Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Sein
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót | Haruki Murakami

[Lấy địa chỉ]
61#
 Tác giả| Đăng lúc 9-8-2012 20:07:04 | Chỉ xem của tác giả


Chẳng bao lâu sau cửa mở, ai đó bước vào phòng. Qua tiếng bước chân tôi biết đó là gã thanh niên. Y vòng lại sau lưng tôi tháo kính bơi ra. Căn phòng vẫn tối, ánh sáng duy nhất là từ bóng đèn đơn của cây đèn chân đế. Tôi lấy lòng bàn tay dụi mắt, để làm quen với thế giới thực tại. Lúc này gã thanh niên đã vận com-lê, pha một chút ánh lục, là sự phối màu hoàn hảo với màu chiếc cà vạt y đeo. Mỉm cười nhẹ nhàng, y nắm lấy tay tôi, giúp tôi đứng dậy rồi đưa tôi về phía cánh cửa ở đầu bên kia phòng. Y mở cửa, phía bên kia là một buồng tắm. Buồng có bệ xí, đằng sau là một góc tắm hoa sen nhỏ. Nắp bệ xí đang đậy, y cho tôi ngồi lên đó rồi mở vòi hoa sen. Y đợi cho nước nóng bắt đầu chảy rồi ra hiệu cho tôi tắm dưới vòi. Y mở giấy gói một bánh xà phòng mới đưa cho tôi. Rồi y ra khỏi buồng tắm, đóng cửa lại. Tại sao tôi phải tắm hoa sen cơ chứ? Thật không thể hiểu.

Cuối cùng, khi cởi quần áo thì tôi hiểu. Tôi đã xuất tinh dưới quần lót. Tôi bước vào dưới vòi hoa sen nóng rồi tắm rửa bằng bánh xà phòng mới màu xanh. Tôi gột sạch chỗ tinh dịch bết vào lông dương vật. Tôi ra khỏi vòi hoa sen rồi lau mình bằng chiếc khăn tắm lớn. Ngoài khăn tắm ra tôi còn thấy một chiếc quần lót và một chiếc áo thun hiệu Calvin Klein, cả hai đều còn nguyên giấy gói và đều đúng cỡ tôi. Có thể họ đã tính trước rằng tôi sẽ xuất tinh trong quần. Tôi nhìn đăm đăm vào chính mình trong gương một lát, nhưng đầu tôi không nghĩ được gì cho ra đầu ra đũa. Tôi vứt chiếc quần lót vấy bẩn vào sọt rác rồi mặc chiếc quần lót mới trắng tinh, chiếc áo thun mới trắng, sạch bong. Rồi tôi mặc quần bò và áo len có cổ qua đầu. Tôi đi tất rồi mang đôi giày tennis bẩn, cuối cùng là chiếc áo khoác bóng chày. Rồi tôi ra khỏi buồng tắm. Gã thanh niên đang chờ tôi ở ngoài, liền dẫn tôi ra phòng đợi ban đầu.

Căn phòng nom vẫn như trước. Trên bàn làm việc vẫn là cuốn sách để mở, cạnh đó là chiếc máy vi tính. Bản nhạc cổ điển không biết của ai vẳng ra từ loa. Gã thanh niên bảo tôi ngồi xuống sofa rồi đem tới cho tôi một cốc nước khoáng mát lạnh. Tôi uống nửa cốc. "Tôi mệt làm sao đó", tôi nói. Giọng nói nghe như không phải của tôi. Chẳng phải tôi định nói điều gì như vậy. Mấy chữ đó bật ra chẳng biết từ đâu, ngoài ý chí của tôi. Tuy nhiên, giọng nói thì dĩ nhiên là của tôi.

Gã thanh niên gật đầu. Y lấy từ trong túi áo khoác của mình ra một chiếc phong bì trắng rồi dúi vào túi trong chiếc áo khoác bóng chày của tôi. Rồi y lại gật đầu lần nữa. Tôi nhìn ra ngoài. Trời đã tối đường phố lấp lánh những bảng hiệu nê-ông, ánh đèn tử cửa sổ các cao ốc văn phòng, những ngọn đèn đường, những đèn pha ô-tô. Ý nghĩ phải nán lại thêm chút nào trong cái phòng này trở nên không thể chịu nổi. Chẳng nói chẳng rằng, tôi đứng dậy, băng qua căn phòng, mở cửa bước ra ngoài. Gã thanh niên đứng ở bàn làm việc nhìn theo tôi, vẫn im lặng như bao giờ, không giữ tôi lại.

° ° °


Chuyến tàu Akasaka Mitsuke chật ních người đi làm về nhà. Không có lòng dạ nào chui vào xe điện ngầm, tôi quyết định đi bộ càng xa càng tốt. Tôi đi bộ qua cung điện dành cho các phái bộ nước ngoài đến tận ga Yotsuya. Rồi tôi đi dọc theo đại lộ Shinjuku và ghé vào một quán nhỏ không đông khách, gọi cốc bia. Ngụm đầu tiên khiến tôi nhận ra mình đang đói cồn cào, thế là tôi gọi bánh snack. Tôi nhìn đồng hồ mới biết đã gần 7 giờ tối. Song thử nghĩ mà xem, thời gian còn có quan trọng gì với tôi đâu.

Đến một lúc, tôi nhận ra có cái gì đó ở túi trong áo khoác. Tôi đã quên bẵng chiếc phong bì gã thanh niên đưa tôi khi tôi ra về. Đó chỉ là một chiếc phong bì trắng bình thường, nhưng cầm trong tay, tôi nhận ra nó nặng hơn nhiều so với thoạt nhìn. Mà không phải chỉ nặng, trọng lượng của nó có gì đó là lạ, như thể có cái gì đó bên trong đang cố ghìm hơi thở. Sau một thoáng lưỡng lự, tôi xé phong bì ra, sớm muộn gì thì tôi cũng phải làm việc đó cơ mà. Bên trong là một tập giấy bạc mười ngàn Yên gói chặt, mới cứng, không có lấy một vết gấp hoặc nếp nhăn. Tiền mới quá, trông như không phải thật, mặc dù tôi chẳng có lí do gì không tin là tiền thật. Có hai mươi tờ tất cả. Tôi đếm lại lần nữa cho chắc. Phải chẳng nghi ngờ gì nữa: hai mươi tờ. Hai trăm ngàn Yên.

Đoạn tôi nhặt chiếc nĩa trên bàn lên mà nhìn nó chăm chăm chẳng vì lí do gì. Điều đầu tiên nảy ra trong đầu tôi là nên dùng số tiền này để mua một đôi giày mới. Đó chính là điều tôi cần hơn hết thảy. Tôi trả tiền ăn uống rồi quay lại đại lộ Shinjuku nơi có một hiệu giày lớn. Tôi chọn một đôi giày điền kinh rất bình thường màu xanh dương rồi cho người bán biết cỡ chân của mình mà không hỏi giá tiền. Nếu vừa thì tôi có thể mang luôn về nhà, tôi nói. Người bán (hẳn cũng là chủ hiệu) luồn cặp dây giày trắng vào các lỗ trên hai chiếc giày rồi hỏi: "Còn đôi cũ thì làm sao đây?". Tôi bảo ông ta vứt đi, nhưng rồi nghĩ lại, liền bảo tôi sẽ mang về nhà.

Ông ta mỉm cười tử tế với tôi. "Giày cũ mà tốt thì dù nhếch nhác một tí vẫn được việc", ông ta nói, như muốn hàm ý rằng những đôi giày bẩn thỉu đến thế ông vẫn thường gặp luôn. Đoạn ông cho đôi giày cũ vào cái hộp vốn đựng đôi giày mới, lại cho hộp vào một cái túi mua hàng. Nằm trong hộp mới đôi giày tennis cũ trông như xác chết của hai con vật nhỏ. Tôi trả tiền bằng một trong các tờ một vạn Yên mới cứng đựng trong phong bì, nhận tiền trả lại gồm một vài tờ một ngàn Yên không mới lắm. Xách chiếc túi đựng đôi giày cũ, tôi lên tuyến xe điện Odakyu để về nhà. Tôi níu chặt vào vòng tay vịn, hoà mình vào đám đông đang trở về nhà mà nghĩ về những thứ mới mình đang có trên người - quần lót mới, áo thun mới, giày mới.

° ° °


Về nhà, tôi lại ngồi bên bàn dưới bếp như mọi khi, vừa uống bia vừa nghe nhạc trên radio. Bỗng dưng tôi muốn nói chuyện với ai đó, nói về thời tiết, về sự ngu xuẩn của chính phủ, về cái gì cũng được. Chỉ cần được trò chuyện với ai đó, nhưng tôi không nghĩ ra được ai, không một người nào tôi có thể cùng trò chuyện. Ngay cả con mèo tôi cũng chẳng có.

° ° °


Sáng hôm sau, khi cạo râu, tôi kiểm tra vết bầm trên mặt như mọi khi. Không thấy có gì thay đổi. Tôi ngồi ngoài hiên, và đã lâu lắm tôi mới lại dành cả ngày trời chẳng làm gì, chỉ ngồi ngắm khu vườn nhỏ ngoài kia. Buổi sáng thật đẹp trời, buổi trưa cũng đẹp. Lá trên cây đu đưa trong làn gió nhẹ đầu xuân.

Tôi rút cái phong bì đựng mười chín tờ giấy bạc mười ngàn Yên ra khỏi túi áo khoác rồi cho vào ngăn kéo bàn làm việc. Nó vẫn có vẻ nặng đến kỳ lạ trong tay tôi. Cái sức nặng này hẳn hàm chứa một ý nghĩa nào đó, nhưng tôi không thể hiểu đó là gì. Đột nhiên tôi hiểu ra: nó nhắc tôi nhớ lại một cái gì đó. Việc tôi đã làm nhắc tôi nhớ lại một cái gì đó. Nhìn chăm chăm vào cái phong bì trong ngăn kéo, tôi cố nhớ ra là cái gì mà không được.

Tôi đóng ngăn kéo lại, xuống bếp pha ít trà rồi đứng trước bồn rửa mặt mà uống; đúng vào lúc đó tôi sực nhớ. Việc tôi đã làm hôm nay cũng giống như việc mà Kano Creta đã làm trong vai gái gọi. Người ta gọi tới đâu thì tôi đi tới đó, ngủ với một người xa lạ, rồi được trả tiền. Thật ra tôi không ngủ với người đàn bà đó (tôi chỉ xuât tinh trong quần), nhưng ngoài cái đó ra thì thực chất là một. Vì cần một số tiền lớn, tôi đã bán mình cho người khác để được tiền. Tôi vừa uống trà vừa ngẫm nghĩ về điều đó. Một con chó sủa đằng xa. Rồi có tiếng máy bay. Song những ý nghĩ của tôi không thể nào mạch lạc cho được. Tôi lại ra ngoài hiên ngắm khu vườn tắm dưới ánh nắng chiều. Khi đã chán, tôi nhìn hai lòng bàn tay mình. Liệu có cần thế chăng: tôi đã thành một tên ************** đực! Ai có thể tưởng tượng nổi rằng có ngày tôi đem thân mình ra bán lấy tiền? Và với số tiền đó, việc đầu tiên tôi làm là đi mua đôi giày mới?

Tôi muốn hít thở không khí ngoài trời, bèn quyết định đi mua sắm. Tôi đi bộ xuôi theo phố, chân đi đôi giày mới. Tôi có cảm giác như đôi giày mới kia đã biến tôi thành một con người mới, khác với con người của tôi trước kia. Quang cảnh đường phố, những khuôn mặt người mà tôi đi qua trông cũng khác. Ở siêu thị khu vực, tôi mua rau, trứng, sữa, cá và hạt cà phê, trả tiền bằng mấy tờ giấy bạc mà tối qua người ta trả lại tôi ở hiệu giày. Tôi muốn kể cho người phụ nữ trung niên có bộ mặt tròn đứng bên quầy rằng tôi đã kiếm được món tiền này hôm trước bằng cách bán mình. Tôi đã kiếm được hai trăm ngàn Yên. Hai trăm ngàn Yên! Có làm việc hùng hục như khổ sai ở hãng luật, làm thêm giờ tất cả các ngày trong tháng, tôi cũng chỉ đem về nhà được hơn trăm năm mươi ngàn Yên một chút. Tôi muốn nói với bà ta vậy. Nhưng dĩ nhiên tôi chẳng nói gì. Tôi đưa tiền rồi nhận một túi giấy đầy các thứ đã mua.

Có điều này thì chắc chắn: mọi việc đã bắt đầu chuyển động. Tôi vừa cuốc bộ về nhà, tay xách túi đựng thức ăn, vừa tự nhủ mình như vậy. Giờ tôi chỉ còn một việc phải làm là trụ thật vững để không bị quật ngã. Nếu làm được vậy thì ít nhất tôi cũng đến được chỗ nào đó, một nơi nào đó khác nơi tôi đang ở hiện nay.

° ° °


Linh cảm của tôi không sai. Khi tôi về đến nhà, con mèo ra đón tôi. Ngay khi tôi mở cửa trước, nó kêu meo một tiếng rõ to như thể đã đợi tôi suốt cả ngày rồi chạy ùa đến với tôi, chót đuôi quặp dựng đứng lên. Vâng, chính là Wataya Noboru, đi lạc đã gần một năm nay. Tôi đặt túi đồ ăn xuống rồi ôm nó vào lòng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

62#
 Tác giả| Đăng lúc 9-8-2012 20:09:25 | Chỉ xem của tác giả


Chương 5
Một Nơi Mà Nếu Nghĩ Thật Lung Thì Sẽ Đoán Ra ( Quan Điểm Của Kasahara May, Phần 1)



Chào Chim vặn dây cót!

Em cá là anh cứ nghĩ em đang ngồi trong lớp học trước cuốn giáo khoa để mở, đang nhằn một môn nào đó như bất cứ đứa học trò nào. Đúng là lần trước gặp nhau chính em có bảo anh rằng em sắp đi học một "trường khác" thành thử anh nghĩ vậy thì cũng tự nhiên thôi. Thực ra em cũng có tới một trường khác thật, trường tư dành cho nữ sinh, ở xa lắm, trường rất oách, phòng vừa sạch vừa rộng rãi như phòng khách sạn, có quán cà phê muốn ăn gì có nấy, có sân tennis mới cáu rộng mênh mông, lại có cả hồ bơi, dĩ nhiên là rất đắt, chỉ dành cho con gái nhà giàu. Mà không phải những đứa bình thường đâu nhé, toàn mấy đứa cá biệt thôi. Anh có hình dung được thế là thế nào không? Một cái trường kiểu như trường tư ở miền quê hoặc trong rừng, của dân nhà giàu ấy. Bao quanh là tường cao chót vót rào kẽm gai, cổng thì cổng sắt to đùng cỡ Godzilla chắc cũng không phá nổi, có lính canh gác thay phiên suốt ngày đêm, cứ như là người máy, để ngăn không cho người ngoài vào thì ít mà ngăn không cho người ở trong ra thì nhiều.

Giờ chắc anh sẽ hỏi: "Đã biết là một nơi kinh khủng như vậy sao còn tới làm gì?". Anh nói đúng, nhưng em không có cách nào khác. Điều duy nhất em muốn là thoát khỏi cái nhà đó, nhưng sau tất cả những gì em đã gây ra thì chẳng còn trường nào ngoài cái trường ấy đủ "khoan dung" để nhận em làm học sinh chuyển tiếp. Đã vậy thì em quyết định cứ ráng chịu thử xem. Nhưng cái trường ấy thật tình là kinh khủng quá sức! Người ta hay dùng chữ "ác mộng", nhưng ở đó còn tồi tệ hơn cất cứ cơn ác mộng nào. Ở đó hầu như lúc nào em cũng mơ toàn ác mộng, thức dậy thì mồ hôi đã vã ra như tắm, nhưng dẫu vậy đi nữa em thà cứ mơ tiếp còn hơn, bởi những cơn ác mộng của em còn tốt hơn thực tại ở cái chỗ đó. Chả biết anh có hiểu điều em nói không hở Chim vặn dây cót? Giá mà anh rơi vào một chỗ như thế nhỉ.

Thế là rốt cuộc em chỉ ở lại cái khách sạn cao cấp hay nhà tù hay trường học trong rừng này vẻn vẹn có một học kỳ. Khi được về nhà nghỉ vào mùa xuân, em tuyên bố với cha mẹ rằng nếu phải quay lại đó thì em sẽ tự tử. Em sẽ nhét ba cục bông vào cổ họng rồi uống cả xô nước, em sẽ cắt cổ tay, em sẽ đâm đầu từ trên mái trường xuống đất. Em đã nói là em làm. Em không đùa. Cả bố lẫn mẹ em cộng lại trí tưởng tượng cũng chỉ bằng một con ếch, nhưng qua kinh nghiệm họ cũng biết, một khi em đã tới nước đó thì không phải dọa xuông đâu.

Thế là em không bao giờ quay lại chỗ đó nữa. Suốt cả tháng Ba, tháng Tư, em chỉ ngồi nhà đọc sách, xem ti-vi với lại ăn không ngồi rồi. Và ngày nào cũng vậy, có tới trăm lần em nghĩ: "Giá như được gặp Chim vặn dây cót". Em muốn đi xuôi con ngõ nọ, trèo qua hàng rào đến nói chuyện thật lâu, thật thú với anh. Nhưng đâu dễ thế. Nếu vậy thì khác gì lặp lại hè năm ngoái đâu. Thế nên em chỉ ngắm cái ngõ từ phòng mình mà tự hỏi: Chim vặn dây cót giờ đang làm gì nhỉ? Mùa xuân đang từ từ, lặng lẽ chiếm ngự cả thế gian, nhưng chuyện gì đang xảy ra với anh ấy trong thế gian này? Kumiko đã trở về với anh ấy chưa? Chuyện gì đang xảy ra với hai người đàn bà kỳ lạ Kano Malta và Kano Creta? Mèo Wataya Noboru đã về chưa? Vết bầm trên má Chim vặn dây cót đã biến đi chưa?...

Sống một tháng như vậy rồi em không chịu nổi nữa. Em không biết làm thế nào hay tự lúc nào mà cái khu nhà mình đối với em nay chẳng là gì khác ngoài "thế giới của Chim vặn dây cót", và khi em ở trong đó thì em chẳng là gì khác ngoài "cái tôi trong thế giới của Chim vặn dây cót". Đó chẳng phải là chỉ nói vậy đâu... Không phải lỗi tại anh, dĩ nhiên, nhưng dù sao... Thành thử phải tìm một chỗ cho riêng mình.

Em nghĩ mãi, nghĩ mãi, rốt cuộc cũng nghĩ ra mình phải đi đâu.

° ° °


(Gợi ý) Đó là một chỗ mà nếu anh suy nghĩ thật lung vào thì sẽ đoán ra. Anh sẽ hình dung được em đang ở đâu nếu anh cố nghĩ. Đây không phải một ngôi trường, không phải khách sạn, không phải nhà tù, không phải một cái nhà. Nó là một chỗ đặc biệt, ở xa. Nó là... bí mật. Ít nhất là tạm thời.

° ° °


Em lại đến vùng núi, ở một nơi khác có tường vây quanh (nhưng không đến nỗi cao ngất ngưởng thế), có một cái cổng, có một ông già dễ chịu làm gác cổng, nhưng mình có thể ra vào bất cứ lúc nào tuỳ thích. Khuôn viên rộng mênh mông, có cả rừng, cả hồ, nếu đi dạo khi mặt trời mọc thì sẽ gặp cơ man nào là thú, sư tử này, ngựa vằn này..., không em đùa đấy, nhưng anh có thể gặp những con vật nho nhỏ dễ thương như lửng 1 và công. Có một ký túc xá, em sống ở đó.

Em đang viết thư này trong một căn phòng bé tí, trên một cái bàn bé tí, cạnh một kệ sách bé tí, bên một cái tủ quần áo bé tí, chẳng cái nào có trang hoàng tí tị nào, tất cả đều được thiết kế đủ đáp ứng những nhu cầu chức năng tối thiểu. Trên bàn là một cái đèn bàn, một tách trà, giấy bút đặng viết bức thư này và một cuốn từ điển. Nói thật, em chả bao giờ dùng từ điển. Vốn là em không ưa từ điển. Em không thích bộ dạng chúng, cũng chẳng ưa những gì người ta nói trong đó. Mỗi khi dùng từ điển, em đều nhăn mặt nghĩ: Ai mà cần cơ chứ? Những người như em không hợp với từ điển đâu. Chẳng hạn như em tìm từ "chuyển tiếp", trong từ điển nói: "giai đoạn chuyển từ trạng thái này sang trạng thái kia". Thì đã sao? Em nghĩ. Có liên quan gì tới em nào. Vì vậy mỗi khi thấy một cuốn từ điển trên bàn là em lại có cảm giác mình đang thấy một con chó lạ đang ị một đống phân xoắn tít trên bãi cỏ nhà em vậy. Nhưng dù sao em vẫn mua một cuốn vì chắc em phải tra gì đó khi viết thư cho Chim vặn dây cót.

Em còn có một tá bút chì, thảy đều gọt sắc, sắp thành hàng. Toàn bút mới tinh. Em mới mua ở cửa hàng văn phòng phẩm, mua chỉ để viết thư cho anh (chẳng phải em muốn anh cảm kích hay gì gì đó đâu; đơn giản là bút mới, gọt sắc thì trông thật đẹp, đúng không?) Em lại có một cái gạt tàn, có thuốc lá và diêm quẹt. Em không hút nhiều như hồi trước, chỉ thỉnh thoảng mới hút khi tâm trạng thay đổi (như bây giờ chẳng hạn). Đó là tất cả những thứ trên bàn em. Bàn đối diện cửa sổ, cửa sổ thì có rèm. Rèm có vẽ những bông hoa nhỏ trông khá dễ thương - chẳng phải em chú ý chọn đâu, khi em về thì đã thế rồi. Kiểu vẽ hoa ấy là thứ duy nhất không bình bình, giản dị ở đây. Đây là căn phòng hoàn hảo dành cho một thiếu nữ mới lớn - mà cũng có thể không. Không, dĩ nhiên là hơn một cái xà lim hiện đại được xây với ý tốt dành cho những người phạm lỗi lần đầu. Máy nghe nhạc của em đặt ở trên kệ (cái máy to, anh có nhớ không hở Chim vặn dây cót?), hiện em đang nghe Bruce Springsteen đây. Đang chiều Chủ nhật, ai nấy ra ngoài kia vui chơi nên em có vặn thật to thì cũng chẳng ai than phiền gì cả.

Thú giải trí duy nhất của em hồi này là cuối tuần lại sang thị trấn lân cận mua những cuốn băng cát-xét em thích ở một cửa hàng băng đĩa. (Em hầu như chẳng bao giờ mua sách. Nếu muốn đọc gì thì đã có thư viện). Em chơi khá thân với con bé phòng bên. Nó mua một chiếc ô-tô cũ, thành thử khi nào muốn xuống phố em đều đi với nó. Và anh thử đoán xem nào? Em đang học lái ô-tô nhé. Ở đây rộng mênh mông, em tha hồ tập bao nhiêu chẳng được. Em chưa có bằng lái nhưng lái cũng khá đấy.

Thật ra, chả giấu gì anh, ngoài chuyện mua băng nhạc thì xuống phố cũng chả để làm gì. Ai cũng nói họ phải ra ngoài ít nhất một lần mỗi tuần, không thì sẽ phát điên, nhưng em lại thấy thoải mái được ở lại đây một mình khi ai nấy đều đi khỏi, được nghe thứ nhạc mình thích như thế này. Có lần em đi ô-tô cùng với cô bạn đến chỗ hẹn với một anh chàng mà em chưa biết mặt. Thử xem thế nào thôi mà. Con bé là dân vùng này nên quen biết nhiều người. Anh chàng em hẹn là một cậu cũng dễ thương, sinh viên, nhưng... Biết nói thế nào nhỉ, em vẫn chưa xác định được cảm xúc của mình về mấy chuyện này. Cảm xúc của em đều như ở đằng xa, xếp hàng như một lũ hình nộm trong trường bắn, và có tới hàng mấy dãy bình phong trong suốt ngăn giữa chúng với em.

Nói thật với anh, khi gặp anh hồi mùa hè năm ngoái, khi hai ta ngồi ở bàn bếp vừa uống bia vừa trò chuyện, em cứ nghĩ: nếu ngay lúc này đây Chim vặn dây cót đột ngột đè em ra toan cưỡng hiếp thì em sẽ làm gì? Em chẳng biết mình sẽ làm gì. Cố nhiên, hẳn là em sẽ chống cự mà nói: "Không, Chim vặn dây cót à, anh không nên làm thế!". Nhưng rồi hẳn em sẽ lại nghĩ: mình phải giải thích tại sao làm thế là sai, tại sao anh lại không nên làm thế, và càng nghĩ em lại càng rối trí, trong thời gian đó thì hẳn anh đã hiếp em xong rồi. Hễ nghĩ đến chuyện đó là tim em lại đập như điên, và em lại nghĩ chuyện này có phần không công bằng. Em cuộc là anh không ngờ nổi trong đầu em lại có những ý nghĩ như vậy đâu. Anh có cho rằng thế là ngu ngốc không? Chắc là có. Đúng là em ngốc thật. Nhưng lúc ấy thì em tuyệt đối nghiêm túc, vô cùng nghiêm túc về những chuyện đó. Hẳn vì vậy mà em đã kéo thang lên khỏi giếng và đậy nắp giếng lại trong khi anh đang ở dưới đáy, em làm vậy như là để nhốt anh lại mãi mãi. Sẽ không còn Chim vặn dây cót nào trên đời này nữa, em sẽ không còn phải bận tâm với những ý nghĩ đó mà sống yên ổn.

Dù sao em cũng xin lỗi, em biết lẽ ra không bao giờ nên làm vậy với anh (hay với bất kỳ ai). Nhưng đôi khi em không thể kìm mình được. Em biết đích xác mình đang làm gì, nhưng em không dừng được. Đó là điểm yếu lớn nhất của em.

Em tin rằng chẳng bao giờ anh lại hiếp em, Chim vặn dây cót ạ. Giờ thì em biết chắc điều đó, không hiểu vì sao. Không hẳn là anh sẽ không bao giờ, chẳng đời nào làm vậy (ý em là chẳng ai biết chắc được sẽ xảy ra chuyện gì) nhưng có lẽ anh sẽ không làm vậy ít nhất là để khỏi làm em bối rối. Em không biết nói sao cho rõ hơn, nhưng em cảm thấy vậy đó.

Mà thôi, nói chuyện cưỡng hiếp thế đủ rồi.

Nói gọn là, dù đi hẹn hò với một chàng trai nhưng em không sao tập trung cảm xúc vào đó được. Em vẫn cười cười nói nói nhưng tâm trí em cứ phiêu diêu mãi đâu đâu, như quả bong bóng bị đứt dây. Em cứ nghĩ chuyện nọ xọ chuyện kia, chẳng liên quan gì với nhau hết. Em chả biết, chắc là bởi em muốn ở một mình lâu lâu một chút, muốn thả cho ý nghĩ mình mặc sức tự do. Theo nghĩa đó, hẳn là em vẫn đang "trên đường hồi phục".

Em sẽ lại viết thư cho anh, không lâu nữa đâu. Lần sau, chắc em sẽ có thể nói sâu hơn một chút về mọi chuyện.

TB: Trước khi nhận được thư sau, anh hãy cố đoán xem em đang ở đâu, đang làm gì nhé.


--------------------------------
1.Động vật thuộc họ chồn, màu xám, trên đầu có vân đen trắng, chân ngắn, móng khỏe, lông dày, đào hang dưới đất và ra ngoài hang vào ban đêm. Tên tiếng Anh là badger - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

63#
 Tác giả| Đăng lúc 9-8-2012 20:13:23 | Chỉ xem của tác giả


Chương 6
Nhục Đậu Khấu Và Quế



Từ đầu cho tới chót đuôi con mèo bùn khô đóng thành từng mảng, lông rối bù, bết lại thành từng búi, như thể nó đã lăn qua lăn lại hồi lâu trên một bãi bùn đất nhoe nhoét. Nó kêu rừ rừ khoái chí khi được tôi bồng lên mà kiểm tra khắp người. Nó có gầy đi một chút, nhưng cái đó ra thì nó không khác mấy so với lần cuối tôi nhìn thấy: khuôn mặt, thân hình, bộ lông. Mắt nó trong veo, mình mẩy không bị thương. Nó chả có gì giống một con mèo đi lạc đã gần một năm trời. Có chăng là giống như nó trở về nhà sau một đêm chơi bời bê tha vậy.

Tôi cho nó ăn ở ngoài hiên: một đĩa cá thu cắt lát mà tôi mua ở siêu thị. Rõ là nó đói meo. Nó khoắng sạch đĩa cá nhanh đến nỗi chốc chốc lại sặc và ợ ra đĩa những miếng đã nuốt. Tôi tìm thấy cãi đĩa đựng nước cho mèo dưới bồn rửa mặt, liền đổ nước đầy tận mép. Nó tợp gần như sạch đĩa. Ăn uống no nê rồi, nó bắt đầu liếm bộ lông bê bết bùn, nhưng rồi như thể sực nhớ rằng tôi đang ở đó, liền nhảy vào lòng tôi, cuộn tròn mà thiếp đi.

Con mèo ngủ, hai chân trước gập lại dưới mình, mặt vùi vào trong đuôi. Ban đầu nó còn kêu rừ rừ to, sau đó nhỏ dần, cho tới khi hoàn toàn chìm vào giấc ngủ lặng êm, mọi sự phòng thủ đều hạ xuống. Tôi ngồi ở một chỗ nắng trên hàng hiên, khẽ vuốt ve để không làm nó thức giấc. Lâu lắm rồi tôi mới lại nghĩ tới sự gần gũi mềm mại, ấm áp đặc biệt của con mèo. Quá nhiều chuyện đã xảy ra với tôi đến nỗi hầu như tôi quên bẵng rằng con mèo đã đi mất. Song giờ đây, ôm trong lòng cái sinh linh mềm mại bé nhỏ này, thấy nó say sưa ngủ một cách hoàn toàn tin cậy ở tôi, tôi nghe một nỗi ấm áp tràn lên ngực. Tôi đặt tay lên ngực con mèo, cảm thấy tim nó đập. Mạch yếu và nhanh, nhưng tim nó, cũng như tim tôi, đang cần mẫn đếm lượng thời gian mà cơ thể nhỏ bé của nó được chia phần với toàn bộ nỗi đau đáu không yên của tim tôi.

Con mèo đã đi đâu suốt năm qua? Nó đã làm gì? Sao nó lại chọn đúng lúc này để trở về, hoàn toàn đột ngột? Những dấu vết thời gian mà nó đã đánh mất ở đâu? Ước gì tôi có thể hỏi nó những câu hỏi đó. Giá như nó trả lời cho tôi được!

° ° °


Tôi tháo một tấm rèm khỏi cửa sổ rồi đặt con mèo lên. Nó mềm oặt như một súc quần áo mới giặt. Khi tôi nhấc nó lên, khe mắt nó hơi hé mở, mí mắt nhếch lên, nó khẽ mở miệng nhưng không phát ra một tiếng nào. Nó sửa thế nằm trên tấm rèm cho thoải mái, ngáp rồi lại ngủ. Sau khi tin chắc rằng nó đã ngủ say, tôi xuống bếp soạn mấy thứ đồ ăn đã mua ra. Tôi đặt chỗ đậu phụ, rau và cá vào từng ngăn trong tủ lạnh rồi lại liếc ra ngoài hiên. Con mèo vẫn ngủ ở nguyên vị trí. Vợ chồng tôi lúc nào cũng gọi nó là Wataya Noboru bởi cái nhìn trong mắt nó giống như của ông anh trai Kumiko, nhưng đó chỉ là mộ trò đùa nho nhỏ của chúng tôi chứ không phải tên thật của con mèo. Thật ra, chúng tôi nuôi nó đã được sáu năm mà chẳng hề đặt tên cho nó.

Song, dẫu là trò đùa đi nữa thì cái tên Wataya Noboru cũng không hợp với con mèo của chúng tôi. Trong vòng sáu năm đó kẻ mang cái tên này đã trở thành một nhân vật quá ư tầm cỡ, nhất là từ khi y được bầu vào Hạ viện. Nhất định không thể nào gán cái tên đó cho con mèo mãi. Chừng nào nó còn ở trong cái nhà này, cần phải đặt cho nó một cái tên mới, một cái tên riêng của nó, càng sớm càng tốt. Đó nên là một cái tên giản dị, cụ thể, dễ hiểu, một cái tên khả dĩ gột sạch được hết mọi âm thanh, ký ức và ý nghĩa của cái tên Wataya Noboru.

Tôi mang cái đĩa mèo ăn vào nhà. Đĩa sạch bóng như thể vừa được lau rửa xong. Con mèo hẳn đã ăn ngon lành lắm. Tôi thấy vui vì đã tình cờ mua ít cá thu đúng lúc con mèo trở về nhà. Đó dường như là một điềm lành, cho cả tôi lẫn con mèo. Ừ phải, tôi sẽ gọi nó là Cá thu. Vừa vuốt ve nó ở sau tai, tôi vừa thông báo cho nó: "Từ nay chú mày không phải là Wataya Noburo nữa", tôi nói. "Từ nay tên mày là Cá thu". Tôi muốn hét to lên vậy với toàn thế giới.

Tôi ngồi ngoài hiên bên con mèo Cá thu mà đọc sách tới khi mặt trời bắt đầu lặn. Con mèo ngủ li bì như bị ai đó đánh cho bất tỉnh, hơi thở êm nhẹ của nó như một cái bễ lò rèn ở xa xăm, mình nó phập phồng theo âm thanh đó. Thỉnh thoảng tôi lại với tay sang để cảm nhận hơi ấm của nó và biết chắc rằng con mèo đang thực sự nằm kia. Thật tuyệt khi có thể làm như vậy: với tay ta chạm vào một cái gì đó, cảm thấy một cái gì đó ấm áp. Tôi đang mất dần cái cảm giác này.


° ° °


Tới sáng hôm sau Cá thu vẫn ở nhà. Nó chẳng biến đi đâu cả. Khi thức dậy tôi thấy nó đang ngủ ngay cạnh tôi, nằm nghiêng một bên sườn, bốn chân duỗi thẳng. Hẳn là hồi đêm cậu chàng có thức dậy liếm láp mình cho sạch sẽ. Những mảng bùn và túm lông bết lại đã biến mất. Nó gần như trở lại y như chính mình trước kia. Xưa nay nó vốn là một chú mèo có bộ lông dày, đẹp mã. Tôi ôm ấp nó một hồi rồi cho nó ăn và thay nước. Sau đó tôi lùi xa xa một tý mà gọi "Cá thu!". Gọi đến lần thứ ba thì cu cậu quay lại, kêu meo khe khẽ để trả lời.

Giờ đến lượt tôi bắt đầu một ngày mới. Con mèo đã quay về với tôi, vậy thì tôi cũng phải bắt đầu tiến lên phía trước. Tôi tắm hoa sen rồi là một chiếc sơ mi mới giặt. Tôi mặc một chiếc quần mới bằng vải bông, đi đôi giày mới. Tôi quyết định mặc một chiếc áo len mới dày hơn và không vận áo khoác ngoài. Tôi bắt tầu điện đến Shijuku như mọi hôm, băng qua lối xuống xe điện ngầm về phía quảng trường ở sảnh phía đông của nhà ga và lại ngồi xuống băng ghế quen thuộc của mình.

° ° °


Người đàn bà xuất hiện sau 3 giờ chiều một chút. Gặp tôi bà ta không có vẻ ngạc nhiên, tôi cũng tỏ vẻ bình thản khi thấy bà ta đi tới. Như thể chúng tôi gặp nhau là hoàn toàn tự nhiên. Chúng tôi không chào nhau, như thể chuyện đó cũng đã được tính trước rồi. Tôi ngẩng mặt lên, bà ta thì nhìn tôi mà khẽ nhếch môi.

Bà ta mặc áo khoác vải bông màu cam kiểu mùa xuân, váy bó màu vàng nhạt như đá Topaz, đeo đôi hoa tai nhỏ bằng vàng. Bà ta ngồi xuống cạnh tôi, và cũng như mọi khi, rút từ trong ví ra một gói Virginia Slims. Bà ta cho một điếu lên miệng rồi châm lửa bằng một cái bật lửa thanh mảnh bằng vàng. Lần này thì bà ta đã biết nên không mời tôi hút. Sau khi thủng thẳng rít hai ba hơi với vẻ trầm tư, bà ta thả điếu thuốc xuống đất như để kiểm tra xem điều kiện trọng lực hôm nay có gì thay đổi chăng. Đoạn bà ta vỗ gối tôi mà nói: "Theo tôi" rồi đứng dậy đi. Tôi dí bẹp điếu thuốc rồi đi theo bà. Bà ta đưa tay vẫy một chiếc taxi dừng lại rồi chui vào. Tôi lên xe ngồi cạnh bà ta. Người đàn bà nói cho tài xế một địa chỉ rất rõ ràng ở Aoyama, rồi sau đó, trong khi xe chúng tôi len lỏi qua dòng xe dày đặc về phía đại lộ Aoyama, bà ta không nói gì nữa. Tôi ngắm cảnh Tokyo qua cửa kính. Có mấy tòa nhà mới tôi chưa hề thấy trước đây. Người đàn bà lấy từ trong ví ra một cuốn sổ rồi viết gì đó bằng một cây bút nhỏ bằng vàng. Chốc chốc bà ta lại nhìn đồng hồ như đang kiểm tra cái gì đó. Cái đồng hồ được cất trong một chiếc vòng đeo tay cũng bằng vàng. Dường như mọi thứ đồ lề nho nhỏ bà ta mang theo mình đều được làm bằng vàng. Hay đó là do tất cả những gì bà ta chạm vào đều biến thành vàng?

Bà ta đưa tôi đến một cửa hàng quần áo ở phố Omote Sando chuyên bán hàng hiệu. Ở đó bà ta chọn cho tôi hai bộ com lê, cả hai đều bằng chất liệu mỏng, một bộ màu xám pha xanh dương, bộ kia màu xám sẫm. Những bộ kẻng thế này thì tôi chẳng bao giờ dám mặc đến sở làm; nhìn thôi cũng biết là cực đắt. Bà ta chẳng giải thích gì, tôi cũng không hỏi. Người ta bảo gì tôi làm nấy. Chuyện này làm tôi nhớ tới vài bộ phim được gọi là phim nghệ thuật mà tôi đã xem hồi còn sinh viên. Những bộ phim như vậy chẳng bao giờ giải thích chuyện gì đang diễn ra. Những lời giải thích bị coi như một cái ác chỉ làm được mỗi việc là hủy diệt cái "thực tại" được trình bày trong phim, cho nên chúng phải bị loại trừ. Hiển nhiên đó là một cách nghĩ, một cách nhìn sự vật, nhưng cách nghĩ đó có vẻ thật lạ lùng đối với tôi, một sinh thể có thật bằng xương bằng thịt đang bước vào thế giới này.

Vóc dáng tôi trung bình thành thử quần áo không cần phải sửa gì, chỉ cần điều chỉnh một chút chiều dài tay áo và quần. Người đàn bà chọn thêm ba chiếc sơ mi, ba chiếc cà vạt đi với từng chiếc sơ mi ấy, rồi lại hai dây đeo quần và nửa tá đôi tất. Bà ta trả bằng thẻ tín dụng và yêu cầu gửi tất tật mọi thứ về tận nhà tôi. Dường như bà ta đã có một hình dung rất rõ trong đầu rằng tôi nên ăn mặc ra sao. Thành thử bà ta không mất chút thời giờ chọn lui chọn tới. Tôi mà đi mua dù chỉ một cục tẩy ở hiệu văn phòng phẩm thì chắc cũng còn mất nhiều thì giờ hơn. Nhưng tôi phải thừa nhận thị hiếu ăn mặc của bà ta thật không chê vào đâu được. Từng chiếc sơ mi và từng cái cà vạt bà ta chọn tưởng chừng hú họa lại đi với nhau đến mức hoàn hảo về màu sắc và phong cách, như thể bà ta chỉ chọn sau khi đã cân nhắc rất lâu, rất kỹ. Mọi kết hợp giữa áo và cà vạt mà bà ta chọn đều quả thật độc đáo.

Kế đó bà ta đưa tôi đến hiệu giày, mua cho tôi hai đôi để đi với các bộ com lê. Việc này cũng chẳng lâu la gì. Bà ta lại trả bằng thẻ tín dụng và yêu cầu gửi hàng về nhà tôi. Thật ra chỉ có hai đôi giày thì xem chừng cũng không đáng để phải giao tận nhà, nhưng có lẽ cung cách của bà ta là vậy: chọn hàng mau chóng, trả bằng thẻ tín dụng, rồi yêu cầu giao hàng tận nhà.

Kế đó chúng tôi lại đến hiệu đồng hồ và lặp lại quy trình. Bà ta mua cho tôi một chiếc đồng hồ kiểu cọ, thanh lịch, dây đeo bằng da cá sấu, đặng đi với mấy bộ com lê, và bà ta lại hầu như chẳng mất chút thời giờ lựa chọn. Giá tiền khoảng năm mươi hay sáu mươi ngàn Yên gì đó. Tôi đang có một chiếc đồng hồ bằng nhựa rẻ tiền, nhưng rõ ràng cái ấy quá xoàng đối với bà ta. Ít ra thì cái đồng hồ này bà ta không yêu cầu giao tận nhà mà bảo người bán gói lại, rồi ba ta lẳng lặng trao cái hộp cho tôi.

Kế đó bà ta đưa tôi đến một hiệu tóc dành cho cả nam và nữ. Chỗ này giống như sàn nhảy, sàn bằng gỗ sáng bóng, tường phủ kính. Có năm mươi chiếc ghế, đâu đâu cũng thấy các kỹ thuật viên đi tới đi lui, tay cầm nào kéo, nào lược và những thứ gì gì nữa. Đây đó có vài chậu cây cảnh, và từ hai cái loa Bose màu đen gắn trên trần phát ra khe khẽ một tác phẩm độc tấu Piano trúc trắc của Keith Jarrett. Người ta đưa tôi đến thẳng một chiếc ghế - có lẽ trong khi đi sắm hàng ban nãy bà ta đã gọi điện tới đây đặt chỗ trước. Bà ta dặn dò tỉ mỉ cho gã gầy gò sẽ cắt tóc cho tôi. Xem chừng họ biết nhau. Trong khi làm theo từng chỉ dẫn của bà ta, y nhìn chăm chú vào mặt tôi phản chiếu trong gương với cái vẻ như đang săm soi một bát cọng cần tây mà y sắp phải ăn. Y có bộ mặt giống Solzhenitsyn thời trẻ. Người đàn bà bảo y: "Tôi sẽ quay lại khi nào anh cắt xong" rồi rảo bước ra khỏi cửa hiệu cắt tóc.

Gã đàn ông nói rất ít trong khi cắt tóc cho tôi, chỉ mở miệng "Lối này, thưa ông" khi cần phải gội đầu cho tôi, "Xin lỗi" khi phải phủi chỗ vụn tóc đã cắt. Lúc y đi khỏi, tôi thò tay ra khỏi tấm vải che quanh người để sờ vết bầm trên má phải. Đây là lần đầu tiên tôi thấy vết bầm trong một tấm gương khác chứ không phải gương ở nhà. Các tấm gương lớn bằng cả bức tường phản chiếu hình ảnh nhiều người trong đó có tôi. Và trên mặt tôi là vết bầm màu xanh sáng rất nổi này. Trông cũng không đến nỗi xấu xí hay bẩn thỉu. Đơn giản nó là một phần của tôi, tôi cần phải chấp nhận nó. Tôi cảm thấy chốc chốc lại có người này kẻ nọ nhìn vết bầm đó - nhìn hình chiếu của nó trong gương. Nhưng có quá nhiều hình người phản chiếu trong gương nên tôi không thể biết cụ thể ai đang nhìn. Tôi chỉ cảm thấy ánh mắt họ dán vào vết bầm.

Buổi cắt tóc cho tôi kéo dài nửa tiếng đồng hồ. Tóc tôi vốn đã ngày càng dài hơn từ khi tôi thôi việc, nay lại ngắn như trước. Tôi chuyển sang một trong những chiếc ghế xếp dọc tường, ngồi nghe nhạc và đọc qua quýt một cuốn tạp chí, đợi người đàn bà quay lại. Bà ta ra chiều hài lòng với đầu tóc mới của tôi. Bà ta rút khỏi ví một tờ mười ngàn Yên, trả tiền rồi kéo tôi ra ngoài. Sau đó bà ta dừng lại, săm soi tôi từ đầu đến chân, y hệt khi tôi kiểm tra toàn thân con mèo, như để xem có còn gì mình quên làm không. Hẳn là không. Đoạn bà ta liếc chiếc đồng hồ bằng vàng thở dài. Đã gần 7 giờ tối.

- Đi ăn tối nhé, - bà ta nói. - Cậu thế nào?

Hồi sáng tôi mới chỉ dằn bụng một lát bánh mì, trưa thì một cái bánh vòng.

- Chắc là được, - tôi nói.

Bà ta dẫn tôi đến một nhà hàng Ý gần đó. Hình như ở đấy người ta biết bà ta. Chẳng nói chẳng rằng người ta đưa chúng tôi đến một bàn yên tĩnh ở đằng sau. Ngay khi tôi ngồi xuống đối diện bà ta, bà ta liền ra lệnh cho tôi đặt tất cả những gì có trong túi quần lên bàn. Tôi lẳng lặng làm theo. Thực tại trước đây của tôi dường như đã rời bỏ tôi mà phiêu diêu đâu đó gần đây. Mong rằng nó sẽ tìm được mình, tôi nghĩ. Trong túi tôi chẳng có gì đặc biệt: chìa khóa, khăn mùi soa, ví. Bà ta quan sát chừng ấy thứ mà chẳng tỏ vẻ quan tâm lắm, rồi nhặt cái ví lên nhìn vào trong. Ví đựng khoảng năm mươi lăm ngàn Yên tiền mặt, một cái thẻ điện thoại, một cái thẻ rút tiền ngân hàng, thẻ hồ bơi, chỉ có thế. Chẳng có gì khác thường. Chẳng có gì để người ta muốn ngửi, muốn đo, muốn lắc, muốn dìm vào nước hay đưa ra ánh sáng. Bà ta đưa ví lại cho tôi, vẻ mặt không thay đổi.

- Tôi muốn cậu ngày mai đi mua nửa tá khăn mùi soa, một cái ví mới và một cái móc khóa mới, - bà ta nói. - Từng ấy thứ thì chắc cậu tự chọn lấy được. À, thế lần gần đây nhất cậu mua quần lót là khi nào?

Tôi nghĩ một lúc mà không nhớ ra.

- Tôi không nhớ. Chắc cũng lâu rồi. Nhưng tôi vốn ưa sạch sẽ, chẳng bao giờ chất đống quần áo bẩn, cởi ra là giặt...

- Không sao cả. Tôi muốn cậu mua một tá áo may-ô và quần lót.

Tôi không nói gì, chỉ gật đầu.

- Cứ mang hóa đơn lại cho tôi. Tôi sẽ trả. Mà nhớ phải mua những thứ tốt nhất đấy. Tôi sẽ trả cả tiền giặt cho cậu nữa. Đừng bao giờ mặc một cái sơ mi quá một lần mà không gửi giặt. Được chưa?

Tôi lại gật. Tay chủ hiệu giặt gần nhà ga mà biết chuyện này thì sẽ vui lắm đây. Nhưng, tôi tự nhủ, rồi cố kéo dài cái liên từ ngắn ngủi, súc tích này, vốn đang dính chặt vào cửa sổ do sức căng bề mặt, thành một câu đầy đủ, ra đầu ra đũa:

- Nhưng sao bà lại làm những chuyện này - mua cho tôi cả một tủ quần áo, trả tiền cắt tóc, tiền giặt là cho tôi?

Bà ta không trả lời, chỉ rút một điếu Virginia Slims đưa lên môi. Một gã bồi bàn cao lớn có đường nét cân đối bỗng dưng hiện ra như từ dưới đất chui lên, châm lửa cho bà ta bằng một động tác thuần thục. Hắn quẹt diêm làm phát ra một âm thanh rõ ràng, khô khốc, cái loại âm thanh có khả năng kích thích ăn ngon miệng. Xong việc đó rồi, y chìa cho chúng tôi xem thực đơn. Tuy nhiên, bà ta chẳng buồn xem mà nói ngay rằng chúng tôi không quan tâm đến các món đặc biệt trong ngày.

- Cho tôi món Salad và một ổ bánh mì, và một món cá nào đó thịt trắng. Món salad chỉ cần nhỏ vài giọt xốt dầu giấm thôi, thêm một tí tiêu. Và một cốc nước khoáng không đá.

Tôi chẳng thú gì chuyện vùi đầu vào thực đơn.

- Tôi cũng vậy, - tôi nói.

Tay bồi cúi chào, đoạn rút lui. Dường như thực tại của tôi vẫn chưa sao tìm lại được tôi.

- Tôi hỏi chỉ vì tò mò thôi, chứ không có ý gì, - tôi nói, cố thử lần nữa hòng moi được của bà ta một lời giải thích. - Bà đã mua ngần ấy thứ cho tôi, tôi không dám phê phán gì, nhưng liệu có đáng cho bà bỏ ra ngần ấy thời gian, công sức và tiền bạc không?

Bà ta lại không trả lời.

- Tôi chỉ tò mò thôi, - tôi lại nói.

Lại không trả lời. Bà ta quá bận ngắm bức tranh sơn dầu trên tường, chẳng hơi đâu bận tâm đến chuyện trả lời tôi. Bức tranh hẳn là vẽ phong cảnh nước Ý, với một cây thông được cắt tỉa công phu, vài nếp nhà thôn quê tường sơn màu đỏ hung rải rác trên những ngọn đồi. Những căn nhà nhỏ xíu nhưng thật đáng yêu. Tôi tự hỏi loại người nào có thể sống trong những căn nhà đó: hẳn là những người bình thường, sống một cuộc sống bình dị. Chẳng ai trong số họ bỗng dưng gặp một người đàn bà bí hiểm chả biết từ đâu chui ra mua cho họ hết com lê đến giày rồi lại đồng hồ. Chẳng ai trong số họ phải tính tính toán toán số tiền khổng lồ họ phải kiếm cho ra đặng có thể mua một cái giếng cạn khô. Tôi cảm thấy ghen tị đến nhức nhối với những kẻ sống trong một thế giới bình thường như vậy. Tôi vốn không phải người hay ghen tị, nhưng quang cảnh trong bức tranh kia khơi dậy cảm giác đó trong tôi một cách lạ lùng. Giá như tôi có thể bước vào bức tranh đó ngay bây giờ, ngay ở đó! Giá như tôi có thể bước vào một trong những căn nhà thôn quê đó, thưởng thức một ly vang, rồi chui vào một góc nhà mà đánh một giấc ngon lành tịnh không nghĩ ngợi gì!

Gã bồi quay lại rất nhanh, đặt một cốc nước khoáng trước mặt người đàn bà và tôi. Bà ta dụi thuốc vào gạt tàn.

- Sao cậu không hỏi tôi chuyện gì khác? - bà ta nói.

Trong khi tôi ngẫm nghĩ xem có thể hỏi bà ta chuyện gì khác, bà ta nhấp một ngụm nước khoáng.

- Anh thanh niên ở trong văn phòng ở Akasaka là con trai bà phải không? - tôi hỏi.

- Dĩ nhiên, - bà ta đáp không do dự.

- Anh ấy không nói được à?

Người đàn bà gật đầu.

- Từ khi mới sinh nó đã nói rất ít, nhưng năm lên sáu tuổi đột nhiên nó ngừng nói hẳn. Dù thế nào thì thế, nó thôi dùng giọng của mình.

- Tại sao vậy? Có lý do nào không?

Bà ta lờ đi câu hỏi của tôi. Tôi cố nghĩ đến một điều khác.

- Nếu anh ấy không nói được thì làm sao có thể điều hành công việc?

Bà ta chỉ hơi nhíu mày một chút. Không phải bà ta lờ đi câu hỏi của tôi, nhưng rõ ràng bà ta không có ý định trả lời.

- Tôi cuộc rằng anh ta mặc hay mang gì cũng đều là do bà chọn, từ đầu tới chân. Như với tôi vậy thôi.

- Tôi không ưa thấy người ta ăn mặc lôi thôi. Chỉ có thế. Gì chứ chuyện ấy thì tôi không chịu được. Tôi muốn ít nhất là những người quanh tôi ăn mặc càng đàng hoàng càng tốt. Tôi muốn cái gì ở họ cũng phải đâu ra đó, dù người ngoài có nhìn thấy hay không.

- Vậy chắc hẳn bà không thích khúc ruột thừa của tôi rồi, - tôi cố nói đùa.

- Cậu có vấn đề về hình dạng của khúc ruột thừa à? - bà ta hỏi, nhìn thẳng vào tôi với vẻ hoàn toàn nghiêm túc.

Tôi lấy làm tiếc đã đùa như vậy.

- À không, tạm thời thì ổn, - tôi nói. - Tôi chỉ nói thế thôi, không có ý gì. Kiểu như "ví dụ" thôi mà.

Bà ta vẫn nhìn tôi soi mói hồi lâu - hẳn bà ta đang nghĩ tới khúc ruột thừa của tôi.

- Vậy đó, tôi muốn những người chung quanh tôi trông phải đàng hoàng đâu ra đó, dù tôi có phải tự trả tiền về việc đó đi nữa. Chỉ có thế thôi. Đừng bận tâm làm gì. Tôi làm tất cả các chuyện này hoàn toàn là để cho tôi. Bản thân tôi luôn thấy tởm lợm - hầu như một cách sinh lý - mỗi khi nhìn thấy quần áo lôi thôi lếch thếch.

- Kiểu như nhạc sĩ thì không chịu nổi khi nghe thấy âm nhạc bị chơi lạc điệu phải không?

- Đại loại thế.

- Lúc nào bà cũng mua quần áo cho tất cả những người chung quanh mình như thế này à?

- Ừ. Thật ra quanh tôi đâu có nhiều người lắm. Tôi thì có thể không thích cách ăn mặc của người ta, nhưng tôi đâu thể mua quần áo cho tất cả thiên hạ trên đời, đúng không?

- Cái gì cũng có giới hạn, - tôi nói.

- Chính thế.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

64#
 Tác giả| Đăng lúc 9-8-2012 20:15:21 | Chỉ xem của tác giả


Lát sau món salad được dọn lên, chúng tôi ăn. Đúng như người đàn bà đã dặn, mỗi suất salad chỉ được nhỏ vài giọt xốt dầu giấm, ít đến nỗi có thể đếm trên một bàn tay.

- Cậu có gì muốn hỏi tôi nữa không? - bà ta hỏi.

- Tôi muốn biết tên bà, - tôi nói. - Để cho tiện dùng thôi.

Bà ta im lặng giây lát, miệng nhai một miếng củ cải. Thế rồi giữa hai mí mắt bà ta hình thành một nếp nhăn sâu, như thể bà vừa nhai phải một cái gì đó đắng ngắt trong mồm.

- Sao cậu lại cần phải dùng tên tôi chứ? Viết thư cho tôi thì chắc là không rồi. Tên với tuổi, nếu có chăng thì cũng quan trọng gì đâu.

- Nhỡ ra tôi phải gọi bà khi bà đang quay lưng lại chẳng hạn? Không biết tên thì gọi bằng gì?

Bà ta đặt nĩa xuống đĩa rồi dùng khăn lau miệng.

- Tôi hiểu ý cậu rồi. Chuyện ấy tôi hoàn toàn không nghĩ đến. Cậu nói đúng, gặp tình huống như vậy thì cậu cần tên tôi thật.

Bà ta ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu. Trong khi bà ta nghĩ, tôi ăn món salad.

- Xem nào, cậu cần một cái tên thích hợp những khi cần gọi tôi từ sau lưng chẳng hạn, đúng không nào?

- Nói chung là thế.

- Vậy đó không nhất thiết là tên thật của tôi, đúng không?

Tôi gật.

- Tên, tên... kiểu tên nào là hay nhất nhỉ?

- Chắc là một cái tên đơn giản, dễ gọi. Nếu có thể thì một cái gì đó cụ thể, một vật nào đó sờ mó được, nhìn thấy được. Kiểu vậy thì dễ nhớ.

- Chẳng hạn?

- Chẳng hạn như tôi gọi con mèo của tôi là Cá thu. Tôi mới đặt tên cho nó hôm qua.

- Cá thu, - bà ta gọi to lên, như để xác nhận âm thanh của từ đó.

Đoạn bà ta đăm đăm nhìn một lát vào cái giá đựng muối tiêu trên bàn, rồi ngẩng đầu lên nhìn tôi mà nói:

- Nhục đậu khấu.

- Nhục đậu khấu?

- Ừ... Tự nhiên nảy ra trong đầu tôi thế... Cậu có thể gọi tôi vậy, được chứ?

- Dĩ nhiên là được. Thế còn con trai bà thì gọi sao đây?

- Quế.

- Rau mùi, xô thơm, hương thảo, húng tây, - tôi nói, ý muốn nhắc lại một giai điệu 1.

- Akasaka Nhục đậu khấu và Akasaka Quế. Không dở phải không?

Akasaka Nhục đậu khấu và Akasaka Quế: liệu Kasahara May có bị sốc chăng nếu cô bé biết tôi đã làm quen với những người như vậy! "Chim vặn dây cót ơi là Chim vặn dây cót! Anh không thể làm quen với người nào khác bình thường hơn một chút sao?". Ừ, tại sao không thể, hở Kasahara May? Câu hỏi đó tôi không trả lời được.

- Thử nghĩ mà xem, - tôi nói. - Năm ngoái tôi gặp hai người đàn bà tên là Kano Malta và Kano Creta. Kết quả là xảy ra với tôi chẳng còn thiếu chuyện gì. Tuy nhiên, giờ thì họ không ở đây nữa.

Nhục đậu khấu khẽ gật đầu để trả lời, nhưng không góp ý gì.

- Họ biến đi đâu đó thôi, - tôi khẽ khàng nói thêm. - Như hạt sương lúc sáng hè vậy. Hoặc tan đi như ngôi sao lúc bình minh.

Bà ta lấy nĩa ghim một thứ gì đó như là lá diếp xoăn cho vào miệng. Rồi, như thể đột nhiên nhớ lại một lời hứa từ lâu trước đây, bà ta với tay lấy cốc nước uống một ngụm.

- Chắc cậu muốn biết về số tiền kia đúng không? Số tiền cậu nhận được ngày hôm kia ấy? Tôi nói đúng không nào?

- Vâng, bà nói đúng. Tôi rất muốn biết điều đó.

- Kể cho cậu thì cũng được, nhưng chuyện có thể rất dài đấy.

- Liệu có thể kể hết trước khi tới món tráng miệng không?

- Chắc là không, - Akasaka Nhục đậu khấu nói.

--------------------------------
1."Parsley, sage, rosemary and thyme" - lời bài hát nổi tiếng của Paul Simon và Arthur Garfunkei nhan đề Hội chợ Scarborough (Scarborough Fair)- ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

65#
 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2012 19:55:31 | Chỉ xem của tác giả


Chương 7
Bí Ẩn Ngôi Nhà Có Dớp



SETAGAYA, TOKYO

Ai đã mua mảnh đất xúi quẩy sau khi cả gia đình tự sát?

Điều gì đang diễn ra ở khu phố có máu mặt này?

(Trích tuần báo _______, ngày 7 tháng Mười)

Dân địa phương gọi lô đất ở số __ , 2-chome, Setagaya là "nhà có dớp". Nằm ở khu dân cư yên tĩnh, lô đất tuyệt đẹp rộng hơn 1000 mét vuông quay về hướng Nam này rõ ràng là một địa điểm xây nhà lý tưởng, song những ai hiểu biết đều nhất trí với nhau một điểm: có cho không lô đất này họ cũng chẳng dám nhận. Lý do rất đơn giản: bất cứ ai từng sở hữu cơ ngơi này, không có ngoại lệ, đều gặp số phận thảm khốc. Điều tra của chúng tôi cho thấy, từ đầu thời kỳ Chiêu Hòa, năm 1926, không dưới bảy chủ nhân - người cư trú ở ngôi nhà này đều đã kết liễu cuộc đời bằng cách tự tử, đa số treo cổ hoặc dùng hơi ngạt.

[Lược bỏ chi tiết các vụ tự tử]

Công ty rởm mua đất xúi quẩy

Vụ việc gần nhất, khó lòng được xem là một chuỗi sự kiện ngẫu nhiên, là vụ ám sát - tự sát của gia đình Kojiro Miyawaki [ảnh], chủ nhân của chuỗi nhà hàng tiếng tăm Rooftop Grill có đại bản doanh ở Ginza. Cách đây hai năm Miyawaki đã bán toàn bộ nhà hàng của mình và tuyên bố phá sản vì nợ một khoản kếch xù, nhưng sau đó ông bị một số chủ nợ kiện vì có liên quan đến tội phạm có tổ chức. Cuối cùng, hồi tháng Giêng năm nay, Miyawaki đã dùng thắt lưng để siết cổ cô con gái mười bốn tuổi là Yukie khi cô này đang ngủ tại một nhà trọ ở thành phố Takamatsu, sau đó ông cùng vợ là Natsuko tự treo cổ bằng sợi dây thừng họ mang theo để dùng vào mục đích này. Cô con gái cả của nhà Miyawaki, lúc đó là một nữ sinh trung học, thì đang mất tích.

Khi Miyawaki mua cơ ngơi này vào tháng Tư năm 1972, ông cũng đã nghe những tin đồn gở về khu đất, nhưng ông chỉ cả cười, gạt đi mà tuyên bố: "Đó chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên thôi". Sau khi mua lô đất, ông cho phá dỡ ngôi nhà bỏ trống để lâu ngày và san phẳng lô đất. Để cho an toàn, ông mời một tu sĩ Thần đạo đến để xua đuổi tà ma lẩn quất, chỉ sau đó ông mới xây căn nhà mới hai tầng. Sau đó mọi chuyện diễn ra êm đẹp. Gia đình sống bình yên. Hàng xóm thảy nhất trí rằng nhà Miyawaki có vẻ rất hòa thuận, các cô con gái trông sáng láng và hạnh phúc. Nhưng mười năm sau, số phận gia đình này đã có bước ngoặt bất ngờ, thảm khốc.

Miyawaki bị mất nhà vào mùa thu năm 1983. Trước đó ông đã đem thế chấp căn nhà, nhưng do các chủ nợ tranh cãi với nhau về thứ tự bồi hoàn nên việc thanh lý cuối cùng đã phải đợi đến khi tòa phân xử vào mùa hè năm ngoái để mở đường cho việc bán lô đất. Ban đầu lô đất được một công ty bất động sản lớn ở Tokyo là ____ Land and Buildings mua với giá thấp hơn nhiều so với giá thị trường hiện nay. Công ty đã tiến hành san phẳng căn nhà của gia đình Miyawaki rồi tìm cách bán như là lô đất trống. Là cơ ngơi số một ở khu Setagaya, lô đất được rất nhiều người quan tâm, nhưng mọi cuộc đàm phán đều tan vỡ khi người mua nghe nói đến chuyện xúi quẩy liên quan đến lô đất. Theo lời ông M phụ trách bộ phận bán hàng của ____ Land and Buildings:

"Vâng, dĩ nhiên chúng tôi có nghe những chuyện không hay liên quan đến lô đất này, nhưng nói gì thì nói đây vẫn là một địa điểm tuyệt vời, trong khi dạo này ai cũng ra sức tìm cho bằng được những cơ ngơi hạng nhất, thành thử chúng tôi cho rằng nếu định giá đủ thấp thì vẫn có người mua. Chúng tôi vẫn đang lạc quan. Từ khi chúng tôi đưa căn nhà ra rao bán trên thị trường nó vẫn chưa nhúc nhích. Thiên hạ không quan tâm đến giá cả - hễ nghe nói đến mấy câu chuyện kia là họ rút lui ngay. Rồi lại còn chẳng đúng lúc chút nào nữa! Gia đình Miyawaki tội nghiệp tự vẫn hồi tháng Giêng, thế là báo chỉ thảy đều nhắc tới khu đất. Nói thật, chúng tôi chẳng biết làm gì với nó nữa".

Cuối cùng lô đất cũng bán được hồi tháng Tư năm nay. "Xin đừng hỏi tôi người mua là ai hay mua giá bao nhiêu", ông M nói, nhưng theo nguồn tin không chính thức từ công ty, ____ Land and Buildings đã phải bán lô đất với giá thấp hơn nhiều so với giá rao ban đầu. Thà chịu lỗ một khoản chấp nhận được còn hơn cứ tiếp tục trả lãi ngân hàng cho một cơ ngơi chẳng bao giờ bán được. "Dĩ nhiên những người mua biết rõ họ đang làm gì", ông M nói. "Chúng tôi không có thói quen lừa khách hàng. Chúng tôi đã giải thích trước mọi chuyện. Dù đã biết toàn bộ lịch sử lô đất nhưng họ vẫn mua".

Điều đó dẫn chúng tôi đến câu hỏi ai là người mua một mảnh đất xúi quẩy như vậy. Cuộc điều tra hóa ra khó khăn hơn chúng tôi tưởng nhiều. Theo sổ đăng bạ quận, bên mua là một công ty có văn phòng ở quận Minato tên gọi là Akasaka Research, tự nhận là chuyên "nghiên cứu và tư vấn về kinh tế", mục đích của họ khi mua lô đất được ghi là "để xây nhà ở cho nhân viên". Trên thực tế "nhà ở cho nhân viên" đã được xây vào mùa xuân này, nhưng bản thân công ty là một "công ty trên giấy" điển hình. Chúng tôi đã đến thăm địa chỉ Akasaka 2-chome ghi trên hồ sơ nhưng chỉ thấy một tấm biển nhỏ đề "Akasaka Research" trên cửa một văn phòng trong một tòa nhà nhỏ chuyên cho thuê văn phòng, và khi chúng tôi bấm chuông thì không ai trả lời.

Kín cổng cao tường

"Nhà ở trước kia của nhà Miyawaki" nay được bao quanh bằng một bức tường cao hơn bất cứ bức tường nào của các nhà lân cận. Nó có một hàng rào sắt rất to, chắc chắn, đen sì được xây để làm nản lòng bất cứ ai muốn nhìn trộm [xem ảnh], trên một trụ cổng có gắn máy quay video. Chúng tôi đã thử bấm chuông nhưng không ai trả lời. Hàng xóm có nhìn thấy một chiếc Mercedes 500SEL có cửa sổ màu sẫm ra vào mỗi ngày vài lần, ngoài ra không có dấu hiệu nào khác cho thấy có người vào kẻ ra, cũng không nghe thấy một âm thanh nào phát ra từ trong nhà.

Việc xây dựng đã bắt đầu từ hồi tháng Năm nhưng luôn luôn diễn ra sau hàng rào cao nên hàng xóm không hề biết ngôi nhà trông ra sao. Nó được xây với tốc độ không thể tin được: từ khi khởi công đến lúc hoàn thành chỉ mất hai tháng rưỡi. Một nhà cung cấp thực phẩm trong khu vực mà lúc đó vẫn hay cung cấp bữa trưa cho công trường nói với chúng tôi: "Bản thân tòa nhà luôn luôn giấu kín sau một bức rèm bằng vải, nên tôi không nói chắc được, nhưng nhà không to lắm, chỉ một tầng thôi, như cái hộp bằng bê tông, giản dị lắm. Tôi nhớ khi đó mình đã nghĩ họ đang xây cái gì đó kiểu như lán tránh oanh kích. Nó trông chả giống một căn nhà bình thường mà những người bình thường vẫn sống, nhỏ quá lại không đủ cửa sổ. Nhưng nó cũng chẳng phải nhà làm việc nữa. Những người thiết kế vườn có đến trồng một số cây cối trông thật sự ấn tượng khắp cả lô đất. Cái vườn ắt là ngốn bộn tiền".

Chúng tôi đã thử gọi điện đến tất cả các hãng thiết kế sân vườn ở Tokyo, rốt cuộc mới tìm được người đã làm việc trên "cơ ngơi trước kia của nhà Miyawaki", nhưng chủ nhân không thể nói gì với chúng tôi về bên đã thuê họ làm. Công ty xây dựng đã cung cấp cho họ một bản đồ khu vườn và lệnh viết tay chỉ thị phải bố trí một khu vườn đẹp, chỉn chu. "Giá thầu chúng tôi đưa ra khá cao, nhưng họ chấp nhận mà chẳng hề mặc cả".

Hãng thiết kế sân vườn cũng kể với chúng tôi rằng trong khi họ làm việc trong khu vườn, một hãng chuyên đào giếng đã được mời tới để đào một cái giếng sâu.

"Họ dựng một giàn giáo ở góc vườn để móc bùn lên. Tôi quan sát được công việc đó khá rõ vì lúc đó tôi đang trồng một cây hồng vàng ở gần đó. Họ đang đào một cái giếng cũ đã bị người ta lấp lại. Nó vẫn còn nguyên cái thành giếng bằng bê tông lúc đầu. Hình như họ cũng không phải mất công lắm, vì người ta chỉ mới lấp gần đây thôi. Điều lạ là giếng không có nước. Thật ra cái giếng đó ngay từ đầu đã cạn, giờ người ta chỉ phục hồi nó về tình trạng ban đầu mà thôi, thành thử làm sao có nước được. Tôi không biết, kỳ quặc lắm, họ làm vậy ắt phải có lý do đặc biệt nào đây".

Đáng tiếc là chúng tôi không xác minh được công ty nào đã đào cái giếng, nhưng chúng tôi đã xác định được rằng chiếc Mercedes 500SEL là sở hữu của một công ty lớn chuyên cho thuê, có trụ sở tại quận Chiyoda và chiếc xe đã được một công ty ở quận Minato thuê trong thời hạn một năm, bắt đầu từ tháng Bảy. Công ty cho thuê không thể tiết lộ cho chúng tôi danh tính của khách hàng, tuy nhiên, xét sự trùng hợp của các sự kiện thì hầu như chắc chắn đó là Akasaka Research. Chúng tôi có thể chỉ ra rằng mức phí để thuê một chiếc Mercedes 500SEL trong vòng một năm dự kiến vào khoảng ____ Yên. Công ty này thường cho thuê xe kèm cả lái xe, nhưng chúng tôi không thể xác định riêng chiếc Mercedes 500SEL này thì có được thuê kèm lái xe hay không.

Người dân khu lân cận không mấy nhiệt tình nói chuyện với chúng tôi về "căn nhà có dớp". Khu vực này vốn không được tiếng là niềm nở hiếu khách, và hầu hết người ta có vẻ như không muốn dây vào. Ông A, dân địa phương nói với chúng tôi:

"Tôi thường căng mắt ra, cố hình dung xem họ là ai khi họ tới đây lần đầu tiên, nhưng tôi tin chắc họ không phải là bọn xã hội đen hay một tổ chức chính trị. Ít người ra vào quá nên khó là hai thứ đó được. Tôi không hiểu lắm. Đúng là họ hơi quá kín cổng cao tường thật, nhưng tôi chẳng có lí do gì để phàn nàn cả, mà chắc hàng xóm khác họ cũng chẳng bận tâm gì giống như tôi thôi. Thế còn tốt chán thay vì cứ để cái nhà ấy bỏ hoang với bao nhiêu là lời đồn đại quái gở."

Dẫu vậy chúng tôi vẫn muốn biết ai là chủ nhân mới và cái "Ông X" này dùng lô đất này vào mục đích gì. Bí ẩn càng lúc càng bí ẩn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

66#
 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2012 19:57:55 | Chỉ xem của tác giả


Chương 8
Dưới Giếng



Tôi trèo xuống chiếc thang bằng thép nẹp vào thành giếng, và trong bóng tối dưới đáy, tôi mò mẫm tìm chiếc gậy mà tôi vẫn luôn dựa vào thành giếng, cây gậy mà tôi đã vô tình đem luôn về nhà từ chỗ căn nhà nơi tôi đã bám theo gã đàn ông mang thùng đàn. Chạm đến chiếc gậy cũ kỹ sứt sẹo trong bóng tối dưới đáy giếng, tôi cảm thấy bình tâm kỳ lạ. Điều đó cũng giúp tôi tập trung.

Khi tìm thấy cây gậy, tôi nắm chặt tay cầm, như một cầu thủ bóng chày bước vào ô đập bóng, khẳng định với chính mình rằng đây là cây gậy của tôi. Tôi bắt đầu từ đó để kiểm tra xem có đúng là không có gì thay đổi trong bóng tối dưới này, nơi không thể nhìn thấy bất cứ cái gì. Tôi căng tai nghe xem có gì mới không, tôi hít một hơi đầy phổi, tôi lấy gót giày cào cào mặt đất, tôi gõ gõ đầu gậy để kiểm tra độ cứng của vách giếng. Đó chỉ là những nghi thức tự đặt ra để giúp tôi bình tĩnh lại. Đáy giếng chả khác gì đáy biển. Mọi thứ dưới đây quá đỗi tĩnh lặng, giữ nguyên hình trạng ban đầu, như thể chịu một sức ép kinh khủng: ngày này qua ngày khác vẫn chẳng mảy may biến hóa.

Một lát cắt ánh sáng trôi trên đầu tôi, ấy là mẩu trời chiều. Nhìn lên, tôi nghĩ tới cái thế giới vào buổi chiều tháng Mười, nơi "người ta" đang sống cuộc sống của "người ta". Dưới ánh sáng mùa thu nhợt nhạt kia, hẳn họ đang đi dọc theo phố xá, mua sắm vật này vật nọ, làm bữa tối, lên tàu điện về nhà. Và họ nghĩ - đó là nếu như họ có nghĩ - rằng tất cả những việc kia thì quá đỗi hiển nhiên chẳng có gì phải nghĩ. Tôi cũng thường như vậy (hoặc không như vậy). Họ là cái khối được định nghĩa một cách mơ hồ là "người ta", và tôi vốn là một phần tử vô danh trong đó. Họ chấp nhận nhau và được chấp nhận bởi nhau, cùng sống với nhau dưới ánh sáng đó, và dẫu là vĩnh viễn hay chỉ trong khoảnh khắc, hẳn phải có một sự gần gũi nào đó giữa họ chừng nào họ còn được phủ trong cái ánh sáng kia. Tuy nhiên, tôi không còn là một trong số họ. Họ ở trên kia, trên mặt đất; còn tôi ở dưới đây, dưới đáy giếng. Họ có ánh sáng, tôi thì đang dần dần mất nó. Đôi khi tôi cảm thấy mình có thể chẳng bao giờ tìm được lối quay về thế giới đó, rằng tôi sẽ chẳng bao giờ có thể cảm thấy bình an khi được phủ trong ánh sáng, rằng tôi sẽ không bao giờ còn có thể ôm trong tay thân hình mềm mại của con mèo. Nghĩ vậy, tôi nghe một nỗi đau âm ỉ trong ngực, như thể có một cái gì bên trong đó đang bị bóp chết.

Nhưng tôi càng đào lớp đất mềm nơi đáy giếng bằng gót giày cao su thì quang cảnh trên mặt đất kia càng trở nên xa vời. Cảm giác về thực tại chìm dần từng tí một, và sự gẫn gũi của cái giếng bao trùm lấy tôi. Dưới đây đáy giếng thật ấm áp và im lặng, cái mềm của đất sâu ve vuốt da tôi. Cơn đau bên trong tôi tan đi như những gợn sóng trên mặt nước. Nơi này chấp nhận tôi, và tôi chấp nhận nơi này. Tôi siết chặt hơn cây gậy. Tôi nhắm mắt lại rồi mở mắt nhìn lên trên.

Tôi kéo dây thừng để đóng nắp lại, nhờ một hế thống ròng rọc mà anh chàng Quế thông minh đã thiết kế cho tôi. Bóng tối giờ đây thật toàn bích. Miệng giếng đã đóng, mọi ánh sáng đã biến mất. Thậm chí những làn gió thoảng cũng không còn nghe thấy nữa. Sự cắt lìa giữa "người ta" với tôi giờ thật trọn vẹn. Thậm chí tôi không mang cả đuốc theo. Việc đó giống như là thú nhận một niềm tin: tôi muốn cho "họ" thấy tôi đang cố gắng chấp nhận bóng tối một cách toàn vẹn nhất đúng như nó có.

Tôi đặt mông xuống mặt đất, tựa lưng vào thành giếng bằng bê tông, kẹp cây gậy giữa hai đầu gối rồi nhắm mắt lại, lắng nghe tim mình đập. Dĩ nhiên trong bóng tối thế này thì cũng chẳng cần nhắm mắt làm gì, nhưng tôi vẫn nhắm. Việc nhắm mắt có ý nghĩa riêng của nó, dù trong bóng tối hay không. Tôi hít sâu mấy hơi, để cho thân thể mình quen dần với cái không gian sâu, tối, hình trụ này. Cái mùi ở đây vẫn như trước, làn không khí cảm thấy trên da tôi cũng như trước. Giếng đã bị lấp hoàn toàn trong một thời gian, nhưng không khí ở đây vẫn y nguyên như cũ. Với mùi rêu và cái vẻ ẩm thấp, không khí ở đây xem ra chẳng khác gì khi tôi trèo xuống lần đầu tiên. Dưới đây không hề có mùa nào. Thậm chí thời gian cũng không hiện hữu.
° ° °
Tôi vẫn luôn mang đôi giày tennis cũ và đeo đồng hồ nhựa, cái đồng hồ tôi đã đeo khi chui xuống giếng lần đầu. Cũng như cây gậy, những vật đó giúp tôi bình tâm. Trong bóng tối tôi kiểm tra xem những vật đó có liên hệ bền chắc với thân thể tôi không. Tôi kiểm tra xem có chắc mình không xa rời chính mình không. Tôi nhắm mắt rồi lát sau lại mở mắt ra. Việc đó giúp làm cho cái áp lực bên trong tôi từ từ tiến gần hơn tới cái áp lực của bóng tối quanh tôi. Thời gian trôi qua. Chẳng mấy chốc, cũng như mọi khi, tôi mất khả năng phân biệt giữa hai loại bóng tối. Tôi không còn biết mắt mình đang mở hay nhắm nữa. Vết bầm trên má tôi bắt đầu nghe nong nóng. Tôi biết nó đang nhuốm một màu đỏ tía sống động hơn.

Trong hai thứ bóng tối càng lúc càng quyện vào nhau đó, tôi tập trung chú ý hết vào vết bầm và nghĩ đến căn phòng. Tôi cố tách ra khỏi chính mình, như tôi đã làm mỗi khi ở bên những người đàn bà. Tôi cố thoát ra khỏi cái nhục thể vụng về vô dụng này của tôi đang ngồi chồm chỗm trong bóng tối. Giờ đây tôi chẳng là gì khác ngoài một căn nhà trống, một cái giếng bị bỏ rơi. Tôi cố đi ra ngoài, cố thay đổi phương tiện, cố nhảy từ một thực tại này sang một thực tại khác, di động với một vận tốc khác, và suối thời gian đó tôi không ngừng siết lấy cây gậy.

Lúc này một bức tường là vật duy nhất phân cách giữa tôi và căn phòng lạ. Tôi ắt phải có thể đi qua bức tường đó. Tôi ắt phải có thể làm được việc đó bằng chính sức tôi và bằng sức mạnh của cái bóng tối sâu hút ở nơi này.

Nếu tôi nín thở và tập trung, tôi có thể nhìn thấy những gì có trong phòng. Bản thân tôi không ở đó, nhưng tôi đang quan sát căn phòng đó. Đây là phòng suite khách sạn: Phòng 208. Rèm dày che kín cửa sổ. Phòng tối om. Một bình lớn cắm đầy hoa, không khí nặng trĩu mùi hương đầy ám dụ của hoa. Một cây đèn chân đế lớn đứng cạnh cửa ra vào, nhưng trong bóng đèn trắng nhờ và chết như vầng trăng lúc buổi sáng. Thế nhưng, nhìn thật kỹ thì sau một lát tôi vẫn có thể phân biệt được hình dáng các vật thể nhờ chút ánh sáng cố len vào được trong phòng, kiểu như mắt quen dần với bóng tối trong rạp chiếu bóng. Trên chiếc bàn nhỏ giữa phòng có một chai Cutty Sark gần đầy. Xô đá đựng những viên đá vừa mới chặt (xét theo những đường mép rõ rệt, sắc nét của chúng), và ai đó đã pha một suất scotch có đá trong chiếc ly gần đó. Một chiếc khay bằng thép không gỉ tạo thành một cái ao tĩnh lặng, lạnh lẽo trên mặt bàn. Chẳng cách nào biết được bây giờ là mấy giờ. Có thể đang buổi sáng, có thể buổi chiều mà cũng có thể nửa đêm, mà có thể chốn này không hề có thời gian. Trên chiếc giường ở phía sâu trong phòng có một phụ nữ nằm. Tôi nghe tiếng cô ta chuyển động giữa chăn đệm. Những viên nước đá kêu lanh canh dễ nghe trong ly rượu cô cầm. Những hạt phấn hoa li ti treo trong không khí rung động trước âm thanh đó như những cơ thể sống. Mỗi gợn âm thanh nhỏ xíu lan trong không khí càng khiến chúng sống động bất ngờ hơn. Bóng tối nhá nhem mở ra đón nhận phấn hoa, và những hạt phấn hoa, khi đã nhập vào bóng tối, làm cho bóng tối đó càng thêm đậm đặc. Người đàn bà nâng ly whisky lên môi, để vài giọt chất lỏng trôi qua cuống họng, rồi cố nói với tôi. Căn phòng ngủ tối om. Tôi không thấy gì khác ngoài chuyển động lờ mờ của những cái bóng. Nhưng cô ấy có điều gì đó muốn nói với tôi. Tôi đợi cô nói. Tôi đợi nghe lời của cô.

Và những lời ấy đây.

° ° °


Như một con chim tưởng tượng treo trên một bầu trời tưởng tượng, tôi nhìn những căn phòng từ trên cao. Tôi phóng đại quang cảnh, lùi lại, quan sát toàn thể, rồi lại phóng đại nhìn cận cảnh. Khỏi cần phải nói, mỗi chi tiết đều có ý nghĩa lớn lao. Tôi kiểm tra lần lượt từng chi tiết, xem xét hình dáng, màu sắc và chất liệu. Giữa chi tiết này với chi tiết nọ không có mối liên kết, không có hơi ấm. Tất cả những gì tôi làm trong thời điểm đó chỉ là tiến hành kiểm kê một cách cơ giới các chi tiết. Tuy nhiên, việc đó cũng đáng làm. Cũng như khi ta xát hai hòn đá hay hai cây gậy vào nhau, cuối cùng cũng sẽ tạo sức nóng và xẹt lửa, một thực tại được kết nối lại với nhau dần dần sẽ có hình hài. Cũng như một chuỗi lặp đi lặp lại đều đều những âm thanh ngẫu nhiên thoạt nghe thì tưởng như vô nghĩa, nhưng cứ chồng chất lên thì mãi cũng thành một âm tiết rõ rệt.

Tôi cảm thấy được mối liên kết yếu ớt đó lớn lên trong những chiều sâu thẳm nhất của bóng tối kia. Tuyệt lắm, được lắm. Ở đây thật là yên tĩnh, "họ" vẫn chưa nhận ra sự hiện diện của tôi. Tôi cảm thấy bức tường ngăn cách tôi với chỗ đó đang tan ra, nhão thành một thứ thạch. Tôi nín thở. Ngay bây giờ thôi!

Nhưng đúng vào khoảnh khắc tôi bước về phía bức tường, một tiếng gõ cửa gay gắt vang lên, như thể người ta biết tôi đang định làm gì. Có ai đó đang gõ ầm ầm lên cửa. Đó chính là tiếng gõ tôi đã nghe lần trước, một tiếng nện dữ dội, dứt khoát, như thể ai đó đang cố đóng đinh xuyên qua tường. Tiếng gõ cũng theo nhịp y như lần trước: hai tiếng gõ, dừng một chút, rồi lại hai tiếng. Người đàn bà thở hổn hển. Những hạt phấn hoa run rẩy, bóng tối tròng trành chao đảo. Cái tiếng động xâm hấn kia đóng sầm cái lối đi mà rốt cuộc đang bắt đầu trở nên có hình hài để tiếp nhận tôi.

Lần nào cũng y như vậy.


° ° °


Một lần nữa tôi lại ở trong thân thể chính mình, ngồi dưới đáy giếng, lưng tựa vào tường, hai tay siết chặt gậy bóng chày. Cảm giác về cái thế giới "ở bên này" chầm chậm trở lại đôi tay tôi, kiểu như một hình ảnh dần dần hiện rõ khi ta nhìn gần lại. Tôi cảm thấy hai lòng bàn tay mình nhơm nhớp mồ hôi. Tim tôi đập thình thình trong cổ họng. cái tiếng gõ chát chúa, đâm phập vào thế giới kia vẫn còn nguyên vẹn, sống sít trong tai tôi, và tôi vẫn còn nghe rõ tiếng quả đấm cửa chầm chậm xoay trong bóng tối. Ai đó (hay cái gì đó) ngoài kia đang mở cửa, đang chuẩn bị bước vào, nhưng chính tại khoảnh khắc đó mọi hình ảnh tan biến. Bức tường lại là bức tường cứng tựa bao giờ, và tôi bị ném trở về phía bên này. Trong bóng tối, tôi gõ gõ đầu gậy lên bức tường trước mặt - vẫn là bức tường bê tông cứng ngắt, lạnh lẽo. Tôi đang bị bao quanh bởi một hình trụ bê tông. Lần này mình suýt nữa đã làm được rồi, tôi tự nhủ. Mình đã đến được gần hơn. Tôi tin chắc thế. Đến một lúc nào đó tôi đã sắp sửa vượt qua được rào chắn để vào "trong kia". Tôi sẽ lọt được vào căn phòng và đứng đó, sẵn sàng, đợi tiếng gõ cửa kia vang lên. Nhưng còn bao lâu nữa điều đó mới xảy ra được? Và tôi còn lại bao nhiêu thời gian nữa?

Đồng thời tôi lại sợ rằng điều đó sắp xảy ra thật. Bởi nếu vậy tôi sẽ phải đương đầu với những gì ắt phải có ở đó dẫu là cái gì đi nữa.

Tôi vẫn ngồi co ro trong bóng tối. Tôi phải để cho tim mình lắng lại. Tôi cần phải tách tay mình ra khỏi cây gậy. Trước khi có thể đứng dậy trên nên đáy giếng này, sau đó leo cái thang bằng thép để trở lên mặt đất, tôi phải cần thêm thời gian, và cần thêm sức mạnh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

67#
 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2012 20:01:32 | Chỉ xem của tác giả


Chương 9
Cuộc Tấn Công Vườn Thú (Hay Cuộc Thảm Sát Vụng Về)


Akasaka Nhục đậu khấu kể chuyện những con hổ, báo, sói và gấu bị một toán lính bắn chết một buổi trưa oi bức kinh người vào tháng Tám năm 1945. Bà kể lại một cách lớp lang và rõ ràng chính xác như một bộ phim tài liệu chiếu trên màn hình trắng. Không có bất cứ chi tiết nào mơ hồ trong chuyện của bà, dù trên thực tế bản thân bà không chứng kiến sự kiện. Khi chuyện đó xảy ra, bà đang đứng trên boong một con tàu vận tải chở những người Nhật định cư tại Mãn Châu tị nạn về Nhật Bản. Những gì bà thực sự chứng kiến chỉ là một chiếc tàu ngầm Mỹ nổi lên mặt biển.

Cũng như mọi người, bà cùng những đứa trẻ khác đã chui ra khỏi hầm tàu nóng hầm hập như cái nồi hơi để lên boong, tựa vào lan can mà tận hưởng làn gió nhẹ thổi qua mặt biển bình yên phẳng lặng, thì đột nhiên chiếc tàu ngầm nổi lên mặt biển như thể hiện ra từ một giấc mơ. Thoạt tiên là một chiếc ăng-ten, trụ ra đa và tiềm vọng kính trồi lên. Kế đó đài chỉ huy xuất hiện, rạch ngang mặt biển tạo thành một vệt dài. Cuối cùng là toàn bộ thân tàu bằng thép lừng lững hiện ra, phơi thân hình trần trụi tao nhã dưới ánh nắng hè. Mặc dù hình dáng của vật trước mắt bà không thể là gì khác ngoài một chiếc tàu ngầm, song nó trông như một thứ dấu hiệu mang tính biểu tượng, hay là một ẩn dụ không hiểu nổi.

Chiếc tàu ngầm chạy song song với con tàu trong chốc lát như đang rình mồi. Chẳng mấy chốc một cánh cửa nắp mở ra, một người trong thủy thủ đoàn leo lên boong, sau đó một người khác, rồi một người nữa, động tác chậm chạp gần như uể oải. Từ boong đài chỉ huy, các sĩ quan dùng những chiếc ống nhòm to dùng để quan sát từng chi tiết của chiếc tàu vận tải, những thấu kính ống nhòm chốc chốc lại lóe lên dưới ánh nắng. Chiếc tàu lèn chặt những dân thường đang trở về Nhật Bản, cảng đến là Sasebo. Phần lớn là phụ nữ và trẻ em, gia quyến của các sĩ quan Nhật trong chính phủ bù nhìn Mãn Châu quốc và các nhân viên cao cấp thuộc công ty đường sắt Nam Mãn Châu của người Nhật, đang quay về tổ quốc để tránh những loạn lạc ắt sẽ theo sau sự thất trận nhãn tiền của người Nhật trong chiến tranh. Những con người đó - ít nhất là cho tới lúc này - thà bị tàu ngầm Mỹ tấn công trên biển còn hơn chịu số phận khủng khiếp chờ đợi họ ở Trung Hoa đại lục.

° ° °


Các sĩ quan tàu ngầm đang kiểm tra xem liệu chiếc tàu vận tải có vũ trang không và có tàu hộ tống không. Họ chẳng có gì phải sợ. Người Mỹ bây giờ đang làm chủ cả bầu trời nữa. Okinawa đã thất thủ, còn trên đất Nhật máy bay chiến đấu giỏi lắm cũng chỉ sót lại dăm ba chiếc. Chẳng có gì phải sợ, thời gian đang ở về phía họ. Một viên sĩ quan hô khẩu lệnh, thế là ba viên thủy thủ liền quay bộ truyền động để hướng khẩu đại bác trên boong tàu về phía chiếc tàu vận tải. Hai thủy thủ khác mở cánh cửa nắp ở đuôi tàu, lôi ra những quả đạn nặng trịch để nạp vào đại bác. Lại một tốp thủy thủ nữa đang nạp đạn vào một khẩu súng máy gắn vào một chỗ nhô cao trên boong tàu, gần đài chỉ huy. Tất cả các thủy thủ đang chuẩn bị chiến đấu đều đội mũ sắt, mặc dù vài người cởi trần từ thắt lưng trở lên và gần một nửa chỉ mặc quần soóc. Nếu nhìn kỹ, Nhục đậu khấu có thể nhìn thấy những hình xăm loang loáng trên tay họ. Nếu nhìn kỹ, cô bé có thể thấy được nhiều thứ.

Toàn bộ hỏa lực của chiếc tàu ngầm chỉ là một khẩu đại bác trên boong và một khẩu súng máy, nhưng thế đã là quá đủ để đánh chìm chiếc tàu hàng xập xệ hoen gỉ được cải tạo thành chiếc tàu vận tải này. Chiếc tàu ngầm chỉ mang một lượng thủy lôi hạn chế, số đó được để dành đến khi chạm trán những đoàn hộ tống có vũ trang, giả dụ như còn có tàu hộ tống có vũ trang nào ở Nhật. Ấy là luật bất di bất dịch.

Nhục đậu khấu bíu tay vào lan can boong tàu, quan sát cái nòng súng đen ngòm kia hướng về phía cô. Chỉ mới giây phút trước còn chìm trong nước, thế mà bây giờ nó đã khô ran dưới cái nắng mùa hè. Cô chưa bao giờ nhìn thấy khẩu súng nào to đến thế. Hồi ở Tân Kinh cô vẫn thường thấy những khẩu súng trường của quân đội Nhật, nhưng mấy khẩu súng ấy không thể nào sánh nổi với khẩu súng khổng lồ trên boong chiếc tàu ngầm kia. Chiếc tàu ngầm chiếu đèn hiệu vào chiếc tàu hàng: Đứng lại. Sắp sửa tấn công. Lập tức đưa hành khách xuống xuồng cứu nạn. (Dĩ nhiên, hồi đó Nhục đậu khấu không thể hiểu được ý nghĩa các tín hiệu bằng đèn đó, nhưng khi hồi tưởng lại bà có thể hiểu hết sức rõ ràng). Trên boong chiếc tàu vận tải - vốn chỉ được cải tiến một cách quấy quá để chuyển từ một chiếc tàu hàng cũ ngay trong lúc loạn lạc chiến tranh - không hề có đủ xuồng cứu nạn. Trên thực tế, chỉ có vẻn vẹn hai chiếc xuồng nhỏ cho hơn năm trăm con người gồm cả hành khách và thủy thủ. Hầu như chẳng có chiếc áo phao hay phao cứu nạn nào ở trên tàu.

Nắm chặt lan can tàu, nín thở, Nhục đậu khấu nhìn trân trối như bị thôi miên vào chiếc tàu ngầm hình dáng thuôn đẹp kia. Nó sáng choang như vừa mới đúc xong, không có lấy một tý gỉ sét. Cô nhìn thấy những con số vạch bằng sơn trắng trên đài chỉ huy. Cô nhìn thấy ăng-ten ra-đa quay phía trên đài chỉ huy. Cô nhìn thấy viên sĩ quan có mái tóc màu cát đeo kính râm. Chiếc tàu ngầm này đã từ đáy biển trồi lên để giết hết chúng ta, cô nghĩ, nhưng chuyện đó chẳng có gì lạ, lúc nào nó cũng có thể xảy ra. Nó chẳng liên quan gì đến chiến tranh hết, nó có thể xảy ra với bất cứ người nào ở bất cứ đâu. Ai cũng nghĩ rằng chuyện đó xảy ra là vì chiến tranh. Nhưng đâu phải vậy. Chiến tranh chỉ là một trong những gì có thể xảy ra thôi.

Đối mặt chiếc tàu ngầm và khẩu đại bác to đùng của nó. Nhục đậu khấu không thấy sợ. Mẹ cô đang hét to câu gì đó với cô, song cô chẳng hiểu gì. Đoạn cô cảm thấy ai đó túm cổ tay cô giật mạnh. Nhưng tay cô vẫn siết chặt lan can tàu. Những giọng kêu la gầm rú quanh cô bắt đầu xa dần, như thể ai đó đang vặn nhỏ âm lượng đài phát thanh. Sao mình buồn ngủ thế, cô nghĩ. Sao mình buồn ngủ quá vậy? Cô nhắm mắt lại, thế là ý thức cô lập tức chuội đi, bỏ boong tàu lại tít đằng sau.

° ° °


Nhục đậu khấu đang nhìn thấy những người lính Nhật tiến vào vườn thú để bắn chết bất cứ con vật nào có khả năng tấn công người. Viên sĩ quan hạ lệnh, và đạn từ những khẩu súng trường Model 38 đâm toạc lớp da mềm của một con hổ, xé tan lòng ruột con vật. Trời mùa hè xanh ngắt, từ cây cối xung quanh, tiếng ve sầu ra rả rơi xuống như một trận mưa rào bất chợt.

Những người lính chẳng nói năng gì. Khuôn mặt cháy nắng của họ không còn một chút máu, trông họ như hình vẽ trên những chiếc bình cổ. Chỉ ít ngày nữa thôi - cùng lắm là một tuần nữa - bộ phận chủ lực của Tập đoàn Viễn Đông quân đội Xô-Viết sẽ đến Tân Kinh này. Chẳng cách nào ngăn nổi bước tiến của họ. Ngay từ đầu cuộc chiến, những đội quân tinh nhuệ và khí tài thiết bị từng có lúc thừa mứa của đạo quân Quan Đông đã được đổ hết vào mặt trận phía Nam ngày càng mở rộng, đến giờ thì phần lớn cả quân lính lẫn trang bị vũ khí đều đã chìm xuống đáy biển hay đang mục rữa trong rừng sâu. Xe tăng không còn nữa. Đại bác chống tăng không còn nữa. Xe chở quân lính gần như hỏng hết chẳng còn gì, phụ tùng thay thế lại không có. Tổng động viên thì vẫn tập hợp được khá đông quân, nhưng thậm chí cả súng trường cổ lỗ sĩ cũng không đủ cho mỗi người một khẩu hoặc không đủ đạn để nạp cho tất cả các súng. Thế là đạo quân Quan Đông, "bức tường thành phía Đông" nay chỉ còn là một con hổ giấy. Các đơn vị cơ giới Xô-Viết từng đè bẹp quân đội Đức nay đang hoàn tất việc chuyển quân bằng xe lửa đến mặt trận Viễn Đông, quân trang thừa thãi, sĩ khí ngất trời. Mãn Châu quốc sụp đổ là điều không tránh khỏi.

Ai cũng biết đó là sự thật, mà biết hơn ai hết là Bộ Tham Mưu đạo quân Quan Đông. Vì thế họ triệt thoái bộ phận chủ lực về hậu phương, trên thực tế là bỏ mặc các đồn nhỏ dọc biên giới và những người thường dân người Nhật làm nghề nông. Những người nông dân không vũ khí này bị quân đội đối phương giết sạch bởi họ tiến quân quá nhanh nên không có thì giờ bắt tù binh. Nhiều phụ nữ chọn - hoặc buộc phải chọn - con đường tự sát còn hơn bị hãm hiếp. Các đồn biên giới tự giam mình vào các boong-ke bằng bê tông được mệnh danh là "pháo đài vĩnh viễn" và kháng cự kịch liệt, nhưng vì không được yểm trợ từ hậu phương, thảy họ đều bị hỏa lực áp đảo của quân đội Xô-Viết tiêu diệt. Các vị chóp bu trong bộ tham mưu và các sĩ quan cao cấp khác đã thu xếp để chính mình được "thuyên chuyển" đến bộ tham mưu mới ở Thông Hoa 1 gần biên giới Triều Tiên, còn Hoàng đế bù nhìn Henry Phổ Nghi và gia đình đã vứt hết gia sản mà tháo chạy khỏi thủ đô trên một chiếc chuyên xa. Hầu hết binh lính người Trung Hoa trong đạo quân Quan Đông được giao nhiệm vụ bảo vệ thủ đô đều đào ngũ ngay khi hay tin quân đội Xô-Viết đang xâm lấn, hoặc nếu không thì họ nổi loạn và bắn chết các sĩ quan chỉ huy người Nhật. Họ không có ý định hi sinh tính mạng mình cho nước Nhật trong cuộc chiến chống lại quân đội Xô-Viết có ưu thế vượt trội.

Do hậu quả những diễn tiến có tương quan đó, thủ đô của Mãn Châu quốc, cái "thành phố mới đặc biệt Tân Kinh" mà nước Nhật Bản hiện đại đã dựng nên trên một vùng đất hoang vu, đã đặt cược uy tín của mình vào đó, nay bị bỏ lửng trong một tình thế chân không chính trị kỳ lạ. Để tránh hỗn loạn và đổ máu không cần thiết, các quan chức cao cấp người Trung Hoa thuộc Mãn Châu quốc cho rằng cần tuyên bố Tân Kinh là thành phố phi quân sự và đầu hàng không kháng cự, nhưng đạo quân Quan Đông cự tuyệt đề nghị đó.

Những người lính được phân công đến vườn thú đã phó mặc mình cho số phận. Họ cho rằng chỉ dăm hôm nữa thôi họ sẽ chết khi giao chiến với quân đội Xô Viết (mặc dù, trên thực tế, sau khị bị giải giáp, họ sẽ bị đưa đi lao động ở các mỏ than ở Siberia, và ba người trong số họ sẽ chết tại đó). Họ chỉ còn biết cầu trời cho cái chết của mình sẽ không quá đau đớn. Chẳng ai muốn bị nghiền nát nhừ dưới xích xe tăng, bị nướng chín dưới chiến hào vì súng phóng hỏa hay quằn quại chết từ từ vì một viên đạn trong dạ dày. Thà bị bắn vào đầu hay ngay tim còn hơn. Nhưng trước hết họ phải giết lũ thú kia.

° ° °


Giá như có thể thì họ đã giết lũ thú bằng thuốc độc để tiết kiệm dăm viên đạn ít ỏi còn lại. Viên trung úy trẻ tuổi chỉ huy chiến dịch này đã được sĩ quan cấp trên chỉ thị như vậy, lại nghe lệnh rằng vườn thú đã được cung cấp đủ thuốc độc để làm việc này. Viên trung úy dẫn tám binh sĩ súng ống tận răng đến vườn thú chỉ cách sở chỉ huy hai mươi phút đi bộ. Cổng vườn thú đã đóng im ỉm từ khi người Liên Xô tiến công, có hai binh sĩ đứng canh, súng cắm lưỡi lê. Viên trung úy đưa cho lính canh xem mệnh lệnh rồi đưa quân mình vào.

Giám đốc vườn thú xác nhận rằng quả thật ông đã được chỉ thị "loại bỏ" những con thú hung dữ trong trường hợp khẩn cấp và làm việc đó bằng thuốc độc, nhưng ông bảo lô hàng thuốc độc mãi đến giờ vẫn chưa nhận được. Nghe vậy, viên trung úy rất bối rối. Y vốn là nhân viên kế toán, được bổ nhận chân phát lương trong Bộ tham mưu, xưa nay chưa lần nào phải chỉ huy một nhóm người, thế mà bây giờ bị lôi ra khỏi bàn giấy để làm cái nhiệm vụ khẩn cấp này. Y phải lục mãi trong ngăn kéo để tìm khẩu súng lục đã nhiều năm không hề đụng tới, thậm chí chẳng biết có còn bắn được hay không nữa.

- Cái tệ quan liêu thì bao giờ cũng vậy, trung úy à, - giám đốc vườn thú nói, ông ta vốn lớn hơn viên trung úy vài tuổi, nhìn y với ít nhiều thương hại. - Những gì ta cần thì chẳng bao giờ có cả.

Để hỏi han thêm tình hình, giám đốc vườn thú cho gọi bác sĩ thú y trưởng vào, ông này bảo viên trung úy rằng vườn thú chỉ có một lượng thuốc độc rất nhỏ, không đủ để giết một con ngựa. Viên bác sĩ thú y là một người cao lớn, điển trai trạc gần bốn mươi tuổi, có một vết bầm màu xanh đen bên má phải, kích thước và hình dáng giống như một bàn tay bé sơ sinh. Viên trung úy cho rằng vết bầm kia là bẩm sinh.

Từ chỗ văn phòng giám đốc vườn thú, viên trung úy gọi điện thoại về Bộ Tham mưu để xin thêm chỉ thị, nhưng bộ Tham mưu đạo quân Quan Đông đang trong tình trạng hoảng loạn cùng cực ngay từ khi quân đội Xô Viết vượt qua biên giới vài ngày trước, hầu hết các sĩ quan cao cấp đều đã biến mất. Vài ba viên sĩ quan còn sót lại đều bận túi bụi, kẻ đang đốt hàng chồng tài liệu quan trọng ngoài sân, người thì dẫn quân ra ven thành phố để đào công sự chống tăng. Viên đại tá đã ra lệnh cho trung úy chẳng hiểu biến đi đâu mất. Thành thử viên trung úy chịu không biết đào đâu ra chỗ thuốc độc họ cần. Ai ở đạo quân Quan Đông chịu trách nhiệm về vụ thuốc độc bây giờ đây? Người ta chuyển cuộc gọi của viên trung úy hết từ văn phòng này đến văn phòng khác, cho tới khi một đại tá quân y cầm máy quát om sòm với viên trung úy: "Đồ ngu như bò! Cả cái nước này toi mẹ tới nơi rồi mà còn đi hỏi tôi về cái vườn thú chó *** nào đó là sao? Thằng đếch nào nó quan tâm chứ hả?".

Mà đúng, ai người ta quan tâm, viên trung úy nghĩ. Mình thì chắc chắn là không rồi. Với vẻ hết hy vọng, y gác máy và quyết định thôi không cố đòi thuốc độc nữa. Giờ thì y có hai lựa chọn. Y có thể quên vụ giết thú đi, chẳng giết con nào cả, cứ thế dẫn lính về, hoặc họ có thể dùng đạn để thi hành nhiệm vụ. Đằng nào thì cũng vi phạm mệnh lệnh được giao, nhưng rốt cuộc y quyết định dùng súng để bắn. Nếu làm cách đó, sau này y có thể sẽ bị giáng một cấp vì tội phí phạm đạn dược, song ít nhất thì mục đích "loại bỏ" những con vật nguy hiểm cũng được thực hiện. Còn nếu chọn giải pháp không giết lũ thú, có thể y sẽ phải ra tòa án binh vì tội bất tuân thượng lệnh. Dĩ nhiên, vào lúc chiến tranh sắp kết thúc thế này thì chưa chắc có tòa án binh nữa không, nhưng nói gì thì nói, lệnh là lệnh. Chừng nào quân đội vẫn còn tồn tại thì quân lệnh vẫn phải được thi hành.

Giá như có thể, mình cũng chẳng muốn giết con nào cả, viên trung úy tự nhủ, hoàn toàn thành thực. Song vườn thú đang cạn dần thức ăn cho bọn thú, nên hầu hết bọn chúng (nhất là những con to xác) đang bị đói trầm trọng. Mọi chuyện chỉ có ngày càng tệ hơn thôi - hay ít nhất là sẽ không thể khá lên được. Bắn quách chúng đi có khi là cách nhẹ nhàng nhất cho bản thân bọn thú, một cái chết nhanh chóng, sạch sẽ. Mà nữa, nếu lũ thú đói kia xổng chuồng lao vào thành phố giữa lúc giao tranh ác liệt hoặc đang nửa chừng cuộc không kích thì thảm họa là điều không tránh khỏi.

Giám đốc vườn thú đưa cho viên trung uý bản danh sách cần "loại bỏ khẩn cấp" mà ông đã lập ra theo chỉ thị, cùng với một tấm bản đồ vườn thú. Viên bác sĩ thú y có vết bầm trên má cùng hai công nhân người Trung Hoa được giao nhiệm vụ đi cùng đội hành quyết. Viên trung uý liếc bản danh sách và nhẹ cả người khi thấy nó ngắn hơn y tưởng. Tuy nhiên, trong số các con vật bị ghi là cần loại bỏ có hai con voi Ấn Độ. Voi à? Viên trung uý cau mày nghĩ. Làm thế quái nào bọn tôi giết voi được kia chứ?

Cứ theo tấm bản đồ thì con vật đầu tiên cần loại bỏ là hổ. Thôi thì dù sao voi cũng được để sau cùng. Tấm biển trên chuồng hổ cho biết cặp hổ này đã bị bắt ở Mãn Châu, trong vùng núi Đại Khingan. Viên trung uý phân công bốn người bắn một con hổ, và bảo đám lính nhắm vào tim, tuy nhiên tim nằm ở đâu trên mình hổ thì chính y cũng chẳng biết. Nhưng không sao, ít nhất thì trong bốn viên ắt có một viên trúng đích. Khi tám người cùng gạt đòn bẩy những khẩu Model 38s và nặp băng đạn vào ổ đạn, tiếng lách cách khô khốc đầy điềm gở làm thay đổi hẳn toàn bộ bầu không khí nơi này. Nghe tiếng động, hai con hổ đứng dậy. Để phòng xa viên trung uý rút khẩu súng lục tự động của y ra, tháo chốt an toàn. Để tự trấn an, y hắng giọng. Có gì đâu, y cố tự nhủ. Ai mà chẳng có lúc phải làm những việc thế này.

Đám lính quỳ xuống, nhắm cẩn thận rồi theo lệnh viên trung uý bóp cò. Lực giật lại làm vai họ rung bần bật, và trong một khoảnh khắc tâm trí họ trở nên trống hoác, như là bị thổi phăng mất. Tiếng gầm của ngần ấy phát bắn cùng một lúc vang vọng qua vườn thú không người, dội từ nhà này sang nhà khác, tường này sang tường khác, cắt qua những vạt rừng, rạch qua những mặt nước, đâm thấu vào tim bất cứ ai nghe thấy nó, như tiếng sấm ở xa. Lũ thú nín thở. Ngay cả ve sầu cũng thôi kêu. Mãi lâu sau khi tiếng vọng của những phát súng đã lắng đi ở đằng xa, vẫn không có một âm thanh nào. Như thể vừa bị một người khổng lồ vô hình quật cho một phát chí tử bằng một cây gậy khổng lồ, hai con hổ dựng đứng lên một khoảnh khắc trong không khí, sau đó đổ ụp xuống sàn chuồng, quằn quại hấp hối, mồm hộc máu. Đám lính đã không thể hạ thủ được lũ hổ chỉ bằng một phát súng. Bừng tỉnh khỏi cơn mê, họ lại kéo đòn bẩy, vứt vỏ đạn vừa bắn đi, rồi lại ngắm đích.

° ° °


Viên trung uý ra lệnh cho một người trong đám lính vào chuồng kiểm tra xem có chắc là lũ hổ đã chết chưa. Trông thì có vẻ chết thật rồi mắt nhắm, răng nhe ra, không nhúc nhích. Nhưng điều quan trọng là phải kiểm tra cho chắc. Viên bác sĩ thú ý mở khoá chuồng và tay lính trẻ (mới tròn hai mươi tuổi) bước vào, nơm nớp sợ, tay lăm lăm lưỡi lê chìa ra đằng trước. Điệu bộ gã đến là buồn cười. Gã lấy gót giày đá nhẹ vào chân sau một trong hai con hổ. Con vật vẫn bất động. Gã lại đá đúng chỗ đó, lần này mạnh hơn một chút. Con hổ đã chết, không nghi ngờ gì nữa. Con hổ kia (con cái) cũng nằm không cục cựa. Tay lính trẻ cả đời chưa đến vườn thú bao giờ, cũng chưa một lần nào thấy một con hổ thật. Một phần vì vậy mà gã vẫn chưa hoàn toàn tin nổi họ vừa giết chết một con hổ thật, đang sống sờ sờ đó. Gã chỉ cảm thấy gã vừa bị lôi vào một nơi chẳng liên quan gì đến gã. Đứng trong một biển máu đen kịt, gã nhìn trân trân xuống xác hai con hổ, nhìn như bị thôi miên. Khi đã chết, lũ hổ trông to hơn nhiều so với khi còn sống. Sao thế nhỉ? Gã lấy làm lạ tự hỏi.

Sàn chuồng bằng bê tông nồng nặc mùi khắm lặm của nước tiểu loài mèo lớn trộn lẫn với mùi máu âm ấm. Máu vẫn đang ộc ra từ những lỗ thủng toang hoác trên thân thể lũ hổ, làm thành một cái hồ đen sịt dinh dính quanh chân gã. Đột nhiên, khẩu súng trường trong tay gã nghe nặng trịch, lạnh ngắt. Gã muốn quẳng súng đi, gập người xuống, nôn kỳ hết tất cả những gì có trong dạ dày gã ra sàn chuồng. Giá làm vậy được thì nhẹ người biết bao! Nhưng không thể nôn được - tay chỉ huy sẽ dần gã dập mặt mất. (Dĩ nhiên, người lính này hoàn toàn không biết rằng mười bảy tháng sau gã sẽ chết khi một tay lính gác Liên Xô ở một khu mỏ gần Irkutsk dùng xẻng đập toác sọ gã). Gã lấy lưng cổ tay lau mồ hôi trên trán. Chiếc mũ trận gã đội đè nặng xuống gã. Một con ve sầu, rồi một con nữa lại bắt đầu kêu, như thể mới hồi sinh. Chẳng mấy chốc hoà vào tiếng ve sầu còn có tiếng kêu của một con chim - một tiếng kêu khác hẳn, nghe như tiếng vặn một sợi dây cót: Quick... quick... Năm lên mười hai tuổi tay lính trẻ đã từ một làng vùng núi Hokkaido cùng gia đình vượt biển đến Trung Hoa, cả nhà cùng canh tác một mảnh đất ở làng biên giới Bắc An cho tới năm ngoái thì gã bị động viên vào quân đội. Mặc dù gã biết rõ tất cả các loài chim ở Mãn Châu, nhưng con chim có tiếng kêu đặc biệt này thì gã chưa hề gặp. Có lẽ đó là một loài chim nhập từ một vùng xa, nó đang kêu trong lồng ở một khu vực khác của vườn thú. Thế nhưng tiếng kêu hình như phát ra từ những cành cây cao ở đâu đó gần đây. Gã ngoái đầu nhìn về phía tiếng kêu nhưng chẳng thấy gì. Một cây du sừng sững có tán lá rậm dày hắt cái bóng sắc nét, mát rượi xuống mặt đất bên dưới.

Gã nhìn về phía viên trung uý như để xin chỉ thị. Viên trung uý gật đầu, lệnh cho gã ra khỏi chuồng, đoạn lại trải bản đồ ra. Với bọn hổ thế là xong. Giờ đến lượt báo. Sau đó có thể là chó sói. Ta còn phải xử lý lũ gấu nữa. Voi thì để thanh toán xong những con khác sẽ tính sau, y nghĩ. Rồi y mới nhận ra trời nóng như thiêu. "Nghỉ chút đi", y nói với thuộc hạ. "Uống chút nước". Họ lấy bi đông ra uống. Rồi họ lại quảy súng lên vai, đứng thành đội hình, đi về phía chuồng báo. Trên một cây cao, con chim lạ có tiếng kêu khẩn thiết vẫn tiếp tục vặn dây cót. Ngực và lưng áo lính ngắn tay của đám đàn ông đen nhẹp mồ hôi. Đội quân súng ống tận răng này diễu đến đâu, tiếng lách cách của đủ thứ vận dụng kim loại làm bật lên đến đó những tiếng vang rỗng hoác khắp trong vườn thú không người. Lũ khỉ bấu chặt lấy chấn song chuồng rít lên những tiếng xé tai, cuống cuồng cảnh báo sự chẳng lành với tất cả những con vật khác trong vườn thú, đến lượt mình những loài khác hoà vào dàn đồng ca theo cách của riêng chúng. Lũ sói nghếch mõm lên trời hú từng tràng dài, bọn chim góp lời bằng cách đập cánh như điên, vài con vật lớn ở đâu đó vật mình rầm rầm vào vách chuồng như buông lời đe doạ. Một cụm mây hình thù như nắm đấm chẳng biết từ đâu xuất hiện che khuất mặt trời trong chốc lát. Vào buổi chiều tháng Tám đó, người, vật, tất cả đều nghĩ đến cái chết. Hôm nay những người này sẽ giết lũ thú, ngày mai quân đội Liên Xô sẽ giết những người này. Có lẽ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

68#
 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2012 20:03:55 | Chỉ xem của tác giả


Hai chúng tôi luôn luôn ngồi đối diện nhau ở cùng một bàn đó, trong cùng nhà hàng đó mà trò chuyện. Bà ta là khách quen ở đó, và dĩ nhiên lần nào bà cũng trả tiền. Phần sau của nhà hàng được chia thành những ngăn riêng biệt, ngồi ở bàn này trò chuyện thì bàn bên không nghe thấy được. Mỗi ngăn như vậy được dành riêng cho khách suốt cả buổi tối, nghĩa là chúng tôi có thể ngồi nói chuyện bao nhiêu tuỳ thích, đến khi nhà hàng đóng cửa thì thôi, không bị bất cứ ai quấy rầy kể cả bồi bàn - họ chỉ đến để bưng món ăn lên hoặc dọn đi. Bà ta luôn luôn gọi một chai Burgundy lâu đúng ngần ấy năm và luôn luôn chừa lại nửa chai không uống.

- Một con chim vặn dây cót? - đang ăn, tôi ngẩng đầu lên hỏi.

- Một con chim vặn dây cót? - Nhục đậu khấu nói, lặp lại đúng từng từ tôi vừa nói, đoạn cong môi lên một thoáng. - Tôi không hiểu cậu đang nói gì. Cậu đang nói về cái gì thế?

- Có phải bà vừa nói gì đó về một con chim vặn dây cót không?

Bà ta chầm chậm lắc đầu.

- Hừm. Giờ thì tôi không nhớ được. Hình như tôi chẳng nói về chim chóc gì cả.

Tôi đành chịu thua. Bà luôn luôn kể chuyện mình như vậy. Tôi cũng chưa hỏi bà về vết bầm nữa.

- Vậy là bà sinh ra ở Mãn Châu? - tôi hỏi.

Bà lại lắc đầu.

- Tôi sinh ở Yokohama. Cha mẹ tôi mang tôi sang Mãn Châu năm tôi mới ba tuổi. Cha tôi vốn dạy ở một trường thú y, nhưng khi chính quyền thành phố Tân Kinh muốn tìm một người từ Nhật sang làm bác sĩ thú y trưởng cho vườn thú mới mà họ sắp xây dựng, cha tôi đã tình nguyện đi. Mẹ tôi không muốn rời bỏ cuộc sống vốn đã yên hàn ở Nhật để đến một xứ khỉ ho cò gáy, nhưng cha tôi vẫn khăng khăng. Có lẽ ông muốn tự thử mình ở một nơi lớn lao hơn, rộng mở hơn là Nhật Bản. Hồi ấy tôi còn bé nên đi đâu cũng được, nhưng quả thật sống trong vườn thú tôi rất thích. Sống trong vườn thú thật tuyệt. Thân thể cha tôi lúc nào cũng có mùi thú vật. Tất cả những mùi khác nhau của nhiều loài vật trộn lẫn với nhau thành một mùi, và cái mùi ấy mỗi ngày mỗi khác đi một chút, như khi ta thay đổi các thành phần trong công thức một thứ nước hoa vậy. Mỗi khi cha về nhà, tôi hay trèo lên lòng cha, bắt cha ngồi im để tôi hít ngửi khắp mình cha.

Nhưng rồi chiến tranh ngày càng chuyển biến theo hướng xấu, tình hình trở nên nguy hiểm, thế nên cha tôi quyết định để mẹ tôi và tôi trở về Nhật trước khi quá muộn. Mẹ con tôi đi cùng với nhiều người khác, đáp xe lửa từ Tân Kinh đến Triều Tiên, ở đó có một chiếc tàu đặc biệt đón chúng tôi. Cha tôi thì ở lại Tân Kinh. Lần cuối cùng khi tôi nhìn thấy cha, ông đang đứng trên sân ga vẫy mẹ con tôi. Tôi thò đầu ra cửa sổ nhìn ông cứ nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi biến mất trong đám đông trên sân ga. Không ai biết chuyện gì xảy ra với ông sau đó. Tôi nghĩ chắc ông đã bị người Liên Xô bắt làm tù binh rồi đưa đến Siberia buộc lao động cưỡng bức và chết ở đó, như nhiều người khác. Hẳn là ông đã vùi xác nơi mảnh đất cô đơn lạnh lẽo nào đó, thậm chí chẳng có lấy một cái gì để đánh dấu nấm mồ ông.

Đến giờ tôi vẫn nhớ như in vườn thú Tân Kinh, nhớ rõ từng chi tiết. Tôi có thể hồi tưởng tất cả trong tâm trí - từng lối đi, từng con vật. Gia đình tôi sống ở tư dinh của bác sĩ thú y trưởng, trong khuôn viên vườn thú. Công nhân vườn thú ai cũng biết tôi, họ cho tôi muốn đi đâu cũng được, kể cả khi vườn thú đóng cửa vào các ngày lễ.

Nhục đậu khấu nhắm mắt, hồi tưởng lại quang cảnh đó trong tâm trí. Tôi không nói gì, đợi bà kể tiếp chuyện.

- Thế nhưng tôi không chắc liệu cái vườn thú như tôi hồi tưởng lại có thật sự như thế không. Nói sao nhỉ? Đôi khi tôi cảm thấy nó sống động quá mức, không biết nói thế cậu có hiểu chăng... Mà khi đã chớm nghĩ như vậy thì càng nghĩ, tôi càng không dám chắc bao nhiêu phần trong cái sống động kia là thực còn bao nhiêu phần là do trí tưởng tượng của tôi tạo ra. Tôi thấy như mình đang lạc vào mê cung vậy. Đã bao giờ cậu gặp chuyện như vậy chưa?

Tôi thì chưa.

- Bà có biết vườn thú đó vẫn còn ở Tân Kinh không? - tôi hỏi.

- Tôi không biết nữa, - Nhục đậu khấu nói, tay chạm vào đuôi hoa tai. - Tôi nghe nói sau chiến tranh nơi đó đã bị đóng cửa, nhưng không biết đến giờ có còn đóng cửa không.

° ° °


Suốt một thời gian rất dài, Akasaka Nhục đậu khấu là người duy nhất trên đời mà tôi có thể trò chuyện. Tuần nào chúng tôi cũng gặp nhau một, hai lần, ngồi hai bên bàn mà trò chuyện với nhau. Sau khi đã gặp nhau như vậy mấy lần, tôi khám phá ra rằng bà là người có khả năng lắng nghe thật khác thường. Bà rất sáng trí, biết cách dẫn dắt câu chuyện bằng những câu hỏi và trả lời khôn khéo.

Để tránh làm phật ý bà, tôi luôn luôn sửa soạn hết sức chu đáo mỗi lần đi gặp bà, sao cho quần áo tôi chỉnh tề, sạch sẽ đâu ra đó. Tôi luôn mặc áo sơ-mi sạch bong vừa lấy ở hiệu giặt là về rồi chọn chiếc cà vạt nào hợp nhất. Giày tôi luôn bóng loáng, tịnh không một hạt bụi. Mỗi lần gặp nhau, việc đầu tiên bà ta làm là kiểm tra tôi từ đầu đến chân, bằng cặp mắt của anh đầu bếp chọn rau. Nếu có gì làm bà không hài lòng, bà sẽ đưa tôi đến thẳng một cửa hàng đặng mua cho tôi ngay thứ cần phải có. Nếu có thể, bà ta bắt tôi thay đồ mới ngay lập tức, ngay tại chỗ. Gì chứ về chuyện quần áo thì bà luôn luôn đòi hỏi sự hoàn hảo.

Kết quả là tủ quần áo của tôi bắt đầu đầy lên. Một cách từ từ nhưng chắc chắn, những bộ com lê mới, áo khoác mới và sơ-mi mới dần dần chiếm lĩnh cái lãnh thổ trước kia vốn thuộc về những bộ váy áo của Kumiko. Chẳng mấy chốc tủ quần áo bắt đầu chật, thế là tôi gấp hết đồ của Kumiko lại cho vào hộp có băng phiến rồi cất vào chỗ khác. Nếu Kumiko có trở về, tôi biết nàng sẽ tự hỏi chẳng biết chuyện quái gì đã xảy ra trong thời gian nàng vắng mặt.

Tôi phải mất một thời gian dài để giải thích với Nhục đậu khấu về Kumiko - rằng tôi phải cứu nàng và đưa nàng về. Bà ta chống cùi chỏ lên bàn, tựa cằm lên lòng bàn tay mà nhìn tôi một lát.

- Vậy thì cậu sẽ cứu Kumiko từ đâu về chứ? Cái nơi đó có tên gọi hay gì đó kiểu như vậy không?

Tôi tìm lời lẽ trong không khí. Nhưng lời lẽ làm gì có trong không khí. Chúng cũng chẳng chôn dưới đất. - Ở đâu đó xa lắm, - tôi nói.

Nhục đậu khấu mỉm cười.

- Nghe như chuyện Cây sáo thần vậy. Của Mozart, cậu biết không? Chuyện là người ta phải cứu một nàng công chúa bị giam trong một toà lâu đài ở một nơi rất xa, cứu bằng một cây sáo thần và những cái chuông thần. Tôi thích vở Opera đó lắm. Tôi đã xem không biết bao nhiêu lần. Thậm chí tôi thuộc nằm lòng lời vở hát nữa "Tôi là kẻ bắt chim, ở xứ này từ già đến trẻ ai cũng biết tôi..." Cậu đã xem chưa?

Tôi lắc đầu. Tôi chưa bao giờ xem vở ấy.

- Trong vở ấy, chàng hoàng tử và kẻ bắt chim, Pagageno, được ba đứa trẻ cưỡi mây dẫn đến toà lâu đài. Nhưng thực ra đó là cuộc chiến tranh giữa vương quốc của ngày và vương quốc của đêm. Vương quốc của đêm cố gắng bắt lại nàng công chúa từ tay vương quốc của ngày. Đến nửa chừng vở, các nhân vật chính không còn biết đâu là chính đâu là tà, ai bị bắt ai không nữa. Đương nhiên là đến cuối vở hoàng tử tái hợp với công chúa, Pagageno có được Pagagena, còn những kẻ ác bị đày xuống địa ngục, - Nhục đậu khấu miết ngón tay dọc vành cốc. - Nhưng lúc này thì cậu không có kẻ bắt chim cũng chẳng có sáo thần hay gương thần.

- Nhưng tôi có cái giếng, - tôi đáp.


° ° °


Mỗi khi tôi nói đã mệt hoặc không thể kể tiếp chuyện của mình do không tìm được những từ ngữ mình cần, Nhục đậu khấu thường cho tôi nghỉ bằng cách kể về chính thời thơ ấu của bà, và những chuyện của bà hoá ra còn dài dòng và rối rắm hơn nhiều so với chuyện của tôi. Mặt khác, không như tôi, bà thường không kể những câu chuyện của mình theo trình tự lớp lang mà thường nhảy từ chủ đề này sang chủ đề khác tuỳ tâm trạng. Bà thường đảo ngược trình tự thời gian mà không hề giải thích, hoặc tự dưng kể tới một nhân vật chính mà từ trước đến giờ chưa hề xuất hiện. Để hiểu được mẩu chuyện bà đang kể liên quan đến quãng nào trong cuộc đời bà thì cần phải diễn dịch thật cẩn thận, nhưng trong vài trường hợp thì có diễn dịch cách mấy cũng bằng thừa. Bà thường kể những sự kiện mà chính mắt bà chứng kiến đồng thời cũng kể những sự kiện mà bà chưa chứng kiến bao giờ.


° ° °


Họ giết lũ báo. Họ giết lũ sói. Họ giết lũ gấu. Bắn chết lũ gấu là mất nhiều thì giờ nhất. Thậm chí đã ăn đến hàng tá đạn, hai con thú khổng lồ vẫn cứ đập ầm ầm vào chấn song chuồng mà gào rú vào đám người, nhe nanh, sùi bọt mép. Khác với những con thuộc họ mèo vốn dễ dàng chấp nhận số phận hơn (hay ít nhất là có vẻ chấp nhận số phận), lũ gấu hình như không thể nào hiểu nổi cái thực tế rằng chúng đang bị giết. Có lẽ vì vậy mà phải mất nhiều thời gian hơn mức cần thiết đến thế lũ gấu mới chịu chia tay với cái tình trạng tạm thời gọi là cuộc sống kia. Khi rốt cuộc cũng dập tắt được mọi dấu hiệu sự sống ở lũ gấu, đám lính kiệt sức đến nỗi chỉ còn thiếu nước gục xuống ngay tại chỗ. Viên trung uý gài lại chốt an toàn súng rồi lấy mũ lau mồ hôi từ lông mày rỏ xuống. Trong cái im lặng sâu thẳm theo cuộc bắn giết, vài người lính hình như cố che giấu nỗi hổ thẹn của mình bằng cách khạc nhổ ầm ĩ xuống đất. Vỏ đạn vãi quanh chân họ giống như bao nhiêu là đầu mẩu thuốc lá. Tiếng súng nổ đoành đoành vẫn còn inh tai họ. Tay lính trẻ mà mười bảy tháng nữa sẽ bị một tên lính Liên Xô đánh chết trong một mỏ than gần Irkutsk hít sâu vài hơi liên tục, ngoảnh đi không nhìn xác lũ gấu. Gã đấu tranh kịch liệt để chống lại cơn buồn nôn đang trào lên cuống họng.

Rốt cuộc họ đã không giết lũ voi. Khi đối mặt với voi, họ nhận ra một điều hiển nhiên rằng chúng quá lớn. Bên những con thú đó, súng trường của những người lính trông như những món đồ chơi ngớ ngẩn. Viên trung uý ngẫm nghĩ một chút rồi quyết định để yên lũ voi. Nghe vậy, đám lính thở phào nhẹ nhõm. Nghe thì như lạ - tuy rằng thật ra cũng chẳng lạ lắm - đám lính thảy đều chung một ý nghĩ: giết người trên chiến trường còn dễ hơn nhiều so với giết thú trong chuồng, mặc dù trên chiến trường thì có thể chính mình bị giết.

Những con thú đó, giờ chỉ còn là những cái xác, được đám công nhân người Trung Hoa lôi ra khỏi chuồng, chất lên xe rồi kéo đến một nhà kho để trống. Ở đó những con thú, đủ hình đủ dạng, to có nhỏ có, nằm la liệt trên sàn. Sau khi đã thực thi chiến dịch từ đầu đến cuối, viên trung uý quay về văn phòng của giám đốc vườn thú bảo ông này ký vào những giấy tờ cần thiết. Sau đó đám lính xếp hàng, đều bước theo đội hình mà đi khỏi, những tiếng lách cách kim khí khua vang giống như khi họ đến. Đám công nhân Trung Hoa dùng vòi nước rửa sạch những đám máu đen kịt trên sàn các chuồng, đoạn dùng bàn chải cạo sạch những mẩu thịt thú dính đây đó trên tường. Khi xong việc, các công nhân hỏi viên bác sĩ thú y có vết bầm trên má phải xem ông ta định xử lý mấy cái xác bằng cách nào. Viên bác sĩ lúng túng không biết trả lời sao. Thường thì khi có thú chết, ông ta gọi một chuyên viên đến để xử lý. Nhưng hiện giờ khi thủ đô đang chuẩn bị bước vào trận huyết chiến, khi ai cũng chỉ nghĩ đến việc cao chạy xa bay khỏi cái đô thành sắp tận số này thì làm sao có thể nhấc điện thoại lên bảo ai đó chạy đến xử lý một cái xác thú chết được. Tuy nhiên đang là giữa hè, mấy cái xác sẽ rất chóng phân huỷ. Ngay lúc này đây những đàn ruồi đen đã bâu lại kín nghịt. Cách hay nhất là đem chôn, nhưng đó là một việc quá lớn thậm chí dù vườn thú có đủ thiết bị hạng nặng, còn với nhân lực hạn chế như lúc này thì không thể nào đào một cái hố đủ lớn đặng chôn hết mấy cái xác.

Các công nhân Trung Hoa bảo viên bác sĩ thú y: Bác sĩ này, nếu ông cho chúng tôi đem hết mấy cái xác đi thì chúng tôi sẽ thanh lý cho ông. Chúng tôi có nhiều bạn bè giúp, với lại chúng tôi biết rõ phải làm ở đâu. Chúng tôi sẽ mang ra ngoài thành phố và xử lý sạch sẽ, không để lại dấu vết nào. Sẽ êm xuôi hết, ông không phải lo. Nhưng bù lại, chúng tôi muốn lấy lông và thịt. Nhất là thịt gấu, món đó ai cũng thích. Vài bộ phận của gấu và hổ làm thuốc rất tốt, bán được cao giá lắm. Giờ mới nói thì quá muộn rồi, nhưng giá như lính các ông chỉ nhắm vào đầu chúng thì hay hơn bao nhiêu. Được vậy lông sẽ bán được khối tiền. Mấy tay lính này dở quá! Giá như các ông giao cho chúng tôi ngay từ đầu thì chúng tôi đã chẳng làm vụng đến thế. Viên bác sĩ đồng ý đổi chác. Anh ta không có lựa chọn nào khác. Nói gì thì nói, đây là đất nước của họ.

Chẳng mấy chốc mười người Trung Hoa xuất hiện mang theo mấy chiếc xe kéo. Họ lôi đống xác thú ra khỏi nhà kho, chất lên xe, buộc chặt rồi lấy chiếu rơm đậy lên. Suốt thời gian làm những việc đó họ gần như chẳng nói với nhau một lời. Khuôn mặt họ vô cảm. Khi đã chất đầy các xe, họ kéo đi đâu đó. Những chiếc xe kêu ken két dưới sức nặng của đống xác thú. Cuộc thảm sát - mà theo lời các công nhân là thảm sát vụng về - các con vật trong vườn thú vào một chiều tháng Tám oi bức đã kết thúc như vậy. Chỉ còn lại dăm cái chuồng sạch sẽ - và trống không. - Vẫn còn trong trạng thái kích động, bầy khỉ tiếp tục hét gọi nhau bằng thứ ngôn ngữ không ai hiểu. Những con lửng bồn chồn chạy tới chạy lui trong cái chuồng hẹp. Lũ chim đập cánh một cách tuyệt vọng làm lông bay tung toé. Ve sầu tiếp tục kêu inh ỏi.


° ° °


Sau khi toán lính đã giết thú xong và quay về Bộ Tham mưu, và sau khi hai công nhân Trung Hoa cuối cùng đã kéo xe chất xác thú đi đâu đó, vườn thú có cái vẻ rỗng hoác như căn nhà bị khuân hết đồ đạc. Viên bác sĩ thú y ngồi trên mép một đài phun nước không có nước, nhìn lên trời, ngắm những đám mây sắc nét đang trôi. Đoạn anh lắng nghe tiếng ve sầu. Con Chim vặn dây cót không kêu nữa, nhưng viên bác sĩ không nhận thấy điều đó. Với lại, anh vốn dĩ chưa bao giờ nghe thấy tiếng con Chim vặn dây cót. Người duy nhất nghe được nó là anh lính trẻ tội nghiệp mà về sau sẽ bị đánh chết trong một mỏ than ở Siberia.

Viên bác sĩ rút một gói thuốc ẩm mồ hôi trong túi áo ngực ra, cho một điếu lên miệng rồi quẹt diêm. Khi quẹt diêm anh mới nhận ra tay mình đang run, run đến nỗi phải quẹt tới ba que diêm anh mới châm được thuốc. Chẳng phải vì anh đang bị chấn động cảm xúc hay gì gì. Một số thú lớn đã bị "loại bỏ" trong chốc lát ngay trước mắt anh, thế nhưng, vì một lý do không thể giải thích nào đó, anh không hề thấy bị sốc, thấy buồn rầu hay giận dữ. Thật ra anh chẳng cảm thấy gì hết. Anh chỉ thấy hoang mang khủng khiếp.

Anh ngồi đó một lúc, ngắm khói cuộn lên từ điếu thuốc mình đang hút, cố gắng suy xét lại cảm xúc của mình. Anh ngắm đôi tay đang đặt trên lòng mình, rồi lại nhìn lên những đám mây trên trời. Thế giới trước mắt anh vẫn là cái thế giới như lâu nay. Anh chẳng thấy có gì thay đổi ở đó. Thế nhưng đó ắt phải là một thế giới khác hẳn so với cái thế giới anh đã quen thuộc từ trước đến giờ. Nói gì thì nói, cái thế giới anh đang sống lúc này là một thế giới mà ở đó gấu, hổ, báo và sói vừa mới bị "loại bỏ". Những con thú đó sáng nay vẫn còn hiện hữu, nhưng lúc này, 4 giờ chiều, chúng không hiện hữu nữa. Chúng đã bị đám lính kia thảm sát, thậm chí xác chúng cũng đã biến mất.

Hẳn phải có một sự tách biệt lớn lao mang tính quyết định phân chia hai thế giới khác nhau đó. Cái thế giới trước mắt anh vẫn là cái thế giới của xưa nay. Điều khiến viên bác sĩ thú y hoang mang nhất là sự vô cảm ở trong chính mình.

Anh nhận ra mình đã kiệt sức. Thử nghĩ mà xem, đêm hôm trước hầu như anh không chợp mắt tí nào. Giá như lúc này anh tìm được bóng cây râm mát nào đó, nằm dài ra ngủ dù chỉ trong chốc lát thôi - thôi không nghĩ gì nữa, đắm mình vào bóng tối câm lặng của vô thức - thì tuyệt biết mấy! Anh liếc đồng hồ. Anh còn phải tìm thức ăn cho lũ thú còn sống sót. Anh phải chữa cho con khỉ đầu chó đang bị sốt cao. Có hàng ngàn việc khác anh còn phải làm. Nhưng lúc này hơn bất cứ việc gì khác, anh phải ngủ. Việc gì khác hãy tính sau.

Viên bác sĩ thú y đi vào khoảnh rừng gần đó, duỗi dài trên một bãi cỏ ở chỗ kín đáo không ai thấy. Lá cỏ mát rượi thật dễ chịu. Mùi cỏ là mùi anh luôn nhớ một cách trìu mến từ khi còn bé. Vài con cào cào Mãn Châu to gộ nhảy tanh tách qua mặt anh, đập cánh nghe rõ mồn một, đầy sinh lực. Anh nằm đó châm thêm điếu thuốc nữa và hài lòng nhận thấy tay mình không còn run đến là khổ như ban nãy. Vừa hít khói sâu vào phổi, anh vừa hình dung ở nơi nào đó những người Trung Hoa đang lột da tất tật những con thú vừa bị giết kia rồi xẻ thịt. Anh vẫn thường thấy người Trung Hoa làm việc đó, về chuyện này thì họ còn khuya mới gọi là vụng về. Chỉ trong phút chốc toàn bộ con vật đã biến thành lông, da, thịt, nột tạng và xương, như thể mấy thành phần đó vốn dĩ tách biệt khỏi nhau và chỉ tình cờ được gá vào nhau trong chốc lát. Chắc hẳn mình chưa kịp thiếp đi thì những tảng thịt đó đã nằm ngoài chợ rồi. Đó là thực tại cho mi đó: nhanh chóng và hiệu quả. Anh ngắt một búi cỏ, nghịch nghịch trong tay một hồi cái mềm mại của cỏ. Đoạn anh dụi thuốc rồi thở một hơi dài, phà hết khói còn trong phổi ra. Khi anh nhắm mắt lại, tiếng cào cào vỗ cánh nghe to hơn nhiều trong bóng tối. Viên bác sĩ thú y có ảo giác như những con cào cào lớn tướng cỡ bằng con ếch đại kia đang nhảy thon thót tứ phía quanh mình.

Có khi thế giới này là một cánh cửa xoay, viên bác sĩ chợt nghĩ trong khi ý thức anh dần mờ đi. Ta lọt vào ngăn nào của cửa xoay là hoàn toàn tùy ở chỗ chân ta bước vào đâu. Ở ngăn này có hổ, ở ngăn kia không có hổ. Có khi chỉ đơn giản như vậy thôi. Và cũng chẳng có tính liên tục thuận lý nào từ ngăn này sang ngăn nọ. Và chính vì không có tính liên tục thuận lý nào nên lựa chọn ngăn này hay ngăn nọ chẳng có ý nghĩa gì lắm. Có lẽ vì vậy mà anh không cảm nhận được chỗ tách biệt giữa thế giới này với thế giới kia? Nhưng ý nghĩ của anh chỉ đi xa được đến thế. Anh không thể nào nghĩ sâu hơn vậy nữa. Cơn mệt mỏi trong anh nặng trịch và nghẹt thở như một cái chăn sũng nước. Anh không còn nghĩ gì nữa, chỉ nằm đó, hít thở mùi thơm của cỏ, lắng nghe tiếng cào cào vỗ cánh, và cảm thấy qua làn da mình cái lớp màng dày đặc của bóng tối đang trùm phủ lên anh.

Và cuối cùng tâm trí anh bị hút vào giấc ngủ sâu hút của buổi chiều.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

69#
 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2012 20:04:57 | Chỉ xem của tác giả


Chiếc tàu vận tải tắt động cơ theo mệnh lệnh, chẳng mấy chốc đã đứng yên trên mặt biển. Chỉ có chưa tới một phần vạn cơ hội là nó có thể chạy nhanh hơn hòng thoát khỏi một chiếc tàu ngầm cơ động, hiện đại như vậy. Khẩu đại bác đặt trên boong và khẩu súng máy của tàu ngầm vẫn hướng thẳng vào chiếc tàu vận tải, thủy thủ đoàn trong tư thế sẵn sàng tấn công. Thế nhưng một cảm giác tĩnh lặng kỳ lạ bao trùm trên cả hai con tàu. Thủy thủ đoàn chiếc tàu ngầm đứng hẳn lên boong, nhìn chiếc tàu vận tải với cái vẻ như có khối thì giờ để giết. Nhiều người thậm chí chẳng buồn đội mũ sắt lên nữa. Buổi chiều hè hôm ấy hầu như không có gió, nên lúc này, khi cả hai tàu đều đã tắt động cơ, âm thanh duy nhất là tiếng sóng vỗ ì oạp lười biếng vào hai thân tàu. Tàu vận tải ra hiệu cho tàu ngầm: "Chúng tôi là tàu vận tải chở dân thường không vũ trang. Trên tàu chúng tôi không có đạn dược, không có binh sĩ. Chúng tôi chỉ có vài chiếc xuồng cứu nạn thôi". Chiếc tàu ngầm trả lời cộc lốc: "Đó là việc của các người. Có rời tàu hay không thì trong đúng mười phút nữa chúng tôi vẫn sẽ bắn". Trao đổi thông điệp giữa hai bên đến đó là hết. Thuyền trưởng tàu vận tải quyết định không truyền đạt nội dung trao đổi cho hành khách. Có ích gì? Dăm ba người chắc cũng sẽ gặp may mà sống sót, nhưng hầu hết sẽ bị lôi xuống đáy biển cùng với cái chậu giặt già nua khốn khổ này. Thuyền trưởng muốn uống rượu lần cuối, nhưng chai whisky - chút ít rượu scotch ngon ông còn để dành được - lại cất trong ngăn kéo bàn trong buồng ông, chẳng còn thì giờ đi lấy bây giờ nữa. Ông cởi mũ nhìn lên trời, hy vọng rằng nhờ phép màu nào đó một phi đội máy bay chiến đấu Nhật Bản sẽ bất thần xuất hiện. Nhưng hôm nay không phải là một ngày có phép màu. Thuyền trưởng đã làm tất cả những gì có thể làm. Ông lại nghĩ tới whisky.

Khi thời gian ân hạn mười phút đã hết, những chuyển động kỳ lạ bắt đầu diễn ra trên boong tàu ngầm. Những viên sĩ quan đứng dàn hàng trên boong đài chỉ huy vội vã trao đổi với nhau, thế rồi một viên sĩ quan trèo xuống boong chính, chạy hùng hục giữa đám thủy thủ mà quát lớn những mệnh lệnh nào đó. Anh ta đi đến đâu là những làn sóng chuyển động lan ra đến đấy giữa đám thủy thủ ở từng vị trí chiến đấu. Một thủy thủ lắc đầu quầy quậy rồi nắm chặt tay đấm thùm thụp lên nòng súng. Một người khác tháo mũ trận nhìn lên trời. Hành vi của đám thủy thủ có thể là biểu hiện của giận dữ, mà cũng có thể là vui mừng, thất vọng hoặc phấn khích. Hành khách trên tàu vận tải chịu không hiểu nổi cái gì đang diễn ra hay chuyện này sẽ dẫn đến đâu. Giống như khán giả đang xem một vở kịch câm mà họ không được biết trước nội dung (nhưng lại hàm chứa một thông điệp rất quan trọng), họ nín thở, dán mắt vào từng cử động của các thủy thủ, những mong nắm bắt được chút ý nghĩa nào chăng. Cuối cùng, làn sóng nhiễu loạn vừa lan ra giữa đám thủy thủ kia cũng lắng xuống, và theo mệnh lệnh từ đài chỉ huy người ta bắt đầu nhanh chóng lấy đạn ra khỏi khẩu đại bác. Các thủy thủ quay bộ truyền động, dời nòng súng khỏi chiếc tàu vận tải cho đến khi nòng súng lại chĩa thẳng lên trời như trước rồi nút cái mõm đen ngòm đáng sợ của họng súng lại. Những quả đạn lại được cho xuống dưới boong tàu, đoạn các thủy thủ chạy về phía các cửa nắp. Ngược với vẻ uể oải lúc đầu, mọi cử động của họ lúc này đều nhanh chóng và hữu hiệu. Không tán gẫu, không một động tác thừa.

Động cơ tàu ngầm khởi động với một tiếng gầm dứt khoát, và hầu như cùng một lúc còi hiệu hú lên: "Tất cả mọi người xuống dưới boong!". Chiếc tàu ngầm bắt đầu chuyển động về phía trước, loáng sau đã hụp xuống, làm cuộn lên một đám bọt trắng xóa, như thể nó chỉ đủ kiên nhẫn đợi đến khi thủy thủ đã xuống dưới hết và cài chặt cửa nắp lại. Một lớp màng nước biển nuốt gọn boong tàu dài, mảnh từ đầu đến đuôi, khẩu đại bác chìm xuống dưới mặt nước, đài chỉ huy trượt xuống, cắt ngang qua làn nước xanh thẫm, cuối cùng là cái ăng-ten và tiềm vọng kính cũng biến mất như muốn xóa sạch mọi dấu vết chứng tỏ chúng từng có mặt ở đó. Những gợn sóng lan trên mặt đại dương trong chốc lát nhưng chẳng bao lâu đã lắng đi, chỉ còn lại mặt biển phẳng lặng buổi chiều.

Ngay cả khi chiếc tàu ngầm đã lặn sâu xuống nước, cũng chớp nhoáng đến lạ lùng như khi xuất hiện, hành khách vẫn đứng nguyên trên boong tàu như hóa đá, nhìn mãi xuống mặt biển. Thậm chí không ai hắng giọng. Viên thuyền trưởng trấn tĩnh lại, ra lệnh cho hoa tiêu, hoa tiêu truyền lệnh cho phòng máy, cuối cùng, sau một tràng rú rít dài, động cơ cổ lỗ sĩ bắt đầu khởi động như con chó đang ngủ bị chủ đá cho một phát.

Thủy thủ đoàn trên tàu vận tải nín thở, đợi bị tấn công bằng thủy lôi. Có khi người Mỹ họ chỉ thay đổi phương sách thôi, họ quyết định rằng đánh đắm tàu bằng thủy lôi thì nhanh và dễ hơn nhiều so với nã đạn bằng đại bác, tốn thì giờ. Tàu chạy theo hình chữ chi, thuyền trưởng cùng hoa tiêu cầm ống nhòm căng mắt nhìn khắp mặt biển, tìm cái vệt sóng trắng chết người của thủy lôi. Nhưng chẳng có thủy lôi nào. Hai mươi phút sau khi tàu ngầm đã biến mất vào lòng biển, mọi người rốt cuộc mới bắt đầu thở phào nhẹ nhõm thấy mình đã thoát khỏi lời nguyền chết chóc vừa mới treo trên đầu. Đầu tiên họ thấy thật khó tin, nhưng dần dà họ thấy đó là sự thật: họ đã sống sót sau khi cận kề cái chết. Ngay thuyền trưởng cũng không hiểu tại sao người Mỹ lại thôi không tấn công. Điều gì khiến họ đổi ý vậy? (Chỉ sau này người ta mới rõ rằng, chỉ ít giây trước khi cuộc tấn công bắt đầu, tàu ngầm đã nhận được chỉ thị từ ban tham mưu rằng nên tránh đụng độ với đối phương trừ phi bị tấn công trước. Chính phủ Nhật đã gửi điện cho lực lượng Đồng minh rằng họ sẵn sàng chấp nhận các điều kiện của Tuyên bố Potsdam và đầu hàng vô điều kiện). Giờ mới thoát được nỗi căng thẳng không thể nào chịu nổi, một số hành khách đứng trên boong quỵ xuống ngay tại chỗ mà rên rĩ, song hầu hết không khóc nổi cũng không cười nổi. Suốt mấy giờ - ở một số người thì suốt mấy ngày - họ cứ ở trong một trạng thái hoàn toàn lơ đãng, cái mũi nhọn của cơn ác mộng dài, khủng khiếp cứ thọc mãi không thương tiếc vào phổi họ, tim họ, xương sườn họ, não họ, tử cung họ.

Suốt thời gian đó cô bé Akasaka Nhục đậu khấu ngủ ngon lành trong tay mẹ. Cô ngủ một mạch hai mươi tiếng đồng hồ, như bị ai đó đánh bất tỉnh. Mẹ cô thét gọi cô, vả vào má cô, nhưng vô ích. Cô như đã chìm xuống đáy biển. Khoảng cách giữa hai nhịp thở của cô cứ dài ra, dài ra mãi, nhịp tim cô chậm dần. Hơi thở cô hầu như không nghe thấy được. Nhưng khi tàu đến Sasebo thì cô đột nhiên thức dậy, như có sức mạnh lớn lao nào đó đã lôi tuột cô trở về thế giới này. Thế nên Nhục đậu khấu không tận mắt chứng kiến việc tàu ngầm Mỹ chuẩn bị tấn công rồi lại thôi và biến mất. Cô chỉ nghe mẹ kể lại, mãi rất lâu về sau.

Chiếc tàu hàng ì ạch lê vào cảng Sasebo vào khoảng 10 giờ hơn một chút sáng ngày 16 tháng Tám, một ngày sau vụ tấn công hụt. Trên cảng bao trùm một sự im ắng kỳ lạ, không ai ra đón con tàu. Thậm chí ở trận địa phòng không gần cửa cảng cũng không có một bóng người. Ánh nắng hè câm lặng đốt thiêu mặt đất. Cả thế giới như lâm vào một cơn tê liệt sâu thẳm, vài người trên tàu cảm thấy như mình đã chẳng may lạc vào vương quốc của người chết. Sau nhiều năm sống ở nước ngoài, họ chỉ còn biết lặng nhìn đất nước của tổ tiên. Vào trưa ngày 15 tháng Tám, đài phát thanh loan báo tuyên bố của Thiên hoàng rằng chiến tranh đã kết thúc. Sáu ngày trước đó, thành phố Nagasaki lân cận đã bị thiêu cháy bằng một quả bom nguyên tử. Cái đế quốc ma Mãn Châu quốc đang biến vào quá khứ. Và, vô ý bị lọt vào nhầm ngăn của cánh cửa xoay, viên bác sĩ thú y có vết bầm trên má sẽ cùng chia sẻ số phận với Mãn Châu quốc.

--------------------------------
1.Tiếng Anh: Tonhua - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

70#
 Tác giả| Đăng lúc 10-8-2012 20:07:13 | Chỉ xem của tác giả


Chương 10
Giờ Đến Vấn Đề Kế Tiếp (Quan Điểm Của Kasahara May, Phần 2)



Chào Chim vặn dây cót!

Cuối thư trước em có bảo anh thử nghĩ xem em đang làm gì, ở đâu, vậy anh đã nghĩ chưa? Anh có nghĩ ra được gì không nào?

Thôi thì cứ coi như anh không nghĩ ra được cái gì sất - cái đó thì chắc rồi. Em đành tự kể từ đầu vậy.

Em đang làm việc ở một... nói sao nhỉ... một nhà máy. Một nhà máy to. Nó nằm ở một thị trấn tỉnh lẻ, đúng hơn là trên vùng núi ở ngoại ô một thị trấn tỉnh lẻ nhìn ra biển Nhật Bản. Nhưng anh đừng nghe chữ "nhà máy" mà tưởng tượng ra một nơi toàn những cỗ máy to đùng hiện đại suốt ngày nghiến ầm ầm, băng chuyền chạy liên tục, ống khói thì ùn ùn nhả khói. To thì to thật, nhưng diện tích trải ra trên một vùng rộng thênh thang, sáng sủa và yên tĩnh. Không hề có khói. Em chưa bao giờ hình dung nổi có cái nhà máy nào rộng mênh mông như vậy. Trước đây em chỉ đặt chân đến nhà máy một lần duy nhất, ấy là hồi học tiểu học, lớp em đi dã ngoại và đến thăm một nhà máy kẹo ở Tokyo. Em chỉ còn nhớ mỗi chuyện ở đó ồn ơi là ồn, chật ních những người, ai cũng hì hục làm việc, mặt thì cứ khó đăm đăm. Thành thử đối với em, cái từ "nhà máy" luôn gợi nhớ tới hình minh họa cho "Cách mạng công nghiệp" thấy trong sách giáo khoa ấy.

Làm ở đây hầu như toàn con gái. Gần đó có một tòa nhà, phòng thí nghiệm, ở đó có các ông mặc áo choàng trắng phụ trách mảng phát triển sản phẩm, vẻ lúc nào cũng nghiêm trọng, nhưng họ chỉ chiếm một phần rất nhỏ mà thôi. Còn lại toàn là con gái chưa đầy hai mươi tuổi hoặc lớn hơn một chút, trong đó chắc phải tới bảy mươi phần trăm sống ở các ký túc xá trong khuôn viên nhà máy như em vậy. Ngày nào cũng đi đi về về bằng xe buýt hay ô tô từ thị trấn tới đây thì mệt chết, mà ký túc xá thì lại rất được. Nhà mới xây, phòng toàn phòng đơn, đồ ăn ngon, muốn ăn gì có nấy, tiện nghi thật tuyệt, tiền ăn lại rẻ. Có hồ bơi nước nóng, thư viện, nếu thích thì còn có thể làm những thứ như trà đạo hay cắm hoa (nhưng em thì không thích); nếu thích nữa thì có thể ghi danh vào các nhóm thể thao, thành thử nhiều đứa ban đầu còn đi đi về về, sau chuyển hẳn vào ở ký túc xá. Hầu như đứa nào cũng cuối tuần lại về nhà ăn cơm với gia đình, đi xem phim hoặc đi chơi với bạn trai hay đại loại thế, cho nên tới thử Bảy thì chỗ này vắng tanh vắng ngắt. Hầu như chả có đứa nào như em, cuối tuần chẳng có gia đình nào mà về. Nhưng như em đã nói trước đây, em thích cái cảm giác mênh mông, trống trải của nơi này vào mỗi cuối tuần. Cả ngày em tha hồ đọc sách, nghe nhạc vặn hết cỡ, đi bộ lên đồi chơi, hay ngồi viết thư cho Chim vặn dây cót như lúc này chẳng hạn.

Đám con gái làm chỗ này đều là dân địa phương, toàn con cái nhà nông. Có thể không phải đứa nào cũng vậy, nhưng hầu hết đều vui vẻ, khỏe mạnh, lạc quan yêu đời, siêng năng làm lụng. Vùng này không có nhiều ngành công nghiệp, thành thử trước đây đám con gái hễ tốt nghiệp trung học xong là toàn lên thành phố tìm việc làm. Đám trai ở lại trong thị trấn chẳng có ai để lấy làm vợ, lại khiến cho dân số ngày càng giảm. Thế là chính quyền thành phố quyết định cắt một mảnh đất to rồi mời các doanh nghiệp xây nhà máy, để con gái vùng này không phải bỏ đi nữa. Em thấy ý tưởng đó thật là hay. Ý em là thậm chí là bây giờ có người ở vùng khác lặn lội về đây, như em chẳng hạn. Nay thì, khi tốt nghiệp trung học xong (hoặc sau khi bỏ học, như em vậy), đám con gái thảy đều đi làm ở nhà máy, dành dụm tiền để khi đến tuổi thì lấy chồng và nghỉ việc, sinh vài ba đứa con rồi phì lũ ra như cá heo, đứa nào đứa nấy giống nhau y đúc. Dĩ nhiên, cũng có vài người lấy chồng xong vẫn tiếp tục làm việc, nhưng hầu hết đều thôi.

Đến đây thì anh chắc đã hình dung được khá rõ chỗ này là thế nào rồi chứ?

Vậy giờ câu hỏi kế tiếp cho anh là: ở nhà máy này người ta sản xuất cái gì?

Gợi ý: Anh với em có lần làm một việc có liên quan đến nhà máy này. Anh em mình đến khu Ginza làm điều tra.

Nào nào, Chim vặn dây cót! Giờ thì ắt hẳn anh phải đoán ra rồi chứ?

Chính thế! Em đang làm việc ở một nhà máy làm tóc giả! Ngạc nhiên chưa?

Trước em có kể với anh về chuyện em đã bỏ cái chỗ khách sạn cao cấp kiêm nhà tù kiêm trường học thượng lưu chỉ sau sáu tháng rồi chỉ nằm khoèo ở nhà, như con chó bị gãy chân. Thế rồi, đột nhiên trong đầu em nảy ra ý nghĩ về cái nhà máy làm tóc giả. Em nhớ ông chủ công ty đó có lần nói nửa đùa nửa thật rằng nhà máy chẳng bao giờ đủ người làm cả, và bất cứ lúc nào, nếu em muốn thì họ sẽ thuê em ngay. Thậm chí ông ấy còn cho em xem tờ quảng cáo về nhà máy đó, em rất thích, cảm thấy nhà máy này hay thật, làm ở đây cũng tốt chứ sao. Sếp em bảo đảm con gái ở đó chỉ làm việc bằng tay thôi, cắm từng sợi tóc lên nền tóc giả ấy mà. Làm tóc giả là việc rất tinh vi, chứ đâu phải là cái nồi nhôm, gõ một cái, gõ hai cái, gõ ba cái là xong đâu. Phải trồng từng túm tóc một, tóc thật ấy, hết sức, hết sức cẩn thận, từng túm nhỏ, thì mới nên bộ tóc giả có chất lượng được. Nghe đã chóng mặt chưa nào? Ý em là, theo anh trên đầu người ta có bao nhiêu sợi tóc? Có đến hàng trăm ngàn! Mà để làm bộ tóc giả thì phải cắm toàn bộ ngần ấy sợi tóc bằng tay, như người ta cấy mạ ngoài đồng ấy. Thế nhưng bọn con gái chẳng đứa nào kêu ca. Đó là bởi vùng này là "Xứ tuyết", mùa đông rất dài, từ lâu đàn bà con gái nhà quê đã có tập quán làm hàng thủ công đặng có cái ăn trong mùa đông. Chắc cũng vì vậy mà công ty chọn chỗ này để đặt nhà máy.

Nói thật với anh, em cũng chẳng nề hà gì khi làm công việc chân tay kiểu này. Nhìn qua thì không biết đâu, nhưng chính ra em đan giỏi lắm đấy. Thầy cô ở trường cứ khen em luôn. Anh vẫn không tin em sao? Thật đấy mà! Chính vì vậy mà em đã nảy ra ý nghĩ: hay mình lên nhà máy ở trên núi làm việc đi, để hai tay mình bận rộn từ sáng đến tối và không nghĩ tới bất cứ chuyện gì cho nặng đầu, có khi vậy cũng hay đấy. Em chán trường học, nhưng em cũng chả ưa gì nếu cứ lông bông và bắt cha mẹ phải lo cho mình mãi (mà em tin chắc là ba mẹ cũng nghĩ thế), nhưng em lại chẳng hề thiết làm bất cứ việc gì, thành thử, càng nghĩ lui nghĩ tới, em càng thấy việc duy nhất em làm được là vào nhà máy này thôi.

Em nhờ bố mẹ làm người đỡ đầu, sếp của em thì làm người giới thiệu (họ thích bảng điều tra của em lắm), em qua cuộc phỏng vấn ở văn phòng công ty, và ngay tuần kế tiếp em đã gói ghém đồ đạc xong (mà đâu phải em chỉ mang theo mỗi quần áo và máy nghe nhạc thôi không). Em một mình lên tàu tốc hành, sau đó chuyển sang một tuyến xe điện nhỏ dễ thương chạy lên miền đồi núi, cứ thế đến thẳng cái thị trấn đèo heo hút gió này. Ấy thế mà em có cảm giác như mình đã đến đầu bên kia thế giới vậy! Em quả thật là bị choáng khi bước ra khỏi xe! Lúc ấy em nghĩ: mình đã phạm sai lầm khủng khiếp. Nhưng rốt cuộc thì không phải: em ở đây đã sáu tháng nay, chẳng có chuyện gì không ưng ý, em cũng đã quen dần với chỗ này rồi.

Chẳng biết tại sao mà từ xưa tới nay em luôn quan tâm đến tóc giả. Không, nói thế chưa đúng. Có khi cần phải nói là những bộ tóc giả luôn có sức "lôi cuốn" em, kiểu như một số cậu trai bị xe mô-tô lôi cuốn vậy. Anh biết đấy, trước kia thì em chưa thực sự biết đâu, nhưng từ khi em đi làm nghiên cứu thị trường và có cơ hội thấy bao nhiêu là người hói (hay gọi theo cách của công ty là những "người có vấn đề về rụng tóc"), em mới thật sự vỡ ra rằng có quá nhiều người như vậy ở trên đời! Chẳng phải vì em có cảm tình riêng theo cách này hay cách khác với những người hói (hay có vấn đề về rụng tóc) đâu. Em chẳng "thích" cũng chẳng phải "không thích" họ. Như anh Chim vặn dây cót chẳng hạn. Dù tóc của anh có rụng nhiều hơn bây giờ đi nữa (chuyện ấy có còn lâu nữa đâu), thì tình cảm của em đối với anh vẫn hoàn toàn không thay đổi. Cái cảm xúc mạnh mẽ trong em mỗi khi gặp một người đang bị rụng tóc, ấy là cái cảm xúc mà chắc em đã có lần nói với anh, ấy là đời mình đang tàn dần. Nay thì đó mới là cái em thật sự bận tâm!

Có lần em nghe nói người ta đạt mức tăng trưởng cao nhất ở một độ tuổi nào đó (mười chín hay hai mươi gì đó, em quên rồi), sau đó thì cơ thể bắt đầu hao mòn dần. Nếu đúng vậy thì chuyện tóc rụng dần và ngày càng thưa đi chẳng qua chỉ là một phần của quá trình cơ thể "hao mòn đi" mà thôi. Có gì lạ đâu. Rất bình thường và tự nhiên. Có lạ chăng là thế này: một số người bị hói từ khi còn trẻ, trong khi người khác dù có già đi nữa cũng chẳng bao giờ hói. Em biết rằng nếu em bị hói, hẳn em sẽ cho rằng thật không công bằng. Ý em là đầu bị hói thì bàn dân thiên hạ nhìn vào, chả giấu đi đâu được! Dù em hiểu cảm giác của họ thế nào, nhưng chuyện rụng tóc không liên quan gì tới em.

Trong hầu hết trường hợp, người bị mất tóc chẳng có tội tình gì trong chuyện anh ta bị rụng nhiều hay ít hơn người khác. Hồi em còn làm bán thời gian, sếp em bảo gen di truyền quyết định tới chín mươi phần trăm việc người ta có bị hói hay không. Người nào thừa hưởng gen rụng tóc từ ông và cha thì sớm muộn gì cũng sẽ hói, dù anh ta có làm gì để ngăn chặn thì cũng bằng thừa. Cái câu "Nhân định thắng thiên" không áp dụng được ở đây. Nếu khi đã đến lúc cái gen ấy đứng dậy nói: "Nào, tiến hành đi thôi nhỉ?" (đó là nếu như các gen có thể đứng dậy mà nói được) thì tóc sẽ cứ thế rụng thôi, không còn cách nào khác. Chẳng lẽ thế là công bằng sao? Em thì em biết, không công bằng chút nào hết.

Vậy là giờ anh đã biết em đang ở rất xa anh, đang làm việc ở nhà máy này, làm cật lực ngày này qua ngày khác. Và anh đã biết em có mối quan tâm riêng, quan tâm sâu sắc, đối với tóc giả và nghề làm tóc giả. Thư sau em sẽ kể chi tiết hơn về cuộc sống và công việc của em ở đây.

Thôi nhé. Tạm biệt.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách