện hạ thấp âm lượng. Trong một cửa sổ tầng hai, một cô bé nhỏ xíu đang ngồi bên bàn học, vẻ mặt rất nghiêm nghị. Một cặp vợ chồng cãi nhau, tiếng la lối om sòm vang ra ngoài ngõ. Một đứa bé khóc thét. Chuông điện thoại reo. Thực tại tuôn vào con ngõ như nước trào ra khỏi chiếc bát đầy tràn - dưới dạng những âm, những mùi, những hình ảnh, tiếng gọi và lời đáp.

Tôi mang đôi giày tennis quen thuộc. Cần phải đi không quá nhanh, nhưng cũng không quá chậm. Quan trọng là đừng để người ta chú ý, đừng để cái "thực tại" kia phát hiện ra sự có mặt thoáng qua của tôi. Tôi biết rõ từng ngóc ngách, từng vật chướng ngại một. Ngay cả trong bóng tối tôi vẫn có thể đi dọc theo con ngõ kia mà không va vào bất cứ vật gì. Rốt cuộc, khi về đến phía sau nhà mình, tôi dừng lại, nhìn quanh rồi trèo qua bức tường thấp.

Căn nhà lù lù trong bóng tối như cái vỏ của một con thú khổng lồ. Tôi mở khóa cửa bếp, bật đèn rồi thay nước cho mèo. Tôi lấy một hộp thức ăn cho mèo ra khỏi tủ rồi mở ra. Nghe tiếng động đó, Cá thu chẳng biết từ đâu hiện ra. Nó dụi đầu vào chân tôi mấy lần rồi chúi mũi ăn ngon lành. Trong khi con mèo ăn, tôi lấy một lon bia từ trong tủ lạnh. Tôi luôn luôn ăn tối ở Dinh - ở đó Quế đều đặn nấu cho tôi món gì đó - thành thử ở nhà chỉ cần món salad hay một mẩu phó mát là đủ. Tôi vừa uống bia vừa bế con mèo lên đầu gối, để xác nhận bằng hai bàn tay mình cái ấm áp, mềm mại của nó. Suốt ngày chúng tôi ở hai nơi xa nhau, bây giờ cả hai đều muốn cảm nhận rằng mình đang ở nhà.

Nhưng tối hôm đó, khi về đến nhà, vừa cởi giày và vươn tay định bật đèn nhà bếp, tôi bỗng nhận ra sự hiện diện của cái gì đó. Tay tôi chững lại nửa chừng trong bóng tối, nín thở, dỏng tai nghe ngóng. Im lặng như tờ, song tôi ngửi thấy thoang thoảng mùi thuốc lá. Hẳn là ngoài tôi ra, trong nhà đang có một người nữa, người này từ nãy đến giờ ngồi đợi tôi về, và chỉ ít phút trước khi tôi vào nhà đã không nhịn nổi mà châm thuốc hút. Y ta chỉ rít vài hơi rồi mở cửa sổ để khói bay ra ngoài, nhưng cái mùi vẫn còn. Đây hẳn là một người lạ. Cửa thì tôi đã khóa, và trong số những người tôi quen, chỉ một mình Nhục đậu khấu là hút thuốc. Mà nếu bà ta muốn gặp tôi thì hẳn đã không ngồi trong bóng tối thế kia.

Một cách bản năng, tay tôi mò mẫm trong bóng tối tìm cây gậy. Nhưng không có. Cây gậy tôi đã để lại ở giếng. Tim tôi đập thình thình, to đến nỗi như không có thực, như thể nó đã bật ra khỏi lồng ngực mà đập ngay bên tai tôi. Tôi cố thở đều. Có khi tôi cũng chẳng cần gậy. Nếu ai đó lẻn vào nhà nhằm hại tôi thì hẳn y đã không ngồi đợi thế kia. Nhưng dù vậy, hai lòng bàn tay tôi vẫn ngứa ngáy muốn đề phòng. Tay tôi vẫn thèm cái cảm giác siết chặt lấy cây gậy. Con mèo từ đâu xuất hiện, vừa kêu meo meo vừa cọ đầu vào chân tôi. Nhưng lần này nó không đói như mọi khi. Tôi nhận ra điều qua giọng kêu của nó. Tôi sờ được công tắc đèn bếp, liền bật lên.

- Xin ông thứ lỗi cho, tôi cho con mèo ăn rồi, - kẻ đang ngồi trên sofa trong phòng khách nói bằng giọng khá trầm bổng. - Tôi đợi ông từ lâu lắm rồi, thưa ông Okada, mà con mèo thì cứ quẩn chân tôi mà kêu meo meo. Thế là tôi mạo muội lấy thức ăn cất trong chạn ra cho nó. Thật tình mà nói, tôi không hợp với giống mèo lắm...

Y thậm chí không buồn đứng dậy. Tôi nhìn y, không nói gì.

- Hẳn ông bị sốc khi thấy tự dưng có kẻ cha căng chú kiết nào chui vào nhà mình, ngồi đợi mình trong bóng tối. Tôi xin lỗi. Thật tình xin lỗi. Nhưng nếu như tôi bật đèn thì hẳn ông đã cảm thấy có gì bất thường và không vào nhà rồi. Tôi không định làm gì hại đến ông đâu, thành thử xin đừng nhìn tôi như thế. Tôi chỉ muốn nói chuyện với ông một chút thôi.

Y là một người bé nhỏ, vận com lê. Khó mà ước đoán chính xác y cao bao nhiêu bởi y đang ngồi, nhưng hẳn y cùng lắm chỉ hơn mét rưỡi một chút. Khoảng từ bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi, trông y như con ếch béo mẫm có cái đầu hói, một tiêu bản hoàn hảo cho loại A theo bảng phân loại của Kasahara May. Thật ra thì phía trên hai tai y có mấy dúm tóc như được dán vào, nhưng bộ dạng đen đúa xấu xí của chúng chỉ càng làm nổi bật hơn cái đầu hói. Cái mũi to tướng hình như bị ngẹt, vì mỗi khi y hít thở, cái mũi lại co vào phồng ra chả khác cái bễ lò rèn. Phía trên mũi là cặp gọng kính kim loại dày cộp. Mỗi khi y nói, môi trên của y lại cong lên (nhưng chỉ với một số từ nhất định thôi), làm lộ ra hàm răng xiêu vẹo vàng khè vì thuốc lá. Chắc chắn rằng y là kẻ xấu xí nhất tôi từng gặp. Mà không chỉ là xấu xí về thể chất; ở y có cái gì đó tơm tởm, lành lạnh, trơn, ẩm mà tôi không biết tả ra sao, kiểu như khi tay ta chạm phải một thứ sâu bọ to đùng không rõ hình thù trong bóng tối. Y giống như con đẻ của một cơn ác mộng ta đã quên từ lâu hơn là giống con người.

- Tôi hút thuốc được không? - y hỏi. - Tôi đã cố không hút, nhưng cứ ngồi đợi mãi, đợi mãi mà không được rít hơi nào thì quả là cực hình. Thói quen thật là xấu, ông ạ.

Tôi không biết nói thế nào, chỉ gật đầu. Kẻ lạ mặt bé nhỏ rít trong túi áo khoác ra một gói "Peace" không đầu lọc, lấy một điếu đưa lên môi rồi quẹt diêm châm lửa làm bật ra một tiếng động lớn, khô khốc. Y nhặt cái vỏ hộp đựng thức ăn mèo ở dưới chân lên, ném que diêm vào. Ra là y dùng vỏ hộp rỗng làm gạt tàn. Y rít mấy hơi vẻ ngon lành thấy rõ, cặp lông mày sâu róm châu vào nhau thành một đường xệch xạc, rồi rên lên khe khẽ vì thích thú. Cứ mỗi lần y rít một hơi dài, đầu điếu thuốc lại bừng lên như than hồng. Tôi mở cánh cửa kính dẫn ra ngoài hiên cho không khí lọt vào. Ngoài kia đang mưa lâm thâm; không nghe thấy, không nhìn thấy, nhưng ngửi mùi tôi biết.

Gã đàn ông mặc bộ com lê màu nước trà, sơ mi trắng, cà vạt đỏ, đều thuộc hạng rẻ tiền và đều cũ rích như nhau. Màu của bộ com lê làm ta liên tưởng tới những nhát sơn vụng về của một gã tay ngang trên chiếc ô tô cũ. Những nếp nhăn sâu hoắm ở quần và áo khoác xem ra cũng trường tồn như những thung lũng trên một bức khung ảnh. Chiếc sơ mi trắng đã ngả màu vàng, một cúc trên ngực lúc nào cũng chực rơi ra. Lại nữa, chiếc sơ mi xem chừng nhỏ hơn người y đến hai cỡ, cúc trên cùng bung ra, cổ áo thì xơ xác. Cà vạt thắt theo một kiểu kỳ quặc giống như một mẫu tế bào dị dạng, tuồng như một thứ còn sót lại từ thưở anh em nhà Osmond 1. Ai nhìn qua cũng thấy ngay rằng người đàn ông này tuyệt đối chẳng quan tâm gì đến cái gọi là quần áo. Y mặc quần áo đơn giản vì khi ra ngoài gặp người này người nọ thì không thể không mặc gì, dường như y căm ghét cái vụ quần áo này lắm lắm. Hẳn y có ý định sẽ mặc mãi những thứ này cho tới khi chúng bục ra thành từng mảnh, kiểu như tay nông dân vùng cao cưỡi con lừa của gã từ sáng sớm đến tối mịt cho đến khi nó chết mới thôi.

Sau khi đã hít vào phổi đủ lượng đủ nicotin cần thiết, y thở dài khoan khoái, và một cái vẻ kỳ lạ không ra cười cũng không ra nhếch mép hiện trên mặt y. Rồi y mở miệng.

- Ồ vâng, suýt nữa thì tôi quên tự giới thiệu. Xin lỗi, xin lỗi. Thường tôi không thô lỗ thế. Tên tôi là Ushikawa. Ushi là "con bò" ấy, còn kawa là "sông" 2.Tên dễ nhớ phải không. Ai cũng gọi tôi là Ushi - con bò. Buồn cười nhỉ: càng nghe, tôi càng cảm thấy mình đúng là con bò thật. Thậm chí mỗi khi thấy một con bò ngoài đồng, tôi còn cảm thấy mình có mối quan hệ thân thuộc với nó nữa kia. Thật là buồn cười, cái chuyện tên tuổi ấy mà, ông có nghĩ thế không hở ông Okada? Ngay như ông chẳng hạn. Tên đâu ra đó: "ngọn đồi" và "cánh đồng" 3. Đôi khi tôi cũng ước mình có cái tên bình thường như thế, nhưng thật không may, mình đâu thể tự do muốn chọn họ gì thì chọn. Đã sinh ra trên đời với cái họ Ushikawa thì trọn kiếp cứ là Ushikawa, dù muốn hay không. Từ khi tôi còn học mẫu giáo thiên hạ đã gọi tôi là Bò (Ushi) rồi. Có tránh được đâu. Đã mang tên Ushikawa thì người ta cứ thế gọi Ushi, đúng không? Người ta bảo cái tên biểu thị cho tính cách của sự vật, nhưng tôi đồ chừng có khi ngược lại mới đúng: mình bị gọi tên là gì thì càng ngày càng giống cái tên. Thôi thì ông cứ biết tôi là Ushikawa, còn nếu ông thích gọi là Ushi thì xin mời, không sao cả.

Tôi xuống bếp lấy một lon bia trong tủ lạnh. Tôi không mời Ushikawa. Nói gì thì nói, tôi không mời y tới. Tôi không nói gì, chỉ lẳng lặng uống bia, Ushikawa cũng không nói gì, lẳng lặng rít thuốc. Tôi không ngồi trên chiếc ghế đối diện y mà đứng tựa lưng vào một cái cột, nhìn xuống y. Cuối cùng, y dụi mẩu thuốc vào cái vỏ hộp thức ăn mèo, đoạn nhìn lên tôi.

- Chắc hẳn ông đang tự hỏi làm sao tôi vào đây được, phải không ông Okada? Khi ra khỏi nhà ông đã khóa cửa cơ mà. Đúng là cửa khoá thật. Nhưng tôi có chìa khóa. Chìa thật hẳn hoi. Nhìn này.

Y thọc tay vào túi áo khoác rút ra một chiếc chìa khóa kèo theo móc khoá, đưa cho tôi xem. Trông giống chìa khóa nhà này thật. Nhưng cái làm tôi chú ý là chiếc móc khoá. Kumiko có một cái móc khóa hệt vậy bằng da màu xanh lục, trông giản dị, với một cái vòng kim loại đóng mở không theo lối thường.

- Chìa thật, như ông thấy đó. Móc khóa thì là của vợ ông. Tôi xin nói ngay, để tránh mọi hiểu lầm: cái này là do vợ ông, Kumiko, đưa cho tôi. Tôi không ăn cắp hay đoạt lấy bằng vũ lực.

- Kumiko đâu? - tôi hỏi, giọng tôi như lạc đi.

Ushikawa tháo kính ra như để kiểm tra xem mắt kính có bị đọng hơi nước không, rồi lại đeo vào.

- Tôi biết chính xác bà ấy đang ở đâu, - y nói. - Thật ra tôi đang trông nom bà ấy.

- Trông nom cô ấy?

- Nào, nào, xin đừng hiểu lầm tôi. Tôi không có ý ấy. Đừng lo, - Ushikawa vừa nói vừa cười. Khi y cười, mặt y méo xệch từ bên này sang bên nọ, và cặp kính của y xệ xuống một bên. - Xin ông đừng nhìn tôi như thế. Tôi chỉ giúp bà Kumiko đôi chút như chạy vặt, làm mấy việc linh tinh thôi. Tôi chẳng qua là thằng long toong chạy giấy. Ông cũng biết bà ấy không thể ra khỏi nhà mà.

- Không thể ra khỏi nhà? - tôi nhại lại lời y.

Y ngần ngừ một chút, liếm liếm môi.

- Có lẽ ông không biết. Không sao cả. Nhưng tôi không thể nói chắc là bà ấy không thể ra ngoài hay không muốn ra ngoài. Chắc hẳn là ông muốn biết, nhưng xin đừng hỏi tôi. Tôi đây cũng đâu biết mọi chi tiết được. Nhưng chẳng việc gì ông phải lo. Không ai giam giữ bà ấy ngoài ý muốn bà ấy hết. Ý tôi là đây không phải chuyện phim hay tiểu thuyết. Chúng tôi đâu thể làm những chuyện như vậy.

Tôi cẩn thận đặt vỏ hộp bia xuống dưới chân.

- Thôi đuợc, thế thì nói tôi nghe, ông đến đây làm gì?

Ushikawa xoè rộng hai tay vỗ vỗ lên đầu gối mấy lần rồi gật đầu vẻ cả quyết.

- À vâng. Tôi chưa nói với ông. Cất công tự giới thiệu với ông còn mình đến đây để làm gì thì lại không nói! Tôi có cái nhược điểm này đã bao năm không sửa được, ấy là cứ huyên thuyên toàn những chuyện đâu đâu, còn cái chính thì quên mất. Chả trách tôi luôn luôn làm hỏng việc! Thôi đành muộn còn hơn không, thì đây; tôi làm việc cho anh trai bà Kumiko nhà ta. Tên tôi là Ushikawa, nhưng chuyện ấy tôi nói với ông rồi, về cả Ushi với lại gì gì đó nữa. Tôi làm việc cho Tiến sĩ Wataya Noburo, kiểu như là thư ký riêng - chỉ có điều, không phải là loại thư ký riêng mà các ông nghị thường có đâu. Chỉ một loại người nhất định, một hạng người ưu tú mới có thể là "thư ký riêng" thứ thiệt thôi. Nhưng "thư ký riêng" cũng có ba bảy đường. Ý tôi là có những người là thư ký riêng, rồi lại có những người khác cũng là thư ký riêng, nhưng là một loại khác, mà tôi thì gần loại thứ hai này. Tôi ở hàng dưới, ở mãi dưới cùng ấy. Giả dụ như chỗ nào cũng có thổ công thì tôi là cái thứ thổ công nhớp nhúa rúc trong góc buồng tắm hay xó tủ. Nhưng tôi đâu thể than phiền gì. Cứ tưởng tượng mà xem, nếu một thằng lôi thôi lếch thếch như tôi chường mặt ra trước thiên hạ thì còn gì là hình ảnh tinh tươm của tiến sĩ Wataya Noboru nữa! Không, ra trước ống kính thì phải là kẻ nào trông đường hoàng, thông minh sáng láng cơ, chứ không phải một tay lùn tịt hói đầu. "Xin chào quý vị, tôi là thư ký riêng của Tiến sĩ Wataya". Đến là chết cười! Đúng không ông Okada?

Tôi im lặng trong khi y huyên thuyên.

- Nghĩa là tôi làm cho Tiến sĩ Wataya những việc người ngoài không nên nhìn thấy, có thể gọi là "việc trong bóng tối". Tôi là tay vĩ cầm nấp trong cánh gà. Những việc như thế là nghề của tôi. Việc bà Kumiko đây chẳng hạn. Ồ không, xin đừng hiểu lầm tôi, chớ nghĩ rằng chăm nom bà ấy là thứ công việc chán ngắt dành cho một tên chạy giấy quèn. Tiếc rằng những gì tôi nói gây cho ông ấn tượng đó, nhưng sự thật hoàn toàn ngược lại! Dù sao đi nữa, bà Kumiko là người em gái nhỏ duy nhất mà Tiến sĩ vô cùng yêu quý; thành thử khi được giao nhiệm vụ hệ trọng đến nhường ấy, tôi coi đó là niềm vinh dự lớn lao; xin hãy tin tôi!

Ồ, mà nhân thể, nói ra thì có vẻ sỗ sàng quá, tôi có thể xin ông một hớp bia không? Nói chuyện nãy giờ làm tôi khát khô cả cổ đây. Nếu ông cho phép, tôi sẽ tự lấy. Tôi biết ở đâu mà. Trong khi đợi ông, tôi đã mạn phép ghé mắt vào tủ lạnh rồi.

Tôi gật đầu. Ushikawa xuống bếp lấy một chai bia trong tủ lạnh. Rồi y lại ngồi xuống sofa, tu luôn bằng cổ chai với vẻ thật ngon lành, cục hầu to gộ của y giật bên trên nút thắt cà vạt như một con vật sống.

- Trên đời này còn gì tuyệt hơn là một ngụm bia lạnh vào cuối ngày, hở ông Okada? Có vài người kén cá chọn canh bảo bia hơi lạnh thì vị không ngon, nhưng tôi chả đời nào đồng ý. Chai bia đầu tiên phải lạnh đến mức thậm chí không nếm được nữa kia. Chai thứ hai thì có thể ít lạnh hơn một tí, nhưng chai đầu thì phải lạnh như nước đá. Tôi muốn nó lạnh đến nỗi thái dương tôi giần giật vì đau. Ấy tôi thích thế; dĩ nhiên là sở thích cá nhân.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2012 20:16:20 | Xem tất


Tôi im lặng trong khi y huyên thuyên.

- Nghĩa là tôi làm cho Tiến sĩ Wataya những việc người ngoài không nên nhìn thấy, có thể gọi là "việc trong bóng tối". Tôi là tay vĩ cầm nấp trong cánh gà. Những việc như thế là nghề của tôi. Việc bà Kumiko đây chẳng hạn. Ồ không, xin đừng hiểu lầm tôi, chớ nghĩ rằng chăm nom bà ấy là thứ công việc chán ngắt dành cho một tên chạy giấy quèn. Tiếc rằng những gì tôi nói gây cho ông ấn tượng đó, nhưng sự thật hoàn toàn ngược lại! Dù sao đi nữa, bà Kumiko là người em gái nhỏ duy nhất mà Tiến sĩ vô cùng yêu quý; thành thử khi được giao nhiệm vụ hệ trọng đến nhường ấy, tôi coi đó là niềm vinh dự lớn lao; xin hãy tin tôi!

Ồ, mà nhân thể, nói ra thì có vẻ sỗ sàng quá, tôi có thể xin ông một hớp bia không? Nói chuyện nãy giờ làm tôi khát khô cả cổ đây. Nếu ông cho phép, tôi sẽ tự lấy. Tôi biết ở đâu mà. Trong khi đợi ông, tôi đã mạn phép ghé mắt vào tủ lạnh rồi.

Tôi gật đầu. Ushikawa xuống bếp lấy một chai bia trong tủ lạnh. Rồi y lại ngồi xuống sofa, tu luôn bằng cổ chai với vẻ thật ngon lành, cục hầu to gộ của y giật bên trên nút thắt cà vạt như một con vật sống.

- Trên đời này còn gì tuyệt hơn là một ngụm bia lạnh vào cuối ngày, hở ông Okada? Có vài người kén cá chọn canh bảo bia hơi lạnh thì vị không ngon, nhưng tôi chả đời nào đồng ý. Chai bia đầu tiên phải lạnh đến mức thậm chí không nếm được nữa kia. Chai thứ hai thì có thể ít lạnh hơn một tí, nhưng chai đầu thì phải lạnh như nước đá. Tôi muốn nó lạnh đến nỗi thái dương tôi giần giật vì đau. Ấy tôi thích thế; dĩ nhiên là sở thích cá nhân.

Vẫn tựa lưng vào cột, tôi nhấp thêm ngụm bia. Môi mím chặt thành một đường thẳng, Ushikawa nhìn quanh phòng một lát.

- Ông Okada à, phải nói rằng tuy không ở với vợ nhưng ông vẫn giữ cho nhà khá là sạch đấy. Ấn tượng lắm. Còn tôi thì, nói ra thật xấu hổ, hoàn toàn vô phương cứu vãn. Nhà tôi chả khác gì đống rác hay chuồng lợn. Đã hơn năm nay tôi không cọ rửa buồng tắm. Chắc tôi quên nói với ông rằng tôi cũng bị vợ bỏ. Năm năm nay rồi. Vì vậy tôi thông cảm với ông, ông Okada ạ, hay là, nói chính xác hơn, để tránh hiều lầm, tôi có thể hiểu cảm giác của ông. Dĩ nhiên, hoàn cảnh của tôi khác của ông. Vợ tôi bỏ tôi là phải thôi, không thể khác được. Tôi là thằng chồng thậm tồi thậm ác nhất trên đời. Tôi chẳng kêu ca gì, có khi còn khâm phục cô ấy đã chịu đựng tôi được ngần ấy năm. Tôi đánh cô ấy luôn. Ngoài cô ấy ra tôi có còn đánh ai được nữa đâu? Nhìn tôi ông cũng biết tôi lẻo khoẻo thế nào rồi. Gan thì gan cóc tía. Tôi chẳng làm gì, suốt ngày lông nhông ngoài phố, thiên hạ gọi tôi "Này, Bò!" và sai bảo tôi hết việc này việc nọ, nhưng tôi nhịn tất, người ta có nói gì tôi cũng chỉ ngậm tăm. Thế nhưng về tới nhà là tôi trút hết lên mụ vợ. Hê hê hê! Tệ quá phải không? Tôi biết mình tệ thế nào chứ, nhưng tôi không kìm được. Nó như một chứng bệnh ấy. Tôi hay đánh cô ta sưng vêu cả mặt mày nhìn không nhận ra. Mà có phải chỉ đánh thôi đâu, tôi còn dập cô ta vào tường, đá cô ta, rót trà nóng lên cô ta, vớ được gì ném nấy vào cô ta, thôi thì chả thiếu trò gì. Lũ trẻ cố ngăn tôi lại, thế là tôi tẩn luôn chúng nó. Bọn trẻ còn nhỏ, hồi đó chừng bảy tám tuổi. Ấy vậy mà không phải chỉ đuổi vòng quanh đâu, vớ được gì là vụt nấy. Như là quỷ nhập vào tôi vậy. Tôi cố ngăn mình lại mà không được. Tôi không kiểm soát được mình. Có những lúc tôi tự nhủ: thôi đủ rồi, dừng lại thôi, nhưng không cách nào dừng được. Ông có thấy tôi là thứ kinh tởm đến thế nào chưa? Thế rồi năm năm trước, khi con gái tôi lên năm, tôi làm gãy tay nó. Vợ tôi hết chịu nổi, liền bỏ đi đem theo cả hai đứa con. Từ đó tới giờ tôi không gặp lại mấy mẹ con nữa. Thậm chí chẳng có tin tức gì. Nhưng biết làm sao được? Chính tôi có lỗi mà.

Tôi không nói gì. Con mèo lại gần tôi kêu meo khe khẽ như muốn được tôi chú ý.

- Mà thôi, tôi xin lỗi, tôi không định làm ông chán ngấy vì những chuyện linh tinh kia. Ông hẳn đang tự hỏi liệu có việc gì để khiến tôi phải đến đây vào tối nay. Có đấy. Tôi không tới đây để nói toàn chuyện phiếm đâu, ông Okada ạ. Tiến sĩ - ấy là Tiến sĩ Wataya - lệnh cho tôi tới đây gặp ông. Giờ tôi sẽ truyền đạt lại chính xác những gì ông ấy nói, nên xin ông hãy lắng nghe.

Trước tiên, Tiến sĩ Wataya không phản đối việc xem xét lại mối quan hệ giữa ông Okada và cô Kumiko. Nói cách khác, Tiến sĩ sẽ không chống lại nếu hai ông bà quyết định nối lại quan hệ vợ chồng. Hiện nay cô Kumiko không có ý định đó, nên chuyện đó sẽ không xảy ra ngày một ngày hai, nhưng nếu ông vẫn không chịu ly hôn mà sẵn sàng đợi bao lâu cũng được thì ông ấy cũng chấp nhận. Ông ấy sẽ không khăng khăng đòi ông phải ly dị như trước nữa, vì vậy nếu ông muốn liên lạc gì với cô Kumiko thì có thể thông qua tôi. Nói cách khác, sẽ không còn bế quan toả cảng nữa, quan hệ ngoại giao được phục hồi, có thể nói vậy. Đó là việc thứ nhất. Ông thấy thế nào, hở ông Okada?

Tôi ngồi thụp xuống sàn vuốt đầu con mèo, không nói gì. Ushikawa quan sát tôi và con mèo một lát rồi nói tiếp.

- Dĩ nhiên là chừng nào chưa nghe hết những gì tôi cần nói thì ông không thể nói gì cả. Vậy thì tôi sẽ nói cho đến hết. Việc thứ hai đây. Cái này thì e chừng phức tạp hơn một chút. Nó liên quan tới một bài báo có tựa đề "Căn nhà có dớp" đăng trên một trong các tuần báo. Tôi không biết ông Okada đã đọc chưa, bài báo rất hay. Viết giỏi lắm. "Một nơi xúi quẩy tại khu dân cư sang trọng ở Setagaya. Những năm qua đã có nhiều người chết bất đắc kỳ tử. Con người kỳ bí vừa mua khu đất ấy là ai? Cái gì đang diễn ra sau hàng rào cao đó? Bí ẩn lại chồng lên bí ẩn..."

Tiến sĩ Wataya đọc bài báo thì nhận ra rằng "căn nhà có dớp" nằm rất gần nhà của ông, ông Okada ạ. Ông ấy đâm ra có ý nghĩ này: biết đâu có mối liên hệ nào đó giữa căn nhà đó với ông Okada. Thế là ông ấy điều tra... ồ không, phải nói là tôi đây, gã Ushikawa hèn mọn đi trên đôi chân nhỏ ngắn tũn này, đã mạn phép tự lãnh phần điều tra vụ việc, và kia rồi: đúng như Tiến sĩ đã dự đoán, ông Okada đây ngày nào cũng theo cái ngõ đó đi đi về về giữa nhà mình với nhà kia và rõ là dính líu ra trò tới những gì có trời biết đang diễn ra trong đó. Chính tôi phải kinh ngạc khi trông thấy nhãn tiền cái trí thông minh mẫn tuệ đến kỳ tài của Tiến sĩ Wataya.

Cho tới giờ chỉ mới có một bài báo, chưa có bài nào tiếp theo, nhưng ai biết được? Than hồng sắp tắt vẫn có thể lại bùng lên bất cứ lúc nào. Chuyện thú vị đến thế kia mà! Vì vậy Tiến sĩ Wataya lo lắm. Nhỡ ra trong một vụ lôi thôi nào đó lại lôi ra tên cậu em rể ông ấy thì sao? Xì căng đan ra trò nhé! Nói gì thì nói, Tiến sĩ Wataya đang là nhân vật có tiếng tăm. Báo chí sẽ nhâu nhâu bám lấy như ruồi... Lại còn mối quan hệ rắc rối giữa ông và cô Kumiko nữa. Họ sẽ thổi phồng đến đâu ấy chứ. Ai lại chẳng có vài chuyện không muốn bị phô ra trước thiên hạ, phải không nào? Nhất là những chuyện riêng tư. Hiện nay đang là thời điểm hệ trọng trong sự nghiệp chính trị của Tiến sĩ Wataya. Ông ấy phải vượt qua cái vụ này một cách hết sức cẩn trọng thì mới cất lên được. Thành thử ông ấy đã nghĩ ra cách này cho ông. Nếu ông Okada cắt đứt mọi liên hệ với "căn nhà có dớp" thì ông ấy sẽ suy nghĩ nghiêm túc về việc tái hợp giữa ông và cô Kumiko. Chỉ có thế thôi. Ông thấy thế nào? Tôi nói đã đủ rõ chưa?

- Chắc là rõ, - tôi nói.

- Vậy ông nghĩ sao? Về những gì tôi vừa nói ấy?

Tôi vừa vuốt cổ con mèo vừa ngẫm nghĩ một chút rồi nói:

- Tôi không hiểu. Tại sao Wataya Noboru lại cho rằng tôi có liên hệ này nọ với cái nhà đó được? Làm thế nào anh ta nghĩ ra được chuyện đó cơ chứ?

Ushikawa ngoác miệng cười, nụ cười làm mặt y méo xệch lại, nhưng mắt y vẫn lạnh như băng. Y rút một điếu thuốc ra khỏi hộp rồi quẹt diêm châm lửa.

- Chà chà, ông Okada, ông hỏi những câu hóc quá đi. Hãy nhớ, tôi chỉ là thằng đưa tin hèn mọn. Một bồ câu đưa thư đần độn, đem thư tới, mang thư hồi âm về, thế thôi. Chắc ông hiểu. Tuy nhiên, tôi có thể nói thế này: Tiến sĩ không phải là thằng ngốc. Ông ấy biết dùng cái đầu mình, ông ấy còn có kiểu giác quan thứ sáu, cái ấy thì người thường không có được. Ông cũng cho tôi nói điều này nữa, ông Okada ạ: ông ấy có quyền lực thực sự trong cái thế giới này, mà cái quyền lực ấy ngày càng mạnh. Đừng nhắm mắt làm ngơ, hãy thừa nhận nó thì hơn. Ông có lí do để không thích ông ấy - với tôi thì chuyện ấy không sao cả, không phải việc của tôi - nhưng vấn đề không còn ở chuyện thích hay không thích nữa mà đã đi xa hơn thế nhiều. Tôi muốn ông hiểu chuyện đó.

- Nếu Wataya Noboru đầy quyền lực như vậy, tại sao hắn ta không bắt tờ tạp chí kia thôi ngay, không được đăng nhưng bài kiểu đó nữa? Làm như vậy đơn giản hơn nhiều chứ.

Ushikawa mỉm cười. Rồi y rít một hơi thuốc dài.

- Ông Okada ơi là ông Okada! Ông đừng ăn nói hồ đồ vậy. Nói gì thì nói, ông với tôi đang sống ở Nhật Bản, một trong nhưng nước dân chủ đáng tin cậy nhất thế giới kia mà. Có đúng không? Đây nào phải một xứ độc tài xung quanh toàn đồn điền chuối với sân bóng đá chứ. Dù một chính sách có quyền lực đến cỡ nào ở xứ này đi nữa bóp chết một bài báo trong tạp chí không phải là chuyện dễ. Nguy hiểm cực kỳ. Ông có thể dập đám chóp bu của tờ báo dễ như trở bàn tay, nhưng rồi sẽ có người bất mãn. Đã có người bất mãn thì chỉ tổ khiến thiên hạ chú ý nhiều hơn. Với nhưng đề tài nóng như kiểu này thì không thể buộc thiên hạ nhất nhất theo mình được. Tin tôi đi. Còn chuyện này nữa, nói riêng giữa tôi với ông thôi: có thể còn một vài nhân vật ám muội dây vào vụ này nữa, nhưng nhân vật này ông không biết đâu, ông Okada ạ. Trong trường hợp đó thì rốt cuộc sẽ dính líu không chỉ tới Tiến sĩ. Đến khi đó thì cục diện sẽ hoàn toàn khác. Ta hãy so sánh chuyện này với đi nhổ răng. Cho đến giờ chúng ta mới đến giai đoạn chọc vào một chỗ mà thuốc tê vẫn có tác dụng. Chính vì vậy chăng ai kêu ca gì. Nhưng chẳng mấy chốc mũi khoan sẽ chạm tới dây thần kinh, khi đó sẽ có người nhảy dựng khỏi ghế. Ai đó sẽ đùng đùng nổi giận. Ông hiểu điều tôi nói chứ? Tôi không có ý dọa ông đâu, nhưng tôi, cái lão già Ushikawa này, tôi cảm thấy như ông đang từ từ dấn vào một lãnh địa nguy hiểm mà không biết.

Xem chừng rốt cuộc Ushikawa đã nói hết những gì cần nói.

- Ý ông là tôi nên rút lui trước khi bươu đầu mẻ trán? - tôi hỏi.

Ushikawa gật đầu.

- Đây chẳng khác gì chơi bóng ngay giữa đường cao tốc vậy. Nguy hiểm cực kỳ. Với lại, chuyện này sẽ gây cho Wataya Noboru lắm phiền toái.

- Thành thử nếu tôi rút lui thì anh ta sẽ cho tôi liên lạc với Kumiko?

Ushikawa lại gật

- Nói chung là vậy.

Tôi nhấp một ngụm bia. Rồi tôi nói:

- Trước hết, để tôi nói với ông thế này. Tôi sẽ đưa Kumiko về, nhưng việc ấy tự tôi sẽ làm, không cần Wataya Noboru giúp. Tôi không cần hắn giúp. Có một điều ông nói đúng: tôi không ưa Wataya Noboru. Dù vậy, như ông nói, đây không phải là chuyện ưa hay không ưa. Vấn đề còn hơn thế. Tôi không chỉ không ưa Wataya Noboru, tôi còn không thể chấp nhận ngay chính sự tồn tại của hắn. Vì vậy sẽ không có chuyện dàn xếp gì với hắn hết. Ông làm ơn truyền đạt lại với hắn như thế. Và đừng bao giờ trở lại căn nhà này mà không xin phép một lần nữa. Đây là nhà của tôi, chứ không phải tiền sảnh khách sạn hay ga tàu điện.

Ushikawa nheo nheo mắt nhìn tôi từ dưới cặp kính. Mắt của y vẫn bất động. Cũng như trước, chúng hoàn toàn vô cảm. Không phải chúng hoàn toàn không biểu hiện cảm xúc gì. Nhưng ở đó chẳng có gì khác ngoài một cái gì đó tạm thời được nặn ra dành riêng cho tình huống này. Ushikawa giơ lòng bàn tay phải to một cách mất cân đối lên như để kiểm tra xem có mưa không.

- Tôi hoàn toàn hiểu. - Y nói. - Ngay từ đầu tôi đã biết là không dễ mà, nên tôi không ngạc nhiên trước câu trả lời của ông. Ngoài ra, tôi khó mà ngạc nhiên vì chuyện gì lắm. Tôi hiểu ông, và tôi thấy vui rằng mọi chuyện được nói ra một cách thẳng thắn thế này, không "rằng thì là mà" gì hết, chỉ một tiếng "có" hoặc "không", đơn giản. Vậy dễ cho mọi người. Loại bồ câu đưa thư đần độn như tôi sợ nhất là những câu trả lời vòng vo tam quốc, chẳng biết là đen hay trắng nữa! Trên đời thiếu gì khối những trường hợp như vậy! Chả phải tôi than phiền đâu, nhưng ngày nào tôi cũng gặp toàn những vị trả lời cứ như đánh đố nhau. Làm thứ việc này tổn thọ lắm, phải nói với ông thế. Ông có hiểu ý tôi không hở ông Okada? Ông lúc nào cũng hoài nghi, lúc nào cũng cố lần ra những động cơ thầm kín của người ta, chẳng bao giờ dám tin vào những gì rõ ràng, đơn giản. Kinh khủng lắm, ông Okada ạ, thật đấy.

Thế thì được, ông Okada à, tôi sẽ cho Tiến sĩ biết ông đã có một câu trả lời rõ ràng, dứt khoát. Nhưng ông đừng mong mọi chuyện tới đây là xong. Ông có thể muốn chấm dứt chuyện này đi, nhưng không đơn giản vậy đâu. Chắc hẳn tôi sẽ còn phải tới gặp ông nữa. Tôi lấy làm tiếc buộc ông phải dây dưa với một thằng lùn xấu xí nhếch nhác thế này, nhưng xin ông hãy cố làm quen ít nhất là với sự hiện hữu của tôi. Tôi không có ác cảm cá nhân nào với ông cả, ông Okada ạ. Thật đấy. Nhưng tạm thời, dù ông có muốn hay không, ông sẽ không dễ dàng gạt bỏ tôi đâu. Nói thế nghe hơi lạ, nhưng ông hãy cố nghĩ về tôi như thế. Tuy nhiên, tôi có thể hứa với ông một điều. Tôi sẽ không tự tiện vào nhà ông như vậy nữa. Ông nói đúng lắm: cư xử như vậy không nên. Ôi cha, lẽ ra tôi phải quỳ xuống xin ông cho vào mới phải chứ. Lần này tôi không có cách nào khác, xin ông hiểu cho. Đâu phải khi nào tôi cũng trơ tráo như vậy. Ngược lại với bề ngoài, tôi là một người bình thường. Từ đây trở đi, tôi sẽ làm như mọi người là gọi điện thoại trước. Thế là ổn chứ, phải không? Tôi sẽ gọi một lần, gác máy rồi lại gọi nữa. Bằng cách đó thì ông sẽ biết đó là tôi gọi đấy, và ông có thể tự nhủ: "Ồ, lại cái thằng đần Ushikawa đây mà" khi nhấc máy. Nhưng xin ông hãy nhấc máy. Bằng không, tôi sẽ lại chẳng có cách nào khác hơn là tự tiện vào. Cá nhân tôi đâu muốn làm vậy, nhưng đã ăn lương thì phải vẫy đuôi thôi, thành thử khi sếp bảo "Làm đi!" thì tôi phải cố làm cho bằng được. Ông hiểu mà.

Tôi chẳng nói gì. Ushikawa dụi mẫu thuốc còn lại vào đáy cái vỏ hộp thức ăn mèo, đoạn liếc đồng hồ đeo tay như thể chợt nhớ ra chuyện gì.

- Ôi cha mẹ ơi, muộn quá rồi! Trước là xông bừa vào nhà, sau đó nói đủ thứ chuyện trên trời dưới biển với ông, rồi lại uống bia của ông nữa. Ông thứ lỗi cho nhé. Như tôi đã nói trước đây, ở nhà chẳng có ai đợi tôi về cả, thành thử mỗi khi gặp người cùng nói chuyện được thì tôi có thể cà kê tới sáng. Buồn quá phải không ông? Tôi phải nói điều này, ông Okada ạ, sống một thân một mình thì không lâu được đâu. Thiên hạ nói thế nào ấy nhỉ? "Không ai là một hòn đảo cả" 4. Hay là "Nhàn cư vi bất thiện".

Ushikawa phủi phủi vài hạt bụi tưởng tượng bám trên đùi rồi đứng dậy.

- Không cần tiễn tôi đâu, - y nói. - Tôi đã tự vào đây thì cũng có thế một mình ra về được. Tôi sẽ nhớ khóa cửa. Tuy nhiên, xin có lời cuối khuyên ông, ông Okada ạ, mặc dù có thể ông không muốn nghe. Trên đời này có những chuyện tốt nhất là không nên biết. Dĩ nhiên, đó cũng chính là những chuyện người ta muốn biết hơn cả. Lạ thật! Dĩ nhiên, tôi chỉ nói chung chung thế thôi... Không biết khi nào chúng ta sẽ gặp lại nhau? Mong rằng tới khi đó mọi chuyện sẽ ổn hơn. Thôi nhé, chúc ngủ ngon.

° ° °


Mưa vẫn rơi lâm thâm suốt cả đêm, mãi gần rạng sáng mới ngớt, nhưng cái bóng dáng nhớp nháp của gã đàn ông bé nhỏ kỳ quặc cùng với mùi thuốc lá không lọc của y cứ nhằng nhẵng trong nhà như hơi ẩm mãi không sao hết được.

--------------------------------
1.Anh em Osmond: một ban nhạc lừng danh của Mỹ, khởi nghiệp vào đầu thập niên 1969 - ND.

2.Ushikawa, viết bằng Hán tự (Kanji) là Ngưu Hà - ND.

3.Okada, viết bằng Hán tự (Kanji) là Cương Điền - ND.

4."No man is a island," một câu trong bài thơ nổi tiếng của thi sĩ - nhà truyền học người Anh John Donne (1572-1631), hàm ý không một người nào có thể sống hoàn toàn tách biệt với những người khác. Mỗi người là một mảnh đất của lục địa, mỗi người đều có những mối liên kết với những người khác, số phận của anh ta luôn gắn liền với số phận của cái toàn thể - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2012 20:18:52 | Xem tất


Chương 14
Ngôn Ngữ Cử Chỉ Kỳ Lạ Của Quế

Món Quà Âm Nhạc



- Quế vĩnh viễn ngừng nói ngay trước sinh nhật lần thứ sáu, - Nhục đậu khấu nói với tôi. - Lẽ ra năm ấy nó phải vào học tiểu học. Hoàn toàn đột ngột, vào tháng Hai năm ấy, nó ngừng nói. Cũng lạ, mãi đến tối vợ chồng tôi mới nhận ra rằng suốt cả ngày nó không nói một tiếng nào.

Thật ra nó vẫn là đứa ít lời, nhưng dù sao vẫn có nói năng. Khi nhận ra điều đó, tôi đã làm hết cách để cho nó nói. Tôi trò chuyện với nó, tôi lay nÓ song vô ích. Nó cứ im như đá. Tôi không biết đó là nó đột nhiên mất khả năng nói hay là nó tự quyết định sẽ không nói nữa. Đến giờ tôi vẫn không biết. Nhưng từ đó đến nay nó không hề nói thêm một tiếng nào, thậm chí không hề phát ra một âm thanh nào. Dù có đau nó cũng không kêu la, dù có bị cù nó cũng không cười.

Nhục đậu khấu đưa con đến nhiều bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng, nhưng không ai xác định được nguyên nhân. Họ chỉ có thể nói đó không phải nguyên nhân về thể lý. Khả năng nghe của Quế vẫn tốt, nhưng nó không nói được. Tất cả bác sĩ đều kết luận, căn nguyên là ở tâm lý. Nhục đậu khấu liền đưa Quế đến một người bạn là bác sĩ tâm lý, nhưng ông này cũng không xác định được nguyên nhân tình trạng im lặng hoàn toàn của Quế. Ông ta làm kiểm tra IQ nhưng không thấy có vấn đề gì. Kết quả lại còn cho thấy Quế có chỉ số khả năng trí tuệ cao khác thường. Bác sĩ cũng không tìm được bằng chứng nào cho thấy có vấn đề về cảm xúc, "Cậu ấy có phải chịu cú sốc nào không? - bác sĩ hỏi Nhục đậu khấu, - Cố nghĩ xem. Liệu nó có chứng kiến một cái gì bất thường hay bị đánh đập ở nhà không?" Nhưng Nhục đậu khấu không nghĩ ra được gì. Mới ngày hôm trước mọi việc hoàn toàn bình thường: con trai bà ăn cơm bình thường, nói chuyện bình thường với bà, tới giờ ngủ thì lên giường ngủ ngon lành. Thế mà sáng hôm sau nó đã chìm sâu vào thế giới câm lặng. Ở nhà không có vấn đề gì, chú bé lớn lên với sự trông nom chu đáo của Nhục đậu khấu và bà ngoại, cả hai người chưa hề một lần nào giơ tay lên đét chú. Bác sĩ kết luận điều duy nhất họ có thể làm là quan sát chú, hy vọng rằng sẽ có thay đổi nào đó. Chừng nào còn chưa biết nguyên nhân thì không có cách gì điều trị được. Nhục đậu khấu cần đưa Quế đến bác sĩ mỗi tuần một lần, có thể theo thời gian sẽ khả dĩ lần ra được chuyện gì đã xảy ra. Có thể chú bé sẽ tự nhiên nói trở lại được, cũng như người nằm mơ thức dậy. Chỉ còn cách đợi mà thôi. Đúng là chú bé không nói, nhưng ngoài chuyện đó ra thì mọi thứ đều ổn.

Nhưng dù họ đợi bao lâu, Quế chẳng bao giờ còn nổi lên bề mặt cái đại dương im lặng sâu thẳm kia nữa.


° ° °


Đúng 9 giờ sáng, với tiếng u u nho nhỏ của động cơ chạy điện, cổng trước bắt đầu mở vào phía trong, chiếc Mercedes-Benz 500SEl của Quế chạy vào. Ăngten điện thoại của xe thòi lên từ cửa kính sau như một cái xúc tu mới đâm ra. Tôi quan sát từ khoảng hở giữa các bức rèm. Chiếc xe nom như một loài cá di trú khổng lồ không sợ một cái gì. Những lốp xe mới cáu màu đen im lìm vẽ một đường cong lên bề mặt bê tông rồi dừng lại đúng chỗ đã định. Sáng nào chúng cũng vẽ đúng một đường cong như thế và dừng lại đúng chỗ như thế, có xê xích thì cũng không quá năm phân.

Tôi đang uống chỗ cà phê tự pha trước đấy ít phút. Mưa đã tạnh, nhưng mây xám phủ đầy trời, mặt đất vẫn còn đen, lạnh và ướt át. Lũ chim vừa bay tới bay lui tìm sâu trên mặt đất vừa cất tiếng kêu lanh lảnh. Một chút sau cửa xe phía người lái bật mở và Quế bước ra, đeo kính râm. Chăm chú nhình quanh một lượt xong, anh ta tháo kính nhét vào túi ngực rồi đóng cửa xe. Ở loại xe Mercedes cỡ lớn này, then cửa khi đóng lại phát ra một âm thanh khác với những cửa xe khác. Với tôi, âm thanh này đánh dấu một sự khởi đầu một ngày mới ở Dinh.

Suốt từ sáng tới giờ tôi nghĩ mãi về cuộc viếng thăm của Ushikawa đêm qua, tự hỏi không biết có nên cho Quế biết rằng Ushikawa được Wataya Noburo cử tới để yêu cầu tôi ngưng ngay mọi liên hệ với cái nhà này. Tuy nhiên, cuối cùng tôi quyết định không kể với Quế, ít nhất là tạm thời. Đây là chuyện riêng giữa tôi với Wataya Noburo, không cần người thứ ba dây vào.

Như mọi khi, Quế ăn mặc chải chuốt, vận com lê. Toàn bộ quần áo của Quế đều được may đo với chất lượng tuyệt hảo, vừa như in. Tuy có sự bảo thủ về kiểu dáng, nhưng khi áo quần đó ở trên người Quế thì lại trông thật trẻ trung, như có một phép màu biến chúng thành thứ thời trang mới nhất.

Anh ta đeo một chiếc cà vạt mới, dĩ nhiên, để hợp với bộ com lê ngày hôm đó. Sơ mi và giày của anh ta cũng khác. Mẹ anh, Nhục đậu khấu, đã chọn mua từng thứ một cho anh ta, cũng như mọi khi. Quần áo và đôi giày anh ta, cũng như chiếc Mercedes anh ta lái, tịnh không có một hạt bụi. Khi Quế xuất hiện vào mỗi sáng, anh ta luôn làm tôi thấy khâm phục, thậm chí có thể nói là cảm động. Bản thể nào có thể ẩn dưới cái vẻ bề ngoài hoàn hảo kia?


° ° °


Quế lấy hai túi giấy đựng đầy thức ăn và những thứ cần thiết khác ra khỏi thùng xe rồi xách bằng hai tay mà bước vào Dinh. Trong tay anh ta, ngay những vật tầm thường như túi xách bằng giấy từ siêu thị trong cũng lịch lãm và nghệ sĩ. Có thể là do anh ta xách chúng bằng một cách đặc biệt nào đó. Cũng có thể là bởi một cái gì sâu xa hơn thế. Cả khuôn mặt anh ta ngời sáng khi trông thấy tôi. Đó là một nụ cười tuyệt diệu, như thể anh ta vừa bước ra một vùng trống lộng đầy ánh sáng sau khi đi bộ một lúc dài trong cánh rừng sâu. "Xin chào", tôi nói. "Xin chào", anh ta không nói với tôi, mặc dù môi mấp máy. Anh ta lấy các thứ ra khỏi túi rồi sắp xếp đâu ra đấy vào tủ lạnh như một đứa trẻ thông minh đang nạp trí thức vừa học được vào trí nhớ. Những thứ còn lại anh ta xếp vào trong chạn. Rồi anh ta dùng một tách cà phê với tôi. Chúng tôi ngồi ở hai bên nhà bếp, như Kumiko và tôi vẫn ngồi ngày trước.


° ° °


Quế chưa hề đi học ở trường, - Nhục đậu khấu nói. - Trường học bình thường thì không nhận một đứa trẻ không nói được, còn gửi nó tới trường toàn trẻ khuyết tật thì tôi cảm thấy không đúng. Tôi biết, nguyên nhân khiến nó không thể nói - dẫu là gì đi nữa - khác với nguyên nhân của những trẻ khác. Ngoài ra, nó lại còn chưa bao giờ tỏ ra thích đi học. Dường như nó chỉ thích nhất là được tự do thoải mái ở nhà, đọc sách, nghe nhạc cổ điển hay chơi ngoài vườn với con chó nhà chúng tôi nuôi hồi đó. Thỉnh thoảng nó cũng ra ngoài phố chơi, nhưng nó không tỏ ra hào hứng lắm, bởi nó không thích giao du với những trẻ khác cùng tuổi.

Nhục đậu khấu học ngôn ngữ dấu hiệu dành cho người câm điếc để nói chuyện với Quế. Khi nào ngôn ngữ dấu hiệu không đủ thì họ dùng bút đàm. Tuy nhiên, một ngày kia Nhục đậu khấu nhận ra rằng bà và con trai có thể truyền đạt cảm xúc của mình cho nhau một cách hoàn hảo mà không phải viện tới những phương pháp gián tiếp đó. Chỉ cần một cử chỉ nhỏ hay một thay đổi trên nét mặt là bà biết đích xác Quế đang nghĩ gì, cần gì. Từ đó trở đi bà không còn bận tâm về chuyện Quế không nói được. Rõ ràng điều đó không cản trở đến việc trao đổi tâm linh giữa hai mẹ con. Dĩ nhiên, việc không thể trò chuyện với nhau bằng ngôn ngữ nói đôi khi cũng khiến bà cảm thấy bất tiện về mặt vật lý, nhưng chẳng qua chỉ là bất tiện thôi, không hơn, và theo nghĩa nào đó, chính sự bất tiện này đã làm sự giao tiếp giữa hai người được nâng lên một cấp độ mới.

Những lúc nghỉ việc, Nhục đậu khấu thường dạy cho Quế đọc, viết và học số học. Nhưng ngoài cái đó ra, bà không có gì phải dạy nhiều. Cậu yêu sách và thường thu nhận được từ sách những gì muốn biết. Bà là nguời chọn sách cho cậu thì đúng hơn là thầy dạy cậu. Cậu yêu âm nhạc và muốn chơi dương cầm, nhưng sau vài tháng học chạy ngón ở cấp căn bản với một thầy dạy dương cầm chuyên nghiệp, cậu chỉ cần mua sách giáo khoa và băng nhạc rồi cứ thế tự trau dồi chi đến khi đạt tới trình độ kỹ thuật rất cao so với lứa tuổi. Cậu thích chơi Bach và Mozart, nói chung là chỉ chơi nhạc của các nhạc sĩ thuộc trường phái Lãng mạn, ngoài ra thì cậu không quan tâm, trừ Poulenc và Bartok. Suốt sáu năm liền cậu tập trung vào âm nhạc và đọc sách, song từ khi đến độ tuổi mà như người khác là vào trung học, cậu lại chuyển sang học các thứ ngôn ngữ, bắt đầu từ tiếng Anh rồi tiếng Pháp. Cả tiếng này lẫn tiếng kia cậu đều tự học, thế mà chỉ cần sáu tháng là đã có thể đọc những cuốn sách đơn giản. Dĩ nhiên cậu không có ý định học để đàm thoại; cậu chỉ cần học để đọc được sách. Một việc khác cậu cũng thích là tẩn mẩn mày mò những cỗ máy phức tạp. Cậu mua cả mộ bộ dụng cụ chuyên dùng rồi tự chế ra máy thu thanh lẫn loa phóng âm, lại thích tháo rời đồng hồ ra rồi lắp lại.

Mọi người quanh cậu - ý là cha mẹ và bà ngoại cậu - trở nên quen với việc cậu không bao giờ nói và không còn nghĩ đó là chuyện bất thường hay phi tự nhiên. Sau vài năm, Nhục đậu khấu thôi không đưa cậu đến bác sĩ tâm lý nữa. Những cuộc gặp bác sĩ hàng tuần chẳng giúp được gì cho các "triệu chứng" của Quế, và đúng như các bác sĩ đã nói từ đầu, ngoài chuyện không nói được ra thì mọi thứ ở cậu đều ổn. Trên thực tế, cậu gần như là một đứa bé hoàn hảo. Nhục đậu khấu thậm chí không nhớ nổi đã có lần nào phải bắt buộc cậu làm việc gì hoặc la rầy cậu vì một việc nào đó lẽ ra cậu không nên làm. Cậu luôn tự quyết định mình phải làm gì và hễ đã quyết định là làm tới nơi tới chốn, không chê vào đâu được, theo cách của riêng mình. Cậu khác biệt với những trẻ khác - những trẻ bình thường đến nỗi so sánh cậu với chúng là vô nghĩa. Năm cậu mười hai tuổi thì bà ngoại mất (vì sự kiện này cậu đã câm lặng khóc suốt mấy ngày liền), sau đó cậu tự đảm nhận việc nấu nướng, giặt giũ và lau chùi nhà cửa khi mẹ đi làm. Sau khi mẹ mất, Nhục đậu khấu muốn thuê người giúp việc, nhưng Quế khăng khăng từ chối. Cậu không muốn cho người lạ vào phá hỏng nền nếp trong nhà. Từ đó trở đi chính Quế là người cáng đáng phần lớn việc nhà; cậu làm việc đó với sự chính xác và kỷ luật cao độ.


° ° °


Quế nói chuyện với tôi bằng hai bàn tay. Anh thừa hưởng của mẹ những ngón tay thanh mảnh, hình dáng đẹp, dài, nhưng không dài quá. Anh đưa tay lên gần mặt, di động các ngón tay không chút ngập ngừng, và như những sinh vật sống đầy nhạy cảm, chúng truyền đạt những điều anh cần nói với tôi.

- Lúc 2 giờ chiều nay sẽ có một vị khách tới. Hôm nay chỉ có thế. Từ giờ tới khi bà ta đến anh không phải làm gì cả. Tôi sẽ ở đây làm nốt việc trong khoảng một tiếng nữa, sau đó tôi sẽ về, đến 2 giờ sẽ đi đón bà ta đưa về đây. Dự báo thời tiết nói cả ngày hôm nay trời nhiều mây. Anh có thể xuống giếng trong khi ngoài trời còn sáng, vậy sẽ đỡ hại mắt.

Như Nhục đậu khấu đã nói, tôi hiểu được dễ dàng những lời mà các ngón tay của Quế truyền đạt. Tôi chẳng biết gì về ngôn ngữ dấu hiệu, nhưng tôi dễ dàng theo sát những cử động phức tạp và uyển chuyển của anh ta. Có thể chính nhờ kỹ năng điêu luyện của Quế nên ý nghĩa điều anh muốn nói tự nhiên trở thành sáng rõ, cũng như một vở kịch diễn bằng tiếng nuớc ngoài vẫn có thể truyền cảm được. Mà cũng có thể tôi chỉ có cảm tuởng mình đang quan sát các ngón tay Quế di động, kỳ thực thì không phải. Các ngón tay chuyển động có thể chỉ là cái mặt tiền trang trí bên ngoài, còn thực chất, tôi đang quan sát một mặt nào đó của toà nhà ở đằng sau, có điều tự tôi không biết. Mỗi sáng, khi ngồi trò chuyện bên bàn bếp, tôi cố nhìn cho ra ranh giới giữa mặt tiền với cái đằng sau nó song chẳng bao giờ thấy được, bởi đường phân tuyến đánh dấu cái ranh giới kia không ngừng chuyển động và thay hình đổi dạng.

Sau cuộc trò chuyện ngắn - hay cuộc trao đổi ngắn - với tôi, Quế thường cởi com lê treo lên giá, dém cà vạt vào bên trong sơ mi rồi bắt tay quét dọn hay nấu nướng. Trong khi làm việc, anh thường mở máy stereo nghe nhạc. Tuần này anh chẳng nghe gì khác ngoài nhạc thánh lễ của Rossini, tuần sau anh chỉ nghe các bản concerto dành cho nhạc cụ hơi của Vivaldi, nghe đi nghe lại nhiều lần đến nỗi rốt cuộc tôi thuộc lòng hết các giai điệu.

Quế làm mọi việc cực kỳ khéo léo, không một động tác thừa. Ban đầu tôi hay đề nghị giúp một tay, nhưng anh chỉ mỉm cười lắc đầu.

Quan sát anh làm việc này việc nọ, tôi dần dần đi tới kết luận rằng muốn mọi việc được trơn tru thì tốt nhất cứ để một mình Quế làm hết. sau đó tôi đâm có thói quen tránh làm phiền anh ta. Trong khi anh ta làm các việc vặt buổi sáng, tôi thường ngồi ở ghế sofa trong phòng "chỉnh lý" mà đọc sách.

Gọi là Dinh song thật ra căn nhà không rộng, đồ đạc rất ít, chỉ những thứ cần thiết nhất. Không có ai thường xuyên sống ở đây, nên căn nhà chẳng bao giờ bẩn hay bừa bộn lắm. Thế nhưng ngày nào Quế cũng hút bụi từng xăngtimét một, lau bụi bàn ghế, kệ sách, chùi khung cửa sổ, dùng sáp đánh bóng chiếc bàn, phủi bụi các ngọn đèn, cất vật này vật nọ về chỗ cũ. Anh thường sắp lại bát đĩa trong tủ đựng đồ sứ cho ngay ngắn, xếp các bình, lọ... theo kích thước, kéo lại cho ngay mép khăn trải bàn và khăn mặt, chỉnh sao cho tay cầm tất cả các tách cà phê xoay về cùng một phía, sửa lại vị trí bánh xà phòng trong buồng tắm, thay khăn mặt mới dù những tấm khăn cũ chưa ai dùng. Rồi anh ta tập trung toàn bộ rác vào một túi duy nhất, buộc lại mang ra ngoài. Anh thuờng chỉnh giờ trên đồng hồ treo tường theo đúng đồng hồ đeo tay của mình (cái đồng hồ mà tôi dám cá không bao giờ sai quá ba giây). Nếu trong khi lau chùi Quế bắt gặp bất cứ vật gì nằm sai chỗ dù chỉ một tí, anh ta đều trả nó về chỗ cũ với những động tác chính xác và thanh lịch. Có lần tôi thử kéo một chiếc đồng hồ trên giá lệch chừng một phân về bên trái, thế là y như rằng sáng hôm sau anh ta chỉnh nó về bên phải đúng một phân.

Mọi hành vi đó của Quế không hề cho ta ấn tượng anh là người bị lệch lạc về thần kinh. Dường như anh ta chỉ đang làm những việc rất tự nhiên và "đúng đắn". Có lẽ trong đầu Quế có một hình dung sống động về việc thế giới này - hay ít nhất là cái thế giới nho nhỏ ở đây - cần phải như thế nào, và đối với anh ta, việc duy trì thế giới trong tình trạng ở đó cũng tự nhiên như việc hít thở vậy. Có lẽ anh ta tự thấy mình chỉ đang góp một bàn tay nhỏ nhoi khi vạn vật đều mang một khát vọng nội tại mãnh liệt nhằm trở về hình dáng ban đầu.

Quế nấu nướng thức ăn rồi cất vào tủ lạnh, sau đó chỉ cho tôi biết bữa trưa sẽ ăn những gì. Tôi cảm ơn anh ta. Sau đó anh ta đứng trước gương, kéo thẳng cà vạt, kiểm tra sơ mi của mình rồi mặc com lê vào. Cuối cùng, miệng khẽ mỉm cuời, anh ta mấp máy môi để nói "Tạm biệt", nhìn quanh một lần nữa rồi đi ra ngoài qua cửa trước. Ngồi sau tay lái chiếc Mercedes-Benz, anh ta cho một băng nhạc cổ điển vào máy cát xét trên xe, ấn nút điều khiển từ xa để mở cổng trước rồi lái xe đi, lại vẽ đúng cái vòng cung mà anh ta đã vẽ khi đến. Xe vừa qua, cổng liền đóng lại. Cũng như trước, tôi quan sát qua khe hở nơi rèm cửa, tay cầm cốc cà phê. Lũ chim không còn lắm mồm như khi Quế đến. Tôi thấy mây đen đã tản mác và bị gió đẩy đi, nhưng bên trên chúng lại còn một tầng mây khác dày hơn nữa.

° ° °


Tôi ngồi bên bàn bếp, đặt cốc xuống rồi nhìn lại căn phòng nơi bàn tay của Quế đã để lại một cảm giác thật đẹp đẽ về trật tự. Nó trông như một bức tranh tĩnh vật lớn ba chiều, sự tĩnh lặng của nó chỉ bị quấy rầy bởi tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ. Kim đồng hồ chỉ 10 giờ 20. Nhìn chiếc ghế mà Quế ngồi lúc nãy, tôi lại tự hỏi liệu tôi không kể với họ về cuộc viếng thăm của Ushikawa đêm qua thì liệu có đúng không. Liệu việc đó có phương hại đến cái gần như là lòng tin cậy đang có giữa Quế và tôi hay Nhục đậu khấu và tôi?

Dù sao, tôi vẫn muốn đợi thêm ít lâu để xem mọi chuyện sẽ tiến triển ra sao. Trong những việc tôi làm có cái gì khiến Wataya Noboru lo ngay ngáy đến vậy? Tôi đang giẫm lên cái đuôi nào của hắn? Hắn đang định dùng tới những biện pháp đối phó nào? Nếu tìm được lời đáp cho những câu hỏi đó, tôi sẽ có thể nhích gần hơn một chút đến bí mật của hắn. Và hệ quả là tôi sẽ có thể tiến gần đến chỗ biết Kumiko đang ở đâu.

Khi kim đồng hồ sắp chuyển sang 11 giờ (cái đồng hồ mà Quế đã dịch sang phải chừng một phân về chỗ cũ), tôi ra ngoài vườn để chui xuống giếng.


° ° °


- Từ khi Quế còn nhỏ tôi đã kể cho nó nghe chuyện chiếc tàu ngầm và vườn thú - về những gì tôi đã thấy từ trên boong chiếc tàu vận tải vào tháng Tám năm 1945, và về chuyện lính Nhật đã bắn các con thú trong vườn thú của cha tôi cùng lúc khi chiếc tàu ngầm Mỹ đang nhắm đại bác vào chúng tôi và sắp sửa đánh đắm tàu chúng tôi. Đã lâu lắm rồi tôi không kể với ai về chuyện ấy, chỉ giữ cho mình. Tôi đã im lìm lang thang qua cái mê cung tranh tối tranh sáng giữa ảo tưởng và thực tại. Tuy nhiên, khi Quế ra đời, tôi chợt hiểu nó là người duy nhất mà tôi có thể kể chuyện của mình. Thế là ngay từ khi nó chưa hiểu được lời nói, tôi đã bắt đầu kể cho nó, kể đi kể lại, gần như thì thầm, về tất cả những gì tôi còn nhớ, và trong khi tôi kể, những cảnh tượng đó lại trỗi dậy trước mắt tôi, bằng những sắc màu sống động, như thể tôi vừa giở một cái nắp cho chúng bật tuôn ra.

Khi Quế bắt đầu hiểu ngôn ngữ, nó cứ đòi tôi kể lại chuyện ấy mãi. Tôi phải kể cho nó hàng một trăm, hai trăm, năm trăm lần, nhưng không phải lần nào cũng lặp đi lặp lại từng ấy thứ. Mỗi lần tôi kể cho Quế nghe, nó lại đòi tôi kể một câu chuyện nhỏ khác nằm trong câu chuyện chính. Nó muốn biết từng cảnh một trên cùng một cái cây. Tôi thường đi theo nhành mà nó yêu cầu, kể cho nó câu chuyện nằm trên nhành đó. Và thế là câu chuyện cứ lớn lên mãi, trưởng thành lên mãi...

Bằng cách đó hai mẹ con tôi tạo ra một hệ thần thoại riêng của mình. Anh có hiểu ý tôi không? Ngày nào mẹ con tôi cũng kể cho nhau nghe câu chuyện, cứ như là bị ám. Mẹ con tôi nói với nhau hàng giờ về tên các con vật trong vườn thú, về bộ lông ónh ánh của chúng hay màu mắt chúng, về đủ thứ mùi lơ lửng trong không khí, về tên tuổi và khuôn mặt từng người lính, họ chào đời ra sao, thời thơ ấu thế nào, họ có những khẩu súng gì, phải vác đạn nặng ra sao, về những nỗi sợ và cơn khát của họ, về hình dáng những đám mây trên bầu trời...

Tôi nhìn thấy hết sức rõ ràng tất cả những màu sắc và hình dáng đó khi kể câu chuyện cho Quế, tôi có thể chuyển những gì tôi thấy thành ngôn từ - những từ chính xác nhất tôi cần - và truyền đạt cho nó. Cứ thế mãi không ngừng. Luôn luôn có những chi tiết mới có thể đưa vào thêm, câu chuyện cứ ngày càng sâu hơn, ngày càng rộng ra mãi...

Nhục đậu khấu mỉm cười khi nói về những ngày xa xưa đó. Trước đây tôi chưa hề thấy một nụ cười tự nhiên đến vậy trên gương mặt bà.

- Nhưng rồi một ngày kia mọi chuyện chấm dứt, - bà nói. - Buổi sáng tháng Hai đó, khi Quế ngừng nói, nó cũng thôi chia sẻ những câu chuyện với tôi.

Nhục đậu khấu ngừng lời để châm một điếu thuốc.

- Nay thì tôi biết điều gì đã xảy ra. Lời lẽ của nó đã mất hút trong cái mê cung đó, bị nuốt chửng bởi cái thế giới những câu chuyện đó. Một cái gì đó từ những câu chuyện bước ra đã giật mất lưỡi nó. Và mấy năm sau, cũng cái đó đã giết chết chồng tôi.

° ° °


Gió chuyển mạnh hơn hồi sáng, đùn từng đám mây xám nặng nề về phía đông. Những đám mây trông như những khách lữ hành câm lặng lên đường đến chỗ tận cùng thế giới. Giữa những cành cây trụi lá ngoài vườn, gió thi thoảng lại cất tiếng rền rĩ ngắn, không lời. Tôi đứng bên cái giếng nhìn lên bầu trời. Ở nơi nào đó hẳn Kumiko cũng đang nhìn lên những đám mây. Ý nghĩ đó tự dưng nảy ra trong đầu tôi, chẳng vì cớ gì. Đó chỉ là cảm giác của tôi thôi.

Tôi trèo thang xuống dưới đáy giếng rồi kéo dây thừng đậy nắp giếng lại. Tôi hít thở sâu hai ba lần, siết chặt gậy trong tay rồi nhẹ nhàng ngồi xuống trong bóng tối. Bóng tối hoàn toàn. Phải, đó là cái quan trọng nhất. Cái bóng tối tinh tuyền này chính là mấu chốt. Nó như một chương trình dạy nấu ăn trên truyền hình: " Mọi người hiểu rồi chứ? Bí quyết của công thức này là bóng tối hoàn toàn. Nhớ phải dùng thứ càng dày càng tốt." Và cả cây gậy chắc khỏe nhất mà ta có thể nắm trong tay, tôi nghĩ và mỉm cười một thoáng trong bóng tối.

Tôi cảm thấy vết hầm trên má bắt đầu ấm lên. Nó cho tôi biết rằng tôi đang nhích gần hơn một chút đến cốt lõi của sự vật. Tôi nhắm mắt lại. Trong tai tôi vẫn còn văng vẳng những điệu nhạc mà Quế đã nghe đi nghe lại sáng nay trong khi làm việc. Đó là Món quà âm nhạc của Bach, vẫn vang vang trong đầu tôi như tiếng rì rầm không dứt của đám đông trong một thính phòng có trần cao. Nhưng rồi im lặng trùm xuống và bắt đầu đào vào trong những nếp gấp của não tôi, từng nếp một, như con côn trùng đẻ trứng. Tôi mở mắt rồi lại nhắm. Bóng tối bên trong và bên ngoài nhập vào nhau, và tôi bắt đầu rời khỏi chính mình, rời khỏi cái vỏ ngoài vốn chứa đựng tôi.

Cũng như mọi khi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 11-8-2012 20:45:24 | Xem tất


Chương 15
Đường Chắc Tới Đây Là Hết
(Quan Điểm Của Kasahara May: Phần 3)



Chào chim vặn dây cót!

Lần trước em đã kể tới chỗ em đang làm việc ở nhà máy làm tóc giả trên vùng núi non xa xôi cùng với nhiều cô gái dân địa phương. Thư này em kể tiếp chuyện ấy.

Gần đây em thật sự băn khoăn khi thấy thật là lạ, người ta cứ làm việc kiểu này quần quật từ sáng đến tối, ngày này qua ngày khác! Có bao giờ anh thấy điều đó lạ không? Ý em là, ở đây em chỉ có mỗi một việc là làm những gì sếp bảo, không cần nghĩ ngợi gì hết. Chả khác gì trước mỗi ngày làm việc em đem bộ óc mình cất vào tủ, đến cuối ngày lại lấy ra mang về nhà. Mỗi ngày em ngồi bảy tiếng ở bàn làm việc, gắn từng sợi tóc lên bộ tóc giả, rồi ăn tối trong căng tin, đi tắm, xong thì dĩ nhiên là em phải đi ngủ như bất cứ ai, vì vậy mỗi ngày hai mươi bốn tiếng, thời gian rảnh hoàn toàn chẳng còn gì. Và quá mệt vì công việc nên có bao nhiêu "thời gian rảnh" là em toàn nằm trên giường như giữa đám sương mù vậy. Em không có thì giờ ngồi nghĩ về bất cứ chuyện gì. Dĩ nhiên cuối tuần thì em không phải làm việc, nhưng lại phải lau chùi, giặt giũ, thỉnh thoảng đi lên phố, ngoảnh qua ngoảnh lại thì mấy ngày nghỉ cuối tuần đã qua vèo mất. Có lần em quyết định sẽ ghi nhật ký, nhưng chẳng có gì để viết, nên chỉ sau một tuần là em thôi. Cứ thế, em chỉ làm đi làm lại từng ấy việc, ngày này qua ngày khác.

Thế nhưng - thế nhưng - em hoàn toàn chẳng băn khoăn gì chuyện mình cứ làm làm kiểu này, như một con ốc nhỏ xíu trong cỗ máy. Em không hề cảm thấy mình bị tách rời khỏi đời sống. Có chăng là, đôi khi em cảm thấy, bằng cách tập trung vào công việc thế này, làm hết mình mà không nghĩ ngợi gì như con kiến, em đang tiến gần đến "cái tôi đích thực" của mình. Em không biết nói sao cho rõ... nhưng hình như chính khi không nghĩ về bản thân mình em lại có thể tiến gần hơn đến cái cốt lõi của chính mình. Chính vì vậy em mới bảo là "lạ thật".

Em làm việc không tiếc công tiếc sức. Chả phải khoe đâu, nhưng thậm chí em còn được gọi là "công nhân giỏi trong tháng" cơ đấy. Em đã nói anh rồi, trông em thế thôi, chứ việc gì bằng tay là em làm cừ lắm. Bọn em chia làm nhóm để làm việc, mà nhóm nào có em là y như rằng thành tích tăng. Khi xong phần việc mình, em còn giúp cả mấy đứa làm chậm nữa. Thành thử nay mọi người ai cũng biết tiếng em. Anh có tin được không? Em đây mà nổi tiếng! Nhưng dù sao, điều em muốn kể với Chim vặn dây cót là từ khi đến nhà máy này em chỉ có làm việc, làm việc, làm việc. Như con kiến. Như anh thợ rèn nhà quê. Em nói thế đã rõ chưa nhỉ?

Dù thế nào, chỗ em đang làm việc thực sự là lạ. Nó to như nhà chứa máy bay, trần nhà cao ơi là cao, rộng mênh mông. Một trăm năm mươi đứa con gái ngồi sắp hàng làm việc ở đó. Giá mà anh thấy nhỉ! Dĩ nhiên, người ta đâu cứ phải xây một cái nhà máy to đùng như thế. Có phải bọn em sản xuất tàu ngầm hay gì gì đó đâu. Lẽ ra họ có thể chia bọn em ra thành nhiều phòng riêng biệt. Nhưng có lẽ họ cho rằng nếu cho từng ấy người cùng ngồi chung một chỗ thì sẽ làm tăng tinh thần đoàn kết chăng. Mà có thể chỉ là để các sếp dễ giám sát cả bọn cùng một lúc. Em cá là bọn họ đang áp dụng cái... gọi là gì ấy nhỉ... à, tâm lý học, với bọn em. Bọn em chia thành nhiều nhóm, ngồi quanh các bàn làm việc như người ta ngồi trong lớp học sinh vật để mổ ếch, một trong những đứa lớn tuổi hơn ngồi một đầu bàn, làm trưởng nhóm. Bọn em được phép trò chuyện trong khi làm việc - nghĩa là nói chuyện mà vẫn không ngừng tay (ngồi làm việc kiểu này mà câm như thóc suốt ngày thì có ai chịu được), nhưng nếu nói chuyện hay cười quá to hoặc quá mải chuyện thì trưởng nhóm sẽ chạy tới cau mày mà nói: "Thôi đi, Yumiko, làm việc bằng tay chứ không phải bằng mồm. Coi chừng làm chậm hơn các bạn đó". Thành thử bọn em cứ thầm thầm thì thì với nhau như bọn trộm lúc nửa đêm vậy.

Trong xưởng có bật nhạc. Tùy từng lúc mà nhạc này hay nhạc khác. Nếu anh Chim vặn dây cót là fan ruột của Barry Manilow hay Air Supply thì hẳn anh sẽ thích chỗ này.

Phải mất vài hôm mới làm xong một bộ tóc giả "của em". Dĩ nhiên là tuỳ sản phẩm thuộc hạng nào mà thời gian có khác nhau, nhưng dù thế nào thì cũng phải vài ngày mới xong một bộ. Đầu tiên là chia nền của bộ tóc ra thành từng ô, sau đó trồng tóc lần lượt vào từng ô một. Tuy nhiên đây không phải làm việc dây chuyền kiểu như nhà máy trong phim của Chaplin đâu, siết một con ốc xong thì lập tức con khác đến; ở đây mỗi bộ tóc giả đều là "của em", một mình em làm từ đầu tới cuối. Mỗi khi xong một bộ, em những muốn ký tên mình và ghi ngày tháng vào. Nhưng dĩ nhiên làm em không làm vậy, kẻo người ta lại phát khùng lên. Dù vậy, thật dễ chịu khi biết rằng ở đâu đó trên thế giới này có một nguời đang đội bộ tóc giả do chính tay em làm. Điều đó khiến em có cảm giác... nói sao nhỉ... cảm giác gắn bó.

Dù sao, cuộc đời vẫn thật lạ. Giá như ba năm trước ai đó bảo em: "Ba năm nữa em sẽ làm việc cùng với nhiều gái quê trong một nhà máy chuyên làm tóc giả ở miền núi", hẳn em sẽ cười vào mặt họ. Chuyện ấy làm sao em có thể hình dung được. Mà sau đây ba năm nữa cũng vậy, ai mà biết được khi đó em sẽ làm gì. Chim vặn dây cót cũng vậy, liệu anh có biết ba năm nữa mình sẽ làm gì không? Hẳn là không. Mà nói gì tới ba năm; em dám cá bằng toàn bộ số tiền kiếm được ở đây rằng thậm chí sau đây một tháng anh cũng không biết mình sẽ làm gì nữa kia.

Tuy vậy đám con gái quanh em đây biết rõ ba năm nữa họ sẽ ở đây. Hay ít nhất họ tưởng là họ biết. Họ nghĩ là sẽ tiết kiệm được ở đây vài năm nữa sẽ kiếm được một anh chàng kha khá, thế là đám cưới hạnh phúc.

Những người mà họ sẽ cưới hầu hết là con cái nhà nông, những anh chàng sẽ thừa hưởng cửa hàng của bố hay làm việc ở các công ty nhỏ trong vùng. Trước đây em đã viết rằng ở vùng này thiếu trầm trọng các cô gái trẻ, thành thử người ta đến bốc các cô đi nhanh lắm. Đứa nào còn trơ khấc lại là xui đấy, thành thử ai cũng cố kiếm cho mình một anh, không anh này thì anh khác. Thế cơ mà! Thư trước em cũng nói rằng hầu hết các cô hễ lấy chồng xong là nghỉ việc. Làm việc ở nhà máy tóc giả chỉ là một khoảng độn chừng mấy năm từ khi họ tốt nghiệp phổ thông cho tới khi họ lấy chồng mà thôi, như một căn phòng mà họ bước vào, nán lại một chút rồi bỏ đi ấy.

Thật ra công ty cũng không phản đối chuyện đó, dường như họ lại thích cứ để các cô gái làm việc chỉ vài năm rồi lấy chồng và nghỉ việc. Vậy lại tốt hơn là khác, bởi nhân công của họ cứ xoay vòng liên tục, nên họ không phải lo về lương lậu, phúc lợi, công đoàn và trăm thứ linh tinh. Công ty o bế nhiều hơn đối với các cô gái có khả năng làm trưởng nhóm, nhưng còn các cô bình thường khác thì đối với họ chỉ như hàng tiêu dùng mà thôi. Có một thoả thuận ngầm giữa công ty và các cô gái rằng khi nào lấy chồng thì họ sẽ ra đi. Vì vậy đối với bọn con gái, nếu hình dung ba năm nữa sẽ thế nào thì chỉ có hai khả năng: một là họ vừa làm việc vừa để mắt tìm một anh vừa ý, hai là họ đi lấy chồng và nghỉ việc. Đơn giản quá phải không!

Ở đây chẳng có ai như em, tự nhủ rằng chẳng biết ba năm nữa chuyện gì sẽ xảy ra với mình. Tất cả đều làm việc siêng năng. Không ai làm quấy quá hay than vãn gì về công việc cả. Thỉnh thoảng em có nghe ai đó kêu ca về đồ ăn ở căng tin, nhưng chỉ có thế. Dĩ nhiên, công việc là công việc, nên không thể lúc nào cũng vui cười được. Mình có thể bắt nguời ta làm việc từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều bởi đó là bổn phận của cô ta, mặc dù cô ta thích đi chơi hơn, nhưng theo em, hầu hết mọi người hài lòng với công việc. Chắc hẳn vì họ biết đây chỉ là một giai đoạn nhất thời bắc cầu từ thế giới này sang thế giới khác. Chính vì vậy họ muốn càng được thoải mái càng tốt trong thời gian ở đây. Nói cho cùng, với họ đây chỉ là một điểm trung chuyển thôi.

Nhưng với em thì không. Đây hoàn toàn không phải là thời gian quá độ hay chuyển tiếp đối với em. Em hoàn toàn không biết từ đây mình sẽ đi đâu. Với em, có thể đường đến đây là hết. Anh có hiểu ý em không? Nói nghiêm khắc ra, em không vui thú gì với công việc ở đây. Tất cả những gì em làm chẳng qua là để chấp nhận công việc một cách trọn vẹn nhất. Mỗi khi làm một bộ tóc giả, em không nghĩ tới gì khác ngoài chuyện làm bộ tóc giả đó. Em vô cùng nghiêm túc, đến nỗi toàn thân em vã mồ hôi.

Em không biết nói thế nào... nhưng gần đây em hay nghĩ về cậu trai đã chết trong tai nạn mô tô. Nói thật tình, trước đây em ít khi nghĩ tới cậu ấy. Có lẽ cú sốc do tai nạn đó đã bẻ quẹo ký ức em hay thế nào đó, bởi những gì em nhớ về cậu ấy chỉ toàn là những thứ kỳ cục tỉ như cậu ta hôi nách, cậu ta là một thằng tồ, hay mấy ngón tay cậu ta tìm cách sục sạo vào những chỗ lạ của em. Tuy nhiên, đôi lúc em lại nhớ rằng cậu ta cũng có những cái không đến nỗi. Nhất là những khi đầu óc em trống rỗng, chỉ mải miết cắm những sợi tóc lên bộ tóc giả, những ý nghĩ đó chẳng biết từ đâu cứ hiệu lên. Ồ vâng, em nghĩ, cậu ta đúng là thế. Em nghĩ chắc thời gian không trôi theo thứ tự A, B, C, D đâu, đúng không? Nó muốn đi đâu thì cứ đi nấy thôi.

Em nói thật với anh được không hở Chim vặn dây cót? Rất thật, rất ư là thật đấy. Đôi khi em sợ ơi là sợ! Em thức dậy lúc nửa đêm trơ trụi một mình, cách xa mọi nguời hàng mấy trăm cây số, đêm tối mịt mùng, em hoàn toàn không biết tương lai mình sẽ ra sao, em sợ đến nỗi chỉ muốn thét lên. Anh có bao giờ bị như vậy không hở Chim vặn dây cót? Mỗi lần bị như vậy, em lại cố nhắc mình rằng em đang gắn bó với những cái gì đó hay ai đó. Em cố sức liệt kê tên những người đó trong đầu. Trên danh sách đó dĩ nhiên có tên anh. Chim vặn dây cót ạ. Cả con ngõ, cả cái giếng, cả cây hồng vàng và những thứ khác nữa. Cả những bộ tóc giả em làm bằngchính đôi tay mình. Cả những điều vặt vãnh em nhớ về cậu trai kia. Tất cả những điều vặt vãnh ấy (mặc dù anh Chim vặn dây cót không phải là một trong những cái vặt vãnh ấy, nhưng dù sao...) giúp em trở lại "nơi này" từng tí một. Giờ em bỗng thấy hối tiếc đã không bao giờ cho cậu bạn trai được thấy em khoả thân hay đụng đến nguời em. Hồi đó, em cương quyết không cho cậu ấy rờ tới em. Đôi khi, anh Chim vặn dây cót ạ, em thích mình sẽ là gái tân suốt đời. Thật đấy. Anh nghĩ sao nào?

Tạm biệt nhé. Chim vặn dây cót. Mong rằng Kumiko sẽ sớm quay về.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 11-8-2012 20:48:30 | Xem tất


Chương 16
Những Nhọc Nhằn Và Gánh Nặng Của Thế Gian

Đèn Thần



Điện thoại reo lúc 9 giờ đêm. Reo một lần, ngừng rồi lại reo. Đó là Ushikawa, y đã nói sẽ dùng ám hiệu này để tôi biết là y.

- Chào ông Okada, - giọng Ushikawa nói. - Ushikawa đây. Tôi đang ở gần nhà ông, đã định ghé sang nếu ông không phiền. Tôi biết giờ này muộn rồi, nhưng có đôi điều tôi muốn gặp ông trực tiếp để nói. Được không hở ông? Chuyện liên quan đến cô Kumiko, vì vậy tôi nghĩ ông sẽ quan tâm đấy.

Tôi hình dung vẻ mặt của Ushikawa ở đầu dây bên kia trong khi nghe y nói. Y có một nụ cười nửa tự mãn trên mặt, môi cong lên phô hai hàm răng kinh tởm, như thể muốn nói: tôi biết, đề nghị này ông không từ chối được đâu. Đáng tiếc là, y có lý.

° ° °


Y mất đúng mười phút để đến nhà tôi. Y vẫn mặc đúng bộ đồ cách đây ba ngày. Cũng có thể tôi nhầm, nhưng y vẫn mặc cũng thứ comple và sơ mi đó, đeo thứ cà vạt đó, tất cả đều cáu bẩn, nhăn nhúm, rộng thùng thình. Những thứ quần áo thảm hại đó trông như thể chúng buộc phải gánh chịu một phần quá lớn những nhọc nhằn và gánh nặng của cả thế gian. Nếu như bằng cách nào đó tôi có thể hóa thân thành quần áo của Ushikawa, đổi lại tôi sẽ được bảo đảm một vinh quang hiếm có ở kiếp sau, tôi vẫn sẽ không muốn làm vậy tí nào.

Sau khi xin lỗi, Ushikawa tự lấy bia trong tủ lạnh, kiểm tra xem chai bia có đủ lạnh không rồi mới rót vào một cái cốc gần đó. Hai chúng tôi ngồi ở bàn bếp.

- Thế này nhé, - Ushikawa nói. - Để tiết kiệm thời gian, tôi sẽ bỏ qua phần chuyện phiếm xã giao mà vào ngay việc chính. Ông muốn nói chuyện với cô Kumiko phải không ông Okada? Nói chuyện trực tiếp ấy. Chỉ hai người với nhau thôi. Tôi tin ông đã muốn điều đó lâu nay rồi. Ấy là ưu tiên số một của ông. Tôi nói đúng không?

Tôi nghĩ một chút. Hay là tôi im lặng một chút, vờ như để nghĩ.

- Dĩ nhiên là tôi muốn nói chuyện với cô ấy, nếu có thể.

- Không phải là không thể. - Ushikawa gật đầu, nhẹ nhàng nói.

- Nhưng có kèm theo điều kiện...?

- Không kèm điều kiện nào hết. - Ushikawa nhấp một ngụm bia. - Tuy nhiên hôm nay tôi có một đề nghị mới với ông. Hãy nghe điều tôi nói và nghĩ cho kỹ. Chuyện này khác xa chuyện có được nói chuyện với Kumiko hay không.

Tôi nhìn y, không nói gì.

- Nào, ta bắt đầu nhé. Ông Okada ạ, ông đang thuê mảnh đất ấy và cái nhà trên đó nữa của một công ty nào đó, phải không? Ý tôi là cái "nhà có dớp" ấy. Hàng tháng ông phải trả tiền thuê nhà khá cao. Tuy nhiên, đây không phải thuê bình thường, mà là thuê nhưng vài năm nữa có thể mua hẳn. Đúng không nào? Dĩ nhiên, chẳng ai đi đưa hợp đồng của ông cho bàn dân thiên hạ xem, vì vậy tên của ông không xuất hiện ở đâu cả, ấy tất cả mưu đồ là ở đó. Chứ trên thực tế ông là chủ nhân của cơ ngơi đó, và tiền thuê ông trả hàng tháng chính là để trả dần vào tiền vay thế chấp. Tổng số tiền ông phải trả, để xem nào, kể cả căn nhà, đâu như khoảng tám mươi triệu yên, đúng không? Với mức trả thế này thì chưa tới hai năm nữa ông sẽ nghiễm nhiên thành chủ sở hữu cả nhà lẫn đất! Cừ lắm! Nhanh cực kỳ! Tôi đến phải phục ông.

Ushikawa nhìn tôi như để xác nhận những điều y vừa nói, nhưng tôi vẫn im lặng.

- Xin đừng hỏi làm sao tôi biết được các chi tiết đó. Nếu đào cho cật lực vào thì sẽ tìm được cái mình muốn biết thôi, miễn là nếu biết cách đào. Giờ thì tôi đã nắm được kha khá ai đứng đằng sau cái công ty ma đó rồi. Chà chà, cái ấy mới là xương chứ! Tôi đã phải lần mò trong cả một mê cung mới moi ra được đấy. Chả khác nào một chiếc ô tô bị ăn cắp rồi được sơn lại, thay lốp, bọc lại đệm ghế, số xê ri trên động cơ thì cạo đi. Bọn họ xóa kỹ mọi dấu vết. Dân chuyên nghiệp có khác. Nhưng giờ thì tôi nắm được kha khá sự tình rồi, có khi còn rõ hơn ông ấy chứ, ông Okada ạ. Tôi cuộc là ông thậm chí không biết mình đang trả tiền cho ai đâu, đúng không?

- Đúng vậy. Tiền thì đâu có tên với tuổi.

Ushikawa phá lên cười.

- Ông Okada nói hoàn toàn đúng! Tiền thì đâu có tên với tuổi. Nói hay lắm! Câu này tôi phải ghi lại mới được. Nhưng ông Okada ạ, mọi chuyện đâu phải bao giờ cũng như ông muốn. Lấy ví dụ mấy gã ở cục thuế chẳng hạn. Bọn ấy có thông minh lắm đâu. Bọn ấy chỉ biết đi thu thuế những chỗ nào có tên thôi. Chỗ nào chưa có tên thì chúng bắt phải có tên. Không chỉ tên mà còn đánh số nữa. Làm gì có cảm xúc trong công việc của chúng nó, cứ thế làm như người máy thôi. Nhưng cái xã hội tư bản chủ nghĩa của chúng ta được xây dựng chính trên những cái đó mà. Vậy lên ta đi đến kết luận rằng cái tiền mà tôi với ông đang nói đây quả thật có tên, mà tên rất oách nữa là khác.

Tôi nhìn cái đầu Ushikawa trong khi y nói. Tùy theo góc độ, ánh sáng tạo lên những đường lồi lõm trên sọ y.

- Đừng lo, cục thuế chúng nó không đến đây đòi tiền ông đâu, - Ushikawa phá lên cười mà nói, - Mà cứ cho chúng đến thì phải mò mẫm qua bao nhiêu mê cung thế này thể nào chúng cũng va đâu đó mà bươu đầu mẻ trán. Sưng bằng quả ổi chứ chả chơi! Nói gì thì nói, việc của chúng thì chúng làm, chứ chúng đâu muốn trầy vi tróc vẩy làm chi cho mệt. Nếu đã thu tiền được thì chỗ nào dễ thì thu, tội gì nhè chỗ khó xơi, càng dễ càng tốt mà. Một khi đã thu đủ thì ở đâu ra mà chả thế. Nhất là nếu sếp đã bảo cứ chỗ nào dễ thu mà thu thì người bình thường nhất định sẽ làm đúng như vậy. Sở dĩ tôi biết là vì chính tôi đi tìm hiểu mà. Gì chứ mấy chuyện này thì, không phải tự khoe chứ tôi hơi bị rành. Nhìn tôi thế thôi, chứ tôi cừ lắm. Tôi biết tránh sao cho không bươu đầu. Tôi biết cách chuồn ra đường dù trời tối đen như mực.

Nhưng phải nói thật với ông, ông Okada ạ (mà tôi biết ông là người duy nhất tôi có thể bộc bạch hết lòng), đến cả tôi cũng không biết ông đang làm gì ở chỗ đó. Tôi biết những người hay đến gặp ông ở chỗ đó trả ông hậu hĩ lắm. Thành thử ắt là ông đang làm một cái gì rất đặc biệt cho họ, đáng đồng tiền họ bỏ ra. Cái đó thì rõ như ban ngày. Nhưng đích xác ông làm cái gì, và tại sao ông lại dính chặt cứng vào cái lô đất ấy thì tôi chịu không biết được. Đó là hai điểm quan trọng nhất trong toàn bộ chuyện này, nhưng cũng là hai điểm được che dấu kỹ nhất, chả khác gì điểm mấu chốt trong lá số của thầy bói vậy. Cái đó làm tôi lo lắm.

- Nghĩa là, đó là cái làm Wataya Noboru lo, - tôi nói.

Thay vì trả lời, Ushikawa quay ra giật giật túm tóc lơ thơ phía trên tai.

- Nói riêng giữa tôi và ông thôi, ông Okada ạ, phải thú nhận rằng tôi thật sự phục ông. Không phải nịnh ông đâu. Nghe thì hơi lạ, chứ thật ra về cơ bản ông là người hoàn toàn bình thường. Nói đằng thẳng ra thì ông chẳng có gì đặc biệt hết. Ấy xin lỗi, mong ông đừng hiểu nhầm. Thực tế là vậy, nếu từ con mắt xã hội mà nhìn vào. Tuy nhiên, khi gặp ông mặt đối mặt như thế này thì tôi thật sự rất có ấn tượng về ông, về cách hành xử của ông. Cứ xem cái cách ông đã làm một người như tiến sĩ Wataya phải điên đầu thì biết! Thành thử tôi mới chỉ là con chim đưa thư quèn. Một kẻ hoàn toàn tầm thường thì không làm nổi như ông đã làm đâu.

Tôi thích ông là thích chỗ đó, ông Okada ạ. Thật đấy! Tôi có thể chẳng là cái thá gì, song về những chuyện như thế này thì tôi không nói dối. Mà tôi cũng chẳng nghĩ về ông như nghĩ về người dưng nước lã. Nếu như trong mắt xã hội ông chẳng có gì đặc biệt thì tôi còn tệ hơn thế hàng trăm lần kia. Tôi chỉ là một thằng nhãi nhép lùn tịt học hành chả tới đâu, xuất thân cũng chẳng ra gì. Ba tôi làm nghề dệt chiếu ở Funabashi, là một tay nát rượu, một thằng khốn nạn. Hồi nhỏ tôi chỉ ước gì cha tôi chết quách đi để tôi được yên thân, tôi khốn khổ quá mà, thế là rốt cuộc lão ta ngoẻo thật, chẳng biết vậy là tốt hơn hay xấu hơn nữa. Sau đó tôi phải chịu cảnh khốn cùng y như người ta viết trong sách giáo khoa ấy. Tuổi thơ tôi chẳng có lấy một kỷ niệm nào gọi là đẹp đẽ, chẳng bao giờ được cha lẫn mẹ nói cho một lời tử tế. Chẳng lạ là tôi đổ đốn! Tôi trầy trật lắm mới học hết trung học, sau đó thì chính trường đời mới dạy những môn đích đáng cho tôi. Tôi sống được là nhờ chút nhỏ nhoi tôi có, nhờ cái đầu này đây. Chính vì vậy tôi không ưa những ai thuộc lớp thượng lưu hay những quan này chức nọ. Không chỉ không ưa đâu, tôi căm ghét mới đúng. Cứ đường hoàng bước thẳng vào xã hội qua cửa chính, vợ đẹp như tiên, rồi thì vênh vang tự mãn. Tôi thích những tay như ông đấy, ông Okada ạ, cái gì cũng tự mình làm lên.

Ushikawa quẹt diêm rồi châm một điếu thuốc nữa.

- Tuy nhiên ông không thể cứ thế này mãi. Sớm muộn gì ông cũng gục thôi. Ai cũng gục mà. Con người ta sinh ra là vậy. Cứ theo lịch sử tiến hóa thì chỉ mới hôm qua thôi con người mới học được cách đi trên hai chân và giở giói nghĩ ngợi toàn những điều rắc rối. Thành thử ông đừng lo, ông Okada: ông sẽ gục thôi. Nhất là trong cái thế giới mà ông đang cố cầm cự ấy: ai thì rồi cũng gục thôi. Có quá nhiều chuyện rắc rối, quá nhiều cách tự chuốc phiền toái vào mình. Đó là một thế giới tạo lên bằng lắm điều rắc rối. Tôi đã từng làm việc trong thế giới đó từ sinh thời ông bác của tiến sĩ Wataya, nay thì tiến sĩ đã thừa kế chọn cái thế giới đó. Trước nay tôi toàn làm những thứ phập phù để có cái ăn. Nếu như tôi vẫn cứ vậy thì chắc bây giờ tôi đã nằm khám, có khi còn bỏ mạng rồi không chừng. Không đùa đâu. Wataya tiên sinh quá cố đã cứu tôi đúng lúc. Thành thử hai con mắt nhỏ này của tôi từng nhìn thấy lắm sự đời rồi. Trên đời này ai rồi cũng gục: tay mơ ư, lọc lõi ư, chẳng khác gì nhau, ai cũng gục hết, ai rồi cũng đau thương hết, anh cừ cũng vậy mà anh xoàng cũng vậy, như nhau tuốt. Chính vì vậy mà ai cũng cố bảo hiểm cho bản thân mình chút đỉnh. Thằng tép riu như tôi mà cũng có nữa là. Có vậy thì anh mới sống được nếu chẳng may bị gục. Chứ nếu cứ trơ ra có mỗi một mình anh, không thuộc về đâu cả thì đã gục là gục hẳn, đi đời luôn. Chấm hết.

Đáng lẽ tôi không nên nói với ông đâu, nhưng ông quả thật sắp gục rồi đó, ông Okada à. Chuyện đó chắc như đinh đóng cột. Sổ của tôi ghi rõ vậy mà, trong hai, ba trang nữa, bằng mực đen, chữ to đàng hoàng: "Okada Toru sắp gục tới nơi rồi". Đúng vậy đó. Tôi không dọa ông đâu. Ở thế giới này tôi đã nói là chính xác hơn nhiều so với dự báo thời tiết trên tivi. Thành thử tôi chỉ muốn nói với ông thế này: đã đến lúc ông nên rút lui đi thôi.

Nói đến đó Ushikawa ngậm miệng mà nhìn tôi. Đoạn y nói tiếp:

- Chúng ta nên thôi đừng vờn nhau nữa, ông Okada ạ, nói thẳng vào việc thì hơn... Mào đầu nãy giờ cũng dài dòng lắm rồi, giờ tôi nói ngay vào đề: tôi đến đây là có một đề nghị với ông.

Ushikawa đặt cả hai tay lên bàn. Rồi y búng búng lưỡi vào môi.

- Vậy là như tôi mới nói với ông đó, ông nên cắt đứt liên hệ với cái khu đất ấy và rút lui khỏi chuyện này. Nhưng có thể dù ông có muốn cũng không rút lui được. Cũng có thể ông còn phải trả cho hết nợ vay đã, bằng không thì kẹt cứng. - Ushikawa ngưng ngang, nhìn tôi dò xét, - Nếu vấn đề là ở tiền thì chúng tôi sẽ giúp ông. Nếu ông cần tám mươi triệu yên, tôi sẽ mang đến cho ông tám mươi triệu yên mới cứng, còn nguyên bó. Tám ngàn tờ giấy bạc mười ngàn yên. Ông có thể trả dứt nợ, còn bao nhiêu thì đút túi, thế là ông sạch nợ, tự do. Tuyệt quá còn gì! Nào, ý ông sao?

- Vậy là mảnh đất và căn nhà sẽ thuộc về Wataya Noboru? Ý là vậy phải không?

- Phải, chắc vậy. Chắc là sẽ thế thôi. Tuy nhiên, có lẽ sẽ còn phải giải quyết nhiều thứ lặt vặt nhiêu khê nữa...

Tôi suy nghĩ một chút về đề nghị của y.

- Ushikawa này, thực sự là tôi chưa hiểu. Tôi không hiểu tại sao Wataya Noboru cứ khăng khăng đòi tôi phải từ bỏ cái cơ ngơi đó đến vậy. Làm chủ được chỗ đất đó rồi thì ông ta định sẽ làm gì?

Ushikawa chậm rãi lấy lưng bàn tay chà lên má.

- Ông Okada à, tôi xin lỗi, mấy chuyện đó tôi không biết. Ngay từ đầu tôi đã bảo ông rồi: tôi chỉ là con chim đưa thư ngu ngốc thôi. Ông chủ tôi bảo tôi làm gì tôi làm nấy. Mà hầu hết việc ông ấy giao tôi làm thì chả thích thú gì. Hồi nhỏ đọc truyện Aladin ấy mà, tôi luôn luôn thông cảm với ông thần đèn, ông ta bị thiên hạ làm tình làm tội quá cỡ, nhưng tôi chả bao giờ muốn mình lớn lên thành giống như ông ta. Có vui vẻ gì đâu, thật đấy mà. Nói gì thì nói, người ta cử tôi đến đây là để truyền đạt một thông điệp, nội dung thế nào thì tôi nói với ông rồi. Đó là thông điệp của tiến sĩ Wataya. Tùy ông lựa chọn. Ông nói gì nào? Câu trả lời tôi phải mang về là thế nào đây?

Tôi không nói gì.

- Dĩ nhiên ông cần thời gian suy nghĩ. Tốt thôi. Chúng tôi có thể cho ông thời gian. Tôi không có ý bắt ông phải quyết định ngay tắp lự. Giá như tôi có thể bảo ông cứ suy nghĩ bao lâu thì tùy, nhưng e rằng chúng tôi không thể rộng rãi như vậy. Cho nên tôi nói thế này, ông Okada ạ. Cho tôi có một lời khuyên, của cá nhân thôi. Một đề nghị hậu hĩnh thế này không phải cứ nằm đó đợi ông mãi đâu. Chỉ cần ông ngoảnh đi một giây, ngoảnh lại thì nó đã biến đằng nào rồi. Nó có thể bốc hơi như sương trên cửa kính ấy. Thành thử ông cứ nghĩ cho nghiêm túc đi, nhưng phải khẩn trương. Đề nghị này không tồi đâu. Ông hiểu ý tôi chứ?

Ushikawa thở dài rồi nhìn đồng hồ.

- Trời đất quỷ thần ơi, tôi phải đi rồi. Chắc tôi lại ngồi lâu quá khiến ông phát chán nên rồi. Lại được ông đãi bia. Và cũng như mọi khi, toàn là tôi nói. Thôi thì xin lỗi nhé. Không phải tôi định thanh minh đâu, nhưng chả hiểu sao mỗi lần tới đây tôi lại thấy như ở nhà vậy. Ông có cái nhà tiện nghi quá chừng, ông Okada ạ. Thật đấy.

Ushikawa đứng dậy, đem cốc, chai bia và cái gạt tàn đến chỗ chậu rửa bát.

- Tôi sẽ liên lạc với ông Okada sớm. Và tôi sẽ thu xếp cho ông nói chuyện với Kumiko, chuyện đó tôi hứa. Không lâu nữa đâu.

° ° °


Sau khi Ushikawa đi khỏi, tôi mở cửa sổ cho khói thuốc tích lũy nãy giờ bay ra ngoài. Đoạn tôi uống một cốc nước. Ngồi trên sofa, tôi vuốt ve con Cá thu đang nằm trong lòng tôi. Tôi hình dung Ushikawa vừa ra khỏi nhà tôi một bước là cởi ngay bộ đồ giả trang rồi bay về chỗ Wataya Noboru. Tưởng tượng đến là vớ vẩn!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 11-8-2012 20:50:10 | Xem tất


Chương 17
Phòng Chỉnh Lý

Người Kế Tục



Nhục đậu khấu chẳng biết gì về những người phụ nữ hay lui tới chỗ bà. Chẳng ai cho Nhục đậu khấu biết thông tin về bản thân mình, mà bà cũng chẳng bao giờ hỏi. Những cái tên mà quý bà kia dùng để đăng ký cuộc hẹn rõ ràng là tên giả hết. Thế nhưng bao quanh họ là cái hơi hướm đặc biệt kết hợp giữa tiền bạc và quyền lực. Quý bà này chẳng bao giờ tự phô cái đó ra, song nhìn phong thái và cách ăn mặc của họ, Nhục đậu khấu cũng biết rằng họ thuộc tầng lớp thượng lưu.

Bà thuê địa điểm trong một cao ốc văn phòng ở khu Akasaka - một tòa nhà chẳng có gì nổi bật ở một nơi chẳng có gì nổi bật, để làm yên lòng quý bà vốn luôn lo ngay ngáy sao cho đừng ai dòm ngó đến đời tư của họ. Sau khi thận trọng cân nhắc, bà quyết định bố trí chỗ này như một xưởng thiết kế thời trang. Mà thật, trước kia Nhục đậu khấu vốn là nhà thiết kế thời trang, thành thử chẳng ai sẽ thấy khả nghi nếu có các quý bà thuộc nhiều giới khác nhau lui tới chỗ bà. Khách hàng của bà đều trong độ tuổi ba mươi, bốn mươi. Nhục đậu khấu chất đầy vải vóc, mẫu thiết kế và tạp chí thời trang vào căn phòng, lại thêm dụng cụ, bàn vẽ và vài con manơcanh mà thiết kế thời trang luôn cần tới, thậm chí bà còn thiết kế vài bộ thật, để bên ngoài nhìn vào càng thấy đáng tin hơn. Căn phòng nhỏ hơn trong hai phòng được bà bố trí thành phòng chỉnh lý. Khách hàng của bà thường được đưa vào phòng chỉnh lý, và họ sẽ ngồi lên sofa để được Nhục đậu khấu "chỉnh lý".

Danh sách khách hàng của Nhục đậu khấu được lập bởi bà vợ của ông chủ một cửa hàng bách hóa lớn. Bà ta đã lựa chọn từ trong số bạn bè đông đảo của mình một số rất hạn chế những ứng viên đáng tin cậy. Bà ta tin chắc rằng, để tránh mọi khả năng gây tai tiếng om sòm, cần phải biến nhóm này thành một câu lạc bộ có thành phần đặc tuyển. Nếu không thì tin tức về các cuộc sắp đặt thế này chắc chắn sẽ tràn lan nhanh chóng. Những quý bà được chọn làm thành viên đều được cảnh báo không bao giờ được tiết lộ cho người ngoài về những lần "chỉnh lý" của mình. Quý bà này không chỉ là những người rất có tư cách, mà họ còn biết rằng nếu nuốt lời hứa họ sẽ bị khai trừ vĩnh viễn khỏi câu lạc bộ.

Mỗi khách hàng sẽ gọi điện thoại để đăng ký giờ "chỉnh lý" và đến đúng giờ đã hẹn, biết rằng mình không phải ngại chạm trán bất cứ thành viên nào khác và có thể yên tâm rằng mọi hành tung của mình đều được giữ kín. Thù lao được trả ngay tại chỗ, bằng tiền mặt, bao nhiêu là do vợ ông chủ cửa hàng bách hóa ấn định, song luôn ở mức cao hơn Nhục đậu khấu tưởng nhiều. Tuy nhiên chẳng phải vì thù lao như thế mà người ta ít đến hơn. Bất cứ quý bà nào từng được Nhục đậu khấu "chỉnh lý" đều sẽ hẹn thêm lần nữa, không có ngoại lệ. "Bà đừng để tiền bạc trở thành gánh nặng cho mình", vợ ông chủ cửa hàng bách hóa từng giải thích với Nhục đậu khấu. "Càng trả cao thì các bà ấy càng yên tâm". Nhục đậu khấu đến "văn phòng" một tuần ba lần, mỗi ngày "chỉnh lý" một lần. Bà chỉ làm đến thế là hết mức.

Quế trở thành trợ lý cho mẹ từ khi cậu tròn mười sáu tuổi. Ở thời điểm đó Nhục đậu khấu đã bắt đầu thấy khó tự mình đảm đương mọi công việc hành chính lặt vặt, song thuê một kẻ hoàn toàn xa lạ thì bà không muốn. Cuối cùng, sau khi đã đắn đo rất dữ, bà mới đề nghị con trai giúp một tay, cậu đồng ý ngay lập tức mà thậm chí không hề hỏi xem mẹ đang làm thứ việc gì. Ngày nào cũng vậy, cậu đến văn phòng lúc 10 giờ sáng bằng taxi (cậu không chịu nổi nếu phải đụng chạm với người khác trên xe buýt hay xe điện ngầm), lau chùi, quét bụi, sắp xếp lại đồ đạc đâu vào đó, thay hoa mới vào bình, pha cà phê, mua sắm các thứ cần thiết, cho băng nhạc cổ điển vào máy cassette rồi vặn âm lượng nhỏ, và ghi sổ sách.

Chẳng bao lâu Quế đã trở thành một nhân vật không thể thiếu ở văn phòng. Dẫu là hôm có khách hay không, cậu luôn luôn vận comple, thắt cà vạt đoạn ngồi vào vị trí của mình ở bàn đón khách. Không một vị khách nào than phiền chuyện cậu không nói được. Họ chẳng thấy bất tiện chút nào về chuyện đó, thậm chí còn thích là đằng khác. Cậu chính là người nhận cuộc gọi mỗi khi họ muốn hẹn giờ. Họ cho cậu biết họ muốn đến vào ngày ấy, giờ ấy, cậu sẽ gõ lên bàn để đáp lại: một tiếng là "không", hai tiếng là "vâng". Quý bà thích kiểu vắn tắt ấy. Cậu là một trang thanh niên với những nét hoàn hảo đến mức có thể tạc thành tượng, trưng trong viện bảo tàng, và khác với nhiều thanh niên bảnh trai khác, cậu không bao giờ làm hỏng hình ảnh của mình khi mở miệng. Các bà thường trò chuyện với cậu khi đến hoặc khi đi, và cậu thường đáp lại bằng một nụ cười và một cái gật đầu. Những cuộc "trò chuyện" đó làm họ thấy nhẹ nhõm hơn, làm vơi đi nỗi căng thẳng mà họ mang từ thế giới bên ngoài vào đây, cũng làm họ thấy đỡ phần lúng túng sau khi được "chỉnh lý". Bản thân Quế cũng vậy, cậu thường không ưa giao tiếp với người lạ, song lại tỏ ra không hề khó chịu khi tiếp xúc với quý bà này.

Năm mười tám tuổi Quế lấy được bằng lái. Nhục đậu khấu đã tìm được một thầy dạy lái xe tử tế để dạy riêng cho cậu, nhưng Quế đã mua sách tự học tất cả những gì cần học về lái xe rồi. Cậu chỉ cần biết thêm những kỹ năng thực hành mà sách không dạy được, và kỹ năng đó chỉ cần ngồi sau tay lái vài hôm là cậu nắm vững ngay. Có bằng lái rồi, cậu bắt đầu lùng khắp các tạp chí về ô tô cũ đặng mua một chiếc Porsche Carrera bằng toàn bộ số tiền cậu dành dụm được nhờ làm việc cho mẹ (số tiền đó cậu không hề phải chi tiêu vào sinh hoạt hàng ngày). Cậu đánh bóng động cơ đến sáng choang lên, cậu đặt mua các bộ phận mới qua bưu điện, lắp lốp xe mới, nói chung là nâng cấp chiếc ô tô lên tiêu chuẩn xe đua. Tuy nhiên, sau đó thì cậu vẫn chỉ ngày ngày lái chiếc ô tô đó trên con đường ngắn ngủn đông nghẹt từ nhà cậu ở Hiroo đến văn phòng ở Akasaka với vận tốc hiếm khi trên sáu mươi cây số một giờ. Do vậy chiếc Porsche 911 của cậu là một trong những chiếc hiếm hoi kiểu đó trên thế giới.

° ° °

Nhục đậu khấu tiếp tục làm công việc của mình suốt hơn bảy năm, trong thời gian đó bà để mất ba khách hàng: người thứ nhất chết trong một tai nạn xe hơi, người thứ hai bị "khai trừ vĩnh viễn" vì một sai phạm nhỏ nào đó, người thứ ba thì "đi xa" do chồng thay đổi việc làm. Thay cho những người đó là bốn khách hàng mới, tất cả đều thuộc loại quý bà trung niên hấp dẫn mặc quần áo đắt tiền và dùng toàn biệt danh. Bản thân công việc của Nhục đậu khấu không hề thay đổi trong suốt bảy năm. Bà vẫn tiếp tục "chỉnh lý" cho các khách hàng. Quế tiếp tục lau chùi dọn dẹp văn phòng, ghi sổ sách và lái chiếc Porsche. Tiến triển cũng không, thụt lùi cũng không, chỉ có những người trong cuộc thì thêm tuổi. Nhục đậu khấu sắp bước sang tuổi năm mươi, Quế thì tròn hai mươi. Quế dường như thích công việc của mình, nhưng Nhục đậu khấu dần dần bị cảm giác bất lực xâm chiếm. Hết năm này sang năm khác bà tiếp tục "chỉnh lý" "cái gì đó" kia mà mỗi khách hàng đều mang bên trong mình. Bà chẳng bao giờ hiểu được chính xác mình đang làm gì cho họ, nhưng bà vẫn tiếp tục làm hết sức mình. Tuy nhiên, bà không bao giờ chữa dứt được những "cái gì đó" này. Bà chẳng thể nào xóa sạch được hoàn toàn "cái đó", toàn bộ năng lực chữa trị của bà chỉ làm được mỗi việc là giảm thiểu hoạt động của chúng trong một thời gian. Chỉ trong ít ngày (thường từ ba đến mười ngày), mỗi "cái gì đó" ấy sẽ lại hoạt động, khi tiến khi lùi song về lâu dài thì ngày một lớn ra, ngày một mạnh lên như tế bào ung thư, không thể nào ngăn được. Nhục đậu khấu cảm thấy những cái đó trưởng thành lên trong tay mình. Chúng như nói với bà: Mụ chỉ tổ phí thì giờ vô ích thôi. Dù mụ có làm gì đi nữa thì rốt cuộc bọn ta vẫn thắng. Và chúng có lý. Bà chẳng có mảy may hy vọng thắng. Bà chỉ làm được mỗi một việc là trì hoãn bước tiến của chúng sao cho khách hàng của bà có được dăm ngày bình yên.

Nhục đậu khấu thường tự hỏi: "Có phải chỉ các bà này không? Có phải tất cả phụ nữ trên thế giới này đều mang "cái gì đó" này ở bên trong nhục thể mình không? Mà tại sao tất cả các bà đến đây đều trong lứa tuổi trung niên? Liệu chính mình cũng có một "cái gì đó" ở bên trong mình không?".

Tuy nhiên Nhục đậu khấu không thiết tha lắm đến việc tìm lời đáp cho những câu hỏi đó. Bà chỉ biết chắc một điều là mọi tình huống hình như đã trùng hợp thế nào đó để bà phải bị trói buộc vào căn phòng chỉnh lý này. Người ta cần bà, và chừng nào người ta còn cần bà, bà không thể ra đi được. Đôi khi cảm giác bất lực của bà sâu thẳm và khủng khiếp đến nỗi bà có cảm giác mình như cái vỏ rỗng bị vứt đi. Bà đang kiệt dần đi, đang biến dần vào bóng tối hư vô. Vào những lúc như vậy, bà thường bộc bạch tâm hồn với cậu con trai trầm lặng của mình, và Quế thường chăm chú lắng nghe từng lời của mẹ, thỉnh thoảng lại gật đầu. Cậu chẳng bao giờ nói năng gì, nhưng nói chuyện với cậu như thế này bà cảm thấy bình tâm kỳ lạ. Bà cảm thấy mình không hoàn toàn cô độc, không hoàn toàn bất lực. Lạ thật, bà nghĩ: Mình chữa cho người khác, Quế chữa cho mình. Thế còn ai chữa cho Quế? Phải chăng nó là một lỗ đen, tự nó thu hút mọi nỗi đau và nỗi cô đơn? Có lần - mà cũng chỉ một lần ấy thôi - bà thử tìm tòi bên trong cậu con trai bằng cách đặt tay lên trán cậu như bà vẫn làm với khách hàng những khi "chỉnh lý" cho họ. Nhưng bà không cảm thấy gì cả.

Chẳng mấy chốc Nhục đậu khấu cảm thấy muốn thôi không làm việc này nữa. "Mình chẳng còn lại bao nhiêu sức lực. Nếu cứ thế này, mình sẽ tự thiêu cháy mình đến hết. Mình sẽ chẳng còn lại gì nữa." Nhưng người ta vẫn rất cần đến khả năng "chỉnh lý" của bà. Bà không thể tự cho phép mình bỏ rơi khách hàng chỉ vì ý muốn cá nhân.

Đến mùa hè năm sau, Nhục đậu khấu tìm được người kế tục. Ngay khi nhìn thấy vết bầm trên má chàng thanh niên đang ngồi trước một tòa nhà ở khu Shinjuku, bà đã biết.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 11-8-2012 20:52:22 | Xem tất


Chương 18
Con Gái Của Một Con Ếch Ộp Ngu Si
(Quan Điểm Của Kasahara May: 4)



Lại chào anh, Chim vặn dây cót!

Bây giờ là 2 giờ 30 sáng. Hàng xóm em ngủ thẳng cẳng hết rồi, nhưng đêm nay em không ngủ được, thế là em mò dậy viết thư cho anh. Nói thật với anh, ban đêm mà không ngủ được thì với em là chuyện bất thường cũng như võ sĩ sumo đội mũ bêrê mà lại đẹp trai vậy. Thường thì hễ tới giờ là em đã ngủ tít rồi, cứ thế làm một mạch cho tới giờ phải dậy. Em có đồng hồ báo thức nhưng hầu như chả bao giờ dùng cả. Tuy nhiên, lâu thật lâu lại có một lần em thức dậy lúc nửa đêm rồi chẳng làm sao ngủ lại được.

Em định sẽ cứ ngồi ở bàn viết thư cho anh cho đến khi nào buồn ngủ thì thôi, cho nên em chả biết thư này sẽ dài hay ngắn nữa. Mà dĩ nhiên là lần nào cũng vậy, hễ cứ viết thư cho anh là mãi đến khi dừng rồi em mới biết thư dài hay ngắn.

Em nghĩ thế này anh ạ, hầu hết thiên hạ sống trên đời này ấy mà (chắc cũng có vài ngoại lệ, nhưng ít lắm), họ cứ nghĩ rằng thế giới này hay cuộc đời này (gọi là gì cũng được) là cái nơi mà tất cả mọi thứ đều hợp lý và nhất quán (hay ít nhất là đều ắt phải hợp lý và nhất quán). Mỗi khi nói chuyện với hàng xóm em ở đây là em lại thường nghĩ như vậy. Thế này nhé, mỗi khi có chuyện gì đó xảy ra, dù là một sự kiện lớn ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội hay chỉ là một chuyện cỏn con, cá nhân, người ta đều nói kiểu như là "Ờ, tất nhiên rồi, xảy ra thế là vì thế này, và thế kia", và hầu như bao giờ mọi người cũng đồng ý và nói "À ra thế, tôi hiểu rồi". Em thì em chả hiểu gì sất. "A thì thế này, chính vì vậy mới xảy ra B". Nói như thế chẳng giải thích được gì cả. Chả khác gì anh trộn hỗn hợp Chawanmushi 1 cho vào bát, để bát vào vi ba rồi nhấn nút, đợi nghe chuông reo thì mở nắp ra, thế là mình có món chawanmushi ngon lành. Thế nhưng chuyện gì xảy ra giữa khoảnh khắc ta nhấn nút và khoảnh khắc lò vi ba reo chuông? Anh đâu thể biết được chuyện gì xảy ra dưới cái nắp. Biết đâu trong bóng tối, khi chẳng ai nhìn thấy, chawanmushi lại chẳng trước hết là biến thành macaroni nấu phó mát, sau đó mới trở lại là chawanmushi thì sao? Chúng ta cứ nghĩ hễ đã cho hỗn hợp chawanmushi vào lò vi ba rồi nhấn nút, đợi chuông reo là ta có món chawanmushi, nhưng với em, đó chỉ là giả thiết mà thôi. Có khi em sẽ thấy nhẹ nhõm hơn nếu sau khi cho hỗn hợp chawanmushi vào lò vi ba, đợi chuông reo, mình mở nắp thì lại thấy món macaroni nấu phó mát. Chắc là em sẽ sửng sốt lắm, dĩ nhiên rồi, nhưng em lại cũng sẽ thấy nhẹ người nữa. Hay ít nhất là em cũng sẽ không bối rối quá, bởi nếu xảy ra như vậy thì có khi lại thực hơn nhiều.

Sao lại "thực hơn"? Cố công giải thích điều đó theo cách hợp lý, bằng từ ngữ thì khó lắm, vô cùng khó, nhưng nếu lấy chẳng hạn như cuộc đời em từ hồi nào đến giờ làm ví dụ mà ngẫm cho kỹ vào, anh sẽ thấy chẳng có lấy một cái gì để anh may ra gọi được là "nhất quán". Trước tiên, thật quá ư lạ lùng là tại sao một đứa con gái như em lại sinh ra bởi một cặp vợ chồng chán ngắt như hai con ếch ộp thế kia. Lạ quá đi ấy! Nói về bản thân mình như thế này nghe thì lạ, nhưng quả thật em nghiêm túc hơn nhiều so với cả hai người cộng lại đấy. Em không nói khoác đâu, sự thật là vậy. Em không có ý nói em tốt hơn bố mẹ em, chỉ là em nghiêm túc hơn thôi. Nếu anh gặp bố mẹ em thì sẽ hiểu em muốn nói gì, Chim vặn dây cót à. Những người đó tin rằng thế giới này nhất quán và dễ giải thích như bản sơ đồ mặt bằng một ngôi nhà đắt tiền mới xây để bán ấy, cho nên nếu anh làm mọi việc một cách hợp logic và nhất quán thì mọi chuyện rốt cuộc đều sẽ đâu vào đó cả. Chính vì vậy mà bố mẹ mới hoang mang, buồn bực, giận dữ khi thấy em không như thế.

Tại sao em sinh ra trên đời này lại làm con những kẻ đầu đất như vậy chứ? Mà tại sao dù được những người như vậy nuôi nấng dạy dỗ nhưng em vẫn không trở thành một con ếch ộp ngu si như họ? Em cứ tự hỏi mình mãi về chuyện đó, tự hỏi mãi từ khi em bắt đầu biết nhớ. Nhưng em không lý giải được. Ắt là phải có lý do chính đáng nào đó, nhưng cái lý do đó em chẳng tài nào tìm ra. Mà lại có vô khối chuyện khác không thể nào giải thích bằng logic được. Tỉ như "Tại sao ai cũng ghét em?" Em chẳng làm gì sai cả, em chỉ sống bình thường thôi. Thế mà đùng một cái, một ngày kia em nhận ra rằng chả ai thích em hết. Em không hiểu nổi.

Thế rồi một chuyện chẳng đâu vào đâu này kéo theo chuyện chẳng đâu vào đâu khác, từ đó mọi chuyện cứ thế xảy ra. Tỉ như em gặp anh chàng đi mô tô, rồi sau đó là cái tai nạn ngớ ngẩn đó... Trong ký ức của em - hay là theo cách những chuyện đó được sắp xếp trong đầu em - thì chẳng làm gì có chuyện "việc này đã xảy ra thế này thì hiển nhiên việc nọ sẽ xảy ra thế nọ". Mỗi khi chuông reo và em mở nắp lò vi ba, dường như em luôn sẽ nhìn thấy một cái gì đó chưa nhìn thấy bao giờ.

Em chẳng biết chuyện gì đang xảy ra với mình nữa, thế là em bỏ học từ lúc nào không biết, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, rồi thì em gặp anh, Chim vặn dây cót. À không, trước đó thì em làm nghiên cứu cho một công ty làm tóc giả. Nhưng sao lại công ty làm tóc giả? Ấy lại là một bí ẩn khác. Em không nhớ nữa. Có lẽ vì khi em bị chấn thương vào đầu lúc bị tai nạn, nên vị trí của bộ não em bị dịch chuyển loạn hết cả. Mà cũng có thể vì cú sốc tâm lý sau tai nạn khiến em đâm ra giấu biệt hết mọi ký ức trong đầu, kiểu như con sóc giấu một hạt dẻ rồi quên không nhớ mình đã chôn ở đâu ấy. (Anh đã bao giờ thấy chuyện đó chưa hở Chim vặn dây cót? Em thì thấy rồi. Hồi bé, em cứ nghĩ con sóc ngốc nghếch buồn cười quá đi mất! Em chẳng bao giờ nghĩ rằng chuyện y như thế rồi sẽ xảy ra với chính em).

Thế nào thì thế, em bắt đầu làm khảo sát cho công ty làm tóc giả, rồi thì chuyện đó làm em đâm ra thích tóc giả đến mức cứ như là định mệnh hay gì gì ấy. Cứ bảo là không có mối liên hệ gì đi! Sao lại là tóc giả chứ không phải vớ chân hay muôi đong gạo? Giả như là vớ chân hay muôi đong gạo thì chắc em đã không làm việc chăm chỉ ở nhà máy làm tóc giả như thế này. Có đúng không? Và nếu em không gây ra tai nạn xe máy ngớ ngẩn kia thì chắc em đã không gặp anh trong cái ngõ sau nhà mùa hè năm đó, mà nếu anh không gặp em thì chắc anh đã chẳng bao giờ biết tới cái giếng trong vườn nhà Miyawaki, nghĩa là anh cũng sẽ không bị vết bầm trên mặt, và anh sẽ không phải mắc vào bao nhiêu là chuyện lạ lùng kia... Có thể lắm chứ. Mỗi khi nghĩ vậy, em không khỏi tự hỏi: "Liệu có sự nhất quán logic nào trên thế giới này không?".

Em không biết - có khi trên thế giới này có hai loại người khác nhau, đối với loại người này thì thế giới là một nơi hợp lý, chawanmushi, còn với loại người kia thì được chăng hay chớ, macaroni với phó mát. Em dám cá là nếu bố mẹ ếch ộp của em cho chawanmushi vào lò vi ba mà đến khi chuông reo lại được món macaroni nấu phó mát thì họ sẽ tự nhủ: "Ồ, chắc mình đã bỏ nhầm macaroni với phó mát vào lò rồi", hoặc họ sẽ lấy món macaroni với phó mát ra rồi cố tự thuyết phục mình: "Cái này trông giống macaroni nấu phó mát thế thôi chứ thật ra là chawanmushi đó". Và nếu em cố đi giải thích với họ rằng đôi khi, ta cho chawanmushi vào lò nhưng sẽ có món macaroni với phó mát, họ sẽ chẳng bao giờ tin em cả. Họ sẽ nổi điên mất. Anh có hiểu em đang nói gì không hở Chim vặn dây cót?

Anh có nhớ cái lần em hôn vết bầm của anh không? Em cứ nghĩ về chuyện đó hoài từ khi em nói tạm biệt anh hồi mùa hè năm ngoái, nghĩ hoài nghĩ mãi, như con mèo ngắm mưa rơi ấy, ngắm mà tự hỏi: đó là cái gì thế nhỉ? Em không biết liệu chính em có lý giải được không, nói thật với anh thế. Lúc nào đấy sau này, có thể mười, hai mươi năm nữa, nếu mình có dịp nói lại chuyện này, và nếu em đã lớn hơn và cũng thông minh hơn bây giờ nhiều thì có thể em sẽ nói được cho anh biết những chuyện ấy có ý nghĩa gì. Nhưng ngay bây giờ thì đáng tiếc là không, chắc em không có khả năng hay đầu óc để tìm đúng những từ thích hợp.

Tuy nhiên, có chuyện này em có thể nói thành thực với anh, Chim vặn dây cót à, giá như anh không bị vết bầm trên mặt thì em thích anh hơn. Nhưng khoan, đợi đã, như thế không công bằng. Anh có chủ ý trưng cái vết bầm kia lên mặt đâu. Có lẽ em nên nói rằng dù không có vết bầm đi nữa thì Chim vặn dây cót vẫn mười phân vẹn mười đối với em. Có phải không nhỉ? Không, nói vậy thì cũng chẳng giải thích được gì.

Em thì nghĩ thế này, Chim vặn dây cót ạ. Cái vết bầm ấy biết đâu sẽ mang lại cho anh một cái gì đó quan trọng. Nhưng ắt hẳn nó cũng phải tước đi một cái gì đó của anh. Kiểu như là trao đổi ấy. Nhưng nếu bất cứ ai cũng tước đi của anh cái này cái nọ như vậy thì rốt cuộc anh sẽ hao dần đi cho tới khi chẳng còn lại gì của anh nữa. Thành thử, em không biết thế nào, thật ra điều em muốn nói là nếu như anh chẳng có vết bầm thì với em cũng không có gì khác cả.

Đôi khi em nghĩ sở dĩ em ngồi đây làm tóc giả ngày này qua ngày khác là vì lần đó em đã hôn vết bầm của anh. Chính vì em đã làm vậy nên em mới quyết định rời bỏ nơi đó, càng xa càng tốt. Em biết nói vậy thì có thể anh sẽ đau lòng, nhưng em nghĩ đó là sự thật. Thế nhưng, chính vì vậy mà cuối cùng em mới tìm được chỗ của mình là ở đâu. Cho nên, theo nghĩa nào đó, em phải chịu ơn anh, Chim vặn dây cót ạ. Mặc dù, nếu có ai đó chỉ chịu ơn mình "theo một nghĩa nào đó" thì chắc cũng không thích lắm đâu nhỉ?

Giờ thì em cảm thấy chắc là em đã nói hết những gì phải nói với Chim vặn dây cót rồi. Đã gần 4 giờ sáng. Em phải dậy lúc 7 giờ 30, thành thử chắc em sẽ ngủ được ba tiếng hơn một chút. Em hy vọng có thể ngủ ngay được. Dù thế nào đi nữa em cũng dừng bút đây. Tạm biệt, Chim vặn dây cót. Hãy chúc cho em ngủ được nhé.


--------------------------------
1.Dịch theo bản tiếng Nhật. Chawanmushi là một món ăn truyền thống của Nhật, đựng trong bát, hấp cách thủy. Để làm món này, người ta đánh trứng, trộn với súp, thêm các gia vị như muối, tương đậu nành, xong thì đổ vào bát có sẵn một vài loại thực phẩm khác - thường là cá mình trắng, tôm, gà, chả cá luộc, đậu, nấm và măng - rồi cho vào nồi hấp cách thủy - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 11-8-2012 20:55:37 | Xem tất


Chương 19
Mê Cung Dưới Lòng Đất

Hai Cánh Cửa Của Quế



- Trong nhà kia có một cái máy vi tính phải không ông Okada? Có điều tôi không biết ai dùng thôi, - Ushikawa nói.

Lúc ấy là 9 giờ tối, tôi đang ngồi ở bàn bếp, điện thoại áp vào tai.

- Có, - tôi nói, nhưng chỉ thế.

Ushikawa khịt khịt mũi.

- Tôi biết nhiều thế là nhờ thường xuyên rình rập đấy thôi. Dĩ nhiên, tôi không nói này nọ về chuyện ông có một cái máy vi tính ở đó. Thời buổi này, ai là kẻ làm việc bằng trí óc mà lại không có máy vi tính. Chẳng có gì lạ cả.

Tuy nhiên, để khỏi dông dài, xin nói ngay rằng tôi có nảy ra ý nghĩ nếu khả dĩ liên lạc với ông bằng máy vi tính thì cũng tốt. Thế là tôi đã tìm hiểu, nhưng mẹ kiếp, việc ấy phức tạp quá trời quá đất, phức tạp hơn tôi tưởng nhiều. Chỉ quay số điện thoại thông thường thì không thể kết nối được. Hơn nữa lại phải có mật khẩu đặc biệt để truy cập. Không có mật khẩu thì cửa không mở. Thế là tôi đành chịu.

Tôi im lặng.

- Nào nào, đừng hiểu lầm tôi chứ ông Okada. Tôi không định chui vào trong máy của ông mà vọc đâu. Tôi không hề có ý đó. Ông đã lo bảo mật đến thế kia thì dù có muốn tôi cũng chẳng lôi dữ liệu ra được. Chuyện đó tôi chẳng bao giờ tính tới. Trước sau tôi chỉ nghĩ đến việc làm sao bố trí một cuộc trò chuyện giữa ông và cô Kumiko. Ông nhớ chứ, tôi đã hứa với ông sẽ làm chuyện đó, rằng tôi sẽ cố hết sức giúp ông và cô ấy nói chuyện trực tiếp với nhau. Cô ấy bỏ nhà đi đã lâu, cứ để mọi chuyện lửng lơ thế này thì thật không hay. Cứ kiểu này thì cuộc sống của ông chắc sẽ ngày càng kỳ quặc hơn thôi. Nói chuyện tay đôi với nhau, cởi mở với nhau bao giờ cũng là tốt nhất. Nếu không thì sẽ dễ phát sinh hiểu lầm, mà đã hiểu lầm thì thành ra bất hạnh... Dù sao tôi cũng đã cố kêu gọi cô Kumiko. Tôi đã cố hết mình.

Nhưng tôi không làm sao cho cô ấy đồng ý được. Cô ấy khăng khăng một mực rằng sẽ không nói chuyện trực tiếp với ông, thậm chí bằng điện thoại cũng không (bởi gặp trực tiếp thì hiển nhiên là không rồi). Cả bằng điện thoại cũng không? Suýt nữa tôi đã chịu thua rồi. Tôi đã thử hết mánh khóe trong sách vở, nhưng ý cô ấy đã quyết. Rắn như đá ấy.

Ushikawa ngừng nói để xem tôi phản ứng ra sao, nhưng tôi chẳng nói gì.

- Thế nhưng tôi cũng không thể cô ấy nói gì thì chỉ biết thế mà đành bó tay. Tiến sĩ Wataya sẽ quở tôi ra trò nếu tôi hành xử kiểu đó. Người kia có thể rắn như đá, nhưng tôi sẽ phải tìm ra một điểm dung hòa tí ti nào đó. Việc của chúng tôi là vậy: tìm ra điểm dung hòa. Nếu người ta không chịu bán cái tủ lạnh cho ta thì ít nhất hãy làm sao cho họ chịu bán ít nước đá. Thế là tôi vắt óc tìm xem có cách nào không. Nghĩ ra hàng triệu ý tưởng khác nhau, chính cái ấy làm chúng ta thành người đấy ông ạ. Thế rồi đùng một cái, một ý tưởng thật hay bật ra trong cái đầu mụ mị của tôi, như ngôi sao lóe lên giữa những đám mây vậy. "Đây rồi!" tôi tự nhủ. "Sao lại không nói chuyện trên màn hình vi tính chứ?" Ông biết đó, dùng bàn phím gõ câu chữ lên màn hình ấy mà. Ông làm vậy được chứ phải không, ông Okada?

Hồi làm ở hãng luật tôi có dùng máy vi tính để nghiên cứu các trường hợp tiền lệ, tìm dữ liệu cá nhân cho khách hàng và liên lạc qua e-mail. Kumiko cũng dùng máy vi tính ở sở làm. Tạp chí về thức ăn dưỡng sinh nơi nàng làm biên tập có nhiều file lưu trong máy tính về thực đơn các món ăn và phân tích thành phần dinh dưỡng.

- Không phải máy tính cũ nào cũng làm được đâu, - Ushikawa nói tiếp, - nhưng với máy chúng tôi và máy của ông thì ông và cô Kumiko có thể liên lạc với nhau bằng tốc độ khá nhanh. Cô Kumiko nói cô ấy sẵn sàng liên lạc với ông bằng cách đó. Tôi chỉ thuyết phục được cô ấy đồng ý đến thế thôi. Trao đổi thông điệp theo thời gian thực thì cũng gần như nói chuyện trực tiếp với nhau. Đó là điểm dung hòa cuối cùng tôi có thể tìm ra được. Vắt kiệt cái con khỉ này mới ra được ngần ấy thông thái đấy. Ông nói sao nào? Có thể ông thấy ý tưởng này chẳng có gì ghê gớm, nhưng tôi thì đến rạc cả óc mới nghĩ ra được đấy. Xin thưa với ông, phải động não đến cỡ đó trong khi ngay cả não mình cũng chẳng có thì mệt lắm!

Tôi chuyển ống nghe sang tay trái.

- Alô, ông Okada? Ông vẫn đang nghe đấy chứ?

- Tôi đang nghe đây, - tôi nói.

- Tốt, vậy thì thế này: cái duy nhất tôi cần ở ông là mật khẩu để truy cập máy tính của ông. Được vậy thì tôi sẽ bố trí được một buổi nói chuyện giữa ông và cô Kumiko. Ý ông thế nào?

- Tôi thì thấy có vài cái khó, về thực tiễn.

- Ồ, khó khăn gì mới được chứ?

- Trước hết, làm sao tôi biết chắc đó là Kumiko? Khi trò chuyện trên màn hình vi tính, ta không thấy được mặt hay nghe giọng nói của người kia. Một ai khác có thể ngồi ở bàn phím vờ là Kumiko chứ.

- Tôi hiểu ý ông, - Ushikawa nói, giọng có vẻ chịu là tôi nói phải. - Tôi chưa hề nghĩ tới điều đó. Nhưng tôi tin chắc là phải có cách giải quyết. Không phải nịnh ông đâu, nhưng luôn nhìn sự vật một cách hoài nghi, luôn nghi ngờ như ông là rất tốt. "Tôi hoài nghi, vì vậy tôi tồn tại". Được thôi, vậy chuyện này xử lý thế nào? Trước tiên ông hãy hỏi một câu mà chỉ mình Kumiko mới trả lời được. Nếu người kia trả lời được thì đó phải là Kumiko. Ý tôi là ông với cô ấy sống với nhau đã mấy năm thì hẳn phải có vài điều chỉ hai người biết với nhau thôi.

Điều Ushikawa vừa nói xem ra có lý.

- Thế thì chắc là được, - tôi nói. - Nhưng tôi không biết mật khẩu. Tôi chưa đụng tới cái máy đó bao giờ.

° ° °


Nhục đậu khấu có bảo tôi, Quế đã điều chỉnh từng xăngtimét của hệ thống máy tính theo ý thích của anh. Anh ta đã chế ra cơ sở dữ liệu riêng đầy phức tạp của mình và cài đặt một mã bí mật cùng nhiều phương sách tài tình khác để ngăn không cho người ngoài truy cập. Mười ngón tay đặt trên bàn phím, Quế là kẻ thống trị tuyệt đối cái mê cung ba chiều dưới lòng đất này. Anh ta biết rõ từng đường đi lối lại trong cái mớ bòng bong những đường ngang ngõ tắt ấy, chỉ cần một cú nhấn phím là có thể dễ dàng nhảy từ đường này đến lối kia. Đối với một kẻ ngu ngơ xâm nhập vào đây (nghĩa là bất cứ ai khác ngoài Quế), thì để mò được đường trong cái mê cung này, vượt qua hết các chốt báo động và cạm bẫy đặng tìm ra nơi chứa dữ liệu quan trong thì phải mất hàng tháng trời, theo lời Nhục đậu khấu. Ấy thế mà cái máy đặt ở Dinh không lấy gì làm quá lớn, nó chỉ cùng loại với máy đặt ở văn phòng tại Akasaka thôi. Tuy nhiên, cả hai đều được nối mạng với máy chủ ở nhà họ. Nhất định là ở đó Quế lưu dữ liệu về khách hàng và tiến hành hệ thống kế toán kép phức tạp của hai mẹ con, nhưng tôi cho rằng ngoài những bí mật liên quan đến công việc mà anh ta và Nhục đậu khấu đã làm nhiều năm qua, anh ta còn lưu ở đó một cái gì hơn thế nữa.

Sở dĩ tôi tin như vậy là xét qua mức độ gắn bó sâu sắc giữa Quế với chiếc máy vi tính mà có lần tôi đã tình cờ thấy được khi anh ta nán lại Dinh của chúng tôi. Thường thì mỗi khi ngồi trong phòng làm việc riêng của mình ở đó, anh ta đều đóng kín cửa, nhưng thi thoảng anh ta lại để cửa he hé nhờ vậy tôi có thể quan sát anh ta làm việc, dù không phải không có chút cảm giác tội lỗi khi tọc mạch dòm vào chỗ riêng tư của người ta. Anh ta và chiếc máy vi tính dường như cũng chuyển động trong một mối thống nhất gần như là nhục cảm. Sau khi gõ một loạt phím, anh ta nhìn đăm đăm vào màn hình, miệng anh ta méo đi lộ vẻ bất bình hoặc cong lên hao hao giống nụ cười. Đôi khi anh có vẻ trầm ngâm suy nghĩ, tay gõ một phím, một phím khác, rồi một phím khác nữa; đôi khi anh lướt ngón tay rào rào trên các phím với toàn bộ nội lực của một dương cầm thủ đang chơi một bản étude của Liszt. Trong khi đắm mình vào cuộc đàm thoại câm lặng với chiếc máy tính, dường như anh đang nhìn thấu qua màn hình để thấy một thế giới khác, cái thế giới có mối liên quan mật thiết đặc biệt với anh. Tôi không thể không cảm thấy, thực tại đối với anh là ở cái mê cung dưới lòng đất của anh hơn là ở thế giới trên mặt đất này. Có lẽ trong thế giới đó Quế có một giọng nói rõ ràng, sang sảng, bằng giọng đó anh nói năng hùng biện, bằng giọng đó anh cười lớn tiếng và thét vang lên.

° ° °


- Liệu tôi có thể truy cập máy của ông từ máy ở đây không? - tôi hỏi Ushikawa. - Làm vậy thì ông không cần mật khẩu.

- Không, thế không được. Thông điệp của ông có thể đến đây, nhưng thông điệp từ đây thì không đến đó được. Vấn đề là ở mật khẩu, ở cái câu "Vừng ơi mở ra" ấy. Không có nó thì ta chẳng làm gì được. Cửa sẽ không mở ra cho sói, dù sói có ra sức nhại giọng đến đâu. Nó có thể gõ cửa nói: "Chào, mình là bạn Thỏ đây", nhưng nếu không có mật khẩu thì sẽ bị cấm cửa thôi. Đây là chuyện khóa trinh tiết kia mà.

Ushikawa quẹt diêm châm thuốc ở đầu dây bên kia. Tôi hình dung hai hàm răng khấp khểnh vàng khè và cái mồm móm xọm của y.

- Đó là một mật khẩu gồm ba ký tự, chữ cái hay chữ số. Ông có mười phút để nhập mật khẩu sau khi con trỏ nhắc. Nhập sai ba lần thì sẽ bị từ chối truy cập, thêm nữa sẽ có báo động. Chả phải còi hụ hay gì gì đâu, nhưng sói đã để lại dấu chân thì người ta ắt biết là nó đã chui vào. Khôn ngoan quá hử? Ông cứ thử tính có bao nhiêu cách hoán vị và kết hợp giữa hai mươi bốn chữ cái và mười chữ số xem, có mà vô số. Ông phải biết mật khẩu, không thì chẳng làm gì được.

Tôi suy nghĩ một chút, không trả lời.

- Ông Okada có ý gì không?

° ° °


Chiều hôm sau, khi vị khách đã ngồi trên băng sau chiếc Mercedes để ra về, tôi đến chỗ phòng làm việc nhỏ của Quế, ngồi xuống trước máy vi tính của anh ta rồi bật máy. Ánh sáng xanh dương dịu mát của màn hình hiện lên với một thông điệp duy nhất:

Nhập mật khẩu trong vòng mười giây.

Tôi nhập mật khẩu gồm ba chữ mà tôi đã chuẩn bị sẵn:

zoo

Máy tính kêu bíp một lần rồi hiển thị thông báo lỗi:

Mật khẩu không đúng.

Nhập mật khẩu đúng trong vòng mười giây.

Mười giây bắt đầu được đếm ngược trên màn hình. Tôi chuyển sang chữ hoa và nhập cũng những ký tự đó.

ZOO

Một lần nữa máy lại từ chối cho tôi truy nhập:

Mật khẩu không đúng.

Nhập mật khẩu đúng trong vòng mười giây.

Nếu nhập sai mật khẩu một lần nữa thì sẽ bị cấm truy nhập.

Một lần nữa mười giây lại được đếm ngược trên màn hình. Lần này tôi chỉ dùng ký tự hoa cho z. Đây là cơ hội chót của tôi.

Zoo

Thay vì thông báo lỗi, một màn hình mệnh đơn xuất hiện với hướng dẫn:

Chọn một trong các chương trình sau.

Tôi chọn "Chat Mode" rồi nhấp chuột.

Nhập mật khẩu trong vòng mười giây.

Đây là một đầu mối quan trọng để Quế ngăn không cho người ngoài xâm nhập vào máy. Mà nếu đầu mối đã quan trọng thì bản thân mật khẩu cũng phải quan trọng. Tôi gõ vào:

SUB

Màn hình hiển thị:

Mật khẩu không đúng.

Nhập mật khẩu đúng trong vòng mười giây.

Máy bắt đầu đếm ngược: 10, 9, 8...

Tôi thử dùng kết hợp giữa chữ hoa và chữ thường mà lần trước đã có hiệu quả:

Sub

Một câu nhắc xuất hiện trên màn hình:

Nhập số điện thoại.

Tôi khoanh tay trước ngực, nhìn đăm đăm vào cái thông điệp này. Không tệ lắm. Tôi đã mở thành công hai cánh cửa trong mê cung của Quế. Không, không tệ một chút nào. "Zoo" và "Sub" 1 là vào được. Tôi nhấp "Exit" rồi quay lại màn hình chính, sau đó chọn "Shutdown", khi đó màn hình hiển thị thông điệp:

Lưu các thao tác lần này vào file tác vụ? Y/N (Y)

Theo chỉ dẫn của Ushikawa, tôi chọn "No" để tránh lưu lại dấu vết về những thao tác mà tôi vừa tiến hành.

Màn hình lặng lẽ tắt. Tôi quệt mồ hôi trán. Sau khi kiểm tra xem mình đã đặt bàn phím và con chuột về đúng vị trí cũ chưa, tôi rời khỏi cái màn hình giờ đã lạnh.

--------------------------------
1.Zoo là vườn thú, còn "sub" là âm tiết đầu của submarine, tàu ngầm. Hiển nhiên, Okada Toru đã lường trước được rằng "vườn thú" và "tàu ngầm", hai chi tiết quan trọng trong những câu chuyện của bà Akasaka Nhục đậu khấu kể cho Quế nghe, ắt phải có cái gì đó rất quan trọng, thậm chí quan trọng bậc nhất đối với Quế, nên mật khẩu truy cập máy tính của Quế hẳn cũng không nằm ngoài những thứ này - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách